Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Đâu cn nói chi xa, hin tượng hoa hu Đ Th Hà trong "Cô gái vót chông" vào cui năm ngoái, hay phn ng ca lãnh đo Vit Nam qua cuc chiến xâm lăng ca Nga vào Ukraine, cũng cho thy được tư duy này đang ng tr trong thành phn quyn lc cao nht ti Vit Nam.

hoiky1

Sống và viết ở hải ngoại, hồi ký của Nguyễn Hưng Quốc

Đu năm 2022, tôi t ha vi mình là s dành nhiu thi gian hơn đ đc. Nht là đc sách. Hai ba tháng đu tôi đc được mt vài cun, nhưng khi đc gn hết thì, vì lý do này hay lý do khác, tôi li b na chng.

Nhng tp chí tôi thường đc nhưForeign Affairs The Interpreter Foreign Policy The Economist  v.v. tôi cũng ít đc hơn so vi nhng năm trước.

Có đc, nhưng không đc sâu. Mà ch đc nhanh đ bt ý chính.

Nhưng có hai tác phm tôi đã hay tng đc, và mun viết v, là cun "Socialist Realism in Vietnamese Literature : An Analysis of the Relationship between Literature and Politics" và "Sng và viết hi ngoi" ca nhà phê bình văn hc Nguyn Hưng Quc, tc tiến sĩ Nguyn Ngc Tun. Tôi hân hnh được ông gi tng hai tác phm này.

Cun "Văn hc hin thc xã hi ch nghĩa…" là da trên lun án tiến sĩ ca ông Nguyn Hưng Quc, mà tôi tng đc hơn 15 năm trước. Tôi đã da vào tài liu này là chính, cũng như nhiu nghiên cu ph khác, đ viết mt lun văn v chính sách văn hóa ca Vit Nam lúc ly bng cao hc v chính tr hc.

Cun "Sng và viết…" thì tôi mi nhn được hai tun nay. Nhưng my ngày qua tôi bn bu quá nên vài ba đêm mi có được mt hai tiếng đ đc.

Cm cun sách lên là không mun b xung. Nhưng phi b xung là vì, mt, quá khuya, và, hai, mun t t suy ngm v nhng điu đã đc. Thay vì đc mt mch cho xong.

Tôi thường b cun hút bi nhng tác phm ca ông Nguyn Hưng Quc. Mi bài phê bình văn hc (hay chính tr) ca ông đc thích như đc nhng chuyên gia viết lun văn trên Foreign Affairs, Foreign Policy v.v Nó cht lượng, b ích và soi sáng. Ngòi bút ca ông không ch sc bén, nhn đnh tinh tế, kiến thc sâu rng, mà còn s nhy bén và nhy cm tim n trong cách nhìn phóng thoáng và cp tiến v văn hc và nhng gì liên quan đến văn hc. Cũng như trong chính tr. Riêng trong văn hc, như ông phê bình, nó không th t mình nó tn ti. Nó là s liên đi, và là tiến trình không ngng, ca s vn đng, và được tác đng, bi lch s và văn hóa.

Ông Nguyn Hưng Quc nhn đnh rng cái văn hc ti Vit Nam dưới chế đ hin nay nó tht bi. Đã đành. Vì b chính tr hóa, b s lãnh đo văn ngh đc đoán, dt nát ca đng Cng sn (trang 85-86). Vì không có t do sáng tác. Và vì cái ch nghĩa hin thc xã hi ch nghĩa, tuy đã b khai t, nhưng chng có gì thay thế, trong khi ch trương kim soát toàn din ca chế đ không h thay đi v.v

Nhưng văn hc Vit Nam ti hi ngoi cũng không khá hơn bao nhiêu, như ông nhn đnh. Khi nghiên cu, ông nhìn ra được rng nhng khuyết đim v văn hc trong và ngoài nước cũng khá ging nhau (trang 86). Ông viết :

Tp trung vào văn hóa văn chương, tôi phát hin văn hc Vit Nam năm đc đim ni bt : (a) Tính cht truyn khu, (b) tính cht thc dng, (c) tính cht phn trí thc, (d) tính cht nghip dư, (e) tính cht hu thuc đa. Nhng đc đim này va là sn phm ca mt lch s trong đó có mt na thi gian là nô l va là yếu t ch đo trong vic đnh hình din mo văn hc Vit Nam, cho ti nay, vn tiếp tc chi phi cách nhìn và cách viết ca đa s, nếu không mun nói là tuyt đi đa s, người cm bút Vit Nam, bi vy, đó không phi là chuyn quá kh. Đó là chuyn ca hin ti (trang 87).

Nếu đem năm đc đim đó vào trong lĩnh vc chính tr Vit Nam, tôi cho rng nó cũng có giá tr nguyên vn (ngoi l, tt nhiên, là thế h Vit th hai và ba ti hi ngoi). Mt, tư duy nghe và tin nhng thông tin hành lang, tin truyn khu, vn rt ph biến hơn là tin vào nhng gì xut phát t ngun hay văn bn. Hai, phê bình chính tr Vit Nam trong ln ngoài nước thường phân tích nhng cái hin tượng hơn là bn cht, nhng th bên ngoài và thc dng hơn chính sách hay chiến lược. Ba, hi xưa người Vit còn trng nhân sĩ, trí thc, mc đ nào đó, cho đến khi ch nghĩa cng sn du nhp vào nước ta ; nhưng chưa bao gi tính cht phn trí thc li ph biến như bây gi. Mng truyn thông xã hi th hin đy tính cht này, đin hình là nhng bài viết nào đi xa hay đi sâu mt chút thì càng ít đc gi, trong khi các tin git gân tin gi thì li được hưởng ng nng nhit (nhưng phn trí thc là hin tượng chung toàn cu, không ch ti Vit Nam hay vi người Vit thôi). Bn, có l tính cht nghip d ư không ch ph biến trong gii cm bút văn ngh sĩ, mà còn trong mi lĩnh vc ngành ngh. Năm, v tính chthu thuc đa , tuy Vit Nam đã chính thc đc lp k t năm 1954 đến nay, nghĩa là gn 70 năm, nhưng h qu ca ch nghĩa thuc đa vn còn trong tư duy ca lãnh đo Vit Nam, và vn còn trong vô s người Vit ti hi ngoi thuc thế h mt. Đâu cn nói chi xa, hin tượnghoa hu Đ Th Hà  trong "Cô gái vót chông " vào cui năm ngoái, hay phn ng ca lãnh đo Vit Nam qua cuc chiến xâm lăng ca Nga vào Ukraine, cũng cho thy được tư duy này đang ng tr trong thành phn quyn lc cao nht ti Vit Nam. Vn là mt tư duy bt an, thiếu t tin, lm nghi k và phi tay đ hết li vào Tây phương, vào thc dân, vào ế quc" M, vào chiến tranh hay quá kh v.v.

Nhn xét trên nói lên điu gì ? V văn hc, ông Nguyn Hưng Quc cho rng các yếu t lch s và văn hóa đã tác đng mnh m lên gii cm bút Vit Nam : t viết, đc đến phê bình (trang 86-87).

Cho nên không có gì ngc nhiên vi ch trương kim soát lch s, và điu khin chính sách văn hóa, như Nga Trung Quc và Vit Nam đã làm mt cách xuyên sut và nht quán, t trước khi nm quyn cho đến khi đã nm toàn b quyn lc trong tay. H có nhu cu đ đnh hình tư tưởng và tư duy ca mi công dân. Nó luôn là ưu tiên hàng đu ca h.

Trong tác phm "Sng và viết ti hi ngoi", ông Nguyn Hưng Quc cũng chia s nhiu v cuc đi viết văn ca mình, nht là nhng cái "lc" vô tình mà ông được hưởng ; và nhng nguyên nhân và hoàn cnh hình thành nên hơn 20 tác phm ca ông. Ông cũng k li nhiu k nim vi nhng văn ngh sĩ và nhng nhà phê bình văn hc khác mà ông đã gp ti M, Pháp, Úc và Vit Nam ; vn tc nói v đc tính ca tng người ông có cơ hi phê bình hay làm vic chung ; hay nhng cuc bút chiến làm vang đng mt thi. Hai ln b cm nhp cnh, năm 2005 và 2009, cũng được ông trình bày chi tiết hơn.

Điu lý thú mà ông có chia s là ngoài phê bình văn hc, là lĩnh vc s trường chuyên môn ca mình, ông cũng viết phê bình chính tr. Ban đu, là do hoàn cnh sinh sng lúc mi đến Pháp ; sau này, do hoàn cnh "lý lch", khi ông đã b Vit Nam t chi cho nhp cnh.

Khi viết càng nhiu v phê bình chính tr, ông Nguyn Hưng Quc cm nhn sâu sc rng tht ra không có s khác bit gia vic phê bình chính tr và phê bình văn hc. Bi vì, theo ông, văn hóa là văn bn (text). Ông nói rng nhiu lý thuyết phê bình cũng đi đến kết lun như thế. Và riêng vi ông, chính tr cũng là văn bn (politics as a text). Khi phân tích văn bn, ông xem nó như mt công vic mang tính khoa hc và ngh thut (trang 34-35).

Riêng v vn đ này, tuy đng ý vi ông v mt lý thuyết, tôi cho rng trường hp Vit Nam là mt trong nhng ngoi l. Nhng gì gi là văn bn, nht là văn bn chính tr, thì không đáng tin cy hay có giá tr đáng k nào. Không nơi đâu văn bn quan trng bng hiến pháp hay pháp lut, nhưng các văn bn này có giá tr gì đâu. Còn nhng văn bn xưa và nay, nếu được tiết l, toàn là nhng th có li cho chế đ, nht là v mt tuyên truyn, nên mi được ph biến. Nhng điu "bí mt quc gia" thì chng ai biết nó mt mũi ra sao. Cái gi là văn bn ti Vit Nam cũng ch là mt na vn đ ; mt na văn bn ; mt na s tht. Trong khi đó, văn bn trong nn chính tr dân ch, cũng như trong mi lĩnh vc, có th được kim chng, xác đnh. Ngoài ra, nó có giá tr đnh hình chun mc (standard setting). Nn tng nm ngay đó.

Qua tác phm mi nht mà ông chia s nhiu chi tiết cá nhân nên rt d đc và d cm thy gn gũi, có th nói đc Nguyn Hưng Quc lúc nào cũng hc hi được nhiu điu. Tác phm nào tôi cũng b cun hút vào tng câu văn. Ngoài nhng cm nhn này, tôi còn có s đng cm rt ln vi nhng tác phm ca ông vì ba nguyên do. Mt, khi tôi tr li hc chính tr hc ti Úc, tôi đã tiếp cn nhng lý thuyết và phê bình chính tr và quan h quc tế, mà vi tôi, nó không ch giúp mình nhìn v thế gii bng nhãn quan khác, mà còn hiu sâu hơn vì sao văn hóa chính tr ca nhng nước dân ch được như thế. Tc không phi nhìn vào cu trúc, cơ chế thôi, mà còn là tư duy và tư tưởng góp phn đnh hình và chuyn hóa xã hi đây. Nhng lý thuyết phê bình này phn ln cũng không khác nhiu vi nhng lý thuyết phê bình văn hc mà ông Nguyn Hưng Quc đã đc và viết rt nhi u. Hai, trong khi ông mun khuyến khích tt c nhng người cm bút Vit Nam làm nên nhng cái mi, không s hãi th nghim nhng chân tri mi, tiếp cn vi nhng lý thuyết phê bình văn hc đ có ý tưởng mi, thì tôi cũng thy rng con đường như thế cũng vô cùng cn thiết cho gii làm chính tr, viết v chính tr, ln nhng người đc v chính tr, dù là chính tr v Vit Nam hay thế gii. Ch khi nào gii cm bút phê bình chính tr có tri thc và tm nhìn thì h mi đóng vai trò chuyn ti thông tin và kiến thc đúng đn đến đc gi. Ba, ông xác nhn ch đau đn vi chuyn Vit Nam, nhưng không hn thù. Ông phê phán vi tính cách, và lương tâm ca mt người trí thc, vì tính cht đc tôn và đc tài ca chế đ cng sn, ch phá hoi hơn xây dng. Còn tôi, gn 30 năm qua chưa v li Vit Nam, nhưng không hiu sao mi khi nghe chuyn Vit Nam vn thy quan tâm ; vn thy bun. Mi đây nghe chuyn bn thi th người Vit được phát hi n ti Anh trong v cháy hi tháng 5, nh li 39 người Vit trong đó có nhiu người tr b chết ngt vào cui năm 2019.

Thy thương. Thy gin. Thy nhc.

Cho nên đc Nguyn Hưng Quc, tôi li tìm thy mình thoang thong trong đó. Ni nim ca mt người Vit Nam.

Úc Châu, 06/08/2022

Phm Phú Khi

Nguồn : VOA, 07/08/2022

Additional Info

  • Author Phạm Phú Khải
Published in Văn hóa

Nguyn Hưng Quc, tc tiến sĩ Nguyn Ngc Tun, được biết đến qua nhiu tác phm giá tr mà ch yếu là v phê bình văn hc, đc bit là v thơ, trong hơn ba thp niên qua. Tác phm đu tay ca ông là "Tìm hiu ngh thut thơ Vit Nam" (Quê M, 1988). T năm 1988 đến 2015, ông đã cho ra đi 20 tác phm, và năm nay, 2021, ông va mi phát hành tp thơ đu tiên ca ông vi ta "909 Bài Thơ Ba Dòng".

nhq1

Nhà phê bình Nguyn Hưng Quc. (Hình : Trn Triết)

Ông được xem là mt người có thm quyn v phê bình văn hc, và mt nhà phê bình thơ tinh tế, thông minh và xut sc. Nhưng điu mà ít người biết hơn là ông làm thơ khá nhiu, nht là lúc còn tr, nhưng không ph biến. Tht là mt điu ngc nhiên và thú v nhn được tp thơ này.

Mi quý v theo dõi cuc trò chuyn sau đây gia chúng tôi và nhà phê bình văn hc Nguyn Hưng Quc.

***

Phm Phú Khi : Sáng tác và phê bình là hai s trường khác nhau. Xin được hi ông : mt, nguyên do gì thúc đy thơ ông tràn tr đ có th in thành tp thơ này ? ; hai, ông có nghĩ ông đ khách quan đ phê bình tp thơ này ca mình không ?

Nguyn Hưng Quc : Thú thc, tôi cũng không biết ti sao tôi li ni hng làm nhiu thơ như vy. Trước, thnh thong tôi có làm thơ. Nhưng ch ho hon. Còn ln này thì nó c ào t. Có ngày tôi làm đến c 10 bài. Còn chuyn t đánh giá mình à ? Không ai có th "khách quan" trong trường hp như thế. Có điu tôi biết chc chn, tôi, sáng tác không th sánh được vi phê bình và biên kho. S trường ca tôi ch yếu vn là năng lc phân tích. Làm thơ ch là đ cho vui thôi. Nh mt câu nói Bùi Giáng hay dùng : "Vui thôi mà !"

Phm Phú Khi : Ti sao ông li chn thơ ba dòng t đu đến cui cho tp thơ này, mà không ph biến các bài thơ khác thuc th loi khác trong đây ? Và ti sao con s 909 bài, không hơn, không kém ?

Nguyn Hưng Quc : Đu năm 2020, mt hôm, đang ngi đc vn vơ trên computer, trong đu tôi t dưng loé lên my câu :

Mt chân Vit Nam, mt chân Úc

Dưới háng là

Mây bay

Tôi thy thích ngay tc khc. Nhc đến thân phn lưu vong, thường, hu như mi người, trong đó có tôi, trong nhiu bài viết khác nhau, có cái nhìn khá bi quan : Đó là nhng con người tha phương, lc lõng, không nguôi ngoái nhìn quá kh và cm thy khó hi nhp vào xã hi mi. My câu trên đưa ra mt cái nhìn khác, lc quan hơn : Người lưu vong đng trên hai đt nước, hai văn hoá và hai ngôn ng khác nhau nên có dáng cao lng lng. Nó như mt tượng đài cao vút lên tn mây xanh. Không chng chưa có mt "tượng đài" lưu vong nào hùng vĩ đến vy.

Hng chí tôi làm thêm my câu khác :

Trăm đứa con Thị Nở

Mỗi đứa

Một màu cờ

Th N là người yêu ca Chí Phèo trong truyn ngn cùng tên ca Nam Cao. Th N được miêu t là mt người va xu xí va d hơi. Vi ch "trăm đa con" phía trước, Th N biến thành Âu Cơ. S liên tưởng y khc ho mt đc đim ln trong tính cách dân tc Vit Nam : Có vn đ v tâm trí và tâm lý. Đc đim th hai thuc v con cháu ca Âu Cơ Th N : chia r. Lúc nào cũng chia r. Cũng có nn s quân. Trong sut lch s. C my ngàn năm.

Tôi phân vân : My câu y có phi là "thơ" không ? Tôi cht nh đến th thơ ba dòng (three-line poetry) vn khá ph biến Tây phương. V hình thc, nó hao hao ging thơ haiku Nht. Nó nén câu ch li tht cht đ sau đó bùng n trong lòng người đc.

Thy th thơ ba dòng cũng có lý, tôi làm tiếp thêm my bài na. Ri làm tiếp. Cho đến lúc được 909 bài thì tôi thy tm đ nên quyết đnh dng li. Con s 909 trình bày trên trang sách cũng đp đy ch ?

Phm Phú Khi : Có phi đó là nhng bài ưng ý nht ca ông ?

Nguyn Hưng Quc : Tôi không chc. Lúc tôi thích bài này, lúc tôi thích bài khác. Hin nay, lúc viết my câu tr li này, tôi thích mt s bài nh nhàng hơn, ví d :

Những chiếc lá rơi

Không để lại

Di chúc

Hoc :

Mọi nụ hôn

Đều không cần

Lời bạt

Đi khái thế.

Phm Phú Khi : Ngoài tp thơ trên, ông còn cho tái bn cun "Sng vi Ch" năm nay. Được biết tác phm phát hành năm 2004, được ông cho tái bn năm 2014, và 2021 là ln in th ba. Có phi đây là mt trong nhng tác phm ca ông được yêu thích nht t nhiu thành phn khác nhau, vi đim chung là yêu tiếng Vit ?

Nguyn Hưng Quc : Cm bút hơn 30 năm, tôi có mt lượng đc gi nht đnh. Cun nào cũng được người này người kia khen. Tuy nhiên, anh nói đúng, cun "Sng vi Ch" có v được nhiu người khen nht. Năm 2007, trong li gii thiu tôi trong mt bui nói chuyn v thơ ti San Jose (M), nhà văn Nguyn Xuân Hoàng cho biết, theo anh, cun "Sng vi Ch" là "cun sách hay nht ca Nguyn Hưng Quc" !

Phm Phú Khi : Qua tác phm này, ông đã trình bày nhiu khám phá v ng nghĩa, ng âm, và s biến âm ca nhiu ngôn t tiếng Vit. "B" và "V" là mt đin hình. Ông cho rng nếu đc tiếng Vit chm và k thì chúng ta nhn ra được mt s quy lut bí n l lùng. Nhưng nhn ra được không có nghĩa là có th am tường, vì chính ông công nhn, ngôn ng là mt cái gì l lùng vô hn. Theo ông thì đây là đc tính chung ca mi ngôn ng, hay là cm nhn ca ông đi vi tiếng Vit ?

Nguyn Hưng Quc : Tht ra, ngôn ng nào cũng hay. Rt khó khng đnh ngôn ng nào hay hơn ngôn ng nào. Tuy nhiên, vi tiếng m đ, bao gi chúng ta cũng thy gn gũi hơn, do đó, chúng ta d thy nó tinh tế và giàu cm xúc hơn. Tôi nh lúc tôi làm lun án tiến sĩ. Phi viết bng tiếng Anh, dĩ nhiên. Tôi chán vô cùng. Tôi không thy có si dây liên kết gì gia mình và cái ngôn ng mình s dng. Thường, viết được mt, hai trang, chán quá, tôi li quay sang viết tiếng Vit. Vi tôi, tiếng Vit không phi ch là phương tin giao tiếp. Nó còn là mt nhc th : Tôi giao hoan vi ch, th vi ch, say sưa vi ch, có cm giác như ch cũng biết múa may ca hát. Nó có s sng. Và s sng y đy bí n.

Phm Phú Khi : Ông viết khá thường xuyên trên Facebook, mi ngày ít nht mt bài ngn, có khi nhiu hơn. Phn ln vn là các vn đ chính tr ti Vit Nam. Nhưng dù là chính tr, xã hi hay văn hoá văn hc, tim n trong đó là ni nh quê hương, vn đau đáu ngóng trông v Vit Nam. Rõ ràng Úc là nơi ông s sng đến cui đi mình, nhưng tâm tư ca ông thì li đi v "quê" nhiu hơn tr v "nhà". Có phi vì ông nghĩ rng ông không th v li Vit Nam na, trong qung đi còn li này ? Hay vì đó là thân phn chung ca người lưu vong, nht là người lưu vong đang cm bút như ông ?

Nguyn Hưng Quc : Vâng, lúc nào tôi cũng đau đáu nghĩ v Vit Nam. Hu như hàng ngày. Đc báo tiếng Anh, thy bt c điu hay điu d gì trên thế gii, tôi cũng đu so sánh vi Vit Nam. Và li ngm ngùi. Có điu, tôi không nghĩ đó là mt trường hp cá bit. Theo các nhà Lưu vong hc (Diaspora Studies), tâm lý hoài hương và hoài nim là đc đim ph quát trong tt c mi cng đng t nn và di dân. đâu cũng thế. Vi ai cũng thế. Ch khác, chút chút, mc đ mà thôi.

Phm Phú Khi : Ông có nghĩ rng văn hc ngh thut đóng mt vai trò quan trng trong vic đnh hình tính cách, din mo, ca mt quc gia ?

Nguyn Hưng Quc : Chc chn. Bt c quc gia nào cũng bao gm nhiu sc tc khác nhau. nhiu đa phương khác nhau. Làm thế nào các nhóm người xa xôi và xa l y hp thành mt quc gia duy nht ? Theo mt s nhà nghiên cu, đó là nhng ký c chung và nhng tưởng tượng chung. Benedict Anderson coi dân tc là mt cng đng tưởng tượng (imagined community). Văn hc là mt trong nhng yếu t chính to nên cái cng đng tưởng tượng y.

Phm Phú Khi : Mun thay đi din mo ca Vit Nam, ngoài kinh tế, khoa hc k thut, và chính tr, v.v thì văn hc ngh thut cũng phi đóng vai trò tiên phong. Có phi vì thế mà ông đã dn phn ln n lc cho lĩnh vc phê bình văn hc ca mình trong nhng thp niên qua, k c các hot đng trong tp chí Vit và Tin V. Quan nim ca ông hin nay có khác gì không, và nếu có, đó là gì ?

Nguyn Hưng Quc : đâu văn hc ngh thut cũng đi trước hin thc mt chút. Gi nó là "tiên phong" cũng được. Vit Nam hin nay đy nhng đ v. Văn hc và ngh thut có th hàn gn li mt s các đ v y.

Phm Phú Khi : Ông viết phn ln là v văn hc, v thơ, và sau này cũng viết bình lun chính tr, có thi cng tác vi đài VOA trước đây, và gi trên Facebook. Có bao gi ông nghĩ đến viết mt th loi khác hoàn toàn, như tiu thuyết ?

Nguyn Hưng Quc : Chc là không. Viết phê bình và biên kho, lâu lâu ngoi tình vi thơ là đã đ ri. Tôi không nghĩ là mt lúc nào đó mình s viết tiu thuyết.

Phm Phú Khi : Viết là mt phn sng ca ông. Có l là phn ưu tiên hàng đu không chng. Có phi là còn th thì ông còn viết ? Và điu đó cũng có nghĩa đc gi có th tiếp tc mong đi các tác phm mi trong nhng năm trước mt ?

Nguyn Hưng Quc : Vâng, c ngày tôi ch ngi đc và viết. T hơn 30 năm qua, tôi viết khá liên tc. Ln này, mi in tp thơ "909 Bài Thơ Ba Dòng" xong, tôi đã có ý tưởng cho mt cun sách khác. Tôi đang suy nghĩ. Chc vài tháng na mi khi s.

Phm Phú Khi : Được biết ông đã sáng tác toàn b tp thơ "909 Bài Thơ Ba Dòng" trong năm 2020 và đu năm 2021. Vy thì đi dch Covid-19 nh hưởng ra sao đi vi đi sng cũng như công vic sáng tác và phê bình ca ông ?

Nguyn Hưng Quc : Vi các nhà văn, dch Covid-19 không chng li hay : Nó bt người ta phi nhà, phi ngi trước computer. Và viết.

Phm Phú Khi : Xin chân thành cm t ông Nguyn Hưng Quc đã dành cho chúng tôi cuc trò chuyn thú v và hu ích này. Mong chúc ông và gia đình luôn vui khe và bình an, nht là gi gìn an toàn trong cơn đi dch Covid-19 này.

Phạm Phú Khải

Nguồn : VOA, 13/08/2021

Additional Info

  • Author Phạm Phú Khải, Nguyễn Hưng Quốc
Published in Văn hóa

Đảng Bo th Anh va có chiến thng vang di nht trong hơn 30 năm qua trong cuc bu c mà có nm mơ h cũng không nghĩ rng s thng ln đến thế.

anh1

Lãnh đạo đng Bảo thủ, Boris Johnson, ôm chú chó cưng ca mình ri phòng phiếu hôm 12/12/2019.

Sau khi kết qu cho 649/650 ghế dân biu ti Anh được công b, Đng Bo th ca ông Boris Johnson chiếm 364 ghế, b xa đng Lao đng đng th hai vi 203 ghế.

Với kết qu này, người dân Anh không ch nhc li rng h mun ri Liên minh Châu Âu mà còn t thái đ vi khuynh hướng xã hi ch nghĩa ca đng đi lp chính, Đng Lao đng, cũng như vi Đng Dân ch T do.

Đảng Lao đng dưới s lãnh đo ca ông Jeremy Corbyn đã có nhng chính sách thiên t trong đó có vic quc hu hoá các doanh nghip trong mt s ngành. Mt trong các li ha được đưa ra trong cuc vn đng tranh c ca ông Corbyn là quc hu hoá hãng viễn thông BT đ sm mang internet băng thông rng ti người dân. Nhưng điu này b mt s chuyên gia cho rng s phn tác dng.

Ông Corbyn cũng bị ch trích vì phong cách lãnh đo không to được s đng thun trong ni b Đng Lao đng. Mt s đng viên đã rời b Lao đng vì không phc v lãnh đo đng. Mt đng viên như vy đã va giành ghế dân biu cho Đng Bo th sau khi đào tu khi Lao đng hi năm 2018.

Một trong nhng người trung thành vi Đng Lao đng trong nhiu năm và va b phiếu cho Đng Bo thủ ln đu trong đi nói vi đài BBC : "Cái chính là ông Jeremy Corbyn đã không to được cm hng trong tôi vi cách lãnh đo [ca ông]…

"Cuối cùng tôi cm thy tôi phi tiến sang cánh hu ca thiên kiến chính tr ít hơn đ b phiếu cho ông Boris Johnson so với chng đường tiến sang cánh t đ bu ông Jeremy Corbyn".

Đảng Dân ch T do ca bà Jo Swinson thm chí tuyên b s hủy b Brexit, tiến trình ri Liên minh Châu Âu. C tri đáp li bng cách gim bt mt ghế trong ngh vin ca đng này. Tiếc thay ghế đó lại chính là ca bà đng trưởng và Jo Swinson mt luôn chc.

Điều có th thy rõ qua cuc bu c ln này Anh là người dân đã chán ngy vi tình trng tê lit trong chính trường khi mà chính ph mun ri Liên minh Châu Âu càng nhanh càng tt nhưng hviện lại ch thích li cho tht lâu. Vi cuc b phiếu mang li chiến thng áp đo cho Đng Bo th, ln đu tiên trong my năm qua nước Anh mi có s thng nht gia đa s người dân, đa s dân biu và đa s quan chc chính ph v chuyn ri EU.

Đối vi mt s người dân, cuc bu c này là s la chn mt đng đ t hơn thay vì chn đng nào tt hơn. Đng Bo th thường b ch trích vì không quan tâm ti người nghèo và làm cho h càng nghèo khó hơn. Đng Lao đng có mt lãnh đo có th nói là "chán đi" tới mức các đng viên ca đng cũng chia r v vai trò ca người đng đu. Đng Dân ch T do ch mun hủy Brexit.

Người ta cũng có th coi đây là cuc bu c Brexit khi mà đa s người dân ch mun gii quyết xong cuc ly d vi EU cho nh n. Nhưng nó cũng đã khiến lãnh đo đng Dân ch T do lp tc mt ghế vì không đc c ngh viên. Trong khi đó lãnh đo Đng Lao đng cũng tuyên b s t chc trước cuc bu c ln ti. Người Anh đã phi b phiếu ti ba ln trong năm năm qua và gi có th th phào vì s không còn phải ti hòm phiếu ít nht trong năm năm na.

Nguyễn Hùng

Nguồn : VOA, 14/12/2019

Additional Info

  • Author Nguyễn Hùng
Published in Diễn đàn
dimanche, 29 avril 2018 18:43

Tháng Tư và ký ức tập thể

(trích VOA 26/04/2010)

Cách đây khoảng chín, mười năm, có một nghệ sĩ khá nổi tiếng từ Việt Nam sang tham dự một sinh hoạt văn nghệ tại Úc. Sinh ở Hà Nội sau năm 1975, anh là một nghệ sĩ tài hoa và có tinh thần cách tân khá triệt để. Và vì tinh thần cách tân ấy, dù tài hoa, anh vẫn bị cô lập ở Việt Nam.

memoire1

Ký ức của cộng đồng người Việt ở hải ngoại chủ yếu là ký ức của nạn nhân. Ảnh minh họa (thương phế binh thăm bạn Nghĩa trang Biên Hòa - tháng 9/2011)

Sự cô lập ấy càng củng cố tư thế độc lập của anh ; và tư thế độc lập ấy, đến lượt nó, củng cố cái nhìn cởi mở về nhiều vấn đề liên quan đến chính trị và xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, sau một thời gian tiếp xúc thân mật với nhiều người trong cộng đồng người Việt tại Úc, anh vẫn bị sốc. Một lần, anh tâm sự : "Điều em ngạc nhiên nhất là bà con bên này bị ám ảnh về quá khứ nhiều quá. Lần nói chuyện nào cũng dẫn đến những chuyện trước 75, rồi những chuyện sau 75, từ chuyện chiến tranh đến chuyện kinh tế mới, chuyện cải tạo và chuyện vượt biển. Ở trong nước, hầu như bọn em chẳng bao giờ nhớ hay nghĩ đến những chuyện như vậy nữa".

Không phải chỉ có anh bạn nghệ sĩ ấy. Tôi đã nghe nhiều người nói thế. Có người viết hẳn trên báo chí. Là : những chuyện mà nhiều người ở hải ngoại còn trăn trở mãi, ở trong nước, người ta đã quên mất từ lâu rồi. Một số người còn lên giọng : Nên gạt bỏ quá khứ để hội nhập vào dòng chuyển động không ngừng của đất nước.

Những lời phát biểu ấy khiến tôi nghĩ ngợi về đề tài ký ức.

Trước hết, cần nói ngay, ký ức, đặc biệt ký ức tập thể (collective memory) hay ký ức văn hóa (culture memory) là một đề tài khá mới trong giới nghiên cứu. Trước, từ thời Khai Sáng, ở con người, giới nghiên cứu chỉ chú ý đến lý trí. Từ Descartes đến Pascal và Kant, người nào cũng đề cao lý trí, cũng đều xem lý trí là năng lực tối thượng phân biệt con người và các loài động vật khác. Từ đầu thế kỷ 20, dưới ảnh hưởng của Freud, và sau đó, của Jung, với nhiều trường phái khác nhau trong chủ nghĩa hiện đại, người ta lại đề cao vô thức, xem chính vô thức mới là động lực chính thúc đẩy và quyết định những sự lựa chọn trong đời sống cũng như trong các hoạt động sáng tạo. Chỉ khoảng vài thập niên gần đây, người ta mới hay đề cập đến vai trò của ký ức, thoạt đầu trong lãnh vực xã hội học, sau, trong văn hóa học.

Có một câu nói nổi tiếng tiêu biểu cho quan niệm này : Chúng ta là những gì chúng ta nhớ (We are what we remember). Những gì chúng ta nhớ tạo nên ý nghĩa cho những gì chúng ta làm hoặc chứng kiến ; và tất cả những gì chúng ta làm hoặc chứng kiến được ghi nhớ ấy sẽ tạo nên hình ảnh của chính chúng ta. Chính những hình ảnh ấy là những nguyên liệu đầu tiên và quan trọng nhất tạo nên bản sắc của từng người. Bởi vậy những người bị mất trí nhớ bao giờ cũng bị mất ý niệm về bản sắc : Họ không biết họ là ai.

Nhưng ký ức có hai đặc điểm quan trọng cần lưu ý :

Thứ nhất, nó không phải là cái gì thuần tuý có tính cá nhân. Bất cứ ký ức nào cũng có tính tương tác. Nhớ, dù là nhớ một kỷ niệm hoàn toàn riêng tư, cũng vẫn liên hệ với một cái gì khác : một thời gian, một không gian, một cảnh huống và những con người khác. Qua việc nhớ, do đó, chúng ta nối kết bản ngã và môi trường chung quanh, nối kết quá khứ và hiện tại, cá nhân và tập thể, cái riêng và cái chung. Bởi vậy ký ức nào, dù riêng tư đến mấy, vẫn lấp lánh hồi quang của cả một cộng đồng : ký ức, một mặt, kiến tạo và nuôi dưỡng bản sắc cá nhân, mặt khác, góp phần định hình bản sắc tập thể ; rồi chính bản sắc tập thể ấy, đến lượt nó, lại tác động ngược lại đến ký ức, biến ký ức thành một quá trình chọn lọc liên tục.

Từ đó, dẫn đến đặc điểm thứ hai : ký ức không phải là những gì cố định. Ký ức không phải là kho lưu trữ hình ảnh một cách máy móc và vô hồn. Ký ức, ngược lại, không ngừng được tái tạo và không ngừng được tái cấu trúc. Cùng một sự kiện, được nhớ trong những thời điểm khác nhau, với những quan điểm và những tâm trạng khác nhau, chúng ta có những hình ảnh khác nhau với những ý nghĩa khác nhau. Bởi vậy, ký ức nào cũng có tính hiện tại. Nó không phải chỉ là quá khứ. Nó là quá khứ được hiện tại hóa. Và vì được hiện tại hóa, quá khứ nào cũng có tính chính trị của nó. Nhớ, do đó, là một diễn ngôn (discourse), một loại hình tự sự, ẩn giấu đằng sau những nỗ lực diễn dịch và tái diễn dịch quá khứ để đáp ứng những thử thách của hiện tại.

Cũng cần lưu ý là ký ức hiện diện ở mọi nền văn hóa. Ai cũng có ký ức và cũng cần ký ức. Nhưng dường như với người Việt Nam, ký ức có tầm quan trọng hơn hẳn ở những nơi khác, nhất là ở các nước Tây phương. Ở Tây phương, nói chung, ký ức thường nhanh chóng được thu thập, lưu trữ, xác minh và phân tích, cuối cùng, thành lịch sử. Ở Việt Nam, ký ức thường ở nguyên dạng ký ức, khuất chìm trong vô thức, bàng bạc trong đời sống của quần chúng. Cái gọi là lịch sử ở Việt Nam, phần lớn chỉ là những mảnh ký ức rời, nhập nhòa giữa huyền thoại và sự thực, đậm đặc màu sắc truyền thuyết. Nếu lịch sử là những đại tự sự (grand narrative), ký ức chỉ là những tiểu tự sự. Nếu lịch sử mang tính chính quy, đặc tuyển và nhất là tuyến tính, ký ức thường đứng ngoài mọi thiết chế, gắn liền chủ yếu với văn hóa dân gian, thường xuyên chịu sự chi phối của nhiều yếu tố tương tác trong xã hội.

Người Việt thích sống với ký ức. Người Việt ở hải ngoại lại càng thích sống với ký ức. Rời khỏi quê hương, sống hẳn ở nước người, tuyệt đại đa số lưu dân, trong đó có người Việt Nam, không bao giờ có thể hội nhập hẳn vào cuộc sống mới. Họ sống lửng lơ ở giữa (in-between). Giữa gì ? Giữa quê gốc và quê mới. Giữa quá khứ và hiện tại. Giữa hoài niệm và hoài bão. Sống ở giữa là sống trên những biên giới, là lấp lửng ở bên này và bên kia biên giới. Ở vùng biên giới ấy có gì ? Chủ yếu là ký ức. Ký ức trở thành quê hương chính của những người lưu dân, bất kể là lưu dân nào.

Nathalie Huỳnh Châu Nguyễn, một nhà nghiên cứu trẻ và xuất sắc ở Úc, mới xuất bản một cuốn sách mang nhan đề rất thú vị : "Ký ức là một quê hương khác : Phụ nữ Việt Nam lưu vong" (1).

Sẵn, xin nhắc : Trước đó, một nhà nghiên cứu Việt học lỗi lạc khác, Huệ-Tâm Hồ-Tài, ở Mỹ, có một tác phẩm mang nhan đề tương tự, nhưng đối tượng khảo sát lại là ở Việt Nam thời hậu chiến : "Quê hương của ký ức : Việc tái tạo quá khứ ở Việt Nam thời hậu kỳ xã hội chủ nghĩa" (2).

Dĩ nhiên, hai cái "quê hương" được đề cập trong hai tác phẩm vừa kể rất khác nhau. Khác, không những ở cấp độ mà còn về bản chất : với người trong nước, ký ức là một quê hương của lựa chọn ; với những người lưu dân hay lưu vong, ký ức là quê hương của số phận. Là quê hương duy nhất. Ngoài nó, có khi không còn gì khác.

Người lưu dân hay lưu vong nào cũng gắn bó với ký ức. Những người lưu dân hay lưu vong ra đi từ một đất nước tan nát vì chiến tranh và ngập ngụa hận thù lại càng quay quắt với ký ức. Những người lưu dân và lưu vong đến sống ở các nền văn hóa khác, hoàn toàn xa lạ với nền văn hóa gốc lại càng bị giam hãm trong ký ức. Nói như thế cũng là cách mặc nhiên phân biệt hai loại ký ức : ký ức của người thắng cuộc và ký ức của các nạn nhân.

Ký ức của cộng đồng người Việt ở hải ngoại chủ yếu là ký ức của nạn nhân. Một ký ức đầm đìa máu và nước mắt. Không phải chỉ có máu và nước mắt thời kỳ chiến tranh mà còn có máu và nước mắt lúc chiến tranh đã kết thúc. Ở các nhà tù và trại cải tạo. Ở các chiến dịch đánh tư sản mại bản. Ở chính sách ngăn sông cấm chợ. Ở sự kỳ thị vùng miền và lý lịch. Ở những cuộc di tản và vượt biên đầy hãi hùng.

Đòi hỏi những người mang trong đầu và trong tim loại ký ức đầy máu và nước mắt ấy là một đòi hỏi vô cảm. Xuất phát từ miệng của những người thắng cuộc, nó không những vô cảm mà còn lưu manh.

Nhớ, cách đây một hai năm gì đó, khi đọc một bài báo của một nhà văn miền Nam từng tham gia "Mặt trận" trước năm 1975, trong đó, ông phiền trách nhiều người ở hải ngoại sao cứ đau đáu mãi với quá khứ trong khi ông và bạn bè và đồng chí của ông thì đã gạt hẳn tất cả qua một bên từ lâu rồi, một người bạn tôi bình luận :

"Cứ tưởng tượng có một thằng lưu manh đến cướp nhà của người ta và đuổi người ta ra đường. Mấy năm sau, thấy nạn nhân nằm lê lết trên vỉa hè và nhớ tiếc ngôi nhà cũ, tên ăn cướp lên giọng : ‘Tại sao ông bà lại phải nhớ mãi những chuyện buồn như thế ? Tại sao không quên đi ? Tại sao không hướng tới tương lai để sống một cách thanh thản chứ’ ? Nói xong, hắn quay về nhà, cái căn nhà hắn cướp của người ta, ngồi trên ghế salon, gác chân lên bàn, vừa nốc bia vừa nghĩ đến chuyện quên lãng và tha thứ như một thứ đạo đức mới mà hắn mới phát hiện ra được".

Tôi không chủ trương hận thù. Tôi biết có thứ đạo đức học của sự tha thứ (ethics of forgiveness) nhưng tôi không hề tin vào thứ đạo đức học của sự quên lãng (ethics of forgetting).

Theo tôi, không phải chỉ có bản sắc mà cả ý niệm về đạo đức cũng được nuôi dưỡng từ ký ức, kể cả, nếu không muốn nói, nhất là, những loại ký ức đầy máu và nước mắt.

Nguyễn Hưng Quốc

Nguồn : fb.hungquoc.nguyen, 27/04/2018

(1) Memory is Another Country : Women of the Vietnamese Diaspora, Praeger, 2009.

(2 The Country of Memory : Remaking the Past in Late Socialist Vietnam, University of California Press, 2001.

Published in Diễn đàn

Nguyễn Hưng Quốc, 29/04/2018

(trích đăng lại, Người Việt, 07/07/2017)

Trong các môn tôi dạy tại trường Victoria University ở Melbourne, Úc, có một môn tập trung vào chiến tranh Việt Nam : "Nhiều Việt Nam : Văn hóa Chiến tranh và Ký ức" (Many Vietnams : War Culture and Memory).

kyuc1

Bộ đội cộng sản trong những ngày vừ chiếm đóng Sài Gòn - Ảnh minh họa

Như tên gọi, ở môn này, trọng tâm không phải là lịch sử mà là văn hóa ; không phải văn hóa chung chung mà là văn hóa chiến tranh ; cũng không phải là văn hóa chiến tranh chung chung mà là thứ văn hóa chiến tranh được nhìn thấy từ và qua ký ức. Đó chính là điểm mới của môn học. Nếu chỉ nhìn chiến tranh Việt Nam từ góc độ lịch sử hay chính trị, người ta dễ dàng nắm bắt cái khung thời gian của nó : bắt đầu từ 1954 và kết thúc vào năm 1975. Nhưng nhìn từ góc độ văn hóa, chiến tranh Việt Nam, về phía chính phủ Mỹ, lại bắt đầu từ sau đệ nhị thế chiến, với thuyết domino vốn được xem là nền tảng của chiến lược đối đầu với chủ nghĩa cộng sản thời Chiến tranh lạnh của Mỹ. Nhìn từ góc độ văn hóa, với người Mỹ, chiến tranh Việt Nam được gọi là cuộc chiến ở phòng khách (lounge room war), cuộc chiến tranh truyền thông (media war) hoặc cuộc chiến tranh truyền hình (television war), ở đó, chiến tranh ngoài chiến trường biến thành cuộc chiến tranh của con tim ; chiến tranh ở Việt Nam thành chiến tranh về Việt Nam. Nhìn từ góc độ ký ức chiến tranh, cũng với người Mỹ, chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến vô tận (endless war), một cuộc chiến chưa kết thúc (unfinished war). Cho đến tận bây giờ.

Tuy nhiên, ở đây, tôi không nhằm giới thiệu nội dung môn học ấy. Tôi chỉ xin kể một câu chuyện mới xảy ra cách đây mấy tuần, trong buổi học cuối cùng của học kỳ 1 tại Úc.

Giống như mọi năm, trong bài giảng cuối, tôi cho sinh viên xem một cuốn phim ngắn nhan đề Ngày Giỗ (The Anniversary, 2004) của Hàm Trần, một đạo diễn trẻ gốc Việt tại Mỹ. Phim chỉ dài có 28 phút. Nội dung khá đơn giản, có thể tóm tắt như sau : Trong cuộc biến động năm 1963 ở Sài Gòn, có một thanh niên tham gia rất tích cực trong phong trào Phật giáo chống lại chính quyền Tổng thống Ngô Đình Diệm. Bị cảnh sát truy nã, anh định mang vợ và hai đứa con trai chạy trốn, nhưng một đứa đang bị bệnh, không thể đi được, anh bèn mang theo một đứa ra bưng, và sau đó, ra miền Bắc. Đứa còn lại sống với mẹ trong Nam. Mười năm sau, hai anh em ruột gặp nhau trên chiến trường, cuối cùng, người này giết người nọ. Rồi họ nhận ra nhau. Nhưng đã quá muộn. Kẻ còn sống, sau đó, đi tu. Cứ đến ngày giỗ lại tụng kinh, cầu cho hương hồn người anh em ruột thịt của mình.

Truyện phim khá đơn giản nhưng kỹ thuật khá già giặn, ở đó, quá khứ và hiện tại cứ xen kẽ nhau.

Như đã nói ở trên, năm nào tôi cũng cho chiếu cuốn phim này cho sinh viên xem. Năm nào cũng có một số sinh viên khóc. Khi phim hết, bật đèn sáng, tôi thấy trong lớp, mắt nhiều em đỏ hoe. Riêng tôi thì dù buồn, vẫn bình tĩnh : Một mặt vì tôi đã quen thuộc với cuốn phim ấy ; mặt khác, cũng quá quen thuộc với những bi kịch kéo dài trong chiến tranh Việt Nam. Cả quãng đời thơ ấu của tôi trôi qua trong chiến tranh. Chưa bao giờ đi lính, chưa bao giờ nhìn thấy chiến trường, nhưng trước năm 1975, tôi đã nhiều lần bị ba mẹ gọi giật dậy giữa khuya và lôi xuống hầm trú ẩn vì pháo kích ; tôi đã nhiều lần nhìn thấy quan tài của một số thanh niên trong làng đi lính bị tử trận…

Vậy mà, không hiểu sao, lần này, xem phim, tôi lại thấy xúc động lạ lùng.

Xem xong, quay lại bài giảng, giọng tôi cứ nghẹn lại. Bọn sinh viên, trước, vốn đã xúc động ; sau, thấy thầy như vậy, càng xúc động thêm, mắt đứa nào đứa nấy đều đỏ hoe. Cuối cùng, cả thầy và trò đều ngồi im lặng. Thật lâu. Thật lâu. Các sinh viên nữ lấy khăn chùi nước mắt, trong khi các sinh viên nam thì ngước nhìn lên trần hoặc ngó lảng đi chỗ khác.

Thật lâu sau, tôi mới cố gắng nói vài điều, để kết thúc môn học, trong đó, tôi nhấn mạnh ý này : Nhìn từ bên ngoài, như từ Úc và Mỹ, chẳng hạn, người ta chỉ biết, trong giai đoạn 1954-75, Việt Nam bị chia làm đôi, trước hết là về phương diện địa lý và sau đó, về chính trị ; nhưng từ cái nhìn bên trong, của người Việt Nam, sự chia cắt ấy đi sâu đến tận từng tế bào nhỏ nhất của xã hội : gia đình. Bi kịch của đất nước, do đó, biến thành bi kịch của gia đình. Ngay sau tháng 4 năm 1975, lúc nhiều gia đình được đoàn tụ, những xung đột gay gắt về quan điểm chính trị giữa cha con, vợ chồng, anh em… khá phổ biến. Nhiều sự xung đột kéo dài đến tận ngày nay. Chúng làm cho cái gọi là ký ức chiến tranh, với người Việt Nam, như những vết thương chưa kéo da non. Trong các vết thương ấy có cả sự thù hận lẫn sự đau xót : Không hiếm trường hợp ở những người mình chống đối quyết liệt có cả hình ảnh của người thân nhất của mình. Sự xung đột ở ngoài, do đó, trở thành một sự xung đột tận bên trong. Bởi vậy, không có gì khó hiểu khi, liên quan đến chiến tranh và hậu quả của chiến tranh, mỗi người Việt Nam là một khối mâu thuẫn khổng lồ. Không hiểu được sự mâu thuẫn ấy, không thể nào giải quyết được các xung đột hiện nay.

Khi buổi học kết thúc, theo thói quen, tôi đứng lại, chờ sinh viên ra trước. Khi đi ngang qua tôi, một sinh viên Úc, mắt còn đỏ hoe, ôm chầm lấy tôi. Vừa như một sự chia sẻ vừa như một sự từ biệt sau một học kỳ.

Nguyễn Hưng Quốc

Nguồn : fb.hungquoc.nguyen, 29/04/2018

i các sinh viên nam thì ngước nhìn lên trần hoặc ngó lảng đi chỗ khác.

Thật lâu sau, tôi mới cố gắng nói vài điều, để kết thúc môn học, trong đó, tôi nhấn mạnh ý này : Nhìn từ bên ngoài, như từ Úc và Mỹ, chẳng hạn, người ta chỉ biết, trong giai đoạn 1954-75, Việt Nam bị chia làm đôi, trước hết là về phương diện địa lý và sau đó, về chính trị ; nhưng từ cái nhìn bên trong, của người Việt Nam, sự chia cắt ấy đi sâu đến tận từng tế bào nhỏ nhất của xã hội : gia đình. Bi kịch của đất nước, do đó, biến thành bi kịch của gia đình. Ngay sau tháng 4 năm 1975, lúc nhiều gia đình được đoàn tụ, những xung đột gay gắt về quan điểm chính trị giữa cha con, vợ chồng, anh em… khá phổ biến. Nhiều sự xung đột kéo dài đến tận ngày nay. Chúng làm cho cái gọi là ký ức chiến tranh, với người Việt Nam, như những vết thương chưa kéo da non. Trong các vết thương ấy có cả sự thù hận lẫn sự đau xót : Không hiếm trường hợp ở những người mình chống đối quyết liệt có cả hình ảnh của người thân nhất của mình. Sự xung đột ở ngoài, do đó, trở thành một sự xung đột tận bên trong. Bởi vậy, không có gì khó hiểu khi, liên quan đến chiến tranh và hậu quả của chiến tranh, mỗi người Việt Nam là một khối mâu thuẫn khổng lồ. Không hiểu được sự mâu thuẫn ấy, không thể nào giải quyết được các xung đột hiện nay.

Khi buổi học kết thúc, theo thói quen, tôi đứng lại, chờ sinh viên ra trước. Khi đi ngang qua tôi, một sinh viên Úc, mắt còn đỏ hoe, ôm chầm lấy tôi. Vừa như một sự chia sẻ vừa như một sự từ biệt sau một học kỳ.

Nguyễn Hưng Quốc

Nguồn : fb.hungquoc.nguyen, 29/04/2018

Published in Diễn đàn