Người Việt ở cả trong lẫn ngoài Việt Nam đang cố gắng xác định xem tại sao hệ thống truyền thông chính thức lại đồng loạt đề cập đến cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược biên giới phía Bắc Việt Nam cách nay 40 năm (17/02/1979 – 17/02/2019). Rõ ràng là hệ thống đèn tín hiệu trong tuyên truyền về quan hệ Việt – Trung đã chuyển từ đỏ sang xanh nhưng cho đến giờ, vì sao thì chỉ là những… đồn đoán !
Phái đoàn Việt Nam và Trung Quốc tham gia Hội nghị Thành Đô ngày 03/09/1990.
Kể từ đầu thập niên 1990, sau khi Việt Nam "bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc", cuộc chiến vệ quốc kéo dài từ 1979 đến 1988 trở thành một trong những chủ đề cấm kỵ. Chẳng riêng hệ thống truyền thông chính thức, hệ thống giáo dục, văn nghệ sĩ cũng phải làm ngơ. Không ai được phép để công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ… ngộ nhận về Trung Quốc như một hiểm họa tiềm ẩn đối với vận mệnh quốc gia, tương lai dân tộc.
Đã có một số người cho rằng, sở dĩ hệ thống truyền thông chính thức ở Việt Nam đang đồng loạt "xông lên", thậm chí đài truyền hình quốc gia, đài phát thanh quốc gia hăm hở phát lại những lời hiệu triệu, những nhạc phẩm từng được phát rộng rãi cách nay 40 năm, kêu gọi toàn quân, toàn dân theo đảng bảo vệ biên cương, vô hiệu hóa dã tâm của Trung Quốc là vì bối cảnh chính trị, tương quan giữa thế và lực trong khu vực đang thay đổi… Một số người khác thì cho rằng, hệ thống truyền thông chính thức ở Việt Nam được phép "ôn cố" vì năm nay là năm chẵn – tròn 40 năm tính từ ngày Trung Quốc xua đại quân tràn sang Việt Nam, dạy cho Việt Nam một bài học…
Những nhận định, lý giải theo hướng đó dường như không ổn lắm. Đâu phải đến bây giờ bối cảnh chính trị, tương quan giữa thế và lực trong khu vực mới thay đổi. Việt Nam đã mất toàn bộ quần đảo Hoàng Sa năm 1974, mất phần quan trọng nhất ở quần đảo Trường Sa vào cuối thập niên 1980. Bảy bãi đá mà Trung Quốc cưỡng đoạt của Việt Nam năm 1988 đã trở thành bảy căn cứ quân sự, khống chế toàn bộ biển Đông. Khi đường ra biển của ngư dân Việt Nam bị thu hẹp, ngư nghiệp trở thành èo uột. Nợ Trung Quốc được phán đoán là càng ngày càng lớn, dấu hiệu lệ thuộc Trung Quốc về chính trị - kinh tế càng ngày càng rõ, tại sao không ai được bình phẩm, cảnh báo ? 40 năm là chẵn nhưng chẳng lẽ 30 năm, 20 năm không… chẵn ? Thế thì tại sao trước đây vẫn phải làm ngơ ?
***
Không phải tự nhiên nhiều người Việt ở cả trong lẫn ngoài Việt Nam cùng cho rằng, hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam "hèn với giặc, ác với dân". Năm 2014, sự âu lo chuyển thành phẫn nộ, lan rộng đến cả cán bộ, đảng viên, giới lão thành cách mạng, sau khi Tân Hoa Xã và Hoàn Cầu Thời Báo đồng loạt tiết lộ một phần "Kỷ yếu Hội nghị Thành Đô" :
"Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa cộng sản, Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam sẽ cố gắng hết sức mình để vun đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp trong quá khứ. Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây… Phía Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc" (1).
Rất khó phân định thông tin của Tân Hoa Xã, Hoàn Cầu Thời Báo là thực hay hư nhưng cách hành xử của hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam khiến sự ngờ vực càng ngày càng lớn. Cho dù uy tín của hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam sút giảm nghiêm trọng, cho dù có rất nhiều ông tướng hữu công, cán bộ lão thành cách mạng yêu cầu bạch hóa "Mật ước Thành Đô" nhưng hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam vẫn im lặng. Thay vì bạch hóa "Mật ước Thành Đô" hoặc công khai phản bác "luận điệu bịa đặt với ý đồ kích động, gây bức xúc trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân" của Tân Hoa Xã, Hoàn Cầu Thời Báo, hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam chỉ phát hành một "tài liệu lưu hành nội bộ", khẳng định : "Không hề có cái gọi là thỏa thuận Việt Nam sẽ thành khu tự trị thuộc Trung Quốc" và nhấn mạnh : "Hội nghi Thành Đô thể hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của đảng ta, góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước" (2).
Năm tới là 2020 – thời điểm mà theo Tân Hoa Xã và Hoàn Cầu Thời Báo, Việt Nam sẽ hoàn tất việc chuẩn bị để trở thành một Khu Tự trị của Trung Quốc. Dẫu cho sự âu lo và phẫn nộ của công chúng càng ngày càng lớn, dẫu cho sự kiện hệ thống truyền thông chính thức đã và đang đồng loạt đề cập đến cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược biên giới phía Bắc Việt Nam cách nay 40 năm (17/02/1979 – 17/02/2019), sẽ cung cấp cho hệ thống tuyên giáo bằng chứng cần thiết để "đập tan" những chỉ trích, trấn an những nghi ngại về "Mật ước Thành Đô" nhưng không thể chỉ vì thế mà đoan chắc, đó là lý do hệ thống đèn tín hiệu trong tuyên truyền về quan hệ Việt – Trung đột nhiên chuyển từ đỏ sang xanh.
***
Giới lãnh đạo hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam luôn luôn "tài tình, sáng suốt", luôn luôn có giải pháp để chuyển nguy thành an.
Trước, người Việt phải cùng nhau thực thi "tinh thần bốn tốt" (láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt), tụng niệm "16 chữ vàng" (láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai) vì Việt Nam và Trung Quốc có một "di sản quý báu là sự tương đồng ý thức hệ". "Đặc trưng của ý thức hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc là một Đảng cộng sản lãnh đạo". Chính "điểm tương đồng đó đã tạo ra mối quan hệ đặc biệt giữa Việt Nam và Trung Quốc", "chi phối cách ứng xử của hai nước" bởi "nếu có được một người bạn xã hội chủ nghĩa rất lớn bên cạnh ủng hộ và hợp tác cùng có lợi thì sẽ vô cùng thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" (3). Để khuynh hướng ghét Trung Quốc trở thành phổ biến, ngại nói điều tích cực về Trung Quốc là "nguy hiểm cho dân tộc" vì "bảo vệ chủ quyền lãnh thổ vẫn phải bảo vệ hòa bình, ổn định chính trị, thành quả cách mạng và giữ quan hệ hữu nghị với Trung Quốc, tăng cường phát triển toàn diện kinh tế - xã hội đất nước" (4).
Nay, đồng loạt nhắc lại cuộc chiến vệ quốc 40 năm trước, chủ yếu là đề cao tinh thần ái quốc của người Việt. Trấn an người Việt rằng khi họ luôn sẵn sàng theo… đảng, hy sinh tất cả để bảo vệ lãnh thổ thì ngoại xâm chẳng bao giờ là họa. Những chuyện như thường dân bị thảm sát, các thị xã, thị trấn, làng mạc ở khu vực biên giới bị san thành bình địa vì "không ai nghĩ đang là ‘đồng chí’ lại đánh nhau" như ông Vương Dương Tường, Bí thư Cao Bằng giai đoạn 1979 - 1992 từng thú nhận là… không được phép (5). Chưa biết đúng ngày 17 tháng 2, các viên chức lãnh đạo hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam có đến thắp hương tưởng niệm những người Việt đã bỏ mình trong cuộc chiến vệ quốc cách nay 40 năm hay không (?). Chắc là không vì điều đó không có lợi cho quan hệ hữu nghị với Trung Quốc, dùng truyền thông "đối nội" là tình thế, không thể gây bất lợi trong… "đối ngoại". Còn nếu có thì đó là thừa.
Làm sao có thể tin vào những thẻ nhang, vòng hoa, diễn văn bày tỏ sự biết ơn khi vẫn còn khoảng 2.500 hài cốt liệt sĩ đang phơi mưa nắng tại các cao điểm 1.800A, 1.800B, 1.722, 1.220, 1.030… mà hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam không thèm bận tâm đến chuyện mang về. Tháng 11 năm 2017, tướng Sùng Thìn Cò – Phó Tư lệnh Quân khu 2 đồng thời là đại biểu của tỉnh Hà Giang tại Quốc hội khóa 14, từng khẩn khoản xin Quốc hội cấp tiền cho Bộ Quốc phòng và Quân khu 2 một lần để đưa hết toàn bộ hài cốt các liệt sĩ về với gia đình, về với quê hương (2) nhưng chẳng ai thèm đoái hoài. Ngoài Hà Giang với 2.500 hài cốt đang phơi mưa nắng, bao giờ thì hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam tính đến chuyện tìm kiếm, an táng hài cốt những liệt sĩ tử trận ở Cao Bằng, Lạng Sơn trong giai đoạn 1979 - 1981 ? Chắc chắn là còn lâu. Trong nhận thức của những người cộng sản Việt Nam, bán đất để có tiền xây dựng những công viên, tượng đài tưởng niệm… Fidel Castro hữu lý hơn.
Cho rằng hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam "hèn với giặc, ác với dân" dường như không đúng. Những hệ thống đó không "hèn" cũng chẳng "ác" mà duy lợi. Duy lợi nên không bận tâm đến vận mệnh quốc gia, tương lai dân tộc, không trước, không sau, không tình đồng chí, chẳng nghiã đồng đội. Mục tiêu duy nhất, trước sau như một vẫn chỉ nhằm duy trì được đặc quyền lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối tại Việt Nam để một số cá nhân thủ đắc đặc lợi. Chỉ thế mà thôi !
Trân Văn
Nguồn : VOA, 15/02/2019
Chú thích :
(1) https://vi.wikipedia.org/wiki/Hội_nghị_Thành_Đô
(2) https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2014/10/141014_chengdu_meeting_circular
(3) http://tuoitre.vn/khong-ai-quen-loi-ich-quoc-gia-dan-toc-527794.htm
(5) https://daotuanddk.wordpress.com/2014/02/13/hoa-dao-bien-vien/
Trên VOA hôm 13/12 nhà báo Lê Anh Hùng có viết bài "Nên hiểu Mật ước Thành Đô như thế nào" ? Theo đó tác giả đối chiếu với một số "sự kiện" là "lời khai" của các nhân chứng bên Việt Nam, rồi cho rằng "mật ước này thiếu cơ sở"... Tác giả đồng thời cũng cho rằng đó "là một câu chuyện bịa đặt nhằm phục vụ mưu đồ đen tối của Trung Nam Hải"... nhằm để "tuyên truyền cho giàn khoan HD 981"...
Hai ông Tập Cận Bình và Nguyễn Phú Trọng duyệt binh ngày 12/11/2017 tại Hà Nội
Theo tác giả "Mật ước Thành Đô" nếu là sự thật "thì nó cũng không có giá trị pháp lý, bởi nó không tuân theo những trình tự pháp lý thông thường của một hiệp ước giữa hai quốc gia. Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười hoàn toàn không đủ chính danh để đóng dấu hiệu lực vào một hiệp ước vô cùng hệ trọng như thế. Trong khi đó, những người ký kết "mật ước" đó hoặc đã chết, hoặc gần như không còn ảnh hưởng trên chính trường, nên nó lại càng vô giá trị".
Sau lễ đón chính thức ngày 12/11/2017, tại Trụ sở Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, hai phái đoàn Việt Nam - Trung Quốc tiến hành hội đàm.
Tác giả cũng cho rằng "nếu các bản tuyên bố chung Việt - Trung xưa nay luôn được Hà Nội thực hiện đúng thì Việt Nam đã trở thành "một bộ phận không thể tranh cãi của Trung Quốc" từ lâu, chứ chẳng cần phải đợi đến khi "Mật ước Thành Đô" được thi hành".
Theo tôi các ý kiến của nhà báo Lê Anh Hùng trong bài viết này cần phải được thảo luận lại.
"Mật ước Thành Đô" được cho là văn kiện ký kết giữa lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam với lãnh đạo Trung Quốc từ năm 1990. Vấn đề là đến nay người ta chỉ nghe nói về mật ước này, chứ chưa thấy ai lên tiếng khẳng định là đã từng thấy nó.
Trang BBC tiếng Việt đã từng có nhiều bài báo nói về "mật ước Thành Đô". Đặc biệt bài viết ngày 14 tháng mười năm 2014 ghi nhận tin tức từ báo chí Trung Quốc, trong đó có đoạn dẫn Tân Hoa Xã và Hoàn cầu thời báo. Nội dung nguyên văn như sau :
"Truyền thông Trung Quốc, trong đó có Tân Hoa Xã và Hoàn cầu Thời báo, đã đưa tin rằng ở cuộc gặp nhằm bình thường hóa quan hệ hai nước này, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã ‘sẵn sàng chấp nhận để Việt Nam làm một khu tự trị của Trung Quốc’".
Các cơ quan ngôn luận của Việt Nam không có một lời nào về bài báo của BBC để xác định, hay phủ định nội dung trên Tân Hoa Xã và Hoàn Cầu thời báo. Ban Tuyên giáo hay phát ngôn nhân Bộ ngoại giao cũng không có lời nào phê bình chính thức, mặc dầu Tân Hoa Xã là "cái loa chính thức" của đảng và nhà nước Trung Quốc. Ngoài một văn bản "không có địa chỉ nơi gởi" (nói là của ban Tuyên giáo trung ương) được lưu truyền trên mạng, cho rằng tin tức đó là "bịa đặt, tuyên truyền".
Nếu xem lại các tài liệu như "Hồi ký Trần Quang Cơ", ta thấy nhà ngoại giao này có nói về "hội nghị Thành Đô", nhưng nội dung chỉ xoay quanh vấn đề Campuchia. Nhiều "nhân chứng" khác phía Việt Nam cũng có ý kiến tương tự.
"Mật ước Thành Đô" như vậy là hiện hữu. Câu hỏi đặt ra là có hay không có cam kết "Việt Nam làm khu tự trị của Trung Quốc", như Tân Hoa xã và báo chí Trung Quốc đã đề cập ?
Theo tôi thì các nhận xét và kết luận của tác giả Lê Anh Hùng là khá "chủ quan". Ta đâu thể chỉ dựa vào "lời khai" của một bên, cũng như dựa vào một văn bản "không có địa chỉ người gởi", để có thể khẳng định như "đinh đóng cột" rằng "mật ước Thành Đô" là chuyện bịa đặt nhằm phục vụ mưu đồ đen tối của Trung Nam Hải" ?
Nói vậy thì những nhà nghiên cứu muốn tìm hiểu sự thật về Hội nghị Thành Đô, hay sự thật về ông Hồ Chí Minh, khi họ sử dụng tài liệu từ phía Trung Quốc, thì họ "phục vụ cho mưu đồ đen tối" của Trung Quốc hay sao ?
Đã gọi là "mật ước", theo tập quán quốc tế, thì cho đến khi những điều cam kết chưa được hai bên thực hiện đầy đủ, "mật ước" không có lý do gì phải "bạch hóa" nó.
Đâu phải là không ai thấy nó thì "mật ước" này không có ?
Mật ước Yalta, ký kết giữa lãnh đạo các cường quốc là Joseph Stalin, Franklin D. Roosevelt và Winston Churchill vào tháng hai năm 1945. Gọi là "mật ước" vì nội dung không công bố.
Mật ước được "bạch hóa" năm 1951 nhân hội nghị San Francisco về Nhật Bản. Mật ước quyết định số phận các "vùng lãnh thổ", quốc gia can dự vào cuộc đại chiến, đồng thời phân định "vùng ảnh hưởng" của các đại cường thuộc phe thắng trận. Việc phân chia hai vùng Châu Âu bằng "bức màn sắt" là hệ quả của mật ước này. Nga và Nhật không đồng ý về số phận quần đảo Kouriles, vì vậy "mật ước" mới được "bạch hóa".
Cũng theo tập quán quốc tế, tầm cỡ ông Trần Quang Cơ, thứ trưởng Bộ ngoại giao lúc Hội nghị Thành Đô, là "không đủ tư cách" để bàn luận những điều cơ mật, trọng đại. Chỉ có Đổ Mười, Nguyễn Văn Linh (và Phạm Văn Đồng), những người lãnh đạo tối cao đảng và nhà nước, là những người có thẩm quyền ký kết một "mật ước", với những điều ước mà nội dung liên quan đến những vấn đề thuộc thẩm quyền của họ.
Ba ông Mười, Linh và Đồng có thẩm quyền ký một hiệp ước có nội dung "nhìn nhận Việt Nam là một khu tự trị của Trung Quốc" hay không ?
Người ta hoài nghi điều này có thể xảy ra trong một "quốc gia bình thường". Nhưng đối với một chế độ cộng sản thì việc gì cũng có thể. Năm 1954 Khrouchtchev sáp nhập Crimée vào Ukraine. Năm 1958 Phạm Văn Đồng đã ký văn bản nhìn nhận Hoàng Sa và Trường Sa, cùng vùng biển chung quanh, là của Trung Quốc. Trước công pháp quốc tế, các văn bản này có giá trị thi hành.
Ý kiến của tác giả Lê Anh Hùng : "Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười hoàn toàn không đủ chính danh để đóng dấu hiệu lực vào một hiệp ước vô cùng hệ trọng như thế. Trong khi đó, những người ký kết "mật ước" đó hoặc đã chết, hoặc gần như không còn ảnh hưởng trên chính trường, nên nó lại càng vô giá trị".
Theo tôi, kết luận như vậy là không có cơ sở khoa học pháp lý. Hai ông Mười và Linh là lãnh đạo tối cao về mặt đảng và nhà nước. Hai ông này (hợp lại) có thể ký mọi văn bản, vì hai ông có thẩm quyền trên mọi vấn đề của Việt Nam. Ngay cả các ông này chết đi, các văn bản ký kết không vì vậy mà "xóa bỏ". Bởi vì hai ông này ký với danh nghĩa của "quốc gia Việt Nam" chớ không phải với tư cách "cá nhân".
Tác giả cũng dẫn sự kiện giàn khoan HD 981, cho rằng ý kiến "Việt Nam làm khu tự trị của Trung Quốc" là "bịa đặt tuyên truyền" là "mưu đồ của Trung Nam Hải".
Theo tôi, đến nước này mà còn nói về "giàn khoan HD 981" mà bỏ qua việc mở rộng, xây dựng các bãi đá của Trung Quốc ở Trường Sa thành các cứ điểm quân sự, là "thấy khói mà không thấy lửa", thấy diện mà không thấy điểm.
Vụ giàn khoan HD 981, hai bên Việt Nam và Trung Quốc "diễn tuồng hát bội", cho tàu bè xịt nước vào nhau, tuyên bố phản đối này kia… để che giấu một âm mưu trọng đại. Cùng thời điểm, xích về phía nam, khu vực Trường Sa, Trung Quốc ráo riết cho bồi đắp các bãi đá (chiếm của Việt Nam năm 1988). Việt Nam không có một lời nào về sự kiện nay. Cho tới khi, tại diễn đàn Shangri La năm 2015, lãnh đạo các đại cường đều lên tiếng phản đối việc Trung Quốc xây dựng đảo, chỉ trích việc này làm "nguy hiểm cho an ninh khu vực". Trong khi đại tướng Phùng Quang Thanh thì trấn an dư luận, cho rằng việc đó là chuyện "nội bộ anh em".
Về ý kiến cho rằng "nếu các bản tuyên bố chung Việt - Trung xưa nay luôn được Hà Nội thực hiện đúng thì Việt Nam đã trở thành "một bộ phận không thể tranh cãi của Trung Quốc" từ lâu, chứ chẳng cần phải đợi đến khi Mật ước Thành Đô được thi hành".
Ý kiến này có lẽ nhằm phản biện bài viết của tôi hôm kia trên Facebook. Vì tôi dẫn nội dung bản tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc ký giữa ông Trọng và Tập Cận Bình đầu năm 2017 để kết luận rằng ông Nguyễn Phú Trọng "phản bội tổ quốc".
Vấn đề là trong tất cả các tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc ký kết từ trước đến nay, ta không thấy bản tuyên bố nào có nội dung tương tự như tuyên bố 2017 ký giữa ông Tập Cận Bình và Nguyễn Phú Trọng. Dẫn lại như sau :
"Hai bên cho rằng, Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có truyền thống hữu nghị lâu đời,... có chế độ chính trị tương đồng, ... có tiền đồ tương quan, chia sẻ vận mệnh chung…".
Khi hai quốc gia có "tiền đồ tương quan, khi hai dân tộc có "vận mệnh chung" thì hai quốc gia đó là một, hai dân tộc đó là một.
Vấn đề là các "tuyên bố chung" có được thực hiện hay không ?
Kiểm chứng lại tất cả các tuyên bố chung đã được công bố, ta thấy không có điều khoản nào mà không được hai bên "thi hành".
Việc "thi hành" các điều trong bản "tuyên bố chung" giữa lãnh đạo đảng luôn được thể hiện qua các hiệp ước, các công ước... do các lãnh đạo nhà nước ký kết.
Ngay cả những cam kết tệ hại nhứt, như tuyên bố 2008 giữa Nông Đức Mạnh và Hồ Cẩm Đào, vụ khai thác Bôxit Đắc Nông đã gây thiệt hại cho Việt Nam không kể xiết, về môi trường cũng như về hiệu quả kinh tế. Việt Nam không thể ngưng vì đó là "chủ trương lớn" của đảng.
Các dự án về kinh tế, như dự án "Hai hành lang, một vành đai kinh tế", đã khiến các tỉnh như Hải Phòng, các tỉnh khu vực biên giới… hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Quốc.
Tôi đề nghị với nhà báo Lê Anh Hùng là hãy rà soát tất cả các bản tuyên bố chung giữa Việt Nam và Trung Quốc, rồi đưa ra một nội dung nào tương tự với tuyên bố 2017 : "Hai bên cho rằng, Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có truyền thống hữu nghị lâu đời,... có chế độ chính trị tương đồng, ... có tiền đồ tương quan, chia sẻ vận mệnh chung…".
Tôi cũng đề nghị rằng, tác giả thử đưa ra một cam kết nào, trong bất kỳ bản tuyên bố chung nào, mà cam kết này không được hai bên thi hành.
Theo tôi, muốn bênh vực ông Nguyễn Phú Trọng ta có trăm ngàn cách. Nhưng đừng bao giờ bênh vực theo kiểu "cầm đèn chạy trước", hay với những luận điệu "chụp mũ" người khác là "phục vụ mưu đồ đen tối của Trung Nam Hải" như vậy.
Hội nghị Thành Đô là một chủ đề gây rất nhiều tranh cãi ở Việt Nam cũng như trong các cộng đồng người Việt hải ngoại suốt nhiều năm qua.
Hội nghị Thành Đô đã diễn ra trong bí mật.
Chỉ 4 ngày sau khi được Đại sứ Trung Quốc thông báo, ba nhà lãnh đạo Việt Nam là Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng đã có mặt tại Thành Đô (thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc) vào đúng ngày Quốc khánh lần thứ 45, trong khi Đặng Tiểu Bình thậm chí không thèm xuất hiện như lời hứa hẹn lấp lửng ban đầu.
Bối cảnh
Cuối thập niên 1980, hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu bắt đầu chao đảo trước khi sụp đổ hàng loạt.
Về phần mình, mặc dù đã thực hiện cải cách kinh tế từ sau Đại hội VI nhưng Việt Nam vẫn chưa thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng trầm trọng về chính trị - kinh tế - xã hội vốn bắt đầu ngay từ năm 1975.
Lo sợ cho số phận của mình và tự huyễn hoặc "dù bành trướng thế nào thì Trung Quốc vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa", một số nhân vật chủ chốt trong ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, đã quay sang ôm chân các ông chủ Trung Nam Hải, bất chấp thực tế là trước đó Bắc Kinh đã đánh chiếm toàn bộ Hoàng Sa năm 1974, phát động cuộc chiến tranh biên giới từ 1979 - 1989, thảm sát 64 quân nhân Việt Nam rồi chiếm đảo Gạc Ma năm 1988.
Mật ước Thành Đô ?
Từ nhiều năm trước, trong dư luận đã lan truyền thông tin rằng kết quả Hội nghị Thành Đô là một bản mật ước, theo đó lãnh đạo cộng sản Việt Nam đề nghị và lãnh đạo Trung Quốc đồng ý để Việt Nam trở thành một khu vực tự trị của Trung Quốc.
Đến tháng 5/2014, một số trang mạng thậm chí còn đăng tải nội dung của bản "mật ước" (được cho là do Hoàn Cầu Thời Báo và Tân Hoa Xã công bố) : "…Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây….
Phía Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.…"
Đâu là sự thật ?
Trong cuốn hồi ký "Hồi ức và Suy nghĩ" của mình, cựu Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ đã tiết lộ : "Sau 2 ngày nói chuyện (3 - 4/9/1990), kết quả được ghi lại trong một văn bản gọi là ‘Biên bản tóm tắt’ gồm 8 điểm. Khi nghiên cứu biên bản 8 điểm đó, chúng tôi nhận thấy có tới 7 điểm nói về vấn đề Campuchia, chỉ có 1 điểm nói về cải thiện quan hệ giữa hai nước mà thực chất chỉ là nhắc lại lập trường cũ của Trung Quốc gắn việc giải quyết vấn đề Campuchia với bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc".
Nghĩa là, Hội nghị Thành Đô kết thúc song việc bình thường hoá quan hệ hai nước, điều mà ban lãnh đạo Việt Nam nóng lòng mong đợi, vẫn chưa chốt lại được. Vì thế, giả thuyết về bản "mật ước" kia rõ ràng là thiếu cơ sở.
Thậm chí ngay cả "Biên bản tóm tắt" 8 điểm nói trên cũng không được phía Việt Nam thực hiện đầy đủ. Nguyên nhân chủ yếu là do sự phản đối của Bộ Ngoại giao dưới quyền Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch, với sự đồng tình của một vài ủy viên Bộ Chính trị khác, như Thứ trưởng Trần Quang Cơ đã thuật lại trong hồi ký. (Trong cuộc họp kiểm điểm về Hội nghị Thành Đô, Phó Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nói : "…Mình bị nó lừa nhiều cái quá. Tôi nghĩ Trung Quốc chuyên là cạm bẫy").
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh (Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc từ năm 1974-1987) cho biết là mặc dù cùng 19 cựu sỹ quan cao cấp khác ký tên vào bản kiến nghị yêu cầu minh bạch hóa Hội nghị Thành Đô song ông cũng không tin vào thông tin phía Trung Quốc đưa ra.
Đại tá Nguyễn Văn Tuyến (cán bộ tiền khởi nghĩa và là thành viên sáng lập Câu lạc bộ chống tham nhũng, tiêu cực của các vị lão thành cách mạng ở Hà Nội) cho chúng tôi biết là trong một cuộc gặp với Thường trực Ban Bí thư Đinh Thế Huynh, khi ông đề cập đến "Mật ước Thành Đô", ông Huynh khẳng định đích thân ông ta đã vào kho lưu trữ của đảng để tìm nhưng không hề thấy bản "mật ước" đó. (Lãnh đạo cộng sản nói thì không hẳn là đáng tin, song điều đó không có nghĩa là họ chưa bao giờ nói thật. Và sự khẳng định của nhân vật số 5 trong ban lãnh đạo Việt Nam phù hợp với logic ở trên, cũng như với một tài liệu được cho là của Ban Tuyên giáo Trung ương năm 2014 nhằm giải thích về Hội nghị Thành Đô).
Toan tính gì ?
"Người Trung Quốc làm gì cũng có tính toán". Thông tin về "Mật ước Thành Đô" được Bắc Kinh tung ra ngay giữa lúc họ đưa giàn khoan HD981 vào sâu trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam từ ngày 2/5 đến 15/7/2014. Rõ ràng, họ muốn qua đó để biện hộ cho hành vi xâm phạm chủ quyền Việt Nam, gây chia rẽ trong ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam, khiến người Việt trong và ngoài nước bị phân hóa, và cuối cùng là làm suy yếu nỗ lực của Hà Nội trong việc chống lại hành vi ngang ngược đó.
Mặc dù nội dung cụ thể của "Mật ước Thành Đô" được Bắc Kinh "tiết lộ" vào thời điểm họ đưa giàn khoan HD981 xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, nhằm mục đích như chúng tôi đã đã chỉ ra, song thông tin về sự tồn tại của nó thì đã xuất hiện từ lâu. Vậy động cơ của họ là gì ?
Quả thực, không khó để nhận ra toan tính của Bắc Kinh khi cho lan truyền thông tin về "Mật ước Thành Đô". Đây thực sự là một mũi tên trúng nhiều đích theo đúng bản chất "thâm như Tàu" của họ : (i) khiến những người Việt tâm huyết với công cuộc chống bành trướng Trung Quốc nản lòng (do nghĩ rằng mọi nỗ lực đều vô ích bởi cái văn kiện bán nước kia) ; (ii) làm phân tâm những người chống hiểm hoạ Trung Quốc tại Việt Nam (thay vì lẽ ra cần tập trung vào việc vạch trần và ngăn chặn bàn tay tội ác của "nhóm lợi ích Tàu"trong bộ máy hiện hành thì họ lại phung phí thời gian và công sức vào việc tranh cãi hoặc lên án và đòi bạch hoá một chuyện không có thật trong quá khứ) ; và (iii) khiến cho người dân bình thường không tin tưởng vào truyền thông phi chính thống (khi thấy trên mạng toàn loan truyền những thông tin nhảm nhí).
Không chỉ nặn ra cái gọi là "Mật ước Thành Đô", Bắc Kinh thậm chí còn dựng lên cả một câu chuyện kỳ bí qua tác phẩm "Hồ Chí Minh sinh bình khảo" của Hồ Tuấn Hùng. Theo đó, Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc - Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Sinh Cung (nguyên quán Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An), mà là Hồ Tập Chương, người Đài Loan. (Ngoài những mục đích nêu trên, điều này còn giúp dọn đường dư luận để"con ngựa thành Troy" Hoàng Trung Hải ngày càng "chui sâu, leo cao" và cuối cùng là thâu tóm chiếc ghế Tổng Bí thư).
Không còn nghi ngờ gì, "Mật ước Thành Đô" là một câu chuyện bịa đặt nhằm phục vụ mưu đồ đen tối của Trung Nam Hải. Việc nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam không công khai Thoả thuận Thành Đô là vì đó không chỉ là một thất bại nhục nhã trong lịch sử ngoại giao Việt Nam, mà còn là bằng chứng không thể chối cãi về hành vi "cõng rắn cắn gà nhà", "rước voi về dày mả tổ" của họ. Chỉ chừng ấy thôi họ đã bị lịch sử và nhân dân đời đời lên án, chứ đừng nói đến chuyện mưu toan biến Việt Nam thành một bộ phận của "đại gia đình các dân tộc Trung Quốc".
Ngoài ra, ngay cả khi "Mật ước Thành Đô" là sự thật đi nữa thì nó cũng không có giá trị pháp lý, bởi nó không tuân theo những trình tự pháp lý thông thường của một hiệp ước giữa hai quốc gia. Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười hoàn toàn không đủ chính danh để đóng dấu hiệu lực vào một hiệp ước vô cùng hệ trọng như thế. Trong khi đó, những người ký kết "mật ước" đó hoặc đã chết, hoặc gần như không còn ảnh hưởng trên chính trường, nên nó lại càng vô giá trị.
Trong một bài viết trước đây, chúng tôi đã chỉ ra rằng, nếu các bản tuyên bố chung Việt - Trung xưa nay luôn được Hà Nội thực hiện đúng thì Việt Nam đã trở thành "một bộ phận không thể tranh cãi của Trung Quốc" từ lâu, chứ chẳng cần phải đợi đến khi "Mật ước Thành Đô" được thi hành. Điều này không xẩy ra bởi thực tế là trong ban lãnh đạo Việt Nam luôn tồn tại những thành phần ý thức được hiểm hoạ phương bắc mà Bắc Kinh chưa thao túng được (chẳng hạn như Nguyễn Cơ Thạch và Võ Văn Kiệt trong "Hồi ức và Suy nghĩ"), bên cạnh áp lực từ một công chúng vốn ngày càng bộc trực và "dị ứng" với những gì liên quan đến Trung Quốc.
Bất luận thế nào, việc đất nước chúng ta ngày càng bị các gọng kìm của Đại Hán siết chặt như hiện nay không phải là vì "Mật ước Thành Đô" kia, mà chính là vì 90 triệu người Việt, đặc biệt là những tinh hoa của giống nòi, đã làm chưa đủ để bảo vệ giang sơn gấm vóc mà tổ tông đã đổ bao máu xương để dựng xây, gìn giữ.
Lê Anh Hùng
Nguồn : VOA, 13/12/2017