Đường lối ngoại giao kỳ lạ của tổng thống Mỹ Donald Trump thường bị đánh giá là ngẫu hứng, thất thường.
Tổng thống Mỹ Donald Trump phát biểu tại Nhà Trắng ngày 8/1/2020 về vụ Iran tấn công căn cứ Mỹ tại Iraq. Reuters/Kevin Lamarque
Một trong những ví dụ thường được nêu lên là hồ sơ Bắc Triều Tiên : Trong không đầy một năm, ông Trump đã có thể chuyển ngay từ đe dọa hủy diệt chế độ Bình Nhưỡng sang ca ngợi Kim Jong-un, lãnh đạo nước này. Cách ông xử lý vấn đề Iran, trong những tuần lễ qua lại làm dấy lên những lời chỉ trích về mâu thuẫn giữa ý muốn rút Mỹ ra khỏi vùng Trung Đông và nguy cơ bị kẹt trong vòng xoáy trả đũa và trừng phạt khó kiểm soát được.
Tuy nhiên, theo phân tích của nhật báo Pháp Le Monde ngày 09/01/2020, trên hồ sơ Iran, đương kim tổng thống Mỹ rất nhất quán. Ngay từ lúc bước chân vào Nhà Trắng, Donald Trump đã chuẩn bị một cách có phương pháp việc rút Mỹ ra khỏi hiệp ước hạt nhân mà người tiền nhiệm đã ký kết năm 2015, trước khi áp đặt chính sách "áp lực tối đa" không chút thương tiếc trên nước Cộng hòa Hồi giáo Iran.
Đối với Le Monde, có hai sự kiện đã ghi dấu ấn lâu dài lên nhà tỷ phủ nay đã trở thành tổng thống Mỹ : Cuộc khủng hoảng con tin ở sứ quán Hoa Kỳ tại Tehran năm 1979 và cú sốc dầu hỏa lần thứ hai cuối thập niên 1970, đầu thập niên 1980.
Một cuộc nói chuyện năm 1980
Ghi nhận đầu tiên của Le Monde là ngay từ năm 1980, khi chỉ mới là một doanh nhân thành đạt 34 tuổi, Donald Trump đã lần đầu tiên công khai tỏ thái độ căm hận Iran sau vụ người Mỹ bị chế độ Hồi giáo Iran bắt làm con tin tại đại sứ quán Hoa Kỳ ở Tehran trước đó một năm.
Cho đến gần đây, khi đề cập đến những quan điểm của ông Donald Trump về thời cuộc, người ta thường nhắc đến một tờ quảng cáo vận động tranh cử của ông vào năm 1987, khi lần đầu tiên ông nghĩ đến việc ra tranh chức tổng thống Hoa Kỳ. Tờ quảng cáo này mang những chủ đề mà sau này khi đã là tổng thống Mỹ, ông Trump vẫn nhắc đến, trong đó ông đả kích thái độ "thiếu tôn trọng đối với nước Mỹ" mà nhiều nước đã biểu lộ, kể cả những nước chịu ơn của Washington. Theo ông, các nước này đã lợi dụng sự che chở và điều được cho là lòng hảo tâm của Mỹ.
Tuy nhiên, trong một bài viết lý thú công bố hôm 07/01/2020, theo chân các sử gia Brendan Simms và Charlie Laderman, tác giả một quyển sách về nguồn gốc thế giới quan của tổng thống Trump, ông Thomas Wright, giám đốc chương trình Mỹ-Châu Âu của Trung tâm tham vấn Brookings Institution tại Washington, đã trưng ra một bằng chứng khác cho thấy lập trường của ông Trump về Iran.
Quan điểm đó đã được ông Trump nêu lên trong một cuộc nói chuyện hôm 06/10/1980 trên đài truyền hình Mỹ NBC, không phải với một chuyên gia về quan hệ đối ngoại, mà là với Rona Barrett, một nữ phóng viên nổi tiếng trong làng giải trí thời đó.
Một quốc gia phải được các nước khác tôn trọng
Theo Le Monde, phần lớn cuộc nói chuyện liên quan đến những thành công đầu tiên của doanh nhân Donald Trump ở New York, những suy nghĩ của ông về sự giàu sang và ý nghĩa của nó. Nhưng nhân câu hỏi về việc nước Mỹ phải được nhìn như thế nào, Donald Trump, có lẽ lần đầu tiên, đã nói đến việc "một quốc gia phải được các nước khác tôn trọng", trước khi đề cập thẳng đến vụ con tin Mỹ bị Iran cầm giữ sau một cuộc tấn công vào đại sứ quán Mỹ ở Tehran năm 1979.
Vào lúc ấy, ông Trump đã nói nguyên văn như sau : "Việc họ có thể bắt giữ người Mỹ chúng ta làm con tin là hoàn toàn khôi hài. Việc đất nước (Mỹ) này đã xuôi tay và cho phép một nước như Iran giữ người của chúng ta làm con tin là điều khủng khiếp, và tôi không nghĩ là họ dám làm như thế với những nước khác".
Khi được hỏi là ông có tán đồng một sự can thiệp quân sự hay không, thì nhà địa ốc trẻ trả lời : "Tôi nghĩ là có. Theo tôi, đất nước chúng ta giàu dầu hỏa, và lẽ ra chúng ta nên can thiệp, và tôi rất thất vọng về việc chúng ta đã không làm. Tôi nghĩ là không ai có thể trách cứ chúng ta. Chúng ta có đầy đủ thẩm quyền để can thiệp vào lúc đó. Tôi nghĩ là chúng ta đã để lỡ một cơ hội"…
40 năm sau, lịch sử rõ ràng như đang tái diễn, trong bối cảnh đương kim tổng thống Mỹ tìm cách làm cho hành động của ông trong mọi vấn đề tách biệt hẳn so với người tiền nhiệm.
Cảm nhận bị hạ nhục
Đối với Le Monde, cuộc nói chuyện năm 1980 cũng phơi bày nỗi ám ảnh của ông Trump về dầu hỏa, cho thấy tác động lâu dài, đối với nhân vật lúc đó mới ở độ tuổi 30, của cuộc khủng hoảng dầu hỏa lần thứ nhì liên quan đến cách mạng ở Iran, và cuộc chiến do Iraq khởi động một tháng trước cuộc nói chuyện với Rona Barrett.
Nỗi ám ảnh đó đã xuất hiện nhiều lần sau này, nhất là khi ông Trump tỏ ý tiếc rằng Hoa kỳ đã không "lấy dầu hỏa" của Iraq sau khi đưa quân qua Iraq vào năm 2003 để triệt hạ Saddam Husein.
Dầu hỏa là yếu tố mà Lầu Năm Góc đã nêu bật vào mùa thu năm ngoái để duy trì một lực lượng đặc biệt ở vùng đông bắc Syria nhằm chống lại sự khôi phục lực lượng của Daesh, mặc dù ông Trump đã nhiều lần tỏ ý muốn rút quân. "Chúng ta giữ lại dầu hỏa", tổng thống Mỹ đã bình luận một cách hài lòng như trên ngày 28/10/2019, sau khi thông báo quyết định bố trí lại lực lượng đặc biệt Mỹ chung quanh các mỏ dầu hỏa của Syria, cho dù, theo các chuyên gia về luật quốc tế, đó có thể là một tội ác chiến tranh.
Quyết định tiêu diệt tướng Iran Qasem Soleimani, sau vụ tấn công vào đại sứ quán Mỹ ở Baghdad do những nhóm Iraq thân Iran tiến hành, cũng gợi lại cảm nhận về việc bị làm nhục sau vụ cơ quan đại diện Mỹ ở Tehran bị tấn công hồi năm 1979.
Ngày 04/01, ông Trump đã đe dọa tấn công 52 mục tiêu của Iran trong trường hợp nước Cộng hòa Hồi giáo trả đũa, một con số gợi nhắc lại 52 con tin người Mỹ bị Iran cầm giữ trong sứ quán Hoa Kỳ ở Tehran trong suốt 444 ngày kể từ ngày 4/11/1979.
Như để cho mọi người hiểu rõ, cố vấn của ông Trump, bà Kellyanne Conway, hai hôm sau đã nhấn mạnh trở lại rằng con số 52 đó là "số lượng con tin mà họ (Iran) đã cầm giữ cách đây 40 năm khi vị tổng thống rất nhu nhược Jimmy Carter, lãnh đạo nước Mỹ. Họ đã bắt người Mỹ chúng ta làm con tin và tất nhiên đã thả ra khi tổng thống Reagan lên nhậm chức".
Nỗi ám ảnh bị xem là yếu đuối
Theo nhận định của Le Monde, từ ngày bước chân vào chính trường, ông Donald Trump đã luôn luôn trau dồi hình ảnh người hùng của mình, cho dù ông vẫn muốn Mỹ đoạn tuyệt với vai trò "sen đầm quốc tế" có từ khi Thế chiến thứ 2 kết thúc. Ông Trump luôn bị nỗi lo ngại bị coi là một tổng thống "yếu đuối" ám ảnh.
Tờ báo Pháp kết luận : Cái chết của một công dân Mỹ trong vụ pháo kích của dân quân Iraq thân Iran, rồi vụ tấn công đại sứ quán Mỹ tại Baghdad đã khơi dậy nỗi ám ảnh đó. Có lẽ đây là yếu tố cơ bản để hiểu những quyết định vừa qua của tổng thống Trump.
Mai Vân
Nguồn : RFI, 13/01/2020
Vụ Trung Quốc cho tàu khảo sát và hải cảnh vào hoành hành trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam gần Bãi Tư Chính tiếp tục được giới quan sát quốc tế chú ý.
Ảnh vệ tinh chụp một nhà giàn D.K của Việt Nam tại Bãi Tư Chính (Biển Đông)AMTI/CSIS
Trong một bài phân tích công bố ngày 28/11/2019, tiến sĩ Lê Thu Hường, chuyên gia phân tích cao cấp thuộc Chương Trình Quốc Phòng và Chiến Lược tại Viện Chính Sách Chiến Lược Úc ASPI đã cho rằng : Khi công khai xâm lấn Việt Nam ở Biển Đông, Bắc Kinh muốn thăm dò phản ứng không chỉ của Hà Nội, mà còn của cả khu vực, thậm chí của toàn thế giới.
Bài biên khảo mang tựa đề "Cách tiếp cận của Việt Nam đối với các tranh chấp ở Biển Đông và bài trắc nghiệm Hải Dương Địa Chất 8" đã được công bố trên trang web của Học Viện Quan Hệ Quốc Tế Úc (Australian Institute of International Affairs). Ý đồ của Trung Quốc khi gây nên "sự cố Bãi Tư Chính" là gây áp lực tâm lý với Việt Nam vào thời điểm Hà Nội đang phải bận tâm trước nhiều sự kiện trọng đại.
Theo tiến sĩ Lê Thu Hường, Biển Đông luôn là mối quan tâm an ninh hàng đầu của Việt Nam. Vụ Bãi Tư Chính ở phía nam Biển Đông là đòn mới nhất mà Trung Quốc tung ra để thăm dò khả năng của Việt Nam trong việc chống lại các bước gặm nhắm ngày càng gia tăng của Bắc Kinh trong vùng biển này. Do việc Hà Nội sắp lên làm chủ tịch luân phiên của ASEAN, đây cũng sẽ là một bài trắc nghiệm cả về sự đoàn kết trong khối Đông Nam Á, cũng như khả năng đứng vững của một cơ chế quản lý tranh chấp ASEAN-Trung Quốc có ý nghĩa là Bộ Quy Tắc Ứng Xử (COC) trên Biển Đông.
Tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 của một tập đoàn Nhà nước Trung Quốc từ ngày 03/07/2019, đã bắt đầu khảo sát một vùng đáy biển rộng lớn ở phía đông bắc Bãi Tư Chính ngoài khơi Việt Nam. Con tàu rõ ràng đã thực hiện khảo sát dầu khí trên hai lô Riji 03 và Riji 27 mà Trung Quốc đã phân định, nhưng nằm trong vùng thềm lục địa Việt Nam theo Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS). Tàu khảo sát Trung Quốc đã được tàu Hải Cảnh và dân quân biển hộ tống.
Vào cùng thời điểm, Hải Cảnh Trung Quốc cũng quấy nhiễu các hoạt động khoan dò của Việt Nam tại lô 6.1 ở phía nam.
Thách thức pháp lý cho thấy là Bắc Kinh bất chấp luật lệ quốc tế
Đối với nhà phân tích Úc, các hoạt động của Trung Quốc gần Bãi Tư Chính trước hết là một thách thức pháp lý, cho thấy là Bắc Kinh vẫn tiếp tục áp đặt quyền kiểm soát hành chính trong vùng biển bên trong đường 9 đoạn của họ, bất chấp việc các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc không phù hợp với luật pháp quốc tế.
Đây là lần đầu tiên mà Bắc Kinh cho thực hiện một cuộc khảo sát như vậy kể từ khi đường 9 đoạn bị phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye tuyên bố là bất hợp pháp vào năm 2016. Đối với tiến sĩ Lê Thu Hường, Trung Quốc như vậy đang công khai phủ nhận tính hợp pháp của quyền được có thềm lục địa được UNCLOS bảo đảm.
Việt Nam đã khai thác khu vực này từ nhiều thập kỷ trước đây, nhưng Bắc Kinh giờ đây đang cố gắng tạo ra một cuộc tranh chấp trên một khu vực từ lâu nay không có tranh chấp trên thực tế.
Thách thức ngoại giao để thăm dò phản ứng của cả quốc tế
Các hành động của Trung Quốc cũng đặt ra một thách thức ngoại giao : Bắc Kinh đang trắc nghiệm phản ứng không chỉ của Việt Nam, mà cả của Hoa Kỳ và cộng đồng quốc tế.
Câu hỏi mà tác giả bài phân tích đặt ra là liệu quốc tế có sẽ im lặng như sau phán quyết của Tòa Trọng Tài năm 2016 hay không. Bắc Kinh đang công khai xúc phạm việc giải quyết tranh chấp một cách hòa bình thông qua các cuộc đàm phán về bộ quy tắc ứng xử COC đang diễn ra với ASEAN.
Người ta đã phô trương tiến bộ trong quá trình thương thuyết là các bên đã có được một văn bản dự thảo đàm phán duy nhất, nhưng rõ ràng là tiến bộ chỉ thấy trên giấy tờ chứ không hề có trong thực tế.
Thách thức kinh tế để áp đặt việc đồng khai thác với Bắc Kinh
Cuối cùng, các hành động của Bắc Kinh là một thách thức kinh tế rất thực tế. Các hành vi bức hiếp, sách nhiễu liên tục của Trung Quốc nhắm vào hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên của các nước tranh chấp khác đều nhằm buộc các nước này tham gia các kế hoạch thăm dò chung với Bắc Kinh, ngay cả ở những vùng biển không hề có tranh chấp.
Đối với tiến sĩ Lê Thu Hường, Trung Quốc sẽ tiếp tục phản đối và gây áp lực khi các bên có tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông tìm cách tự mình thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên hoặc làm việc đó với bất kỳ đối tác quốc tế nào khác.
"Nắn gân" Hà Nội trước các sự kiện quan trọng của Việt Nam
Riêng đối với Việt Nam, tác giả bài phân tích thấy rằng hành vi xâm lấn của Trung Quốc diễn ra vào thời điểm Hà Nội đặc biệt bận rộn, chuẩn bị cho nhiệm kỳ một năm làm chủ tịch ASEAN vào năm 2020, và nhiệm kỳ thành viên không thường trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc 2020-2021. Bên cạnh đó còn có Đại Hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ 13 với khả năng thay đổi giàn lãnh đạo vào đầu năm 2021.
Theo tiến sĩ Lê Thu Hường, rất có thể là Bắc Kinh đang gia tăng áp lực với Hà Nội để trắc nghiệm tâm lý, nói nôm na là "nắn gân" Việt Nam trước khi nước này lên làm chủ tịch ASEAN.
Đây không phải là lần đầu tiên mà Trung Quốc xâm nhập vào thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Vụ việc nghiêm trọng nhất xảy ra gần đây, vào năm 2014, khi Trung Quốc triển khai giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 vào vùng biển sát Việt Nam, dẫn đến một cuộc khủng hoảng ngoại giao giữa hai nước láng giềng.
Hải Dương 8 nghiêm trọng hơn Hải Dương 981
Tuy nhiên, tình hình hiện tại gần Bãi Tư Chính là một thách thức nghiêm trọng hơn cho Việt Nam ở nhiều cấp độ. Lần này, Bắc Kinh tăng cường áp lực ở Biển Đông không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với Malaysia và Philippines.
Không nên hy vọng rằng chiến thuật mà Việt Nam áp dụng vào năm 2014 để đối phó với sự cố Hải Dương 981 sẽ có hiệu quả tương tự ngày hôm nay, nhất là khi Bắc Kinh biết rõ và dường như sẵn sàng chấp nhận cái giá phải trả về mặt uy tín cho các hành động của họ.
Mọi nỗ lực nhằm thúc đẩy đường lối "ngoại giao lớn tiếng tố cáo - megaphone", lần này sẽ phải bao gồm cả Hoa Kỳ - nước duy nhất đã lên tiếng chỉ trích hành động bức hiếp Việt Nam - lẫn những nước ủng hộ một trật tự quốc tế dựa trên luật pháp.
Nhưng ngay cả khi tất cả các nước đều lên tiếng phản đối Trung Quốc, nếu chỉ dùng duy nhất chiến lược đó, thì có nhiều khả năng không dẫn đến một giải pháp bền vững.
Không giống như năm 2014, Bắc Kinh đang cùng lúc gây áp lực với nhiều nước Đông Nam Á có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông. Những sự cố đó là một trắc nghiệm thực thụ về sự sẵn sàng của cả ASEAN và cộng đồng quốc tế để bảo vệ quyền chủ quyền và quyền kinh tế của các nước trên cơ sở một trật tự dựa trên luật pháp.
Không được để cho hành động phi pháp trở thành quy tắc
Nếu các nước trong khu vực không sẵn sàng nhìn xa hơn lợi ích quốc gia của riêng mình để lên tiếng ủng hộ các bên yêu sách khác, việc vi phạm trật tự dựa trên các luật lệ hàng hải có thể sẽ trở thành một quy tắc mới và sẽ không còn tạo ra phản ứng mạnh mẽ nữa.
Việc tôn trọng luật pháp quốc tế, bao gồm các quyền được UNCLOS bảo đảm, phải được tất cả mọi quốc gia ủng hộ và bảo vệ, kể cả những nước không có tranh chấp ở Biển Đông. Cho đến nay, chỉ có Hoa Kỳ là có lập trường công khai và rõ ràng về các hoạt động của Trung Quốc gần Bãi Tư Chính.
Bài học về phản ứng im lặng của quốc tế về phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực năm 2016 đã quá rõ ràng, cho nên không thể để xẩy ra một phản ứng yếu ớt khác.
Vụ Bãi Tư Chính là bằng chứng cho thấy là các hành vi bức hiếp của Trung Quốc sẽ tiếp tục và tiến trình xây dựng Bộ Quy Tắc Ứng Xử sẽ không tạo ra thay đổi nào trong tham vọng thống trị Biển Đông của Bắc Kinh.
Vụ Bãi Tư Chính có thể là một cuộc khủng hoảng đối với riêng Việt Nam, nhưng đó cũng là cơ hội để cộng đồng quốc tế, chứ không riêng gì Mỹ, phản ứng thích đáng trước các hành vi của Trung Quốc vi phạm Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển và xâm phạm thềm lục địa của các nước ven biển.
Mai Vân
Nguồn : RFI, 04/12/2019
Vào lúc mà các hành động của Trung Quốc để buộc các cá nhân hay tập thể nước ngoài phải ép mình theo quan điểm của Bắc Kinh ngày càng lộ liễu, điều được nhật báo Anh Financial Times gọi là "chế độ kiểm duyệt của Trung Quốc đang bành trướng ra bên ngoài biên giới". Tạp chí Mỹ Foreign Policy ngày 15/10/2019 đã nêu bật trường hợp cụ thể của các học viện Khổng Tử Trung Quốc được cắm vào trong các trường đại học phương Tây. Bài phân tích mang tựa đề không thể rõ ràng hơn : "Tuyên truyền của Trung Quốc không có chỗ đứng trong khuôn viên trường đại học".
Người Trung Quốc không thích tự do học thuật, các trường học Mỹ nên tránh các học viện Khổng Tử của họ - Ảnh minh họa
Đối với tác giả là Andreas Fulda, thuộc Viện Nghiên cứu Châu Á của Đại học Nottingham tại Anh Quốc, vấn đề đã nghiêm trọng đến mức mà Nhà nước phải can thiệp vào vấn đề hợp tác giữa các học viện Khổng Tử Trung Quốc với các trường đại học của nước mình, chứ không thể để cho các đại học tự xử lý.
Đà bành trướng của các Học viện Khổng Tử đang bị khựng lại
Ghi nhận đầu tiên của nhà nghiên cứu Fulda là trong 15 năm gần đây, với đà bành trướng ngày càng mạnh của các học viện Khổng Tử Trung Quốc, một vấn đề đã luôn luôn được gợi lên : Vai trò của các học viện Khổng Tử, do Nhà nước Trung Quốc tài trợ và điều hành, trong việc mở rộng quyền kiểm duyệt của Bắc Kinh trên các trường đại học phương Tây.
Kể từ năm 2004, đã có khoảng 550 học viện Khổng Tử đã được mở ra trên toàn thế giới, với gần 100 ở Mỹ và 29 ở Vương quốc Anh. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, giới lãnh đạo các trường đại học trên khắp thế giới đã bớt nhiệt tình hẳn đối với việc đón nhận các học viện Khổng Tử. Bên cạnh đó, số lượng các viện này bị đóng cửa ngày càng tăng.
Theo tác giả bài phân tích, có hai nguyên nhân giải thích hiện tượng khựng lại kể trên. Một là phản ứng địa chính trị ngày càng tăng chống lại một Đảng cộng sản Trung Quốc càng lúc càng độc đoán dưới sự lãnh đạo của Tập Cận Bình và hai là chính các học viện Khổng Tở cũng phải chịu làn sóng đàn áp chính trị của Đảng cộng sản Trung Quốc tương tự như mọi định chế khác của Trung Quốc, kể cả khi ở ngoài nước.
Vai trò quảng bá tư tưởng, đường lối của Bắc Kinh
Đối với ông Fulda, các học viện Khổng Tử trong các trường đại học phương Tây đóng một vai trò kép, vừa là một cơ quan văn hóa, vừa là một tổ chức chính trị.
Các học viện Khổng Tử đã bị chỉ trích vì liên tục đi chệch ra ngoài nhiệm vụ chính được tuyên bố công khai của họ là giúp đào tạo tiếng Quan Thoại, để lao vào lãnh vực tư tưởng và ý thức hệ.
Đã có những bằng chứng cho thấy là các tài liệu học tập của Viện đã bóp méo lịch sử Trung Quốc đương đại và ém nhẹm các thảm họa nhân đạo do Đảng cộng sản gây ra như cuộc Đại Nhảy Vọt (1958-1961) và Cách Mạng Văn Hóa (1966-1976).
Tại các sự kiện của Học viện Khổng Tử, các vấn đề nhạy cảm như Đài Loan, Tây Tạng và Thiên An Môn cũng không thể được thảo luận công khai. Ví dụ như vào năm 2014, một hội nghị tại Braga, Bồ Đào Nha, với sự đồng tài trợ của cả trụ sở trung ương của Học viện Khổng Tử lẫn Hiệp hội Tưởng Kinh Quốc vì trao đổi học giả quốc tế có trụ sở tại Đài Loan, đã bị bà Hứa Lâm (Xu Lin), lãnh đạo Học viện Khổng Tử làm gián đoạn một cách thô bạo.
Và căn cứ theo các điều kiện của chỉ thị gọi là "Bảy điều không được nói", thì khi ở nước ngoài, các cán bộ giáo dục Trung Quốc bị cấm không được nói về các giá trị phổ quát, quyền tự do ngôn luận, xã hội dân sự, dân quyền, các lỗi lầm lịch sử của Đảng cộng sản Trung Quốc, giới tư sản của chế độ và quyền độc lập của tư pháp.
Bài viết của tạp chí Foreign Policy còn ghi nhận là ngay cả giới nghiên cứu Trung Quốc cũng đang tự kiểm duyệt.
Một cuộc khảo sát gần đây đã cho thấy rằng trước chế độ kiểm duyệt ngày càng tăng của Đảng cộng sản Trung Quốc, giới nghiên cứu đã sử dụng một số chiến thuật ứng phó. Gần một nửa - khoảng 48% - số người được hỏi đã thích nghi cách họ mô tả dự án để tiếp tục thực hiện, 25% thay đổi trọng tâm của dự án và 15% đã ngừng dự án vì lo ngại về tính chất nhạy cảm - hoặc tính chất khả thi - vì khả năng không được phép tham khảo các tài liệu lưu trữ ở Trung Quốc làm cho nhiều dự án không thể thực hiện được.
Theo nhà nghiên cứu Fulda, các học viện Khổng Tử còn mang đến một yếu tố khác : hy vọng được tài trợ và nỗi lo sợ bị mất nguồn tài chánh.
Tranh chấp với đại học tại chỗ : ví dụ Đại học Lyon tại Pháp
Khi thảo luận về vai trò gây tranh cãi không kém của các hiệp hội sinh viên Trung Quốc có mối quan hệ chặt chẽ với các đại sứ quán Trung Quốc, học giả người Anh Martin Thorley gần đây đã dùng thuật ngữ "mạng lưới tiềm ẩn" để chỉ các công cụ mà Nhà nước Trung Quốc dùng để gây áp lực ra bên ngoài.
Các tổ chức trong mạng lưới đó không nhất thiết bị Đảng cộng sản Trung Quốc kiểm soát trực tiếp trong các công việc hàng ngày của họ, nhưng họ phụ thuộc vào sự bảo trợ của Đảng và do đó, chịu sự chỉ đạo của Đảng cộng sản Trung Quốc.
Số phận của Học viện Khổng Tử Lyon (LCI), đặt tại trường Đại học Lyon ở miền đông nam nước Pháp nêu bật nguy cơ mà các học viện Khổng Tử trong tư cách là mạng lưới tiềm ẩn gây ra.
Vào mùa thu năm 2012, viên giám đốc được Bắc Kinh cử qua phụ trách Học viện Khổng Tử Lyon đã đòi áp dụng tại viện này một chương trình giảng dạy theo kiểu Trung Quốc. Tranh chấp đã nổ ra với phía lãnh đạo người Pháp. Khi chủ tịch Hội đồng quản trị của Học viện Lyon là ông Gregory Lee thành công trong việc chống lại chương trình theo kiểu Trung Quốc mà giám đốc học viện người Trung Quốc muốn áp đặt, quan hệ giữa Đại học Lyon với Hán Biện (Hanban), trụ sở trung ương của các học viện Khổng Tử ở Bắc Kinh, đã xấu hẳn đi, với kết quả là Học viện Khổng Tử Lyon đã bị đóng cửa.
Đối với ông Fulda, bất kỳ trường đại học nào khác trên thế giới hiện đang hợp tác với các học viện Khổng Tử, trong tương lai đều có thể chia sẻ số phận của Lyon.
Chính quyền sở tại nên can thiệp
Tất cả điều này chỉ ra một sự thật quan trọng : Quyết định tổ chức các học viện Khổng Tử trong các trường đại học phải do Nhà nước đưa ra.
Theo ông Fulda, trừ phi họ sẵn sàng chấp nhận sự kìm kẹp của Đảng cộng sản Trung Quốc đối với các tổ chức của chính họ, các chính phủ trên toàn thế giới nên cấm các học viện Khổng Tử hoạt động trong các khuôn viên trường đại học. Đây không phải là một kiểu chống cộng cực đoan, mà là một biện pháp bảo vệ quyền tự chủ học thuật và tự do ngôn luận, chống lại việc Đảng cộng sản Trung Quốc dùng tiền làm sức mạnh để khống chế các đại học.
Sự can thiệp của Nhà nước như vậy cũng sẽ cung cấp vỏ bọc cần thiết giúp các trường đại học chấm dứt các thỏa thuận hợp tác hiện có với các học viện Khổng Tử mà không bị buộc tội bài xích Trung Quốc.
Ông Fulda cũng đưa ra một giải pháp là bên ngoài các trường đại học, các học viện Khổng Tử hoàn toàn có thể đăng ký hoạt động như bất kỳ một tổ chức văn hóa nào khác hoạt động ở nước ngoài. Đây là chính là cách các tổ chức văn hóa phương Tây như Viện Goethe của Đức, British Council của Anh và Viện Văn hóa Pháp… hoạt động trên toàn cầu.
Và nếu thấy rằng Trung Quốc quan trọng, vì lý do an ninh quốc gia hay xã hội và văn hóa, các nước phương Tây cần đầu tư đúng mực, bù đắp cho việc mất doanh thu hạn chế bằng cách tài trợ đầy đủ cho ngành học tiếng Hoa và nghiên cứu Trung Quốc đương đại.
Các nhà giáo dục phương Tây vẫn có trách nhiệm chủ động thu hút các sinh viên và học giả Trung Quốc với tư cách cá nhân và đi đầu trong việc giới thiệu sinh viên của mình qua học tại Trung Quốc, thay vì để cho Đảng cộng sản Trung Quốc và các cơ quan ngoại vi của họ độc quyền thao túng.
Mai Vân
Nguồn : RFI, 23/10/2019
Container rỗng trên tàu qua Châu Âu
Cho đến nay, Trung Quốc luôn phô trương thành công của Sáng Kiến Con Đường Tơ Lụa Mới kết nối hai lục địa Á-Âu, đặc biệt là tuyến đường vận chuyển hàng hóa bằng tàu hỏa đã có thể đưa hàng thẳng từ Trung Quốc đến tận Luân Đôn kể từ năm 2017.
Trong số các container gọi là đựng hàng hóa được chuyển vận trên Con Đường Tơ Lụa Mới qua Châu Âu, không ít là thùng không !
Theo một bản tin của hãng thông tấn Anh Reuters vào giữa năm 2018, tập đoàn Đường Sắt Trung Quốc China Railway từng khoe rằng trong năm 2017 đã có đến 3.673 đoàn tàu chở hàng kết nối giữa Trung Quốc và Châu Âu, tăng hơn gấp đôi so với 1.702 chuyến của năm 2016 và là cú nhẩy vọt so với vỏn vẹn 17 chuyến tàu container trong năm 2011.
Thế nhưng mới đây, vào hạ tuần tháng 8/2019, nhật báo Hồng Kông South China Morning Post (SCMP) đã phơi bày một sự kiện hầu như không được Bắc Kinh nói đến : Trong số các container gọi là đựng hàng hóa được chuyển vận trên Con Đường Tơ Lụa Mới qua Châu Âu, không ít là thùng không ! Và thực tế này đã được chính giám đốc Tập Đoàn Đường Sắt Trung Quốc China Railway, chịu trách nhiệm quản lý các tuyến đường sắt chuyển vận hàng hóa, công nhận.
Theo nhật báo Hồng Kông, vụ lừa đảo to lớn liên quan đến Sáng Kiến Con Đường Tơ Lụa đã bị đưa ra ánh sáng sau khi lãnh đạo của Tập Đoàn Đường Sắt Trung Quốc đã phải công khai thú nhận trong tháng 8 vừa qua là một khối lượng đáng kể container chuyển vận từ Trung Quốc qua Châu Âu bằng đường sắt chỉ là container trống rỗng.
Tập đoàn Đường Sắt Trung Quốc đã bị buộc phải thú nhận vụ bê bối này vì một cuộc điều tra của tạp chí Chinese Business Journal, thuộc Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Trung Quốc, đã phát hiện ra các vụ gian lận mà một trường hợp ghê gớm nhất là trên một chuyến tàu cụ thể chở 41 container, thì chỉ có duy nhất một cái là có hàng hóa mà thôi.
SCMP nhắc lại rằng Con Đường Tơ Lụa là công trình to lớn mà chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã không tiếc công sức quảng bá với mục tiêu thúc đẩy thương mại toàn cầu, trong đó Trung Quốc có vai trò trọng tâm. Đối với doanh nhân Trung Quốc, đó cũng là dịp để thủ lợi, và họ đã dùng mọi thủ đoạn để moi lấy trợ cấp tài chính nằm trong kế hoạch của ông Tập, các khoản tài trợ từ chính quyền trung ương cũng như từ các chính quyền địa phương.
Để chứng tỏ thái độ hưởng ứng chiến lược địa chính trị của Bắc Kinh, nhiều chính quyền địa phương trong thời gian qua đã lao vào việc mở thêm và tăng cường những chuyến tàu vận chuyển hàng hóa đến Châu Âu xuyên qua các vùng rộng lớn ở Trung Á. Thế nhưng nhiều nhà xuất khẩu thật ra lại cho chở thùng không để nhận trợ cấp của chính quyền.
Khi công nhận sự kiện nói trên trong một bài phỏng vấn của Hoàn Cầu Thời Báo, Tập Đoàn Đường Sắt Trung Quốc cho rằng vấn đề đã được giải quyết từ năm ngoái, 2018, và đã có những quy định mới giới hạn lượng container trống rỗng trên các đoàn tàu ở mức tối đa 10%.
Tập đoàn này cũng bào chữa là trong số các container chuyển đến Châu Âu trong năm 2018, chỉ có 6% là trống, so với 29% trên các đoàn tàu đi về phía đông. Riêng trong nửa đầu năm 2019, thì tỷ lệ này đã giảm hẳn, chỉ còn 2% và 18%.
Vấn đề thùng không là hệ quả của mong muốn phô trương
Theo ông Jonathan Hillman, một chuyên gia kỳ cựu về thương mại Trung Quốc-Châu Âu tại Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược và Quốc Tế CSIS ở Washington, vấn đề container trống rỗng xuất phát từ ý muốn phô trương thành công của Con Đường Tơ Lụa, "chạy theo lợi ích chính trị ngắn hạn bất chấp những nền tảng kinh tế dài hạn".
Theo chuyên gia này : "Những tuyến vận chuyển này là công cụ quảng cáo hữu hiệu để rao bán Con Đường Tơ Lụa, nhưng sẽ không thách thức được thế thống trị của các tuyến hàng hải".
Và theo ông Hillman, những khoản tài trợ hậu hĩnh của chính phủ cho các tuyến tàu hỏa chở hàng, cộng thêm với những lời tán dương của báo chí Trung Quốc đã khuyến khích các hành vi lạm dụng thái quá.
Năm 2018, bộ Tài Chính Trung Quốc đã trợ cấp đến 50% phí chuyên chở hàng bằng xe lửa qua Châu Âu. Năm nay trợ cấp đã giảm xuống 40%, và chỉ còn là 30% vào năm 2020 để hoàn toàn mất đi vào năm 2022.
Tuy nhiên, theo ghi nhận của SCMP, trợ cấp giảm đã kéo theo nhiều hậu quả. Ở Hắc Long Giang, tỉnh giáp ranh với Nga, hai tuyến đường sắt đã không hoạt động vào năm ngoái vì thiếu trợ cấp. Hai tuyến này đi từ thủ phủ Cáp Nhĩ Tân (Harbin) đến Matxcơva (Nga) và Hamburg, (Đức), theo lời một quan chức phòng vận chuyển hàng hóa của tập đoàn Đường Sắt Cáp Nhĩ Tân (China Railway Harbin Group).
Tài trợ hậu hĩnh cho vận chuyển hàng hóa bằng tàu hỏa
Ngoài chính quyền trung ương thì các cấp địa phương cũng có những khoản tài trợ riêng. Thành phố Tây An chẳng hạn đã tài trợ đến 3000 đô la cho mỗi container hàng đến Châu Âu trong năm 2018, theo thông cáo của chính quyền thành phố .
Theo CSIS, nhìn chung, trợ cấp địa phương đi từ 1000 đô la đến 5000 đô la cho mỗi container cỡ 40 foot.
Còn theo 2 nhà nghiên cứu Trung Quốc, năm ngoái một số chính quyền địa phương đã trợ cấp đến 7.500 đô la cho mỗi container hàng hóa do chính mình sản xuất và 4.000 đô la cho hàng hóa do địa phương khác sản xuất. Những trợ cấp hậu hĩnh này đã gây ra cạnh tranh dữ dội giữa các địa phương…
Tính ra có 59 thành phố Trung Quốc từ Cáp Nhĩ Tân, miền đông bắc, đến Thẩm Quyến, ở phía nam, đã có những tuyến xe lửa trực tiếp chở hàng qua Châu Âu từ khi ông Tập Cận Bình đưa ra kế hoạch Con Đường Tơ Lụa mới như một chiến lược quốc gia.
Nhưng không phải tất cả các tuyến đều có lợi kinh tế. Một người chuyên về dịch vụ vận tải hàng hóa ở Hàng Châu thường khuyên khách hàng nên sử dụng đường thủy vì tiết kiệm hơn cho dù mất thêm một ít thời gian : "Chuyển hàng bằng xe lửa của China Railway từ Hợp Phì (thủ phủ tỉnh An Huy) đến Hamburg (Đức), sẽ mất 18 ngày, đôi khi kéo dài đến 20 ngày. Nếu đi bằng đường biển sẽ mất khoảng 30 ngày. Chênh lệch không là bao. Nhưng giá chuyển vận bằng xe lửa cao hơn ít ra là gấp 2 lần đường tàu biển".
Mai Vân
Nguồn : RFI, 13/09/2019
Tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN mở ra từ ngày 31/07/2019 tại Bangkok, Việt Nam và Mỹ có lẽ là hai nước có tiếng nói mạnh nhất để phản đối vụ Trung Quốc cho tàu vào khảo sát và quấy phá công việc khai thác dầu khí của Việt Nam ngay trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam tại Bãi Tư Chính, ở phía nam Biển Đông. Giới quan sát đặc biệt chú ý là lần này, Hà Nội đã có lập trường kiên quyết rõ nét để chống lại Bắc Kinh, sau hai lần liên tiếp lùi bước vào năm 2017, rồi 2018, trong vụ Repsol.
Một công nhân của công ty Rosneft Vietnam tại khu mỏ Lan Tây ở ngoài khơi Vũng Tàu (Việt Nam) trên Biển Đông. Ảnh tư liệu chụp ngày 29/04/2018. Reuters/Maxim Shemetov/File Photo
Một trong những nguyên do giải thích thái độ cứng rắn của Việt Nam vừa được nhà phân tích Bennett Mauray của tạp chí Mỹ Foreign Policy nêu bật trong bài viết : "Đồng minh kỳ lạ của Việt Nam trong cuộc đọ sức với Trung Quốc" (Vietnam’s Strange Ally in Its Fight With China), công bố hôm 01/08/2019. Đó là lần này, Hà Nội đã có hậu thuẫn ngầm của Moskva, thông qua tập đoàn dầu khí Nga Rosneft, đối tác của Việt Nam trong việc khai thác các mỏ dầu khí tại khu vực Bãi Tư Chính.
Kiên quyết đối đầu với Trung Quốc lần này
Ghi nhận trước tiên của Foreign Policy là Việt Nam đã có phản ứng kiên quyết hẳn lên bất chấp các đe đọa đến từ người láng giềng khổng lồ là Trung Quốc.
Trái với những gì đã xẩy ra hai năm trước đây, khi phải âm thầm hủy bỏ hai dự án liên doanh với tập đoàn năng lượng Tây Ban Nha Repsol dưới áp lực của Trung Quốc, Việt Nam hiện đang yêu cầu Trung Quốc cho rút tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 và nhóm tàu hộ tống ra khỏi vùng mỏ dầu khí mà Việt Nam đang hợp tác khai thác. Đối tác lần này của Hà Nội chính là một người bạn cũ, đồng thời là cổ đông chủ chốt trong liên doanh : Chính phủ Nga.
Bối cảnh chung của cuộc đọ sức lần này với Trung Quốc không có nhiều thay đổi so với hai năm 2017 và 2018. Địa bàn tranh chấp vẫn nằm bên trong "đường chín đoạn" của Trung Quốc, một ranh giới mơ hồ mà Bắc Kinh tự vẽ ra để đòi chủ quyền trên gần như toàn bộ Biển Đông.
Các mỏ dầu bị tranh chấp đều ở bên trong bồn trũng Nam Côn Sơn rộng khoảng 35.000 dặm vuông, sâu bên trong vùng 200 hải lý tính từ bờ biển Việt Nam, mà theo nguyên tắc quốc tế là vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Trong khi đó thì bờ biển Trung Quốc cách xa khu vực đến 600 hải lý, khiến cho Bắc Kinh không có lựa chọn nào khác để đòi chủ quyền trên vùng Bãi Tư Chính, ngoài việc viện dẫn đường lưỡi bò.
Tại sao Việt Nam lại lùi bước trước Trung Quốc 2 năm gần đây ?
Cho dù vậy, vào năm 2017 và 2018, Việt Nam đã đình chỉ việc khoan dò ở hai lô dầu khí 136/03 và 07/03 dưới sức ép của Trung Quốc. Lý do hủy bỏ không hề được công bố, nhưng các thông tin từ Hà Nội và giới công nghiệp dầu hỏa cho rằng Trung Quốc đã đe dọa đánh chiếm các căn cứ của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa, một nơi từng diễn ra những trận hải chiến dữ dội giữa hai bên trong những năm 1980.
Theo Foreign Policy, Việt Nam khi ấy đã cố gắng cứu vãn tình hình an ninh của mình trong bối cảnh đã xuất hiện nhiều hoài nghi về quyết tâm can dự vào khu vực của chính quyền Trump, trong lúc mà Philippines, nước trước đó đi đầu trong việc chống đường chín đoạn của Trung Quốc, lại trở nên chập chờn, sau khi ông Rodrigo Duterte được bầu lên làm tổng thống.
Một lý do khác, theo tạp chí Mỹ, là tập đoàn Tây Ban Nha Repsol chỉ là một công ty tư nhân của một cường quốc thứ yếu, không có thực lực đia chính trị để hỗ trợ Việt Nam.
Đối tác của Việt Nam ở Bãi Tư Chính thực ra là chính phủ Nga !
Bối cảnh lần này hoàn toàn khác. Đối tác của Việt Nam tại Bãi Tư Chính là Rosneft.
Trái với Repsol, Rosneft với chủ nhân là chính phủ Nga, có khả năng vận dụng uy lực để bảo vệ nguồn cung cấp tài chánh cho nhà nước Nga.
Tập đoàn khí đốt Nga Gazprom cũng hoạt động gần đó, cũng như Zarubezhneft một công ty nhà nước hoàn toàn của Nga được thành lập vào năm 1967 mà Vietsovpetro, liên doanh với Tập Đoàn Dầu khí Việt Nam, là tất cả những gì còn lại của ngành khai thác nhiên liệu hóa thạch ở hải ngoại từng rất hùng mạnh thời Liên Xô cũ.
Biển Đông : Nga có lập trường nước đôi đối với Trung Quốc
Đối với Foreign Policy, chính sách của điện Kremlin về Biển Đông chưa bao giờ rõ ràng cụ thể.
Về mặt chính thức, Nga giữ thái độ trung lập, nhưng lại thường ngầm ủng hộ Trung Quốc bằng cách công khai khẳng định rằng các nước không có yêu sách tại Biển Đông không nên xen vào cuộc tranh chấp.
Moskva cũng chia sẻ quan điểm chống các định chế phương Tây của Trung Quốc. Vladimir Putin đã nói rằng Nga "ủng hộ lập trường của Trung Quốc", khi Bắc Kinh phủ nhận phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực năm 2016 chống lại đường chín đoạn của Trung Quốc.
Tuy nhiên, theo tạp chí Mỹ, nếu những lời hoa mỹ của điện Kremlin có thể hữu ích cho Trung Quốc, thì những hành động của Nga trên biển lại không có lợi lắm cho Bắc Kinh.
Trong vụ Bãi Tư Chính, cho dù là về mặt chính thức, Nga có thể là sẽ không tuyên bố đứng về phía Việt Nam, nhưng các doanh nghiệp Nga lại là các công ty duy nhất hợp tác với Việt Nam để khai thác dầu khí bên trong đường chín đoạn.
Một thách thức đối với Trung Quốc
Đây không phải là một sự thách thức nhỏ, vào lúc mà dân quân biển Trung Quốc tấn công thô bạo vào ngư dân nước ngoài, trong lúc quân đội Trung Quốc thì tìm cách đánh bật Việt Nam ra khỏi các vùng mỏ dầu khí.
Nhìn dưới khía cạnh đó, việc Nga hợp tác với Việt Nam là một hành động khiêu khích Trung Quốc nghiêm trọng (mặc dù ở mức độ thấp), kể cả khi điện Kremlin cẩn thận tránh thu hút sự chú ý đến việc đó.
Đối với Foreign Policy, dĩ nhiên không ai nghĩ là Nga sẽ điều động cả một hạm đội từ Vladivostok xuống Biển Đông để đối đầu với Hải Quân Trung Quốc, nhưng Bắc Kinh sẽ bị mất mát nhiều nếu quá mạnh tay trước Rosneft.
Trung Quốc không thể thẳng tay với Nga
Sáng kiến Một Vành Đai Một Con Đường của Trung Quốc nhằm nối liền Âu Á, sẽ phải thận trọng khi đi qua các vùng mà Nga coi là sân sau của mình.
Hiện đã có khoảng 7 tỷ đô la của Trung Quốc bị kẹt ở Ukraina, nước đang có một cuộc chiến tranh không tuyên bố với Nga ở miền đông. Gruzia, nước có quan hệ không mấy thuận thảo với Nga, cũng quan tâm đến sáng kiến của Trung Quốc. Bắc Kinh cũng đang vung tiền vào những nước bạn của Nga trong Liên Minh Kinh Tế Á-Âu, và một dự án đầy tham vọng để liên kết Kazakhstan với Belarus đã được tiến hành.
Theo đánh giá của Foreign Policy, việc duy trì hòa khí giữa hai cường quốc cần đến sự có đi có lại và nhu cầu giải quyết êm thấm những tranh chấp tất yếu nảy sinh. Do đó, việc khoan dầu chung giữa Nga và Việt Nam ở ngoài khơi bờ biển miền Nam Việt Nam gần như chắc chắn nằm trên bàn đàm phán.
Về phần Trung Quốc, hiện đang bị cô lập do cuộc chiến thương mại với Mỹ và sự buông lơi của phương Tây, nước này cũng không có tâm trạng chống lại cường quốc duy nhất đang muốn có phần mình ở Biển Đông.
Dù lợi ích của Nga không phải là đứng về phía Mỹ để tố cáo chủ nghĩa bành trướng trên biển của Trung Quốc, nhưng điện Kremlin cũng không mấy hứng thú trước khả năng Bắc Kinh giành được quyền kiểm soát Biển Đông, tuyến hàng hải trị giá hàng ngàn tỷ đô la nối liền Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương.
Để bảo vệ nguồn dầu khí bị Bắc Kinh yêu sách, Việt Nam cần gắn với Nga hoặc Mỹ
Về phần Việt Nam, gắn ngành công nghiệp dầu khí của mình với các cường quốc có thể là cơ hội tốt nhất để giữ được một số mỏ dầu khí của mình bên trong đường chín đoạn. Việt Nam chẳng hạn, đã lôi kéo Hoa Kỳ với dự án Cá Voi Xanh của tập đoàn Mỹ ExxonMobil.
Có điều là thành công của chiến lược không còn tùy thuộc vào Việt Nam khi sóng gió lớn nổi lên. Nhưng sức mạnh đàm phán đơn phương của Việt Nam đã bị người láng giềng khổng lồ và càng lúc càng mạnh làm cho suy yếu đi. Trong tình hình đó, dựa vào sư ủng bộ của Moskva, hoặc Washington, có thể không lý tưởng, nhưng Hà Nội không còn nhiều lựa chọn nào khác.
Mai Vân
Nguồn : RFI, 02/0/2019
Dư luận Philippines đang phẫn nộ về vụ một chiếc tàu Trung Quốc đâm chìm một tàu đánh cá Philippines tại khu vực Bãi Cỏ Rong phía đông bắc Biển Đông hôm 09/06/2019, rồi bỏ chạy.
Ảnh minh họa : Một tàu cá và một tàu tuần duyên Trung Quốc (màu trắng bên phải) tại vùng biển đảo Scarborough. Ảnh 5/04/2017. Reuters/Erik De Castro/File Photo
Trong một bài phân tích đăng ngày 21/06 trên trang mạng của Quỹ Nghiên Cứu ORF (Observer Research Foundation) của Ấn Độ, chuyên gia Pratnashree Basu đã trở lại với sự cố đó để nêu bật thưc tế là tình trạng bất ổn định đã trở thành thường xuyên tại Biển Đông mà kẻ gây rối chính là Trung Quốc. Điểm đáng ngại, theo chuyên gia này, là vai trò ngày càng hung hăng của lực lượng dân quân biển Trung Quốc.
Về vụ tàu Trung Quốc đâm tàu cá Philippines tại Bãi Cỏ Rong, tác giả bài phân tích đã bác bỏ tuyên bố của các nguồn tin chính thức Trung Quốc nói rằng con tàu gây sự cố là một chiếc tàu đánh cá. Đối với chuyên gia Ấn Độ, trong thực tế đó là một phần của lực lượng dân quân biển Trung Quốc.
Dân quân biển là một lực lượng bán quân sự được triển khai để tuần tra, giám sát và tiếp tế. Đạo quân này tham gia vào việc củng cố sự hiện diện của Trung Quốc ở Biển Đông và biển Hoa Đông và họ báo cáo trực tiếp lên Quân Đội Trung Quốc.
Tàu dân quân biển trá hình
Có nhiều dấu hiệu đáng tin cho thấy là những gì được coi là tàu cá Trung Quốc thực ra là lực lượng dân quân biển của Bắc Kinh, giúp họ dễ dàng ngụy trang các hành vi gây chiến thành những sự cố bình thường. Sự hiện diện và lấn lướt của tàu dân quân Trung Quốc đã trở thành một vấn đề với các láng giềng cũng như các nước khác như Úc, Mỹ và các thực thể ở Biển Đông như đá Hoài Ân (Sandy Cay) sát cạnh đảo Thị Tứ hiện đang do Philippines kiểm soát ở Trường Sa.
Vụ đâm tàu ở Bãi Cỏ Rong nêu bật hai yếu tố : tầm quan trọng của địa điểm tập kết và khả năng tăng cường lực lượng dễ dàng và nhanh chóng.
Theo bà Pratnashree Basu, không thể chối cãi được rằng Trung Quốc là quốc gia duy nhất hiện đang gây bất ổn tại Biển Đông.
Các hành động của Trung Quốc đã và đang tiếp tục gây ra nhiều vấn đề vì Bắc Kinh thường xuyên coi nhẹ các chuẩn mực quốc tế và chủ quyền của nước khác. Điều xảy ra ở Bãi Cỏ Rong không phải là sự cố đầu tiên hoặc duy nhất, mà nằm trong một chuỗi dài của các vụ Trung Quốc vi phạm các quy tắc quốc tế.
Hành động kiên quyết bành trướng của Trung Quốc
Chính vì những vi phạm thường xuyên đó mà Manila đã kiện Bắc Kinh ra Tòa Trọng Tài Quốc Tế về tội xâm lấn vùng biển Philippines. Tuy nhiên, đáng chú ý hơn tần suất của các vụ vi phạm chính là lập trường của Trung Quốc kiên quyết phủ nhận phán quyết của tòa quốc tế vào năm 2016 có lợi cho Philippines. Điều đó cho thấy rõ lập trường cứng rắn của Bắc Kinh đối với các tranh chấp ở vùng biển bao quanh Trung Quốc.
Theo chuyên gia Pratnashree Basu, từ nhiều năm nay tình hình Biển Đông luôn căng thẳng do các tranh chấp chủ quyền giữa các nước ven biển. Thế nhưng bất ổn đã tăng thêm do các hành động bành trướng của Trung Quốc, vốn đã tìm cách cho thấy rõ sự hiện diện của mình trong vùng.
Vụ đâm tàu tại Bãi Cỏ Rong vừa qua đã làm dấy lên những cuộc biểu tình phẫn nộ ở Philippines với những người biểu tình đốt cờ Trung Quốc và kêu gọi "kết thúc sự xâm lược của Trung Quốc". Các cuộc biểu tình đã kéo theo những phản ứng mạnh mẽ từ người dân, đã tỏ ý thất vọng trước những gì mà họ cho là thái độ bất động của chính phủ.
Trong khi phản ứng ban đầu từ Manila rất mạnh mẽ, từ bộ trưởng Quốc Phòng Delfin Lorenzana lên án hành động đâm tàu cũng như việc tàu Trung Quốc bỏ chạy cho đến phó tổng thống Leni Robredo kêu gọi mở cuộc điều tra, phản ứng của tổng thống Duterte đã rất muộn màng và nhẹ nhàng, chỉ coi đó là một vụ va chạm bình thường.
Theo ghi nhận của bà Pratnashree Basu, các cuộc biểu tình cho thấy là một bộ phận dân chúng Philippines ngày càng bất mãn trước cách thức chính phủ xử lý các hoạt động liên quan đến Trung Quốc, thậm chí có người còn cho rằng chính quyền ưu tiên người lao động nhập cư Trung Quốc hơn là người Philippines.
Philippines từng nằm trong số các nước có quan hệ căng thẳng nhất với Trung Quốc, thậm chí kiện Bắc Kinh ra tòa vào năm 2015. Tuy nhiên, trong chính trị quốc tế, quan hệ song phương thân thiện hay không phần lớn phụ thuộc vào chế độ đang cầm quyền ở một quốc gia, và một lãnh đạo quốc gia thường đóng vai trò quyết định cho quan hệ đang có và đặt nền móng cho quan hệ song phương và đa phương trong tương lai.
Dưới thời tổng thống Duterte, nhậm chức năm 2016, đã có một sự thay đổi rõ rệt trong chính sách đối với Bắc Kinh. Trong khi Manila trước đây là một trong những quốc gia có tiếng nói mạnh nhất chống lại các hoạt động lấn lướt phi pháp của Bắc Kinh trong khu vực, kể từ thời ông Duterte, lập trường này trở nên thất thường, đa phần là im hơi lặng tiếng, đôi khi bùng lên ồn ào.
Ông Duterte đã tìm cách gác sang một bên tranh chấp trên biển với Bắc Kinh, biện minh rằng một quốc gia nhỏ như Philippines không thể đối đầu với một cường quốc như Trung Quốc - một quan điểm bị coi là quỵ lụy Bắc Kinh. Điều cần lưu ý ở đây là tổng thống Philippines cũng đã gạt bỏ các đề nghị hỗ trợ và hành động đa phương.
Một bước ngoặt nguy hiểm
Đối với chuyên gia Ấn Độ, sự cố ngày 09/06 tại Bãi Cỏ Rong đánh dấu một bước ngoặt nguy hiểm bởi vì một lần nữa nó cho thấy ý đồ và thái độ khăng khăng của Bắc Kinh muốn khẳng định chủ quyền của mình trên vùng biển thuộc chủ quyền hợp pháp của một quốc gia khác. Sự cố này cũng cho thấy một mức độ táo tợn hơn trong việc sử dụng lực lượng dân quân biển Trung Quốc.
Theo bà Basu, cơ cấu của lực lượng dân quân biển rất phù hợp với ý đồ của Trung Quốc muốn áp đặt các lợi ích của họ tại vùng biển tranh chấp thông qua các cuộc chạm trán ở cường độ thấp, bất cần tôn trọng luật pháp và chủ quyền trong khi vẫn duy trì tình trạng căng thẳng.
Trong tương lai gần, những vụ va chạm có sự can dự của lực lượng dân quân biển Trung Quốc có thể thúc đẩy sư can thiệp của các cường quốc ngoài khu vực như Mỹ, vốn đã cho biết là các hành vi khiêu khích của tàu dân quân sẽ bị coi là tương đương với những hành động của chiến hạm của lực lượng Hải Quân.
Mặc dù tuyên bố của Mỹ mới là dấu hiệu của một lập trường cứng rắn hơn, nhưng điều đó hàm chứa rủi ro là tình hình có thể dễ dàng leo thang đến mức một cuộc xung đột toàn diện. Trừ phi Bắc Kinh lùi bước đáng kể trong các hành động gây căng thẳng, trong những ngày tới đây, Biển Đông có nguy cơ chứng kiến một tình huống xung đột leo thang nhanh chóng đến mức không thể quay lại.
Tập đoàn công nghệ Trung Quốc Hoa Vi ngày 07/03/2019 đã mở thêm một mặt trận mới trong cuộc chiến chống chính phủ Hoa Kỳ khi đệ đơn kiện luật cấm các cơ quan liên bang sử dụng sản phẩm của tập doàn Trung Quốc.
Logo Hoa Vi trên bức kính đặt trên nền cờ Mỹ. Ảnh chụp ngày 29/01/2019. Reuters/Dado Ruvic/Illustration
Theo nhiều nhà quan sát, khả năng Hoa Vi thắng kiện rất ít. Trong một bản tin ngày 07/03 vừa qua, hãng tin Anh Reuters đã điểm qua các biện pháp của chính quyền Mỹ đối với Hoa Vi, bản chất của vụ kiện do tập đoàn Trung Quốc khởi động và lý do tại sao Hoa Vi có thể sẽ thất bại.
Theo Reuters, các chuyên gia pháp lý cho rằng tập đoàn Hoa Vi có nguy cơ thua kiện, do các tòa án Mỹ thường có xu hướng tránh phán xét các quyết định của Quốc Hội trong những vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia, trong số này có lệnh cấm được ban hành vào tháng 8/2018 trong khuôn khổ một đạo luật về ngân sách quốc phòng.
Tuy nhiên, một số luật sư cho rằng dù biết trước về khả năng thua kiện, nhưng Hoa Vi có thể ghi được điểm về mặt tuyên truyền chống chính quyền Mỹ.
Tại sao Hoa Vi lại bất hòa với chính phủ Hoa Kỳ ?
Tập đoàn Hoa Vi, trụ sở tại Thâm Quyến (miền nam Trung Quốc), là nhà sản xuất thiết bị mạng viễn thông lớn nhất thế giới, đồng thời là đối thủ cạnh tranh sừng sỏ với hãng Apple của Mỹ và Samsung của Hàn Quốc trong lãnh vực điện thoại thông minh.
Nhậm Chánh Phi, ông chủ, và cũng là người sáng lập Hoa Vi, từ lâu nay đã bị nghi ngờ có quan hệ chặt chẽ với các cơ quan tình báo và quân sự Trung Quốc. Hoa Vi phủ nhận việc họ hợp tác với chính phủ Trung Quốc và việc sản phẩm của họ được thiết kế để tạo điều kiện cho hoạt động gián điệp.
Ngoài đạo luật bị kiện có nội dung cấm các cơ quan chính phủ Mỹ sử dụng thiết bị Hoa Vi, Washington cũng đang xem xét khả năng cấm các công ty Hoa Kỳ sử dụng thiết bị viễn thông Hoa Vi trong việc xây dựng mạng di động 5G, và đang thúc giục các đồng minh của Mỹ có biện pháp cấm tương tự.
Washington cũng đã cáo buộc Hoa Vi ăn cắp bí mật thương mại và vi phạm lệnh trừng phạt của Mỹ đối với Iran. Giám đốc tài chính Mạnh Vãn Châu, cũng là con gái của ông Nhậm Chánh Phi, đã bị bắt vào tháng 12 tại Canada theo yêu cầu của Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ. Phía Mỹ cáo buộc bà Mạnh Vãn Châu là người đã dàn dựng các vi phạm cấm vận.
Hoa Vi đã bác bỏ những lời tố cáo của Mỹ, cho rằng các hành động đó có động cơ chính trị, được đưa ra vào lúc chính quyền Trump đang tiến hành các cuộc đàm phán thương mại tối quan trọng với Bắc Kinh.
Đơn kiện của Hoa Vi bao gồm những gì ?
Lập luận chính của Hoa Vi là lệnh cấm các sản phẩm của họ là một loại "bill of attainder", tức là một đạo luật do Quốc Hội ban hành, buộc tội và trừng phạt một cá nhân hay một tập thể mà không cần xét xử trước tòa. Loại luật tước quyền này bị Hiến Pháp Mỹ đặc biệt nghiêm cấm.
Hãng tin Anh nhắc lại rằng một trong những vụ kiện nổi tiếng nhất có liên quan đến một đao luật thuộc diện "bill of attainder" là phán quyết nhất trí năm 1946 của Tòa Án Tối Cao Hoa Kỳ, hủy bỏ một đạo luật bị xem là vi hiến của Quốc Hội nhằm tước bỏ lương bổng của ba công chức bị cho là đã có hành động ủng hộ các "hoạt động nổi loạn".
Gần đây hơn, một thẩm phán liên bang đã ra phán quyết về một đạo luật của tiểu bang North Carolina giới hạn các khoản tài trợ cho tổ chức chăm sóc y tế phụ nữ, Planned Parenthood, xem đấy là một đạo luật thuộc diện bill of attainder vi hiến, vì đã được thông qua đặc biệt để trừng phạt tổ chức Planned Parenthood.
Hoa Vi cũng cho rằng quyền được xét xử công bằng chính đáng của họ bị vi phạm, lập luận rằng Quốc Hội Mỹ đã vi phạm nguyên tắc phân quyền được Hiến Pháp quy định, khi thực thi quyền lực dành riêng cho hệ thống tư pháp.
Hoa Vi có khả năng thắng kiện hay không ?
Hầu hết các chuyên gia pháp lý của Hoa Kỳ đều cho rằng Hoa Vi khó có khả năng thắng kiện, vì trong trường hợp đó, các tòa án Mỹ sẽ phải phán quyết rằng Quốc Hội Hoa Kỳ hoàn toàn không có bất kỳ một cơ sở chính đáng nào khi lồng lệnh cấm Hoa Vi vào trong đạo luật của mình.
Theo Reuters, nhìn chung, các tòa án Mỹ rất ngần ngại trong việc phê phán các quyết định về an ninh quốc gia của Quốc Hội và hành pháp, được xem là có tư cách tốt hơn để đưa ra các quyết định như vậy.
Một số chuyên gia pháp lý đã nêu bật phán quyết vào tháng 11/2018 của một tòa kháng án liên bang, bác bỏ một đơn kiện tương tự của công ty an ninh mạng Nga, Kasperky Lab, mà phần mềm chống vi rút tin học đã bị cấm sử dụng trên hệ thống mạng của chính phủ Hoa Kỳ vào năm 2017.
Trong vụ kiện đó, tòa án nói rằng đã có những "bằng chứng rộng rãi" chứng thực những mối quan ngại về an ninh quốc gia mà Kaspersky đặt ra, và cần phải cung cấp cho Quốc Hội quyền hành động "rộng rãi" để bảo vệ an ninh quốc gia.
Tòa án Texas xét xử đơn kiện của Hoa Vi sẽ không bị phán quyết kể trên ràng buộc, nhưng chắc chắn sẽ xem xét kỹ lưỡng những lý lẽ nêu lên trong bản án đó do những điểm tương đồng trong hai vụ kiện.
Tại sao Hoa Vi lại kiện dù biết khó thắng ?
Theo Reuters, có thể là Hoa Vi đã cho rằng những lợi ích tiềm tàng về mặt chinh phục dư luận xứng đáng với việc khởi động một cuộc chiến pháp lý, bất kể kết quả ra sao. Trong hai tháng vừa qua, tập đoàn Trung Quốc đã tung ra cả một chiến dịch tấn công về mặt giao tế.
Nếu đơn kiện của họ được chấp nhận, Hoa Vi sẽ được phép yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ cung cấp thông tin. Ngoài các tài liệu, tập đoàn Trung Quốc cũng có thể yêu cầu các quan chức Mỹ điều trần.
Những loại tài liệu đó có thể cung cấp cho Hoa Vi bằng chứng hỗ trợ cho lập luận của họ, theo đó Washington cấm đoán Hoa Vi vì động cơ chính trị, chứ không phải là vì quan ngại về an ninh quốc gia.
Tuy nhiên, theo hãng tin Anh, các chuyên gia pháp lý cho biết là Hoa Vi sẽ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn để cho đơn kiện của họ được chấp nhận thụ lý. Đơn kiện của công ty Nga Kaspersky đã bị bác ngay từ đầu.
Trong trường hợp Hoa Vi, bản chất tập trung của chính phủ Trung Quốc, với mối quan hệ chặt chẽ giữa chính quyền với ngành công nghiệp, cộng thêm với nhiều vụ tin tặc Trung Quốc hoành hành đã được điều tra kỹ lưỡng, sẽ góp phần chứng minh rằng luật pháp Hoa Kỳ có cơ sở hợp lý khi cấm Hoa Vi.
Một số chuyên gia pháp lý cho rằng một vụ kiện liên quan đến một công ty năng lượng gió, thuộc sở hữu của công dân Trung Quốc, có thể mang đến cho Hoa Vi một hy vọng mong manh nào đó.
Tập đoàn Ralls Corp đã đệ đơn kiện sau khi chính quyền Obama vào năm 2012 quyết định cấm không cho tập đoàn này xây dựng các tuabin gió gần một khu quân sự ở bang Oregon vì lý do an ninh. Một tòa án liên bang phán quyết rằng chính phủ Mỹ đã vi phạm quyền được xét xử công bằng của tập đoàn Ralls, khi không cho tập đoàn này cơ hội bác bỏ các bằng chứng chính phủ Mỹ dựa vào để đưa ra quyết định.
Vụ việc đã được giải quyết vào năm 2015 trong một cuộc dàn xếp bí mật, sau đó tập đoàn Ralls đã bán đi các trang trại năng lượng gió của họ.
Mai Vân
Nguồn : RFI, 11/03/2019
Năm 2016 tổng thống Philippines Rodrigo Duterte bắt đầu sưởi ấm quan hệ với Trung Quốc để có được đầu tư, Bắc Kinh từng hứa cung cấp 24 tỷ đô la tín dụng để Manila nâng cấp hạ tầng cơ sở.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và tổng thống Philippines Rodrigo Duterte (P) trong buổi tiệc tối ở dinh tổng thống Malacanang, Manila, 20/11/2018. Mark Cristino
Thế nhưng theo các chuyên gia chỉ có một số rất ít được thực sự chi ra. Chuyến công du Philippines đầu tiên của một chủ tịch Trung Quốc từ hơn một thập niên, hai hôm 20 và 21/11/2018 vừa qua cũng không làm thay đổi toàn cảnh đó, trong lúc ông Duterte bị cáo buộc là đã bị lừa khi đã dâng trước chủ quyền Biển Đông của Philippines cho Trung Quốc.
Trong bài phân tích ngày 23/11 mang tựa đề "Quyết định của Philippines xoay trục qua Trung Quốc vẫn chưa mang lại lợi quả, và Manila vẫn ngóng trông các khoản tiền cam kết" (The Philippines' pivot toward China has yet to pay off, as Manila awaits promised funds), kênh truyền thông Mỹ CNBC đã nêu bật phản ứng của công luận Philippines, đang phê phán chính quyền Duterte là đã vội vã nhượng bộ Trung Quốc về địa chính trị ở Biển Đông để đánh đổi lấy hư không.
Đổi phán quyết Biển Đông để lấy 24 tỷ đô la cam kết đầu tư, nhưng chưa thấy gì
Theo nhà báo Nyskha Chandran của CNBC, sau khi tuyên bố "bỏ Mỹ, theo Tàu" và năm 2016, ông Duterte đã được chính quyền Tập Cận Bình cam kết 24 tỷ đô la đầu tư và tín dụng để năng cấp hạ tầng cơ sơ tại Philippines, nhưng cho đến nay, hầu như Manila vẫn chưa thấy tăm hơi những khoản cam kết đó.
Bắc Kinh đã hứa với Manila đến10 dự án hạ tầng cơ sở to lớn, nhưng theo nhà chính trị học Richard Heydarian, thuộc Đại học La Salle ở Philippines, chỉ mới có một dự án là đã đi vào thực hiện. Trong lúc đó thì ông Duterte đã "giảm nhẹ hẳn việc tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc, và đi theo đường lối của Bắc Kinh".
Cựu tổng thống Philippines Benigno Aquino đã đưa vấn đề tranh chấp lãnh thổ Trung Quốc - Philippines ở Biển Đông ra trước Tòa Trọng Tài La Haye, và năm 2016, Tòa án đã ra phán quyết thuận lợi cho Manila, vô hiệu hóa yêu sách của Bắc Kinh. Trung Quốc đã bác bỏ phán quyết đó. Nhiều người đã chỉ trích ông Duterte là đã không làm gì để đòi hỏi Bắc Kinh tôn trọng phán quyết.
Chẳng những thế, chỉ vài tháng sau phán quyết nói trên thì ông Duterte lại thay đổi chính sách đối ngoại, tuyên bố chia tay với đồng minh Hoa Kỳ để quay sang đồng hành với Bắc Kinh.
Quyết định trên đã khiến nhiều người Philippines giận dữ. Họ cho rằng tổng thống của họ đã nhượng bộ ở Biển Đông để có được tiền từ Trung Quốc nhưng lại chẳng thấy gì.
Gần một nửa trong số 75 dự án hạ tầng cơ sở của ông Duterte - trụ cột của chiến lược kinh tế "Xây Dựng, Xây Dựng và Xây Dựng", trị giá 180 tỷ đô la, dự trù dùng tiền của Trung Quốc, nhưng đến nay, theo hãng tin Anh Reuters chỉ mới có ba đề án là nhận được tài trợ.
Bộ trưởng tài chính Philippines Benjamin Diokno, hôm thứ Hai tuần trước (19/11), đã thừa nhận rằng đầu tư Trung Quốc đến rất chậm.
Hiện nay tổng thống Duterte vẫn còn được hậu thuẫn rộng rãi của dân chúng, nhưng các cuộc thăm dò cho thấy người Philippines rất dè dặt về chính sách của ông đối với Trung Quốc. Theo kết quả cuộc thăm dò dư luận do viện Social Weather Station công bố hôm 19/11, hơn 80% người được hỏi cho rằng Philippines nên chống lại việc Trung Quốc quân sự hóa các đảo nhân tạo đã bồi đắp ở Biển Đông.
29 thỏa thuận ký kết, nhưng chỉ là thứ yếu
Trong bối cảnh những cam kết tài trợ của Trung Quốc cho ông Duterte rõ ràng là chưa thành hiện thực, đồng thời chính sách thân Bắc Kinh của tổng thống Philippines bị chỉ trích là không mang lại lợi ích mong muốn, nhiều nhà quan sát cho rằng Bắc Kinh sẽ phải cố buông ra một cái gì nhân chuyến công du Philippines của chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.
Quả thực là nhân chuyến thăm Philippines của ông Tập Cận Bình, Manila và Bắc Kinh đã ký đến 29 thỏa thuận trên nhiều lãnh vực, từ hợp tác giáo dục cho đến xây dựng khu công nghiệp. Tuy nhiên, theo chuyên gia Heydarian, khi xem xét kỹ, thì giá trị các văn kiện đó chẳng là bao.
Đại đa số các văn bản được ký kết chỉ là những biên bản ghi nhớ và những khuôn khổ hợp tác mơ hồ, hầu như có rất ít thỏa thuận có liên quan đến việc thực hiện các dự án hạ tầng cơ sở quan trọng.
Trong một bản thông cáo công bố hôm thứ Tư 21/11 vừa qua, phó tổng thống Philippines bà Leni Robredo, một trong những chính khách đối lập với tổng thống Duterte, đã lên tiếng lưu ý rằng "tình hữu nghị song phương không được quyền ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia và dân tộc". Đối với phó tổng thống Robredo : "Chủ quyền của Philippines không thể bị tác động bởi bất kỳ thỏa thuận nào với bất kỳ quốc gia nào".
Trung Quốc đã được Duterte nhượng bộ về Biển Đông nên không cần giữ lời hứa
Khái niệm chủ quyền được bà Robredo nhắc đến được cho là liên quan đến Biển Đông. Trong chuyến thăm Philippines của ông Tập Cận Bình, hai bên đã cam kết quản lý đúng đắn các bất đồng ở Biển Đông.
Điều làm giới quan sát thắc mắc là không rõ là tổng thống Duterte có đề cập đến phán quyết của Tòa Trọng Tài La Haye năm 2016 hay không. Thế nhưng hai bên đã ký một thỏa thuận cùng khai thác dầu khí ở vùng biển tranh chấp, cho dù theo phán quyết nói trên thì Trung Quốc không có quyền hạn gì ở vùng này.
Theo chuyên gia Malcolm Cook, thuộc viện nghiên cứu Đông Nam Á Yusof Ishak tại Singapore, thì "tổng thống Duterte đang ở trong thế yếu trước Trung Quốc và chính ông đã tự đặt mình trong thế đó".
Chuyên gia này giải thích : "Ông Duterte đã xích lại gần Trung Quốc quá nhanh, quá toàn diện ngay sau khi lên cầm quyền, và đã cho Trung Quốc tất cả những gì họ muốn trước khi Bắc Kinh đền đáp lại. Cho nên không mấy ngạc nhiên khi thấy những lợi lộc kinh tế mà Trung Quốc hứa cho Philippines lại đến ít và chậm hơn là cam kết".
Theo giới quan sát, có nhiều lý do khiến Trung Quốc tài trợ chậm trễ cho các đề án hạ tầng cơ sở của Philippines.
Các đề án như tuyến đường xe lửa Mindanao Railway chẳng hạn, một phần của Con Đường Tơ Lụa Mới, mang tính chất chính trị nhiều hơn là thương mại, do đó các ngân hàng Trung Quốc do dự trong việc chi tiền. Theo chuyên gia Cook, "Sáng kiến Một Vành Đai, Một Con Đường đã bắt nhiều ngân hàng phải gồng gánh những khoản cho vay về hạ tầng cơ sở mà hiệu quả rất đáng ngờ".
Ông Heydarian thì nhìn thấy một khía cạnh khác : "Bắc Kinh không cảm thấy cần phải gấp rút đầu tư vì họ đã đạt được những nhượng bộ mà họ muốn từ Manila".
Mai Vân
Nguồn : RFI, 26/11/2018
Chỉ riêng trong hai tháng 9-10/2018 Nhật Bản đã liên tục có những tuyên bố và hành động cụ thể nhằm khẳng định sự gắn bó với quyền tự do hàng hải và hàng không trên Biển Đông, bất chấp sự phản đối của Trung Quốc, luôn cho rằng họ có chủ quyền trên hầu hết vùng biển này.
Tàu chở trực thăng Kaga trong cuộc tập trận ở Ấn Độ Dương ngày 26/09/2018. Reuters/Kim Kyung-Hoon - Ảnh minh họa
Một điểm nổi bật là Tokyo đã không còn ngần ngại trong việc dùng đến quân đội để thực hiện mục tiêu này. Đối với giới phân tích, rõ ràng là Tokyo đang đẩy mạnh chính sách can dự tích cực vào vấn đề Biển Đông được thủ tướng Shinzo Abe đề xướng từ khi ông trở lại cầm quyền từ năm 2012.
Trong bài phân tích "Nhật Bản đối lập với Trung Quốc tại Biển Đông – Japan versus China in the South China Sea", đăng trên trang mạng báo Nhật Bản Nikkei Asian Review ngày 03/10 vừa qua, giáo sư Yoichiro Sato thuộc Đại Học Ritsumeikan Asia Pacific University đã cho rằng Tokyo đi đúng hướng trong việc mở rộng và khẳng định vai trò quân sự của mình trong khu vực, không để cho Bắc Kinh tự do tung hoành.
Tuy nhiên, nhà nghiên cứu này cho rằng Nhật Bản cần phải luôn luôn liên minh chặt chẽ với Washington và các đồng minh của Mỹ, mở rộng hợp tác với các nước trong vùng đồng thời phải thận trọng để tránh một trường hợp như Philippines đã bất ngờ chạy theo Trung Quốc dưới thời tổng thống Duterte hiện nay…
Quyết tâm can dự quân sự
Đối với giáo sư Yoshiro Sato, quyết tâm can dự bằng lực lượng quân sự thể hiện rõ nhất trong vụ Nhật Bản cho tàu ngầm xuống Biển Đông vào trung tuần tháng 9 vừa qua, thậm chí còn tham gia tập trận cùng với một đội chiến hạm Mỹ - Nhật đang có mặt trong khu vực.
Đây được xem là một bước dấn thân mới của Nhật Bản vào vấn đề Biển Đông vì theo giáo sư Sato, đó là lần đầu tiên từ Đệ Nhị Thế Chiến mà một tàu ngầm Nhật Bản xuống tập trận ở Biển Đông.
Một số chuyên gia khác được nhật báo The Japan Times ngày 18/09 trích dẫn còn nhấn mạnh đến sự kiện chưa từng thấy là ngay sau cuộc tập trận, chiếc tàu ngầm Kuroshio của Nhật đã ghé thăm hữu nghị cảng Cam Ranh của Việt Nam, một đối thủ khác của Trung Quốc tại Biển Đông.
Mặt khác, giới lãnh đạo Nhật Bản, từ thủ tướng Abe, cho đến bộ trưởng Quốc Phòng Onodera đều loan báo công khai cuộc tập trận tàu ngầm ở Biển Đông, được giới quan sát cho là nhằm chống lại việc Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông.
Theo giáo sư Sato, đối với những nước công nghiệp lớn khác có lợi ích an ninh ở cấp độ thế giới, thì sự kiện liên quan đến hoạt động của tàu ngầm Nhật Bản đúng là chỉ đáng nêu lên ngắn gọn. Nhưng đối với Tokyo, đó là một động thái quan trọng trong tiến trình phải nói là rón rén hướng đến một vai trò rộng lớn hơn về quốc phòng mà thủ tướng Abe dứt khoát muốn thực hiện.
Cho dù công cuộc điều chỉnh Hiến Pháp chủ hòa chỉ mới ở trong giai đoạn chuẩn bị, nhưng ông Abe đã khéo tận dụng một cách đúng đắn những điều khoản luật hiện hữu để bảo vệ lợi ích của Tokyo.
Giáo sư Sato đánh giá là Nhật Bản đã hành động đúng đắn khi cho mở rộng phạm vi hoạt động, từ vùng biển của mình xuống tận Biển Đông, nơi có những tuyến hàng hải mang tính chất sống còn đối với Nhật Bản về năng lượng và kinh tế. Hơn nữa, đối thủ chiến lược đáng gờm của Nhật là Trung Quốc đang đòi chủ quyền trên các vùng biển đảo của khu vực và gia tăng sự hiện diện quân sự. Dấu hiệu mới nhất cho thấy tình hình căng thẳng leo thang là sự cố tàu chiến Trung Quốc và Mỹ xém đụng nhau ngày 30 tháng 9 vừa qua ở vùng đá Ga Ven có tranh chấp.
Nhật Bản cũng có lý khi gắn liền vai trò đang được mở rộng của mình với vai trò của Mỹ, vì rõ ràng là Nhật chỉ có thể đóng góp phụ thêm cho lực lượng Hải quân Mỹ hùng hậu và quyết đoán hơn nhiều.
Hoạt động gia tăng của Hải Quân Nhật phản ánh việc hai đồng minh cùng đẩy mạnh chiến lược hình thành "Khu vực Ấn Độ Thái Bình Dương tự do và mở", một chiến lược chính trị còn có cả Ấn Độ và Úc cùng tham gia để ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc.
Mối đe dọa Trung Quốc…
Biển Đông đã trở thành đấu trường nơi mà sự va chạm giữa hai chiến lược hạt nhân của Mỹ và Trung Quốc ngày càng gia tăng. Bước đầu tiên mà Trung Quốc đã thực hiện để cải thiện khả năng đánh trả một cuộc tấn công hạt nhân của Mỹ là đã triển khai tàu ngầm chiến lược ở Biển Đông, hoạt động từ một căn cứ ở đảo Hải Nam.
Duy trì năng lực chống tàu ngầm ở Biển Đông để đối phó với các nỗ lực của Trung Quốc là một nhân tố thiết yếu trong chiến lược của Hải Quân Mỹ, một chiến lược trong đó Nhật càng ngày càng đóng một vai trò hữu ích.
Những thách thức gần đây của Trung Quốc đối với tàu chiến Mỹ và Úc trong những chuyến tuần tra bảo vệ quyền tự do hàng hải ở Biển Đông càng khẳng định tính chất xác đáng của những lời cảnh báo mà Tokyo đưa ra theo đó Trung Quốc là một mối đe dọa chiến lược.
Nhật Bản ngày càng tin chắc rằng Trung Quốc coi Biển Động là lãnh hải của mình. Sự vươn lên của Hải Quân Trung Quốc đang đặt ra một thách thức quân sự ngày càng tăng đối với Mỹ, nhưng trước tiên hết, sức mạnh đó được dùng để ép buộc các quốc gia Đông Nam Á phải chấp nhân đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc ở các vùng tranh chấp như chung quanh Trường Sa chẳng hạn.
Đáp trả của Tokyo
Trước sự hiện diên ngày càng mạnh của Hải Quân Trung Quốc ở Biển Đông, Nhật Bản đã đáp trả bằng cả phương cách ngoại giao lẫn quân sự.
Từ năm 2010, Tokyo đã luôn công khai chỉ trích Trung Quốc về tranh chấp Biển Đông, kêu gọi một giải pháp thương lượng giữa các bên tranh chấp trong đó có Việt Nam và Philippines.
Nhật đã làm việc cùng với Mỹ và một số quốc gia Đông Nam Á để nêu lên giải pháp này trong nhiều diễn đàn khu vực như Thượng đỉnh Đông Á hàng năm. Nhật cũng hợp tác với các quốc gia vùng eo biển Malacca, một chốt giao thông đường biển quan trọng, để đảm bảo an toàn cho tàu buôn qua lại nơi này.
Tokyo đã đóng góp cho những hoạt động chống hải tặc trong vùng và giúp phát triển mạng lưới tuần duyên đã được mở rộng ra các nước ven bờ Ấn Độ Dương. Nhật đã cung cấp tàu tuần tra cho Việt Nam và Philippines từ năm 2015, cho dù đã từ chối yêu cầu của Philippines về máy bay do thám và chống tàu ngầm P3-C.
Trên bình diện rộng lớn hơn, tàu chở trực thăng Izumo đã tham gia cuộc tập trận Malabar ở Biển Đông cùng với Hải quân Mỹ và Ấn Độ vào năm 2017. Nội dung rèn luyện cũng là tập trận chống tàu ngầm.
Có điều, như ghi nhận của giáo sư Sato, khả năng phòng không giới hạn của những chiếc tàu chở trực thăng Nhật Bản không cho phép Tokyo đơn phương hành động ở Biển Đông trong trường hợp có tranh chấp thực thụ. Ngay cả khả năng triển khai chiến đấu cơ F-35 trên tàu Kaga - đang được thảo luận ở Tokyo - cũng chỉ mang lại kết quả giới hạn mà thôi. Trong khi thì năng lực quân sự của Trung Quốc phát triển nhanh chóng với những căn cứ xây dựng trên các đảo đá tranh chấp ở Biển Đông.
Tuy nhiên các chiến dịch của Mỹ trong vùng – với sự tham gia của Nhật – đã ngăn được việc Trung Quốc chuẩn bị triển khai chiến đấu cơ và oanh tạc cơ tại đây và Trung Quốc đã luôn phản đối hoạt động của Hải Quân Nhật ở Biển Đông.
Hiến pháp hiện hành cho phép hoạt động quân sự của Nhật…
Chính sách năng nổ mới về mặt an ninh của Nhật vẫn được thực hiện trong khuôn khổ Hiến Pháp chủ hòa. Điều 9 được diễn giải lại năm 2014, đã cho phép Nhật Bản tham gia các hoạt động phòng thủ chung, mở đường cho việc hợp tác với Mỹ hay đồng minh của Mỹ như Úc, khi nổ ra chiến tranh.
Theo cách diễn giải mới, phạm vi địa lý của công cuộc hợp tác đã được mở rộng ra "bên ngoài vùng Châu Á-Thái Bình Dương", và phạm vi nhiệm vụ của Quân Đội Nhật Bản không còn giới hạn ở việc "hỗ trợ từ phía sau".
Giáo sư Sato nhận thấy Nhật Bản đã làm đúng khi dấn thân nhiều hơn vào Biển Đông, trong bối cảnh Hải Quân Mỹ không còn duy trì được uy thế thống trị áp đảo do đà vươn lên của Hải Quân Trung Quốc.
Tokyo do đó đang bổ sung vào những chỗ thiếu sót của Mỹ, cả về năng lực lẫn uy tín, vào lúc mà sự nghi ngờ ngày càng tăng về cam kết của Tổng thống Mỹ Donald Trump đối với Châu Á.
Nhật Bản cũng có lý khi duy trì một sự thận trọng trong việc hợp tác với các quốc gia Đông Nam Á. Nhật Bản đã tránh không cung cấp các phương tiện tấn công quân sự tinh vi, vì điều này hàm chứa nhiều rủi ro.
Việc chuyển giao vũ khí tối tân có thể gây nên tình trạng bất hòa không mong muốn giữa các quốc gia Đông Nam Á vào lúc mà sự đoàn kết giữa các nước này là điều thiết yếu trong việc chống lại Trung Quốc.
Cũng có nguy cơ một nước chuyển hướng đi theoTrung Quốc, như điều đang xẩy ra với Philippines dưới thời tổng thống Rodrigo Duterte.
Đối với giáo sư Sato, Nhật Bản có thể tiếp tục mở rộng vai trò của mình tại khu vực Biển Đông mà không bị lệ thuộc vào tranh cãi chính trị trong nước về việc cải tổ Hiến Pháp.
Tokyo có thể yên tâm hành động khi theo đúng nhiệm vụ hỗ trợ và thúc giục Hoa Kỳ tôn trọng các cam kết đối với an ninh hàng hải ở vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương. Còn việc đơn phương kết nối với các đối tác địa phương trong vùng Biển Đông thì cần phải được tiến hành thận trọng, đặc biệt là khi cung cấp vũ khí tinh vi.
Tóm lại, Hiến Pháp hiện hành cho phép Nhật Bản tăng cường hợp tác với Hoa Kỳ và các đồng minh của Mỹ, đồng thời ngăn cản không cho Tokyo lún sâu vào những mối quan hệ đầy rủi ro với các đối tác địa phương khó lường.
Mai Vân
Nguồn : RFI, 16/10/2018
Từ những lời đả kích công khai ngay trước lúc bước vào vòng hội đàm, cho đến vẻ mặt khó đăm đăm trước ống kính của báo giới, cách hành xử không mấy ngoại giao của ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị vào hôm qua, 08/10/2018 khi đón tiếp đồng nhiệm Mỹ Mike Pompeo tại Bắc Kinh quả là tỷ lệ thuận với sự ấm ức của Trung Quốc trước các đòn tấn công dồn dập của Hoa Kỳ trong thời gian gần đây.
Donald Trump (Mỹ) - Enrique Pena Nieto (Mexico) - Justin Trudeau (Canada)
Không chỉ áp thuế trên hàng hóa Trung Quốc nhập khẩu vào Mỹ, không chỉ điều động Hải Quân và Không Quân tuần tra và tập trận trên các vùng biển Hoa Đông và Biển Đông bao quanh Trung Quốc, hai nhà lãnh đạo số 1 và số 2 của Hoa Kỳ còn công khai lên tiếng tố cáo Bắc Kinh gây hại cho nước Mỹ.
Báo chí đã nói nhiều về bài điễn văn nẩy lửa của phó tổng thống Mỹ Mike Pence, vạch trần các hành vi của Trung Quốc bị Mỹ cho là sai trái, hay lời cáo buộc Bắc Kinh của chính tổng thống Donald Trump ngay trên diễn đàn của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Thế nhưng, mới đây, Washington đã lẳng lặng tung ra một ngón đòn kinh tế được cho là rất hiểm hóc nhắm vào Trung Quốc làm Bắc Kinh phải nhức đầu : Đó là dùng thỏa thuận thương mại vừa ký với Canada và Mexico để hạn chế ảnh hưởng của Trung Quốc, trước mắt là tại khu vực Bắc Mỹ.
Thỏa thuận NAFTA mới - USMCA : rào cản đối với Trung Quốc
Trong bài phân tích hôm 03/10, ít lâu sau khi thỏa thuận thương mại ba bên Mỹ, Canada và Mexico được ký kết, hãng tin Anh Reuters đã trích dẫn giới quan sát cho rằng "hy vọng của Trung Quốc đàm phán được các thỏa thuận tự do mậu dịch với Canada hay Mexico đã bị Hoa Kỳ đánh bật bằng một điều khoản trong thỏa thuận thương mại mới giữa Mỹ, Mexico và Canada, cấm đàm phán tự do mậu dịch với những nước không có quy chế kinh tế thị trường.
USMCA thay thế NAFTA
Điều khoản này quy định rõ là nếu như một thành viên của NAFTA đàm phán tự do mậu dịch với một quốc gia không phải là kinh tế thị trường, thì các đối tác còn lại có thể rút ra khỏi thỏa thuận trong vòng sáu tháng và thiết lập thỏa thuận song phương của riêng mình.
Theo nhận định giới chuyên gia thương mại, điều khoản này rõ ràng là phù hợp với nỗ lực của tổng thống Mỹ Donald Trump, hiện đang cố cô lập Trung Quốc trên bình diện kinh tế, và muốn ngăn không cho các tập đoàn Trung Quốc sử dụng Canada hay Mexico như là "cửa hậu" để đưa hàng miễn thuế vào nước Mỹ, trong lúc Washington và Bắc Kinh đang lao vào một cuộc chiến thương mại với những đợt áp thuế ngày càng nghiêm ngặt hơn.
Theo điều khoản nói trên, các nước trong khối NAFTA mới được cải danh thành khối USMCA – tức là Thỏa Thuận Mỹ- Mexico - Canada, phải thông báo cho đối tác của mình 3 tháng trước khi đi vào đàm phán với các quốc gia không có quy chế kinh tế thị trường bị điều khoản cấm đoán.
Chuyên gia Derek Scissors, ở Viện American Enterprise Institute tại Washington, nhận định là thỏa thuận này cho chính quyền Trump quyền phủ quyết trong thực tế về mọi cuộc đàm phán thương mại của Trung Quốc với Canada hay Mexico.
Và nếu nội dung điều khoản đó được lập lại trong những cuộc đàm phán khác của Mỹ với Châu Âu hay Nhật Bản, thì điều đó sẽ có thể giúp cô lập Trung Quốc trong hệ thống thương mại toàn cầu, vì đó là hai thị trường quan trọng trên thế giới hiện nay.
Theo ông Scissors, đối với cả Canada lẫn Mexico, một thỏa thuận tự do mậu dịch giữa hai nước này với Trung Quốc là một khả năng hoàn toàn có thể xẩy ra. Dù khả năng đó không phải là trước mắt, nhưng rõ ràng là Mỹ đã có một phương cách ‘lịch sự’ để ngăn chặn, vì không một thỏa thuận nào với Trung Quốc đáng để bỏ rơi một hiệp định Mỹ-Mexico-Canada vừa được phê chuẩn".
Theo nhận định của Reuters, như vậy là sau hàng tháng trời đánh vào các đồng minh phương Tây trên bình diện thương mại, chính quyền của tổng thống Trump giờ đây đang cố lôi kéo họ cùng tham gia vào việc gây sức lên Trung Quốc để buộc Bắc Kinh cải thiện cung cách làm thương mại, giải quyết vấn đề trợ cấp các doanh nghiệp Trung Quốc, tôn trong quyền sở hữu trí tuệ, phù hợp hơn với một nền kinh tế thị trường đích thực.
Thế yếu của Trung Quốc
Trong thời gian qua, Bắc Kinh đã yêu cầu Tổ Chức Thương Mại Thế Giới OMC công nhận Trung Quốc là một nền kinh tế thị trường từ khi thỏa thuận gia nhập tổ chức thương mại của Bắc Kinh hết hạn vào tháng 12/2016. Việc Trung Quốc có được quy chế kinh tế thị trường có thể giới hạn rất nhiều những đòn chống trả của phương Tây trước hàng giá rẻ của Trung Quốc.
Yêu cầu của Trung Quốc đã không được Mỹ và Châu Âu đồng ý, với lý do là các khoản trợ cấp của nhà nước Trung Quốc cho doanh nghiệp của họ đã tạo điều kiện cho việc sản xuất công nghiệp quá tải cũng như việc loại trừ cạnh tranh của nước ngoài... Các điểm này đã cho thấy rõ là Trung Quốc vẫn chưa là một nền kinh tế thị trường.
Nhật báo Mỹ Washington Examiner, hôm 07/10 vừa qua đã không ngần ngại cho rằng với Hiệp Định NAFTA mới, chính quyền Trump đã tìm được một công cụ mới trong cuộc chiến thương mại với Trung Quốc : Sử dụng các thỏa thuận tương tự như Hiệp định mới giữa ba nước Mỹ, Mexico và Canada (USMCA) để tìm cách hạn chế việc Trung Quốc thương lượng các hiệp định tự do mậu dịch với các đối tác thương mại.
Theo tờ báo Mỹ, nằm tít ở cuối của bản hiệp định, trong phần nói về các thỏa thuận tự do mậu dịch với các nước không có nền kinh tế thị trường, có quy định là hiệp định NAFTA mới sẽ không còn giá trị khi bất kỳ một nước nào trong số ba thành viên của khối ký thỏa thuận mậu dịch với một đất nước, mà chỉ cần một trong 3 thành viên đánh giá là không phải là một nền kinh tế thị trường, ví dụ như Trung Quốc.
Nói cách khác, Hoa Kỳ đã ngăn chặn trước việc Mexico và Canada ký bất kỳ một thỏa thuận thương mại nào với Trung Quốc. Nếu hai nước này vẫn cứ xúc tiến thì Nhà Trắng có thể phá vỡ USMCA thành 2 mảnh song phương, điều mà ông Trump trước đây cho là nằm trong chủ trương của ông.
Tổng thống Trump muốn lập chiến tuyến chống Trung Quốc
Giới chuyên gia về thương mại cho là họ chưa từng thấy một điều khoản nào như thế trước đây, ngay cả dưới dạng khái niệm.
Chuyên gia Gary Hufbauer, thuộc Viện Kinh tế Quốc tế Peterson ghi nhận : "Đây là một điều hoàn toàn mới mẻ trong một thỏa thuận thương mại". Theo ông đó chính là "đòn Chiến Tranh Lạnh mới nhất mà chính quyền Mỹ tung về phía Trung Quốc".
Đối với các nhà phân tích, Trung Quốc rõ ràng là đối tượng bị tấn công, vì nhóm từ nền kinh tế phi thị trường được sử dụng trong luật phá giá của Mỹ để chỉ Trung Quốc.
Theo ông Dan Griswold, giám đốc tại Trung Tâm Mercatus, đại học George Mason, tổng thống Trump đã tranh thủ việc Canada và Mexico cần duy trì quan hệ với Mỹ, để ngăn chận không để cho họ liên minh thương mại với Trung Quốc.
Đối với ông Griswold, tuy chưa thấy điều khoản này có lợi như thế nào đối người tiêu dùng ở Mỹ, nhưng cuối cùng thì những loại điều khoản này có thể có lợi cho Mỹ, nếu như có nhiều nước khác đi theo và có thể gây đủ sức ép để buộc Trung Quốc thay đổi chính sách.
Chính quyền Mỹ đang cố đưa những điều khoản tương tự vào trong các hiệp định đang đàm phán với các nước có giao dịch với Trung Quốc, như Nhật Bản chẳng hạn.
Nếu Mỹ thành công thì Trung Quốc sẽ khó có khả năng luồn lách để né tránh các sắc thuế mà Mỹ áp đặt.
Đối với ông Hugo Perezcano Diaz, phó giám đốc chương trình Nghiên Cứu Luật Quốc Tế tại Canada, thông điệp mà Mỹ muốn gởi đến các đối tác thương mại rất rõ : Đó là "Mỹ không muốn họ thương thảo với Trung Quốc. Và thông điệp gởi đến Bắc Kinh cũng rất rõ : Mỹ đang huy động các đối tác thương mại và lập một chiến tuyến chống Trung Quốc".
Nếu thỏa thuận USMCA bị phá vỡ vì một hay hai đối tác không tôn trọng điều khoản về kinh tế phi thị trường và đàm phán với Trung Quốc, thì Mỹ sẽ sử dụng đòn bẩy của mình đã phá hoại mọi thỏa thuận mà nước đó đàm phán với Trung Quốc trong khi đang phải thương thảo với Mỹ về một hiệp định nhằm thay thế USMCA.
Trong kịch bản đó, Canada hay Mexico sẽ thương lượng riêng rẽ với Mỹ và bị rơi vào thế yếu hơn là khi đàm phán về USCMA mà cả hai hợp sức đương đầu với Mỹ.
Các nhà phân tích nhận thấy là tuy USMCA chỉ liên quan đến Canada và Mexico, nhưng đó là một phần trong chính sách thương mại rộng lớn hơn mà Nhà Trắng muốn thực hiện để đối phó với điều xem là ‘hành vi ăn cướp’ của Trung Quốc.
Mai Vân
Nguồn : RFI, 09/10/2018