Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Tòa án Việt Nam đang đưa ra xét xử mấy vụ đại án, nhiều ý kiến phê phán rằng các vụ án này đều đã được chỉ đạo rồi, cùng với đó là sự lên tiếng đòi hỏi cho sự độc lập của tư pháp.

chidao1

Cảnh bên ngoài Tòa án Nhân dân Thành phố Hà Nội

Vậy việc chỉ đạo giải quyết các vụ án có hẳn chỉ là xấu ? Và nên hiểu vấn đề này trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay như thế nào ?

Đầu tiên xin thưa thế này.

Chúng ta biết rằng Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định tình trạng tham nhũng nghiêm trọng tới mức ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ, tức là mức độ tham nhũng đã nghiêm trọng quá rồi không còn gì quan trọng hơn chế độ để có thể đem ra ví được nữa.

chidao2

Biểu tượng công lý ở Tòa Anh Quốc

Bộ máy tư pháp là một phần của bộ máy nhà nước đó, cho nên cần hiểu rằng trong bộ máy tư pháp cũng xảy ra tình trạng tham nhũng nghiêm trọng, mà cùng với các lĩnh vực khác nó gây ra nguy cơ tồn vong chế độ.

Vậy thì với cỗ máy tư pháp chất chứa trong nó tình trạng tham nhũng như vậy thì tính chất công lý mà nó đảm bảo sẽ thế nào ? Mọi người hãy hình dung xem ?

Chắc chắn là cùng với tình trạng tham nhũng thì công lý cũng đội nón ra đi.

Bản thân tôi đã có hơn mười năm hành nghề luật sư, thời gian đủ dài để tôi thụ cảm được mức độ công lý mà tòa án đưa đến.

Là một luật sư chưa bao giờ chạy án, bản thân tôi dành nhiều thời gian để suy nghĩ cho việc làm sao có thể mình thắng kiện mà không chạy chọt.Và cái mà tôi cần đó là sự giám sát, can thiệp từ bên ngoài vào quy trình giải quyết, để làm sao giảm tránh đi sự tiêu cực của tòa án khiến công lý bị bẻ cong. Khi đó cái mà tôi cần là một sự chỉ đạo án thay vì tư pháp độc lập.

Vụ án Hàn Đức Long mà tôi đã thành công trong việc minh oan là một ví dụ. Tử tù Hàn Đức Long với 11 năm đi tù oan và 4 bản án tử hình, tôi có 6 năm trời ròng rã theo đuổi minh oan mà không hề có kinh phí thù lao.

Nếu như để các cơ quan tư pháp tỉnh Bắc Giang tự nguyện độc lập xem xét tính chất pháp lý của vụ án và đưa ra phán quyết thì không bao giờ họ chấp nhận là oan.

"Đã có giải pháp cho nhiều án oan"

chidao3

Luật sư Ngô Ngọc Trai (phải) đã bảo vệ cho ông Hàn Đức Long (trái)

Vụ án này chỉ có thể được minh oan vì tôi đã đấu tranh kêu cầu tới các ban ngành tư pháp Trung ương, kêu tới mọi cấp lãnh đạo của bộ máy nhà nước, kêu tới dư luận quần chúng bên ngoài. Tất cả là để mong có một sự chỉ đạo, một áp lực bên ngoài để có được một phán xét công tâm, công bằng, khách quan và khoa học.

Và rồi cuối cùng quyết định minh oan được đưa ra, chắc chắn là đã được ban ra từ những cuộc họp của các ban ngành tư pháp trung ương, các lãnh đạo cao cấp, để rồi Viện kiểm sát tỉnh Bắc Giang chỉ làm cái việc thừa hành là đình chỉ vụ án đối với tử tù.

Ý kiến : Phá án bằng bức cung, nhục hình

Đó là một ví dụ, còn nhiều vụ việc khác mà khi tôi giải quyết đều kêu cầu đến sự can thiệp từ bên ngoài, ngõ hầu đảm bảo công lý cho thân chủ.

Hiện tôi đang kêu cho một doanh nhân trong một vụ kiện tranh chấp dân sự với một doanh nghiệp ở Vĩnh Phúc, hồ sơ vụ án cho thấy các thẩm phán xử trước đây đã lợi dụng kinh nghiệm chuyên môn của họ, bóp méo bản chất pháp lý vụ việc.

Một vụ tranh chấp tài sản kéo dài hơn 10 năm giữa những doanh nghiệp và doanh nhân, nền tư pháp yếu kém đã làm mất đi những cơ hội đầu tư kinh doanh từ khối tài sản tranh chấp. Đây là một vụ án điển hình cho việc tư pháp yếu kém ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.

Để đảm bảo quyền lợi cho thân chủ, tôi đã đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội, Ban nội chính tỉnh Vĩnh Phúc vào cuộc xem xét hồ sơ, giám sát đưa ra ý kiến và cử cán bộ tham dự phiên tòa.

Một vụ án khác ở huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang, một Đảng viên cộng sản là một thanh niên đầy sức thanh xuân, bị tai nạn bởi một chiếc xe ô tô tải đâm nát một đùi phải cắt bỏ và chịu tổn thất đến 70% sức khỏe.

Tòa án Lục Ngạn khi giải quyết đã đổ hết tội trạng lên đầu bị cáo mà bỏ qua trách nhiệm của chủ sở hữu chiếc xe, người đã cẩu thả trong việc bảo quản trông giữ nguồn nguy hiểm cao độ, không khóa cửa xe, không rút chìa khóa xe, khiến cho chiếc xe bị chiếm dụng gây tai nạn.

Theo quy định pháp luật thì rõ ràng chủ sở hữu xe có lỗi và phải bồi thường, nhưng đương sự đã gửi đơn đi khắp nơi, kêu cầu một sự can thiệp chỉ đạo án để việc giải quyết có được công lý nhưng đã không được.

Đó là một sự thật chua chát về nền tư pháp hiện nay, ngõ hầu để có được công lý người ta không thể trông mong vào sự độc lập của tòa án mà cần đến sự can thiệp.

Thực tế có rất nhiều vụ việc đương sự cần đến sự chỉ đạo, như các vụ tử tù kêu oan mong chờ trung ương can thiệp, các vụ án đương sự nhờ báo chí phản ánh gây áp lực, các vụ khiếu kiện ở địa phương nhưng đương sự luôn gửi đơn vượt cấp lên cả Chính phủ và các ban ngành trung ương.

Cho nên, xin thưa với những ai chưa hiểu hết về nền tư pháp Việt Nam rằng, sự chỉ đạo án không phải hoàn toàn là xấu.

Nếu không có chỉ đạo, nhiều tội phạm với quyền và tiền của sẽ thoát khỏi sự trừng phạt của công lý. Khi đó một mặt thì bộ máy Nhà nước tiếp tục mục ruỗng, mặt khác là nhân dân cơ cực nhọc nhằn.

Tất nhiên ngược lại, có nhiều trường hợp chỉ đạo án là xấu và chúng ta có lý do chính đáng để đòi hỏi cho tư pháp độc lập, đó là sự chỉ đạo trong các vụ án đối với những tù nhân lương tâm, những người vì lương tâm lên tiếng mà bị bức hại, rất nhiều người trong số họ chỉ đơn thuần là lên tiếng cho các vấn đề xã hội, đòi hỏi các quyền chính đáng của mình.

Cho nên tóm lại, cần minh định một điều rằng, trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay, sự chỉ đạo án không hoàn toàn là xấu.

chidao4

Việt Nam vẫn hay có các cấm đoán ngay tại nơi công cộng

Vậy chúng ta nên mong muốn điều gì ?

Chẳng phải lâu nay chuẩn mực tư pháp vẫn là độc lập cho tư pháp hay sao ?

Đúng là như vậy, nhưng nên nhớ rằng tư pháp độc lập là một nguyên tắc đồng bộ trong bộ máy nhà nước được tổ chức theo mô hình tam quyền phân lập với đa nguyên đa đảng.

Đòi hỏi cho tư pháp độc lập mà vẫn dưới chế độ một đảng toàn trị thì cũng chẳng nghĩa lý gì.

Và đòi hỏi là một chuyện, còn ở VN hiện nay mô hình nhà nước kiểu khác, người dân thì vẫn phải sống đã, vẫn phải cần có công lý đã, chứ không thể chờ cho đến khi có cái kia. Và như vậy thì hãy cứ phải chung sống với những chỉ đạo án.

Ngô Ngọc Trai

Nguồn : BBC, 10/01/2018

Luật sư Ngô Ngọc Trai là trưởng một văn phòng luật sư ở Hà Nội.

Published in Diễn đàn

Từ ngày 1/1/2018 một loạt văn bản pháp luật hình sự mới của Việt Nam có hiệu lực, bao gồm Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật thi hành tạm giữ tạm giam và Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự.

lhs1

Vụ tranh chấp khiếu kiện tại xã Đồng Tâm, ngoại thành Hà Nội đã tăng độ nóng sau nhiều tuần không giải quyết được ở cấp xã

Những quy định mới được hy vọng sẽ tạo ra cơ chế bảo vệ tốt hơn cho các quyền công dân, tránh đi những lạm quyền tiêu cực vốn đầy rẫy lâu nay.

Được có luật sư sớm

Một trong những điểm mới tích cực là Bộ luật tố tụng hình sự cho phép các nghi phạm được mời luật sư ngay từ sớm.

Trước đây theo luật cũ nhiều nghi phạm gồm Giám đốc các doanh nghiệp, Giám đốc Ngân hàng và các nghi can hình sự nói chung, mặc dù chưa bị khởi tố nhưng thường hay bị cơ quan điều tra triệu tập làm việc.

Khi họ muốn mời luật sư tham gia cùng thì hay bị từ chối với lý do rằng luật sư bào chữa chỉ được tham gia khi đã khởi tố vụ án hoặc nghi phạm bị bắt giữ. Cho nên luật sư không được tham gia buổi làm việc và bị đuổi ra ngoài.

Điều này gây bất lợi lo lắng cho người bị triệu tập, bởi tại giai đoạn tiền tố tụng này cơ quan điều tra cũng thực hiện nhiều hoạt động kiểm tra xác minh không khác gì những hoạt động điều tra khi đã khởi tố vụ án rồi, ví như lấy lời khai, yêu cầu cung cấp tài liệu chứng cứ, giám định chữ ký, đối chất...

Nhiều trường hợp bị hạch sách nhũng nhiễu qua những việc triệu tập làm việc, khiến cho mặc dù chưa bị khởi tố nhưng nghi phạm cũng bị mất chức mất việc, có trường hợp bị áp lực quá đến nỗi tự vẫn.

Nay Bộ luật tố tụng hình sự mới có quy định người bị tình nghi phạm tội được quyền mời luật sư bảo vệ quyền lợi từ trước khi khởi tố vụ án, ngay khi nghi phạm bị triệu tập thì luật sư được tham gia làm việc cùng cơ quan điều tra.

Xử nặng bức cung

Luật hình sự mới còn có sự thay đổi quan điểm rất rõ ràng về mức độ xử lý đối với các hành vi bức cung.

Luật cũ năm 1999 quy định hình phạt đối với hành vi bức cung chỉ tối đa lên đến 10 năm tù, nhưng luật mới quy định hình phạt lên đến 20 năm hoặc tù chung thân.

Điều này thể hiện quan điểm tiến bộ mới của nhà nước, tôn trọng và thực thi nghiêm túc các cam kết quốc tế về bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự. Đặc biệt là từ năm 2014 Quốc hội VN đã phê chuẩn tham gia Công ước quốc tế về chống tra tấn và đối xử tàn bạo.

lhs2

Các bị cáo được đưa qua cửa kiểm tra an ninh trong một phiên xử tại Thành phố Hồ Chí Minh

Hình phạt nghiêm khắc đối với hành vi bức cung là một thông điệp cảnh báo có tính răn đe gửi đến ngành điều tra để ngăn ngừa giảm thiểu các hành vi bức cung vốn rất phổ biến.

Củng cố bổ trợ cho quy định này luật mới còn quy định lắp đặt camera ghi âm ghi hình trong các phòng hỏi cung trên phạm vi cả nước để giám sát việc lấy cung. Đây là một tiến bộ thể hiện nỗ lực cải cách rất thực chất của Nhà nước Việt Nam.

Quyền im lặng

Một trong những vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất trong quá trình soạn thảo Bộ luật tố tụng hình sự là quy định về quyền im lặng.

Ngành điều tra đã đưa ra đủ mọi lý do để phản đối quy định này vì lo ngại rằng quy định sẽ gây khó khăn cho công việc của họ.

Nhưng đến cuối cùng quyền im lặng được thông qua tiếp thu đưa vào luật.

Song thay vì quy định trực diện dễ hiểu là bị can được quyền im lặng hoặc quyền từ chối trả lời câu hỏi, thì luật lại viết theo một cách thức trừu tượng là bị can được quyền trình bày lời khai, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.

Dẫu thế, quy định này là một điểm mới tiến bộ, mà nếu được thực thi nghiêm chỉnh cũng sẽ giúp tạo ra môi trường pháp lý bảo vệ tốt cho các quyền của bị can.

Cùng với đó Bộ luật hình sự cũng sửa đổi điều luật về tội danh từ chối khai báo.

Theo luật cũ thì hành vi từ chối khai báo có thể bị xử lý hình sự nhưng luật không phân định rõ chủ thể nào mà chỉ quy định chung chung là người nào từ chối khai báo thì đều bị xử lý. Theo đó điều luật để ngỏ khả năng xử lý cả bị can.

Tới nay Bộ luật hình sự mới đã phân định rõ về chủ thể bị xử lý theo tội danh từ chối khai báo, theo đó chủ thể phạm tội này được làm rõ chỉ bao gồm người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người dịch thuật mà không bao gồm bị can bị cáo.

Sửa đổi này là một điểm tiến bộ cho thấy các nhà làm luật đã xác định rạch ròi củng cố trao quyền im lặng cho bị can bị cáo. Và xác định không coi là nghĩa vụ và không có chế tài đối với việc khai báo của bị can.

Vấn đề thực hiện

Luôn có một khoảng cách rất lớn giữa các quy định pháp luật và vấn đề thực hiện tại Việt Nam.

Thực tế lâu nay pháp luật hình sự được coi là công cụ chuyên chế của Đảng Cộng sản, Nhà nước và giai cấp thống trị, cho nên bản thân nền pháp luật hình sự chứa đựng đầy rẫy những yếu tố chuyên chế, trấn áp.

Cho tới nay những nỗi lo lắng về giữ vững chế độ chính trị vẫn còn đè nặng tâm trí của lãnh đạo các ban ngành, khiến cho nền tư pháp hình sự vẫn là công cụ chuyên chế hữu hiệu, và là một góc khuất kém công khai nhiều lạm quyền.

Một số quy định có tính chất dân chủ ít ỏi như quyền bào chữa và vai trò luật sư nhưng cũng bị xâm hại nặng nề.

Tới nay thì những quy định mới tiến bộ đã giúp hé mở ra những khoảng không gian sáng sủa.

Để có được kết quả này đó là biết bao nỗ lực tranh đấu, phê phán, kêu cầu suốt hàng chục năm của hàng triệu bị can bị cáo và gia đình họ cùng luật sư bào chữa.

Một phần khác đó cũng là kết quả từ sự thúc ép của các tổ chức quốc tế quan tâm đến vấn đề nhân quyền ở Việt Nam.

Khả năng tiếp thu lắng nghe của các ban ngành nhà nước Việt Nam trong trường hợp này là rất đáng khen ngợi.

Các luật mới đã tạo ra hy vọng sẽ giúp cải thiện số phận pháp lý cho rất nhiều người.

Ngô Ngọc Trai

Nguồn : BBC, 27/11/2017

Luật sư Ngô Ngọc Trai, văn phòng luật Công chính, Hà Nội.

Published in Diễn đàn

Quốc hội Việt Nam đang bàn luận về dự thảo Luật đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt, đây là cơ sở pháp lý để các ban ngành xây dựng nên các đặc khu kinh tế trong tương lai.

mohinh1

Việt Nam có bờ biển dài với nhiều đảo đang được khai thác cho phát triển ngư nghiệp và du lịch.

Qua theo dõi thì thấy, các đặc khu kinh tế đang được định hình xây dựng ở Bắc Vân Phong, Phú Quốc, Vân Đồn dường như được mô phỏng từ các đặc khu kinh tế của Trung Quốc được xây dựng từ cuối những năm 1970.

Đó là các khu vực lãnh thổ được áp dụng các chính sách thương mại tự do khác biệt, nhằm phát triển kinh tế thử nghiệm dò đường để có thể áp dụng chính sách cho toàn nước Trung Quốc rộng lớn.

Nhiều người không biết rằng mô hình các đặc khu kinh tế là hình thái phát triển kinh tế mà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình đã học hỏi từ mô hình nhà nước thành phố của Singapore.

Đất nước Singapore của lãnh đạo Lý Quang Diệu có nhiều mối duyên nợ với đất nước Trung Hoa, do một số lượng lớn đa số người Singapore có gốc là người Hoa trong đó có vợ chồng ông Lý Quang Diệu.

Trong thời kỳ lãnh đạo đất nước Sigapore, ông Lý Quang Diệu ban đầu bị quy cho là thành phần thân cộng sản, nhưng ông đã vượt qua được nghi ngờ đó và đã tích cực chống lại ảnh hưởng của người cộng sản hoạt động rất mạnh tại đất nước Malaysia.

Dưới sự lãnh đạo của ông đất nước Singapore đã có những bước phát triển thần kỳ. Từ một đất nước đứng bên bờ vực sụp đổ khi người Anh rút đi, đến năm 1985 GDP bình quân đầu người của Singapore là 6.500 đôla Mỹ so với của Anh là 8.200 đôla Mỹ. Đến năm 1995 GDP bình quan đầu người của Singapore là 26.000 đôla Mỹ vượt trội so với mức 19.700 đô la Mỹ của Anh.

Ngay từ sớm các nhà lãnh đạo Trung quốc trong đó có Đặng Tiểu Bình đã nhìn ra con đường phát triển của Singapore. Khi lên nắm quyền vào năm 1978 ông Đặng Tiểu Bình đã đi thăm Singapore và đặt mục tiêu học hỏi cách thức phát triển của Singapore để giúp đất nước Trung Hoa lạc hậu.

Người Trung Hoa hiểu rằng một nước Singapore bé nhỏ không có mưu đồ gì xấu đối với đất nước Trung Hoa rộng lớn, còn nhà lãnh đạo Lý Quang Diệu cũng muốn nâng cao vị thế của đất nước mình.

mohinh2

Trung Quốc đã học tập mô hình đặc khu từ Singapore, một đảo quốc hay quốc gia đô thị ở Đông Nam Á, theo tác giả.

Ông nhận ra rằng để Singapore không còn bị coi là bé nhỏ thì cần biến Singapore thành một mô hình, một kiểu 'sản phẩm' có thể xuất khẩu được, và do vậy ông Lý đã sẵn sàng giúp đỡ Trung Quốc.

Trong cuốn Hồi ký từ thế giới thứ ba vươn lên thứ nhất, ông Lý Quang Diệu cho biết, sau khi được sự cho phép của lãnh đạo Đặng Tiểu Bình hàng trăm đoàn đại biểu Trung Quốc đã đến Singapore để học hỏi kinh nghiệm phát triển kinh tế và xây dựng đất nước. Họ đem theo băng ghi hình, máy quay phim và đất nước Singapore bị đem ra 'mổ xẻ'.

Ông Lý viết : Họ đã đặt chúng tôi dưới ống kính hiển vi và nghiên cứu những nội dung mà họ cho là thu hút và mong muốn mô phỏng trong các thành phố của họ. Và nguyên Bộ trưởng Bộ tài chính Singapore là người cố vấn cho Trung Quốc về việc xây dựng các đặc khu kinh tế.

Các đoàn đại biểu người Trung Quốc đặt ra những câu hỏi về cách giải quyết các vấn đề thu hút đầu tư nước ngoài, phòng chống tội phạm, cũng như sự suy đồi xuống cấp của đạo đức xã hội, cái mà Singapore đã làm rất tốt để phát triển cũng như ngăn chặn.

Một trong các vấn đề kinh tế mà phía Singapore đưa ra khuyến cáo là phải tạo cho Ngân hàng trung ương Trung Quốc sự độc lập và Chính phủ không được ra lệnh cho ngân hàng.

Bởi lẽ các chính sách tài chính tiền tệ là cái có ảnh hưởng đến mọi thành phần kinh tế mà trong đó chính phủ chỉ là một thành phần tham gia vào đó. Chính phủ không được can thiệp vào ngân hàng để đưa ra các chính sách có lợi cho mình mà rất có thể gây hại cho các thành phần kinh tế khác.

Tựu chung lại là đã có những sự chia sẻ học hỏi nghiêm túc như vậy. Người Trung Quốc đã lập ra các đặc khu kinh tế với diện tích và dân số tương đương với đất nước Singapore, tại đó họ áp dụng các chính sách kinh tế tiến bộ, biến các đặc khu kinh tế làm vật thử nghiệm, để rồi chọn lọc chính sách thành công áp dụng cho toàn bộ đất nước.

Việt Nam giờ thì sao ?

Cần phải hiểu được về lịch sử hình thành các đặc khu kinh tế như vậy, được xây dựng ở thời điểm đất nước Trung Quốc bước vào mở cửa, chuyển mình từ nền kinh tế kế hoạch hóa quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Do có nhiều cái mới lạ, do bị hạn chế về năng lực nhận thức và kỹ năng quản trị nên họ phải đi từng bước.

Nhưng Việt Nam hiện giờ thì khác, Việt Nam đã có 30 năm đổi mới, các chính sách về tự do thương mại cũng không còn mới mẻ nữa. Biết bao nhiêu phái đoàn quốc tế đã giao thiệp với Việt Nam suốt mấy chục năm và biết bao khuyến cáo kinh tế được đưa ra.

Vậy việc xây dựng đặc khu kinh tế hiện nay có phù hợp không ?

Có chính sách tự do thương mại nào mà các đặc khu kinh tế làm được mà các nơi như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Đồng Nai, Bình Dương không làm được ?

mohinh3

Nhiều đặc khu kinh tế có kế hoạch phát triển các dịch vụ vui chơi, giải trí, theo truyền thông Việt Nam.

Thực tế qua theo dõi việc bàn luận về xây dựng các đặc khu kinh tế tôi thấy các ý kiến nêu ra chẳng có gì mới. Những vấn đề như phát triển công nghệ cao, du lịch sinh thái, công nghệ sinh học, du lịch nghỉ dưỡng… đều đã được bàn luận từ lâu.

Tôi chỉ thấy có sự khác biệt ở các đặc khu này là cho phép hợp pháp hóa đánh bạc thông qua kế hoạch xây dựng sòng bài Casino, hoặc có ý kiến cho hợp thức hóa mại dâm. Với sự khác biệt ít ỏi như vậy mà nói xây dựng các đặc khu kinh tế là không thỏa đáng.

Nếu các chính sách ở đặc khu kinh tế chỉ khác về tỷ lệ, mức độ, liều lượng so với các thành phố khác thì người ta sẽ đặt câu hỏi là tại sao không áp dụng khung khổ chính sách đó cho cả nước để tạo ra lợi nhuận ?

Là nước đang phát triển nhưng vẫn có nguy cơ tụt hậu so với các nước thì một chính sách có lợi phải áp dụng ngay cho cả nước chứ sao lại chỉ một đặc khu ?

Là nước phát triển kinh tế thị trường chậm hàng nửa thế kỷ so với thế giới, tất cả các chính sách kinh tế tài chính mà Việt Nam áp dụng đều đã được hàng chục hàng trăm quốc gia trên thế giới đã thực hiện rồi, sao còn phải lo thực nghiệm ?

Tôi cảm thấy việc xây dựng đặc khu kinh tế có cái gì như là sự trở về với những thuộc tính của độc tài, độc đoán, tùy tiện mà quay lưng lại với các giá trị về bình đẳng công bằng.

Cho nên việc xây dựng các đặc khu kinh tế ở bối cảnh hiện nay là lỗi thời.

Luật sư Ngô Ngọc Trai

Nguồn : BBC, 18/11/2017

Published in Diễn đàn

Mới đây báo chí trong nước đưa tin về căn biệt thự khủng của ông Bùi Cách Tuyến, cựu Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và môi trường.

bietthu1

Hình chụp khu biệt thự của cựu Thứ trưởng Bùi Cách Tuyến

Trả lời phỏng vấn trên báo Người Lao động, ông Tuyến cho biết vào năm 2013 khi ông còn làm tại Bộ Tài nguyên và môi trường thì vợ ông mua khu đất ruộng 7.000 m2 vùng ven huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh. Đến năm 2015 ông về hưu và vợ chồng ông đã xây căn biệt thự nhà vườn mà báo chí gọi là 'biệt phủ'.

Khi bị phóng viên chất vấn về giá trị khu biệt phủ và những nghi ngờ về nguồn gốc số tiền thì vị cựu Thứ trưởng cho rằng khu đất vốn là đất ruộng nằm sát bờ sông được tôn tạo lên làm đất , nằm tận Hóc Môn nên giá rẻ.

Đằng sau sự việc này cho thấy điều gì ?

Bên cạnh những nghi ngờ của dư luận về nguồn gốc khối tài sản lớn của quan chức, thì đằng sau sự việc này tồn tại một vấn đ quyền lợi rất chính đáng của người sử dụng đất, đó là quyền xây nhà trên đất của mình, kể cả là đất nông nghiệp.

Bộ Tài nguyên và môi trường là cơ quan quản lý nhà nước về đất đai, vị cựu Thứ trưởng đã sử dụng năng lực thẩm quyền của mình đ làm được một việc khó là chuyển đổi khu đất nông nghiệp sang làm đất .

Ông ta đã nhìn ra giá trị có thể có của mảnh đất, mua nó và làm thủ tục chuyển đổi, bằng cách đó ông ta có được một căn biệt thự đẹp, gia tăng giá trị kinh tế cho mảnh đất.

Điều này cho thấy việc chuyển đổi một khu đất nông nghiệp kém giá trị thành một cơ ngơi bất động sản nhà đ sộ, cải thiện về nơi ăn chỗ cho người sử dụng và làm đẹp cho bộ mặt địa phương, là một việc cần thiết, chính đáng, và rất nên làm.

Nhưng lợi ích từ việc chuyển đổi như thế này lại bị bó hẹp trong những trường hợp cá biệt cụ thể, còn thực tế nhiều người dân đang nắm quyền sử dụng những mảnh vườn, mảnh ruộng, họ không thể chuyển mảnh đất của mình sang làm đất vì những vấn đ liên quan đến quy hoạch đất đai.

Nhiều trường hợp xây dựng rồi bị phá dỡ chỉ vì làm trên đất nông nghiệp, trong khi thực tế công trình xây dựng cũng chẳng gây ảnh hưởng gì đến ai, không ảnh hưởng gì đến giao thông, thủy lợi, điện lưới hay môi trường, nhưng vẫn bị phá dỡ.

Thực tế rất nhiều những trường hợp xây dựng rồi bị phá dỡ, cho tới nay không hề được các ban ngành thống kê tính toán thiệt hại.

Đ hình dung về mức đ thiệt hại thì có thể xét qua những trường hợp nổi bật được báo chí đưa tin, đó là những biệt thự lộng lẫy nguy nga của các vị quan chức, đã bị xử lý yêu cầu phá dỡ không thương tiếc vì làm trên đất nông nghiệp.

bietthu2

Khu biệt thự của ông Nguyễn Văn Đấu - Phó Ban Tổ chức Tỉnh ủy Đồng Nai

Ví như hồi tháng 8/2017 gia đình ông Phó Ban tổ chức tỉnh ủy Đồng Nai bị phát hiện xây dựng biệt thự trái phép trên đất nông nghiệp với diện tích 2000 mét vuông, bị xử lý yêu cầu phá dỡ. Hay hồi tháng 4/2017 gia đình vị Phó Ban nội chính Tỉnh ủy Đắk Lắk cũng bị phát hiện xây dựng biệt thự trên đất nông nghiệp cả nghìn mét vuông cũng bị yêu cầu phá dỡ.

Hồi tháng 6/2017 báo chí đưa tin việc xây dựng trái phép trên đất nông nghiệp xảy ra tại ven hồ Đầm Trị thuộc khu Hồ Tây, Hà Nội và rất nhiều trường hợp khác.

Nhìn vào những căn biệt thự đẹp mà báo chí chụp ảnh đưa tin, tôi thấy thật tiếc của và tốn kém khi nghĩ đến việc sẽ phải đập đi.

Tôi cũng thấy là công trình xây dựng không hề ảnh hưởng gì đến xung quanh, và tôi hình dung ra hàng chục nghìn trường hợp xây dựng trên cả nước bị phá dỡ vì lý do tương tự.

Nhiều ban ngành lâu nay có quan điểm rất coi trọng giữ gìn đất nông nghiệp, từ đó cấm cản việc xây dựng. Các vấn đ quy hoạch cũng kém chất lượng khiến cho nhiều mảnh đất đáng ra có thể làm đất nhưng lại bị cho là đất nông nghiệp.

Tôi cho rằng đất nông nghiệp xét cho cùng cũng chỉ là đất sử dụng mà thôi và sử dụng như thế nào đ tạo ra hiệu quả kinh tế thì đó là lựa chọn của người sử dụng. Không cho xây nhà họ chán chường bỏ bê ruộng vườn không trồng cấy thì lợi ích cho ai ?

Lo lắng giữ gìn đất nông nghiệp cho tương lai, nhưng đời sống người dân hiện tại không đáng được quan tâm hay sao ?

Sự cấm cản người dân trong lựa chọn mục đích sử dụng đất gây hậu quả đặc biệt xấu cho tầng lớp dân lao động nông thôn, khi kìm hãm giam cầm họ trong khó khăn vì không được sử dụng đất vào mục đích đạt hiệu quả kinh tế cao nhất và không giúp cải thiện chỗ cho họ.

Thực tế cho thấy, nông thôn hộ gia đình nào nhạy bén lo lót chuyển đổi được mảnh đất của mình thì đời sống kinh tế của gia đình đó được cải thiện.

bietthu3

Đất nông nghiệp quanh các thành phố có còn được coi trọng ?

Trả lại quyền cho người dân

Từ trường hợp của vị cựu Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và môi trường đã chuyển đổi đất nông nghiệp kém giá trị thành đất với giá trị cao. Điều đó cho thấy việc chuyển đổi là hoàn toàn có thể, nên làm, và điều đó thực chất cũng chỉ là sửa đi cái câu chữ trong đống giấy tờ của đám thư lại quan liêu mà thôi.

Thực tế khi người dân xin phép chuyển đổi thì các cấp chính quyền sẽ phải làm cái việc là điều chỉnh nội dung quy hoạch.

Đây là chỗ mà người dân sẽ vấp phải bộ máy quan liêu nhũng nhiễu lạm quyền, mà những quan chức thì dễ dàng vượt qua, còn dân đen thì hay gặp khó khiến cho họ cứ xây mà không xin phép đ rồi bị đập phá.

Nhiều trường hợp người dân xin chuyển đổi nhưng bị từ chối vì bị cho là phá vỡ quy hoạch về đất nông nghiệp, ảnh hưởng đến những kế hoạch tính toán sử dụng đất trong tương lai.

Tức là những lý do từ chối không hề căn cứ vào những ảnh hưởng xấu thực tế trong hiện tại, mà chỉ vì những lo lắng mơ hồ xa xôi trong tương lai.

Nay tôi cho rằng đ tháo gỡ vướng mắc cho người dân trong sử dụng đất, trong đó có cả những quan chức đang mắc bẫy vì chính sách quốc gia của chính họ, đ tránh đi cái vòng luẩn quẩn giữa xây dựng, phá dỡ và tốn kém, thì chính sách quản lý đất đai cần thay đổi, phải trả lại quyền cho người dân quyền được tự chủ trong lựa chọn mục đích sử dụng đất.

Khi đó việc xây dựng chỉ có thể bị cấm khi gây ảnh hưởng xấu thực tế đến xung quanh, ngoài ra không một lý do nào khác được đưa ra đ phá dỡ nhà dân như chỉ vì trái với giấy tờ quy hoạch, chưa xin phép xây dựng, hoặc những lo lắng mơ hồ về bảo vệ đất nông nghiệp.

Ngô Ngọc Trai

Nguồn : BBC, 06/11/20147

Luật sư Ngô Ngọc Trai là Giám đốc Công ty luật Công chính, Hà Nội.

Published in Diễn đàn

Thông tin mới nhất liên quan đến vụ việc tranh chấp đất đai ở xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội là mới đây huyện ủy Mỹ Đức đã khai trừ đảng đối với bà Nguyễn Thị Lan, Bí thư đảng ủy kiêm Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã.

Như vậy là sau chuỗi sự kiện người dân bắt giữ rồi thả 38 cán bộ đảng viên và cảnh sát cơ động, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội Nguyễn Đức Chung cam kết không khởi tố, nhưng sau đó cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Hà Nội lại ra quyết định khởi tố triệu tập người dân Đồng Tâm, tới nay Bí thư đảng ủy xã bị khai trừ, cho thấy vụ việc vẫn còn căng thẳng.

dongtam1

Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung về Đồng Tâm gặp dân hôm 22/4

Theo chiều hướng này vụ việc ở Đồng Tâm sẽ còn là điểm nóng dư luận trong một thời gian dài nữa, những tính toán rất có thể sai lầm của các bên không loại trừ sẽ dẫn đến tái diễn bùng nổ bạo lực. Về phía chính quyền cho thấy họ đã quyết ăn thua đủ và không muốn cho qua chuyện này, còn người dân thì có vẻ như cũng dám chấp nhận hy sinh.

Vậy làm sao để giảm tránh những vụ việc như Đồng Tâm về sau ?

Vai trò của Tòa án

Một điều thấy rõ trong vụ việc này là mặc dù tranh chấp kéo dài qua nhiều năm những đã không được Tòa án đứng ra phân định đúng sai về sự việc.

Cho đến thời điểm này những kết luận về đất đồng Sênh là đất quốc phòng hay đất của người dân đều chỉ là kết luận thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo của các cấp chính quyền địa phương gồm xã, huyện và thành phố Hà Nội.

Theo thông tin bài báo 'Khai trừ Đảng Bí thư Đảng ủy xã Đồng Tâm' trên báo Motthegioi cho biết thì, ngày 31/10/2016 UBND Thành phố Hà Nội đã có kết luận nội dung tố cáo của một số công dân thôn Hoành, xã Đồng Tâm về việc việc thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, di dời một số hộ dân đang sử dụng đất tại khu vực sân bay Miếu Môn.

Huyện ủy Mỹ Đức cho rằng, mặc dù văn bản của thành phố Hà Nội đã khẳng định đất khu vực sân bay Miếu Môn là đất quốc phòng nhưng bà Nguyễn Thị Lan đã không chỉ đạo cán bộ, đảng viên, nhân dân thực hiện đúng theo tinh thần trên nên đã kỷ luật khai trừ bà Lan.

Nhưng ở đây có một vấn đề, đó là kết luận của UBND thành phố Hà Nội là kết luận của người có trách nhiệm nghĩa vụ liên quan đến việc quản lý khu đất, đó không phải là kết quả giải quyết của một cơ quan trung gian công tâm, không thiên vị và bất vụ lợi, giúp tạo dựng sự tin tưởng của người dân vào kết quả giải quyết.

Nếu vụ việc tranh cãi về nguồn gốc đất được giải quyết bởi Tòa án, thì mặc dù ngành Tòa án Việt Nam hiện cũng còn tồn tại nhiều vấn đề, nhưng dù sao đó cũng là cách giải quyết khả dĩ trong việc đưa đến một kết quả đỡ bị chống đối.

Vì quy trình giải quyết của Tòa án là công khai, tại đó phía người dân được đưa ra mọi ý kiến lập luận, được cất lên tiếng nói và được lắng nghe, họ có cơ hội giãi bày tâm trạng, giải tỏa nỗi niềm, cái có ý nghĩa tinh thần không kém phần quan trọng so với việc đòi hỏi lợi ích vật chất.

dongtam2

Các binh sĩ và sĩ quan cảnh sát của chính quyền Hà Nội trong ngày được trao trả tự do ở Đồng Tâm, Hà Nội vài tháng trước đây.

Còn quy trình giải quyết khiếu nại là lối giải quyết áp đặt quan điểm của kẻ mạnh đối với kẻ yếu. Và người dân sẽ không thể tâm phục khẩu phục cho một lối giải quyết như vậy, mà điều này là rất quan trọng trong việc giữ ổn cố đời sống xã hội.

Thực tế cho thấy, khiếu nại đến cái người lấy đất mà mong người ta thay đổi ý kiến thì cái cơ chế như vậy luôn khiến cho người dân ở vào trạng thái tuyệt vọng.

Hơn cả pháp luật

Vấn đề bản chất tranh chấp đất đai tại Đồng Tâm là do tồn tại sự thiếu rõ ràng về hồ sơ giấy tờ căn cứ.

Cho nên việc giải quyết vụ việc không chỉ đơn thuần căn cứ theo các quy định pháp luật hiện tại.

Có thể hình dung là mấy chục năm trước do nhu cầu của chiến tranh, một cấp chính quyền nào đó đã quyết định sử dụng khu đất ở Đồng Tâm làm sân bay. Nhưng ranh giới mốc giới không xác định rõ ràng và không lập hàng rào quản lý chặt chẽ, dẫn đến người dân tái sử dụng, đến nay chính quyền lại muốn lấy ra cho quân đội.

Nhiều vấn đề sẽ cần làm rõ như xác định gianh giới mốc giới ở đâu, chứng từ sổ sách có lưu giữ không, nhân chứng địa phương ý kiến thế nào, trách nhiệm của cơ quan được giao quản lý đất ra sao, quyền lợi người dân sử dụng đất giải quyết thế nào ?

Phải dựa vào các dự kiện thực tế như vậy thì việc giải quyết mới thấu tình đạt lý, và quyền lợi chính đáng cho các bên mới được bảo đảm. Điều đó đòi hỏi sự việc phải được giải quyết bởi Tòa án chứ không thể do chính quyền địa phương giải quyết mà được.

Sự không rõ ràng của hồ sơ chứng cứ khiến cho việc vận dụng pháp luật bị hạn chế và cần đến nhiều nhận định chủ quan, khi đó càng cần đến sự xét đoán công tâm khách quan của Tòa án thay vì Ủy ban nhân dân là cơ quan có trách nhiệm liên quan.

Cho nên giải quyết vụ việc ở Đồng Tâm ngay từ ban đầu đã sai về cách làm, đó cũng do bởi pháp luật về giải quyết khiếu nại đã quy định như vậy và thực tế đáng buồn là Tòa án đã không được nhờ cậy.

Vẫn là Tòa án

Trong một xã hội ai sẽ là người đứng ra bảo vệ cho người dân trước sự xâm hại, mà rất nhiều khi kẻ xâm hại lại là chính quyền ?

Trả lời câu hỏi này, lịch sử văn minh nhân loại đã nghĩ ra mô hình chính quyền với ba quyền phân lập gồm lập pháp, hành pháp và tư pháp. Để nhánh quyền lực này sẽ khắc chế ngăn chặn nhánh kia bảo vệ người dân.

Khi phân chia quyền lực làm ba nhánh, người ta hy vọng rằng sự tha hóa thối nát nếu có sẽ xảy ra không đồng thời, và một trong các nhánh còn lại vẫn giữ được sự trung thành bảo vệ người dân.

Ở Việt Nam lâu nay ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp không được phân chia mà tập trung khiến cho quyền lực của các cấp chính quyền quá lớn tạo nguy cơ xấu đối với quyền lợi dân chúng.

Trong vụ việc ở Đồng Tâm thì chính quyền địa phương nắm giữ cả bà quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, người dân không có chỗ nương tựa vào đâu để bảo vệ quyền lợi.

Tòa án đã không hề có vai trò và không hề được nhắc đến như là một thiết chế giải pháp có năng lực giải quyết vụ việc. Quyền hạn của Tòa án quá yếu kém nên không đảm đương được vai trò là định chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người dân.

Rộng hơn một chút, rất nhiều vấn đề lộn xộn hiện nay trong đời sống xã hội đều có nguyên nhân là tư pháp yếu kém đã không đóng góp giúp ích được nhiều cho quản trị quốc gia. Nói cách khác, do Tòa án được thiết kế kém quyền trong hệ thống bộ máy nhà nước lâu nay, đó là nguyên nhân đã dẫn đến nhiều thực trạng xấu của đời sống xã hội.

Nay vụ Đồng Tâm đã xảy ra như vậy, để tránh những trường hợp tương tự về sau, đã đến lúc các ban ngành cần nhận ra vai trò của Tòa án trong quản trị quốc gia, tháo gỡ các xung đột quyền lợi.

Ngành tư pháp Việt Nam cần được tăng quyền để làm tốt hơn vai trò trò phân xử tranh cãi, ngăn chặn những sai trái lạm quyền của các cấp chính quyền. Để việc cưỡng chế người dân chỉ được thực hiện sau khi đã có quyết định giải quyết của Tòa án về vụ việc.

Ngô Ngọc Trai

Nguồn : BBC, 23/10/2017

Tác giả Ngô Ngọc Trai là luật sư hiện đang hành 

Published in Diễn đàn
samedi, 07 octobre 2017 15:34

Xử sắt đá vụ Châu Thị Thu Nga ?

Hôm 5/10 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử vụ án cựu Đại biểu quốc hội Châu Thị Thu Nga về tội lừa đảo chiếm đoạt tiền của khách hàng mua nhà, trong dự án bất động sản của doanh nghiệp mà bà Nga là chủ tịch Hội đồng quản trị.

xu1

Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội bắt đầu thẩm vấn, xét hỏi bị cáo Châu Thị Thu Nga và các đồng phạm để làm rõ hành vi lừa đảo, chiếm đoạt gần 400 tỷ đồng.

Tại phần xét hỏi bà Nga muốn khai ra số tiền mấy chục tỷ đồng chạy Đại biểu quốc hội nhưng Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đã ngắt không cho bà Nga khai báo với lý do vấn đề này đã được tách ra làm một vụ án khác để điều tra.

Việc không cho khai báo đã gây phẫn nộ trong dư luận vì người dân rất muốn biết số tiền bà Nga chạy Đại biểu quốc hội đã đưa cho ai, ai đã cầm số tiền này để giúp bà Nga trúng cử Đại biểu quốc hội ?

Cũng theo thông tin báo chí thì quá trình điều tra trước đó người được khai ra đã phủ nhận việc nhận tiền, và khi cho hai bên đối chất thì hai bên giữ nguyên quan điểm mâu thuẫn trái ngược nhau.

Vậy làm thế nào để xử lý hành vi tham nhũng trong trường hợp này ?

Bài học từ Singapore

Trong cuốn hồi ký của ông Lý Quang Diệu có tiêu đề 'Từ thế giới thứ ba vươn lên thứ nhất', ông Diệu đã tường thuật lại công cuộc chống tham nhũng của đất nước Singapore do ông khởi xướng, điều đã giúp cho đất nước ông xếp vào hàng ngũ các quốc gia ít tham nhũng nhất khu vực Châu Á vào năm 1997, trên cả Hồng Kong và Nhật Bản, xếp thứ 7 trên toàn thế giới cho thành tích vắng mặt tham nhũng vào năm 1998.

xu2

Cố Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu, người khởi xướng chương trình sắt đá chống tham nhũng ở Singapore cuối những năm 1990.

Từ năm 1960 vấn đề tham nhũng tại Singapore được ông nêu ra không khác gì tình trạng tham nhũng trong mọi mặt đời sống xã hội Việt Nam ngày nay. Tham nhũng trong bộ máy hành chính quan liêu từ nhỏ đến lớn trong các phạm vi như thủ tục hải quan, cảnh sát giao thông, chăm sóc bệnh viện, xây nhà trái phép, v.v.

Đối với những đối tượng nhỏ ông Lý Quang Diệu đã đơn giản hóa thủ tục hành chính, hủy bỏ việc cấp giấy phép hoặc phê chuẩn trong những việc ít quan trọng.

Để đấu tranh đối với đối tượng cao cấp ông Lý Quang Diệu đã thực hiện một chương trình sắt đá, đó là tiến hành sửa luật nâng cao khả năng diệt trừ tham nhũng. Trong đó ông cho biết 'Luật hiện hành quy định chứng cứ do kẻ đồng phạm khai ra không có giá trị tin cậy trừ khi được chứng minh. Chúng tôi đã thay đổi, cho phép các quan tòa chấp nhận lời khai của kẻ đồng phạm là chứng cứ'.

Là một luật sư trước khi tham gia hoạt động chính trị, ông Lý Quang Diệu đã rất biết vận dụng các yếu tố pháp lý trong việc làm sạch bộ máy.

Trong đó thay đổi hiệu quả nhất mà ông thừa nhận đó là vào năm 1960 luật pháp cho phép quan tòa xem những chứng cứ cho thấy kẻ bị tố cáo đang sống ở mức sống vượt quá khả năng kinh tế của anh ta hoặc có những tài sản mà thu nhập của anh ta không thể giải thích được, đó là bằng chứng xác thực chứng minh rằng người bị tố cáo đã nhận hối lộ.

Ông cũng kể lại một loạt các nhân sự cao cấp trong đó có những người là đồng chí thân thiết công tác với ông nhiều năm bị cáo buộc tham nhũng, họ đã nhận những khoản tiền của doanh nghiệp để có những chính sách làm lợi cho doanh nghiệp. Những người này đều bị xử lý nghiêm khắc, người thì đi tù, người thì tìm đến cái chết để tránh nỗi đau đớn quá mất mặt do bị khai trừ xử lý.

Việt Nam thì sao ?

Thật đáng ngạc nhiên là từ lâu nay pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đã quy định lời khai của bị can hay kẻ đồng phạm đều đã là chứng cứ.

Tức là cái quy định được sửa đổi có tính chất sắt đá mang hơi hướng quân phiệt độc tài của ông Lý Quang Diệu thì lại là cái đã có từ lâu ở Việt Nam.

Lời khai cũng là chứng cứ, luật Việt Nam đã quy định vậy, nhưng việc vận dụng thì lại có nhiều 'uyển chuyển linh động' theo kiểu đối với dân thường thì không cho nó thoát, nhưng đối với quan chức ví như trong vụ bà Châu Thị Thu Nga thì lại đòi hỏi phải thêm những bằng chứng rõ ràng hơn.

Đòi hỏi những bằng chứng rõ ràng hơn là một điều đáng hoan nghênh, nhưng nếu không thể có thêm những bằng chứng rõ ràng hơn thì sao ? Sẽ thế nào nếu Tòa án không tuyên là có tội trong khi dân chúng đều tin là có tội ? Việc làm của tòa án có thể đi ngược lại với nhận thức duy lý của con người ?

xu3

Bà Châu Thị Thu Nga bị Quốc hội bãi nhiệm tư cách Đại biểu vào tháng 6/2015

Đòi hỏi những bằng chứng rõ ràng để kết án, đó là một cách làm tốt, nhưng nếu chỉ phụ thuộc vào việc phải có bằng chứng rõ ràng mới có thể kết án thì đó lại là một cách làm sai, bộc lộ nhận thức giản đơn về những vấn đề vốn dĩ phức tạp của khoa học tư pháp vốn đòi hỏi phải vận dụng đến những đặc tính lý trí con người.

Việc xử án cứ phải có chứng cứ rõ ràng là cách làm không tôn trọng tính phức tạp của thực tiễn, theo lẽ rằng không phải vụ án nào cũng có chứng cứ rõ ràng, không phải khi nào chân lý cũng biểu lộ rõ rệt về sự đúng sai, mà nhiều khi thực tế chỉ cung cấp bày ra trước mắt những sự thiếu hụt không đầy đủ, đòi hỏi tư duy lý trí con người phải vận động bù đắp vào để thấy được chân lý.

Bổ trợ cho điều đó con người đã xây dựng quy trình thủ tục tư pháp gồm Hội đồng xét xử nhiều người và quy trình xét xử theo hai cấp, để nhằm đạt đến sự đúng đắn chính xác trong phán đoán ngõ hầu đạt đến chân lý khách quan. Còn nếu cứ phải có chứng cứ rõ ràng thì chỉ cần một người xét xử là được và cũng chẳng cần phải xét xử qua hai cấp.

Xử lý tham nhũng cần sắt đá

Ông Lý Quang Diệu đã xây dựng một xu hướng quan điểm xem tham nhũng trong các cơ quan chính quyền là sự đe dọa đối với xã hội. Ông đã đưa ra những chuẩn mực đạo đức cao và xây dựng những nguyên tắc chính trị pháp lý khoa học chặt chẽ.

Ở Việt Nam lâu nay quyết tâm phần nhiều mới chỉ ở lời nói, còn thì các nguyên tắc hoạt động chính trị và pháp lý thì lại lỏng lẻo thiếu chiều sâu, thiếu chặt chẽ, thiếu khoa học.

Nhiều ban ngành cấp cao không muốn bị trói buộc vào những quy chế pháp lý có tính chế tài, muốn làm sai mà không bị xử lý, đây cũng là thuộc tính của độc tài. Trong khi ông Lý Quang Diệu xây dựng một khung khổ thể chế để ràng buộc quan chức nhà nước thì ở Việt Nam pháp luật chỉ để xử lý người dân.

Trong vụ việc chạy Đại biểu quốc hội của bà Châu Thị Thu Nga đây là vấn đề tham nhũng mà thế giới họ đã gặp phải từ lâu và họ đã xử lý được rồi, vấn đề của Việt Nam là có đủ sự quyết tâm sắt đá hay không mà thôi.

ác giả là luật sư hành nghề tại Hà Nội.

Published in Diễn đàn

Vài tháng trước, Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết về phát triển kinh tế tư nhân, theo đó các doanh nghiệp dân doanh được coi trọng và được hy vọng sẽ tạo ra động lực mới cho nền kinh tế.

ptkt1

Các doanh nghiệp dân doanh được coi trọng và được hy vọng sẽ tạo ra động lực mới cho nền kinh tế - Ảnh minh họa

Mới đây Bộ Công Thương đã có một động thái mạnh mẽ, cắt giảm 675 điều kiện kinh doanh giúp cởi trói cho doanh nghiệp. Đây được xem là con số điều kiện kinh doanh được cắt giảm lớn chưa từng có trong lịch sử ngành công thương và chiếm tới 55% tổng số các điều kiện đầu tư kinh doanh.

Những điều đó cho thấy vấn đề phát triển kinh tế đang là mối quan tâm ưu tiên lớn nhất của Trung ương Đảng và Chính phủ hiện nay.

Nhưng có ý kiến lo ngại rằng các điều kiện kinh doanh rồi sẽ quay trở lại và sinh sôi nảy nở theo một hình dạng khác, sẽ lại gây khó khăn cho doanh nghiệp. Khi đó sự quyết tâm của Chính phủ hiện tại liệu có đủ để ngăn chặn sự quay trở lại của các điều kiện kinh doanh trong tương lai ?

Bộ Công Thương đã có quyết tâm như thế, còn các bộ khác thì sao ?

Là cơ quan quản lý ngành, liệu các điều kiện kinh doanh do các bộ khác đưa ra đã đúng đắn hợp lý hết chưa ?

Nếu còn những thủ tục có thể cắt giảm thì tại sao các bộ đó không có quyết tâm thực hiện ?

ptkt2

Phát triển kinh tế đang là mối quan tâm ưu tiên lớn nhất của Trung ương Đảng và Chính phủ hiện nay

Làm thế nào để thúc ép chế tài buộc các bộ phải xóa bỏ những điều kiện kinh doanh vô lý và ngăn chặn hiệu quả sự trở lại của những điều kiện kinh doanh ?

Nhìn sang tư pháp

Những điều kiện kinh doanh này là sản phẩm của bộ máy hành chính quan liêu, do các bộ ngành thuộc Chính phủ ban hành trong quá trình thực hiện công tác quản lý. Chúng không phải do Quốc hội ban hành, ấn định trong các văn bản luật.

Những cơ chế kiểm soát trong nội bộ bộ máy Chính phủ đã không đủ khả năng kiểm soát lòng tham của bộ máy quan liêu.

Cho tới nay, thực tiễn cho thấy cần có cơ chế kiểm soát đối trọng từ bên ngoài để ngăn chặn các hành vi nhũng nhiễu doanh nghiệp.

Có một vấn đề là lâu nay nhiều cơ quan hành pháp được quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đưa ra những quy định ngoài luật mà doanh nghiệp vẫn buộc phải chấp hành.

Thẩm quyền như thế cộng với thói quan liêu tham nhũng đã sản sinh ra các giấy phép con, đòi hỏi doanh nghiệp phải đáp ứng điều kiện nếu muốn hoạt động, và đó là cách để bộ máy quan liêu kiếm chác.

Nền tư pháp lâu nay có vị thế yếu kém, đóng góp ít ỏi cho công cuộc quản trị quốc gia. Trước sự sinh sôi nảy nở của các điều kiện kinh doanh và giấy phép con, hệ thống tòa án đã không thể làm gì để ngăn chặn.

Tôi cho rằng điều này cần phải thay đổi. Đã đến lúc cần phải có một bộ máy tư pháp lớn quyền hoạt động hiệu quả để ngăn chặn sự lạm quyền tiêu cực của bộ máy hành chính quan liêu.

Nếu tòa án được trao quyền tuyên xử một văn bản quy phạm pháp luật là vô hiệu và buộc cơ quan ban hành gây thiệt hại phải bồi thường, thì điều này sẽ buộc các bộ phải nâng cao chất lượng của các hoạt động, và các giấy phép con ngoài luật sẽ không có cơ hội để tồn tại.

ptkt3

Hiện Việt Nam chưa có Tòa Hiến pháp (hình minh họa : Tòa án Thành phố Hải Phòng)

Ở các nước có nền tư pháp tiến bộ, họ có Tòa án Hiến pháp là nơi xét xử các vụ kiện tuyên xử một văn bản pháp luật vô hiệu do vi hiến. Hoặc họ có các tòa án tuyên xử một văn bản của Chính phủ là vô hiệu theo pháp luật.

Ở Việt Nam chưa có Tòa án Hiến pháp như thế, nên tòa án hiện tại không có quyền tuyên xử một văn bản luật do Quốc hội ban hành là trái Hiến pháp.

Vậy còn các văn bản do Chính phủ ban hành trái luật thì sao ?

Hiện tại Việt Nam có một hệ thống tòa án hành chính có thẩm quyền xét xử các quyết định hành chính của cơ quan nhà nước bị cho là trái luật.

Nhưng Tòa án Hành chính lại yếu quyền khi không được trao quyền xét xử đối với các văn bản như thông tư của một bộ, thông tư liên tịch của nhiều bộ phối hợp ban hành và các văn bản quyết định của Thủ tướng và các phó thủ tướng, mặc dù các văn bản do các chủ thể này ban hành nhiều khi trái luật hoặc nằm ngoài văn bản luật.

Điều đó cho thấy quyền hạn yếu kém của tòa án Việt Nam : chưa có tòa án hiến pháp để xử lý những hành vi trái Hiến pháp, cũng chưa cho phép tòa án được xử lý các văn bản do Chính phủ ban hành bị cho là trái luật.

Vì không bị chế tài, nên các bộ mới lạm quyền ban hành thông tư, đưa ra đủ loại điều kiện kinh doanh và giấy phép con mà người dân và doanh nghiệp không làm gì được.

Kinh tế cần gắn với tư pháp

Trên đây chỉ là một ví dụ trong một phạm vi cụ thể xung quanh việc xử lý các điều kiện kinh doanh và giấy phép con cho thấy vai trò của tư pháp có thể giúp ích kiến tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế.

Nền tư pháp có thể giúp ích rất nhiều cho phát triển kinh tế nhưng không phải với vai trò và quyền hạn như nó đang có trong hiện tại.

Ở các nước theo mô hình tam quyền phân lập, tòa án là thiết chế tư pháp lớn quyền là một trong ba trụ cột quốc gia, cùng với Chính phủ thực hiện quyền hành pháp và Quốc hội thực hiện quyền lập pháp.

Ở Việt Nam không theo mô hình tam quyền phân lập, nền tư pháp giữ vị trí yếu kém khiến nó kém đóng góp cho quản trị quốc gia.

Năm 2013, Hiến pháp mới được ban hành đã ghi nhận một nét mới là tòa án thực hiện quyền tư pháp, bên cạnh Quốc hội thực hiện quyền lập pháp và Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, điều này là một sự nâng tầm trên giấy cho tư pháp cân xứng với lập pháp và hành pháp.

Thực tế cho đến nay chẳng có diễn biến nào cho thấy tòa án được nâng cao vị thế quyền hạn cho tương xứng với vai trò mới được ghi nhận theo Hiến pháp.

Nay đứng trước yêu cầu về phát triển kinh tế, tháo bỏ ngăn chặn những điều kiện kinh doanh là rào cản khó khăn cho doanh nghiệp, đã đến lúc các ban ngành cần nhận ra vai trò lớn hơn của tòa án.

Các ban ngành cần xóa bỏ nhận thức coi tòa án cũng như nhà nước và pháp luật nói chung đều chỉ là công cụ của giai cấp thống trị, mà từ nhận thức này nhiều ban ngành đã tự đặt mình nằm trên và nằm ngoài chế tài pháp luật.

Tựu chung lại, tôi cho rằng ở Việt Nam hiện nay, muốn kiến tạo môi trường pháp lý thân thiện thuận lợi cho phát triển kinh tế thì cần phải gắn chặt với những cải cách về tư pháp.

Luật sư Ngô Ngọc Trai

Nguồn : BBC, 27/09/2017

Tác giả hành nghề Luật sư hiện đang sống tại Hà Nội.

Published in Diễn đàn

Năm 1959 Quốc hội Việt Nam ban hành một Nghị quyết về Hợp tác hóa nông nghiệp, đưa toàn bộ nông dân miền Bắc vào canh tác tập thể trong các Hợp tác xã nông nghiệp theo phương thức canh tác chung và chia lợi nhuận cho xã viên.

nong1

Việc chuyển mục đích từ trồng lúa sang trồng cây ăn quả, hay chuyển đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp xây chuồng trại chăn nuôi và làm nhà đều phải xin phép.

Đây là chính sách cải tạo nông nghiệp theo đường hướng xây dựng kinh tế tập thể xã hội chủ nghĩa.

Đến năm 1988 Bộ chính trị trung ương đảng cộng sản đã ban hành một nghị quyết số 10 về đổi mới quản lý kinh tế trong nông nghiệp, về sau thường được gọi là chính sách khoán 10. Trong đó có ý chính là khôi phục lại kinh tế hộ gia đình, giao khoán sản phẩm nông nghiệp cho hộ nông dân.

Theo đó nhà nước sẽ giao lại đất canh tác cho các hộ và sẽ nhận lại một phần thành quả lao động, phần còn lại các hộ gia đình được sử dụng và bán đổi ra thị trường.

Đến năm 1993 khi đã thấy được hiệu quả canh tác của hộ gia đình, nhà nước đã tiến hành chia toàn bộ ruộng của các hợp tác xã nông nghiệp cho người dân theo đầu nhân khẩu, ở các tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, bình quân mỗi đầu người được chia từ 1,5 sào đến 2 sào, mỗi sào Bắc Bộ 360 mét vuông.

Các hợp tác xã tuy vẫn còn nhưng không còn kiểu làm chung và chia sản phẩm như trước nữa, hợp tác xã nông nghiệp chuyển sang vai trò cung ứng các vật tư nông nghiệp cho nông dân và bao tiêu sản phẩm.

Thời hạn giao đất nông nghiệp theo Nghị định 64 năm 1993 của Chính phủ chỉ có thời hạn là 20 năm, đến năm 2013 là hết thời hạn, đúng ra người dân phải giao trả lại ruộng cho nhà nước. Nhưng sau khi cân nhắc tính toán, thấy việc thu về để rồi phân chia lại sẽ gây xáo trộn mất ổn định lớn, cho nên Nhà nước quyết định giữ nguyên hiện trạng sử dụng đất và kéo dài thời gian sử dụng cho người dân lên 50 năm. Luật đất đai năm 2013 đã ấn định chính sách này cho cả nước.

Quá trình chia ruộng trước đây, để đảm bảo công bằng cho nên mỗi gia đình được phân chia một khoảnh nhỏ tại mỗi xứ đồng khác nhau theo từng đơn vị thôn xóm, dẫn đến manh mún, nhỏ lẻ không thuận lợi cho việc canh tác.

Từ dăm bảy năm trở lại đây nhiều nơi trên cả nước đã tiến hành dồn điền đổi thửa, dồn ô đổi ruộng, để tập trung ruộng đất mỗi hộ gia đình thành một khoảnh lớn, tạo cơ cấu đồng đất thuận lợi cho việc canh tác.

Bất cập hiện nay

nong2

Nhiều hộ dân canh tác tập thể (hình minh họa)

Chính sách đất đai trong nông nghiệp đã trải qua nhiều biến chuyển, phản ánh sự thay đổi nhận thức qua các thời kỳ. Nhiều việc làm ban đầu bị cho là sai nhưng sau hóa ra lại đúng, quy định chính sách bất cập được sửa đổi, và bây giờ nhìn lại mới thấy các chính sách trước đây thật là không phù hợp.

Đó là một tiền đề tốt để suy xét rằng, vậy liệu các các quy định chính sách hiện nay thì sao ? Liệu đã đúng đắn hợp lý chưa, hay là vẫn còn tồn tại những quy định phi lý sai trái mà tương lai khi nhìn lại thì sẽ thấy quy định hiện tại đầy phi lý mâu thuẫn ?

Tôi cho rằng thực tế đang tồn tại một quy định chính sách quản lý đất đai sai trái, trói buộc sức sản xuất của nông dân, đang âm ỉ đốt lên những ngọn lửa bất đồng phản kháng ở nông thôn. Tôi xin chỉ ra như sau.

Sau hơn 30 năm đất nước đổi mới kinh tế (tính từ năm 1986), đời sống nông thôn đã có những bước cải thiện. Có thể hình dung là người dân đã tích lũy được một số vốn liếng mà theo đó họ sẽ có xu hướng thay đổi cái cơ cấu trồng cấy manh mún kém hiệu quả năng suất xưa nay.

Nhờ những tiến bộ kinh tế nên các trang thiết bị máy móc cơ khí hóa nông nghiệp như máy bơm, máy cày, máy bừa, máy gặt, hệ thống đường điện đã phổ biến khắp nơi.

Các loại máy móc cơ giới, xây dựng như công nông, xe tải nhỏ, máy xúc, máy ủi, máy cắt, máy khoan cũng được phổ biến tạo ra khả năng mới cho người dân, và họ sẽ áp dụng cái khả năng mới đó vào trong canh tác nông nghiệp.

Kinh tế thị trường cũng giúp tạo ra thị trường tiêu thụ cho các mặt hàng nông sản, lúa gạo không còn là cây lương thực tạo ra giá trị kinh tế chủ đạo nữa, nhiều nơi trồng hoa màu, rau củ các loại hoặc cây ăn quả, chăn nuôi thả các loại gia cầm, gia súc, cá tôm lại cho hiệu quả kinh tế tính theo diện tích cao hơn cấy lúa.

Những điều đó phát triển như một sự tất yếu khách quan. Tất nhiên cũng không phải mọi vùng nông thôn với hàng chục triệu nông dân đều có được môi trường tích tụ các yếu tố tương thích đồng thời nảy sinh như trên.

Nhưng có lẽ là hàng trăm nghìn hộ gia đình đâu đó trên cả nước đã ở vào cái bối cảnh trạng thái của sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi trong nông nghiệp.

Cấm chuyển đổi mục đích sử dụng đất

nong3

Người dân Đồng Tâm có thực sự tin chính quyền ?

Sự phát triển theo chiều hướng tất yếu mở ra cơ hội khả năng mới cho hàng trăm nghìn hộ gia đình, nhưng họ đang vấp phải một chướng ngại lớn, đó là người dân không được tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp.

Việc chuyển mục đích từ trồng lúa sang trồng cây ăn quả, hay chuyển đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp xây chuồng trại chăn nuôi và làm nhà đều phải xin phép. Nhưng sự cho phép lại phụ thuộc vào các vấn đề quy hoạch quan liêu, thiếu hợp lý khoa học nên đang là một rào cản, khiến người dân khó thể làm đúng pháp luật mà đạt được mục đích của mình.

Do những thôi thúc kinh tế nên người dân nhiều nơi đã vượt rào, tự gỡ mình thoát ra khỏi những trói buộc pháp luật bất cập, họ đã trồng cây ăn quả trên đất lúa và làm chuồng trại chăn nuôi, làm nhà ở trên đất nông nghiệp.

Họ đã vượt rào giống như sự vượt rào đã xảy ra trước đây trong công cuộc chuyển đổi mô hình canh tác theo hợp tác xã kém năng suất chuyển sang mô hình kinh tế hộ gia đình, làm tiền đề cho chính sách khoán 10.

Giống như trước đây, nhận thức của cơ quan quản lý trong trường hợp này đã không theo kịp với sự biến chuyển từ thực tiễn đời sống. Chính quyền nhiều nơi lên kế hoạch xử lý vì cho rằng người dân chuyển mục đích sử dụng đất trái phép. Sự mẫn cán của các địa phương trong trường hợp này lại mang đến hệ quả xấu, tạo ra tình thế chống đối, gây xáo trộn đổ vỡ sự bình yên ở nông thôn.

Những nhận thức quan liêu cứng nhắc và sự lười biếng trong quản lý đất đai, khiến cho người ta không nhận ra cái lẽ tất yếu rằng, đất thuộc quyền sử dụng của các hộ dân, bắt họ phải sử dụng vào mục đích mà họ không muốn thì hiệu quả sẽ ra sao ?

Việc cưỡng chế với ý muốn khôi phục lại hiện trạng như trước kia, nhưng thực tế cũng chỉ làm được cái việc có tính chất phá phách là phá dỡ mà chẳng làm được gì hơn. Vậy thì thực chất nhà nước đem lại lợi ích gì trong hoạt động công vụ này ?

Việc xử lý xây dựng trái phép thường được cho là để giữ nghiêm kỷ cương, giữ nghiêm pháp luật. Nhưng thử hỏi rằng vì sao mà người dân xây dựng, có phải họ rỗi rãi làm điều xằng bậy đâu.

Người dân tích cóp bao năm mới có được chút tiền làm cái nhà, xây được cái chuồng chăn nuôi. Để tiến tới quyết định làm việc này họ đã bao đêm trằn trọc suy nghĩ tính toán. Người dân đâu có xằng bậy làm càn ?

Để đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật mà dân phải sống trong khốn khó nghèo nàn thì pháp luật có ý nghĩa gì ? Chính người dân họ biết sử dụng đất vào việc gì để mảnh đất có giá trị nhất với họ, gia tăng giá trị cho họ cũng là gia tăng giá trị cho xã hội. Đất của mỗi gia đình, họ tự biết cách trân trọng để tạo ra hiệu quả kinh tế, không bao giờ có việc người dân vô trách nhiệm đối với tài sản của chính mình.

Cho nên cái quan điểm "kiên quyết phá bỏ những công trình xây dựng trái phép trên đất nông nghiệp" ở nhiều địa phương là hệ quả của nhận thức ấu trĩ, lầm lạc, phản ánh tư duy dễ dãi giản đơn, cẩu thả trong quản lý đất đai, coi thường tính phức tạp của thực tiễn, vô trách nhiệm trước sự phát triển mà thôi.

Việc ngăn cấm người dân chuyển đổi mục đích sử đụng đất đang là bất cập lớn nhất trong chính sách quản lý đất đai hiện nay, và đây đang là rào cản lớn trói buộc kìm hãm sức sản xuất trong nông nghiệp.

Ngô Ngọc Trai

Nguồn : BBC, 02/09/2017

Luật sư Ngô Ngọc Trai hiện sinh sống tại Hà Nội.

Published in Diễn đàn

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vừa quyết định thành lập Tổ tư vấn kinh tế cho Thủ tướng, gồm các chuyên gia kinh tế được hy vọng sẽ giúp Thủ tướng đưa ra các quyết sách phát triển kinh tế đúng đắn cho đất nước.

kinhte1

Donald Trump - Ảnh minh họa

Đây là điều đáng mừng và tôi với tư cách là một luật sư cũng đưa ra khuyến nghị chính sách cho Thủ tướng như sau.

Bài học của Tổng thống Trump

Trong cuốn sách 'Đã đến lúc phải cứng rắn để khôi phục lại sự vĩ đại của nước Mỹ' được phát hành trong thời gian vận động tranh cử, Tổng thống Donald Trump đã trình bày một ý đó là :

'Cốt yếu của mọi sự đều xoay quanh khả năng nhìn thấy những điều ẩn tàng. Đó là kiểu tư duy mà chúng ta cần để xoay chuyển tình thế đất nước - thật nhanh'.

Ông Trump nêu bí quyết này với hy vọng sẽ trở thành Tổng thống và khôi phục lại sự vĩ đại của nước Mỹ.

Đây có lẽ cũng là lời khuyên thích hợp dành cho Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc hiện nay, trong bối cảnh mà Thủ tướng Phúc cũng đang tìm cách phát triển nền kinh tế đất nước qua việc tìm kiếm lời tư vấn từ các chuyên gia.

Vậy thì ở Việt Nam hiện nay có vấn đề gì 'ẩn tàng' cần được nhìn ra, để có thể giúp thúc đẩy phát triển kinh tế ? Tôi xin gợi ý như sau.

Một hộ gia đình ở tỉnh Nam Định nhờ tôi tư vấn một việc, đó là gia đình ông từ vài năm trước xây dựng một khu chuồng trại chăn nuôi gia cầm và xưởng ép nhựa trên đất nông nghiệp. Nhưng mới đây chính quyền xã, huyện đã cưỡng chế phá dỡ với lý do xây dựng trái phép, mà không chỉ nhà ông còn có sáu hộ gia đình khác cũng bị phá dỡ vì lý do tương tự.

kinhte2

Canh tác nông nghiệp - Ảnh minh họa

Một dịp khác làm việc tại xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, một địa phương thuần nông nghiệp, trong lúc làm việc, tài liệu của ông chủ tịch xã cho tôi biết danh sách của mấy chục hộ dân nằm trong diện thanh tra xử lý về việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất trái phép.

Một lần về làm việc tại huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên, tôi được người dân cho biết, khắp vùng xung quanh đó trước kia là đất lúa hoặc hoang hóa, nay được người dân chuyển đổi sang trồng cây ăn quả và xây dựng chuồng trại chăn nuôi.

Song mới đây chính quyền huyện Phù Cừ cũng lại tiến hành xử lý cưỡng chế phá dỡ những công trình xây dựng trái phép, từng đàn lợn gà mất đi nơi nuôi nhốt, hoặc phải bán tống bán tháo với giá rẻ.

Tàn dư của kinh tế kế hoạch

Tôi thấy thật vô lý, vì đất của nhà người ta, họ sử dụng vào sản xuất chăn nuôi không ảnh hưởng đến ai, không ảnh hưởng đến hàng xóm, không ảnh hưởng đến cộng đồng, vậy tại sao lại cấm ?

Lý do cấm thường cho rằng vì không xin phép hoặc vì việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất trái với quy hoạch, đây là vấn đề rất sai trái bất cập.

Chúng ta biết rằng đất đai là phương tiện sản xuất quan trọng, đặc biệt là ở Việt Nam khoảng 60% đến 70% dân số sống ở nông thôn dựa vào nông nghiệp. Việc giải phóng sức lao động sản xuất để tăng hiệu quả canh tác, qua việc cho phép người dân được tự lựa chọn hình thức mục đích sử dụng đất theo cách hiệu quả nhất, là rất quan trọng.

Cấm đoán người dân chuyển mục đích sử dụng đất, hạn chế quyền của người dân với các lý do quy hoạch, kế hoạch trong khi chất lượng và tính khoa học của các vấn đề quy hoạch kế hoạch sử dụng đất thì thế nào ?

Có thể hình dung là sự lười nhác quan liêu xa rời thực tiễn khiến cho các chính sách quy hoạch và kế hoạch kém chất lượng khoa học, thay vì tạo động lực thì lại là rào cản trói buộc người dân.

Không đặt ra những tiêu chí khoa học nghiêm ngặt cho việc lập quy hoạch, kế hoạch nhưng Luật đất đai phản ánh ý chí của các ban ngành lại rất coi trọng hoạt động lập quy hoạch, kế hoạch, thể hiện uy quyền của nhà nước đối với đất đai. Bằng chứng là luật đất đai năm 2013 tuy chỉ có 212 điều luật nhưng đã sử dụng đến 208 lần từ 'kế hoạch sử dụng đất' và 71 lần từ 'quy hoạch sử dụng đất'.

Đây là hệ quả còn rơi rớt lại từ quan niệm nhận thức về nền kinh tế kế hoạch hóa và công hữu hóa tư liệu sản xuất theo kiểu nhà nước phân vùng và chỉ đạo ai sản xuất cái gì, gò ép các nguồn lực kinh tế trong đó có đất đai là phương tiện sản xuất chủ yếu, vào khuôn khổ theo kế hoạch chung.

Mặc dù kiểu làm kinh tế theo kế hoạch hóa đã được thực tế chứng minh là thất bại trong việc tạo ra hiệu quả nhưng tàn dư của nó vẫn còn, nhất là trong vấn đề sử dụng đất.

Điều này thể hiện ở việc nhà nước đã cho phép tiến hành tư nhân hóa mọi thứ, trừ đất đai vẫn thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở hữu. Do nhà nước vẫn nắm quyền sở hữu nên về nguyên tắc việc sử dụng vẫn theo những kế hoạch.

kinhte3

Sinh hoạt kinh tế Việt Nam - Ảnh minh họa

Những vấn đề quy hoạch, kế hoạch được thiết lập bởi nhiều cơ quan từ trung ương xuống địa phương mỗi năm, được thực hiện với tư duy dễ dãi giản đơn, coi thường tính phức tạp của thực tiễn, nên đang là rào cản trói buộc người dân.

Đây là vấn đề đang nổi cộm rộng khắp hiện nay khi người dân do những thôi thúc về kinh tế gia đình đã vượt rào, tự gỡ mình thoát ra khỏi trói buộc của pháp luật bất cập, để rồi lại bị quy cho là làm sai và bị cưỡng chế phá bỏ.

Nỗi chán chường Việt Nam

Việc quản trị quốc gia chẳng hề đơn giản như Tổng thống Trump đã phát biểu rằng vấn đề chỉ đơn giản là nhìn ra được những điều ẩn tàng. Ở Việt Nam nhiều vấn đề bất cập đã lộ rõ tác hại nhưng lại không được nắm bắt giải quyết.

Trước đây tôi đã viết bài "Việt Nam : Chính sách đất đai khiến dân phải sống nghèo ?" để phản ánh những bất cập trong quản lý sử dụng đất, và mới đây báo chí lại đưa tin sự việc xảy ra ở Quảng Nam, quê nhà của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, chính quyền thành phố Tam Kỳ đã cưỡng chế phá dỡ khu chuồng trại xây dựng trái phép của một gia đình và tạm giữ 10 con heo.

Không biết khi báo chí đưa tin những sự việc này có giúp Thủ tướng và bộ tham mưu của ông nhận ra được vấn đề 'ẩn tàng' trong chính sách phát triển quốc gia hay không.

Vấn đề tự chủ trong lựa chọn mục đích sử dụng đất hiện nay nếu được tháo gỡ sẽ là điểm khởi phát cho phát triển kinh tế nông thôn và phát triển kinh tế đất nước.

Việc thực hiện sẽ được thuận lợi vì hiện tại cả nước đã thực hiện chính sách dồn điền đổi thửa, tạo lập cơ cấu đồng đất lớn tập trung, giúp thuận lợi cho việc gia tăng hiệu quả canh tác. Cho nên để xoay chuyển tình thế đất nước - thật nhanh theo lời khuyên của Tổng thống Trump - chính phủ của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nên nhìn ra và tháo gỡ vấn đề đã không còn gì là 'ẩn tàng' này.

Luật sư Ngô Ngọc Trai

Nguồn : BBC, 07/08/2017

Published in Diễn đàn
Trang 2 đến 2