Hướng tới Ngày Nước Thế Giới 2020 với chủ đề :
- Nước và Biến đổi khí hậu
- một Đồng bằng sông Cửu Long ô nhiễm giữa mùa hạn mặn
Water, water, everywhere,
Nor any drop to drink
(Nước, nước, khắp nơi,
Không có giọt nước uống)
[Samuel Taylor Coleridge, 1772-1834]
Gửi 20 triệu cư dân Đồng bằng sông Cửu Long
Gửi Nhóm Bạn Cửu Long
Hạn mặn và ô nhiễm 13 tỉnh miền Tây
Trên một chuyến phà lớn từ Đại Ngãi qua Cù lao Dung, sóng đánh tung toé, khách như cảm thấy được vị mặn bám đọng trên môi. Thấy nước khắp nơi nhưng là nước mặn đã xâm nhập vào khắp các ngả sông rạch và người dân thì đang lao đao lùng kiếm tìm mua từng lu nước ngọt để uống. Rồi còn phải kể tới những cánh đồng lúa cháy và các vườn cây trái thối rễ do đất bị nhiễm mặn khiến nhiều nông gia mất trắng tay.
Người bạn đồng hành đứng bên, anh dạy Khoa Môi trường và tài nguyên thiên nhiên Đại học Cần Thơ, nói với tôi : "Kể cả có lũ ngọt đổ về, nước hết mặn cũng không uống được vì dòng sông quá ô nhiễm". Do chất thải kỹ nghệ từ các nhà máy ven sông, do phân bón hóa học từ đồng ruộng tràn ra, và tệ hại hơn nữa là rác rưởi từ các khu gia cư.
Đó là tình cảnh của ngót 20 triệu cư dân Đồng bằng sông Cửu Long, phải sống chung với những dòng sông ô nhiễm, và nay họ đang nhận thêm được những tín hiệu báo nguy về hạn mặn sẽ trầm trọng hơn năm 2016 và tới sớm hơn ngay từ hai tháng đầu năm 2020. Do đó, cho dù có thấy "nước, nước, khắp mọi nơi, vậy mà không có giọt nào để uống". Cho dù Đồng bằng sông Cửu Long vẫn là nơi nhận nguồn nước cao nhất Việt Nam tính theo dân số. Tuy nước vây bủa xung quanh nhưng là nước bẩn hay nước mặn. Thách đố lớn nhất là làm sao thanh lọc được nguồn nước tạp ấy để có nước sạch đưa vào sử dụng.
Với tầm nhìn qua lăng kính vệ tinh và biến đổi khí hậu, vùng châu thổ Mekong là hình ảnh khúc phim quay chậm (slow motion) của một con tàu đang đắm. Một cái chết rất chậm nhưng chắc chắn của một dòng sông Mekong dũng mãnh - lớn thứ 11 trên thế giới với hệ sinh thái phong phú chỉ đứng thứ hai sau con sông Amazon và cả một vùng châu thổ Đồng bằng sông Cửu Long đang từ từ bị nhấn chìm.
Ngày Nước Thế Giới 2020
Không thể tách rời vấn đề Nước và Biến đổi Khí hậu toàn cầu. Đó cũng là quan điểm của Liên Hiệp Quốc, khi chọn chủ đề"Nước và Biến đổi khí hậu" cho Ngày Nước Thế giới 22/03/2020 năm nay.
Trước những tình huống cực đoan và biến đổi bất thường về khí hậu có thể làm gia tăng biến thiên chu kỳ nước (water cycle), khiến rất khó mà tiên đoán được vềnguồn nước có thể sử dụng (water availability), với những ảnh hưởng trên phẩm chất nước, cả trên tính đa dạng sinh học (biodiversity), và đe doạ sự phát triển bền vững trên nhiều lưu vực của các con sông.
Dân số toàn cầu từ 7,2 tỷ năm 2015 đến nay 2020 - theo số liệu của Liên Hiệp Quốc, đã vượt qua con số 7,7 tỷ người. Tăng dân số cũng có nghĩa là gia tăng nhu cầu nước, kéo theo gia tăng nhu cầu năng lượng để bơm nước, vận chuyển và xử lý nước (water treatment). Tận dụng nguồn nước cũng dẫn tới sự suy thoái các hồ chứa carbon thiên nhiên (carbon sinks) từ các vùng đất đầm lầy.
Tăng cường mối quan tâm về nước để đáp ứng nhu cầu nước ngày một gia tăng trong tương lai ; điều ấy đòi hỏi phải có những quyết định mạnh mẽ, làm cách nào để phân chia các nguồn tài nguyên nước (allocate water resources), thích nghi với biến đổi khí hậu giữa những tranh chấp sử dụng nguồn nước giữa các địa phương và các quốc gia.
Một ví dụ điển hình : con sông Mekong dài hơn 4.800 km chảy qua 7 quốc gia (Tây Tạng [*], Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Cambodia và Việt Nam) giữa mùa khô hạn, đang bị tận lực khai thác bởi chuỗi những con đập thủy điện thượng nguồn, và làm cách nào để chia sẻ và sử dụng công bằng nguồn nước từ con sông Mekong đang là một "tranh chấp nóng" diễn ra hiện nay. Khi mà Cambodia và Việt Nam là hai quốc gia cuối nguồn đang chịu những hậu quả tích lũy nặng nề nhất : một Biển Hồ như trái tim của Cambodia đang thiếu nước, một Đồng bằng sông Cửu Long chịu hạn mặn chưa bao giờ khốc liệt như thế. Chưa kể tới khả năng nước lớn Trung Quốc sử dụng con sông Lancang-Mekong nhưmột thứ vũ khí trong cuộc chiến tranh môi sinh (ecological warfare) trừng phạt Việt Nam và các nước hạ lưu khác.
Chính sách đối phó với biến đổi khí hậu không chỉ trên quy mô quốc gia mà cho toàn lưu vực với mọi hoạch định cần theo một phương cách tích hợp (integrated approach), đối với nhu cầu sử dụng và quản lý nguồn nước.
Để phát triển và xây dựng một tương lai bền vững, cách làm ăn cũ bấy lâu với những quy hoạch thủy lợi không hiệu quả ; do đó từ nay mọi phương cách quản lý nước cần được phân tích kỹ lưỡng qua lăng kính biến đổi khí hậu (through a climate change lens). Chúng ta cần đầu tư nhiều hơn nữa để cải tiến và cập nhật những dữ liệu thủy học (hydrological data), qua các học viện, qua các chính phủ, qua giáo dục, cùng nhau chia sẻ mọi kiến thức, để có được khả năng tiên lượng và đối phó với những rủi ro khan hiếm nước như hiện nay và chắc chắn sẽ trầm trọng hơn nhiều trong tương lai.
Mọi chính sách cần bảo đảm tính đại diện rộng rãi các thành phần tham gia, với thay đổi tác phong ứng xử, tạo được sự tin cậy giữa nhà nước, các tổ chức xã hội dân sự và lãnh vực tư nhân.
Những kế hoạch thích ứng cần có chiến lược nêu rõ mục tiêu (targeted strategies), ưu tiên trợ giúp các cộng đồng cư dân lợi tức thấp - họ là nhóm người chịu tác động, dễ bị tổn thương và thiệt hại nhiều nhất do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu (1).
Giới thiệu DRAGON Mekong
DRAGON là chữ viết tắt của Delta [**] Research And Global Observation Network (Mạng lưới nghiên cứu châu thổ và quan trắc toàn cầu). DRAGON nhằm mục đích thiết lập một hệ thống thông tin toàn cầu, tăng cường quan hệ hợp tác và cùng chia sẻ kinh nghiệm lâu dài giữa các vùng châu thổ trên thế giới.
Ủy ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu (Intergovernmental Panel on Climate Change - IPCC) do Tổ chức Khí tượng Thế giới (World Meteorological) và Chương trình Môi sinh Liên Hiệp Quốc (United Nations Environment Programme), bao gồm 195 quốc gia thành viên. Theo IPCC hiện có khoảng 300 triệu cư dân sống trong 40 vùng châu thổ (Deltas) trên toàn cầu. Các vùng châu thổ là nơi được phù sa các con sông bồi đắp và IPCC đã đưa ra nhận định :
"Những vùng châu thổ đó rất dễ bị tổn thương do tác động của biến đổi khí hậu, do nước biển dâng, do biến đổi dòng chảy, đồng thời với những chấn động qua quá trình sử dụng đất đai, do chính con người gây ra trong lưu vực (catchment area)".
Logo Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu Mekong - Đại học Cần Thơ. DRAGON là chữ viết tắt của Delta Research And Global Observation Network (Mạng lưới nghiên cứu châu thổ và quan trắc toàn cầu), được thiết lập từ 2008, đến nay là 12 năm, có thể xem như một Viện Nghiên cứu của Đại học Cần Thơ.
Từ năm 2007, IPCC đưa ra cảnh báo thêm : 13 vùng châu thổ lớn trên thế giới sẽ bị ảnh hưởng do hậu quả của Biến đổi khí hậu và nước biển dâng, trong đó có hai vùng châu thổ sông Mekong Việt Nam và châu thổ sông Mississippi Hoa Kỳ được xếp là vùng dễ bị tổn thương ở mức độ rất cao.
Do tính tương đồng và tầm quan trọng về an ninh lương thực, kinh tế, xã hội và văn hóa của hai vùng châu thổ Mekong và Mississippi, ngày 21/11/2008, Đại học Cần Thơ kết hợp với Cơ quan Khảo sát địa dư Hoa Kỳ (US Geographical Survey - USGS) và Trung tâm nghiên cứu Đất ngập nước quốc gia (National Wetlands Research Center Hoa Kỳ - NWRC) đã tổ chức lễ thành lập Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu Mekong với tên viết tắt tiếng Anh là DRAGON Institute Mekong, thuộc Mạng DRAGON toàn cầu, có cơ sở tại Đại học Cần Thơ, Đồng bằng sông Cửu Long (4).
Đoàn khảo sát môi sinh Đồng bằng sông Cửu Long chụp hình trước cơ sở đầu tiên của Viện Nghiên Cứu Biến đổi Khí hậu / DRAGON - Mekong Institute, từ trái : Tiến sĩ Dương Văn Ni (Khoa Môi trường và tài nguyên thiên nhiên Đại học Cần Thơ), Tiến sĩ Lê Phát Quới (Viện Tài nguyên và môi trường Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh), Ngô Thế Vinh, Tiến sĩ Lê Anh Tuấn (Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu Đại học Cần Thơ), Kỹ sư Phạm Phan Long (Hội Sinh Thái Việt), Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện (Chuyên gia Đất Ngập nước / Wetlands), Bác sĩ Nguyễn Văn Hưng [tư liệu Ngô Thế Vinh 2017]
Xem ra, ngoài nét tương đồng giữa 2 vùng : châu thổ Louisiana sông Mississippi - Vịnh Mexico và châu thổ Mekong sông Mekong - Biển Đông trước ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và nước biển dâng, thì riêng Đồng bằng sông Cửu Long hiện đang phải đương đầu với những thử thách khó khăn hơn nhiều. Tưởng cũng nên ghi nhận ở đây sự khác biệt quan trọng giữa hai dòng sông :
1) Độ dốc thượng nguồn sông Mekong cao hơn gấp 12 lần sông Mississippi, nên có một tiềm năng thủy điện vô cùng hấp dẫn mà sông Mississippi không có được ;
2) Với 40 con đập cũ trên sông Mississippi phần lớn được xây từ thập niên 1930, không sao có thể sánh được với chuỗi đập khổng lồ trên sông Lancang-Mekong Vân Nam và các con đập dòng chính ở Lào ;
3) Sông Mississippi chỉ chảy trong lãnh thổ Hoa Kỳ, trong khi sông Mekong chảy qua 7 quốc gia : Tây Tạng, Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Cambodia và Việt Nam với những mâu thuẫn về quyền lợi rất gay gắt (3).
Hình chụp cơ sở mới của DRAGON Mekong Institute, với các thành viên tham dự Khóa Tập huấn Báo chí về "Biến đổi Khí hậu và Năng lượng Bền vững" tổ chức từ ngày 22 tới 24/08/2019, trong Dự án Mạng lưới Báo chí Địa cầu (Earth Journalism Network) [nguồn : CRUS.Vietnam, Aug 2019]
DRAGON Institute-Mekong-Cantho University sẽ là điểm nối kết các hoạt động nghiên cứu, giáo dục và chuyển giao kiến thức khoa học đến các nhà lãnh đạo, quản lý và cộng đồng các cấp từ địa phương, quốc gia tới các vùng châu thổ khác trên thế giới nhằm mục đích nâng cao năng lực thích nghi của cư dân đối với thiên tai ; phát triển bền vững kinh tế và xã hội, đồng thời bảo tồn các hệ sinh thái thiên nhiên.
Từ khi được thành lập, Viện Biến đổi Khí hậu DRAGON-Mekong đã được nhiều tổ chức trong và ngoài nước đến trao đổi, đề xuất các hướng hợp tác. Với vai trò là một trung tâm dẫn đầu của Đồng bằng sông Cửu Long, Đại học Cần Thơ và Viện DRAGON-Mekong đang có các bước đi tiên phong trong nghiên cứu các vấn đề liên quan tới Biến đổi Khí hậu với một kế hoạch hành động trước mặt và lâu dài (4).
Dự báo Mekong (Forecast Mekong)
Qua Sáng kiến Hạ lưu sông Mekong (Lower Mekong Initiative) 2020 được khởi xướng từ 2009 do ngoại trưởng Mỹ Hillary Rodham Clinton cùng với các ngoại trưởng 4 quốc gia Cambodia, Lào, Thái Lan và Việt Nam nhằm tăng cường cam kết của Mỹ đối với các quốc gia hạ lưu sông Mekong trong các lãnh vực môi trường, y tế, giáo dục và hạ tầng cơ sở.
Cơ quan Khảo sát Địa dư Hoa Kỳ (USGS) chuyên nghiên cứu các vùng châu thổ, đã liên kết (partnership) với Viện DRAGON - Mạng lưới Nghiên cứu Đồng bằng châu thổ và Quan trắc toàn cầu áp dụng kinh nghiệm từ sông Mississippi với chuyên môn vềMô hình Khoa học-Trái đất (Earth-science modeling) sẽ hỗ trợ cho các quốc gia Mekong phương cách lượng giá biến đổi khí hậu và hoạt động của con người có thể ảnh hưởng trên hệ sinh thái và an ninh lương thực trong lưu vực sông Mekong.
Khóa tập huấn dự báo Mekong
Trong ba ngày 9, 10 và 11/12/2009 cùng với Viện DRAGON Đại học Cần Thơ, Việt Nam, Cơ quan Khảo sát Địa dư Hoa Kỳ (USGS) và Bộ Ngoại giao Mỹ, đã cùng bảo trợ cho một khóa tập huấn (workshop) nhan đề : "Tìm hiểu mối hiểm nguy (risk) và đặc tính dễ tổn thương (vulnerability) của các hệ sinh thái nước ngập (wetlands ecosystems) nơi hai vùng châu thổ Mekong và Mississippi do Biến đổi khí hậu và nước biển dâng".
Cho dù cách nhau 12 múi giờ, hai vùng châu thổ Mekong (trái) và Mississippi (phải), có những điểm tương đồng về sinh cảnh môi trường, kinh tế xã hội và văn hoá. [Mô hình chụp từ vệ tinh của Cơ quan Khảo sát Địa dư Hoa Kỳ USGS ] (2)
Chương trình Dự báo Mekong được USGS thực hiện, không chỉ với Đại học Cần Thơ mà là một kết hợp mở rộng với các chính phủ địa phương và các Đại học trong lưu vực sông Mekong. Khóa tập huấn này là một phần của dự án có tên "Dự báo Mekong (Forecast Mekong)", một kết hợp dữ kiện hỗ tương, tạo mô hình (modeling), và hệ thống biểu đồ (visualization system) nhằm giúp các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý tài nguyên (resources managers), và công chúng am hiểu và tiên liệu được các tác động do biến đổi khí hậu và triển khai những dự án phát triển trong lưu vực sông Mekong (2).
Khóa tập huấn quy tụ được hơn 75 thành viên tham dự, đã cùng xác định những thiếu sót về thông tin liên hệ tới vùng châu thổ Mekong / Đồng bằng sông Cửu Long và Biến đổi khí hậu. Những thành viên tham dự bao gồm các nhà khoa học, các viên chức chính phủ từ các quốc gia Cambodia, Lào, Việt Nam, Thái Lan và cả Trung Quốc ; đại diện Bộ Ngoại giao Mỹ và các tổ chức NGOs phi chính phủ và dĩ nhiên với các chuyên gia USGS. Nhiều vấn đề khoa học quan trọng được đặt ra, bao gồm phẩm chất nước, lượng phù sa (sedimentation), những ảnh hưởng của các đập thủy điện trên sự đa dạng sinh học (biodiversity), an ninh lương thực, sự thích nghi với biến đổi khí hậu qua thời gian và mức nghiêm trọng của các mùa lũ lụt (seasonal floods), và ảnh hưởng trên sản lượng cá.
Những bước tiếp theo sẽ là các cuộc nghiên cứu phối hợp của USGS với các nhà khoa học trong lưu vực Mekong, nhằm cung cấp chuyên môn kỹ thuật để tạo thuận các bước thu thập phân tích và tích hợp dữ kiện (data analysis & integration), theo dõi môi trường (environmental monitoring), với các dụng cụ biểu đồ khoa học (science-visualization tools). Các thành viên tham dự cũng đã xác định nhu cầu được huấn luyện và chuyển giao kỹ thuật, cùng với ước muốn thiết lập mối quan hệ hợp tác dài hạn và chặt chẽ hơn với USGS.
Dự án Dự báo Mekong (The Forecast Mekong project) cũng sẽ giúp xây dựng nền móng cho các hoạt động trong tương lai qua tăng cường mối liên hệ giữa các nhà khoa học, các tổ chức trong lưu vực Mekong qua các cuộc nghiên cứu chung.
DRAGON đã xây dựng được một cộng đồng quốc tế giữa các nhà khoa học và quản lý tài nguyên nhằm chia sẻ những dữ kiện giữa các vùng châu thổ lớn và những con sông thế giới. Những cuộc nghiên cứu đối chiếu (comparative studies) là cần thiết để hiểu biết và tiên liệu được hậu quả của biến đổi khí hậu trên các dự án xây dựng, sử dụng đất đai, biến đổi về thủy học và những ảnh hưởng khác do con người gây ra trên các hệ sinh thái vốn mong manh và dễ bị tổn thương.
Bằng triển khai những mô hình đối chiếu (comparative models) và với các dụng cụ biểu đồ (visualization tools), mục đích của mạng lưới DRAGON là trợ giúp thông tin cho những quyết định chính sách công (public policy decisions) có ảnh hưởng tới hệ sinh thái và các cộng đồng cư dân sống trong các vùng châu thổ.
Cơ quan Khảo sát Địa dư Hoa Kỳ [USGS] đem tới những hiểu biết khoa học rộng rãi từ châu thổ sông Mississippi tới một vùng châu thổ tương đồng, cách xa nửa vòng trái đất đó là châu thổ sông Mekong [Đồng bằng sông Cửu Long].
Khóa tập huấn này là một phần của dự án có tên "Dự báo Mekong - Forecast Mekong", một kết hợp dữ kiện hỗ tương, tạo mô hình (modeling), và hệ thống biểu đồ (visualization system) nhằm giúp các nhà hoạch định chính sách (policy makers), các nhà quản lý tài nguyên (resources managers), và công chúng am hiểu và tiên liệu được các tác động do biến đổi khí hậu và triển khai những dự án trong lưu vực sông Mekong (2).
Chương trình này được thực hiện bởi USGS kết hợp với các chính phủ địa phương và các Đại học trong lưu vực Mekong, Chương trình Dự báo Mekong (Mekong Forecast) sẽ cung cấp một dụng cụ rất giá trị để nhận rõ những hậu quả của Biến đối Khí hậu và cách quản lý dòng sông (river management).
Những bước tiếp theo sẽ là các cuộc nghiên cứu phối hợp của USGS với các nhà khoa học trong lưu vực Mekong, nhằm cung cấp chuyên môn kỹ thuật (technical expertise) để tạo thuận các bước phân tích và tích hợp dữ kiện (data analysis & integration), hướng dẫn theo dõi môi trường (environmental monitoring), với những dụng cụ biểu đồ khoa học (science-visualization tools). Các thành viên tham dự cũng đã xác định nhu cầu được huấn luyện (training) và chuyển giao kỹ thuật (technological transfer), cùng với ước muốn thiết lập mối quan hệ hợp tác dài hạn và chặt chẽ hơn với USGS.
Dự án Dự báo Mekong (The Forecast Mekong project) cũng sẽ giúp xây dựng nền móng cho các hoạt động trong tương lai qua tăng cường mối liên hệ giữa các nhà khoa học, các tổ chức trong lưu vực Mekong qua các cuộc nghiên cứu chung và chia sẻ các dữ kiện (data sharing).
Một Đồng bằng sông Cửu Long đã và đang bị tổn thương do những nguyên nhân : 1) do các con đập thượng nguồn, 2) do nạo vét cát dưới lòng sông, 3) do nước biển dâng, 4) do ô nhiễm sông rạch, 5) còn phải kể tới những dự án sai lầm ngăn mặn phá hủy sự cân bằng hệ sinh thái mong manh của vùng châu thổ sông Mekong. Tính tới 2020, đã có 11 con đập dòng chính khổng lồ của Trung Quốc trên khúc sông Lancang-Mekong thượng nguồn ; có thêm 2 con đập dòng chính của Lào (Xayaburi và Don Sahong) đã hoạt động từ 2019. Dự án Luang Prabang 1460 MW, sẽ là con đập dòng chính lớn nhất trên sông Mekong của Lào và điều rất nghịch lý là do Việt Nam làm chủ đầu tư, dự trù có thể được khởi công sớm trong năm nay [International River 2004, do Ngô Thế Vinh cập nhật 2020].
Một ví dụ điển hình, USGS với kinh nghiệm về Trận bão nhiệt đới Katrina 2005 của thế kỷ trên vùng châu thổ Mississippi với tổn thất 1.800 nhân mạng, đã để lại những hậu quả tàn phá lớn nhất trong lịch sử thiên tai của Hoa Kỳ thiệt hại vật chất lên tới 125 tỷ USD, đã cho thấy nhu cầu cấp thiết chia sẻ thông tin và các dữ kiện với các vùng châu thổ trên toàn cầu.
DRAGON đã tạo ra một cộng đồng quốc tế giữa các nhà khoa học và quản lý tài nguyên nhằm chia sẻ những dữ kiện giữa các vùng châu thổ lớn và những con sông thế giới. Những cuộc nghiên cứu đối chiếu comparative studies là cần thiết để hiểu biết và tiên liệu được hậu quả của biến đổi khí hậu trên các dự án xây dựng, sử dụng đất đai, biến đổi về thủy học và những ảnh hưởng khác do con người gây ra trên các hệ sinh thái vốn mong manh và rất dễ bị tổn thương.
Bằng triển khai những mô hình đối chiếu (comparative models) cùng với các dụng cụ biểu đồ (visualization tools), mục đích của mạng lưới DRAGON là trợ giúp thông tin cho những hoạch định chính sách (public policy decisions) có ảnh hưởng tới hệ sinh thái và các cộng đồng cư dân sống trong các vùng châu thổ trên hành tinh này.
Dự báo Mekong : trận hạn hán và nhiễm mặn 2020 sẽ trầm trọng hơn năm 2016. Mekong Delta barbecue (Đồng bằng sông Cửu Long bị nướng do khô hạn). Tranh biếm hoạ của Babui, tặng Ngô Thế Vinh]
Nước quanh ta : giải pháp Do Thái
Khan hiếm nước là một thực trạng đang diễn ra ở những mức độ khác nhau trên toàn hành tinh này. Từ tiểu bang Vàng California giàu có tới các nước nghèo khó của lục địa Phi châu. Khủng hoảng thiếu nước sạch nơi châu thổ Mekong cũng nằm trong bối cảnh toàn cầu ấy.
Đất lún, mặt bằng châu thổ Mekong thấp hơn mặt biển, có bài học từ một đất nước Hoà Lan Vùng Đất Thấp vẫn cứ tồn tại và phát triển qua nhiều thế kỷ.
Thiếu nước ngọt : nước uống và nước tưới cho hoa màu, có bài học từ một đất nước Do Thái mọc lên giữa sa mạc với đủ loại hoa màu xanh tươi.
Nước được khai thác từ nhiều nguồn, 1) từ giếng tới tầng nước ngầm, 2) từ nước biển khử mặn, 3) từ nguồn nước thải được thanh lọc tái sinh, 4) chiết xuất nước từ độ ẩm trong không khí…
Ưu tiên giải quyết vấn đề nước là một quốc sách của Do Thái ngay từ ngày lập quốc. Bằng trí tuệ sáng tạo và khoa học kỹ thuật từ một sa mạc khô hạn, ngày nay Do Thái đã có đủ nước cho mọi nhu cầu gia dụng, canh nông và kỹ nghệ. Nhưng trên hết, vẫn là ý thức tiết kiệm nước của toàn dân - được giáo dục ngay từ bậc tiểu học qua mọi cấp trong mọi lãnh vực sinh hoạt.
Không chỉ như vậy, họ còn biết sử dụng tối ưu các nguồn nước có được, tới mức còn dư nước viện trợ cho các quốc gia láng giềng thù nghịch và cả chuyển giao kỹ thuật giải quyết vấn đề thiếu nước ra thế giới như một quyền lực mềm trong ngoại giao. Kinh nghiệm Do Thái đã giúp nhiều quốc gia, trong đó có Trung Quốc, kể cả quốc gia tiên tiến như Mỹ để giải quyết vấn nạn thiếu nước.
Nông gia Do Thái đã tiết kiệm được rất nhiều nước trong canh tác ; một ví dụ nhỏ, bằng cách tưới nhỏ giọt (drip irrigation) thay cho kỹ thuật tưới cổ điển tưới bằng vòi phun hay nước ngập đồng. Tưới ngay gốc giảm được lượng nước bốc hơi, cây lớn mạnh hơn và năng suất cũng cao hơn, thêm vào đó cách bón cây nhỏ giọt còn tránh được lượng nitrogen tràn vào các nguồn nước và cả giảm thiểu được lượng hóa chất trên vùng canh tác. [Let There Be Water. Seth M. Siegel 2017] (9)
Đồng bằng sông Cửu Long sẽ vẫn mãi xanh tươi
Rừng vàng biển bạc đất phì nhiêu, câu thuộc nằm lòng ấy đã có từ một nền giáo dục Quốc văn Giáo khoa thư từ buổi thiếu thời qua nhiều thế hệ. Và nay thì thực sự không còn nữa và cũng đừng tiếp tục gieo vào đầu óc trẻ thơ câu châm ngôn lỗi thời ấy.
Kể từ sau 1975, những khu rừng nguyên sinh bị tàn phá. Biển bị đầu độc không còn cá. Đất bị sa mạc hóa và xói mòn. Mọi nguồn tài nguyên bị tận lực khai thác tới cạn kiệt. Cho đến cả một ngụm nước sạch để uống và một bầu không khí trong lành để thở rồi cũng trở thành điều mơ ước. Những điều cơ bản ấy cũng chính là quyền con người (human rights).
Với những công trình phát triển tự hủy, và sắp tới đây, con đập thủy điện Luang Prabang lớn nhất của Lào do Việt Nam đầu tư, rõ ràng Việt Nam đang chọn những bước đi liều lĩnh trên những tảng băng mỏng (walks on thin ice), với tiêu chuẩn nước đôi (double standards), và cũng từ nay Việt Nam sẽ chẳng thể còn một tiếng nói chính nghĩa và thuyết phục nào đối với cộng đồng 70 triệu cư dân sống trong lưu vực sông Mekong và trước cả thế giới.
Với tầm nhìn của thiên niên kỷ thứ ba, duy trì từng hệ sinh thái phong phú của hành tinh này cũng là bảo vệ một nền văn minh rất đa dạng và lâu đời của con sông Mekong, mà không có mối lợi lộc ngắn hạn nào có thể vội vàng đem ra đánh đổi. Và cũng đã hơn một lần, trong hơn hai thập niên qua, người viết luôn luôn nhắc tới một vấn đề rất cốt lõi : "Môi sinh và Dân chủ" sẽ mãi mãi là bộ đôi không thể tách rời (Inseparable Duo).
Thay cho lời kết
Nhân Ngày Nước Thế Giới 22/03/2020, với chủ đề "Nước và Biến đổi khí hậu", trước tình cảnh một Đồng bằng sông Cửu Long đang ngày một suy thoái, người viết gửi tới các bạn trẻ cùng với 20 triệu cư dân 13 tỉnh Miền Tây trích dẫn câu nói của Oded Distel, một chuyên gia về nước của Do Thái : "Không có kỹ nghệ không gian các quốc gia vẫn sống được, nhưng không thể sống nếu không có nước" (9). Nước theo cái nghĩa là "nguồn nước sạch" có thể sử dụng được. Oded Distel muốn nhấn mạnh tới sự chọn lựa đâu là bước ưu tiên trong phát triển.
Ngô Thế Vinh
California 21/02/2020
[Miền Tây, Cù Lao Dung 2017]
Nguồn : VOA, 25/02/2020
Ghi chú :
[*] Tây Tạng nơi phát nguồn con sông Mekong, về phương diện địa dư chính trị, bấy lâu người viết vẫn ghi nhận như một quốc gia cho dù đang bị Trung Quốc xâm chiếm
[**] Delta thay vì quen gọi là đồng bằng, nay được gọi là châu thổ do được hình thành từ phù sa của các con sông bồi đắp.
Tham khảo :
1. UN-Water Policy Brief on Climate Change and Water, 12 July 2019
2. A Different Delta Force - USGS and U.S. Department of State Assist in the Mekong Delta, by Gabrielle B. Bodin, March 2010 [revised Feb. 2013]
3. The Mekong and Mississippi Sister-River Partnership, Similarities and Differ 15/01/2011
4. Research Institute for Climate Change, Dragon institute - Mekong)
5. Thăm Khu Nhà Máy Xử lý Nước Thải và Hệ thống Bổ sung Tầng Nước Ngầm tại Quận Cam. Ngô Thế Vinh, Viet Ecology Foundation 23/03 - 24/07/2017
6. From A Mekong Delta Threatened by Salinization to the Carlsbad Desalination Plant, by Ngô Thế Vinh, Viet Ecology Foundation 01/20207/ Promising way to make fresh water for family use, 1.5 gallons per hour for each square meter of solar collecting area.
8/ Creating Drinking Water from Air, Watergen Technology from Israel.
9/ Let There Be Water. Israel’s Solution for a Water-Starved World. Seth M. Siegel. Thomas Dunne Books. An imprint of St. Martin’s Press 2017.
Gửi cựu Thượng nghị sĩ Jim Webb & Nhóm Bạn Cửu Long
Dẫn nhập : Cho dù tên tuổi Thượng nghị sĩ Jim Webb đang được sôi nổi nhắc tới qua sự kiện lễ vinh danh và an táng 81 bộ hài cốt các tử sĩ Nhảy dù Việt Nam Cộng Hòa vào 26/10/2019 sắp tới – cũng là ngày Quốc Khánh của nền Đệ nhất Cộng Hòa Việt Nam – nhưng với người viết thì Jim Webb còn là một khuôn mặt nổi bật trong giới lập pháp Hoa Kỳ từ hơn một thập niên trước, như một advocate có tiếng nói mạnh mẽ bảo vệ con sông Mekong và cư dân lưu vực : "Hoa Kỳ và cộng đồng thế giới có một cam kết chiến lược và nghĩa vụ tinh thần nhằm bảo vệ sức khỏe và an sinh của cư dân sống phụ thuộc vào con sông Mekong với nguồn tài nguyên và nếp sống của họ" - Senator Jim Webb’s Press Releases 12/ 08/ 2011
Thủ tướng Hun Sen – người luôn ủng hộ các dự án đập Trung Quốc trên sông Mekong, tiếp Nghị sĩ Jim Webb ngày 19/ 08/ 2009 trong chuyến du hành qua 5 quốc gia Đông Nam Á khảo sát các dự án phát triển Mekong và phương thức sử dụng nước xuyên lưu vực- Ảnh Getty Images
Từ sự kiện 81 tử sĩ Nhảy dù Việt Nam Cộng Hòa 54 năm sau
Hôm 14/09/2019 là một ngày đáng ghi nhớ cho người Việt khi cựu Thượng nghị sĩ Jim Webb, đã gửi một thư ngỏ tới cộng đồng người Việt hải ngoại mời tham dự lễ an táng di hài của 81 chiến sĩ Nhảy dù Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Thượng nghị sĩ Webb viết :
"Tôi muốn chia sẻ với quý bạn bản tin được đăng trong phiên bản điện tử báo USA Today vào ngày thứ Sáu, 13/09/2019, và trong bản báo in cuối tuần. Đây là lần đầu tiên chúng tôi xác định công khai ngày di chuyển hài cốt của các tử sĩ Quân lực Việt Nam Cộng Hòa từ Hawaii về California. Như nhiều bạn đã biết, điều quan trọng đối với chúng tôi là giải quyết toàn bộ những thủ tục pháp lý trước khi thực hiện lễ truy điệu tử sĩ.
Nghi lễ sẽ cử hành tại Westminster, California vào sáng ngày Thứ Bảy, 26 Tháng Mười 2019 ; chúng tôi hy vọng sẽ được gặp một số quý bạn tại đó.
Tôi cũng kèm theo đây một bức ảnh do Đại tá Gino Castagnetti hỗ trợ một binh sĩ Không Quân di quan từ căn cứ Không Quân March đêm qua. Di hài của những người lính Việt Nam Cộng Hòa này, hiện đang ở California, chặng cuối của cuộc hành trình.
Tôi vô cùng biết ơn tất cả những người đã đóng góp cho nỗ lực của chúng tôi và xin thông báo là Hội Lost Soldiers Foundation đã có sự chấp thuận hoàn toàn của IRS với tư cách là một tổ chức từ thiện. Thật là tuyệt vời !
Jim Webb
Đại tá Thủy quân lục chiến Gino Castagnetti [thứ hai từ trái] đang cùng một nhân viên phi hành đoàn khiêng thùng hài cốt của 81 tử sĩ Nhảy dù Việt Nam Cộng Hòa lên chuyến bay từ căn cứ không quân March, Hawaii sang California như trạm dừng chân cuối cùng trong cuộc hành trình dài 54 năm của họ.
Jim Webb chiến binh đồng hành của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa
"Chúng tôi không bao giờ quên những người bạn đồng hành trong những ngày gian khổ". Đó là câu nói cảm động trong bài báo của Jim Webb đăng trên USA Today 15/09/2019 : "Soldiers without a country : We're finally honoring South Vietnamese who fought with us".
James H. Webb sinh năm 1946, một cựu chiến binh Thủy Quân Lục Chiến Mỹ với nhiều chiến công trong cuộc Chiến tranh Việt Nam : ngày 10/07/1969 Trung úy Thủy quân lục chiến Jim Webb được tưởng thưởng huy chương cao quý Navy Cross, dành cho Hải quân & Thủy quân lục chiến – chỉ đứng thứ hai sau Medal of Honor là huy chương cao quý nhất của nước Mỹ, do tinh thần chiến đấu anh dũng khi đang còn là Tiểu đội trưởng thuộc Trung đội D, Tiểu đoàn 1 Thủy quân lục chiến trong cuộc hành quân Tìm và Diệt (Search and Destroy, Jim Webb đã bị nhiều vết thương miểng trong cuộc đụng trận này. Jim Webb còn được những huy chương khác : một anh dũng bội tinh ngôi sao bạc, hai ngôi sao đồng và hai chiến thương bội tinh.
Jim Webb là một chính trị gia và cũng là nhà văn, tác giả của 10 cuốn sách xuất bản. Cuốn Fields of Fire (1978) được coi như một tác phẩm kinh điển viết về cuộc Chiến tranh Việt Nam.
Bìa cuốn tiểu thuyết Fields of Fire (1978) của Jim Webb được coi như một tác phẩm cổ điển viết về cuộc Chiến tranh Việt Nam [nguồn Amazon.com/Book.]
Jim còn là phóng viên chiến trường trên các trận địa Trung Đông và Afghanistan, được giải thưởng Emmy báo chí với phóng sự cho đài truyền hình PBS về hoạt động của Thủy quân lục chiến Mỹ (1983) tại Beirut, thủ đô Lebanon. Jim còn là một nhà làm phim.
Jim Webb từng là Thượng nghị sĩ, Bộ trưởng Hải quân, Phụ tá Bộ trưởng Quốc phòng thời Tổng thống Ronald Reagan. Tháng 7/2015, Jim Webb ra tranh chức ứng cử viên Tổng thống đảng Dân chủ nhưng sau đó tự rút lui.
Jim Webb tốt nghiệp tiến sĩ luật Đại học Georgetown và hành nghề luật sư. Jim có vợ Việt Nam là Lê Hồng sinh năm 1968, nhỏ hơn Webb 22 tuổi cũng là một luật sư và có một con gái tháng 12/2006.
Jim Webb giữa trận địa Chiến tranh Việt Nam, năm 1969 do chiến công anh dũng Trung úy Thủy quân lục chiến Jim Webb được tưởng thưởng Navy Cross là một huy chương cao quý của Hải quân & Thủy quân lục chiến Mỹ, chỉ đứng thứ hai sau Medal of Honor do Quốc hội vinh danh và Tổng thống Mỹ trao tặng.
Jim Webb, người bạn của cư dân sông Mekong
Cho dù, thời điểm này tên tuổi Jim Webb đang được nhắc tới qua sự kiện sôi nổi về lễ tưởng niệm vinh danh và an táng 81 bộ hài cốt các tử sĩ Nhảy dù Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 26 tháng 10, 2019 sắp tới đây, nhưng với người viết thì Jim Webb còn được biết tới từ một thập niên trước như một Advocate for the Mekong. Jim Webb có tiếng nói mạnh mẽ trong giới lập pháp Hoa Kỳ với những cam kết bảo vệ sông Mekong và toàn lưu vực.
Sau Chiến tranh Việt Nam, sự vắng bóng của Hoa Kỳ trong vùng Đông Nam Á đã để lại một khoảng trống địa chính trị, và đây cũng chính là cơ hội để một Trung Quốc đầy tham vọng mau chóng lấp đầy. Với sức bành trướng của Bắc Kinh từ kinh tế tới quân sự ngày càng đè nặng trên 5 quốc gia trong lưu vực sông Mekong, cộng thêm với những động thái hung hãn của Trung Quốc nhằm tiến tới : "Tây Tạng hóa Biển Đông (Tibetization of South China Sea)", nói theo ngôn từ rất tượng hình của B.A. Hamzak, thuộc Viện Hàng hải Mã Lai (Maritime Institute of Malaysia - MIMA), trực tiếp đe dọa tới những quyền lợi thiết thân của nước Mỹ, nên đã đến lúc chính quyền Mỹ không thể không quan tâm tới sự bành trướng của Trung Quốc, một quốc gia đông dân nhất thế giới đang nhanh chóng vươn lên như một siêu cường cả về kinh tế lẫn quân sự. Bắc Kinh không chỉ cạnh tranh ráo riết mà còn tham vọng vượt qua Mỹ trong thập niên tới của thế kỷ này. Nguy hiểm hơn nữa, nói theo ngôn từ của Jane Perlez, báo New York Times, đó là một "cạnh tranh mất-còn (zero-sum game)". Do đó, sự trở lại với khu vực Đông Nam Á của Hoa Kỳ là một tiến trình tất yếu chứ không phải là ngẫu nhiên.
Hoa Kỳ là một trong những nước tài trợ cho Ủy hội sông Mekong, đồng thời cũng đã từng viện trợ cho các quốc gia Mekong, và có tiếng nói quyền uy trên các tổ chức ngân hàng lớn của thế giới như Ngân hàng Thế giới (World Bank-WB) và Ngân hàng ot Châu Á (Asian Development Bank-ADB)… Với tư thế đó cùng với hành động tích cực dấn thân, Hoa Kỳ hy vọng có thể tìm lại thế đứng, hay ít ra cũng có một "vai trò đối trọng" hạn chế được phần nào sức bành trướng của Trung Quốc trong toàn lưu vực.
Một khởi đầu từ hành pháp
Từ Hội nghị ASEAN [Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á], ngày 23/07/2009, theo yêu cầu của Mỹ đã có thêm một cuộc họp bên lề của Ngoại trưởng 5 nước : phía Mỹ là Hillary Clinton, cùng với 4 ngoại trưởng vùng Hạ lưu sông Mekong bao gồm có Thái, Lào, Cam Bốt và Việt Nam tại Phuket, Thái Lan. Đại diện cho Việt Nam lúc đó là Ngoại trưởng Phạm Gia Khiêm kiêm Phó Thủ tướng.
Ngoại trưởng Mỹ đã nhấn mạnh tới tầm quan trọng của vùng Hạ lưu sông Mekong và vai trò mỗi quốc gia đối với Hoa Kỳ, cùng với cam kết hỗ trợ nhằm thăng tiến hòa bình và thịnh vượng cho khu vực ASEAN như một toàn thể. Ngoại trưởng 4 nước Thái , Lào, Cam Bốt và Việt Nam hoan nghênh sự hợp tác chặt chẽ hơn của Hoa Kỳ với các quốc gia hạ lưu trong những lãnh vực có ý nghĩa hỗ tương nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững trong vùng.
Tiếp theo đó là một tuyên cáo, liên quan tới những vấn đề quan tâm chung, đặc biệt là trong các lãnh vực Môi trường, Y tế, Giáo dục, và Phát triển Hạ tầng (infrastructure development) trong khu vực.
Bộ Ngoại giao Mỹ cũng đã lên tiếng bày tỏmối quan tâm về ảnh hưởng tác hại từ những con đập đối với "An ninh lương thực" trong vùng, trong đó phải kể tới tầm quan trọng của nguồn cá sông Mekong là nguồn protein chính đối với cư dân trong lưu vực.
[Tưởng cũng nên nói thêm, tới nay 2019 Trung Quốc đã xây xong 11 con đập thủy điện dòng chính khổng lồ và còn tiếp tục xây thêm chuỗi 19 con đập nữa trên khúc sông Lancang-Mekong thượng nguồn, chưa kể là Bắc Kinh còn sở hữu thêm 4 trong số 11 dự án đập dòng chính nơi vùng hạ lưu sông Mekong trên lãnh thổ hai nước Lào và Cam Bốt].
Ngoại trưởng 5 nước đã thảo luận về các lãnh vực bao gồm biến đổi khí hậu (1) và làm thế nào để đáp ứng có hiệu quả ; phòng chống bệnh truyền nhiễm ; mở rộng ứng dụng kỹ thuật cho giáo dục và đặc biệt quan tâm đến vùng nông thôn ; cũng như phát triển hạ tầng. Các Ngoại trưởng đã xét duyệt những nỗ lực đang tiến hành, và đồng ý mở ra những lãnh vực hợp tác mới ; và đặc biệt hoan nghênh sáng kiến "Kết nghĩa giữa hai Ủy hội sông Mekong và sông Mississippi (Sister-River Partnership)" nhằm chia sẻ kinh nghiệm chuyên môn trong các lãnh vực thích ứng với biến đổi khí hậu, đương đầu với lũ lụt và hạn hán, khai thác thủy điện và lượng giá ảnh hưởng, quản lý nguồn nước và quan tâm tới an ninh lương thực.
Sáng kiến hạ lưu sông Mekong (Lower Mekong Initiative - LMI) của Ngoại trưởng Hillary Clinton, với mục đích là tạo thuận và phối hợp cách ứng xử với những thách đố trong phát triển của toàn vùng qua các hội nghị trao đổi thông tin kỹ thuật, những cuộc hội thảo huấn luyện, và những thăm viếng khảo sát.
Với 22 triệu USD dự chi – phải nói là ít, cho các chương trình môi sinh của 4 quốc gia hạ lưu sông Mekong ; một phần ngân khoản ấy cũng được sử dụng cho việc "Kết Nghĩa giữa hai Ủy hội sông Mekong và Mississippi" nhằm thăng tiến quản lý nguồn nước xuyên quốc gia, qua kinh nghiệm từ lưu vực sông Mississippi. Số tiền ấy cũng được cơ quan USAID sử dụng cho việc nghiên cứu ảnh hưởng thay đổi khí hậu trên nguồn nước, an ninh lương thực và trên cuộc sống cư dân trong lưu vực.
Theo Aviva Imhof, nguyên Giám đốc truyền thông của Mạngl sông quốc tế (International Rivers) thì Cơ quan Khảo sát địa chất Mỹ (USGS) có thể hỗ trợ phần kỹ thuật trong việc thu thập dữ kiện về thủy văn (hydrology), sinh thái (ecology), lưu lượng phù sa (sediment flows) và phẩm chất nước với bảo đảm rằng những thông tin ấy được phổ biến rộng rãi tới quần chúng.
Sáng kiến hạ lưu sông Mekong được xem là có phần nào ảnh hưởng tới động lực phát triển trong lưu vực, và gây sự chú ý tới những vấn đề địa dư chính trị đang bị thử thách.
Cho dù thực chất ban đầu là chưa đáng kể, nhưng dấu hiệu tái cam kết của Mỹ với các quốc gia Mekong và ASEAN đã bắt đầu khiến Trung Quốc phải quan tâm nhiều hơn tới các cộng đồng cư dân và các chánh phủ hạ lưu sông Mekong.
Tới Thượng nghị sĩ Jim Webb và giới lập pháp Hoa Kỳ
Cùng với tiếng nói bên Hành pháp, đã có sự cộng hưởng của giới Lập pháp nhất là từ Thượng viện Hoa Kỳ. Thượng nghị sĩ Jim Webb, với tư cách là Chủ tịch Tiểu ban Đông Á và Thái Bình Dương sự vụ của Thượng viện (Senate East Asian and Pacific Affairs Subcommittee), đã rất tích cực từ nhiều năm nhằm ngăn ngừa những tổn hại không thể đảo nghịch về môi trường do hậu quả của các đập thủy điện trên sông Mekong.
Là Thượng nghị sĩ Dân chủ tiểu bang Virginia từ 2006, Jim Webb là một tiếng nói rất năng động, được báo Washingtonian Magazine bầu chọn là một "Ngôi sao đang lên" tại Thượng viện Hoa Kỳ.
Năm 2009, Thượng nghị sĩ Webb đã thực hiện chuyến du hành 2 tuần qua 5 quốc gia Đông Nam Á để khảo sát các dự án phát triển sông Mekong và các phương thức sử dụng nước xuyên lưu vực. Ông cũng vận động lôi kéo được nhiều viên chức ngoại giao Hoa Kỳ, các chánh trị gia hoạch định chánh sách, các chuyên gia môi trường và giới học giả quan tâm tới những nguy cơ phá vỡ sự cân bằng hệ sinh thái của của con sông Mekong và tầm quan trọng của sông Mekong trong phát triển kinh tế và xã hội của vùng Đông Nam Á.
Thượng nghị sĩ Jim Webb cũng đã tổ chức một buổi điều trần ngày 23/09/2010 trước Ủy ban Ngoại giao Thượng viện với đề tài : "Thách Đố về nước và an ninh khu vực Đông Nam Á (Challenge to Water and Security in Southeast Asia)" ngoài tiếng nói của Joseph Yun Phụ tá Thứ trưởng ngoại giao đặc trách Đông Nam Á (Deputy Assistant Secretary of State for Southeast Asia) phía Hành pháp, còn có những tiếng nói thẩm quyền và uy tín từ các tổ chức phi chánh phủ như Richard Cronin [The Stimson Center], Aviva Imhof [International Rivers], Dekila Chungyalpa [Greater Mekong Program World Wildlife Fund for Nature].
Ủy ban Ngoại giao Thượng viện sau đó đã chuẩn thuận nghị quyết của Thượng nghị sĩ Webb kêu gọi các đại diện Hoa Kỳ nơi các ngân hàng phát triển đa quốc gia (multilateral development banks) cần tuân thủ triệt để"những tiêu chuẩn quốc tế về môi trường" trong bất cứ một tài trợ ngân sách nào cho dự án đập thủy điện trên dòng chính sông Mekong. Nghị quyết này như một hỗ trợ cho MRC tuân hành theo thủ tục "tham khảo trước (prior consultation process)" cho mỗi dự án xây đập và đồng thời cũng kêu gọi cả Miến Điện và Trung Quốc gia tăng hợp tác với MRC.
Nghị quyết ấy cũng kêu gọi hoãn xây các con đập dòng chính sông Mekong đồng thời thuyết phục chánh quyền Tổng Thống Obama tăng thêm ngân sách cho Sáng kiến hạ lưu sông Mekong (LMI), hỗ trợ cho "các dự án xây dựng hạ tầng cơ sở (infrastructure projects)" và tìm giải pháp bền vững thay thế cho các dự án đập thủy điện dòng chính Mekong.
Trong một lá thơ gửi Ngoại trưởng Hillary Clinton vào ngày 27/10/2010, Thượng nghị sĩ Webb đã yêu cầu Bộ Ngoại giao tiến xa hơn nữa trong tăng cường hợp tác và thăng tiến phát triển bền vững đối với các dự án đập thủy điện dòng chính sông Mekong.
Thượng nghị sĩ Webb phát biểu : "Là một thành viên tài trợ cho MRC, Hoa Kỳ chuẩn bị xem xét việc rút lại ngân khoản đóng góp nếu như các chương trình về con đập không đạt được tiêu chuẩn môi trường được quốc tế chấp nhận". Và ông đề nghị Ngoại trưởng Hillary Clinton nêu lên các vấn đề ở mọi cấp bậc, với tất cả các quốc gia thành viên, bao gồm cả Thái Lan và Trung Quốc – là hai quốc gia tài trợ chính cho các dự án đập dòng chính hạ lưu sông Mekong.
"Hoa Kỳ và cộng đồng thế giới có một cam kết chiến lược và nghĩa vụ tinh thần nhằm bảo vệ sức khỏe và an sinh (wellbeing) của cư dân sống phụ thuộc vào con sông Mekong cùng với nguồn tài nguyên và nếp sống của họ".
Ngày 12/08/2011, Ủy hội sông Mekong (MRC) thông báo về quyết định từHội nghị cấp Bộ trưởng tại Siem Reap là hoãn xây con đập Xayaburi, cũng là con đập dòng chính đầu tiên thuộc lưu vực dưới sông Mekong, với lý do để có thêm thời gian nghiên cứu về tác hại môi trường của con đập.
Ngay cùng ngày, từ thủ đô Washington, Thượng nghị sĩ Jim Webb đã phát biểu "Đây là bước quan trọng hướng tới một chánh sách trách nhiệm nhằm bảo vệ những điều kiện kinh tế và môi trường cho hơn 60 triệu cư dân trong lưu vực". Thượng nghị sĩ Webb tiếp : "Những nỗ lực của MRC để duy trì sự ổn định môi trường và kinh tế của vùng hạ lưu sông Mekong chứng tỏ ước muốn tôn trọng quyền hạn về nguồn nước của các quốc gia trong lưu vực và đồng thời cũng quan tâm tới "những tiêu chuẩn chính đáng về môi trường (proper environment standards)" khi đánh giá những dự án xây đập thủy điện" (2).
Bản Nghị quyết 227 của Thượng viện Mỹ
Bản Nghị quyết S. Res. 227 của Thượng viện Hoa Kỳ : Kêu gọi bảo vệ Lưu vực sông Mekong và gia tăng hỗ trợ hoãn xây các con đập dòng chính sông Mekong. Bản Nghị quyết được bảo trợ của các Thượng nghị sĩ Jim Webb, Virginia, và Thượng nghị sĩ James Inhofe, Oklahoma và Thượng nghị sĩ Richard Lugar, Indiana được thông qua ngày 07/07/2011 với toàn văn bản nội dung như sau :
Mekong là con sông dài thứ 12 trên thế giới, bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng và chảy suốt 3 ngàn dặm qua Trung Quốc, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam. Khúc sông Mekong hạ lưu là nguồn nước ngọt, nguồn thực phẩm và cơ hội kinh tế cho hơn 60 triệu dân lưu vực.
Sự đa dạng sinh học của sông Mekong chỉ đứng thứ hai sau con sông Amazon, với khoảng 1.500 chủng loại cá trong số đó có hơn 1/3 thuộc loại di ngư (migratory fish), ngược dòng Mekong và các phụ lưu trong chu kỳ sinh sản và tăng trưởng ; đa số thuộc loại cá đánh bắt trao đổi thương mại.
Sông Mekong cũng là cái nôi của 2 quốc gia xuất cảng gạo lớn nhất là Thái Lan và Việt Nam (3) và là vựa cá nước ngọt lớn nhất với 4 triệu tấn mỗi năm trị giá lên tới 9 tỉ USD và cũng chiếm tới 80% lượng protein động vật của cư dân lưu vực.
Trung Quốc đã xây 11 con đập trên dòng chính Mekong thượng lưu ; và còn tiếp tục xây thêm nhiều con đập khác nữa. Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam cũng đang hoạch định xây hoặc tài trợ cho 11 con đập dòng chính trên khúc sông Mekong hạ lưu. Các cuộc nghiên cứu khoa học đã rất quan tâm tới ảnh hưởng tác hại của các con đập dòng chính trên dòng chảy, nguồn cá và sinh vật hoang dã.
Ủy ban sông Mekong (MRC) là một tổ chức bao gồm 4 nước Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam qua một Hiệp định Hợp tác phát triển bền vững được ký kết tại Chiang Rai tháng 04/1995 với thỏa thuận hợp tác quản lý con sông Mekong, phát triển theo hướng bền vững, mang lại lợi ích cho tất cả các quốc gia trong lưu vực.
Mọi thành viên MRC cùng đồng ý "bằng mọi cố gắng phòng tránh, làm nhẹ hay giảm thiểu những hậu quả tác hại trên môi trường, đặc biệt với lượng và phẩm chất nước, hệ sinh thái nước (aquatic ecosystem), và sự cân bằng sinh thái của toàn con sông (river system), do phát triển và xử dụng các nguồn nước Lưu vực sông Mekong" [Điều 7, Mekong Agreement 1995].
MRC đã bảo trợ cho công trình Lượng giá chiến lược môi sinh (Strategic Environmental Assessment) của ICEM [International Centre for Environmental Management Oct 2010], đối với dự án các con đập dòng chính hạ lưu sông Mekong, và đã đi tới kết luận là các con đập có thể gây hậu quả nghiêm trọng về môi sinh bất khả phục hồi, cùng với những tổn thất lâu dài về tính đa dạng sinh học và sự lành mạnh của toàn hệ sinh thái sông Mekong.
Những thay đổi ấy có thể đe dọa tới "An ninh lương thực" trong vùng, ngăn chặn nguồn di ngư, gây tổn thất trên tính đa dạng sinh học, giảm dòng chảy phù sa, gia tăng nạn nhiễm mặn, giảm lượng nông phẩm, và gây bất ổn cho các nhánh sông rạch và cả gây sạt lở vùng cận duyên đồng bằng sông Cửu Long.
Hoa Kỳ có những quyền lợi đáng kể cả về kinh tế và chiến lược trong lưu vực sông Mekong và những quyền lợi ấy có thể bị đe dọa nếu như việc xây những con đập dòng chính ấy có thể gây bất ổn chánh trị trong vùng.
Sáng kiến hạ lưu sông Mekong (LMI) do Bộ Ngoại giao Mỹ khởi xướng vào tháng 7/2009 liên kết 4 quốc gia Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam trong những "vấn đề an ninh về nước", xây dựng tiềm năng vùng, và tạo thuận cho hợp tác đa phương trong vấn đề quản trị hữu hiệu các nguồn nước.
Tài trợ cho Sáng kiến hạ lưu sông Mekong khởi đầu chú tâm tới tới ba trụ cột (pillars) : môi trường, y tế, giáo dục, và riêng trụ thứ 4, cơ sở hạ tầng thì hầu như bỏ ngỏ và không có ngân khoản. Trong khi cơ sở hạ tầng là yếu tố thiết yếu thăng tiến khả năng điều hợp việc xây dựng các công trình thủy điện trong vùng.
Ngày 22/09/2010, Lào gửi tới MRC dự án đập Xayaburi để dược xét duyệt ; đây là con đập hạ lưu đầu tiên trong chuỗi 9 con đập dòng chính trong lãnh thổ Lào (4).
Ngày 19/04/2011, các đại diện Ủy ban Liên hợp MRC họp để thảo luận về dự án đập Xayaburi đã không đạt được sự đồng thuận nhưng cũng đồng ý với nhau rằng quyết định sẽ được hoãn lại cho tới kỳ họp cấp Bộ trưởng của 4 nước sắp tới.
Ngày 8/5/2011, chánh phủ Lào đồng ý tạm hoãn công trình Xayaburi với kế hoạch khảo sát thêm về lượng giá môi trường, nhằm đáp ứng mối quan tâm của các quốc gia láng giềng.
Từ những dữ kiện trên, Thượng viện Hoa Kỳ :
1. Kêu gọi chánh phủ Mỹ nhận định rõ sự khác biệt hoàn cảnh giữa các quốc gia ven sông Mekong, bao gồm các khía cạnh năng lượng, tài nguyên thiên nhiên, và đồng thời hỗ trợ cho nền tảng phát triển hiệu quả (cost-effective) đáp ứng được nhu cầu sản xuất điện, tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo khó.
2. Kêu gọi các đại diện của Hoa Kỳ trong các ngân hàng phát triển đa quốc gia vận dụng tiếng nói và quyền đầu phiếu đề chống lại việc hỗ trợ tài chính cho các dự án đập thủy điện dòng chính Mekong nếu chưa được phối hợp đầy đủ trong phạm vi vùng và có thể gây những tác hại đáng kể về môi trường, đời sống cư dân, và phát triển kinh tế ven sông và trong lưu vực.
3. Khuyến khích Hoa Kỳ gia tăng cam kết với các quốc gia Mekong qua Sáng kiến hạ lưu sông Mekong (LMI) và gia tăng hỗ trợ"năng lượng và an ninh nước" thuộc vùng Đông Nam Á.
4. Kêu gọi chánh phủ Hoa Kỳ lãnh đạo Sáng kiến hạ lưu sông Mekong (LMI) quan tâm nhiều hơn tới khả năng xây dựng các dự án về năng lượng và cơ sở hạ tầng nước.
5. Hoan nghênh quyết định của chánh phủ Lào tạm hoãn xây công trình đập Xayaburi để đáp lại mối quan tâm của các quốc gia lân bang.
6. Hỗ trợ hoãn xây chuỗi các con đập dòng chính Mekong cho tới khi các cuộc lượng giá môi sinh hoàn chỉnh, đồng thời với kế hoạch điều hợp đa phương được hoàn tất.
7. Kêu gọi mọi quốc gia ven sông Mekong, bao gồm cả Trung Quốc tôn trọng quyền của các quốc gia khác trong lưu vực và cần quan tâm tới bất cứ sự bất đồng hay mối e ngại nào đối với các dự án đập sông Mekong.
8. Khuyến khích các thành viên của MRC tôn trọng thủ tục "tham vấn trước (prior consultation)" qua tiến trình xây đập trải với các giai đoạn như : Thủ tục Thông báo (Procedures for Notification), Tham vấn trước (Prior Consultation(, Chuẩn thuận (Agreement).
9. Kêu gọi các chánh phủ Miến Điện và Trung Quốc cải thiện hợp tác với MRC, chia sẻ thông tin về lưu lượng nước và tham dự vào các tiến trình quyết định trong vùng (regional decision-making processes), trong phát triển và sử dụng sông Mekong. Và
10. Hỗ trợ các quốc gia hạ lưu sông Mekong thu thập dữ kiện và phân tích ảnh hưởng các dự án phát triển dọc theo sông Mekong.
Liệu Sáng kiến hạ lưu sông Mekong đã trở thành quá khứ ?
Sự trở lại khu vực Đông Nam Á của Hoa Kỳ qua Sáng kiến hạ lưu sông Mekong (LMI) cho đến nay đã qua 10 năm, nhưng vẫn còn mang tính cách rất tượng trưng với một ngân khoản đầu tư chưa tương xứng so với tầm vóc của chánh sách và nhu cầu của các quốc gia trong lưu vực. Lại càng chưa thể nói là có khả năng "đối trọng" đối với áp lực bành trướng ngày càng gia tăng của Trung Quốc, khi mà Bắc Kinh đang ở thế thượng phong trong Đại tiểu vùng sông Mekong (Greater Mekong Subregion - GMS) so với Hoa Kỳ trong nhiều lãnh vực :
- Trung Quốc có một địa dư tiếp cận, sở hữu một nửa chiều dài con sông Lancang-Mekong chảy xuyên suốt qua 6 quốc gia thay vì với Hoa Kỳ là cả một khoảng cách đại dương.
- Trung Quốc đang và sẽ sở hữu thêm những con đập dòng chính khổng lồ trên thượng nguồn khiến con sông Mekong trở "thành tháp nước và nhà máy điện" của Trung Quốc.
- Trung Quốc đã và đang mở rộng những đặc khu kinh tế SEZs (Special Economic Zones) "Made in China" trong lưu vực [Lào, Cam Bốt, Việt Nam] với nhân lực tài lực và các hạ tầng cơ sở có khả năng bám trụ lâu dài.
- Trung Quốc có một lực lượng quân sự được quyền ngang nhiên tuần tra trên sông Mekong bên ngoài lãnh thổ Trung Quốc từ tháng 12/2011 nhằm bảo vệ an ninh và những đặc quyền kinh tế.
- Trung Quốc đang tận khai thác tình trạng phân hóa khối ASEAN và các quốc gia Mekong, điển hình là sự rạn vỡ của ba nước Đông Dương với Cam Bốt và tiếp theo là Lào đang tách rời Việt Nam để đi dần vào quỹ đạo của Bắc Kinh.
- Trung Quốc có một nguồn tiền gần như vô hạn, là chủ nợ của Hoa Kỳ, và dư khả năng để tài trợ cho các công trình cơ sở hạ tầng và cả những con đập dòng chính hạ lưu sông Mekong.
Ngoài nguồn tiền từ Trung Quốc, khai thác thủy điện sông Mekong nay có phần dễ dàng hơn nhiều khi mà số vốn đầu tư còn có thể đến từ những ngân hàng thương mại trong vùng như Thái Lan, Mã Lai, Việt Nam… thay vì như trước đây phải được tài trợ từ các tổ chức tài chánh quốc tế lớn mà Mỹ rất có ảnh hưởng như Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á.
Mike Pompeo và Sáng kiến hạ lưu sông Mekong
Mười năm sau Ngoại trưởng Hillary Clinton (2009), ngày 1/8/2019 trong cuộc họp các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN ở Bangkok, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo nhắc lại Sáng kiến hạ lưu sông Mekong (Lower Mekong Initiative) (5), Mike Pompeo lên tiếng chỉ trích Trung Quốc đã xây các đập thủy điện dòng chính sông Mekong gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến các quốc gia hạ nguồn.
"Mực nước của con sông đang ở mức thấp nhất trong một thập kỷ qua, một vấn đề có liên quan đến quyết định đóng nước từ thượng nguồn của Trung Quốc", Ngoại trưởng Pompeo phát biểu tiếp.
Pompeo cũng nói đến việc Trung Quốc cho nổ mìn, nạo vét lòng sông, tuần tra dòng sông bên ngoài khu vực thuộc Trung Quốc, tìm cách áp đặt các luật lệ lên việc quản lý dòng sông, và do đó làm yếu đi vai trò của Ủy hội sông Mekong.
Ngoại trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo (thứ ba từ trái), Ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh (thứ hai từ phải) tại Hội nghị cấp Bộ trưởng ở Bangkok, Thái Lan hôm 1/8/2019 trong dịp kỷ niệm 10 năm Sáng kiến Hạ lưu Mekong [nguồn : US Embassy in Vietnam]
Ngoại trưởng Pompeo cũng nói đến cam kết của Hoa Kỳ và Nhật Bản trong việc hợp tác với các nước thuộc lưu vực sông Mekong để đối phó với những khó khăn. Đối tác năng lượng Mekong Nhật Bản – Hoa Kỳ [JUMP - Japan-U.S. Mekong Power Partnership], sẽ xây dựng các mạng lưới dẫn điện trong khu vực, và Hoa Kỳ cam kết sẽ đóng góp hơn 29 triệu đô la.
Và chính phủ Mỹ đang làm việc với Quốc hội để cung cấp một khoản trợ giúp trị giá 14 triệu đô la cho các nước sông Mekong đối phó với tội phạm xuyên quốc gia, buôn người, ngăn chặn việc buôn bán động vật hoang dã, đối phó với sự lan rộng của việc buôn lậu thuốc phiện từ khu vực Tam Giác Vàng. Đó là những chương trình trợ giúp mang tính nhân đạo nhưng xét về giá trị chiến lược thì rất manh mún…
Và người viết không thể không tự hỏi : vị trí chiến lược của Hoa Kỳ hiện nay là ở đâu trên Bàn cờ sông Mekong ?
Thiếu thực chất chiến lược (short on substance), thiếu một chính sách liên tục và nhất quán từ phía Hoa Kỳ : đó là thực trạng từ nhiều năm nay của Sáng kiến hạ lưu sông Mekong (LMI).
Các viên chức Mỹ từ Hành pháp tới Lập pháp bấy lâu đã nói nhiều về cam kết vai trò mở rộng của Hoa Kỳ trong lưu vực sông Mekong [Sáng kiến hạ lưu sông Mekong của Bộ Ngoại giao, Nghị quyết Res. 227 của Thượng viện] nhưng rồi với chính sách luôn "xoay trục", và với "tổng số đầu tư thì chưa đáng kể" cả về phẩm lẫn lượng. Cũng trong suốt 10 năm qua, Hoa Kỳ gần như tê liệt, không có động thái tích cực và hiệu quả nào ngăn chặn khi Trung Quốc liên tục cung cấp vốn đầu tư, kỹ thuật và trang bị xây đập để Lào có thể cắt đoạn dòng chính sông Mekong với các con đập Xayaburi, Don Sahong tới Pak Beng, Pak Lay và sắp tới đây là con đập lớn Luang Prabang – và thật trớ trêu với đa phần vốn đầu tư là từ PetroVietnam, một Việt Nam đang cầm súng tự bắn vào chân mình !
Hoa Kỳ càng ngày càng bị Trung Quốc lấn lướt không chỉ trên toàn lưu vực sông Mekong mà cả Biển Đông. Để có thể tranh giành ảnh hưởng với Bắc Kinh, dĩ nhiên, có một cái giá tương xứng phải trả về phía Hoa Kỳ có thể phục hồi ảnh hưởng và uy tín tại khu vực Đông Nam Á với thế mạnh và có khả năng đối trọng hữu hiệu với Trung Quốc.
Ngô Thế Vinh
Nguồn : VOA, 27/09/2019
Ghi chú của người viết :
(1) nhưng ngót một thập niên sau, climate change đã hoàn toàn bị Donald Trump, Tổng thống Mỹ đương nhiệm phủ nhận.
(2) trong thực tế năm 2019 chỉ 8 năm sau, con đập dòng chính Xayaburi cũng đã được xây xong cùng với con đập Don Sahong, và còn thêm 3 dự án đập dòng chính nữa là : Pak Beng, Pak Lay và mới đây Luang Prabang đang được chính phủ Lào cho triển khai, đang là những báo hiệu một tương lai rất ảm đạm của con sông Mekong và Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam.
(3) vựa lúa của Thái Lan chủ yếu phụ thuộc vào đồng bằng Châu thổ sông Chao Phraya chứ không phải sông Mekong.
(4) 2 con đập Stung Treng và Sambor trong lãnh thổ Cam Bốt.
(5) LMI do Bộ Ngoại giao Mỹ khởi xướng vào tháng 7/2009.
Tham khảo :
1. Challenge to Water and Security in Southeast Asia ; U.S. Senate Committee on Foreign Relations ; Presiding : Senator Webb, Thursday, September 23, 2010
2. Press Releases : Senator Webb : Mekong River Commission Announcement on Xayaburi Dam "Important Step Toward Responsible Policy" ; December 8, 2011
3. Sen. Webb Calls on Sec. Clinton to Strengthen Cooperation to Avert Crisis in Mekong River Region of Southeast Asia. Says U.S. should consider withdrawing funding for Mekong River Commission if environmental standards are not met.
4. In The Senate of The United Stated : The full text of S.Res. 227 (as passed July 7, 2011), (Mr. Webb, Mr. Inhofe, and Mr. Lugar) A resolution calling for the protection of the Mekong River Basin and increased United States support for delaying the construction of mainstream dams along the Mekong River.
5. China Sees U.S. as Competitor and Declining Power, Insider Says ; By Jane Perlez, April 2, 2012
Phan Nhật Nam về La Vang với Ngô Thế Vinh
Con Đường Buồn Tênh (Street Without Joy), Dọc đường số 1, Đại Lộ Kinh Hoàng, Con Sông Bến Hải, Cây Cầu Hiền Lương, ngược về quá khứ, qua hai cuộc chiến tranh Việt Pháp, Quốc Cộng Nam Bắc, ngược dòng thời gian xuyên suốt con đường lịch sử đầy xác chết, đẫm máu và nước mắt, bằng cách này hay cách khác, thế hệ tuổi trẻ chúng tôi trong chiến tranh hay hòa bình cũng đã hơn một lần đi qua và chẳng thể nào quên.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đang quỳ gối cầu nguyện trong Nhà thờ La Vang đổ nát 20/09/1972 sau khi quân lực Việt Nam Cộng Hòa tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị [nguồn : tư liệu Linh mục Nguyên Thanh]
Linh Đài với Ba Cây Đa cao 20 mét tượng trưng cho Ba Ngôi được dựng nơi Đức Mẹ đã hiện ra, với tượng Đức Mẹ bồng Chúa Hài Đồng.
Có người cho rằng đây là tác phẩm của Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ nhưng chi tiết khắc trên đá nơi sau chân tượng gốc ghi là của Điêu khắc gia Nguyễn Văn Thế, ông cũng là tác giả công trình tượng đài Hai Bà Trưng Công Viên Mê Linh Sài Gòn, đã bị phá sập sau biến cố 1963 (v).
Và trong chuyến đi này, Phan Nhật Nam cũng đã đến La Vang với tôi qua một hồi cảnh (flashback) với hồi chuông báo tử hay sám hối (For Whom The Bell Tolls), với lời ai điếu hay cả lời nguyền… Những hồi chuông từ nơi tháp cổ mang đầy thương tích ấy vẫn như còn ngân và vang xa, vươn xa tới 9 cây số của Đại Lộ Kinh Hoàng để xoa dịu vỗ về và là nguồn an ủi cho linh hồn của vô số những ngưởi dân lành đã chết oan khiên trong Mùa Hẻ Đỏ Lửa 1972…
Ngày đầu tháng 7, 1972… Anh đang ở trên Quốc lộ 1 cây số 9 từ Quảng Trị kế đến, vùng thôn Mai Đẳng, xã Giáp Hậu, quận Hải Lăng cảnh tượng trước mặt, chỉ có thể im lặng, chỉ có thể nghiến răng, bặm môi, dù răng vỡ, môi chảy máu tươi, mắt mờ nhạt. Không biết gì khi thân thể đang sụp xuống, co quắp, luống cuống với cảnh tượng tàn khốc trước mặt. Trời ơi ! Hình như có tiếng kêu mơ hồ dội ngược trong ngực, sâu trong cổ họng, nơi óc não, hay chỉ là ảo giác khi mất hết khả năng kiểm soát. Anh không là người đang sống, vì sống là sống cùng với người sống, chia xẻ vui buồn, đau đớn lo âu với người sống. Nhưng bây giờ chung quanh, trước mặt chỉ còn một cảnh tượng, một vũng lầy – Chết. Chỉ Sự chết bao trùm vây chặt, che kín, chụp xuống…
Sự Chết trên 9 cây số đường này là 9 cây số trời chết, đất chết, chết trên mỗi hạt cát, chết trên đầu ngọn lá, chết vương vãi từng mảnh thịt, chết từng cụm xương sống, khúc xương sườn, chết lăn lóc đầu lâu, chết rã rời từng bàn tay cong cong đen đúa…
Làm được gì bây giờ ? Tại 9 cây số đường chết của Quảng Trị ở Việt Nam không thể dùng danh từ "xác chết" nữa, vì nơi đây chết tan nát, chết tung tóe, chết vỡ bùng… Chết quá cái chết. Không còn được là "người chết" trên đoạn đường kinh khiếp của một chốn quê hương. Quảng Trị.
Đến La Vang thượng, anh xuống xe đi bộ vào La Vang Chính Tòa, nơi đơn vị bạn, Tiểu Đoàn 11 Dù đang chiếm giữ. Hai cây số đường đất giữa ruộng lúa xanh cỏ, anh đi như người sống sót độc nhất sau trận bão lửa đã đốt cháy hết loài người. Đường vắng, trời ủ giông, đất dưới chân mềm mềm theo mỗi bước đi, gió mát và không khí thênh thang. Ngồi xuống vệ đường bỏ tay xuống ao nước kỳ cọ từng ngón một – Anh muốn tẩy một phần sự chết bao quanh ?
Đi vòng vòng ở sân Tiểu Vương Cung Thánh Đường, nhìn dãy tượng Thiên Thần gãy đổ, tượng Đức Mẹ lỗ chỗ mảnh đạn, hàng dương liễu cháy xám… Bây giờ sau khi qua 9 cây số chết, lòng cứng, não trơ, anh đi xiêu vẹo ngả nghiêng trong bóng nắng và gió nồng ẩm… Bước qua gạch ngói của căn nhà đổ nát, anh đến gác chuông kéo sợi dây…
Hai quả chuông quá nặng, phải kéo bằng hai tay… Kính… coong… Tiếng chuông âm u vang động… Vang vào trong núi không nhỉ ? Nơi đây là bình nguyên trùng điệp và Trường Sơn bao vây nơi xa… Vắng vẻ quá ! Anh nói thật lớn cho chính mình nghe. Chẳng biết nên làm gì ?
Giật dây chuông thêm một lần nữa… Kính… coong... coong... vang... La... Vang…
Phan Nhật Nam [Tháng 7/1972- 1/2019] (ii)
Tượng Chúa Giêsu vác Thánh Giá, một trong quần thể tượng 15 Sự Mầu Nhiệm Mân Côi của Lê Ngọc Huệ và môn sinh có Mai Chửng bị bom đạn phá sập trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 [nguồn : tư liệu Linh mục Nguyên Thanh]
Đến với Nhà thờ Đức Mẹ La Vang
Từ Huế ra đến Quảng Trị mấy ngày đầu năm 2019 là những ngày ủ dột mưa. Sau bài viết : Đi tìm bức tượng Mẹ và Con, tác phẩm bị lãng quên của Mai Chửng ở Hải ngoại. VOA 07/06/2018, tôi có ước muốn trở lại thăm Nhà thờ Đức Mẹ La Vang Quận Hải Lăng Quảng Trị, nơi đã từng có một quần thể tượng nghệ thuật tôn giáo của Giáo sư điêu khắc Lê Ngọc Huệ cùng đám môn sinh trong đó có Mai Chửng với chủ đềMười Lăm Sự Mầu Nhiệm Mân Côi (iii).
Đây là một công trình tập thể của nhóm thầy trò trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế, do Giáo sư Lê Ngọc Huệ lúc đó còn rất trẻ, sinh năm 1936, tốt nghiệp điêu khắc từ trường Mỹ thuật Montpellier, Pháp mới từ Paris về. Ông cùng với mấy sinh viên khoa điêu khắc tuy ít nhưng tài ba và sau này họ trở thành những tên tuổi như Mai Chửng, Lê Tài Điển, Trần Văn Danh… Thầy trò cùng chung sức thực hiện trong khoảng thời gian hơn hai năm từ 1961 tới 1963 thì gần như hoàn tất.
Theo Lê Tài Điển, hiện ở Pháp, là một thành viên duy nhất trong nhóm môn sinh của Giáo sư Lê Ngọc Huệ mà tôi còn liên lạc được qua eMail [ngày 17/01/2019] cho biết : "Gs Bernard Huệ có giòng máu Pháp Việt, quê ở Miền Tây, có một lần ông vắng mặt nhà trường, sau đó ông cho biết về Hậu Giang để thăm mẹ. La Vang là công trình lớn lao với 12 điêu khắc các thánh... không hoàn thành do biến động... dở dang ! Riêng tôi có phụ trách 1 dự án "non bộ" hiện giữa 12 tượng đài" (1).
Tính tới nay, khoảng thời gian 56 năm đâu đã quá xa, nhưng điều còn nhớ và ghi lại được trên các văn bản thì rất khiêm tốn. Ngay như một tiểu sử chi tiết và các hình ảnh của Lê Ngọc Huệ cũng rất khó kiếm, vì sau chính biến 1963 lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm, ông rời Việt Nam trở lại Pháp và không còn để lại đầu mối liên lạc nào nữa.
Ngoài quần thể tượng nghệ thuật tôn giáo Mười Lăm Sự Mầu Nhiệm Mân Côi tại Nhà thờ Đức Mẹ La Vang là một công trình lớn có giá trị cao trong lịch sử điêu khắc Việt Nam thì Trụ Cột Hòa bình là một tác phẩm cá nhân duy nhất mà Lê Ngọc Huệ còn để lại. Trụ Cột Hòa bình đoạt huy chương Bạc trong cuộc triển lãm Quốc Tế Mỹ Thuật Sài Gòn lần thứ nhất năm 1962 (2) tại Công Viên Tao Đàn gồm 22 quốc gia, là một tác phẩm điêu khắc theo khuynh hướng hiện đại, rất mới so với nền điêu khắc còn non trẻ của Việt Nam thời bấy giờ. Nhưng rồi sau biến cố 30 tháng 4, 1975 các tác phẩm rất giá trị của Sài Gòn Cũ nhưTrụ Cột Hòa bình của Lê Ngọc Huệ nơi khuôn viên Viện Đại Học Sài Gòn, Bông Lúa Con Gái của Mai Chửng ở thành phố Long Xuyên và một số các tượng đài khác đều chung số phận bị hất hủi hay bị phá hủy…
Một chút lịch sử Nhà thờ La Vang
Đức Mẹ hiện ra ở La Vang 221 năm về trước (1798 - 2019), được coi như phép lạ trong một thời kỳ mà đạo Thiên Chúa bắt đầu bị cấm đoán và bắt bớ tại Việt Nam. La Vang ngày nay được xem như một thánh địa, nơi hành hương quan trọng của giáo dân Việt Nam, ở xã Hải Phú, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, thuộc Tổng Giáo phận Huế. Các tín đồ vẫn tin rằng, Đức Mẹ đã hiện ra ở khu vực này vào năm 1798, và một nhà thờ đã được xây dựng gần ba cây đa, nơi Đức Mẹ đã hiện ra và đến năm 1961, nhà thờ Đức Mẹ La Vang được Tòa Thánh tôn phong là Tiểu Vương Cung Thánh đường La Vang (3).
Dưới thời vua Cảnh Thịnh tức Nguyễn Quang Toản, con trai thứ của vua Quang Trung nhà Tây Sơn, ra chiếu chỉ cấm đạo năm 1798, để tránh bị nạn, nhiều giáo dân vùng Quảng Trị đã chạy lên vùng đất hẻo lánh này. Có nhiều "dật sự" về nguồn gốc tên La Vang, nhưng có một cách giải thích khá khả tín là khi giáo dân chạy lên vùng đất này thì bị dịch bệnh, lúc bấy giờ Đức Mẹ đã hiện ra và chỉ dẫn cho họ đi tìm một loại lá từ cây vằng – uống vào sẽ chữa khỏi bệnh, "lá vằng" viết không dấu thành La Vang. Sự kiện, người hành hương về nơi này có thể mua được "lá vằng", một loại lá dân gian dùng sắc thuốc uống mát và lành, trị được một số bệnh. Khách thập phương đến đây hành hương và cầu xin ơn lành mà người Thiên chúa giáo tin rằng Đức Mẹ sẽ ban ơn như ý nguyện. Đức Mẹ La Vang được biểu tượng bằng một phụ nữ mặc áo dài bế con trong y phục truyền thống Việt Nam.
Theo truyền khẩu, năm 1885 nhà thờ bị đốt và nhóm giáo dân La Vang dựng lại nhà thờ Đức Mẹ trên nền cũ. Năm 1894, Giám mục Caspar Lộc cho xây lại một đền thờ bằng ngói, vì là vùng núi vận chuyển vật liệu khó khăn nên 15 năm mới hoàn thành. Năm 1901, đại hội La Vang đầu tiên được tổ chức vào ngày 08 tháng 08 để mừng khánh thành nhà thờ.
Năm 1924, do ngôi nhà thờ ngói chật hẹp, lại hư hại cho nên một đền thánh La Vang theo đồ án của kiến trúc sư Carpentier được dựng lên và khánh thành năm 1928, nhân dịp Đại hội La Vang 9. Thánh đường này được trùng tu năm 1959. Trong phiên họp ngày 13 tháng 04 năm 1961, Hội đồng Giám mục Miền Nam Việt Nam đã quyết định La Vang là Trung tâm Thánh Mẫu Toàn quốc (4).
Nhà thờ Đức Mẹ La Vang 30/05/1970 vẫn còn nguyên vẹn, Bác sĩ Nguyễn Duy Hảo YK68 cùng Linh mục Tuyên úy đưa anh em thương phế binh từ Tổng Y viện Duy Tân đi hành hương Nhà thờ La Vang [tư liệu Bác sĩ Nguyễn Duy Hảo].
Sau chiến tranh, chỉ còn lại di tích tháp chuông cổ từ ngôi Thánh đường La Vang cũ [nguồn : daminhvn.net]
Nhà thờ cổ Đức Mẹ La Vang trước chiến tranh còn nguyên vẹn [tư liệu Linh mục Nguyên Thanh]
Ngôi nhà thờ đổ nát qua Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, sau đó quân lực Việt Nam Cộng Hòa tái chiếm Cổ thành Quảng Trị và khu Nhà thờ La Vang [tư liệu Linh mục Nguyên Thanh]
Nhà thờ La Vang 04/2017, photo by Dương Phước Luyến [tư liệu Huỳnh Hữu Ủy]
Ngày 15 tháng 8 năm 2012 lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng Tiểu Vương Cung Thánh Đường La Vang mới, với các góc mái uốn cong như ngôi đình, mang phong cách kiến trúc Việt Nam.
Theo Linh mục Nguyên Thanh, nguyên sĩ quan Tuyên úy của Sư ĐoànThủy Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Hòa, cũng là bạn tù cải tạo từ nhiều năm của người viết và từng viếng La Vang nhiều lần ở các giai đoạn khác nhau thì :
"…Trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, Công trường Mân Côi bị bom đạn cày xới lỗ chỗ, một số bức tượng trong quần thể 15 Sự Mầu Nhiệm bị tan nát hoặc sứt mẻ trầm trọng. Chỉ còn ba cây đa nhân tạo nơi đài Đức Mẹ là vẫn đứng vững.
Và từ năm 1995, Công trường Mân Côi, đã được tái thiết từng bước theo nguyên trạng ban đầu với sân cỏ, trồng cây, lối đi cũng là lộ trình kiệu được lát gạch chạy thẳng từ cổng tam quan đến lễ đài, và điều đáng kể là 15 pho tượng Mầu Nhiệm Mân Côi bị hư hại trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 cũng đã được tu sửa tái tạo.
Chủ đề 15 pho tượng của điêu khắc gia Lê Ngọc Huệ tương ứng với sự chiêm ngắm 15 Mầu Nhiệm Mân Côi gồm : Năm sự Vui, Năm sự Thương, và Năm sự Mừng. Chủ đề này đặc biệt thích hợp cho thánh địa sùng bái Thánh Mẫu nếu so với chủ đề thường thấy trong hầu hết khuôn viên của các nhà thờ là "14 Chặng đàng Thánh giá".
Mân Côi (Rosary) nghĩa là "vòng hoa hồng", mỗi lời kinh Kính mừng Ave Maria như một đóa hồng xinh đẹp sẽ kết thành một Tràng Hoa dâng lên Đức Mẹ. Đọc kinh Kính mừng là sự chiêm nghiệm theo trình tự những mầu nhiệm hay sự kiện chính trong cuộc đời, sự thương khó, cái chết, và vinh quang của Chúa Giêsu và sự tham dự của Mẹ ngài là Maria.
Trong kinh nguyện Mân Côi đọc mỗi ngày, 15 mầu nhiệm được chia thành 3 bộ, mỗi bộ trong đó lại có 5 đề tài khác nhau để chiêm nghiệm (mỗi đề tài được đọc bằng mười bài kinh Kính mừng). Để bổ sung vào những mầu nhiệm chiêm ngắm này, trong đó người ta lại phối hợp chúng với các đức tính gương mẫu với từng mầu nhiệm (như tính khiêm nhường, bác ái, nghèo khó, thanh sạch…). Dựa vào đó, mỗi "bộ" về hình thể điêu khắc súc tích được cái ý tưởng cốt yếu của từng đề tài :
1. Năm sự vui : Chiêm ngắm những khoảnh khắc trong đời Đức Mẹ Maria, đây là những đề tài giàu cảm xúc và thân thiết, như trong cảnh thiên thần truyền tin hoặc tình cảm giữa người nữ với nhau, việc sinh đẻ, tình mẹ con. Điêu khắc chủ yếu dùng những bố cục và đường nét cong đầy nữ tính, hình khối tròn mềm mại hài hòa khi vận dụng đường uốn lượn nhịp nhàng của cử động và y phục.
2. Năm sự thương : loạt tượng này chủ yếu dùng những mẫu khối hình học lập thể táo bạo và mãnh liệt thật thích hợp để diễn tả nỗi khắc khoải và thống khổ vừa trong nội tâm và thể xác của Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn, như cảnh cầu nguyện trong vườn cây dầu, cảnh thụ hình và chịu đóng đinh.
3. Năm sự mừng : là những đề tài hân hoan, thăng hoa và tôn vinh. Hình khối điêu khắc từ đây ít tính khắc khổ, ngoại trừ pho "Chúa Giêsu sống lại" vẫn giữ phong cách lập thể và biểu hiện để thống nhất với Năm sự Thương, các pho còn lại trở về với hình khối mang tính tượng trưng với đường nét tròn đầy của nữ tính để diễn tả trạng thái viên mãn, nhất là với các bức thể hiện Đức Mẹ.
Tác phẩm của Lê Ngọc Huệ để lại sẽ vẫn còn toả sáng lâu dài vì mang những giá trị nghệ thuật và tâm linh thể nghiệm đạo đức Ki-tô giáo và mỹ học đương đại. Quần thể tượng là 15 đóa hồng mầu nhiệm - rosa mystica - chất chứa nhiều trạng thái cảm xúc từ bi tráng đến thăng hoa của con người vượt cảnh giới thế tục qua sự cứu chuộc của tôn giáo và nghệ thuật, và nằm trong một không gian và thời gian kết tinh của tâm linh qua những thăng trầm của lịch sử[nguồn : Linh mục Nguyên Thanh].
Sau thời gian gián đoạn, từ năm 1990, chính quyền địa phương cho phép hành lễ trở lại. La Vang trở thành thánh địa quan trọng nhất của người Thiên Chúa giáo Việt Nam, hàng năm có hơn nửa triệu người, cả từ khắp năm Châu về hành hương, con số ấy ngày một gia tăng.
Tác giả tượng Ba Cây Đa là ai ?
Theo Chủng sinh Nguyễn An Phong, trong Kỷ Yếu Kỷ niệm 42 năm Lớp Mẹ Vô nhiễm Khóa Hoan Thiện (HT 67), viết theo lời kể của Ba Anh, ông Nguyễn Văn Nghiêm người gần như suốt cuộc đời gắn bó với Nhà thờ Đức Mẹ La Vang thì :
"Được nghe Ba tôi kể một vài điều, nhất là về việc xây cất Ba Cây Đa và các tượng Mười Lăm Sự Mầu Nhiệm. Theo như trang mạng của Địa Phận Huế bây giờ, cũng như trong sách Đức Mẹ La Vang của linh mục Hồng Phúc hoặc lời giải thích của thi sĩ Đình Bảng trong DVD về La Vang đều nói là công trình của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, vị kiến trúc sư lừng danh thế giới với giải Grand Prix de Rome năm 1955… Cậy nhờ đến internet để tìm kiếm, có khá nhiều trang mạng nói về vị kiến trúc sư tài ba nầy như ở trang bách khoa (5).
Đặc biệt, trang mạng sau này của kiến trúc sư Ngô Viết Nam Sơn là con trai của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, nói về cuộc đời nghệ thuật của Ba mình. Trang nầy liệt kê các công trình tiêu biểu như khách sạn, chùa chiền, nhà thờ, chợ búa, trường đại học, dinh Độc Lập… nhưng hoàn toàn không nhắc tới công trình La Vang hoặc một công trình điêu khắc nào.
Tuy nhiên, sau lưng bàn thờ Mẹ, nếu để ý, ta có thể thấy khắc mấy hàng chữ nhỏ. Hàng chữ nầy khắc chìm vào đá, nhưng có ai mới sơn màu đỏ lên :
Hân hạnh phục vụ Linh Đài
Sáng kiến và mô hình : Ông Nguyễn Văn Thế, điêu khắc sư
Quản lý : Linh mục Trần Văn Tường
Công tác giám thị : Nguyễn Văn Nghiêm, Nguyễn Hữu Mùi
Tạc đá : Huỳnh Phạm
Vậy đúng là ông Nguyễn Văn Thế mà tôi còn nhớ. Ông Nguyễn Văn Nghiêm là Ba tôi. Ông Nguyễn Hữu Mùi là thân phụ của linh mục Nguyễn Hữu Hiến (Hoan Thiện 66)…. Nhưng đoan chắc Ba Cây Đa là của điêu khắc gia Nguyễn Văn Thế, vì có khắc rõ ràng trên bảng đá" [Hết lược dẫn] (v).
Điêu khắc gia Nguyễn Văn Thế, Đệ Nhị Giải La Mã [Nghệ Thuật Việt Nam Hiện Đại, Nguyễn Văn Phương, Nha Mỹ Thuật Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa 1962] (vi)
Theo trang mạng tiếng Việt (6) thì : "Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ có vai trò quy hoạch kiến trúc tổng thể khu Thánh địa La Vang Quảng Trị cùng với công trình điêu khắc của "điêu khắc sư" Nguyễn Văn Thế, cũng như ông đã từng quy hoạch cảnh quan Công trường Mê Linh năm 1961 cùng với nhà điêu khắc Nguyễn Văn Thế là tác giả của tượng đài Hai Bà Trưng Sài Gòn".
Với sự thận trọng, người viết đã nhờ Linh mục Nguyên Thanh [ngày 18/01/2019], liên lạc với Cha nguyên quản nhiệm Tiểu Vương Cung Thánh Đường La Vang Quảng Trị thì được Cha cho biết, qua các giai đoạn trùng tu kể cả tượng đài Ba Cây Đa, đã không còn những dòng chữ khắc trên đá sau lưng bàn thờ Mẹ, và Cha thì vẫn nghĩ rằng tượng Ba Cây Đa là của Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ.
Người viết chỉ ghi lại những sự kiện và không đưa ra một kết luận nào. Hy vọng trong tương lai gần, sẽ có thêm một tiếng nói của Kiến trúc sư Ngô Viết Nam Sơn con trai Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, để có thể giúp soi sáng một sự kiện có tính cách lịch sử mỹ thuật tôn giáo này.
Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, Khôi nguyên Giải La Mã, được Tổng thống Ngô Đình Diệm mời về Việt Nam, ông đã để lại nhiều dấu ấn trên các công trình kiến trúc thời Việt Nam Cộng Hòa. Hình trên : Lễ đặt viên đá đầu tiên 1962 xây Trung tâm Giáo dục Y Khoa Sài Gòn ; hàng trước từ trái : Giáo sư Phạm Biểu Tâm, Tổng thống Ngô Đình Diệm, Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, Giáo sư Nguyễn Quang Trình [tư liệu gia đình Giáo sư Phạm Biểu Tâm]
Tổng Giám mục Ngô Đình Thục và Giáo sư Lê Ngọc Huệ
Vẫn theo Nguyễn An Phong, trong Kỷ Yếu Lớp Mẹ Vô nhiễm Khóa Hoan Thiện (HT 67), theo lời kể của Ba Anh, ông Nguyễn Văn Nghiêm một giai thoại thú vị về Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục, [anh Tổng thống Ngô Đình Diệm] lúc đó đã 64 tuổi đang cai quản Giáo phận Huế bao gồm cả Quảng Trị với Giáo sư Điêu khắc Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế Lê Ngọc Huệ còn rất trẻ, mới 25 tuổi từ Pháp về :
"Khi vị điêu khắc gia trình Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục mô hình các bức tượng Mười Lăm Sự Mầu Nhiệm thì ngài bác ngay. Ngài lấy lý do dân Quảng Trị là những người mộc mạc, quê mùa. Mỗi khi đi viếng Mẹ, làm thế nào để họ có thể cầu nguyện trước những bức tượng "một hòn, một cục" được. Người dân quê cần những bức tượng theo lối tả chân để họ có thể hiểu mà để tâm cầu nguyện. Vị điêu khắc gia đã mất một thời gian khá dài để thuyết phục Đức Tổng. Vì đây là một công trình nghệ thuật tôn giáo quan trọng và lớn lao. Những bức tượng lập khối có những ý nghĩa nhất định… Tượng Mẹ Lên Trời, tà áo Mẹ phồng lên như có gió thổi để chỉ Mẹ được nâng lên trời, cả hồn lẫn xác. Trong khi tượng Chúa Lên Trời thì tự nhiên. Những bắp thịt trên vai của tượng Chúa Ngã Xuống Đất căng lên sức nặng của tội lỗi con người, nhưng khuôn mặt Chúa thì vẫn bình thản, thương yêu… Nghe lời giải thích hợp lý, Đức Tổng đồng ý với điều kiện là trước mỗi bức tượng, ghi những chú giải cần thiết để người dân dễ hiểu. Vị điêu khắc gia từ chối quyết liệt, vì như vậy còn gì là nghệ thuật nữa. Đức Tổng cuối cùng chịu thua, chấp thuận. Tôi cũng nghe kể vị điêu khắc gia nầy là một giáo sư trường Mỹ Thuật Huế, đã đem theo các môn sinh của mình để thực hiện công trình lớn lao nầy… Và Mười Lăm Sự Mầu Nhiệm có thể là của điêu khắc gia Bernard Ngọc Huệ và các môn sinh thuộc trường Mỹ Thuật Huế [hết lược dẫn] (v).
Điêu khắc gia Lê Ngọc Huệ, Huy chương Bạc Triển Lãm Quốc Tế Mỹ Thuật 1962 [Nghệ Thuật Việt Nam Hiện Đại, Nguyễn Văn Phương, Nha Mỹ Thuật Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa 1962] (vi)
Qua sự kiện này, Huỳnh Hữu Ủy nhà phê bình Nghệ thuật Tạo hình Việt Nam đã phát biểu : "Tôi lấy làm lạ là một người như Cha Ngô Đình Thục, quen với bầu không khí nghệ thuật cổ điển của Vatican mà lại chấp nhận được những pho tượng trừu tượng biểu hiện ấy của Lê Ngọc Huệ. Âu cũng là một cái may lớn cho chúng ta".
Quần thể tượng Mân Côi trong sân Nhà thờ La Vang
Như đã nói ở trên, quần thể tượng này, được sáng tạo theo sử thi Thiên Chúa giáo với 15 sự mầu nhiệm Mân Côi gồm : (a) 5 sự vui, (b) 5 sự thương, (c) 5 sự mừng. Công trình bắt đầu từ 1961 đến 1963 thì được coi hoàn thành.
Theo Trịnh Cung, điều còn nhớ được, thì nhóm tượng đã được tạo hình và làm khuôn tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Huế, đến giai đoạn 2, quần thể tượng này được đúc bằng chất liệu granito tại sân nhà thờ La Vang, với xi măng trắng trộn đá nhỏ... Các pho tượng được đặt hai bên con đường lát đá từ cổng tam quan đi vào Quảng trường Mân Côi, con đường này dẫn đến một lễ đài rất lớn ngoài trời. Ngôi nhà thờ La Vang bị tàn phá trong những trận giao tranh khốc liệt, nhất là trong giai đoạn Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 và nhóm quần thể tượng này đã không còn nguyên vẹn.
Mãi đến năm 1995, công trường Mân Côi và 15 pho tượng mầu nhiệm mới được phục hồi, và nay cũng đã gần một phần tư thế kỷ, đã lại có thêm rêu phong nhuốm màu thời gian. Đặc tính của những bức tượng này với những hình khối, có đường nét cách tân nhưng rất đẹp, nhìn theo cả không gian ba chiều.
Dưới đây là 12 những bức hình chụp vội dưới trời mưa chỉ với chiếc iPhone 8-plus của chính người viết, có giá trị như những ghi chép. Ba bức hình thiếu, được bổ sung bằng hình từ facebook Phanxi Pang có đánh dấu sao * (asterix).
Rồi ra, mong có dịp trở lại nơi đây, trong những ngày nắng ráo, với đầy đủ ánh sáng và một chiếc máy hình tốt để có thể có những bức ảnh đẹp, chụp lại được các góc cạnh và ánh sáng sắc bén của mỗi pho tượng tương xứng với giá trị nghệ thuật của mỗi tác phẩm điêu khắc này.
Lê Ngọc Huệ, một tài năng lớn
Lê Ngọc Huệ khi từ Paris về Việt Nam 1961, lúc đó ông còn rất trẻ mới 25 tuổi, chỉ hơn học trò của ông, Lê Tài Điển sinh năm 1937 một tuổi ! Ông tốt nghiệp điêu khắc ở Pháp, khi được mời về dạy trường Cao đẳng Mỹ thuật Huế, ông mang theo cả một làn gió mới thổi vào lãnh vực điêu khắc của Việt Nam lúc đó còn non trẻ và cả rất bảo thủ.
Theo Đinh Cường, trong bài viết về Lê Tài Điển đăng trên VOA, và có đăng trong Tuyển tập "Những mảng rời Lê Tài Điển", Nhà xuất bản Biển Khơi ĐKSS, Paris 2012, thì khi có Mai Lan Phương hoạ sĩ tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Trang trí ở Paris về thay hoạ sĩ Tôn Thất Đào, làm giám đốc Cao đẳng Mỹ thuật Huế, "Mai Lan Phương có mời người bạn là Lê Ngọc Huệ, tốt nghiệp điêu khắc Đại học Montpellier về dạy, Lê Tài Điển cũng ra học điêu khắc với Lê Ngọc Huệ, một thầy dạy điêu khắc trẻ, đã đem một luồng khí mới về cho trường, đã đào tạo được những điêu khắc gia tài ba như Mai Chửng, Lê Thành Nhơn…" (iii).
Tên tuổi Giáo sư Bernard Huệ lúc đó đã thu hút được một số sinh viên đang học điêu khắc tại trường Quốc Gia Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định ra Huế học như Mai Chửng, Lê Tài Điển, Trần Văn Danh… Với quần thể tượng 15 Sự Mầu Nhiệm trên Quảng Trường Mân Côi Nhà thờ Đức Mẹ La Vang, qua thử thách của thời gian, đã có được một đánh giá phổ quát : Lê Ngọc Huệ trong lãnh vực điêu khắc là một tài năng lớn với thủ pháp tinh tế, đường nét tinh giản nhưng mạnh mẽ, đầy tính tượng trưng và sáng tạo. Chỉ với khoảng thời gian ngắn chưa đầy 3 năm ở Việt Nam, ông đã để lại một công trình nghệ thuật tôn giáo quan trọng và lớn lao, ghi những dấu ấn sâu đậm trong ngành điêu khắc Việt Nam, tạo được sự kết hợp thăng hoa giữa nghệ thuật và tôn giáo.
Quần thể tượng của Lê Ngọc Huệ và môn sinh cũng đã phải thăng trầm với lịch sử, với vận nước và tồn tại cho đến nay đã hơn nửa thế kỷ nhưng vẫn rất mới, rất cách tân mà vẫn rất gần gũi với quần chúng, với tín đồ chiêm ngắm khi hành hương tới vùng đất Thánh La Vang.
Tác giả gửi bài viết này tới các bạn trẻ trong và ngoài nước có quan tâm tới Lịch sử Mỹ Thuật Việt Nam, như gợi ý cho một nghiên cứu, có thể là đề tài hấp dẫn cho một luận án tiến sĩ vềQuần thể tượng 15 Sự Mầu Nhiệm Mân Côi, một công trình nghệ thuật tạo hình lớn của nhà điêu khắc tài năng Lê Ngọc Huệ, trước khi các dữ kiện bị phủ mờ bởi lớp bụi thời gian và đi dần vào quên lãng.
Nhà thờ Đức Mẹ La Vang,
Hải Lăng, Quảng Trị, 01/2019
Ngô Thế Vinh
Nguồn : VOA, 25/01/2019
Ghi chú của người viết (hình tư liệu có ghi nguồn) :
(1) 15 tượng đài chứ không phải 12
(2) từ 26/10 đến 15/11/1962
(3) Ba Tiểu Vương Cung Thánh Đường khác của Việt Nam là các nhà thờ : Sở Kiện Hà Nam, Phú Nhai Bùi Chu và Đức Bà Sài Gòn
(4) https://vi.wikipedia.org/wiki/Đức_Mẹ_La_Vang
(5) http://en.wikipedia.org/wiki/Ngo_Viet_Thu hoặc http://www.geocities.com/namsonngoviet/NgoVietThu.html
(6) https://vi.wikipedia.org/wiki/Ngô_Viết_Thu
****************
Tham khảo :
(i) Đi tìm bức tượng Mẹ và Con, tác phẩm bị lãng quên của Mai Chửng ờ Hải ngoại. Ngô Thế Vinh, VOA 07/06/2018
(ii) Mùa Hè Đỏ Lửa. Phan Nhật Nam, Nxb Sáng Tạo Sài Gòn 1972. Phan Nhật Nam về La Vang với Ngô Thế Vinh, tư liệu cá nhân 07/1968 - 01/2019
(iii) Nghệ sĩ tạo hình nhiều trải nghiệm. Đinh Cường, Tuyển tập Những mảng rời Lê Tài Điển, Nhà xuất bản Biển Khơi ĐKSS, Paris Normandie 2012
(iv) Mỹ Thuật Việt Nam, Những Vấn đề Xoay quanh. Trụ Cột Hòa bình, Tác phẩm điêu khắc giá trị bị hắt hủi [tr 106-108]. Trịnh Cung, C. Xuất bản 2010
(v) Nhớ nhớ… Quên quên…, Nguyễn An Phong, Kỷ Yếu Lớp Mẹ Vô nhiễm HT (Hoan Thiện 67). Website Cựu Chủng sinh Huế 2010
(vi) Nghệ Thuật Việt Nam Hiện Đại, Nguyễn Văn Phương, Nha Mỹ Thuật Học Vụ Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa 1962
Gửi Nhóm Bạn Cửu Long và 18 triệu Cư dân đồng bằng sông Cửu Long
"Bây giờ chính sách phát triển thủy lợi của Việt Nam phải được chuyển đổi theo sự chuyển hướng của nông nghiệp, không thể theo mục tiêu cũ để tiếp tục tăng sản lượng lúa thông qua thâm canh nông nghiệp mà phải theo mục tiêu cải thiện sinh kế của nông dân thông qua đa dạng hỏa cây trồng và canh tác tổng hợp. Nhưng rất tiếc các nhóm lợi ích vẫn bám mục tiêu đầu tiên đòi hỏi phải xây dựng hệ thống thủy lợi quy mô lớn, xây dựng cống đập ngăn mặn, đào kênh dẫn nước ngọt quí hiếm từ Sông Hậu xa tít để tiếp tục bắt dân trồng lúa, như Dự án sông Cái Lớn – Cái Bé. Nhóm lợi ích luôn có thế lực mạnh, để được duyệt dự án thì họ mới có ăn, mặc kệ dân trồng lúa cứ nghèo".
(Trao đổi cá nhân giữa giáo sư Võ Tòng Xuân và Ngô Thế Vinh, qua một eMail ngày 16/09/2018)
*****************
Đi tìm các giải pháp phi công trình cho đồng bằng sông Cửu Long
Gửi Nhóm Bạn Cửu Long và 18 triệu cư dân đồng bằng sông Cửu Long
Hình trên và dưới : Phối cảnh tổng thể Cống Cái Lớn, Cống Cái Bé, được mệnh danh là Công trình Thế Kỷ
Hệ thống vĩnh cửu cống ngăn mặn sông Cái Lớn - Cái Bé, nếu thực hiện, theo ý kiến của các chuyên gia độc lập thì không những rất tốn kém (hơn 3 ngàn tỉ đồng) và không cần thiết, lại có nhiều rủi ro tiềm ẩn, hủy hoại rộng rãi cả một hệ sinh thái mong manh của đồng bằng sông Cửu Long.
Một dự án từ Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn hoàn toàn đi ngược với tinh thần Nghị Quyết 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu do Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ký ban hành ngày 17/11/2017 trong đó nhấn mạnh nguyên tắc : "thuận thiên, tôn trọng quy luật tự nhiên, tránh can thiệp thô bạo vào thiên nhiên" (1, 2).
Những công trình thất bại ở đồng bằng sông Cửu Long : có bài học nào được rút ra hay ai nhận trách nhiệm ?
Từ hơn hai thập niên, người viết đã không ngừng lên tiếng về mối nguy cơ trên toàn hệ sinh thái lưu vực Sông Mekong do những con đập khổng lồ Vân Nam của Trung Quốc, tới chuỗi 9 con đập thủy điện dòng chính của Lào, rồi tới 2 dự án đập của Cambodia : ngoài những hậu quả rối loạn về dòng chảy, mất nước nơi các hồ chứa và quan trọng nhất là mất nguồn cát nguồn phù sa, dẫn tới một tiến trình đảo ngược khiến một đồng bằng sông Cửu Long đang dần tan rã. Đồng bằng đang tan rã theo các bờ sông và sạt lở dọc theo duyên hải Biển Đông.
Với những mối hỏa từ thượng nguồn, thực tế cho thấy Việt Nam đã không thể làm gì được. Tuy là một quốc gia cuối nguồn, Việt Nam đã không thể ngăn cản được một dự án thủy điện phía thượng nguồn lưu vực Mekong nào cả, đó là chưa kể Việt Nam còn thúc đẩy quá trình ấy thông qua việc xây dựng nhà máy thủy điện ở Lào và Cambodia và gần đây nhất là mua điện từ Lào. Kể từ ngày Ngoại trưởng Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm phạm phải một sai lầm chiến lược khi đặt bút ký Hiệp định Uỷ hội Sông Mekong (Mekong River Commission) năm 1995 từ bỏ quyền phủ quyết (veto) vốn đã có trong Hiệp ước Uỷ Ban Sông Mekong (Mekong River Committee) năm 1957 từ thời Việt Nam Cộng Hoà.
Và mọi người chắc vẫn không quên sự kiện nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã phải kêu gọi Trung Quốc xả nước từ đập thủy điện Cảnh Hồng (Jinhong Dam Vân Nam) để cứu hạn cho đồng bằng sông Cửu Long trong những ngày cuối tháng 03 năm 2016.
Nhưng còn phải kể tới những công trình phát triển tự hủy (self-destructive development) ngay nơi đồng bằng sông Cửu Long trong bốn thập niên qua với những hệ luỵ tích luỹ tác hại nghiêm trọng trên tài nguyên và sự sống còn của cả một vùng Châu thổ cuối nguồn Sông Mekong. Điển hình có thể kể, từ sau 1975 :
- Xây đê đắp đập chắn lũ hệ thống đê bao để mở rộng khu làm lúa ba vụ làm mất 2 túi nước thiên nhiên khu Tứ Giác Long Xuyên và vùng trũng Đồng Tháp Mười.
- Xây hệ thống cống đập chắn mặn phá vỡ nhịp đập thiên nhiên của hệ sinh thái đồng bằng sông Cửu Long điển hình là 2 dự án lớn : Ngọt hỏa Bán Đảo Cà Mau và Công trình Cống đập Ba Lai.
Ngọt hỏa bán đảo Cà Mau : một điển hình hối tiếc
Công trình Quản Lộ - Phụng Hiệp, ngọt hỏa Bán đảo Cà Mau được khởi công từ đầu thập niên 1990 với vốn 1,400 tỉ đồng vay từ Ngân hàng Thế giới (World Bank). Trong suốt giai đoạn 1990 đến năm 2000, hàng trăm cống đập, đê biển, đê sông ngăn mặn, giữ ngọt đã được rộng rãi đầu tư. Theo tính toán – trên lý thuyết của ngành thủy lợi thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, hệ thống đưa nước ngọt từ Sông Hậu về Bán đảo Cà Mau sẽ cung cấp nước tưới, chủ yếu trồng lúa, cho 70,000 ha đất của tỉnh Bạc Liêu, 50,000 ha đất của Cà Mau và 66,000 ha đất của Kiên Giang
Bản đồ hệ thống sông và kênh rạch chằng chịt nơi vùng Châu thổ đồng bằng sông Cửu Long [Nguồn : Amir Hosseinpour (ZEF), trích dẫn bởi Simon, 2014] (6)
Bản đồ Quy hoạch thủy lợi vùng Nam Bán Đảo Cà Mau (6)
Với những hậu quả là :
Về khía cạnh công trình, do các cống ngăn mặn đã gây cản trở giao thông trên sông rạch nên phải làm thêm những công trình khác như âu thuyền Tắc Thủ, được xây từ năm 2001 tại ngã ba sông Ông Đốc - Cái Tàu - sông Trẹm, thuộc hai huyện Thới Bình và U Minh, Cà Mau với kinh phí gần 80 tỉ đồng nữa. Công trình này do Công ty cổ phần Tư vấn xây dựng Thủy lợi II thiết kế và xây dựng. Âu thuyền Tắc Thủ [Hình 4] sau khi hoàn thành năm 2006, đã chứng tỏ không những là vô dụng, mà còn gây thêm cản trở giao thông. Cho đến nay, hầu như không ai chịu trách nhiệm về kế hoạch thất bại và đầu tư lãng phí này (6).
Âu thuyền Tắc Thủ do Công ty cổ phần Tư vấn xây dựng Thủy lợi II thiết kế và xây dựng từ 2001 tại ngã ba sông Ông Đốc - Cái Tàu - sông Trẹm, Cà Mau, với kinh phí gần 80 tỉ đồng nhưng sau khi hoàn thành năm 2006, đã chứng tỏ là vô dụng, mà còn gây thêm cản trở giao thông. [photo by Nguyễn Kiến Quốc] (6)
Về khía cạnh hệ sinh thái, do dòng chảy sông rạch thường xuyên bị chặn lại bởi các cống, nên sự kết nối hữu cơ giữa hệ sinh thái sông-biển với thủy triều từ biển là hoàn toàn bị triệt tiêu trong thời gian cống bị đóng. Và khi mở cống, ô nhiễm tích luỹ lại theo dòng nước lan tỏa hủy diệt sinh cảnh và nguồn thủy sản nơi cửa sông và vùng cận duyên.
Phía trong cống không còn hiện tượng nước lớn, nước ròng mỗi ngày, hoặc nước rong nước kém cho chu kỳ rằm mỗi nửa tháng. Khi chưa có cống đập, thủy triều trong sông rạch vùng Bán đảo Cà Mau tuy không đều nhưng có khi biên độ cao đến gần 2 mét. Do các cống đóng suốt mùa khô, nên khúc sông bên trong trở thành hồ nước tù đọng khiến tình trạng ô nhiễm gia tăng. Rác rưởi từ nguồn phế thải gia cư, cộng thêm với các độc chất phục vụ trồng lúa như thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và phân bón hỏa học tràn xuống tích tụ dày đặc [Hình 5].
Ở những nơi dòng sông không chảy, đồng bằng sông Cửu Long dày đặc ô nhiễm và sinh cảnh thì đang chết dần. [photo by Ngô Thế Vinh 12/2017]
Theo Nhóm Nghiên cứu Mekong từ Đại học Cần Thơ (6), hệ thống các cống chặn mặn làm mất nguồn năng lượng dòng chảy nước ngọt từ phía thượng nguồn (mũi tên màu xanh) và năng lượng thủy triều đem dòng nước mặn từ biển vào (mũi tên màu đỏ) khiến môi trường tự nhiên của đồng bằng sông Cửu Long không còn được tẩy rửa hàng ngày (con nước lớn- con nước ròng), hàng tháng (con nước rong- con nước kém), và hàng năm (mùa nước nổi- mùa nước cạn) như trước kia. Hệ quả là hàm lượng oxy hỏa tan (DO) trong nước rất thấp khiến sông rạch mất cả khả năng tự làm sạch nguồn nước bằng cơ chế oxy hóa. [Hình 6]
Hậu quả ô nhiễm là nước trong các sông rạch đổi sang màu đen, bốc mùi hôi thối do các chất hữu cơ phân hủy ; và nguồn nước trong các vùng thủy lợi không còn sử dụng được cho mục đích ăn uống, kể cả sinh hoạt tắm giặt hàng ngày. Người dân nay phải sống bằng nước ngọt bơm từ những giếng ngầm, nguồn nước ngầm này cũng ngày một hạ thấp và có nơi cư dân đã phải khoan đến độ sâu 80 – 120 mét để tới được nguồn nước ngọt. Nhu cầu khai thác tầng nước ngầm để lấy nước ngọt quá lớn đang làm gia tăng tốc độ sụt lún đất đồng bằng sông Cửu Long nhanh gấp nhiều lần hơn nước biển dâng. (6)
Nhờ năng lượng dòng chảy nước ngọt từ phía thượng nguồn (mũi tên màu xanh) và năng lượng dòng nước mặn từ biển (mũi tên màu đỏ) mà môi trường tự nhiên của đồng bằng sông Cửu Long được tẩy rửa hàng ngày (con nước lớn-ròng), hàng tháng (con nước rong-kém), và hàng năm (mùa nước nổi-cạn). Nguồn nước này cũng giúp cho nước chảy được trong các kênh rạch vì địa hình đồng bằng sông Cửu Long quá bằng phẳng. (6) Những cống đập ngăn mặn của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đang "khai tử"dòng chảy và nhịp đập /Mekong Delta Pulse của hệ sinh thái đồng bằng sông Cửu Long.
Về khía cạnh tài nguyên, nguồn thủy sản cũng là nguồn chất đạm/ protein quan trọng trong mỗi bữa ăn với tô cá chén cơm của cư dân đồng bằng sông Cửu Long bị sút giảm nghiêm trọng : các loài cá trắng của nước chảy có nguy cơ bị tiêu diệt do dòng sông bị chặn bởi các cống đập, chỉ còn lại các loài cá đen nước tù của ao hồnhư cá lóc, cá trê, cá rô phi... Đây là hậu quả tất yếu khi mà hệ sinh thái sông ngòi (riverine environment) đã bị chuyển sang hệ sinh thái ao hồ (lacustrine environment) (Nguyễn Hữu Thiện, 2018).
Do môi trường nước cực kỳ ô nhiễm, lại thêm, lục bình phát triển tràn lan phủ kín cả mặt thoáng sông rạch khiến ghe tàu đi lại rất khó khăn nên nhiều nơi người dân đã phải phun thuốc diệt cỏ trên lớp lục bình nhằm khai quang thủy lộ khiến nước sông càng ô nhiễm thêm nữa ; [Hình 7] và do thiếu nguồn chất đạm từ tôm cá và các loài thủy sản khác đã ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng, trẻ em có nguy cơ bị suy dinh dưỡng.
Những giề lục bình phủ kín sông rạch do nước tù đọng phía trong các cống chắn khiến ghe tàu đi lại khó khăn, nhiều nơi người dân đã phải dùng thuốc diệt cỏ để khai quang lục bình nhằm tạo lối đi khiến nước sông lại càng thêm ô nhiễm. Lục bình còn ngăn cản ánh sáng và không khí rất cần thiết cho sự sống còn của các loài thủy sinh. [photo by Ngô Thế Vinh 12/2017]
Các loại cây quen sống ở vùng nước lợ, điển hình như cây dừa nước, hư hại và chết do vùng nước lợ bị ngọt hoá. Nói chung, toàn thể tính đa dạng của hệ sinh thái khu vực quy hoạch bị xuống cấp và bị hủy hoại nghiêm trọng.
Về phương diện xã hội,ở những nơi có cống đập chặn dòng, do việc canh tác trở nên khó khăn, chi phí cao mà lợi nhuận sút giảm, cộng thêm môi trường nước bị ô nhiễm, là một trong những lý do khiến tình trạng di dân ngày càng phổ biến và nhiều người đã bỏ đồng ruộng đi tìm kế mưu sinh ở các khu công nghiệp bên ngoài đồng bằng sông Cửu Long hoặc trên thành phố (6). Trong hai thập niên qua đã có ngót 2 triệu cư dân đồng bằng sông Cửu Long phải rời bỏ quê hương vốn được coi là "vùng mật ngọt" với gạo trắng nước trong tôm cá đầy đồng thìnay phải ra đi tìm kế sinh nhai. Trong nghịch cảnh đó thì phụ nữ và trẻ em là bị nhiều tổn thương nhất.
Cuối cùng, sau năm 2000 Chính quyền phải nhượng bộ để cho các tỉnh trong vùng dự án chuyển đổi 450.000 ha đất trồng lúa sang vùng nuôi tôm, cũng có nghĩa là bước sửa sai để đưa vùng đất này trở về điểm xuất phát, trả lại hệ sinh thái tự nhiên của hai mùa mặn ngọt.
Không chỉ có vậy, ngoài sự lãng phí 1.400 tỉ đồng, Dự án Ngọt hỏa Bán đảo Cà Mau, cho dù có sửa sai nhưng vẫn còn để lại những tổn thất về môi trường tự nhiên và nguồn tài nguyên và càng làm cho đất nước càng nghèo thêm. Các mục tiêu chính của dự án Ngọt hỏa Bán đảo Cà Mau gần như hoàn toàn thất bại.
Cống đập Ba Lai : thêm một hối tiếc nữa
Sau thất bại của công trình Ngọt Hỏa Bán đảo Cà Mau, tưởng như đã là một bài học, nhưng vẫn tiếp theo dự án Cống đập Ba Lai, thêm một bài học không học (unlearned lesson) vẫn phát xuất từ Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Được khởi công tháng 02/2000, công trình chắn ngang cửa sông Ba Lai từ xã Thạnh Trị kéo sang xã Tân Xuân. Kinh phí ban đầu lên tới hơn 66 tỷ VND. Trên lý thuyết – như từ bao giờ vẫn trên lý thuyết, cống đập Ba Lai có chức năng : ngăn mặn, giữ ngọt cho 115.000 hecta đất, cấp nước ngọt sinh hoạt cho hơn 600.000 dân cư Thành phố Bến Tre và các huyện Ba Tri, Giồng Trôm, Bình Đại, Châu Thành ; cùng kết hợp với phát triển giao thông thủy bộ và cải tạo môi trường sinh thái vùng dự án [sic].
Hai năm sau, từ tháng 04/2002 cống đập Ba Lai bắt đầu được đưa vào hoạt động, được vinh danh lúc đó là công trình thủy lợi lớn nhất đồng bằng sông Cửu Long. Và từ đây, cửa sông Ba Lai, một trong 8 cửa của Cửu Long chính thức bị ngăn lại [Hình 9].
Cho tới nay, cống đập Ba Lai đã vận hành được hơn 16 năm [2002-2018], hiệu quả công trình cống đập Ba Lai ấy ra sao ? Những cống ngăn mặn Ba Lai đã không đạt mục đích vì còn chằng chịt những cửa sông kinh rạch khác không có cống ngăn đã tập hậu chuyển nước mặn vào bên trong hệ thống cống đập đã xây. Và để chỉ còn nghe những lời ta than của cư dân địa phương, bởi thế dân gian tỉnh Bến Tre mới có câu :
Ba Lai là cái cửa mình
Trung ương đem lấp dân tình ngẩn ngơ
Từ ngày có cống đập Ba Lai, cửa sông Ba Lai nhánh thứ 8 bị Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đóng lại. Cửa Ba Thắc đã bị bồi lấp từ cả trăm năm nay, và hiện giờ Cửu Long Giang nay chỉ còn 7 nhánh : Thất Long. [photo by Lê Quỳnh, báo Người Đô Thị]
Sông Ba Lai ngừng chảy. Thay vì biến sông Ba Lai thành hồ nước ngọt thì cư dân Bến Tre phải sống với nước sông Ba Lai mặn hơn trước kia nhất là vào mùa khô. Hậu quả là tỉnh Bến Tre thiếu nước ngọt, người dân sống trong tình trạng thiếu nước ngọt kinh niên, phải mua nước ngọt cho nhu cầu gia dụng có khi phải trả tới 100.000 đồng/mét khối [Tuổi Trẻ online 22/02/2016].
Giải thích của Chính quyền về "hiệu quả ngược" của công trình cống đập Ba Lai như hiện nay là đổ lỗi do thiếu vốn để làm nhiều công trình khác tiếp theo, đó là phải xây thêm cống đập và cả âu thuyền trên hai con sông Giao Hỏa và Chẹt Sậy nơi vẫn tiếp tục đem nước mặn từ sông Cửa Đại đổ vào "hồ nước ngọt Ba Lai".
Qua kinh nghiệm 16 năm vận hành của hệ thống cống đập Ba Lai, để thấy rằng dù tốn hàng bao nhiêu tỷ đồng, cứ với quyết tâm mù quáng can thiệp thô bạo khập khiễng vào thiên nhiên,làm cống ngăn mặn nhưng nước sông rạch bên trong vẫn không thể dùng được cho sinh hoạt, những công trình như thế còn khiến nước bên trong bị ô nhiễm nghiêm trọng hơn vì tù đọng do dòng sông không chảy.
Xây dựng cống đập Ba Lai không những đã rất tốn kém, nhưng khi phát hiện sai lầm thì việc phá bỏ, làm sạch môi trường và chuyển đổi sinh hoạt của cư dân cũng không thể mau chóng và không phải là dễ dàng.
Địa bàn môi trường không phải như một bàn cờ để dễ dàng xỏa đi bày lại. Một câu hỏi được đặt ra : với những tác hại do cống đập Ba Lai gây ra, ai - Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, hay Bộ Tài nguyên và môi trường, hay chính phủ trung ương sẽ nhận trách nhiệm với phong cách "đem con bỏ chợ" như hiện nay ?
Hai bài học đắt giá. Từ bài học thất bại của Công trình Ngọt hỏa Bán đảo Cà Mau tiếp theo thất bại khác của công trình Cống đập Chắn mặn Ba Lai, nhiều nhà khỏa học và giới hoạt động môi trường như một "think tank" đã không ngừng lên tiếng cảnh báo rằng : nếu không có một đánh giá môi trường chiến lược cho toàn đồng bằng sông Cửu Long mà chỉ đơn giản nhắm giải quyết tình hình mặn ngọt cho từng vùng, rồi lập ngay quy hoạch xây dựng xây một loạt hệ thống cống đập chỉ để ngăn mặn nơi các cửa sông lớn là phá vỡ cả một hệ sinh thái mong manh đã có đó từ ngàn năm và hậu quả sẽ khôn lường.Phát triển với những bước không bền vững (unsustainable development) như trên đã và đang làm thay đổi diện mạo, gây tổn thương trên toàn hệ sinh thái đồng bằng sông Cửu Long và khiến các nguồn tài nguyên thiên nhiên cứ nghèo dần đi.
Thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé : thêm một "công trình thế kỷ" đầy hoài nghi
Dự án Thủy lợi Cái Lớn-Cái Bé (sông Cái Lớn - Cái Bé) được đề xuất từ năm 2011 với chủ trương trên lý thuyết như một công trình nhằm ứng phó với nước biển dâng và biến đổi khí hậu và cũng để duy trì đất trồng lúa bảo đảm an ninh lương thực và xuất khẩu, theo quy hoạch thủy lợi tổng thể cho đồng bằng sông Cửu Long đã được nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phê duyệt ngày 19/04/2016.
Bản báo cáo Đánh giá Tác động môi trường (Tác động môi trường), Dự án Hệ thống thủy lợi Sông Cái Lớn – Cái Bé [nguồn : Tác động môi trường tr. 83].
Vùng dự án sông Cái Lớn - Cái Bé (vùng màu hồng) trong lưu vực đồng bằng sông Cửu Long (1) [nguồn : Tác động môi trường tr. 83].
Dự án Thủy lợi sông Cái Lớn - Cái Bé Giai đoạn 1 được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phê duyệt ngày 17/04/2017 dựa theo tờ trình của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Toàn bộ công việc soạn thảo dự án, nghiên cứu khả thi cho đến lập báo cáo Tác động môi trường đều nằm trong một "chu trình khép kín" / behind close door thuộc quyền kiểm soát của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn mà không cho thấy có một tổ chức, cá nhân độc lập nào tham gia. Chủ đầu tư dự án là Ban Quản lý đầu tư và Xây dựng Thủy lợi 10 thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Từ đơn vị tư vấn lập báo cáo dự án là Liên danh Viện Khỏa học Thủy lợi Việt Nam – Viện Quy hoạch Thủy lợi Miền Nam – Công ty cổ phần Tư vấn Xây dựng Thủy lợi 2 rồi đến cơ quan lập báo cáo Tác động môi trường là Viện Kỹ thuật Biển thuộc Quy hoạch Thủy lợi Việt Nam, tất cả đề là những đơn vị trực thuộc quản ý hành chính của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn hoặc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn có quyền ra chỉ đạo trực tiếp. Điều này có nghĩa các chuyên gia độc lập, tổ chức xã hội dân sự và cư dân không được tham vấn và có tiếng nói nào vào quyết định của dự án.
Dự án hệ thống thủy lợi sông Cái Lớn - Cái Bé với địa bàn chủ yếu ở vùng Bán đảo Cà Mau, được giới hạn bởi : phía bắc là kênh Cái Sắn ; phía nam và đông nam là kênh Quản Lộ - Phụng Hiệp ; phía đông bắc là sông Hậu và phía tây là Vịnh Thái Lan. Tổng diện tích vùng dự án là : 909,248 ha,trên địa bàn của 6 tỉnh/thành phố : Hậu Giang, Kiên Giang, Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Thành phố Cần Thơ.
Theo báo cáo Tác động môi trường (dày 487 trang) thì mục tiêu (trên lý thuyết) của dự án Hệ Thống Thủy Lợi sông Cái Lớn - Cái Bé giai đoạn 1 là :
- Kiểm soát mặn, giải quyết mâu thuẫn giữa vùng nuôi trồng thủy sản ven biển và vùng sản xuất nông nghiệp của các tỉnh : Kiên Giang, Hậu Giang và tỉnh Bạc Liêu thuộc lưu vực sông Cái Lớn - Cái Bé. Đồng thời, góp phần phát triển thủy sản ổn định ở vùng ven biển của tỉnh Kiên Giang ;
- Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, tạo nguồn nước ngọt cho vùng ven biển để giải quyết tình trạng thiếu nước ngọt vào mùa khô, phòng chống cháy rừng, đặc biệt trong những năm hạn hán, góp phần phát triển kinh tế xã hội ổn định ;
- Tăng cường khả năng thoát lũ, tiêu úng, tiêu chua cải tạo đất phèn ;
- Kết hợp phát triển giao thông thủy, bộ trong vùng dự án.
Quy mô dự án hệ thống thủy lợi sông Cái Lớn - Cái Bé (giai đoạn 1) gồm các hạng mục công trình :
- Cụm công trình cống Cái Lớn - Cái Bé, tuyến đê nối 2 cống và nối với quốc lộ 63 và các cống dưới tuyến đê. tuyến kênh nối 2 sông Cái Lớn và sông Cái Bé.
- Nạo vét kênh Thốt Nốt và kênh KH6, sửa chữa cống, âu Tắc Thủ ; cụm công trình bờ đông kênh Chắc Băng và sông Trẹm ; cống Lương Thế Trân ; cống Ông Đốc ; Cống Xẻo Rô ; cống Ngọn Tắc Thủ và trạm bơm Tắc Thủ.
Dự kiến tổng vốn đầu tư cho dự án (Giai đoạn 1) là 3.309,5 tỷ đồng (tương đươngkhoảng 150 triệu Mỹ kim).
Tác động môi trường sông Cái Lớn - Cái Bé : "Đề nghị chủ dự án thực hiện nghiêm túc biện phsap gây ô nhiễm ?
- Báo cáo Tác động môi trường Hệ thống thủy lợi sông Cái Lớn - Cái Bé giai đoạn 1, do Viện Kỹ thuật biển trực thộc Viện Khỏa học Thủy lợi Việt Nam (2018), một cơ quan trực thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, được ghi là một Báo cáo chưa được thẩm định, phê duyệt.
Với một bản báo cáo Tác động môi trường được ghi là chưa được thẩm định, phê duyệt thì đã có ngay một số nhận định khái quát từ giới chuyên gia trong nước cũng như hải ngoại cho rằng :
- Tác động môi trường dù với bề dày ngót 500 trang nhưng rất lan man nhiều sự kiện còn thiếu sót và không minh bạch do bị chi phối bởi quan điểm của chủ đầu tư/nhóm lợi ích, và chỉ để nhằm biện minh cho sự cấp thiết của dự án, nên lộ rõ nhược điểm là thiếu tính khỏa học khách quan, thiếu tính thuyết phục và chưa thực tế.
- Mục 01.1.2. Sự cần thiết phải đầu tư dự án chỉ nói chung chung mà thiếu dẫn chứng thực tế hiện trạng mặn-ngọt hiện nay trong vùng dự án đã gây tổn thất kinh tế xã hội cụ thể ra sao mà nay phải đối phó và thiếu một tầm nhìn chiến lược nhất là trong bối cảnh những "công trình thế kỷ" trước đó đã thật sự thất bại như đã dẫn chứng trong phần đầu của bài viết này. Cách viết báo cáo như vậy là nhằm để dễ dàng thông qua cho chủ đầu tư chứ không phải mang tính dự báo, cảnh báo để đưa ra giải pháp giảm thiểu hoặc thay thế từ một con toán so sánh được mất có sức thuyết phục.
- Tác động môi trường, ngoài tính toán rất sơ lược chi phí cho công trình, nhưng không thấy có đề cập chi phí hoạt động và bảo quản, không có ngân quỹ dự trù phòng thiệt hại rủi ro.
- Tác động môi trường không có thẩm định lợi hại tăng hay giảm cho dân bao nhiêu, cho chính quyền bao nhiêu so với hiện trạng, và cũng không rà xét các phương án nào khác để biết đây có là lộ trình tối ưu thật không ?
- Phần quan trọng nhất của Tác động môi trường là các biện pháp phòng ngừa, giảm thiểu ô nhiễm thì viết rất chung chung chưa đến 3 trang trong các mục 4.1.3.2. Với những giải pháp chung chung như thế, việc áp dụng thực hiện trong thực tế có ai đảm bảo hiệu quả.
- Với một dự án thủy lợi có thời gian vận hành tối thiểu 50 năm, có khi đến cả trăm năm nhưng Tác động môi trường lại tập trung chủ yếu vào phân tích tác động của giai đoạn chuẩn bị và xây dựng dự án mà lại viết sơ sài tác độngcủa việc vận hành hệ thống thủy lợi sông Cái Lớn - Cái Bé sau khi xây dựng xong. Quan trọng nhất Tác động môi trường này lại viết rất sơ sài những phần nội dung rất cơ bản và quan trọng như đánh giá tác động môi trường nước khi vận hành cống trong các mục 4.1.3.3.4, phần giảm thiểu tác động trên môi trường nước, giảm thiểu tới tài nguyên sinh thái… Với sự sơ sài chung chung như vậy thì không biết sẽ triển khai thực hiện thế nào trong thực tế.
Một điều đáng lưu ý là tử trang 451 tới trang 456, báo cáo Tác động môi trường liên tục lặp đi lặp lại một ý quan trọng, được cho là ý kiến của 8 trên trên tổng số 39 UBND xã trong phần tham vấn cộng đồng : "đề nghị Chủ dự án thực hiện nghiêm túc biện pháp gây ô nhiễm" [sic]. Báo cáo Tác động môi trường không đưa ra các văn bản gốc trích dẫn ý kiến chung này, nhưng có thể hiểu ý kiến "đề nghị Chủ dự án thực hiện nghiêm túc biện pháp gây ô nhiễm" theo hai hướng :
- Đơn vị tư vấn lập Tác động môi trường không phân biệt được "biện pháp gây ô nhiễm" và "biện pháp kiểm soát ô nhiễm" là hai khái niệm hoàn toàn đối nghịch nhau. Đây là những khái niệm sơ đẳng nhất của những học sinh khi học về khỏa học môi trường, lẽ nào những đơn vị tư vấn hàng đầu trực thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn với một đội ngũ hùng hậu gồm cả những vị phó giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ, kỹ sư, cử nhân lại không phân biệt được hai khái niệm sơ đẳng ấy để đưa vảo báo cáo ? Không phải không phân biệt được mà là cực kỳ cẩu thả khi viết và đọc báo cáo đến độ vô tri.
- Đơn vị tư vấn lập Tác động môi trường cố tình "nhét chữ vào miệng" các UBND xã để họ đưa ra ý kiến "đề nghị Chủ dự án thực hiện nghiêm túc biện pháp gây ô nhiễm" và kết quả là có 8 xã trên 39 xã được tham vấn đồng ý với tư vấn, kết quả là nguyên văn được ghi vào giấy trắng mực đen Tác động môi trường, nếu đúng như vậy thì đây là một sự thiếu trung thực, lập lờ mà xã hội không thể nào chấp nhận được. Không những không trung thực mà là vô trách nhiệm một cách thô bạo.
Dù với lý do nào, trong một bản báo cáo Tác động môi trường với "đề nghị Chủ dự án thực hiện nghiêm túc biện pháp gây ô nhiễm"vẫn có đó khiến người ta không khỏi nghi ngờ về hậu ý của những người lập báo cáo, của chủ đầu tư và cả những người phê duyệt đầu tư dự án ấy. Nhìn chung, mục tham vấn cộng đồng viết rất sơ sài nhưng lại để lộ sai sót nghiêm trọng và gần như vô nghĩa thay vì tìm kiếm ý kiến phản biện đa chiều của cộng đồng cư dân vùng dự án ngõ hầu làm do dự án tốt hơn lên.
Theo ý kiến các chuyên gia thì : "Tất cả những kịch bản dự báo trong chương 3 của báo cáo Tác động môi trường hoàn toàn mang tính lý thuyết, không viện dẫn bất kỳ một công trình điển hình thành công nào tại Việt Nam và thế giới. Nghiên cứu báo cáo Tác động môi trường cho thấy rằng nhóm tư vấn đã bỏ qua những bài học nhãn tiền về sự thất bại đầy hối tiếc và không thể đảo ngược về mặt tự nhiên của những công trình thủy lợi trước như dự án Ngọt hỏa Bán đảo Cà Mau và Công trình Cống đập Ba Lai đã được đề cập ở trên. Do vậy, có thể kết luận rằng những đánh giá của báo cáo Tác động môi trường đưa ra không có biện pháp ngừa tránh vết xe đưa đồng bằng thêm trầm mình vào ô nhiễm, không đủ cơ sở khỏa học và không thể tin cậy.
Với một báo cáo Tác động môi trường còn nhiều thiếu sót như thế thì không thể quyết định gì cả để khởi công một "Công trình Thế kỷ" có khả năng hủy hoại cả một hệ sinh thái mong manh không chỉ của bán đảo Cà Mau và trên toàn hệ sinh thái của đồng bằng sông Cửu Long, ảnh hưởng trực tiếp trên đời sống sản xuất sinh kế của hàng triệu cư dân trong vùng quy hoạch, trong khi còn bao nhiêu vấn đề kỹ thuật chưa có giải pháp rốt ráo.
Một hệ sinh thái khi đã bị hủy hoại thì rất khó sửa chữa và không thể đảo ngược.
Sơ đồ dự án hệ thống cống đập chắn mặn trên Sông Cái Lớn- Sông Cái Bé, sẽ tác động trên 1/4 diện tích toàn đồng bằng sông Cửu Long và ảnh hưởng tới đời sống hàng triệu cư dân trong vùng. [nguồn : Ánh Sáng và Cuộc Sống]
Những chuyên gia độc lập nói gì về sông Cái Lớn - Cái Bé ?
Để có một cái nhìn thực tế nhất về dự án sông Cái Lớn - Cái Bé, tác giả bài viết này tìm đến những chuyên gia nông học, môi trường học, sinh thái học của đồng bằng sông Cửu Long. Họ là những chuyên gia không những được ghi nhận trong nước mà còn trên bình diện quốc tế vì những đóng góp cho khỏa học và cuộc sống. Quan trọng hơn hết, đa số họ là những cư dân sinh ra và lớn lên từ đồng bằng sông Cửu Long, cuộc sống của họ gắn liền với vùng đất này khiến họ am hiểu đồng bằng sông Cửu Long như đường chỉ tay của chính họ.
Ý kiến giáo sư Võ Tòng Xuân :
Phát biểu của giáo sư Võ Tòng Xuân ngày 16/09/2018 qua một email trao đổi cá nhân
Ngô Thế Vinh viết : Tôi và nhóm Bạn Cửu Long bên này đang rất quan tâm tới Dự án Cái Lớn Cái Bé mà tôi nhớ là trước đây, theo giáo sư Võ Tòng Xuân và các nhà nghiên cứu độc lập, thì những dự án chặn mặn sẽ phá vỡ đi dòng chảy tự nhiên vốn có, gây ra nhiều hệ lụy khôn lường, nhất là về môi trường... Trong tình thân, đề nghị Anh Xuân đưa ra một nhận định có tính cập nhật (Up to Date) và chi tiết hơn (more specific) về dự án Cái Lớn Cái Bé để tôi có thể quote một tiếng nói có uy tín và rất có trọng lượng trong một bài đang viết, trong khi mà các nhóm lợi ích đang khuynh loát tiếng nói của những nhà khỏa học chân chính...
Giáo sư Võ Tòng Xuân trả lời : Tôi biết anh rất tâm tư mỗi khi nói đến đồng bằng sông Cửu Long. Qua 40 năm tôi mới đạt thêm một thắng lợi về mặt Khỏa học và Kiến tạo xã hội bằng một xoay chuyển chính sách nhà nước, nhưng phải nói ngay rằng, đây mới chỉ là bước đầu được Thủ Tướng chấp thuận đưa vào nghị quyết, nhưng phải cần một thời gian nữa mới có thay đổi thật sự, các Bộ, Ban, Ngành mới chấp hành chủ trương. Cho nên tôi xin trình bày với anh một cách tóm tắt như thế này :
Từ khi Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhất trí với đề nghị mà tôi đã từng nêu 28 năm nay sau khi Việt Nam trở lại vị trí nhóm 3 quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, Nghị Quyết 120 NQ-CP của Chính phủ đã được ban hành vào tháng 11/2017. Đây là một nghị quyết lịch sử của nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long, vì nó gỡ trói người nông dân thoát khỏi vòng kim cô phải sản xuất lúa muôn đời để cho cán bộ nhà nước hoàn thành chỉ tiêu pháp lệnh về sản lượng lúa, mặc kệ nông dân phải chịu giá rẻ bèo của sản phẩm thặng dư quá lớn này. Bây giờ chính sách phát triển thủy lợi của Việt Nam phải được chuyển đổi theo sự chuyển hướng của nông nghiệp, không thể theo mục tiêu cũ để tiếp tục tăng sản lượng lúa thông qua thâm canh nông nghiệp mà phải theo mục tiêu cải thiện sinh kế của nông dân thông qua đa dạng hỏa cây trồng và canh tác tổng hợp.
Nhưng rất tiếc các nhóm lợi ích vẫn bám mục tiêu đầu tiên đòi hỏi phải xây dựng hệ thống thủy lợi quy mô lớn, xây dựng cống đập ngăn mặn, đào kênh dẫn nước ngọt quí hiếm từ sông Hậu xa tít để tiếp tục bắt dân trồng lúa, như Dự án sông Cái Lớn – Cái Bé (sông Cái Lớn - Cái Bé). Nhóm lợi ích luôn có thế lực mạnh, để được duyệt dự án thì họ mới có ăn, mặc kệ dân trồng lúa cứ nghèo.
Các nhà khỏa học chân chính đã đưa ý kiến đề nghị dừng dự án sông Cái Lớn - Cái Bé, với những lập luận bác bỏ các lý do cần phải thực hiện dự án. Nhưng lý do quan trọng mà các nhà phản biện nói rất ít là dưới ánh sáng của NQ120 của Chánh phủ, lương thực không còn là mục tiêu chính mà nhà nước đã bắt buộc mọi người thực hiện bằng mọi giá bất kể tổn phí. Thời thế bây giờ không như trước nữa. Chúng ta dư thừa quá nhiều lúa gạo. Với kỹ thuật lúa gạo của chúng ta ngày nay, chỉ trong vòng 3 tháng là chúng ta có gặt vụ lúa mới. Tại sao những người trong nhóm lợi ích chỉ nghĩ là phải ngăn mặn để có thể tiếp tục trồng lúa mà không thấy những người chuyên trồng lúa cả 40 năm nay vẫn khổ vì lợi tức từ lúa quá thấp ? Nhóm lợi tức này muốn những người trồng lúa của nước ta chịu nghèo khổ vĩnh viễn hay sao ?
Những người chỉ chủ trương trồng lúa-lúa-lúa quả là những người không biết cách làm ăn gì khác ngoài cây lúa. Họ càng chủ trương chỉ trồng lương thực càng bộc lộ sự yếu kém trình độ học thức của họ. Hãy tưởng tượng nếu Malaixia hoặc Singapo chỉ chủ trương sản xuất lương thực thì chắc họ không đứng hàng đầu quốc gia giàu có nhất ASEAN. Hoặc xa xa bên kia trời tây, nếu Thụy Sĩ cũng chủ trương tự túc lương thực thì chắc họ không bao giờ đứng đầu bảng các quốc gia giàu có của Châu Âu.
Mặt khác, các chuyên gia thủy lợi nước ta dư sức biến những cơ sở vật chất thủy lợi hiện có của vùng ngập sâu của đồng bằng sông Cửu Long cho cây trồng phi lúa, đặc biệt là nuôi trồng thủy sản nước lợ ở ven biển vùng. Quí vị không nên chạy theo đuôi các nhà quản lý chỉ biết có cây lúa, mà nên giúp dân có điều kiện sản xuất cây trồng khác, hoặc vật nuôi có giá trị cao, để họ sớm làm giàu. Vấn đề kế tiếp là gắn kết với các doanh nghiệp tài giỏi, có đầu ra ổn định để tiêu thụ sản phẩm của nông dân.
[Hết trích dẫn trao đổi cá nhân giữa giáo sư Võ Tòng Xuân và Ngô Thế Vinh, qua một eMail 16/09/2018]
Tưởng cũng cần nên nói thêm : Giáo sư Võ Tòng Xuân được biết đến như một nhà nông học suốt một đời lăn lộn với cây lúa nơi đồng bằng sông Cửu Long từ trước 1975 cho tới nay, ông được các nhà nông học Tây phương gọi tên là Dr. Rice (tiến sĩ Lúa gạo), do công lao hướng dẫn nông dân Miền Tây phát triển đại trà cây lúa Thần Nông HYV (High Yield Variety) trên khắp đồng bằng sông Cửu Long, đưa Việt Nam lên hàng thứ hai xuất cảng gạo [chỉ sau Thái Lan] đi khắp thế giới. Nhưng cũng chính ông, từ 28 năm nay đã rất can đảm và thức thời yêu cầu chuyển đổi canh tác, gỡ trói người nông dân thoát khỏi vòng kim cô phải sản xuất lúa muôn đời với giá rẻ bèo do thặng dư quá lớn này. Ông là một trong những tiếng nói uy tín và rất có trọng lượng cho sự ra đời của Nghị Quyết 120 NQ-CP của Chính phủ đã được ban hành vào tháng 11/2017.
Ý kiến giáo sư Nguyễn Ngọc Trân :
Là một thành viên lâu năm Hội đồng Chính sách Khỏa học và Công nghệ quốc gia qua nhiều nhiệm kỳ chính phủ, ông là người Miền Tây được sinh ra trên một cù lao nằm giữa sông Tiền huyện Chợ Mới tỉnh An Giang, ông có những công trình nghiên cứu về sông Mekong và đồng bằng sông Cửu Long qua những "Điều tra Cơ bản Tổng hợp vùng đồng bằng sông Cửu Long".
Đối với với công trình sông Cái Lớn - Cái Bé, giáo sư Nguyễn Ngọc Trân nêu câu hỏi :
"Chúng ta đã triển khai dự án ngọt hỏa bán đảo Cà Mau, dự án cống đập Ba Lai Bến Tre đến nay tại sao không thành công ? Trước khi triển khai các dự án mới phải trả lời câu hỏi vì sao các dự án cũ không thành công". Nhưng vẫn không có câu trả lời từ Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Giáo sư Nguyễn Ngọc Trân nhận định : "thiếu nước ngọt chỉ là hiện tượng, phải tìm nguyên nhân đúng thì mới có giải pháp đúng".
"Chúng ta đang sống trên một vùng mà hệ sinh thái rất đa dạng nhưng chúng ta đang đơn giản nó. Từ rất nhiều sản vật tự nhiên chúng ta gom lại chỉ còn cây lúa và con tôm. Ta đang nghèo hỏa môi trường và hệ sinh thái của chúng ta. Dựa trên tinh thần Nghị quyết 120, tôi cho rằng cần cân nhắc thật kỹ, khách quan và khỏa học. Nên có hội thảo về biện pháp phi công trình trước khi đưa ra quyết định cho một giải pháp công trình".
Nội dung của báo cáo chủ yếu là đánh giá tác động lên môi trường của việc chuẩn bị và triển khai thực hiện dự án. Còn những chương khác hầu hết là từ "cắt và dán" (copy & paste) từ các báo cáo Nghiên cứu khả thi.
Trong khi đó, chúng tôi chờ đợi báo cáo đánh giá tác động lên môi trường nếu dự án hoàn thành và đi vào vận hành. Bởi có như vậy việc thẩm định dự án (báo cáo Nghiên cứu khả thi) mới mang đầy đủ ý nghĩa trước khi dự án được phê duyệt để thực hiện.
Vẫn theo quan điểm của giáo sư Nguyễn Ngọc Trân :
"Không nên đắp đập để ngăn mặn, lợ. Cần có nhìn nhận đúng đắn để tránh những quan niệm sai lầm về tác động của biến đổi khí hậu, dẫn đến việc định hướng các biện pháp ứng phó không phù hợp và không hiệu quả. Cụ thể, ở đây là dự án về thủy lợi trên sông Cái Lớn và Cái Bé rất dễ gây ô nhiễm môi trường cho cả vùng đồng bằng sông Cửu Long do không có sự trao đổi dòng chảy với bên ngoài. Các tỉnh vùng ven biển cũng nên xem nước mặn, lợ là một dạng nguồn tài nguyên lợi thế và không nên đắp đập để ngăn lại" (3).
Ý kiến tiến sĩ Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu, Đại học Cần Thơ :
"Đáng tiếc thay, hàng chục năm gần đây, với tư duy đẩy mạnh sản xuất lương thực, chủ yếu là lúa, không coi nước mặn cũng là tài nguyên nên đã hình thành nhiều dự án "nghịch thiên" như "đắp đập chặn dòng", "ngăn mặn giữ ngọt". Hàng ngàn tỉ đồng đổ ra để làm các công trình bê tông như cống, đập, kè cọc nhằm chặn dòng sông ngay trước cửa biển… Các dòng sông bị đóng kín sau mùa mưa để giữ lại nước ngọt khiến thủy triều từ biển không vào nội đồng được : nhiều mảng cây rừng ven biển bị suy kiệt mà chết dần, sạt lở ven biển gia tăng. Còn phía trong đồng thì dòng sông biến thành các hồ chứa, nước bị cầm tù khiến nhanh chóng bị ô nhiễm, hôi thối. Lục bình và nhiều loại tảo lục phát triển, ghe tàu đi lại rất khó khăn, chậm chạp và tốn kém. Nhiều nơi nông dân buộc phải dùng thuốc độc hỏa học để tiêu diệt lục bình khiến ô nhiễm sông rạch thêm trầm trọng…
Nhiều bài học thực tế cho thấy, từ ngàn đời nay, thiên nhiên đã vốn tạo cho sông nước, đất đai, cây trồng, con người những mối ràng buộc hài hỏa và quan hệ có tính hữu cơ. Việc đưa công trình làm đảo lộn quy luật của tạo hỏa có thể tạo ra một số lợi nhuận nào đó, mang tính ngắn hạn nhưng về dài hạn, cái hại về môi trường, sinh thái, xã hội ngày càng lớn và dần dần vượt cao hơn cái lợi, khi đó kinh tế nông nghiệp cũng dần dần xuống dốc"… (4).
Ý kiến tiến sĩ Dương Văn Ni, người có hơn 30 năm kinh nghiệm giảng dạy Khỏa Môi trường và Tài nguyên Thiên nhiên ĐH Cần Thơ :
Phát biểu tại hội nghị về dự án Thủy lợi sông Cái Lớn - Cái Bé giai đoạn 1 tổ chức Kiên Giang ngày 07/09/2018, tiến sĩ Dương Văn Ni cho rằng đối với vùng Bán đảo Cà Mau, hai sản phẩm chủ lực của vùng là lúa và tôm, nhưng đây lại là hai đối tượng mâu thuẫn với nhau về nguồn nước. "Con tôm cần độ mặn trên 4 phần ngàn, còn cây lúa dưới 4 phần ngàn. Nước thải ruộng tôm làm chết lúa và nước thải ruộng lúa có nhiều thuốc sâu cũng làm chết con tôm", ông dẫn chứng.
Theo tiến sĩ Dương Văn Ni, vào năm 1990, ông mang một bộ giống lúa cao sản của Viện nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI) trình diễn tại huyện Đầm Dơi (Cà Mau). Lúc đó, người dân, chính quyền rất hào hứng chuyện đào kênh đắp đê để giữ ngọt. Thế nhưng, 4 năm sau, chính những người dân đi đắp đê đó lại đi phá đê để nuôi tôm.
"Tôi nói để thấy cái vấn đề ở khu vực này thiếu đa dạng cây trồng vật nuôi, chứ không phải mâu thuẫn mặn ngọt", ông cho biết.
"Nếu không nhìn ra vấn đề của vùng là thiếu đa dạng cây trồng vật nuôi, thì vùng này sẽ mãi loay hoay với các công trình. Khi đó, chính quyền địa phương với trách nhiệm được nhà nước giao giữ gìn công trình xã hội sẽ xem người dân như những người phá hoại, trong khi người dân nhìn chính quyền như là người cản trở cơ hội làm giàu của họ (4).
Ý kiến Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, người sinh ra và lớn lên từ đồng bằng sông Cửu Long, tốt nghiệp Đại học Wisconsin Hỏa Kỳ, chuyên gia độc lập về sinh thái
Với nhiều năm trăn trở với hệ sinh thái đồng bằng sông Cửu Long, phát biểu tại buổi tham vấn ý kiến chuyên gia về xây dựng dự án thủy lợi sông Cái Lớn - Cái Bé được tổ chức tại Thành phố Cần Thơ ngày 28/05/2018, ông Nguyễn Hữu Thiện đã nhấn mạnh rằng, việc đầu tư xây dựng hệ thống thủy lợi này là không cần thiết.
Phân tích 4 luận điểm trong bản báo cáo đánh giá tác động môi trường Tác động môi trường của Dự án sông Cái Lớn - Cái Bé, ông Thiện khẳng định là tính cần thiết và cấp bách phải đầu tư dự án sông Cái Lớn - Cái Bé là không có tính thuyết phục, vẫn theo ông Thiện :
Luận điểm (1) được nêu ra xuất phát tình trạng khô hạn của mùa khô năm 2016. Thế nhưng, theo ông Thiện, đây là một sự kiện cực đoan 90 năm mới có một lần, không phải là xu hướng chung của đồng bằng sông Cửu Long, nên không thể căn cứ vào yếu tố cực đoan đó để khẳng định cần thiết phải đầu tư dự án nêu trên.
Luận điểm (2) được viện dẫn là nguy cơ nước biển dâng. Ông Thiện cho rằng, đây là luận điểm thiếu căn cứ, không đúng với thực tế của đồng bằng sông Cửu Long, tức khả năng nước biển dâng đến năm 2100 chỉ khoảng 53 cm, chứ không phải là 1 mét như những kịch bản được đưa ra trước đó.
"Vì vậy, đừng lấy chuyện nước biển dâng đề hù dọa", ông nói và cho biết sụt lún đất mới là vấn đề đáng lo hơn do sử dụng nước ngầm vì sông ngòi bị hủy hoại, trong khi lượng phân bón, thuốc trừ sâu sử dụng quá nhiều cho nền nông nghiệp và do đắp đập.
Luận điểm (3) được đưa ra để xây dựng hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé khi nói đồng bằng sông Cửu Long gánh trọng trách đảm bảo an ninh lương thực, theo ông Thiện là không đúng vì nói năm khô hạn 2016 nói rằng an ninh lương thực bị đe dọa, nhưng năm đó Việt Nam vẫn xuất khẩu hơn 4,8 triệu tấn gạo, còn dư cả chục triệu tấn lúa, thì rõ ràng an ninh lương thực không hề bị đe dọa.
Luận điểm (4) được đưa ra khi nói nguy cơ cạn kiệt nguồn nước ngọt ở đồng bằng sông Cửu Long do tác động của thượng nguồn. Ông Thiện cho rằng đập thủy điện không làm hết nước, mà chỉ có tác động đến phù sa và thủy sản.
Cũng theo ông Thiện, việc xây dựng hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé có thể đẩy quy hoạch tích hợp của Bộ Kế hoạch và đầu tư rơi vào thế "thất thủ chiến lược" nhằm hướng tới phát triển theo hướng "thuận thiên", theo tinh thần Nghị quyết 120 của Chính phủ về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng biến đổi khí hậu (7).
Ý kiến kỹ sư Phạm Phan Long, kỹ sư chuyên nghiệp (Professional Engineer) từ Viet Ecology Foundation
Chúng tôi chia sẻ với dân cư đồng bằng sông Cửu Long và cả nước mối quan ngại của chúng tôi về dự án Thủy lợi ngăn mặn trên sông Cái Lớn và Cái Bé với lời kêu gọi lập tức hủy bỏ hay ít nhất ngừng ngay dự án này để có thời gian đánh giá thận trọng hơn, rút kinh nghiệm từ những công trình thủy lợitốn kém đầy hối tiếc trước đây đã liên tiếp gây ra thảm trạng trên đồng bằng này.Những công trình trước cũng đều có những mục đích viết ra hay như thế nhưng toàn thất bại sau những thành quả nhất thời.
Công trình ngọt hỏa bán đảo Cà Mau đã gây tranh chấp gay gắt ngọt mặn và phải phá bỏ. Công trình cống ngăn mặn Ba Lai đã không ngọt hỏa mà khiến sông Ba Lai ngưng chảy biến thành hồ, tích lũy ô nhiễm và nước còn mặn hơn xưa. Công trình đê bao Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên không những làm cho hai lòng chảo bị tù đọng ô nhiễm mà còn làm mất hai vùng trũng chứa nước ngọt thiên nhiên hằng năm cung cấp bù đắp nước ngọt cho đồng bằng trong mùa khô.
Những công trình đó khiến đồng bằng cho dù vẫn bao phủ bằng mặt nước mênh mông nhưng không còn nước sạch có thể sinh hoạt hay canh tác được. Dân phải tận dụng nguồn nước ngầm khiến đất lún nhanh gấp chục lần biển dâng do biến đổi khí hậu. Những kinh nghiệm xót xa này không hề được Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn rút tỉa, rõ ràng vấn nạn lớn trên toàn đồng bằng hiện nay là ô nhiễm nguồn nước chính vì các công trình thủy lợi hoạch định phi lý đã gây ra. Ô nhiễm phải được xem là vấn nạn lớn mà mọi công trình phải phải bảo đảm không cho xảy ra. Công trình Cái Lớn Cái Bé sẽ đẩy đồng bằng sông Cửu Long lao sâu hơn vào ao tù thảm trạng ô nhiễm không khác những công trình thủy hại trước đây nhưng với một quy mô lớn hơn.
Một lần nữa, chúng tôi kêu gọi lập tức hủy bỏ dự án này và thay vì tranh chấp với thiên nhiên nhiên với các công trình cắt sông ngăn biển, hãy khiêm nhường tìm những lời giải thuận thiên nhiên, tìm bền vững tiềm ẩn trong cân bằng sinh thái, tương tác tự nhiên giữa sông với biển, vì người có thể thích nghi sống với lũ, phèn, ngọt, lợ hay mặn nhưng không thể sống với ô nhiễm. Chúng tôi cho rằng nếu chưa kiểm soát ô nhiễm phục hồi phẩm chất nguồn nước và sửa lỗi các công trình trước thì không có lý do gì đầu tư để chuốc thêm thảm trạng chưa yên.
Nói không với dự án sông Cái Lớn - Cái Bé
Để thay kết luận, một lần nữa người viết gửi tới Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Bộ trưởng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường, vẫn câu trích dẫn và cũng là bài học đầu tiên của một sinh viên vào học Y khỏa : Trước hết là không gây hại (Primum Non Nocere/First do no harm). Mọi kế hoạch vội vã, thiếu thời gian cho một đánh giá tác động môi trường có tính khách quan, với tổn phí hàng ngàn tỉ đồng có thể gây hại cho toàn hệ sinh thái vốn đã quá mong manh của một vùng Châu thổ mà trước đây đã từng được đánh giá là phong phú và giàu có nhất trên hành tinh này.
Như một nhắc nhở và nhấn mạnh, người viết ghi nhận lại nơi đây một đề nghị cụ thể với Thủ Tướng chánh phủ kiến tạo Nguyễn Xuân Phúc : hãy cho ngưng ngay Dự án xây hệ thống cống đập Sông Cái Lớn - Sông Cái Bé, hãy dùng ngân sách 3.300 tỷ dự trù cho dự án để thành lập ngay một nhóm nghiên cứu Tác động môi trường độc lập [có thể bao gồm cả các chuyên gia Hỏa Lan, họ đã có kinh nghiệm và có công lớn thực hiện một số chương trình khảo sát cơ bản cho đồng bằng sông Cửu Long], để đi tìm và phác thảo các giải pháp phi công trình (non-structural adaptation measures) để thích nghi và chung sống một cách tối ưu với cả ba vùng sinh thái : ngọt-lợ-mặn của đồng bằng sông Cửu Long trong bối cảnh diễn tiến của Biến đổi Khí hậu toàn cầu. Đó mới đích thực là tinh thần Nghị quyết 120 về đồng bằng sông Cửu Long [17/11/2017] trong đó Thủ tướng Chính phủ đã nhấn mạnh theo nguyên tắc : "thuận thiên, tôn trọng quy luật tự nhiên, tránh can thiệp thô bạo vào thiên nhiên" (2).
Hướng tới những biện pháp phi công trình
Trong 40 năm qua, nhiều biện pháp công trình (structural measures) lớn đã được đem ra thử nghiệm trên khắp đồng bằng sông Cửu Long như : đắp đê ngăn lũ, xây dựng đê kè để giảm sóng hay chuyển hướng dòng chảy, xây dựng hệ thống cống chăn mặn… Đã chứng tỏ một điều : không thể dùng những biện pháp thô bạo can thiệp vào thiên nhiên, lợi ích nếu có thì rất ngắn hạn trong khi hậu quả tác hại thì lâu dài, rất khó sửa chữa trên toàn hệ sinh thái đồng bằng sông Cửu Long.
Từ những bài học thất bại ấy, các nhà khỏa học môi trường đã khiêm tốn hơn khi chọn các giải pháp chung sống với mẹ thiên nhiên (mother nature) vốn bao dung nhưng cũng vô cùng khắc nghiệt.
Trước những nan đề, mặn ngọt, thay đổi khí hậu, nước biển dâng không phải bây giờ mới có nơi đồng bằng sông Cửu Long mà nhiều ít đã cótừ thuở hoang sơ, và con người từ bao giờ đã biết thích nghi sống hài hỏa với thiên nhiên, dần dà nếp sống ấy đã tạo ra một nền văn hỏa sông nước, ngay cả khi mà nền khỏa học kỹ thuật phát triển, giải pháp chống lạimẹ thiên nhiên (mother nature) vẫn là một chọn lựa thiếu khôn ngoan và không cân sức, do đó đã đến lúc các nhà khỏa học môi trường thức thời đã có khuynh hướng đi tìm các "biện pháp phi công trình" chung sống và thích nghi với thiên nhiên là chủ yếu.
Thế nào là các biện pháp phi công trình (non-structural adaptation measures) : đó là không chọn xây những công trình lớn cố định vĩnh cửu để đối phó với một hệ sinh thái không ngừng chuyển động : tính cố định của các công trình đã chứng tỏ lỗi thời trong một môi trường sống không ngừng đổi thay. Và trong suốt lịch sử phát triển của đồng bằng sông Cửu Long, người nông dân và ngư dân vốn đã biết sống thích nghi để vẫn tồn tại và phát triển mà không gây ô nhiễm tổn hại cho môi sinh và vắt kiệtnguồn tài nguyên thiên nhiên.
Những ví dụ :
- chưa có nha khí tượng, nhưng qua kinh nghiệm tích luỹ, người nông dân đã biết dự báo thời tiết, nắng mưa khá chính xác và hiệu quả ;
- chưa có nha địa chất, nhưng họ đã biết đánh giá các vùng thổ nhưỡng, để chọn đúng loại cây trồng, không chỉ có cây lúa họ biết đa canh để giữ màu cho đất ;
- chưa có nha thủy văn, họ đã biết chọn giống, nuôi trồng thủy sản phù hợp sinh cảnh : mặn ngọt lợ theo vùng.
Với hiện trạng môi trường suy thoái trầm trọng như hiện nay, điều mà nhà nước cần quan tâm giúp họ :
- giúp họ được sống trở lại với một môi trường không ô nhiễm đang đầu độc họ như hiện nay : mở cửa các cống đập cho các dòng sông được chảy ;
- với sông chảy và thủy triều là những động lực làm thanh sạch và tẩy rửa môi trường tích luỹ như hiện nay ;
- với các nhà máy xây dựng và hoạt động ven sông như nhà máy giấy Lee & Man, các nhà máy điện than đa phần từ Trung Quốc phải được giám sát chặt chẽ về xử lý các nguồn nước và chất thải ;
- nâng cao ý thức cộng đồng về bảo vệ môi trường : tạo cho họ các tiện dụng gia cư tối thiểu như nhà vệ sinh, nơi xử lý rác thay vì thải hết xuống sông như hiện nay ;
- về tổng thể, nên có quy hoạch các khu cư dân hợp lý, thiết lập quỹ dự phòng như một hình thức bảo hiểm của nhà nước để tài trợ khi cư dân bị thiệt hại trong giai đoạn thay đổi khí hậu cực đoan như thời điểm 2016 ;
- với một môi trường dần dà được tẩy rửa thanh sạch, nguồn nước lênh láng trở lại sử dụng được, giảm nhu cầu khai thác tầng nước ngầm, giảm độ sụt lún mười lần nhanh hơn nước biển dâng như hiện nay. ;
- phục hồi nền văn minh "những chiếc lu", khuyến khích dân chúng dự trữ nguồn nước mưa nước uống dùng cho mùa khô hạn ;
- ở một chừng mực nào đó, chúng ta chủ động kiểm soát và cả chấp nhận phần nào tổn thất do biến đổi khí hậu nhưng phải biết nói không những công trình tốn kém và mang tính tự hủy hoại như hiện nay.
Tiến sĩ Lê Anh Tuấn từ Đại học Cần Thơ đã nói rất rõ về "Giải pháp phi công trình" trong sử dụng tài nguyên ở đồng bằng sông Cửu Long với nhấn mạnh là cần diễn dịch khéo léo linh hoạt : đó là những phương cách "mềm" nhờ ưu điểm chi phí rẻ, dễ thực hiện, thiên về bảo vệ, cải thiện môi trường, thuận thiên, bảo tồn tính đa dạng sinh học, mặc dầu phải tốn nhiều thời gian mới thấy hiệu quả của nó.
Tìm ra các sinh kế tương thích với hệ sinh thái và điều kiện tự nhiên : ví dụ mùa mưa trồng lúa, mùa nắng nuôi tôm, nuôi cá nước mặn, nước lợ, tổ chức du lịch sinh thái - tìm hiểu văn hỏa bản địa, phát triển khai thác, chế biến các lợi thế cây, con ở từng vùng miền (như trồng sen, chế biến sen, dệt lụa từ sợi sen, ... hoặc một số loại cây ưu thế), phát triển năng lượng tái tạo...
Ưu tiên "phi công trình" không có nghĩa là bài bác "công trình" mà cần có sự phối hợp hài hòa, chỉ phát triển công trình khi nào thật sự cần thiết, nên nghĩ làm các công trình nhỏ trước khi có những cân nhắc công trình lớn hơn.
Tiến sĩ Lê Anh Tuấn thuộc Đại học Cần Thơ đã chọn khu vực lúa-sen-cá-du lịch sinh thái ở Đồng Tháp như một điển hình về giải pháp "phi công trình", với minh hỏa rất dễ hiểu với người nông dân :
Vẫn những dự án sai lầm từ hệ thống
Hơn 40 năm sau 1975, như một chuỗi sai lầm từ hệ thống, nhà nước cộng sản Việt Nam đã thiết lập vội vã nhiều dự án trọng điểm rất tốn kém với tham vọng nhằm "cải tạo" đồng bằng sông Cửu Long, đa phần là can thiệp thô bạo gây tác hại trên hệ sinh thái mong manh của cả một vùng Châu thổ. Do tính cục bộ, thiếu sót trong Đánh giá Tác động Môi trường Chiến lược (SEA - Strategic Environment Assessment) của toàn đồng bằng sông Cửu Long, chỉ với những "nghiên cứu mệnh danh là khỏa học" nhưng theo phong cách : làm nhanh ăn nhanh ; chủ yếu bị chi phối bởi các nhóm lợi ích các chủ đầu tư, rồi đem chính mạng sống và kế sinh nhai người dân ra đánh bạc, bất chấp ý kiến của họ, đồng thời trấn áp các phản biện và gạt bỏ mọi khuyến cáo của các chuyên gia kinh nghiệm có thẩm quyền.
Nhưng vẫn không thiếu những nhà hoạt động môi sinh độc lập can đảm và bền bỉ cất lên tiếng nói của lương tri. Họ hướng tới mục tiêu tối hậu là bảo vệ cả một vùng Châu thổ với 18 triệu cư dân, nhằm giảm thiểu những tác hại lâu dài trên nguồn tài nguyên của đất nước và của các thế hệ tương lai.
Với Dự án sông Cái Lớn - Cái Bé được mệnh danh là "công trình thế kỷ", các chuyên gia độc lập đã lên tiếng cạn lẽ rồi, nói chung là tình hình khá bi quan : do cái xung lực (momentum) của Dự án sông Cái Lớn - Cái Bé quá lớn, nhóm lợi ích và giới chủ đầu tư thì quá mạnh rất khó mà dừng lại được. Nhưng cũng chính đây mới là bước thử thách giữa "nói và làm" của Chính phủ Kiến tạo Nguyễn Xuân Phúc. Và nếu như Dự án sông Cái Lớn - Cái Bé vẫn cứ tiến hành, thì Nghị quyết 120/NQ/CP của Chính phủ về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu do Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ban hành ngày 17/11/2017 hoàn toàn rơi vào thế "thất thủ chiến lược" – nói theo ngôn từ rất tượng hình của nhà nghiên cứu môi trường độc lập Nguyễn Hữu Thiện.
California 30/09/2018
Ngô Thế Vinh
Nguồn : VOA, 03/10/2018
Tham khảo :
(1) Dự án Hệ thống Thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé Giai đoạn 1. Địa điểm xây dựng tỉnh Kiên Giang. Báo cáo đánh giá tác động môi trường. Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn (Bản báo cáo chưa hoàn thiện, chưa được thẩm định phê duyệt).
(2) Đồng bằng sông Cửu Long và Những bước phát triển tự hủy hoại 1975-2018, Ngô Thế Vinh, Việt Ecology Foundation 04/2018 (http://vietecology.org/Article/Article/299)
(3) Dự án thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé ở Kiên Giang : Đừng làm mất đi lợi thế tài nguyên, Người Lao Động, Đ04/06/18 (https://baomoi.com/du-an-thuy-loi-cai-lon-cai-be-o-kien-giang-dung-lam-mat-di-loi-the-tai-nguyen/c/26277343.epi)
(4) Lại cãi nhau với Dự án Thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé. Trung Chánh, Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online, 07/09/2018 (https://www.thesaigontimes.vn/278260/lai-cai-nhau-voi-dai-du-an-thuy-loi-cai-lon--cai-be.html)
(5) Xin đừng bóp cổ Đất và Nước, Lê Anh Tuấn, Đại học Cần Thơ, SaigonTimes 14/09/2018 (https://www.thesaigontimes.vn/278468/xin-dung-bop-co-dat-va-nuoc-.html)
(6) Đánh giá các Hệ thống ngăn mặn vùng ven biên Châu thổ Cửu Long & Dự án Thủy Lợi sông Cái Lớn – Cái Bé (Bản thảo ngày 06/9/2018) Nhóm nghiên cứu : Lê Anh Tuấn, Nguyễn Hữu Thiện, Dương Văn Ni, Nguyễn Hồng Tín, Đặng Kiều Nhân (http://vietecology.org/Article/Article/314)
(7) Dự án Cái Lớn-Cái Bé : Lý do Không thể Phê duyệt. giáo sư Nguyễn Ngọc Trân, Đất Việt Diễn đàn Trí thức 12/09/2018 (http://baodatviet.vn/dien-dan-tri-thuc/du-an-cai-lon-cai-be-ly-do-khong-the-phe-duyet-3365429/)
(8) Chuyên gia : Không cần thiết phải xây dựng dự án thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé, Thời báo Kinh tế Saigon Online, Trung Chánh 28/05/2018 (https://www.thesaigontimes.vn/273170/chuyen-gia-khong-can-thiet-phai-xay-dung-du-an-thuy-loi-cai-lon--cai-be-.html)
(9) Dự án thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé : Quá nhiều lo ngại, Nguyễn Hữu Thiện, Báo Đất Mới (http://baodatviet.vn/dien-dan-tri-thuc/du-an-thuy-loi-cai-lon--cai-be-qua-nhieu-lo-ngai-3365385/)
Gửi Nhóm bạn Cửu Long
để tưởng nhớ Mai Chửng
điêu khắc gia tượng đài Bông Lúa 1970
Điêu khắc gia Mai Chửng đứng bên công trình tượng đài Bông Lúa thực hiện bằng đồng lá, cao hơn 16 m đang xây cất tại tỉnh Long Xuyên đồng bằng sông Cửu Long ; toàn cảnh pho tượng Bông Lúa tại Công viên Trưng Vương tỉnh Long Xuyên 1970 [nguồn : sưu tập Dương Văn Chung, Thatsonchaudoc.com]
Primum Non Nocere
Trước hết không gây hại
Đồng bằng sông Cửu Long với bờ biển ngày đêm bị sạt lở và sói mòn. [photo by Phạm Phan Long & Ngô Thế Vinh]
Tới Cửa Trần Đề mút cuối Sông Hậu
Từ con Kênh Vĩnh Tế biên giới Việt Miên tới Cửa Trần Đề, có thể nói chúng tôi đã đi gần suốt chiều dài con Sông Hậu.
Nguy cơ rối loạn dòng chảy hạ lưu là có thật và có thể nhìn tử thượng nguồn. Nhìn về Phương Bắc, từ hơn hai thập niên qua, người viết không ngừng báo động về những mối nguy cơ tích lũy không thể đảo ngược từ phía thượng nguồn do nạn phá trắng những khu rừng mưa nhiệt đới (rainforest), rồi những khu rừng lũ (flooded forest) quanh Biển Hồ, tới kế hoạch phá đá phá các ghềnh thác (Mekong rapids blasting project) khai thông mở rộng dòng sông Mekong để cho tàu bè của Trung Quốc vận chuyển hàng hóa tràn xuống các quốc gia hạ lưu, cùng với ảnh hưởng lâu dài là những con đập bậc thềm khổng lồ Vân Nam, tiếp đến là chuỗi 12 dự án đập dòng chính hạ lưu ở Lào và Cam Bốt với hậu quả gây rối loạn dòng chảy, mất nguồn cát nguồn phù sa nơi các hồ chứa, với thời gian có thể đưa tới một tiến trình đảo ngược, một đồng bằng sông Cửu Long còn non trẻ có thể từ từ tan rã.
Trung Quốc đang khống chế không chỉ Biển Đông mà còn trên toàn lưu vực sông Mekong, Việt Nam là một quốc gia cuối nguồn, giới cầm quyền Việt Nam thì lệ thuộc về chính trị vào Trung Quốc và do đó hoàn toàn bị động. Cho dù Việt Nam thỉnh thoảng có lên tiếng phản đối yếu ớt nhưng thực tế không có chiến lược gì cụ thể và hầu như không làm được gì để bảo vệ sự sống còn của hơn 17 triệu cư dân đồng bằng sông Cửu Long và cũng là vựa lúa của cả nước. Đó là một sự thật.
Quá trình tự hủy xảy ra ngay tại đồng bằng sông Cửu Long. Lòng sông không ngừng bị nạo vét để lấy cát. Diện tích rừng tràm rừng đước tiếp tục bị phá và thu hẹp. Khai thác vô hạn các tầng nước ngầm. Thêm vào đó là những dự án trọng điểm của nhà nước được cổ suý là để"cải tạo" đồng bằng sông Cửu Long từ sau 1975, nhưng đã gây tác hại nhiều hơn. Đó là những hủy hoại mang tính tích lũy.
600 km bờ sông các tỉnh Miền Tây đang bị sạt lở ; hình trái, Sông Hậu tỉnh An Giang với nhiều khúc bờ sông bị sạt lở do nhiều yếu tố nhân tai : mất lượng phù sa do hồ chứa nơi những con đập thủy điện thượng nguồn, nạn phá rừng, nạo vét lòng sông khắp nơi để khai thác cát. [photo by AX, VnExpress 15/05/2017]
Hậu quả nhãn tiền là bờ sông, bờ biển không ngừng bị sạt lở, đất lún nhanh hơn biển dâng, nạn nhiễm mặn trầm trọng hơn và rõ ràng là nguồn tài nguyên thiên nhiên của cả một vùng đất mới vốn được ưu đãi thì nay cứ nghèo dần đi. Kết luận dễ dàng nhất để rũ bỏ mọi trách nhiệm là đổ lỗi cho Mẹ thiên nhiên, cho Biến đổi khí hậu nhưng không thể không kể tới một chuỗi hậu quả tích lũy của những yếu tố nhân tai, do chính con người gây ra với sự thụ động của giới cầm quyền.
Dọc bờ biển đồng bằng sông Cửu Long cũng ngày đêm âm thầm bị xói mòn (beach erosion) ; so với sạt lở ven sông, tình trạng sạt lở ven biển trầm trọng hơn nhiều. Một dãy nhà bị đổ sụp xuống sông được báo chí và dân chúng quan tâm nhiều hơn nhưng sạt lở ven biển là một cái chết chậm và rất âm thầm
Qua Cù lao Dung
Gần tới Biển Đông, gặp Cù lao Dung, Sông Hậu chia làm hai nhánh : hữu ngạn chảy ra cửa Trần Đề (trước đây còn có tên gọi là Trấn Di) thuộc tỉnh Sóc Trăng ; tả ngạn chảy ra cửa Định An thuộc tỉnh Trà Vinh. Ở giữa hai cửa Trần Đề và Định An là cửa Ba Thắc rất nhỏ đã bị phù sa vùi lấp từ trăm năm trước.
Cửu Long chín cửa : 9, thực tế chỉ có Bát Long : 8, nay thêm cửa Ba Lai của Sông Tiền bị bộNông nghiệp và phát triển nông thôn xây cống đập chặn mặn bít kín, chỉ còn là Thất Long : 7.
Cửu Long chín Cửa hai Dòng, nay chỉ còn bảy Cửa : Sông Hậu ba cửa nay còn hai : (1) cửa Trần Đề, (2) cửa Định An, cửa Ba Thắc (Bassac) đã bị lấp. Sông Tiền sáu cửa nay còn năm : (3) cửa Cung Hầu, (4) cửa Cổ Chiên, (5) cửa Hàm Luông (cửa Ba Lai đã bị đắp đập làm cống chặn mặn từ năm 2000), (6) cửa Đại, (7) cửa Tiểu. [nguồn : bản đồ Dragon-CTU với ghi chú của Ngô Thế Vinh, CLCD BĐDS p.360]
Cù Lao Dung là một trong những cù lao lớn trên Sông Hậu, nằm giữa 2 tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh. Cù Lao Dung là một huyện thuộc tỉnh Sóc Trăng, diện tích 24.944 hecta với dân số khoảng 63.000 người [62.931 người theo thống kê 2009]. Phía Đông và Bắc giáp tỉnh Trà Vinh ; phía Tây giáp huyện Long Phú tỉnh Sóc Trăng ; phía Nam giáp Biển Đông. [Hình 5b]
Cù lao Dung chia Sông Hậu ra làm hai nhánh : nhánh hữu ngạn chảy ra cửa Trần Đề, nhánh tả ngạn chảy ra cửa Định An. [nguồn : Wikipedia, thêm ghi chú của người viết].
Nếu từ bản đồ Google bung ra, chúng ta sẽ thấy có rất nhiều cù lao lớn nhỏ trên hai con Sông Tiền và Sông Hậu. Nói chung, đất cù lao là do phù sa bồi đắp nên phì nhiêu, rất thích hợp cho các loại cây trái. Cư dân sống trên đất cù lao, qua nhiều thế hệ, được thiên nhiên ưu đãi phải nói sung túc nếu không muốn nói là giàu có.
Do là một cù lao rất lớn và trải dài trên Sông Hậu, nửa cuối Cù lao Dung tiếp cận với Biển Đông nên được hưởng cả hai chế độ thủy văn và thủy sản nước mặn và nước ngọt theo mùa.
Qua kênh Quan Chánh Bố
Kênh Quan Chánh Bố nguyên là một kênh đào thuộc huyện Duyên Hải tỉnh Trà Vinh. Một đầu kênh nối với Sông Hậu ở xã Định An (Trà Cú). Con kênh chạy dọc theo ranh giới huyện Duyên Hải và Trà Cú phía bắc Quốc lộ 53, và đổ ra Biển Đông. Nguyên thủy, con Kênh Quan Chánh Bố được đào từ thế kỷ 19 [thời gian 1837 - 1838] để dẫn nước từ Sông Hậu vào rửa mặn vùng đồng lầy Láng Sắt, công trình đào kênh thời đó do Quan Chánh Bố Trần Trung Tiên đảm trách.
Sang thập niên đầu của thế kỷ 21, [năm 2009], Bộ Giao thông vận tải dưới thời bộ trưởng Hồ Nghĩa Dũng, người Đà Nẵng (nhiệm kỳ 06/2006 - 08/2011) triển khai một dự án nạo vét con Kênh Quan Chánh Bố nhằm tạo một thủy lộ từ biển đi vào Sông Hậu tới giang cảng Cần Thơ thay cho luồng đi qua cửa Định An, viện lý do cửa Định An bị nhiều phù sa bồi đắp khiến các con tàu trọng tải lớn có nguy cơ mắc cạn khi đi vào Sông Hậu [sic].
Dự án luồng Kênh Quan Chánh Bố với mức đầu tư ban đầu lên tới 9,781 tỷ đồng, từ ngày đi vào giai đoạn vận hành thử nghiệm đang là nguồn cơn thống khổ của cư dân đang sống hai bên bờ con kênh. [nguồn : tài liệu của Bộ Giao thông vận tải]
Với kế hoạch mở rộng và vét sâu theo suốt chiều dài 19,2 km con Kênh Quan Chánh Bố tính từ chỗ nối với Sông Hậu đến xã Long Khánh ; đồng thời, khai mở thêm một khúc kênh mới có tên gọi là Kênh Tắt dài 8,2 km được nối phần cuối đoạn mở rộng con Kênh Quan Chánh Bố qua xã Đông Hải thông ra tới biển và thêm đoạn kênh biển dài 7 km. Nếu kể cả đoạn Sông Hậu dài 12,1 km luồng Kênh Quan Chánh Bố có tổng chiều dài là 46,5 km.
Dự án luồng Kênh Quan Chánh Bố với mức đầu tư ban đầu lên tới 9.781 tỷ đồng, được khoe đây là "con kênh đào Panama của Việt Nam", một so sánh rất khiên cưỡng. Kênh Panama có tầm vóc thế giới và là một con kênh chiến lược cắt ngang eo đất Panama Trung Mỹ nối liền hai biển lớn là Đại Tây Dương với Thái Bình Dương, thay vì phải vòng qua Mũi Sừng (Cape Horn) điểm cực nam của Nam Mỹ, với rút ngắn hơn nửa khoảng cách đường biển, như tàu bè đi từ New York chỉ phải vượt qua 9.500 km để tới San Francisco thay vì 22.500 km nếu không qua kênh đào Panama.
Cũng giống như các dự án trọng điểm khác nơi đồng bằng sông Cửu Long, phải nói là dự án luồng Kênh Quan Chánh Bố được hình thành khá vội vã, cả với những ý kiến bất đồng (4) nhưng vẫn cho khởi công từ cuối năm 2009. Như từ bao giờ, đa số các dự án chưa có đủ thời gian nghiên cứu để có được cơ sở khoa học, thảo luận và đánh giá một cách khách quan, và nhất là thiếu minh bạch ; đã thế khi đi vào thực hiện dự án luồng Kênh Quan Chánh Bố lại không có được hình thức đấu thầu công khai theo luật định, mà là chỉ định nhà thầu thuộc các nhóm lợi ích.
Tiêu tốn ngân sách hàng nhiều ngàn tỷ đồng chỉ với mục tiêu đơn giản và cuối cùng là tìm được một đường tàu biển trọng tải lớn ra vào đồng bằng sông Cửu Long mà không quan tâm gì tới tính bền vững về môi trường, đến hiệu quả kinh tế, và nhất là sự an toàn cho người dân. Nạn nhân không ai khác hơn vẫn những người "dân đen" được đưa ra làm thử nghiệm. Và, những cuộc thử nghiệm cứ nối tiếp nhau, dù hiệu quả thì chưa thấy rõ nhưng hậu quả thì hầu như ai cũng thấy.
Tưởng cũng nên có một ghi chú bên lề, Bộ trưởng Hồ Nghĩa Dũng sau nhiệm kỳ 5 năm ở Bộ Giao thông vận tải cho tới lúc nghỉ hưu vào tháng 8/2011 khi đó công trình con Kênh Quan Chánh Bố còn dở dang và cũng theo báo chí lề phải trong nước, để chuẩn bị trước về hưu, khi còn tại nhiệm chính ông Hồ Nghĩa Dũng cũng đã chỉ định một nhà đầu tư cho một dự án lớn khác : Xây đường hầm Đèo Cả để rồi sau đó không ai khác hơn là chính ông tham gia vào Hội đồng quản trị Công ty cổ phần đầu tư Đèo Cả. Bước chuẩn bị này đã từng gây tai tiếng, bị chính báo chí trong nước gọi đây là "hành động lót ổ" đồng thời là "một tiền lệ xấu". Ông bộ trưởng Hồ Nghĩa Dũng còn được nhớ tới với thành tích đề xuất xây dựng đường sắt cao tốc Bắc Nam dài 1.570 km với kinh phí 55 tỉ USD, may mà sau đó dự án đã bị Quốc hội khóa XII biểu quyết bác bỏ.
Công trình Kênh Quan Chánh Bố sau đó được tiếp tục qua thời Bộ trưởng kế nhiệm Đinh La Thăng, người Nam Định (nhiệm kỳ 03/2011 - 08/2016) với một tiểu sử rất dày : trước khi về bộ Giao thông vận tải, ông đã là Chủ tịch Hội đồng Dầu khí Quốc gia Việt Nam (2008-2011), Chủ tịch Hội đồng quản trị Dầu khí Quốc gia Việt Nam (2005-2008), Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng Công ty Sông Đà (2001-2003) ; và nay 2018 thì đang bị dính vào vòng lao lý do "cố ý làm sai trái quy định nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng khi ông giữ chức Chủ tịch Hội đồng Dầu khí Quốc gia Việt Nam".
Và rồi sau 7 năm khởi công [2009 - 2016], công trình luồng Kênh Quan Chánh Bố được hoàn thành vào đầu năm 2016 ; với thành tích là những con số : Kênh Quan Chánh Bố nay có thể tiếp nhận các tàu biển lớn 20.000 tấn giảm tải và 10.000 tấn đầy tải vào Sông Hậu (Wikipedia).
Và chỉ một năm đi vào hoạt động với không ít hệ luỵ, theo báo Đất Việt [ngày 10/04/2017], Bộ Giao thông vận tải lại tính thay thếPhà Kênh Tắt bằng một đường hầm chui qua Kênh Tắt, khiến dư luận hết sức băn khoăn.
Kênh Tắt là đoạn kênh đào mới nối đoạn cuối con Kênh Quan Chánh Bố thông ra biển. [photo by Ngô Thế Vinh]
Để nối hai bờ Kênh Tắt trên QL 53 dự tính ban đầu là Cầu Kênh Tắt ; sau đó cầu được thay thế bằng Phà Kênh Tắt, chỉ mới một năm Phà Kênh Tắt đi vào hoạt động, Bộ Giao thông vận tải lại tính thay thế bằng Đường Hầm Chui qua Kênh Tắt với dự tính tổn phí lên tới 10.319,2 tỷ đồng... khiến Giáo sư Nguyễn Ngọc Trân, người theo dõi dự án luồng Kênh Quan Chánh Bố từ giai đoạn đầu tiên đã phải vô cùng ngạc nhiên vì chủ đầu tư thay đổi phương án như thay áo cho dù phải chi hàng ngàn tỷ đồng ngân sách nhà nước.
Giáo sư Nguyễn Ngọc Trân [người gốc người Miền Tây, sinh ra trên một cù lao giữa Sông Tiền, huyện Chợ Mới tỉnh An Giang, là thành viên lâu năm Hội đồng Chính sách Khoa học và Công nghệ Quốc gia, cơ quan tư vấn của Thủ tướng Chính phủ từ 1992] phải lên tiếng :
"Điều gây ngạc nhiên đến khó có thể tưởng tượng là thông báo trong Trang địa phương của vị Thứ trưởng, nguyên Cục trưởng Cục Hàng hải, rằng Thủ tướng chính phủ có chủ trương giao cho Bộ Giao thông vận tải nghiên cứu làm hầm qua Kênh Tắt để tránh cho người dân không phải qua phà đồng thời đảm bảo an toàn cho luồng tàu biển. Để làm việc này, Trang địa phương cho thông tin sẽ cần thêm 50 ha đất, và trên 3.000 tỷ đồng. Dự kiến sẽ triển khai vào cuối năm nay".
Gây ngạc nhiên vì phương án đầu tiên nối hai bờ Kênh Tắt trên QL 53 là Cầu Kênh Tắt. Qua quá trình triển khai dự án, phương án cầu đã được thay thế bằng Phà Kênh Tắt. Phà này mới được đưa vào hoạt động từ ngày 20/01/2016, ngày thông luồng Kênh Tắt. Như vậy, chỉ sau một năm đi vào hoạt động, Bộ Giao thông vận tải lại tính thay thế Phà Kênh Tắt bằng một Hầm Chui qua Kênh Tắt. Và thay đổi này không phải là duy nhất.
Khi được cho triển khai (công văn số 123/TTg-CN ngày 22/01/2007) tổng mức đầu tư của dự án là 3,148.5 tỷ đồng. Mười tháng sau, tổng mức đầu tư của dự án được Bộ Giao thông vận tải duyệt tại Quyết định số 3744/QĐ-BGiao thông vận tải ngày 30/11/2007 tăng từ 3.148,5 lên 10.319,2 tỷ đồng, nghĩa là gấp 3.28 lần. Bởi vì khối lượng nạo vét luồng từ 22 triệu m3 tăng lên 28,1 triệu m3 ; kè dọc tuyến luồng 35,94 km thay vì 27,57 km ; giải phóng mặt bằng 1.406,47 ha thay vì 300 ha ; thay đổi mái dốc nạo vét do nền đất yếu ; thay đổi đê chắn cát thành đê chắn sóng ; kết hợp đê chắn sóng của dự án luồng với dự án cảng biển Trà Vinh…
Ngạc nhiên vì chủ đầu tư thay đổi phương án… giống như thay áo, cho dù phải chi hàng ngàn tỷ đồng ngân sách nhà nước cho những thay đổi đó. Cử tri, những người đóng thuế cho ngân sách, có quyền đặt câu hỏi về tính nghiêm túc của dự án ! Khó có thể tưởng tượng vì chi ngân sách hàng ngàn tỷ đồng sao mà dễ dàng đến thế ! Đó là chưa nói đến hiệu quả kinh tế, tác động lên môi trường tự nhiên và xã hội. Liệu lần này với phương án hầm chui rồi cũng sẽ làm như các lần trước ?" [sic] hết trích dẫn (2).
Không lâu sau đó, theo VTV.VN [16/11/2017] cơ quan truyền hình nhà nước đã lại phải lên tiếng báo động (3) :
Tàu biển hàng chục nghìn tấn lưu thông qua Kênh Quan Chánh Bố, tỉnh Trà Vinh gây sóng lớn đe dọa tính mạng, làm thiệt hại tài sản khiến người dân nơi đây vô cùng lo sợ. tháng 1/2016, luồng tàu biển vào Sông Hậu chính thức được thông luồng, đáp ứng cho tàu biển có tải trọng 10.000 tấn chở đầy hàng và 20.000 tấn vơi hàng lưu thông. luồng tàu vào Sông Hậu có đoạn đi qua Kênh Quan Chánh Bố của các huyện Trà Cú và Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh.
Từ ngày thông luồng đến nay, hàng trăm hộ dân ở hai xã Long Vĩnh và Đôn Xuân sống ven Kênh Quan Chánh Bố luôn sống trong cảnh thấp thỏm, lo lắng. Nguyên nhân là do tàu biển đã nhiều lần gây sóng lớn, làm thiệt hại tài sản và đe dọa đến tính mạng người dân. Người dân cho biết, hiện tượng sóng tràn vào nhà xảy ra rất nhiều lần. Theo bà Đặng Thị Cúc (huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh), cháu ngoại của bà đã từng bị sóng lớn do tàu biển gây ra cuốn trôi xuống con lạch trước nhà, rất may cháu được phát hiện và cứu kịp thời. Sau tai nạn kinh hoàng đó, để bảo vệ các cháu, gia đình bà đã phải làm hàng rào lưới trước nhà. Vết sẹo trên chân bà Kim Thị Tiến vẫn chưa lành hẳn, hậu quả sau một lần bà bảo vệ chiếc ghe của gia đình tránh bị sóng đánh vỡ. Đến nay, bà Dương Thị Phượng vẫn chưa hết bị ám ảnh khi nhắc lại câu chuyện tàu biển gây sóng lớn đánh nát một chiếc xuồng và ghe cào. Ngoài ra, một lượng hải sản lớn đã bị thất thoát khiến gia đình bà bị thất thoát khoảng 100 triệu đồng.
Người dân cho biết, các tàu này hoạt động không thường xuyên mà cách 1 - 2 ngày. Tuy nhiên, điều nguy hiểm là các tàu biển gây sóng cao từ 3-4 m nhưng ít khi bấm còi khi qua khu vực đông dân cư và có thể chạy vào bất cứ giờ nào trong ngày, kể cả ban đêm... [sic].
Rồi tới báo Đại Đoàn Kết [04/07/2017], cho biết có tình trạng sạt lở hai bên bờ con kênh, đòi hỏi thêm kinh phí ứng phó được đề xuất lên đến 1,600 tỷ đồng nữa (1).
Sau khi chuyến tàu Đông Thiên Phú Diamond tải trọng hơn 4.000 tấn đi vào ngày 7/7, có nhiều tàu tải trọng lớn khác như tàu Tân Cảng Glory chở container tải trọng gần 9.000 tấn vào Sông Hậu một chuyến/ tuần. Cuối tháng 11, chuyến tàu Vinalines Unity tải trọng trên 20 nghìn tấn chở hàng nhẹ cũng hai lần vào Kênh Tắt an toàn để cập cảng trên Sông Hậu. Nhưng theo nguồn tin từ công ty Hải Vận Ship, thì dù đang trong giai đoạn thử nghiệm [sic] nhưng đến nay đã có 14 chuyến tàu từ biển đi qua Kênh Tắt đến Kênh Quan Chánh Bố để vào Sông Hậu.
Ông Võ Minh Tiến, Giám đốc Cảng vụ Hàng hải Cần Thơ cho biết, do đang trong quá trình khai thác thử nghiệm [sic] nên đơn vị phải phối hợp với lực lượng biên phòng, chính quyền địa phương thường xuyên tổ chức tuần tra, thanh thải luồng lạch để đảm bảo cho các chuyến tàu ra vào an toàn. Đến thời điểm này, dự án luồng cho tàu biển trọng tải lớn vào Sông Hậu đã đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật, đảm bảo an toàn cho tàu thuyền tải trọng lớn ra vào.
Hải vận (Ship)
Điều đang lưu ý là ông Giám đốc Cảng vụ Hàng hải Cần Thơchỉ quan tâm tới bảo đảm an toàn cho tàu biển trọng tải lớn ra vào Sông Hậu, mà lại không đề cập gì tới an toàn và sinh mạng của chính những người dân ngày đêm sống lo âu thấp thỏm ven kênh.
Tàu 7.000 tấn lưu thông từ biển qua Kênh Quan Chánh Bố vào Sông Hậu. [nguồn : báo Đại Đoàn Kết 04/07/2017]
Với những hệ lụy nổi cộm từ khi luồng Kênh Quan Chánh Bố từ khi đi vào vận hành, cũng vẫn Giáo sư Nguyễn Ngọc Trân đã phải kiến nghị thẳng thắn đối với Dự án luồng Sông Hậu qua Kênh Tắt và Kênh Quan Chánh Bố cần được Quốc hội giám sát, đặc biệt là việc thực hiện giám sát những vấn đề liên quan đến luồng Quan Chánh Bố. Bởi vì, các luồng tự nhiên như Định An thì ngày càng nông trong khi luồng qua Kênh Quan Chánh Bố còn phải nạo vét nhiều và chưa biết độ ổn định ra sao.
Còn Tiến sĩ Lê Kế Lâm mong muốn, Bộ Giao thông vận tải trong quá trình thực hiện Dự án cần có cơ sở cho các nhà khoa học nghiên cứu, thảo luận và đánh giá một cách khách quan chính xác. Và, Bộ Giao thông vận tải nên tổ chức phản biện đối với Dự án này, nhất là phản biện của các tổ chức tư vấn, của các hội. Ngay cả khi lựa chọn tổ chức tư vấn phản biện theo hình thức đấu thầu công khai theo luật định, chứ không thể chỉ định thầu. Mục tiêu cuối cùng là tìm được một luồng tàu biển ra vào đồng bằng sông Cửu Long một cách kinh tế, an toàn, bền vững về môi trường, không phụ lòng mong mỏi của người dân.
Tưởng cũng nên nói thêm, Tiến sĩ Lê Kế Lâm nguyên Thiếu tướng Hải quân tương đương Phó Đô đốc, hiện là chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật và kinh tế biển Thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kỳ 2014-2019, Tiến sĩ Lê Kế Lâm được nhiều người biết đến qua sự kiện Hội Khoa học kỹ thuật mà ông là Chủ tịch đã can đảm công khai lên tiếng phản đối mạnh mẽ Trung Quốc trong vụ giàn khoan Hải Dương 981 (Đại Đoàn Kết, 04/07/2017, Lê Anh).
Về giá trị kinh tế của dự án Kênh Quan Chánh Bố cho tàu trong tải lớn từ Biển Đông đi vào Sông Hậu để tới giang cảng Cần Thơ, cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời và vẫn đang gây rất nhiều tranh cãi. Hiệu quả kinh tế của luồng Kênh Quan Chánh Bố chưa thấy đâu nhưng đã gây ra nhiều hậu quả tiêu cực.
Những dự án sai lầm từ hệ thống
Từ sau 1975, như một chuỗi sai lầm từ hệ thống, nhà nước đã thiết lập vội vã nhiều dự án trọng điểm nhằm "cải tạo" đồng bằng sông Cửu Long, đa phần là can thiệp thô bạo gây tác hại trên hệ sinh thái mong manh của cả một vùng Châu thổ, do thiếu sót trong Đánh giá Chiến lược tác động môi trường tác động môi trường [SEA-Strategic Environment Assessment], với những "nghiên cứu mệnh danh là khoa học" nhưng theo phong cách : làm nhanh ăn nhanh ; rồi đem chính mạng sống và kế sinh nhai người dân ra thử nghiệm, khi mà người dân đã bị tước đoạt tự do và quyền tự vệ. Đây hẳn là điều không thể nào được chấp nhận trong một quốc gia có dân chủ.
Có thể nói đa số các quy trình SEA là nguỵ tạo do thiếu minh bạch và trách nhiệm khi mà :
1. Mâu thuẫn lợi ích. Báo cáo SEA do chính chủ đầu tư chọn nhóm tư vấn, trả chi phí cho họ và đương nhiên toán tư vấn phải viết báo cáo biện hộ tối đa cho dự án và che đậy tối đa các tác động xấu cho chủ đầu tư. Những cố vấn có lương tâm trách nhiệm sẽ từ chối không tham dự vào những hợp đồng có hại cho uy tín lâu dài của họ. Hệ quả là các báo cáo SEA cho các dự án Việt Nam sẽ không thể tin cậy để đưa tới quyết định.
2. Thiếu minh bạch khoa học. Báo cáo SEA không được công bố rộng rãi trên truyền thông báo chí, mà là đặc ân dành cho những viên chức trong bộ máy cầm quyền tham vấn với nhau và người dân muốn tìm hiểu thì phải mò mẫm trong bóng tối và khi có ý kiến phản đối thì họ và cả gia đình có thể bị hăm dọa và cả đàn áp tù đầy.
3. Hội đồng thẩm định báo cáo SEA không có sự tham sự của các chuyên gia khoa học độc lập và xã hội dân sự. Đôi khi các nhà khoa học ấy còn bị mạo danh là tác giả của bản báo cáo để che chắn cho chủ thầu, lừa cả nhà cầm quyền và không ai phải chịu một sự chế tài hay trừng phạt nào. Hệ thống SEA bị ô nhiễm ở cả hai phía chủ thầu và ủy ban duyệt xét.
4. Những cơ quan quản lý phát triển cơ sở hạ tầng như Việt Nam Food, EViệt Nam, PViệt Nam, Vinacomin... là những tập đoàn chịu sự chi phối và khống chế bởi các nhóm lợi ích. Họ liên kết nhau đề ra những công trình quy mô để tạo cơ hội sinh lợi, một thứ văn hóa tham nhũng đã thành nề nếp cả nước đều biết mà vẫn phải im lặng chịu đựng.
5. Sau khi dự án đi vào vận hành, hệ thống quan trắc vi phạm ô nhiễm hoạt động không hiệu quả và không có báo cáo rộng rãi. Một ví dụ, theo điều tra riêng của Hội Sinh Thái Việt (Viet Ecology Foundation) thì ngay cả thông tin chỉ số chất lượng không khí (Air Quality Index) cũng bị chính cơ quan cầm quyền cố ý tự sửa đổi để né tránh trách nhiệm, tạo những thông tin sai lạc và đánh lạc hướng dư luận.
6. Một thể chế tạo ra và dung dưỡng các nhóm lợi ích như thế sẽ không có chỗ cho nhân tài tham gia nếu họ không chấp nhận từ bỏ ý thức trách nhiệm và tiếng nói của lương tri. Vẫn có những trí thức chân chính trong nước từ chối tham gia vào guồng máy nhưng khi cần họ vẫn can đảm lên tiếng phản biện cả với cái giá phải trả nhằm giảm thiểu những tác hại lâu dài trên nguồn tài nguyên đất nước của các thế hệ tương lai.
Nguyên lý bất di bất dịch là : Trước hết là không gây hại (Primum Non Nocere), vẫn cứ mãi là bài học vỡ lòng, là kim chỉ nam cho các bộ trưởng, vụ trưởng các ngành trước khi khởi công bất cứ một dự án nào trên đồng bằng sông Cửu Long. Thế nhưng trong thực tế chưa có một chứng cớ nào cho thấy các vị ấy hành động theo nguyên lý căn bản trên.
Có thể liệt kê ngay những dự án chính đã và đang gây tác hại và tổn thương lâu dài cho đồng bằng sông Cửu Long như :
- Dự án đê bao chống lũ [Bộ Nông nghiệp, phát triển nông thôn] với những đê bao ngăn lũ chỉ để có thêm đất làm lúa cao sản 3 vụ, vắt kiệt đất đai, lại không có nguồn phù sa, nước tù đọng tích lũy ô nhiễm đồng thời làm giảm lượng nước vào hai vùng trũng Đồng Tháp Mười và khu Tứ Giác Long Xuyên như nguồn dự trữ cho toàn đồng bằng sông Cửu Long trong Mùa Khô.
- Dự án cống đập chặn mặn [Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn] ngăn chặn dòng chảy tự nhiên biến những con sông khỏe mạnh thành ao hồ tù đọng, xóa đi một nền văn hóa nước lợ (brackish water( và gây rối loạn dây chuyền trên toàn nhịp đập (Mekong Pulse) của hệ sinh thái đồng bằng sông Cửu Long.
- Dự án 14 nhà máy nhiệt điện than [Bộ Công Thương] biến đồng bằng sông Cửu Long là bãi tiếp nhận các nhà máy nhiệt điện phế thải chạy than từ Trung Quốc với hậu quả tàn phá môi trường đất đai, nguồn nước và không khí với sức khỏe của người dân không hề được quan tâm tới nếu không muốn nói là bị hy sinh.
- Dự án Nhà máy Giấy Lee & Man [Bộ Tài nguyên và môi trường] gây ô nhiễm nghiêm trọng vì nguồn nước thải với đủ loại hóa chất được chính Bộ Tài nguyên và môi trường cấp phép cho xả thải ra Sông Hậu đang giết chết dòng sông, rồi còn phải kể tới bụi khói độc hại, mùi hôi thối, tiếng ồn từ nhà máy ngày đêm bào mòn sức khỏe của người dân.
- Dự án Kênh Quan Chánh Bố [Bộ Giao thông vận tải], với tốn kém hàng nhiều ngàn tỷ đồng chỉ để cho mấy tàu trọng tải lớn từ Biển đi vào Sông Hậu để tới giang cảng Cần Thơ gây bao khốn khổ cho người dân khi mà giá trị kinh tế của dự án kênh Quan Chánh Bố, cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời và vẫn đang gây rất nhiều tranh cãi gay gắt.
Danh sách trên vẫn chưa đầy đủ. Trong thực tế còn nhiều dự án nhỏ cấp địa phương đã và đang được triển khai nhưng không có những nghiên cứu làm cơ sở và cũng chẳng có đánh giá tác hại môi trường từ các chuyên gia độc lập.
Ấy vậy mà cho đến nay vẫn có những người trong giới cầm quyền và giới khoa học thuộc quản lý của nhà cầm quyền cho rằng họ đã thành công trong việc nâng cao sản lượng nông nghiệp qua các công trình thủy lợi và "ém phèn" được xem là "thành công ngoạn mục". Thật ngạc nhiên, một thành tựu lớn như vậy mà không hề có bất cứ một công bố khoa học nào trên các diễn đàn khoa học quốc tế ! Tuy nhiên, đối với những người sống và làm việc ở đồng bằng sông Cửu Long thì những thành tựu đó chỉ là trên giấy. Những "ngôi sao" khoa học hình như xuất hiện nhiều trên hệ thống truyền thông của Nhà nước hơn là trên diễn đàn khoa học nghiêm chỉnh.
Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, một nhà khoa học có nhiều trải nghiệm ở trong nước và qua nhiều năm quan sát miền quê đồng bằng sông Cửu Long cho rằng : "Sự thật là một số không nhỏ trong giới khoa học Việt Nam làm nghiên cứu không theo chuẩn mực quốc tế, kết quả không được công bố, nên chẳng ai biết thực hư ra sao. Báo chí trong nước và ngay cả Bộ trưởng Bộ Khoa học và công nghệ cũng thừa nhận rằng nhiều 'công trình' của họ thường nằm trong hộc tủ, chứ ít khi nào được công bố. Ngay cả khi được công bố thì dấu hỏi lớn vẫn lơ lửng trên những số liệu họ báo cáo".
Cũng Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, nhận định : "[…] còn quá sớm để quy những công trạng - nếu có - cho giới khoa học. Tôi quan sát ở miền quê tôi thì thấy sự thật là những thành tựu về tăng năng suất trồng trọt và lúa là do người nông dân xoay xở. Nông dân tự thử nghiệm cho đến khi đạt được kết quả tốt (kiểu trial-and-error). Họ có thể không biết những nguyên tắc thí nghiệm hay ngẫu nhiên hoá, họ có thể không rành tính toán như các kỹ sư & tiến sĩ, nhưng qua trial-and-error, họ có thể lai giống và tạo giống mới, chế tạo máy gặt lúa, máy cấy lúa, máy hút lục bình, v.v. Giới khoa học chẳng giúp gì cho họ trong các sáng kiến đó. Người nông dân thiếu chữ để nói đó là công trạng của họ, và thay vào đó có những người mang mác 'tiến sĩ' giành công trạng cho mình. Ai cũng biết tác nhân làm nghèo làm khổ nông dân miền Tây là cái tập đoàn lương thực có tổng hành dinh nằm ngoài… Hà Nội".
Ở Việt Nam, người ta có câu khuyên các nhà quản lý và khoa học quốc doanh : đừng làm gì hết, ngồi yên đó để dân nuôi, vì họ làm là hư hỏng.
Trong thực tế miền nào (Nam, Trung, Bắc) cũng đều có những hiền tài với cả nhân cách, họ như những cánh sen giữa bùn lầy và nhà cầm quyền đã không có một chính sách chiêu hiền đãi sĩ khiến nguồn chất xám ấy không được trọng dụng ; để rồi những tài năng ấy hoặc bị mai một hoặc họ phải chọn con đường bỏ đất nước ra đi.
Và cũng không phải là quá khắt khe khi dân gian nhắc tới khái niệm "giới khoa học quốc doanh" theo cái nghĩa xấu nhất : đó là một tập đoàn đội lốt khoa bảng bị mua chuộc, chèn ép những người có thực tài, họ cấu kết với nhau, mai phục trong các bộ các ngành ở Việt Nam và nghiễm nghiên trở thành công cụ, tệ hơn nữa họ trở thành một dàn kèn dư luận viên bênh vực vô điều kiện cả những sai trái cho một guồng máy chuyên chính chỉ biết vơ vét và chia chác quyền lợi. Và nạn nhân không ai khác hơn chính là đám dân đen câm nín và tiếng kêu than của họ nếu có cũng không được lắng nghe.
Thay lời kết : Con đường vòng 43 năm
Bây giờ, chúng tôi đang đứng ở mút cuối con Sông Hậu, nhìn từng đợt sóng vỗ vẫn còn màu nâu nhạt của phù sa nơi cửa sông trải rộng để chan hòa vào biển cả ; bao nhiêu cảm xúc tràn về, như một flashback, chợt nhớ lại hơn một lần qua Long Xuyên, nơi có tượng đài Bông Lúa Con Gái của Mai Chửng, một cố tri và cũng là một tên tuổi lớn trong lãnh vực điêu khắc của Miền Nam.
Sau 30 tháng 4, 1975, cùng với chiến dịch đốt sách, Tượng đài Bông Lúa ấy đã bị phá sập, quả không phải là một "điềm lành" cho tương lai nền Văn Minh Lúa Gạo và cả hậu vận của toàn vùng sông nước Cửu Long.
Người dân Việt Nam, và hơn 17 triệu cư dân đồng bằng sông Cửu Long nói riêng đang thầm mơ ước gì ? Mơ được trở lại với một nền giáo dục nhân bản đã có từ 43 năm trước. Mơ được sống trở lại với một Miền Tây trù phú với gạo trắng nước trong, cây trái trĩu cành và tôm cá đầy đồng. Thời hoàng kim ấy đã qua rồi, sau 43 năm "cải tạo", một đồng bằng sông Cửu Long với nguồn tài nguyên thiên nhiên không những đã nghèo đi, người dân còn phải chứng kiến những dòng sông đang chết, phẩm chất cuộc sống (quality of life) của họ sa sút, họ phải sống ngày đêm trong nỗi bất an với đất, nước, không khí ngày càng thêm ô nhiễm. Và cũng dễ hiểu tại sao đã có ngót 2 triệu cư dân đồng bằng sông Cửu Long bỏ làng xóm ra đi. Cuộc tỵ nạn môi sinh ấy không có dấu hiệu suy giảm.
Và cũng đã hơn một lần, trong các bài viết, người viết đã nêu rõ quan điểm : "môi sinh và dân chủ phải là một bộ đôi không thể tách rời".
Đồng bằng sông Cửu Long, tháng 12/2017
California 04/2018
Ngô Thế Vinh
Nguồn : VOA, 30/04/2018
Tham khảo :
1/ Luồng Quan Chánh Bố trước nguy cơ sạt lở. Việc nạo vét luồng Quan Chánh Bố được dự báo sẽ tiêu tốn chi phí lớn trong nhiều năm, báo Đại Đoàn Kết, 04/07/2017
2/ Để không phải tiếp tục theo lao, Giáo sư Nguyễn Ngọc Trân, báo Đất Việt, Thứ Hai 10/04/2017
3/ Người dân Trà Vinh sống thấp thỏm cạnh luồng tàu biển, Diệp Phong-Phú Cường, VTV9, 16/11/2017
4/ Giới trí thức và quan chức bàn về luồng tàu Biển vào đồng bằng sông Cửu Long. Kinh Tế Biển Việt Nam, 29/01/2012
5/ Cống đập chặn mặn gây rối loạn hệ sinh thái và những cái giá phải trả. Ngô Thế Vinh. Viet Ecology Foundation. 12/2017
6/ Cửu Long cạn dòng, Biển Đông dậy sóng. Ngô Thế Vinh, Nxb Văn Nghệ 2000. Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch. Ngô Thế Vinh, Nhà xuất bản Văn Nghệ 2006.
Con đường sách lịch sử
Khởi từ ý tưởng của báo Tuổi Trẻ, ngày 15/10/2015, Sở Thông tin và truyền thông Thành phố đã khởi công xây dựng con Đường Sách trên đường Nguyễn Văn Bình [là tên Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình] phường Bến Nghé, Quận I Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là một con đường nhỏ nằm bên hông Bưu điện Thành phố, nối liền Nhà Thờ Đức Bà và đường Hai Bà Trưng nhưng có ưu điểm là nằm ngay trong khu vực trung tâm Thành phố, đây không chỉ là một không gian sinh hoạt văn hóa mà còn là một tụ điểm du lịch, là nơi thường xuyên có nhiều du khách ghé qua.
Công ty Đường Sách Thành phố : từ hướng Nhà Thờ Đức Bà tới đường Hai Bà Trưng, bên trái là 20 gian hàng sách. [photo by Ngô Thế Vinh]
Sau gần 3 tháng thi công ngày 09/01/2016, Đường Sách chính thức được khai trương. Chỉ với con đường nhỏ chiều dài 144 m, lòng đường 8 m, hai bên vỉa hè rộng 6 m, với thiết kế một bên là 20 gian hàng sách, một bên là café sách và khu triển lãm. Hai đầu Đường Sách là hai bức tượng điêu khắc Cô gái bên trang sách và Suy ngẫm - hai tác phẩm được tuyển chọn từ Trại điêu khắc quốc tế Thành phố Hồ Chí Minh.
Ông Lê Hoàng khi còn làm Giám đốc Nhà xuất bản Trẻ đã mơ ước có một không gian chỉ có sách và sách và ông là một trong những người đã đứng ra vận động cho việc hình thành con Đường Sách và sau đó trở thành giám đốc Công ty Đường Sách Thành phố. Đường Sách đã trở thành một không gian khá lý tưởng để các nhà xuất bản, nhà kinh doanh sách có cơ hội học hỏi chia sẻ những kinh nghiệm nghề nghiệp, và cả tiếp cận với giới bạn đọc. Đường Sách trở thành một không gian biểu tượng của văn hóa đọc, nơi gặp gỡ của những người yêu sách, cũng là điểm hẹn lý tưởng cho những người bạn trong và cả ngoài nước.
Từ trên : thiếu diện tích mặt bằng, cả trên lòng đường cũng được tận dụng cho những Kiosk sách di động trên Đường Sách, với các bạn trẻ đứng ngồi tĩnh lặng say mê đọc sách, gợi lại hình ảnh thật đẹp của Sài Gòn trước 1975 với đường sách Lê Lợi, nhà sách Khai Trí thuở nào ; phải : Quán Sách Mùa Thu với thêm dòng chữ "về lại chốn thư hiên", nơi có thể tìm hoặc đặt mua những cuốn sách cũ "tàn dư văn hóa Mỹ Ngụy" nay trở thành quý hiếm. [photo by Ngô Thế Vinh]
Không biết tôi đã đứng trong Quán Sách Mùa Thu bao lâu, trong một không gian rất nhỏ, cô chủ quán sách thì tế nhị và lặng lẽ ; tôi có cảm giác thời gian như dừng lại. Cầm trên tay những cuốn sách cũ, rất cũ xuất bản lần đầu tiên từ những thập niên 50s, 60s, 70s có những cuốn mà tác giả đã từng là bạn văn còn sống hay đã mất và cả ngạc nhiên nữa là sao những cuốn sách ấy lại có thể sống sót sau cuộc "phần thư". Rồi tôi bị kéo về thực tại khi có tiếng nói của một thanh niên, có lẽ là sinh viên hỏi cô chủ quán về một đầu sách : Mùa Hè Đỏ Lửa của Phan Nhật Nam. Được biết, các quán sách tuy không có sách nhưng vẫn có thể nhờ kiếm hay đặt mua. Sách có thể gửi ra hải ngoại và trả bằng thể tín dụng. Sự kiện thế hệ sau chiến tranh, tìm đọc Ký của Phan Nhật Nam trên Đường Sách, chắc là điều mà bạn tôi cũng muốn được nghe.
Gặp lại cả những cuốn sách của bạn tôi, giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, Viện Nghiên cứu Garvan Úc Châu. Từ một thuyền nhân bị đầy ải cách đây hơn 36 năm, anh trở thành một giáo sư, một nhà khoa học và hàng năm anh vẫn trở quê hương giảng dậy tại các đại học từ Nam ra Bắc. [photo by Ngô Thế Vinh]
Từ ngày có con Đường Sách, không chỉ các tác giả trong nước có sách xuất bản đều mong muốn có dịp ra mắt sách tại nơi đây. Cả học giả nước ngoài cũng chọn Đường Sách là nơi giới thiệu sách của mình.
Như tiến sĩ môi sinh Nguyễn Đức Hiệp cũng là nhà nghiên cứu đã từ Úc về Sài Gòn 22/07/2016, cùng một lúc ra mắt 3 cuốn sách nghiên cứu về Sài Gòn - Chợ Lớn.
Như nhà sử học tiến sĩ Nguyễn Duy Chính từ Mỹ về cũng ra mắt ký tặng bộ sách đồ sộ 10 cuốn nghiên cứu về thời Tây Sơn và quan hệ với triều đại nhà Thanh.
Như nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ nổi tiếng từ trước 1975 còn ở lại trong nước, sau ngót nửa thế kỷ sống ẩn dật ở một miền quê, thì nay đã có mặt trên Đường Sách 19.03.2017 để ra mắt một loạt 10 tác phẩm của bà mới được Nxb Phương Nam tái bản.
Đặc biệt hơn nữa, có cả các học giả người nước ngoài như giáo sư Larry Berman cũng chọn Đường Sách để giới thiệu bản dịch cuốn The Perfect Spy (Điệp Viên Hoàn Hảo) mà ông là tác giả.
Nhà sử học tiến sĩ Nguyễn Duy Chính [giữa] từ Mỹ về cũng ra mắt ký tặng bộ sách đồ sộ 10 cuốn nghiên cứu về thời Tây Sơn và quan hệ với triều đại nhà Thanh tại Quán sách Nxb Văn Hóa Văn Nghệ trên Đường Sách 05/11/2016. [nguồn : tư liệu Nguyễn Duy Chính]
Và Hội đồng Anh (British Council) cũng đã chọn Đường Sách để tổ chức hoạt động tưởng niệm 400 năm (1616-2016) ngày văn hào William Shakespeare qua đời.
Thánh Gandhi không nói thế
Kế ngay bên bức tượng Cô Gái Bên Trang Sách, là một tấm bảng hiệu cao hơn đầu người, với một câu trích dẫn mà tác giả được ghi là Mahatma Gandhi [sic]. Tôi rất quan tâm và cả thắc mắc về tên tuổi của Gandhi trên tấm bảng hiệu. Gandhi là một trong những thần tượng thời sinh viên tuổi trẻ của tôi, một con người suốt đời tranh đấu theo con đường bất bạo động, được tôn xưng như một vị thánh ; vậy sao ông lại có thể liên hệ tới một ý tưởng rất bạo động là "đốt sách". Tuy chưa biết tác giả của câu trích dẫn trên là ai, nhưng trực giác cho tôi biết chắc chắn không phải của Gandhi.
Vẫn bị ám ảnh về những vụ đốt sách sau 30/04/1975, không thể đợi tới ngày về Mỹ, tôi thấy cần truy nguyên ra ai là tác giả của câu nói ấy. Vì đang lưu lại trong một khách sạn ở Sài Gòn, không tiện cho một tìm kiếm rộng rãi trên mạng, và qua iPhone, tôi liên lạc ngay qua một email kèm theo hình chụp gửi mấy người bạn trẻ ở hiện ở California. Và tôi có ngay câu trả lời cùng một lúc trong cùng ngày tới từ hai người bạn trẻ Vũ Nguyễn và Ngọc Dung.
Vũ Nguyễn viết :
"Thưa anh Vinh, câu ấy vốn của nhà văn Ray Douglas Bradbury (22 August 1920-5 June 2012), nguyên văn thế này :
"The problem in our country isn't with books being banned, but with people no longer reading. Look at the magazines, the newspapers around us-it's all junk, all trash, tidbits of news. The average TV ad has 120 images a minute. Everything just falls off your mind… You don't have to burn books to destroy a culture. Just get people to stop reading them".
Ray Bradbury nói câu này khi trả lời phỏng vấn bởi Misha Berson, của tờ The Seattle Times (12 March 1993). Sau được các báo như Reader's Digest trích dẫn lại. (The Reader's Digest, Vol. 144, No. 861, January 1994, p. 25).
Một dị bản về sau của câu này là : " We're not teaching kids to read and write and think… There's no reason to burn books if you don't read them" [Roger Moore, in The Peoria Journal Star, August 2000].
Cùng một lúc Ngọc Dung, cô bạn đồng trang lứa với Vũ Nguyễn có ngay một câu trả lời khẳng định : "câu này của Ray Bradbury anh Vinh ạ".
Những người bạn đọc và các lời bàn
Qua sự kiện này, anh Phạm Phú Minh, Chủ bút Diễn Đàn Thế Kỷ, cũng là tác giả cuốn ký "Hà Nội Trong Mắt Tôi", bày tỏ cảm tưởng : "Vậy là Ngọc Dung và Vũ Nguyễn đã giải được nghi vấn ai là tác giả câu nói được gán cho Gandhi tại giữa "Đường Sách" Sài Gòn".
Anh Minh tiếp : "Gọi là "Đường Sách" mà trương lên một câu "nói không có sách, mách không có chứng", đó là một sự lạ của Việt Nam. Từ sáng tới giờ tôi cứ thắc mắc trong lòng, tại sao lại có hiện tượng này. Câu nói của Ray Bradbury thì cũng không phải là một danh ngôn lừng lẫy gì lắm và ra đời cũng chưa lâu, hẳn giới sách vở ở Việt Nam lấy làm thích ý tưởng đó nên đem dịch ra và trương lên. Dĩ nhiên họ biết tác giả câu nói đó là ai, vậy tại sao họ không ghi đúng tên tác giả là Ray Bradbury, mà lại bịa ra tên giả Mahatma Gandhi ? Quả thật tôi nghĩ không ra. Mong các bạn góp ý kiến giải thích hiện tượng này".
Tiếp theo thắc mắc của anh Phạm Phú Minh, nhà sử học tiến sĩ Nguyễn Duy Chính, tác giả của bộ sách đồ sộ 10 cuốn về vua Quang Trung và đời Nhà Thanh, anh cũng đã từng ngồi ký sách trên Đường Sách, anh có một phát biểu mà anh khiêm cung gọi đó là "ý mọn" :
"Theo tôi thì quan trọng không phải ai nói mà là với mục đích gì. Nếu tôi nhớ không lầm, trước đây đạo diễn Trần Văn Thuỷ khi làm cuốn phim "Chuyện Tử Tế" đã dẫn ở đầu cuốn phim một câu đại khái "Chỉ có thú vật mới quên đi nỗi đau của đồng loại mà quay lại lo riêng cho bộ da của mình" rồi gán cho tác giả là Karl Marx. Sau này ông ta có thú nhận Marx không nói câu đó nhưng câu nói đã trở thành một "điểm nhấn" của bộ phim. Thêm một dật sự khác là Tô Đông Pha khi làm văn đã viết một câu gán cho cổ thư khiến giám khảo không dám nhận là không biết mà sau hỏi lại : "Thầy lấy trong sách nào thế ?" Có lẽ người dẫn câu này muốn ám chỉ một cái gì đó nên phải lấy tên Gandhi cho thiên hạ khỏi vặn vẹo vì trong nước rất dễ bị lôi thôi nếu có "ý đồ". Chắc chắn là câu này sẽ được nhiều người nhớ đến hơn khi lấy tên Gandhi là tác giả".
Với ý kiến của anh Chính, cũng vẫn anh Phạm Phú Minh tiếp tục bày tỏ :
"Ý kiến của anh Chính rất thú vị. Nó lại cho ta hiểu thêm câu : Cứu cánh biện minh cho phương tiện. Tên của một tác giả chỉ là một phương tiện, trong một hoàn cảnh nào đó thì người ta có thể thay đổi đi, để đạt được điều mà người ta muốn. Nhưng "hoàn cảnh nào đó" là hoàn cảnh nào ? Bởi vì một xã hội gọi là bình thường và lành mạnh thì không thể lúc nào cũng lấy hoàn cảnh ra mà biện minh cho hành vi sai trái của mình được. Ví dụ Việt Nam bây giờ đã thoáng hơn và người dân hiểu biết hơn rất nhiều so với thời Trần Văn Thủy làm phim Chuyện Tử Tế, làm sao người ta đủ can đảm lấy tên ông Gandhi để thay cho Ray Bradbury ? Nhất là trong một biểu ngữ dựng công khai giữa nơi Đường Sách, khiến ông bạn Ngô Thế Vinh của chúng ta đâm ra nghi ngờ ! Sự dễ dãi, sự "tự cho phép" thiết nghĩ cũng phải có giới hạn thôi chứ ? Làm quá thì hóa ra coi thường sự hiểu biết của xã hội. Thông tin về câu "Chỉ có thú vật".. cũng rất thú vị, bởi vì chính tôi lâu nay cũng tưởng là câu của Karl Marx. Bây giờ thì không chắc điều đó đúng hay sai, nếu sai thì là do dây chuyền, mà người đầu tiên làm cho sai chưa chắc là Trần Văn Thủy. Tôi đồng ý với anh Chính những người trưng câu này của Ray Bradbury chắc là khoái chí với hai chữ ĐỐT SÁCH, nên phải mượn tên Gandhi để che chắn thôi. Để tên tác giả là một người Mỹ thì dễ bị lên án hơn là một ông Ấn Độ !"
Và cuối cùng là phát biểu của Vũ Nguyễn, người bạn trẻ tìm ra ngay câu trả lời ai là tác giả câu trích dẫn :
"Vũ trước nay vẫn đinh ninh câu "Chỉ có súc vật mới quay lưng lại với nỗi đau đồng loại mà chăm chút bộ lông của mình" là của Karl Marx trong Tư Bản Luận mà không buồn truy nguyên. Nay anh Chính nói mới biết là không phải. Giờ thì ngờ rằng câu đó do chính Trần Văn Thuỷ bịa ra, như Tô Đông Pha bịa câu "cổ văn" mà qua mặt giám quan tam lão. Trước khi có phim "Chuyện Tử Tế" có lẽ ở Việt Nam chẳng ai biết câu này. Lần đầu tiên đọc câu quotation này ở đoạn mở đầu phim, đa số khán giả của bộ phim đều cho rằng tác giả hẳn là một tay triết gia uỷ mị nào đó của bọn tư bản giãy chết. Cho đến phút cuối cuốn phim, khi đạo diễn đọc câu thuyết minh "May quá. Câu ấy là của Karl Marx" cả rạp mới ồ lên ... "À ra vậy. Bác Các/ Karl, bác Lê/ Lenin bao giờ cũng chí phải !" Điều đó cho thấy câu "danh ngôn" này chưa tồn tại ở Việt Nam trước khi có phim "Chuyện Tử Tế" của Trần Văn Thuỷ ra đời.
Của Caesar trả về Caesar
Trở lại với câu trích dẫn trên :
"Không Cần Phải Đốt Sách để phá huỷ một nền văn hoá, Chỉ Cần Buộc Người Ta Ngừng Đọc mà thôi".
"You don't have to burn books to destroy a culture. Just get people to stop reading them".
Tấm bảng hiệu uy nghi cao hơn đầu người với hàng chữ : "Không Cần Phải Đốt Sách để phá huỷ một nền văn hoá, Chỉ Cần Buộc Người Ta Ngừng Đọc mà thôi" [sic] Tác giả câu nói ấy được ghi là của Mahatma Gandhi. [photo by Hoàng Long]
Ray Bradbury phát biểu câu trên cách đây mới có 24 năm khi trả lời phỏng vấn của Misha Berson, của tờThe Seattle Times (12 March 1993) ; trong khi Mahatma Gandhi thì đã chết cách đây 69 năm rồi [30 tháng 01 năm 1948]. Vậy hãy trả cho Ray Bradbury câu nói của Ray Bradbury và cũng đừng cưỡng gán cho thánh Gandhi đã trở về tro bụi trước đó từ lâu [ông đã được hoả thiêu theo nghi thức Hindu] nay bị cho là tác giả của một câu nói mà ông không hề hay biết.
Sau chuyến đi khảo sát môi sinh đồng bằng sông Cửu Long, trở lại Sài Gòn, tôi không có một lịch sinh hoạt gặp gỡ nào trước khi trở về Mỹ. Với tôi, Đường Sách là một khoảng xanh tĩnh lặng, một gạch nối giữa quá khứ và hiện tại mà đã hơn một lần muốn trở lại và cả rất yêu mến. Nhưng cũng mong sao, mọi người cố giữ cho nơi đây vẫn là một khoảng không gian xanh tinh khiết, không có những cơn gió độc mang tới những hạt giống xấu, để mãi mãi nơi đây là thửa vườn gieo trồng những hạt giống tốt của tâm hồn.
Sài Gòn, 12/2017
California 02/2018
Ngô Thế Vinh
Water, water, every where,
Nor any drop to drink.
Samuel Taylor Coleridge [1772-1834]
Thế kỷ 21 của tỵ nạn môi sinh, đã có 2 triệu người phải rời bỏ quê hương đồng bằng sông Cửu Long ra đi tìm kế sinh nhai
Hình ảnh một dòng sông đang chết dần ; cũng để hiểu tại sao đã có 2 triệu người phải rời bỏ quê hương đồng bằng sông Cửu Long đi tìm kế sinh nhai ; từ phải : tiến sĩ Lê Anh Tuấn, Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện. [photo by Ngô Thế Vinh]
Xứ sở cây thốt nốt và người Khmer hiền hòa
Tới An Giang, tới hai quận Tịnh Biên và Tri Tôn không thể không thấy hàng cây thốt nốt nổi bật trên những cánh đồng lúa xanh. Cây thốt nốt thuộc họ cau, tên khoa học Borassus flabellifer, có nhiều ở các nước Đông Nam Á. Cây thốt nốt sống cả trăm năm dài hơn tuổi thọ một đời người. Thân cây thẳng và cao tới 30 mét. Cây đực không trái, cây cái cho tới 60 trái mỗi cây. Trái thốt nốt có vỏ xanh đen, nhỏ hơn trái dừa bên trong có những múi trắng mềm, ngọt và mát. Hoa cây thốt nốt cho nước ngọt có vị thơm, có thể nấu thành đường, ngon hơn đường mía. Nếu Quảng Ngãi, quê Hương Nghiêu Đề bạn tôi, từng nổi tiếng về đường phổi, đường phèn thì An Giang, vùng Tịnh Biên Tri Tôn nổi tiếng với đường thốt nốt. Chè đậu xanh nấu với đường thốt nốt ngọt dịu và rất thơm ngon. Hình như tất cả mọi thành phần cây thốt nốt đều có công dụng : thân làm cột nhà, lá dùng lợp mái. Trong nền văn hóa cổ Khmer, các Chùa chiền còn lưu giữ được những văn bản viết trên lá cây thốt nốt. Cây thốt nốt cũng được xem như biểu tượng của xứ Chùa Tháp. [Hình 2]
Hàng cây thốt nốt đứng soi bóng bên hồ nơi khu đền đài Angkor ; cây thốt nốt được xem như biểu tượng của xứ Chùa Tháp. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Khắp xứ Chùa Tháp xuống tới Đồng Bằng Sông Cửu Long, đi đâu cũng chỉ gặp những người dân Khmer hiền hòa, và rồi không thể nào hiểu được những gì đã xảy ra giữa họ và những người Việt trong quá khứ. Chỉ có thể giải thích họ là một đám đông nạn nhân của những khích động thù hận mà động cơ là những mưu đồ chánh trị đen tối.
Trong y khoa, khi khảo sát não trạng vô thức của đám đông, qua nghiên cứu hành vi/ behavior của loài cá, khoa học gia Đức đã làm một thử nghiệm : thả một con cá bị hủy não bộ vào một hồ cá, không có gì ngạc nhiên là con cá ấy mất định hướng bơi tán loạn, nhưng điều kỳ lạ là đàn cá lành mạnh thì lại ngoan ngoãn bơi theo con cá mất não ấy. Phải chăng "thử nghiệm hành vi"của nhà khoa học Đức, đã phần nào giải thích hiện tượng cả một dân tộc Đức văn minh đã có một thời kỳ nhất loạt tuân theo một lãnh tụ như Hitler xô đẩy cả thế giới vào lò lửa của cuộc Thế chiến thứ Hai.
Từ ruộng hành xã Vĩnh Hải huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng những thố hành tím được chất thành ngọn lên xe tải để phân phối tới các chợ [photo by Ngô Thế Vinh]
Có một nền văn hóa nước lợ
Trên đường dọc theo sông Hậu, xe dừng lại Hộ Phòng là một phường của thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Xuống xe đi bộ lên chiếc cầu xi măng có tên Hộ Phòng 2, bắc qua con kênh lớn Gành Hào [được xây từ năm 2011 do quỹ ODA/ Official Development Assistance của Nhật].
Bấy lâu, các chuyên gia Bộ Nông nghiệp từ ngoài Bắc vào vẫn có cái nhìn rất giản đơn về hệ sinh thái sông nước Cửu Long : họ chỉ thấy có triều cường và triều kiệt. Rồi đề xuất kế hoạch làm những cống đập chặn triều cường để ngăn mặn giữ ngọt. Từ suy nghĩ giản đơn ấy, họ đã và đang gây ra bao nhiêu hệ lụy cho hệ sinh thái đồng bằng sông Cửu Long như hiện nay.
Đoàn đứng trên cầu phía hướng ra Biển Đông, nơi có cống đập ngăn mặn. Ngoài mặn trong ngọt. Anh Dương Văn Ni sinh ra và lớn lên từ vùng sông nước Miền Tây, khi nói về nhịp đập của hệ sinh thái đồng bằng sông Cửu Long, anh Ni thông thuộc như với đường chỉ tay của chính mình ; với một giọng thuần Nam Bộ trầm tĩnh bắt đầu một bài giảng :
"đồng bằng sông Cửu Long chỉ nói riêng phía Biển Đông, không đơn giản chỉ có triều cường và triều kiệt. Hỏi người nông dân thì họ biết rất rõ. Thủy triều từ Biển Đông là bán nhật triều, sáng và chiều hai lần trong ngày ; hai lần nước lớn tiếp theo hai lần nước ròng, mực nước lên xuống bốn lần trong một ngày. Trong tháng, người nông dân biết chừng nào thì "nước rong" vào ngày rằm, khi nào "nước kém" vào cuối tháng âm lịch. Trong năm, thì họ có mùa "nước nổi" và mùa "nước hạn".
Từ mấy trăm năm, trải qua bao thế hệ, người nông dân Miền Tây đã quen chung sống với nhịp đập thiên nhiên ấy của những dòng sông : trong ngày, trong tháng, trong năm và đã hình thành một nền "văn minh sông nước". Họ đã quen chung sống với cả ba tình huống : nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Lãnh đạo bộ Nông nghiệp đa số mang theo họ một nền văn hóa từ Châu thổ sông Hồng, biết rất ít về hệ sinh thái đồng bằng sông Cửu Long vốn rất đặc thù. Với đầu óc duy lý giản đơn, với những con số thống kê, nhưng họ có biết đâu rằng chuỗi những con số đó chính là những tín hiệu đã nằm ngay trong nền "văn hóa sông nước" mà người nông dân từ đời này sang đời nọ vẫn đọc được. Người nông dân bấy lâu đã biết nương theo sức mạnh của thiên nhiên để chung sống. Văn hóa sông nước thực ra gồm bốn phần tương tác Sông-Biển-Châu thổ-Con người cùng hòa nhập nhau theo từng nhịp đập.
Một ví dụ, chỉ riêng chuyện di chuyển ghe thuyền trên sông, người nông dân biết tính trước khi nào thì cho ghe xuôi theo con "nước ròng", khi nào thì ghe ngược theo con "nước lớn", và cũng để thấy cấu trúc của lòng ghe bấy lâu là làm sao dùng sức đẩy tối ưu của dòng chảy.
Và rồi trong tháng họ biết lúc nào thì cho nước vào ruộng, khi nào thì xả, khi nào thì thả con giống cá tôm... mà không cần tốn nhiều công sức, để phải dùng gầu tát nước hay phải dùng tới máy bơm.
Chính nhịp đập của "mẹ thiên nhiên (natural pulse)" là bạn đồng hành thân thiết bấy lâu của họ. Và nay thì bị phá vỡ và cắt đứt một cách thô bạo.
Cũng từ bao trăm năm, nông dân đồng bằng sông Cửu Long biết rất rõ là sông rạch nối liền với biển, có thủy triều lên nên mới có được con nước lớn, và thủy triều xuống mới có con nước ròng, và cũng nhờ đó mà sông rạch được làm sạch, có cá tôm và đã hình thành cả một nền văn hóa sông nước.
Chúng tôi cùng hiểu rằng : với cống đập kia, con sông bị cắt làm hai : chỉ còn một bên ngọt, một bên mặn, mất hẳn một vùng nước lợ (blackish). Bên trong không còn nước lớn, nước ròng mà sông biến thành hồ tù đọng, tích lũy đủ mọi loại ô nhiễm, và không còn cá tôm. Bên ngoài, hệ sinh thái ven biển cũng bị nghèo đi và nông ngư dân cho biết, từ ngày có cống đập không còn đâu nguồn tôm cá phong phú của cả một vùng nước lợ. Đó là chưa nói tới tình trạng gián đoạn giao thông trên sông.
Rồi anh Ni đưa ra một ví dụ rất tượng hình : "Cũng giống như khai quật được một kho tàng cổ sử, người không chuyên môn thì chỉ thấy được đó là những mảnh đá mảnh sành, cùng lắm là thấy thêm được mấy nét vẽ ngoằn ngoèo vô nghĩa trên đó, nhưng với con mắt của nhà khảo cổ thì khác, đó là dấu vết và tín hiệu của cả một nền văn minh".
Và tôi cũng hiểu rằng, bấy lâu với các chuyên gia nông nghiệp từ ngoài Bắc vào, chưa từng chung sống và chết với nền văn minh sông nước ấy, họ đã có những chánh sách can thiệp thô bạo chống lại mẹ thiên nhiên để phải trả giá rất đắt và nạn nhân không ai khác hơn là chính ngót 20 triệu cư dân phải ngày đêm sống với những bất cập ấy như hiện nay.
Cầu Hộ Phòng II là cây cầu mới trên khúc đường vòng/ detour, (do quỹ ODA / Official Development Assistance của Nhật xây 2011 [photo by Ngô Thế Vinh]
Công trình cống đập Ba Lai : một hối tiếc
Hai mươi năm qua (1997-2017), lãnh đạo Bộ Nông nghiệp, qua nhiệm kỳ của 3 bộ trưởng :
1. Lê Huy Ngọ, nhiệm kỳ 7 năm, 1997-2004
2. Cao Đức Phát, nhiệm kỳ 12 năm, 2004-2016
3. Nguyễn Xuân Cường, nhiệm kỳ 2016 đương nhiệm
Họ đến từ miền Bắc đã và đang có những quyết định phải nói là sinh tử với hệ sinh thái đồng bằng sông Cửu Long, một vùng thổ nhưỡng phải nói là rất xa lạ với họ.
Chỉ thấy đơn giản nơi đồng bằng sông Cửu Long có triều cường triều kiệt, coi nước mặn là kẻ thù nên đã có một chiến lược ồ ạt xây những đại công trình mà người ta gọi là Cống Đập Ngăn Mặn, mà Cống đập Ba Lai là một điển hình.
Được khởi công ngày 27/02/2000, dự án công trình cống đập Ba Lai chắn ngang cửa sông Ba Lai từ xã Thạnh Trị kéo sang xã Tân Xuân (Ba Tri). Kinh phí ban đầu lên tới hơn 66 tỷ đồng Việt Nam. Con đập dài 544 m gồm 10 cửa với khẩu độ 84 m được vận hành bằng một hệ thống van tự động hai chiều. Quy hoạch trên lý thuyết, thì cống đập Ba Lai có chức năng : ngăn mặn, giữ ngọt phục vụ cho 115.000 hecta đất trong đó có 88.500 hecta là đất canh tác, cấp nước ngọt sinh hoạt cho hơn 600 ngàn dân cư Thành phố Bến Tre và các huyện Ba Tri, Giồng Trôm, Bình Đại, Châu Thành ; cùng kết hợp với phát triển giao thông thủy bộ và cải tạo môi trường sinh thái vùng dự án [sic].
Hai năm sau, từ ngày 30.04.2002 cống đập Ba Lai được đưa vào hoạt động, được vinh danh là một công trình thủy lợi lớn nhất của đồng bằng sông Cửu Long. Và từ đây, cửa sông Ba Lai, một trong 9 cửa của Cửu Long chính thức bị ngăn lại.
Từ ngày có cống đập Ba Lai, cửa sông Ba Lai nhánh thứ 8 bị chính con người đóng lại. Cửa Ba Thắc đã bị bồi lấp từ cả trăm năm nay, và hiện giờ Cửu Long Giang nay chỉ còn 7 nhánh : Thất Long. [photo by Lê Quỳnh, báo Người Đô Thị]
Tính cho tới nay, cống đập Ba Lai đã vận hành được 16 năm [2002-2018], hiệu quả công trình Cống đập Ba Lai ấy ra sao ? Chỉ có những lời ta thán.
Hàng trăm cống ngăn mặn không đạt mục đích vì còn chằng chịt những cửa sông kinh rạch không có cống ngăn mặn đã tập hậu nước mặn vào bên sau hệ thống cống đập đã xây.
Giải thích của nhà nước về "hiệu quả ngược" của công trình cống đập Ba Lai như hiện nay là : do thiếu vốn để làm tiếp nhiều công trình khác tiếp theo, trong đó có hai hạng mục quan trọng, đó là phải xây thêm cống đập và cả âu thuyền* trên hai con sông Giao Hòa và Chẹt Sậy vẫn tiếp tục đem nước mặn từ sông Cửa Đại đổ vào "hồ nước ngọt Ba Lai".
* Âu thuyền (canal lock) : là một từ tương đối mới, chỉ một công trình chắn ngang sông hoặc kênh, có cửa hai đầu để tăng hoặc giảm mực nước, giúp cho thuyền hay tàu đi qua nơi có mực nước chênh lệch nhiều.
Theo phóng viên TTXVN Phan Văn Trí, trích dẫn : "Ông Cao Văn Trọng, Chủ tịch UBND tỉnh cho biết để thi công hai hạng mục đập và âu thuyền và một số hạng mục khác cần nguồn vốn khoảng 200 triệu USD. Vì vậy, tỉnh đã kiến nghị Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tranh thủ nguồn vốn ODA của Chính phủ Nhật Bản. Ông Trọng cũng cho biết tổ chức JICA (Nhật Bản) đã đến Bến Tre khảo sát địa điểm xây dựng đập và âu thuyền. Tuy nhiên, việc khởi công có thể còn phải chờ đến… năm 2020. Dù gì thì hình ảnh những chiếc xe máy cày hay xe bò kéo chở nước đem đổi cho người dân, với giá từ 70,000 đồng đến 100.000 đồng/m3, chắc chắn vẫn còn diễn ra trong những mùa khô cho tới 2020. Điều đáng nói là nước đó được lấy từ những chiếc giếng đào trên giồng cát, chưa qua xử lý…" [2].
Cửu Long Chín Cửa Hai Dòng nay chỉ còn có 7 cửa. Nam Thất Nữ Cửu,như hình ảnh một đồng bằng sông Cửu Long bị triệt sản. Bởi thế dân gian tỉnh Bến Tre mới có câu :
Ba Lai là cái cửa mình
Trung ương đem lấp dân tình ngẩn ngơ
Một câu hỏi được đặt ra : với những tác hại do cống đập Ba Lai gây ra, ai - Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, hay Bộ Tài nguyên và môi trường hay Chánh phủ trung ương sẽ nhận trách nhiệm với phong cách "đem con bỏ chợ" như hiện nay, phải chờ cho tới 2020 cho đến khi ODA của Nhật chịu rót vốn vào ?
Từ bài học thất bại của đại công trình cống đập Ba Lai, nhiều nhà khoa học và giới hoạt động môi sinh như một "think tank" đã không ngừng lên tiếng cảnh giác rằng : nếu không có một đánh giá môi sinh chiến lược cho toàn đồng bằng sông Cửu Long mà chỉ đơn giản nhắm giải quyết tình hình hạn mặn, rồi lập ngay quy hoạch xây dựng xây một loạt hệ thống cống đập chỉ để ngăn mặn nơi các cửa sông lớn là phá vỡ cả một hệ sinh thái và hậu quả sẽ khôn lường.
Khảo sát của nhóm Liên Hiệp Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên (IUCN-International Union for Conservation of Nature) tại Việt Nam đưa ra nhận định là do hệ thống cống đập khiến hai bên bờ sông Ba Lai đang khép lại dần.
Tiến sĩ Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu, Đại học Cần Thơ đã dùng một cụm từ rất gợi hình để chỉ hệ thống cống đập Ba Lai khi ông gọi đó là "dòng sông bị cưỡng bức". Sông nay biến thành hồ chứa, ô nhiễm thì tích lũy nước đổi màu do rong tảo sinh sôi phía trong cống đập.
Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia về nước ngập (Wetlands) cho rằng hàng năm vào mùa mưa do lượng nước mùa lũ đổ về, toàn thể phù sa trong lượng nước đó sẽ lắng xuống đáy sông Ba Lai - nay trở thành hồ và với thời gian sông Ba Lai sẽ chết hẳn do bị bồi lấp [1].
Khi đưa ra cái nhìn toàn cảnh hiện trạng và tương lai đồng bằng sông Cửu Long, các anh trong đoàn đưa ra một cái nhìn tổng quan không mấy lạc quan :
Đất bị mất do sạt lở bờ sông bờ biển, trong những năm gần đây, đất bị lún với tốc độ 10 lần nhanh hơn so với nước biển dâng, và đất đai còn lại thì bị vắt kiệt. Sông ngòi ô nhiễm đủ thứ, từ nước thải sinh hoạt, công nghiệp, thủy sản đổ thẳng vào sông, cũng như lượng lớn phân bón, thuốc trừ sâu từ nông nghiệp do 3 vụ thâm canh.
Theo một nghiên cứu về lịch sử đất lún do nhà khoa học Minderhoud và một nhóm chuyên gia Hà Lan, Hoa Kỳ và Việt Nam thực hiện công bố năm 2017 trên Environmental Research Letters, độ lún và vận tốc lún tại Châu thổ đồng bằng sông Cửu Long đã xuống sâu 25 cm và thậm chí đến 50 cm theo biểu đồ kỹ sư Phạm Phan Long trích dẫn chú thích và cung cấp sau đây [Hình 10].
Trong những thập niên tới, biển dâng được dự đoán với vận tốc 5 cm/năm, như vậy mặt đất thấp sẽ thấp dần dưới mặt biển có thể đến 1 m trong vòng 100 năm nữa. Trước tác động kép do sinh hoạt con người và do biến đổi khí hậu, đồng bằng sông Cửu Long sẽ rơi vào tình huống xấu nhất toàn cầu. Một đối sách có tên "ASR, aquifer storage and reuse" đang được Viet Ecology Foundation đề bạt thảo luận là lọc và trữ nước ở những túi rỗng ngầm, vừa ngăn mặn tập kích vào thềm lục địa, vừa có nước ngọt sinh hoạt canh tác và tránh cho mặt đất tiếp tục lún xuống.
Biểu đồ độ lún và vận tốc đất lún trong 25 năm tại Đồng Bằng Sông Cửu Long. [nguồn : Environ.Res.Lett. 12 (2017) với ghi chú của kỹ sư Phạm Phan Long, Viet Ecology Foundation]. Hiện nay, rất nhiều giếng tầng nông và bơm bằng tay đều bị nhiễm mặn nhiễm phèn, nước giếng không còn dùng được, và nay người nông dân phải khoan sâu 400-500m để tìm được nguồn nước ngọt, mặt bằng đồng bằng sông Cửu Long đang bị sụt lún nhanh chóng vì các tầng nước ngầm đang bị tận cùng khai thác.
Đã thế nhiều sông ngòi, bị kế hoạch cống đập đã biến sông rạch thành hồ tù đọng, tích lũy ô nhiễm. Nước sông ngòi không còn dùng được phải chuyển sang xài toàn nước ngầm nên tầng nước ngầm cũng cạn kiệt nhanh và đất lún.
Còn có hiện tượng "tỵ nạn môi sinh (ecological refugees)" của người dân đồng bằng sông Cửu Long rời bỏ quê hương đi tới vùng đất khác, tha phương cầu thực. Con số gần 2 triệu người đã đi khỏi vùng đất này trong hai thập niên qua thì phải có những lý do như môi trường sống bị suy thoái, nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt.
Thủy điện thượng nguồn từ Vân Nam Trung Quốc rồi Lào làm mất ngót 90% nguồn phù sa, không có gì thay thế ; biến đổi khí hậu với nước biển dâng có thể phần nào thích ứng nhưng còn vấn đề phát triển tự hủy (destructive development) do tự mình gây ra đang là một nan đề lớn do chính sách "duy lý và thiếu tầm nhìn chiến lược" đến từ trung ương đã gây nhiều tổn thương cho đồng bằng sông Cửu Long, gây trở ngại cho phát triển.
Từ cống đập Ba Lai tới sông Cái Lớn - sông Cái Bé
Bài học thất bại của công trình thủy lợi Ba Lai vẫn còn đó, vậy mà, nguyên bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Cao Đức Phát, một người sinh quán Nam Định từ Châu thổ Sông Hồng, vẫn bất chấp mọi lời cảnh báo của giới chuyên gia, vẫn kiêu căng tuyên bố sẽ tập trung đầu tư xây dựng các công trình cống đập lớn đến năm 2020, từ hoàn thiện hệ thống cống đập Ba Lai, và xây dựng thêm các hệ thống cống đập sông Cái Lớn - sông Cái Bé tỉnh Kiên Giang, được quảng bá như một công trình của Thế kỷ, với ngân khoản lên tới 3,300 tỷ đồng (150 triệu USD) với hậu quả hay thảm họa trên toàn hệ sinh thái đồng bằng sông Cửu Long không biết sẽ trầm trọng tới đâu.
Rõ ràng có những khoảng chống của Dự án Cống đập sông Cái Lớn - sông Cái Bé và các câu hỏỉ :
1. Chỉ nghe nói, bản nghiên cứu đánh giá tác động môi trường (EIA- Environmental Impact Assessment) về Dự án Cống đập sông Cái Lớn - sông Cái Bé là do Viện Kỹ Thuật Biển thuộc Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam thực hiện, nhưng không thấy công bố ở đâu hết, với sự không minh bạch (transparency) như vậy thì làm sao có được sự góp ý của giới chuyên gia.
2. Dự án sông Cái Lớn - sông Cái Bé bao giờ khởi công và tình hình tới đâu chỉ diễn ra sau những cánh cửa Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn ngoài ra không có ai được biết tới để có thể theo dõi.
3. Và cũng là điều vô cùng ngạc nhiên là với gần 2 triệu người di cư ra khỏi đồng bằng sông Cửu Long trong hai chục năm qua, nhưng vẫn chưa hề có cuộc điều tra cơ bản nghiên cứu về những nguyên nhân ra đi của họ.
Sơ đồ dự án hệ thống cống đập chắn mặn trên sông Cái Lớn-sông Cái Bé, sẽ tác động trên 1/4 diện tích toàn đồng bằng sông Cửu Long và ảnh hưởng tới đời sống hơn một triệu cư dân trong vùng. (6) [nguồn : Ánh Sáng và Cuộc Sống]
Rõ ràng Dự án cống đập Sông sông Cái Lớn - sông Cái Bé đã thiếu hẳn một đánh giá chiến lược tác động môi trường toàn diện và khách quan, bị ảnh hưởng bởi quan điểm của chủ đầu tư / nhóm lợi ích chỉ để nhằm biện minh cho sự cấp thiết của dự án, trong khi mà ai cũng biết là dự án sẽ tác động tới toàn hệ sinh thái của cả một vùng rộng lớn chiếm 1/4 tổng diện tích của đồng bằng sông Cửu Long [hơn 1 triệu hecta], ảnh hưởng trực tiếp trên đời sống sản xuất sinh kế của hàng triệu cư dân trong vùng quy hoạch, trong khi còn bao nhiêu vấn đề kỹ thuật chưa có giải pháp rốt ráo. Và khi đã gây hủy hoại trên hệ sinh thái thường rất khó đảo nghịch.
Tiến sĩ Lê Anh Tuấn, Phó Việt trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu Đại học Cần Thơ [Viện DRAGON] nhận định : cắt đứt trao đổi nước giữa sông và biển chắc chắn sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới canh tác sản xuất của nông dân quen sống theo nhịp thủy triều, giảm nguồn thủy sản bên trên và bên ngoài cống đập, và do nước tù đọng sẽ tích luỹ mọi ô nhiễm.
Một chuyên gia Khoa Môi trường và Tài nguyên Thiên nhiên Đại học Cần Thơ, nhận định về sự khác biệt của hai chế độ thủy triều phía Biển Đông và Biển Tây. Phía Biển Đông là bán nhật triều : nước lên xuống ngày 4 lần, trong khi Biển Tây là chế độ nhật triều, nước lên xuống ngày hai lần. Riêng vùng Tây Nam sông Hậu chế độ thủy văn phúc tạp hơn nhiều, chịu ảnh hưởng của cả hai chế độ nhật triều và bán nhật triều khác nhau. Trong khi các cống đập hiện nay chỉ vận hành theo một mô hình thô thiển : đóng cổng đập khi triều cường, mở cổng đập khi triều kiệt. Hệ thống cống đập trên sông Cái Lớn - sông Cái Bé sẽ gây rối loạn cho chế độ thủy văn vùng này, làm "mất lực hút-đẩy" của chế độ thủy văn thiên nhiên [sic] nước sẽ tù đọng tích luỹ ô nhiễm từ các chất thải nông ngư nghiệp, kỹ nghệ và cả nước thải không được xử lý đổ xuống từ các khu gia cư.
Nhân dân tỉnh Long An đã một lần nói không
Tiến sĩ Lê Phát Quới, người Long An, giảng dạy tại Khoa Tài nguyên và môi trường Trường Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, anh có giọng nói lớn, có nét trực tính của người dân Nam Bộ, anh nói : "Sau công trình cống đập Ba Lai, trung ương có kế hoạch xây thêm hệ thống cống đập trên cửa con sông Vàm Cỏ là kết nối của hai con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây thuộc tỉnh Long An. Anh Lê Phát Quới thuật lại : "Trong một cuộc họp với Trung ương và cấp lãnh đạo tỉnh cùng với các nhà khoa học - trong đó có thằng Quới, anh tự gọi mình là thằng, cuộc họp có cả ông Sáu Dân tức Thủ tướng Võ Văn Kiệt lúc đó. Khi tỉnh Long An được hỏi ý kiến, thì lãnh đạo tỉnh đã có câu trả lời : sau khi phái đoàn tỉnh đi thăm cống đập Ba Lai trở về, sau khi tham khảo ý kiến nhân dân, thì toàn thể nhân dân Long An có câu trả lời là không. Lưu ý các anh, là câu trả lời không phải từ tỉnh ủy hay ủy ban nhân dân mà là toàn dân tỉnh Long An nói không. Nếu nói là tỉnh ủy hay ủy ban nhân dân, thì trung ương có thể dùng quyền lực đảng hay quyền lực trung ương để áp đặt, nhưng là tiếng nói của toàn thể nhân dân Long An thì khác. Và rồi sau đó, kế hoạch bị gác lại".
Anh Lê Phát Quới đi tới kết luận : "nếu cứ để thực hiện hệ thống cống đập trên con sông Vàm Cỏ thì không biết tai họa cho toàn hệ sinh thái tỉnh Long An sẽ khủng khiếp như thế nào". Và anh Quới không dấu được nét hãnh diện về tiếng nói ngăn chặn kịp thời của nhân dân tỉnh hạt mình.
Ủy hội Mekong Vietnam vẫn mãi một địa chỉ nghich lý
Từ sau 1975, đất nước này nói chung trong đó có đồng bằng sông Cửu Long đang được điều hành với những "đầu óc nghịch lý".
Đứng từ trên một chiếc phà đi ngang nhánh sông Trần Đề để qua Cù lao Dung, trong ráng chiều chập choạng của hoàng hôn, tôi qua sang hỏi một anh trong đoàn : "Hỏi thật lòng anh, là hiện nay người dân đồng bằng sông Cửu Long có cảm thấy hạnh phúc hơn không so với trước 1975". Chỉ có một câu trả lời khẳng định, nếu có thì là các gia đình không còn bị ly tán và đất nước không còn chiến tranh.
Tôi đã không hỏi anh thêm nữa vì thực sự không có được câu trả lời đơn giản. Riêng tôi thì vẫn cứ bị ám ảnh với con số đã có 2 triệu người phải từ bỏ quê hương đồng bằng sông Cửu Long đi tìm kế sinh nhai. Cách biện minh là với 2 triệu người bỏ đi nhưng cũng có 700 ngàn người mới tới, không phải là một câu trả lời rốt ráo.
Từ hơn hai thập niên, người viết đã không ngừng lên tiếng về mối nguy cơ của những con đập khổng lồ Vân Nam của Trung Quốc rồi tới chuỗi 9 đập thủy điện dòng chính của Lào, rồi tới 2 dự án đập của Cambodia : ngoài những hậu quả rối loạn về dòng chảy, mất nước nơi các hồ chứa và nhất là mất nguồn cát nguồn phù sa, dẫn tới nguy cơ của một tiến trình đảo ngược khiến một đồng bằng sông Cửu Long đang dần dần tan rã.
Những mối nguy cơ từ thượng nguồn, gần như không làm gì được. Nhưng quá trình phát triển tự hủy (destructive development) ngay nơi đồng bằng sông Cửu Long trong mấy thập niên qua cũng phải kể là những hệ luỵ tích luỹ tác hại nghiêm trọng trên sự sống còn của cả một vùng Châu thổ. Có thể kể, từ sau 1975 :
* Xây đê đắp đập chắn lũ mở rộng khu gia cư để làm lúa ba vụ làm mất 2 túi nước thiên nhiên Tứ Giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười.
* Xây hệ thống cống đập chắn mặn phá vỡ nhịp đập thiên nhiên của hệ sinh thái đồng bằng sông Cửu Long biến sông rạch thành một hệ thống hồ ao tù đọng.
* Xây dựng 14 nhà máy nhiệt điện than nơi đồng bằng sông Cửu Long gây ô nhiễm đất, nước, không khí trên toàn vùng.
Phát triển với những bước không bền vững (unsustainable development) như trên đã làm tổn thương trên toàn hệ sinh thái đồng bằng sông Cửu Long và các nguồn tài nguyên thì cứ nghèo dần đi.
Để thay kết luận, người viết gửi tới ông Bộ trưởng NN & PTNT Nguyễn Xuân Cường, người thay thế Bộ trưởng Cao Đức Phát sau 12 năm tại nhiệm, câu trích dẫn và cũng là bài học đầu tiên của một sinh viên vào học Y khoa : Primum non nocere (First do no harm) trước hết là không gây hại. Mọi kế hoạch vội vã, thiếu thời gian cho một lượng giá chiến lược ảnh hưởng tác động môi trường khách quan, với tổn phí hàng ngàn tỉ đồng mà còn gây hại cho toàn hệ sinh thái vốn đã quá mong manh/ fragile của một vùng Châu thổ mà trước đây đã từng được đánh giá là phong phú và giàu có nhất trên hành tinh này.
Qua kinh nghiệm 16 năm vận hành của hệ thống cống đập Ba Lai, để thấy rằng dù tốn hàng bao nhiêu tỷ đồng, cứ với quyết tâm làm đê ngăn mặn nhưng nước sông rạch bên trong vẫn không thể dùng được cho sinh hoạt, những công trình như thế còn khiến nước bên trong bị ô nhiễm nghiêm trọng vì dòng chảy không lưu thông, tù đọng. Xây dựng cống đập Ba Lai đã rất tốn kém, nhưng khi phát hiện sai lầm - nếu có thiện chí sửa sai, thì việc phá bỏ, làm sạch môi trường và chuyển đổi sinh hoạt của cư dân cũng sẽ rất tốn kém và không thể mau chóng và không phải là dễ dàng.
Tiếp tục biện pháp xây dựng công trình cống đập ngăn mặn rất tốn kém sẽ cắt đứt thô bạo mối liên hệ cân bằng hệ sinh thái sông - biển - đồng bằng, qua công trình cống đập Ba lai đã chứng minh là không tạo được lợi ích và giải quyết được chuyện gì cho cư dân đồng bằng sông Cửu Long mà còn đảo lộn điều kiện thiên nhiên, phá vỡ hệ sinh thái của cả một vùng Châu thổ.
Như một nhắc nhở và nhấn mạnh, người viết ghi nhận lại nơi đây một đề nghị cụ thể với Thủ tướng chánh phủ kiến tạo Nguyễn Xuân Phúc : hãy cho hoãn ngay Dự án xây hệ thống cống đập sông Cái Lớn - sông Cái Bé một thời gian (time frame) ít nhất là 5 năm, trích 5% ngân sách 3.300 tỷ dự trù cho dự án để thành lập ngay một nhóm nghiên cứu tác động môi trường độc lập [có thể bao gồm cả các chuyên gia Hòa Lan, họ đã có kinh nghiệm và có công lớn thực hiện một số chương trình khảo sát cơ bản cho đồng bằng sông Cửu Long], và bảo đảm rằng Đánh giá Tác động Môi trường được thực hiện một cách công tâm, thận trọng bởi những người không có liên hệ gì tới chủ đầu tư hay nhóm lợi ích, để sau thời gian 5 năm đó, nhà nước sẽcó được một bản tường trình lượng giá ảnh hưởng môi trường đầy đủ khách quan và minh bạch, với tất cả mọi tình huống (pros & cons) để từ đó mới có quyết định "nên hay không nên"triển khai dự án được mệnh danh là công trình của Thế Kỷ ấy. Cũng trong bản tường trình ấy, cũng không thể thiếu phần điều tra cơ bản về nguyên nhân nào đã khiến 2 triệu cư dân đồng bằng sông Cửu Long phải rời bỏ quê hương ra đi tìm kế sinh nhai. Được như thế thì sẽ phù hợp với tinh thần Nghị quyết 120 về đồng bằng sông Cửu Long [17/11/2017] trong đó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nhấn mạnh nguyên tắc : "thuận thiên, tôn trọng quy luật tự nhiên, tránh can thiệp thô bạo vào thiên nhiên".
Đồng bằng sông Cửu Long 12/2017 - 02/2018
Ngô Thế Vinh
Tham khảo :
1/ Có còn con sông nước lớn, nước ròng ? Lê Quỳnh. Báo Người Đô Thị online Thứ hai, 20/06/2016 (http://nguoidothi.net.vn/co-con-con-song-nuoc-lon-nuoc-rong-4042.html)
2/ Thiếu vốn, dự án ngọt hóa sông Ba Lai trở thành... mặn quá. Phạm Văn Tri, TTXVN 06/08/2016 (https://baomoi.com/thieu-von-du-an-ngot-hoa-song-ba-lai-tro-thanh-man-qua/c/20027474.epi)
3/ Chuyên gia đề nghị tạm dừng dự án thủy lợi 3,300 tỷ đồng ở Miền Tây. Huỳnh Xây, Dân Việt, 03/06/2017 (http://danviet.vn/nha-nong/chuyen-gia-de-nghi-tam-dung-du-an-thuy-loi-3300-ty-dong-o-mien-tay-775724.html)
4/ Phát triển đồng bằng sông Cửu Long : Tốn tiền tỷ mà trái quy luật thì trả giá đắt. Nguyễn Hữu Thiện ; VietnamNet 27/11/2017 (http://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/moi-truong/phat-trien-dbscl-ton-tien-ti-ma-trai-quy-luat-thi-tra-gia-dat-413188.html)
5/ Ngăn đập sông Cái Lớn - Cái Bé : đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ. Phạm Anh ; Tiền Phong 02/06/2017 (https://www.tienphong.vn/xa-hoi/ngan-dap-song-cai-lon-cai-be-dbscl-se-bi-anh-huong-khong-nho-1154506.tpo)
6/ Băn khoăn xây cống Cái Lớn – Cái Bé, Sáu Nghệ ; Ánh Sáng và Cuộc Sống ; 26/06/2017 (http://anhsangvacuocsong.vn/ban-khoan-xay-cong-cai-lon-cai/)
Mọi lý thuyết đều màu xám duy cây đời vẫn mãi xanh tươi.
Johann Wolfgang von Goethe
(Faust 1808 'Studierzimmer')
DRAGON và Đại học Cần Thơ
Chúng tôi cùng hẹn gặp nhau ở Cần Thơ đầu tháng 12. Thực ra chúng tôi đã biết nhau từ trước do "văn kỳ thanh" qua những trăn trở chung về hệ sinh thái sông Mekong và đồng bằng sông Cửu Long.
Từ trái, tiến sĩ Lê Phát Quới, thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, kỹ sư Phạm Phan Long, tiến sĩ Lê Anh Tuấn, Ngô Thế Vinh, tiến sĩ Dương Văn Ni, bác sĩ Nguyễn Văn Hưng. Trên khối đá, ghi khắc thời điểm 31/03/1966 là ngày tướng Nguyễn Cao Kỳ ký nghị định chính thức thành lập Viện Đại học Cần Thơ, với giáo sư Phạm Hoàng Hộ là Viện trưởng Sáng lập đầu tiên. [photo by Sang]
Đoàn hôm nay gồm 7 người. Buổi sáng, dự tính khởi hành sớm nhưng theo yêu cầu của người viết, muốn được trở lại thăm Đại học Cần Thơ, nay với thêm DRAGON - Mekong Institute là Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu mà tiến sĩ Lê Anh Tuấn trong đoàn hiện là Phó Viện trưởng. [DRAGON : Delta Research and Global Observation Network].
Có thể nói Đại học Cần Thơ có một thư viện : Trung tâm Học liệu khang trang và đẹp nhất theo tiêu chuẩn thư viện Mỹ. Trên lầu 3 của Thư viện là Phòng Truyền thống, với đôi nét lịch sử Đại học Cần Thơ, cả với hình ảnh các Viện trưởng [sau 75 gọi là Hiệu trưởng] từ ngày thành lập tới nay.
Những Hiệu trưởng Viện Đại học Cần Thơ từ ngày thành lập tới nay : (từ trái) 1. giáo sư Phạm Hoàng Hộ, 1966-1970 ; 2. giáo sư Nguyễn Duy Xuân, 1970-1975 ; 3. Ông Phạm Sơn Khai, 1976-1989 ; 4. giáo sư Trần Phước Đường, 1989-1997 ; 5. tiến sĩ Trần Thượng Tuấn, 1997-2002 ; 6. tiến sĩ Lê Quang Minh, 2002-2006 ; 7. giáo sư Nguyễn Anh Tuấn, 2007-2012 ; 8. tiến sĩ Hà Thanh Toàn, 2013-2017 đến nay. [photo by Lê Anh Tuấn]
Điều mới mẻ với tôi, kể từ chuyến viếng thăm trước là Đại học Cần Thơ có thêm Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu / DRAGON - Mekong Institute.
Viện được chính thức thành lập ngày 20/11/2009. Trong buổi lễ khai mạc, giáo sư Nguyễn Anh Tuấn, hiệu trưởng Đại học Cần Thơ lúc đó và Đại sứ Hoa Kỳ Micheal W. Michalak đã ký một Thỏa ước thiết lập quan hệ hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm lâu dài giữa hai Châu thổ sông Mekong và sông Mississippi, trong đó nhấn mạnh các nghiên cứu về tác động của biến đổi khí hậu với những biện pháp giảm thiểu và cả thích nghi.
Cùng ngày là lễ khánh thành trụ sởViện Nghiên cứu biến đổi khí hậu trong khuôn viên Khoa Môi trường và Tài nguyên Thiên nhiên, Đại học Cần Thơ. Có thể nói đây là bước mau chóng triển khai "Sáng kiến hạ lưu Sông Mekong (Lower Mekong Initiative-LMI)" của ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton trước đó 5 tháng với khởi đầu là bước kết nghĩa giữa hai Ủy ban sông Mekong (Mekong River Commission-MRC) và Ủy ban sông Mississippi (23/07/2009) [3].
Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu Đại học Cần Thơ là đơn vị nghiên cứu khoa học đa ngành nhằm phục vụ cho việc đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, sản xuất nông lâm ngư nghiệp, công nghiệp và dịch vụ ; xây dựng chiến lược và kế hoạch thích ứng và giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu cho các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long. Viện cũng phối hợp đào tạo, nghiên cứu khoa học và chia sẻ kinh nghiệm giữa các viện, trường trong và ngoài nước, đặc biệt là giữa trường Đại học Cần Thơ với các địa phương ở đồng bằng sông Cửu Long trong nỗ lực thích ứng và giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu (Website : https://dragon.ctu.edu.vn).
Một thoáng Châu Đốc
Lộ trình từ Cần Thơ tới Châu Đốc đường khá tốt đi khoảng 5 tiếng. Xe chạy men theo bờ Sông Hậu, ngang thị xã Long Xuyên nơi có Đại học An Giang, anh Võ Tòng Xuân Hiệu trưởng sáng lập đầu tiên thì đã về hưu, nay anh được mời về làm Hiệu trưởng một Đại học tư Nam Cần Thơ, anh Xuân còn có biệt hiệu là "Hai Lúa" dù đã bước qua tuổi cổ lai hy nhưng anh vẫn nhiều lần bay xa tới tận Châu Phi, giúp Sierra Leone đưa kỹ thuật "văn minh lúa nước" từ đồng bằng sông Cửu Long sang Phi Châu với tham vọng giúp lục địa này phát triển lương thực bền vững và vượt qua cơn thiếu đói.
Mỗi lần trở lại với con sông Mekong và đồng bằng sông Cửu Long với tôi như một tiếng gọi quyến rũ, như một cuộc trở về, để tìm tới những vùng đất đai, những khúc đoạn khác của con sông Mekong, do những bước phát triển không bền vững (unsustainable developments) khiến toàn thể hệ sinh thái không ngừng bị tổn thương suy thoái và nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt. Rồi ra thế hệ sắp tới có thể không còn cơ hội để thấy được sinh cảnh phong phú nhưng quá mong manh của dòng sông và sẽ trở thành "Con sông của quá khứ".Và những ai xa quê thì cũng vẫn mong được trở về với mái nhà xưa tìm lại cánh đồng xanh mùa màng ngày cũ.
Dọc đường có thể quan sát một số điểm sạt lở bờ sông Hậu. Ghé qua Ô Long Vĩ để xem đê lúa cao sản ba vụ. Đoàn tới Châu Đốc vào buổi xế trưa.
Châu Đốc trước kia là tên một tỉnh, nay là tên một thành phố thuộc tỉnh An Giang sát biên giới Việt-Miên. [tỉnh lỵ của An Giang nay là thành phố Long Xuyên]. Cư dân Châu Đốc khoảng hơn 150 ngàn dân, với các sắc tộc Kinh, Chăm, Hoa và Khmer, bao gồm nhiều tôn giáo : Phật giáo, Công giáo, Cao đài, Hòa hảo, Tin lành, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, và đạo Hồi Islam với cộng đồng người Chăm Châu Giang (chủ yếu sống dọc theo bờ Sông Hậu, ven Quốc lộ 91).
Có khoảng 900 ngàn người Khmer sống nơi đồng bằng sông Cửu Long. Họ theo đạo Phật tiểu thừa, sống đông nhất ở 3 tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh và Châu Đốc nay là tỉnh An Giang. Nhà cửa của người Khmer vẫn đơn sơ nhưng nổi bật là các ngôi chùa tháp vàng uy nghi. Không xa chùa có tháp đựng tro cốt người chết sau khi được hỏa thiêu ; người Khmer không có nghĩa trang.
Qua công viên Ngã ba Sông Châu Đốc, nổi bật một Tượng đài cá Ba Sa cao 14 mét, chỉ riêng phần tượng cá đã nặng tới 3 tấn, màu sáng bạc chói chang trong nắng, như một biểu tượng tôn vinh nông ngư dân đồng bằng sông Cửu Long đã thuần dưỡng thành công trong các làng bè một giống cá ngon có chất lượng thay thế cho nguồn cá sông thiên nhiên ngày một cạn kiệt. Ba Sa có tên khoa học là Pangasius bocourti, là loài cá da trơn được nuôi nhiều ở đồng bằng sông Cửu Long và cả lưu vực sông Chao Phraya Thái Lan.
Bên chân tượng đài cá Ba Sa, biểu tượng phát triển ngành thủy sản của Châu Đốc. Ba Sa là loại cá nuôi được ưa chuộng và đang bơi ra xa khắp thế giới ; [photo by Nguyễn Hữu Thiện]
Cá Ba Sa chiếm hơn nửa sản lượng cá nuôi hàng năm nơi đồng bằng sông Cửu Long. Hàng ngàn làng bè đầu nguồn sông Hậu nơi các tỉnh An Giang (Châu Đốc), Đồng Tháp (Hồng Ngự) không ngừng phát triển để đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng. Không những thế, phi-lê cá Ba Sa nay đã trở thành một thương hiệu (brand name) được ưa chuộng ở nhiều thị trường trên thế giới.
Từ chân tượng đài, nhìn sang bên kia sông là một cồn lớn, như một tháp ghép lịch sử (historic transplant), đang có khoảng 12 ngàn người Chăm sinh sống trên đó, dân địa phương quen gọi họ là Chà Châu Giang, do nước da sậm và họ theo đạo Hồi.
Khi Chúa Nguyễn mở mang bờ cõi tới Châu Đốc, thì Thoại Ngọc Hầu được giao trọng trách đào con kênh Vĩnh Tế, và một số người Chăm được điều động tới đây. Họ rất đắc lực trong vai trò đôn đốc tám chục ngàn sưu dân người Việt, người Khmer rất gian khổ ngày đêm đào con kinh Vĩnh Tế trong suốt 5 năm với rất nhiều tổn hại nhân mạng.
Sau khi kênh Vĩnh Tế hoàn tất, triều đình Huế xem đây như thành quả to tát và để thưởng công cho đám người Chăm này, vua Minh Mạng đã chiêu dụ cấp đất cho họ lập thành 7 làng, sau này có thêm làng Đa Phước. Đến nay họ sống khá cách biệt, chuyên nghề trồng dâu nuôi tằm và dệt lụa nên còn có tên là Cồn Tơ Lụa (Koh Kaboăk) và họ vẫn giữ được bản sắc văn hóa Champa. Tôi có người bạn vong niên từ hồi báo Bách Khoa trước 1975, anh Dohamide sinh ra và lớn lên nơi đây ; anh là cây bút lâu năm uy tín viết chuyên khảo về lịch sử văn hóa Chăm. Có giai thoại cho rằng tên Việt Nam Đỗ Hải Minh của anh là do ông Ngô Đình Nhu đặt cho. Anh Dohamide hiện đang sống ở Mỹ.
Nhìn lên bầu trời xanh rồi như một flashback, tôi không sao quên được cảm xúc buổi chiều ngày hôm đó khi bước xuống ghe giã từ Đa Phước, ngôi làng lịch sử còn đầy ắp những hoài niệm của quá khứ [1].
Bà ngoại với chiếc Ipad
Rời Châu Đốc xe rời quốc lộ chạy vào những con đường làng nhỏ tráng nhựa thô sơ, quá hẹp cho xe hơi chạy hai chiều, đường chủ yếu cho xe gắn máy và xe đạp. Xe dừng ở xã Vĩnh Châu. Ấn tượng nhất là hình ảnh một bà cụ ngồi chồm hổm với chiếc iPad, nói chuyện với đứa cháu ngoại mãi tận bên Hàn quốc. Bà có một đứa con gái lấy chồng Hàn, nó vẫn gửi tiền về cho mẹ và cả chiếc iPad để cho Ngoại nói chuyện với cháu cho đỡ nhớ. Và đây có thể là trường hợp may mắn của một cô gái Cửu Long lấy chồng xa, có đời sống vật chất đủ để có thể bảo bọc cho gia đình, quán xuyến lo cho mẹ và các em nơi quê nhà.
Bà Ngoại ngồi chồm hổm với chiếc iPad nói chuyện với đứa cháu ngoại mãi tận bên Hàn quốc, bà có một đứa con gái lấy chồng Đại Hàn, nó vẫn gửi tiền về cho mẹ và cả chiếc iPad để cho Ngoại nói chuyện với cháu cho đỡ nhớ. [photo by Ngô Thế Vinh]
Không còn hình ảnh cũ ước lệ nhưng thân thương, bà Ngoại nằm đưa võng ôm cháu mà ru mấy tiếng à ơi. Hay câu ca dao rất quen thuộc mà tưởng như đã rất xa :
Má ơi đừng gả con xa
Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu
Nay thì không ít cô gái Cửu Long, không còn kiên nhẫn chờ ngày được má gả chồng, chính các cô đã tự tìm đường bươn trải, tự kiếm cho mình một tấm chồng thường ở một xứ sở xa lắc xa lơ, như Đài Loan, Hàn Quốc hay Trung Quốc... nhưng rồi với iPhone, iPad thì các cô biết rất rõ má mình đang ở đâu và cả bao xa. Nhưng rồi, trong số đó cũng phải kể tới không thiếu những cô gái Việt bất hạnh gặp nghịch cảnh, sống trong tăm tối tuyệt vọng và cũng không sao tìm được một con đường về.
Hỏi Ngoại thêm về nước dùng thì 100% là từ nước giếng bơm. Đây cũng là mối ưu tư của tiến sĩ Dương Văn Ni từ Đại học Cần Thơ : sông nước thì lênh láng mà vẫn thiếu nước dùng, và tầng nước ngầm thì không phải là vô hạn và ngày càng suy xụp.
Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia vùng đất ngập (wetlands) đã hơn một lần đưa ra những con số báo động :
"Nông thôn vùng sông nước Cửu Long bây giờ toàn xài nước ngầm ; có khoảng 1 triệu giếng khoan mỗi ngày rút lên 2 triệu mét khối nước ngầm, dùng cho sinh hoạt đủ thứ, vậy nên đồng bằng sông Cửu Long đang bị sụt lún nhanh gấp 10 lần nước biển dâng".
Nhà nước hay Bộ Tài nguyên và môi trường, ai sẽ đưa ra câu trả lời rốt ráo cho "vấn nạn nước" trong thập niên tới.
Quan tâm của anh Dương Văn Ni là làm sao bảo vệ nguồn nước mặt khỏi ô nhiễm và của anh Phạm Phan Long làm sao gia tăng dự trữ tầng nước ngầm, là mối ưu tư nặng trĩu trong lòng chúng tôi trong suốt cả chuyến đi.
Đến với hai con đập tràn huyện Tinh Biên
Ra lại Quốc lộ 91, theo con kênh Vĩnh Tế tới huyện Tân Biên. Đoàn dừng chân nơi có hai con đập tràn Tha La và đập tràn Trà Sư.
Tiến sĩ Dương Văn Ni bước xuống chân con đập Trà Sư, bắt đầu giải thích :
"Hai con đập Trà Sư và Tha La là loại đập tràn (spillway rubber dam), lúc thiết kế dự tính là chiều cao mực nước lúc cho tràn sẽ thay đổi tùy theo tình hình lũ thượng nguồn, nên họ sử dụng "phao khí", tức là nếu cho nước tràn sớm thì bơm ít khí, nếu cho nước tràn trễ thì bơm nhiều ống khí sẽ căng lên. Nhưng từ khi thiết kế kỹ thuật phao khí đến nay, bắt đầu từ năm 2000 thì chỉ có xả đập hay đóng đập, chứ không cho đập tràn như dự kiến. Đây cũng là câu hỏi kỹ thuật đặt ra cho việc vận hành các đập tràn ? Có lẽ vì đập nầy chỉ vận hành đóng/mở (xả) trong thời gian qua và hiện nay phao khí cao su đã bị lão hóa, nên họ cho sửa lại như mình thấy".
Anh Dương Văn Ni tiếp :
"Không phải chỉ các đập tràn, mà toàn bộ hệ thống đê / lộ chạy dọc theo biên giới Việt Nam - Cambodia đã làm giảm lượng nước vào Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên, nhằm làm tăng diện tích canh tác lúa cao sản 3 vụ bên phía Việt Nam nhưng đồng thời lại gây ngập cho phía Cambodia khiến nước bạn đã nhiều lần than phiền".
Không còn lũ, bờ bên này là các rạch nước tù đọng ô nhiễm, với các giề lục bình mọc khắp nơi ; phải, nông dân vẫn cắm cúi trồng lúa cao sản 3 vụ, làm lụng vất vả quanh năm mà vẫn không dư dả và cả thiếu ăn. [photo by Ngô Thế Vinh]
Xả lũ hai đập tràn Tha La và Trà Sư
Hai con đập tràn Tha La và Trà Sư được xây cất và bắt đầu đưa vào vận hành từ tháng 5 năm 2000 với vai trò điều tiết lũ từ Cambodia thượng nguồn đổ ra Biển Tây, vịnh Thái Lan. Xây đập tràn với mục đích ngăn lũ đổ về phía nam Quốc lộ 91 dọc theo con kênh Vĩnh Tế, nhằm bảo đảm Kế hoạch An ninh Lương thực, sản xuất lúa cao sản 3 vụ cho vùng trũng Tứ Giác Long Xuyên gồm các tỉnh An Giang, Kiên Giang và Cần Thơ.
Theo số liệu của Công ty Thủy lợi An Giang thì tại đập tràn Tha La mực nước thượng lưu bên Cambodia là 2,95m và hạ lưu là 2,05m với mức chênh lệch là 0,9m ; còn tại con đập tràn Trà Sư mực nước thượng lưu bên Cambodia là 2,94m và hạ lưu là 2,15m với mức chênh lệch là 0,8m.
Việc xả lũ 2 con đập tràn Tha La và Trà Sư được vận hành linh hoạt theo tình huống lũ từ thượng nguồn, kết hợp với nhu cầu nước của vùng dưới nhằm đảm bảo an toàn sản xuất lúa ba vụ, nhất là vụ lúa thu đông. Việc xả lũ có lợi ích tháo chua rửa phèn cho đất, làm sạch ô nhiễm cho vùng Tứ Giác Long Xuyên và phụ cận. Việc xả lũ còn có thêm lợi ích là mang phù sa như một thứ phân bón thiên nhiên màu mỡ cho hơn 20.000 hecta đất trồng trọt. Do đó mà sự kiện xả lũ được bà con nông dân coi như là một ngày vui, và có đông đảo bà con An Giang háo hức tụ về xem hai con đập tràn xả lũ như đi trẩy hội.
Theo báo Tuổi Trẻ ghi nhận thì 2 năm trở đây đã có 2 đợt xả lũ :
(1) Sáng ngày 22/10/2016, hai con đập tràn Tha La và Trà Sư đã được xả lũ.
(2) Sáng ngày 22/09/2017, sớm hơn một tháng hai con đập tràn Tha La và Trà Sư đã được xả lũ nhằm đối phó với mưa lũ lên nhanh phía Cambodia thượng lưu so với cùng kỳ năm ngoái.
Người nông dân cho rằng kế hoạch xả lũ sớm hơn sẽ có lợi hơn nhiều : lũ vào làm vệ sinh cho đồng ruộng, rửa phèn tháo chua cho đất và nhất là đem tới phù sa đã khiến năng suất mùa lúa tới "trúng hơn". Dòng lũ xả chảy cuồn cuộn còn kéo theo cả tôm cá, phải nói là người dân mừng rỡ là thế nào. Có cả nông dân đem vó ra đón lũ và lưới cá, một người đánh bắt được 5-6 kg cá tươi trong ngày dư dả cho bữa ăn giàu chất protein cho cả mấy gia đình.
Nhưng cũng để thấy rằng chính các đê bao chống lũ để làm lúa 3 vụ, đồng thời cũng làm mất đi 2 túi nước thiên nhiên quan trọng là khu Tứ Giác Long Xuyên và vùng trũng Đồng Tháp Mười rất cần thiết để cung ứng nước cho cả vùng Châu thổ trong mùa khô.
Vĩnh Tế con kênh lịch sử
Khi nói về lịch sử con kênh Vĩnh Tế, anh Dương Văn Ni thêm một nét chấm phá pha chút hài hước : "Vĩnh Tế là tên bà vợ Thoại Ngọc Hầu, vậy mà cũng có người giải thích kênh Vĩnh Tế là con kênh chiến lược về kinh tế.."..
Sơ đồ Canal de Prêk Yuan, tên Khmer của con kênh Vĩnh Tế, với ghi chú tiếng Pháp : Canal de Prêk Yuan ou Canal de Vinh Te Reliant la Rivière de Chau Đoc à Hà Tien, trang 394 sách đã dẫn [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Thoại Ngọc Hầu, tục danh Nguyễn Văn Thoại, người gốc Điện Bàn Quảng Nam, theo phò chúa Nguyễn Ánh rất sớm và được trọng dụng. Năm 1818, ông được bổ làm Trấn thủ Vĩnh Thanh, tại đây ông có công điều động dân binh đào con kênh Đông Xuyên, vì những lợi ích kinh tế to lớn, nên kênh ấy được nhà vua cho đặt tên ông là Thoại Hà, ngọn núi Khâu Sơn gần đó cũng có tên là Thoại Sơn.
Năm 1819, Thoại Ngọc Hầu lại được lệnh vua Gia Long đào thêm một con kênh lớn hơn nhiều chạy thẳng từ Châu Đốc, tỉnh An Giang xuống đến Kiên Lương tỉnh Kiên Giang nhập vào sông Giang Thành tới cửa Hà Tiên đổ ra Biển Tây tức vịnh Thái Lan.
Trong suốt thời gian đào kênh, Thoại Ngọc Hầu đã được bà vợ là Châu Thị Vĩnh Tế người Vĩnh Long hết lòng cùng chồng đốc suất dân binh làm việc ngày đêm, kéo dài suốt 5 năm cho tới ngày con kênh hoàn tất 1824. Vua Minh Mạng cảm phục công sức khó nhọc của bà nên đã lấy tên bà đặt cho con kênh chiến lược này là kênh Vĩnh Tế, và ngọn núi Sam gần đó là Vĩnh Tế Sơn. Không những thế, hình kênh Vĩnh Tế còn được vua Minh Mạng cho khắc trên chiếc Cao Đỉnh với dòng chữVĩnh Tế hà (永濟河). Cao Đỉnh là chiếc đỉnh đầu tiên trong Cửu Đỉnh để thờ Thế Tổ Cao Hoàng đế tức vua Gia Long.
Kênh Vĩnh Tế chảy song song với đường biên giới Việt Miên, dài ngót 90 km, rộng 30 m, độ sâu trung bình 2,5 m ; không chỉ là một công trình thủy lợi có giá trị kinh tế to lớn nhưng quan trọng hơn thế nữa còn là một con hào chiến lược có giá trị quốc phòng bảo vệ vùng đất dọc biên giới.
Đến với con Kênh Vĩnh Tế cũng là đến với một chặng đường lịch sử trải dài ngót 200 năm với nhiều máu, mồ hôi và nước mắt.
Lịch sử Khmer : một cái nhìn khác
Với người Khmer, lịch sử ngót 200 năm của con kênh Vĩnh Tế là một cơn ác mộng. Vẫn lưu truyền trong dân gian Khmer, qua các câu chuyện kể, và cả bằng sách vở nữa của các vị sư sãi Miên là đã có hàng chục ngàn sưu dân Khmer bị Bảo Hộ Thoại Ngọc Hầu bắt làm khổ sai đào con kênh Vĩnh Tế từ Châu Đốc ra tới Hà Tiên mà người Khmer gọi là Canal de Prêk Yuan với bao nhiêu lầm than và chết chóc, rồi cả đến câu chuyện quái đản cùa người Pháp về"Vị Quan Triều Nguyễn Trương Minh Giảng chôn sống ba người Khmer ngập tới cổ rồi dùng đầu họ làm kiềng ba chân đặt nồi nấu cơm". Thật và không thật, các câu chuyện ấy vẫn được những người Khmer chống Việt Nam rêu rao như một bằng chứng hành hạ độc ác của người Việt mà họ miệt thị gọi là bọn Yuon.
Gia tài thù hận Việt-Khmer
Ngay cả sang cuối thế kỷ XX vẫn dấy lên những phong trào người Khmer bài Việt. Bấy lâu bị điều kiện hóa trong cảm giác thường trực bất an và luôn luôn bị ám ảnh về quá khứ bành trướng của người Việt với cuộc Nam Tiến, nên mọi chiến dịch chống Việt Nam bất kỳ trong hoàn cảnh nào vẫn đáp ứng một phần tâm tư thầm kín của người dân Khmer. Đối với các nhà hoạt động chánh trị Cam Bốt mị dân hay không, thì bài xích chống Việt Nam là một bằng chứng yêu nước.
Không ai ngạc nhiên cứ thỉnh thoảng lại xảy ra những vụ thảm sát "cáp duồn" người Việt sống trên đất Chùa Tháp rất ư là kinh hoàng. Lâu lâu lại có hàng trăm xác người kể cả đàn bà và trẻ em bị người Khmer chặt đầu mổ bụng thả trôi trên con sông Mekong loang máu, vẫn là cảnh tượng hãi hùng gây xúc động cho toàn thế giới.
Ngay thời Lol Nol, một chính quyền thân Mỹ cũng đã phát động một cuộc tổng ruồng bắt và "cáp duồn" người Việt khủng khiếp nhất trên quy mô cả nước. Đến thời kỳ Khmer Đỏ, một số lớn người Việt cũng đã bị thảm sát qua các cuộc thanh lọc chủng tộc (ethnic cleansing). Không cần che giấu ngay giữa thủ đô Nam Vang trên những bức tường, những dòng chữ khích động chiến dịch giết hết người Việt trên đất Chùa Tháp ; cả bằng tiếng Pháp tiếng Anh nhắm vào ống ảnh của đám ký giả ngoại quốc : "We must kill all Viets in Cambodia".
Thời Khmer Đỏ, Pol Pot không chỉ giết người Việt, mà còn tra tấn sát hại rất nhiều người Khmer bị nghi là thân Việt Nam với tội danh gán cho họ là bọn "xác Khmer hồn Việt", như thứ cỏ dại cần phải tiễu trừ. Rồi cũng Pol Pot tố cáo ngược lại chính Việt Nam mới là thủ phạm của bấy nhiêu sọ người trên khắp Những Cánh Đồng Chết ở Cambodia và không phải là không có những người Khmer cả tin như vậy.
Dù đã trải qua nhiều thế hệ sống trên xứ Chùa Tháp, đám người Việt tha hương này vẫn luôn luôn bị nghi kỵ và cả bị thù ghét. Cáp Duồn là những đợt người Khmer nổi dậy tàn sát cắt cổ người Việt không phải chỉ có trên đất nước Cam Bốt mà ngay cả nơi đồng bằng sông Cửu Long trong "Mùa Thổ Dậy" là những ngày đẫm máu kinh hoàng chẳng thể nào quên.
Con số người Việt hiện ở Cam Bốt là 200 ngàn, 400 ngàn, hay hơn một triệu – không ai biết chắc. Đám người Việt tha phương ấy, cùng với cộng đồng người Chăm, cư ngụ dọc theo hai bên bờ sông Mekong, sông Tonle Sap và tập trung quanh Biển Hồ, sống trên những căn nhà sàn tạm bợ chênh vênh trên những cây cột cao có thể gỡ ra chất lên ghe xê dịch trên mặt hồ theo mùa nước lên xuống. Đa số sống bằng nghề hạ bạc đánh cá, làm cá thuê vô cùng vất vả. Cực thì có cực nhưng họ đã đặt chân trên một vùng đất lên dễ khó về.
Nam Vang lên dễ khó về
Trai vô bạn biển, gái về tào kê
"Chống Việt Nam" bằng bất cứ giai thoại nào đúng hay sai vẫn luôn luôn là một chiêu bài ăn khách và thu phiếu cho bất cứ cuộc vận động tranh cử nào ở Cambodia. Khó mà tìm được một người Khmer nói tốt về người Việt đang sống trên đất nước của họ. Một thành viên nhóm bảo vệ nhân quyền đã kể lại với ký giả báo Far Eastern Economic Review (1994) : "Nếu có được quyền lựa chọn thì đa số người Khmer đều muốn tống xuất tất cả người Việt ra khỏi Cambodia". Người Khmer có thể chia rẽ nhưng họ luôn đoàn kết trên mặt trận chống người Việt bắt nguồn từ"mối thù hận lịch sử".
Từ trên xuống : (a) Cuốn sách tiếng Pháp có tựa đề "Sự sát nhập nước Cambodge bởi người Việt vào Thế kỷ XIX" với hình bìa là ký họa cảnh "Vị Quan Triều Nguyễn chôn sống ba người Khmer ngập tới cổ rồi dùng đầu họ làm kiềng ba chân đặt nồi nấu cơm" ; (b) phải, "Điều tệ hại nhất đã qua rồi", "Chúng ta phải giết bọn Yuon - tức người Việt" đó là những khẩu hiệu chống Việt Nam thời Lol Nol ; (c) sơ đồ Canal de Prêk Yuan, tên Khmer của con kênh Vĩnh Tế, với ghi chú tiếng Pháp : Canal de Prêk Yuan ou Canal de Vinh Te Reliant la Rivière de Chau Đoc à Hà Tien, trang 394 sách đã dẫn [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Đến Tri Tôn đi trên con đường máu lệ
Từ Tịnh Biên theo Quốc lộ 91, hướng nam qua Chi Lăng là Trung tâm Huấn luyện cũ thời Việt Nam Cộng Hòa, qua rặng Núi Cấm đứng uy nghi phía tây. Đường tới Tri Tôn, hai bên toàn màu xanh với những cây thốt nốt và cả các mái chùa vàng uy nghi kiến trúc Khmer.
Nhưng tới với Tri Tôn cũng là đi trên một con đường máu lệ : không thể không nhớ tới địa danh thị trấn Ba Chúc và chùa Phi Lai, là những Cánh Đồng Chết (Killing Fields), tưởng như mới hôm qua. Những cuộc thảm sát người Việt của Khmer Đỏ trải dài bên tả ngạn con kênh Vĩnh Tế xuống tới Hà Tiên ra xa tới đảo Thổ Chu.
- 18/04/1978 : Khmer Đỏ tràn vào thị xã Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang giết 3.157 thường dân.
- 20/04/1978 : Khmer Đỏ đến chùa Phi Lai bắn giết thêm 150 thường dân đang lẩn trốn tại đây.
[Nói tới các vụ thảm sát của Khmer Đỏ, không thể không nhắc tới một vụ thảm sát sớm hơn trên đảo Thổ Chu. Ngày 12/05/1975, Khmer Đỏ tràn qua đánh chiếm đảo Thổ Chu, thuộc tỉnh Kiên Giang giết và bắt toàn bộ 515 cư dân trên đảo, trong số đó có hai mẹ con nữ sĩ Phùng Thăng. Theo nhà văn Trần Hoài Thư, bạn học cùng lớp với Phùng Thăng, chị nổi tiếng với bản dịch "Câu Chuyện Dòng Sông" của Herman Hesse, dịch chung với người chị là Phùng Khánh. Chị Phùng Thăng và con đã chết bi thảm trên hòn đảo nhỏ Thổ Chu, nằm phía cực tây nam đảo Phú Quốc, lúc ấy chị mới 32 tuổi cùng với con gái Tiểu Phượng 9 tuổi].
Giải lời nguyền : Mekong dòng sông nối kết
Bước vào Thiên niên kỷ thứ Ba của toàn cầu hóa (globalization), để thấy rằng biên giới chánh trị giữa các quốc gia chỉ là một làn ranh ảo. Không hề có biên giới trong toàn hệ sinh thái (ecosytem) của con sông Mekong. Con Sông Mekong không chỉ là mạch sống (lifeline) của hai dân tộc Việt Khmer mà còn là một sợi dây nối kết chung sống hòa bình giữa các quốc gia chứ không phải là nguyên nhân gây chia rẽ.
Bên trong và bên ngoài, cùng những trăn trở chung về Hệ Sinh thái Sông Mekong, chúng tôi cùng hướng tới một mẫu số chung : phác thảo kế hoạch từng bước bền vững khai thác tài nguyên con sông Mekong, cùng phấn đấu cho những bước phát triển đồng bộ cho toàn lưu vực, với tầm nhìn toàn vùng (regional vision) chứ không phải cục bộ.
Một ví dụ : Khi chia sẻ với một số chuyên gia trong nước và ông Senglong Youk, phó giám đốc Liên hội Ngư nghiệp (Deputy Executive Director at Fisheries Action Coalition Team, FACT) và phát ngôn viên cho Nhóm Bảo Vệ Tonle Sap (Tonle Sap Lake Waterkeeper, TSW), kỹ sư Pham Phan Long đề nghị để cứu vãn Biển Hồ Tonle Sap, Cambodia và Việt Nam cần hợp tác vận động việc phối hợp quy trình vận hành tất cả các đập Mekong để bảo đảm Biển Hồ Tonle Sap đạt đủ dung lượng 80 tỉ mét khối lũ cần để phục hồi hệ sinh thái Biển Hồ đồng thời có nước để chảy về đồng bằng sông Cửu Long lượng nước cần cho sinh hoạt, bảo đảm khả năng chống hạn và xâm mặn vào mùa khô. Số nước cần thiết cho đồng bằng sông Cửu Long vào mùa khô theo giáo sư Trương Đình Dụ và thạc sĩ Trương Thu Hằng là khoảng 10 tỉ mét khối và theo ước tính tiến sĩ Lê Anh Tuấn viện DRAGON thì vận tốc dòng chảy để đẩy mặn là 10.000 m3/s.
Một ví dụ khác : kỹ sư Phạm Phan Long và một số thành viên của các tổ chức bảo vệ Môi sinh đang có những vận động thuyết phục về tính khả thi nhằm triển khai Năng Lượng Tái Tạo thay vì tiếp tục 7 dự án thủy điện của Lào, 2 của Cambodia, và để cùng thấy rằng mọi phía trong toàn lưu vực (Mekong Basin) đều có lợi (win-win situation) theo đúng hướng đi thời đại về năng lượng xanh của toàn cầu (5).
Để hóa giải mối thù hận Việt Khmer như một tồn tại lịch sử, tuy vô cùng khó khăn nhưng vẫn phải có bước khởi đầu để hướng tới. Điều thiết yếu là phải có một giới lãnh đạo mạnh từ hai quốc gia, với tầm nhìn lịch sử, có quyết tâm chánh trị, có hậu thuẫn của dân chúng, để can đảm cùng nhau mở ra những vết thương tuy đau đớn nhưng có cơ hội chữa lành.
Năm 2018, sẽ là một năm của ước vọng hàn gắn (healing process) những đổ vỡ, phục hồi niềm tin, tiến tới triển vọng hợp tác trong "Tinh Thần Sông Mekong (Mekong Spirit)" như một mẫu số chung để cùng nhau phát triển, cùng nhau hướng tới một tương lai thịnh vượng chung và hòa bình cho toàn vùng.
Châu Đốc - Tân Biên - Tri Tôn, tháng 12/2017
Ngô Thế Vinh
Nguồn : VOA, 25/01/2018
Tham khảo :
1./ Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng. Ngô Thế Vinh, Nhà xuất bản Văn Nghệ California 2000
2. Vực dậy từ tro than, đi qua những Cánh Đồng Chết, Ngô Thế Vinh, Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch, Nhà xuất bản Văn Nghệ, California 2007
3. The Mekong and Mississippi Sister-River Partnership : Similariries and Differences, Ngô Thế Vinh, Viet Ecology Foundation 09/09/2009
4. Xả lũ hai đập tràn Tha La, Trà Sư tạo phù sa cho hạ lưu, Tuổi Trẻ 22/10/2016. Xả lũ hai đập tràn Tha La, Trà Sư thu hút hàng trăm người dân trong tỉnh đổ về xem, Tuổi Trẻ 22/09/2017
5. Blowing away the curse over the Mekong with its own Wind and Sunlight, Phạm Phan Long, Viet Ecology Foundation 01/2018
Bước phát triển bền vững nào thì cũng phải tính tới cái giá môi sinh / environmental costs phải trả đối với sức khoẻ của người dân và cả trên nguồn tài nguyên lâu dài của đất nước. *
Ngô Thế Vinh (Gửi Nhóm Bạn Cửu Long)
Từ trái, kỹ sư Phạm Phan Long Hội Sinh Thái Việt, tiến sĩ Lê Anh Tuấn Viện Nghiên cứu Biến Đổi Khí Hậu Đại học Cần Thơ, Ngô Thế Vinh trên đường dẫn ra biển đến khu Điện Gió / Windfarm Bạc Liêu
Cửu Long Chín Cửa Hai Dòng, nay chỉ còn Bảy Cửa : Sông Hậu ba cửa nay còn hai : (1) cửa Trần Đề, (2) cửa Định An, (cửa Ba Thắc/ Bassac đã bị lấp). Sông Tiền sáu cửa nay còn năm : (3) cửa Cung Hầu, (4) cửa Cổ Chiên, (5) cửa Hàm Luông, (cửa Ba Lai đã bị đắp đập)
Địa Lý Tỉnh Bạc Liêu
Bạc Liêu diện tích 2.526 km2, có 56 km bờ biển dân số 876.800 gồm các sắc tộc Việt, Hoa, Khmer. Người Hoa gốc Triều Châu khá đông nên có câu ca dao : "Bạc Liêu là xứ cơ cầu, dưới sông cá chốt trên bờ Triều châu".
Bạc Liêu có một số tụ điểm du lịch thu hút khách phương xa : nhà Công tử Bạc Liêu, một công trình kiến trúc thời Pháp xây từ 1919 nay là khách sạn vẫn lấy tên Công tử Bạc Liêu ; tên tuổi nhạc sĩ Cao Văn Lầu với bài Dạ cổ hoài lang đặt nền móng cho nền cổ nhạc Nam Bộ cũng gắn liền với vùng đất này. Rồi những ruộng muối trắng toát ở 2 huyện Hòa Bình và Đông Hải, Sân Chim Bạc Liêu với thảm rừng nguyên sinh ngập mặn, tới ngôi Chùa Khmer Xiêm Cán được xây từ 1887 lớn nhất Miền Tây, rồi là vườn nhãn trăm tuổi nổi tiếng là ngon nơi hai xã Hiệp Thành và Vĩnh Trạch Đông.
Đến với Khu Điện Gió Bạc Liêu
Khu Điện Gió / Windfarm Bạc Liêu là nơi sản xuất điện, rất thân thiện và hấp dẫn du khách. Từ trung tâm thành phố Bạc Liêu, xe chạy thẳng đường Cao Văn Lầu, đến ngã tư giao với đường Đô Thị 31 thì rẽ trái đi đến ngã tư tiếp theo rẽ phải là đường ven biển dẫn đến khu điện gió.
Có thể coi Bạc Liêu như là một trong số những tỉnh tiên phong có dự án dùng năng lượng gió sản xuất điện tại Việt Nam. Nhà máy điện gió Bạc Liêu hoàn toàn đặt trên biển thuộc khu vực ấp Biển Đông A, xã Vĩnh Trạch Đông, tỉnh Bạc Liêu. Công trình xây dựng nhà máy trải qua 2 giai đoạn :
- Giai đoạn 1 : khởi công ngày 9/9/2010, tính đến tháng 10.2012, đã có 10 turbin điện gió được hoàn tất.
- Giai đoạn 2 : hoàn tất 52 turbin điện gió còn lại, tổng cộng 62 turbin điện gió hoàn toàn đặt trên biển.
Mỗi turbin điện gió có công xuất 1,6 MW [megawatt], nếu toàn thể 62 turbin cùng hoạt động tổng công suất nhà máy điện gió Bạc Liêu lên tới 99,2 MW.
Các chi tiết kỹ thuật về nhà máy điện gió Bạc Liêu khá đảm bảo : turbin do hãng GE / General Electric cung cấp, mỗi cột trụ gió nặng trên 200 tấn, cao 82.5 m, cột trụ có đường kính 4 m, gồm 3 cánh quạt dài 42 m.
Vé vào thăm Khu Điện Gió Bạc Liêu sản xuất nguồn năng lượng sạch, còn được khai thác như một tụ điểm du lịch. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Tiến sĩ Lê Anh Tuấn phát biểu : "Nhà máy điện gió Bạc Liêu như một điển hình, chứng minh tiềm năng nguồn điện gió phong phú từ các vùng duyên hải Việt Nam cho đến nay vẫn chưa được khai thác đúng mức. Các sinh viên vẫn được hướng dẫn tới đây để các em có được ý niệm rõ ràng thế nào là năng lượng xanh, năng lượng sạch và thân thiện, khác với năng lượng đen hay xám từ các nhà máy điện than gây ra môi trường ô nhiễm".
Một số anh trong đoàn cùng nói tới khả năng mở rộng khu điện gió ra khơi / offshore xa hơn, và cả khả năng kết hợp điện gió với pin mặt trời sẽ rất tiết kiệm vì đã có sẵn mạng lưới dẫn điện nên chỉ gắn các tấm pin làm mái che cho hệ thống sàn liên kết nối các trụ điện gió đã dựng sẵn.
Ngày 17/01/2016 nhà máy Điện gió Bạc Liêu được chính thức khánh thành. Dự án được khởi công từ ngày 09/09/2010, xây dựng trên một diện tích 1,300 hecta với các turbin được đặt trên biển trải dài từ phường Nhà Mát tới ranh giới Sóc Trăng. Dự án hoàn thành sau hơn 5 năm, đạt công suất 99,2 MW. Hiện nay là nhà máy điện gió lớn nhất Việt Nam.
Bạc Liêu có dự án phát triển tiếp theo, sẽ xây dựng thêm 71 trụ turbin gió (loại 2MW/trụ) với tổng công suấr 142 MW dự trù hoàn tất trong 36 tháng, đưa thêm nguồn điện từ năng lượng tái tạo vào mạng lưới điện quốc gia.
Trước Bạc Liêu, tỉnh duyên hải Bình Thuận cũng đã có nhà máy điện gió tại huyện Tuy Phong, quy mô nhỏ hơn gồm 20 trụ turbin điện gió với công suất 30 MW. Bình Thuận, còn có dự án Điện gió trên đảo Phú Qúy với 3 trụ turbin công suất 6 MW. Về khai thác điện gió, Bình Thuận là tỉnh "đi trước về sau" so với tỉnh Bạc Liêu nơi đồng bằng sông Cửu Long. Hiện có 5 nhà máy điện gió đã đi vào hoạt động ở Việt Nam với tổng công suất 160 MW, tuy chậm và sơ khai nhưng nhiều hứa hẹn, sẽ cùng với điện năng mặt trời dần thay thế cho nguồn điện than gây ô nhiễm khủng khiếp.
Gây lại rừng ngập mặn chống sạt lở
Trên một mặt biển màu nước nâu đẫm phù sa, nhô lên những đọt cây xanh non, được vây quanh bởi những rào tre chắn sóng / wavebreaker để bảo vệ cho những cây non mới trồng. Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện nói, đây là một dự án thử nghiệm của GIZ-Đức [GIZ /Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức] giúp Việt Nam gây lại rừng ngập mặn bảo vệ bờ biển không bị sạt lở. Cũng cần thời gian từ 2-3 năm để các cây non đủ lớn bám rễ và có thể tự chắn sóng.
Địa lý tỉnh Sóc Trăng
Sóc Trăng là tỉnh ven biển, diện tích 3,312 km2, có đường bờ biển dài 72 km ; dân số 1,3 triệu. Là tỉnh đứng thứ 6 cả về diện tích và dân số trong đồng bằng sông Cửu Long, phía tây bắc giáp tỉnh Hậu Giang, phía tây nam giáp tỉnh Bạc Liêu, phía đông bắc giáp tỉnh Trà Vinh, phía đông và đông nam giáp Biển Đông, phía hữu ngạn Sông Hậu, đổ ra Biển Đông qua hai cửa Định An và Trần Đề, là vùng nước lợ cũng là nơi có rất nhiều tôm cá. Tên gọi Sóc Trăng có nguồn từ tiếng Khmer, Srok là "xứ", Kh'leang là "vựa" nơi có đông đảo người Khmer, người Hoa và người Việt chung sống. Sóc Trăng cách Cần Thơ 62 km, cách Sài Gòn 230 km (2)
Đất đai của Sóc Trăng màu mỡ, thích hợp cho việc trồng lúa, mía, đậu nành, bắp, hành, tỏi và các loại cây trái như bưởi, xoài, sầu riêng... Hiện đất nông nghiệp chiếm 82%, đất lâm nghiệp có rừng chiếm 3,43%, đất nuôi trồng thủy sản chiếm 16,42%, đất làm muối chiếm 0,97%. Sóc Trăng còn có nguồn tài nguyên rừng ngập mặn với các loài cây như tràm, bần, giá, vẹt, đước và dừa nước.
Sóc Trang còn có con Sông Nguyệt / Sông Maspero chảy qua thị xã Sóc Trăng cùng với hệ thống kinh rạch với thủy triều lên xuống 2 lần trong ngày với mực triều dao động trung bình từ 0,4 m đến 1 m. Sông Nguyệt cũng là nơi diễn ra các cuộc đua Ghe Ngo, một thứ lễ hội truyền thống của người Khmer diễn ra vào tháng 11 hàng năm.
Ba nhà máy nhiệt điện than Long Phú Sóc Trăng
Hiện có hai dự án nhà máy nhiệt điện ở Sóc Trăng có tên là Long Phú I và II (nằm ở xã Long Đức huyện Long Phú) đang xây dựng, chưa vận hành, công suất của Long Phú I và II là 1.200 MW cho mỗi nhà máy. Riêng Long Phú III (chưa triển khai xây dựng) là 2.000 MW. Tổng công suất 3 nhà máy điện than chỉ riêng tỉnh Sóc Trăng lên tới 4.400 MW [lớn gấp 2 lần công suất nhà máy Thủy điện Hòa Bình, lớn hơn công suất con Đập Mẹ Xiaowan / Tiểu Loan chắn ngang dòng chính Sông Mekong, Vân Nam Trung Quốc]. Nhà máy nhiệt điện Long Phú I dự trù sẽ phát điện vào cuối năm 2018.
Những hệ luỵ với ba nhà máy nhiệt điện Long Phú Sóc Trăng trong tương lai cũng là hệ luỵ của cụm nhà máy nhiệt điện Duyên hải đang hoạt động làm khốn đốn cư dân sống tại tỉnh Trà Vinh.
Địa lý tỉnh Trà Vinh
Là một tỉnh duyên hải thuộc đồng bằng sông Cửu Long, diện tích 2.341 km2, có 65 km bờ biển, dân số hơn 1 triệu gồm các sắc tộc Việt, Hoa, Chăm, Khmer ; bao bọc bởi hai con Sông Tiền và Sông Hậu, với 2 cửa Cung Hầu và Định An ; phía đông giáp Biển Đông, phía tây giáp Vĩnh Long, phía nam giáp Sóc Trăng, phía bắc giáp Bến Tre (2).
Nếu đến Trà Vinh như khách du lịch, không thể không tới thăm những những địa danh nổi tiếng và các di tích cổ kính của nền văn hoá Khmer Nam Bộ : bãi biển Ba Động có từ thời Pháp, Ao Bà Om rộng 100.000 m2 được coi là một trong những thắng cảnh đẹp nhất tỉnh Trà Vinh, rồi Chùa Hang, Chùa Âng, Chùa Vàm Rây, đều mang nét đặc thù kiến trúc hệ thống Chùa Khmer, cũng là những trung tâm văn hoá và giáo dục của người Khmer, rồi tới khu du lịch sinh thái Rừng Đước vẫn còn một số động vật hoang dã, rồi Cù lao Tân Quy nằm giữa Sông Hậu như một thiên đường cây trái đặc trưng của Đồng bằng Nam Bộ.
Cho dù biết đó là những nơi rất đáng thăm nhưng đoàn chúng tôi cũng phải bỏ qua, để dành thời gian tới được nơi cần tới.
Điện than Duyên Hải, Trà Vinh và ô nhiễm nhãn tiền
Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện thuật lại những sự cố khi các tổ nhiệt điện Trà Vinh bắt đi vào giai đoạn thử vận hành vào tháng 10 năm 2016 :
"Hồi mùa khô năm 2016, lúc chạy thử nghiệm nhà máy nhiệt điện Duyên Hải, khói đen bay ra đáp xuống làm đen đồng muối ở Cồn Cù gây thiệt hại cho dân. Muối Cồn Cù nổi tiếng ở đồng bằng sông Cửu Long do trắng xốp mà độ mặn vừa phải. Thông thường muối Cồn Cù giá gấp đôi muối khác, nhưng năm đó bị khói đen nên bán chỉ được một nửa giá. Các ao nuôi tôm sú trong vùng cũng bị ảnh hưởng. Nhà máy đứng án ngữ phía biển nên các xóm phía bên trong bị nước tù đọng, hôi thối, ngập nhà dân. Có lần cả xóm bị sốt".
Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện phân tích :
"Các nhà máy nhiệt điện luôn luôn cần một lượng nước cực lớn để làm mát máy cho nên họ luôn đặt gần biển, gần sông. Nước nóng được xả vào môi trường nước sẽ làm cho nước biển, nước sông nóng lên, ảnh hưởng thủy sinh. Ngư dân địa phương phản ánh là lượng đánh bắt thủy sản vùng biển gần khu nhà máy sút giảm đáng kể.
Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện tiếp :
"Vùng biển rộng lớn hơn còn bị như vậy, nói chi khi xả nước nóng vào một đoạn sông. Ví dụ sau này các nhà máy nhiệt điện Long Phú và Sông Hậu xả nước nóng liên tục ra sông như vậy thì cá mắm nào mà còn được. Nước nó không đủ nóng để làm chết cá, nhưng tôm cá sẽ bị dội lại không thể vượt qua đoạn sông nóng được để di cư sinh sản. Như vậy cũng sẽ khó có bằng chứng khoa học nào vì đâu có thấy cá chết. Có thể gọi đây là những "đập nhiệt" (thermal dam) trên sông, tác hại đối với thủy sản có khi còn hơn các đập thủy điện nhưng sẽ khó thấy hơn".
Một con số khủng khiếp : hoạt động của một nhà máy nhiệt điện mỗi ngày sử dụng hơn 12.000 tấn than để lại một lượng chất thải khổng lồ với tro, xỉ than thải ra hơn 4,500 tấn. Với số lượng lớn như vậy, bãi thải bị quá tải và vẫn chưa biết giải quyết ra sao, tiếp tục gây ô nhiễm mặt bằng trên một quy mô rộng lớn.
Theo báo cáo Đánh giá tác động môi trường [EIA/ Environment Impact Assessment] trang 153, bãi xỉ chỉ đủ chứa 10 ngày hoạt động sau đó phải giải quyết hết bằng cách chuyển đi nơi khác, phương án dựa vào công nghệ khác sẽ mua và thu dụng không thể chấp nhận là giải pháp thỏa đáng mà còn đầy bất trắc.
Cũng theo báo cáo Đánh giá tác động môi trường trang 95-96, thì tổng số nước thải từ nhà máy là 4,8 triệu m3/ngày, nóng hơn 7 độ C trong đó có 1,8 triệu m3/ngày là dạng acid có độ pH acid xuống đến 3 không xử lý, lượng được xử lý chỉ vỏn vẹn 2.500m3/ngày. Không hề đề cập số acid thải ra hàng ngày liên tục to lớn ấy sẽ hủy hoại môi sinh duyên hải và kinh tế ngư nghiệp ra sao.
Còn phải kể tới khí thải và bụi nguy hại rất nhiều : bụi than mà mắt thường còn thấy được, khi nhuốm đen ruộng muối hay cánh đồng nuôi tôm, chúng mang hàm lượng nhỏ/ trace amount các chất độc như thủy ngân, chì, cadmi và cả arsen sẽ xâm nhập vào môi trường đất, nước, rồi nhiễm vào thực vật, và cả động vật như nguồn thực phẩm tác hại trên dân cư. Nhưng tác nhân nguy hại nhất vẫn là khí thải lơ lửng cực mịn 2.5 micron hay PM2.5 từ lò nhiệt điện mang theo độc tố Benzo(a)pyrene hay BaP - chất độc này cũng có trong khói thuốc lá có khả năng gây ung thư. Bụi lơ lửng này theo những cơn gió phát tán đi rất xa, dễ dàng hít vào phổi là nguyên nhân của các bệnh đường hô hấp, ung thư phổi và cả các bệnh về tim mạch.
Báo cáo Đánh giá tác động môi trường của dự án đáng lý phải bác bỏ ngay từ lúc đệ nạp vì chủ đầu tư hoàn toàn né tránh không chạy mô hình bụi lơ lửng PM2.5 từ nhà máy để xét xem có đạt quy chuẩn nhiệt điện và quy chuẩn chung quanh khi phát tán ra ngoài trong điều kiện tệ hại nhất trong lịch sử.
Bộ Y tế Việt Nam thì chưa hề có thống kê, nhưng theo nhóm nghiên cứu của Đại học Havard thì số trường hợp tử vong sớm do điện than ở Việt Nam sẽ tăng gấp năm lần : từ 4.300 lên 15.700 vào năm 2030 (5).
Bao nhiêu tác động tiêu cực trên môi trường từ nhà máy nhiệt điện than không chỉ khiến người dân lo sợ đến mất ăn mất ngủ, cả đến giới lãnh đạo địa phương cũng thấy rất quan ngại và cả bất an. Câu hỏi lợi ích kinh tế có đánh đổi được tổn thất xã hội cho dân cư không ? Chưa thấy câu trả lời nhưng đã thấy rõ những đám mây đen ô nhiễm ngày càng dầy đặc, đang phủ lên toàn đồng bằng sông Cửu Long, và toàn cõi Việt Nam nói chung. Và rõ ràng ngót 20 triệu cư dân đồng bằng sông Cửu Long, ngót 100 triệu cư dân trên cả nước cho dù rất "bất ưng" nhưng không có quyền chọn lựa nào khác, họ vẫn phải ôm lấy những "trái bom nổ chậm / time bombs" như thêm một "phát súng thi ân / coup de grâce" đến từ Phương Bắc.
Cô gái Bắc Kỳ từ Bảo Lộc
Tới được hai khu nhà máy nhiệt điện Duyên Hải thì trời đã sẩm tối, nhưng bên trong khu nhà máy thì đèn điện sáng choang và các ổ máy vẫn ầm ì hoạt động. Xe chạy trên một con đường hẹp quanh nhà máy, chỉ có thể chụp được những tấm hình từ cửa xe đang chạy trong màn đêm.
Trơ trọi bên kia đường là một mái nhà thấp, là một quán ăn với bảng hiệu toàn chữ Tàu Trung Quốc Thương Điếm, xen vào một chữ Việt Tạp Hóa duy nhất. Rồi ra nơi đây sẽ manh nha cho một Little China Town trong tương lai. Trong quán chỉ có mấy chiếc bàn tròn, bày sẵn chén đũa và cả mấy đĩa thức ăn. Tôi nhận ra ngay đây như một phạn điếm, quán nấu cơm tháng cho công nhân Tàu làm việc bên trong nhà máy. Chỉ nghe rổn rảng tiếng Tàu từ mấy bàn đã có thực khách. Chọn một chiếc bàn còn trống đủ chỗ ngồi cho 8 người, chúng tôi quyết định dừng chân ăn bữa tối tại đây và cũng để có cơ hội quan sát.
Chủ quán là một cô Bắc kỳ, nước da trắng và khá xinh xắn, tuổi chưa tới 30. Cô mau mắn hỏi : "Các bác ở đâu mà ghé qua, lại cả chụp hình quán nhà cháu", rồi cô cho biết thức ăn chỉ đủ cho khách đặt sẵn, nhưng nếu muốn thì nhà cháu cũng sẽ nấu thêm nhưng phải chờ. Thức ăn chỉ có những món Tàu, dĩ nhiên nhiều dầu mỡ.
Thức ăn đơn giản 3 món nhưng là một bữa ăn nóng, với bia Tsing Tao nhập từ Trung Quốc. Qua câu chuyện trao đổi, tôi có thể có ngay một lý lịch trích ngang của cô chủ quán. Gia đình di cư sau 75 từ ngoài Bắc vào Bảo Lộc, cô sinh đẻ trong Nam nhưng cô vẫn nói tiếng Bắc, bố mẹ cô vẫn còn sống ở Bảo Lộc, cô được đi học và cả về báo chí : "cháu học truyền thông, về làm ở đài Truyền hình huyện Đắc Nông". Tôi hỏi : "ở huyện cũng có đài truyền hình à", cô đáp : "à, đôi khi đài truyền thanh cũng gọi là đài truyền hình đấy ạ, sau đó cháu về làm công nhân ở Bình Dương".
Cũng tại đặc khu Bình Dương, cô đã lập gia đình với một người Tàu họ Lý, đến từ Hoa Lục có lẽ là một kỹ sư cũng đang làm việc tại đây. Cô có một đứa con trai lấy họ bố tên Lý Hảo nay cũng đã 3 tuổi. Không tiện hỏi thêm, nhưng biết chồng cô hiện làm việc bên tổ nhà máy nhiệt điện Duyên Hải bên kia đường. Cô theo chồng dọn về đây, nay mở thêm một quán ăn, chủ yếu phục vụ cho đám công nhân Tàu làm việc bên nhà máy. Cô và đứa con đều nói được tiếng Tàu, nhưng "cháu cũng dạy thêm cho cháu chút tiếng Việt".
Đây có lẽ là trường hợp điển hình cho những cuộc hôn nhân Tàu-Việt, đang rất được Bắc Kinh khuyến khích tại Việt Nam. Nơi mà số công nhân Tàu sang làm việc ở Việt Nam, ngày càng đông hợp pháp hay không.
Các cô gái Việt đang thất nghiệp bị bỏ rơi, nay có cơ hội lấy chồng ngoại quốc, được ổn định về kinh tế mà không phải "xa quê" đang là chọn lựa xem ra rất thuận cảnh, thuận tình đối với các cô gái Việt.
Từ Việt Nam, nhìn sang hai nước láng giềng Lào, Cambodia và nhìn xa sang tận các nước Phi Châu, đang không ngừng xuất hiện những "đặc khu kinh tế" nơi Trung Quốc xây các nhà máy, khu vực nghiễm nghiên trở thành một thứ "lãnh địa" hoàn toàn thuộc quyền kiểm soát của họ.
Trên khắp lãnh thổ Việt Nam, hiện có :
- 26 nhà máy nhiệt điện than đang hoạt động, trong số đó chỉ có 3 nhà máy có trước năm 2000 [Ninh Bình 1974, Hải Dương 1983, Uông Bí 1975], 23 nhà máy điện than còn lại đều được tăng tốc xây dựng từ sau năm 2000, đưa tổng công suất điện than lên tới 15.203 MW.
- 18 nhà máy nhiệt điện than hiện đang xây, dự trù tổng công xuất lên tới 14.915 MW, 15 dự án khác đã có chủ đầu tư với tổng công suất 20.560 MW ; vẫn chưa hết còn thêm 8 dự án nữa đang tìm chủ đầu tư với công suất 8.350 MW.
Với tham vọng đạt được 59.068 MW cho tới năm 2030, nhưng với bao nhiêu câu hỏi cần đặt ra : ngoài con tính đơn giản giá thành của điện than của nhà nước với những nhóm lợi ích chủ đầu tư, chủ yếu là Trung Quốc với những tổn thất phụ / collateral damages [Chuyên gia kinh tế môi sinh còn gọi là ngoại phí / external costs] luôn luôn bị che dấu : đó là cái giá phải trả lâu dài về tàn phá môi trường trên đất đai, nguồn nước, không khí với sức khoẻ của người dân bị hy sinh trong một nền Y tế vốn đã là một cỗ xe èo uột, trong khi số người bệnh nạn nhân của môi trường ô nhiễm ngày càng gia tăng theo cấp số nhân. Y khoa Phòng ngừa / Preventive Medicine trong đó có Y khoa Môi trường có thể coi như một con số không của nền Y tế Việt Nam hiện nay. Đến bao giờ các trường Đại học Y khoa, bộ Y tế mới có tiếng nói báo động mạnh mẽ để bảo vệ sức khỏe của người dân ? Nhà nước luôn luôn khoe thành tích về chỉ số tăng trưởng, nhưng có bao giờ con số chi phí sức khoẻ hàng bao nhiêu tỷ USD, con số bao nhiêu người chết gây ra do ô nhiễm môi trường do điện than, cái giá của thiệt hại môi sinh ấy có được bao gồm trong con toán kinh tế không hiệu quả ấy không ?
Quy hoạch phát triển điện lực giai đoạn 2011-2020 đến năm 2030 với đầu tư khoảng 148 tỷ USD. Quy hoạch Điện VII điều chỉnh, Bộ Công Thương 18/3/2016 (4).
Bài học chưa thuộc
Vẫn theo quy hoạch điện đã được phê duyệt, đến năm 2030, đồng bằng sông Cửu Long sẽ có 14 nhà máy nhiệt điện than được xây dựng ở Trà Vinh, Sóc Trăng, Tiền Giang, Hậu Giang, Long An, Bạc Liêu và Thành phố Cần Thơ ; và 2 trung tâm sản xuất điện than lớn nhất đồng bằng sông Cửu Long mà chúng tôi đã đi qua, là cụm nhà máy Duyên Hải tỉnh Trà Vinh và Long Phú I, II, III tỉnh Sóc Trăng), với tổng công suất khoảng 18.270 MW.
Cùng đi với chúng tôi, Tiến sĩ Lê Anh Tuấn, thuộc Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu, Đại học Cần Thơ đưa ra một nhận định bi quan :
"Vùng đồng bằng sông Cửu Long không có nguồn nguyên liệu than cho các nhà máy, và do phụ thuộc nguồn cung cấp nhiên liệu than và trang thiết bị từ nước ngoài [chủ yếu là Trung Quốc], sẽ dẫn đến nguy cơ không có đảm bảo an ninh năng lượng cho toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long. Và quan trọng hơn, việc phát thải khí nhà kính của các nhà máy điện là rất lớn, sẽ gây những ảnh hưởng tiêu cực đến biến đổi khí hậu, và cả tàn phá môi trường sống tác hại tới mạng sống và sức khoẻ của hàng triệu cư dân".
Lẽ ra, trong bất cứ dự án phát triển nào, luôn luôn không thể thiếu là phải đưa vào bài toán kinh tế "cái giá môi sinh / environmental costs" phải trả về lâu về dài. Điển hình là khi đưa 4 ổ nhà máy nhiệt điện than duyên hải vào tỉnh Trà Vinh, người ta chỉ nói tới lợi ích có thêm 2,400 MW điện phục vụ cho nhu cầu thêm năng lương và sản xuất. Nhưng các dự án này sẽ tàn phá môi trường sống : đất, nước, không khí, ảnh hưởng tới sản xuất nông sản, thủy sản và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh mạng đến sức khoẻ của người dân ra sao thì không được ngó ngàng tới, với cái giá về gánh nặng y tế khủng khiếp phải trả thì cũng không được tính tới.
Đã đến lúc người dân cần ý thức được rằng họ có quyền được sống trong môi trường trong lành trên mảnh đất của cha ông dày công khai phá, uống được dòng nước mát lành từ dòng sông quê hương. Việt Nam không nên ham của rẻ, chạy theo những công nghệ lạc hậu, bẩn của Trung Quốc để rồi sẽ "chết dưới tay Trung Quốc" (Death by China) ** như tựa đề một cuốn sách nổi tiếng.
Việt Nam đang đi ngược trào lưu thế giới
Khi mà toàn thế giới đang có khuynh hướng loại bỏ dần đầu tư cho nhiệt điện than, kể cả Trung Quốc là nước vô địch gây ô nhiễm từ điện than trước đây, từng là nước phát thải CO2 lớn nhất hành tinh này. Biết đất nước họ đã đi tới tận cùng ô nhiễm, họ đã tỉnh ngộ, đóng cửa hàng loạt các nhà máy điện than và tập trung mọi nỗ lực vào nguồn năng lượng sạch, năng lượng tái tạo/ năng lượng tái tạo. Trung Quốc hiện nay đã vượt Mỹ về về sản xuất công nghệ năng lượng tái tạo, cung cấp 2/3 số tấm pin mặt trời và một nửa số turbin gió của thế giới".
Nhưng song song với nỗ lực "giữ xanh / keep green Trung Quốc" họ đã tiến hành chiến lược xuất khẩu công nghệ nhiệt điện than thặng dư. Theo đánh giá của Viện Nghiên Cứu Môi Trường Thế Giới (Global Environmental Institute) Trung Quốc là nước xuất khẩu các nhà máy điện than lớn nhất thế giới, và tính đến cuối năm 2016, Trung Quốc đang tiến hành 106 dự án xây dựng nhà máy điện than trên 25 quốc gia, trong đó có Việt Nam, được xem là khách hàng thiếu không ngoan nhất của họ. Và tệ hại hơn nữa, Việt Nam ồ ạt mua các thiết bị kỹ thuật nhiệt điện hạng hai của Trung Quốc mà lẽ ra họ phải phế bỏ. Không những thế, Việt Nam bán cho Trung Quốc than tốt, đồng thời mua lại than bùn xấu để dùng cho các nhà máy nhiệt điện do chính Trung Quốc thiết kế, khiến nạn ô nhiễm càng nặng nề hơn bao giờ hết.
Đi ngược dòng trào lưu của thế giới, Việt Nam ào ạt gia tăng đầu tư ngày càng sâu vào kỹ nghệ điện than bất chấp hậu quả tàn phá môi sinh và sức khoẻ của người dân ra sao. Các nhà máy nhiệt điện than hạng hai ấy, với đám kỹ sư và công nhân Trung Quốc, đang tự do hoành hành trên lãnh thổ Việt Nam, tự do xả khí thải, chất thải và nhiệt, tàn phá môi trường sống và ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khoẻ lâu dài của người dân nhưng họ thì phải cam chịu, hoàn toàn không có tiếng nói.
Với hướng đi "ngược dòng" này, giới lãnh đạo Việt Nam hiện nay đang thực hiện một kỳ tích : đẩy Việt Nam vào danh sách 10 quốc gia ô nhiễm nhất thế giới.
Môi trường sống của người dân đang bị hy sinh vì cách nhìn ngắn hạn và kể cả lợi ích nhóm. Người viết đã hơn một lần xác định : môi sinh và dân chủ phải là một "bộ đôi / duo" không thể tách rời.
Có thể đạt 100% năng lượng tái tạo vào 2050
Đó cũng là tiêu đề bài viết mới đây của giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn, một tiếng nói có uy tín quốc tế vể chính sách năng lượng, nguyên Giám đốc trường Cao Đẳng Điện học Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật Phú Thọ [trước 1975], Cố vấn Nha kinh tế, dự báo chiến lược EDF Paris, giáo sư Viện Kinh tế, chính sách năng lượng Grenoble, giáo sư Trường Đại học Bách khoa Grenoble.
Giáo sư Nhẫn có nhắc tới một nghiên cứu của đại học Stanford năm 2016, dành cho 139 nước trên thế giới, viễn cảnh 100% năng lượng tái tạo / năng lượng tái tạo năm 2050 là khả thi. Công trình nghiên cứu của Stanford đã đánh giá tiềm năng của năng lượng tái tạo, tạo công ăn việc làm, cùng với lợi ích tránh ô nhiễm đối với sức khỏe người dân. Kết luận đó cũng được áp dụng cho nước Pháp : Pháp có khả năng đạt 100% năng lượng tái tạo năm 2050, với 55% từ gió, 35% tử pin mặt trời, 6% thủy điện, phần còn lại từ năng lượng biển. Với cơ cấu như vậy, tiêu thụ năng lượng sẽ ít hơn 36% so với hiện nay. Tạo thêm được 700,000 việc làm, Pháp tiết kiệm được 200 tỷ euro liên quan tới chi phí sức khoẻ gây ra do ô nghiễm hàng năm, tránh được khoảng 20,000 người chế [6].
Là người từng đào tạo bao nhiêu thế hệ kỹ sư điện đầy khả năng trước 1975, giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn đã đưa ra một "tầm nhìn xa/vision" với những đề xuất cụ thể :
Có thể tiết kiệm khoảng 25-30% tiêu thụ năng lượng quốc gia. Cải thiện hiệu quả năng lượng có thể giảm 20% tiêu thụ năng lượng. Đầu tư mạnh mẽ vào năng lượng tái tạo theo một chương trình nhiều năm với một lộ trình rõ ràng theo thứ tự ưu tiên : sinh khối, pin mặt trời, nhiệt mặt trời, gió đất liền và ngoài khơi, nhiệt động mặt trời, địa nhiệt, năng lượng biển.
giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn cũng đưa ra những biện pháp cụ thể :
Thành lập Bộ Năng Lượng Tái Tạo / năng lượng tái tạo, giảm mạnh tốc độ tăng trưởng điện mỗi năm dưới 5%, giáo dục từ phổ thông tới đại học, tăng cường thông tin công cộng, thay đổi hành vi suy nghĩ, các vùng phải tự chủ năng lượng, hỗ trợ đổi mới và sáng kiến địa phương, triển khai các dự án thí điểm về năng lượng tích cực, khuyến khích xây dựng thành phố thông minh / smart city, phát triển nhanh mạng lưới điện thông minh / smart grid, đầu tư mạnh vào các phương pháp tích trữ năng lượng khác, dừng việc xây dựng các nhà máy điện than... và giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn nhấn mạnh : "Sự thành công phụ thuộc phần lớn vào quyết tâm chính trị của chính phủ".
Với kết luận là mục tiêu 100% năng lượng tái tạo cho Việt Nam năm 2050 là hoàn toàn khả thi, bước vào tuổi gần 90, giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn vẫn hướng về quê hương đất nước nói lên những lời kêu gọi : "Tôi trân trọng và thiết tha đề nghị chính phủ huy động toàn dân và tiềm năng để đạt mục tiêu trên vô cùng quan trọng cho đất nước" [6].
Người dân phải biết nói Không
Một ví dụ, như cụm nhà máy thủy điện Long Phú 4,400 MW xây xong và bắt đầu vận hành từ 2018, nếu tính trung bình tuổi thọ nhà máy là 70 năm, tới 2088, dài hơn tuổi thọ trung bình của một đời người.
Chỉ riêng đồng bằng sông Cửu Long, 14 nhà máy điện than ấy như 14 con khủng long ngày đêm nhả khói đen, không ngừng thải ra các chất độc hại vào đất đai, nước sông nước biển và không khí : hậu quả mà ai cũng biết là gây tổn hại lâu dài trên sức khoẻ kể rút ngắn tuổi thọ của người dân.
Lợi ích kinh tế đem lại cho người dân chưa biết tới đâu nhưng những tổn thương trên môi trường và sức khoẻ của họ là điều chắc chắn. Vậy thì chính người dân phải làm gì để giữ gìn mảnh đất cha ông để lại, để Việt Nam vẫn là một nơi đáng sống ?
- Trước hết họ : người dân và cả các lãnh đạo cấp tỉnh phải biết đồng loạt lên tiếng nói "không" với những dự án điện than sắp áp đặt trên vùng đất lành của họ.
- Ý thức được mối hiểm nguy thường trực ngày đêm do những nhà máy đã và đang vận hành, người dân có quyền đòi hỏi những kiểm tra gắt gao nhằm giảm thiểu những tác hại / control damage tới mức thấp nhất.
- Yêu cầu một quỹ bảo hiểm y tế, bảo hiểm nhân thọ tương xứng cho những nạn nhân bị ô nhiễm, số tiền đó như "thuế carbon / carbon pollution tax" được triết xuất từ lợi nhuận của những nhà máy điện than.
Người dân cần được tăng thêm thông tin, để họ hiểu rằng thay thế điện than gây ô nhiễm bằng nguồn năng lượng tái tạo đang là một xu hướng toàn cầu [với một Trung Quốc đã tỉnh ngộ], người dân cần được trấn an Việt Nam là một xứ sở đầy nắng và gió, với quyết tâm của người dân và của lãnh đạo biết đổi mới tư duy, thì Việt Nam không thiếu điện, có khả năng đạt 100% năng lượng tái tạo và bảo đảm cho họ quê hương không phải chỉ còn là một vùng trời và đất đầy ô nhiễm, nhưng là nơi thực sự đáng sống, và vẫn là một vùng đất lành.
Bạc Liêu-Sóc Trăng-Trà Vinh
Ngô Thế Vinh (12/2017)
* Đây là trích đoạn từ một bút ký về chuyến khảo sát Đồng Bằng Sông Cửu Long tháng 12/2017 vừa qua
** Death by China : Confronting the Dragon - A Global Call to Action. Peter Navarro, Greg Autry. Pearson FT Press, May 15, 2011
Tham Khảo :
(1) Năm 2018 : Cần hành động để "bức tranh môi trường" sáng hơn. Tiến sĩ Lê Anh Tuấn, Viện Nghiên Cứu Biến Đổi Khí Hậu. Tuổi Trẻ 02/01/2018
(2) Dân phản ánh Nhiệt điện Duyên Hải "có lúc làm chết cá, chết tôm". Báo Mới ; 01/10/2016
(3) Kiểm soát ô nhiễm nhiệt điện than và lựa chọn công nghệ vì sự phát triển bền vững, GreenID 07/2017.
(4) Quy hoạch phát triển Điện lực Quốc gia giai đoạn 2011-2020, có xét đến năm 2030 là Quy hoạch Hủy diệt sức khoẻ và Môi trường sinh thái, đổi lấy Kinh tế không hiệu quả. Nguyễn Đức Thắng, 14/9/2017
(5) Môi trường Việt Nam 2017 : Ô nhiễm do công nghiệp và do chính con người. RFA 01/02/2018, (6) Việt Nam có thể đạt 100% năng lượng tái tạo vào năm 2050. Nguyễn Khắc Nhẫn. Viet Ecology Foundation, 22/6/2017
Lời dẫn : Đây chỉ là trích đoạn từ một bút ký về chuyến khảo sát Đồng Bằng Sông Cửu Long tháng 12.2017 vừa qua, Đồng Tháp cũng là chặng cuối của chuyến đi ấy.
Đoàn khảo sát môi sinh đồng bằng sông Cửu Long 12/2017. Từ trái : Ngô Thế Vinh, tiến sĩ Lê Anh Tuấn, Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu Đại học Cần Thơ, tiến sĩ Dương Văn Ni, Khoa Quản lý Tài Nguyên Thiên nhiên Đại học Cần Thơ, kỹ sư Phạm Phan Long, Hội Sinh Thái Việt, bác sĩ Nguyễn Văn Hưng, thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia Vùng Đất Ngập . Wetlands, tiến sĩ Lê Phát Quới, Viện Tài nguyên và môi trường Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, và tài xế Sang.
Về tới Cao Lãnh cũng đã gần nửa khuya. Trên chiếc xe Van của tài xế Sang có Wi-Fi di động, nên suốt cuộc hành trình nếu muốn, chúng tôi vẫn có thể kết nối mạng và làm việc với iPhone, iPad. Ngày hôm sau 12/12/2017, chúng tôi vẫn thức dậy sớm để khởi hành đi vào Đồng Tháp Mười, ghé qua Gò Tháp.
Gò Tháp có khu di chỉ Ốc Eo và là chiến khu chống Pháp của Thiên Hộ Dương, nay là khu di tích quốc gia đặc biệt. (nguồn: Gò Tháp, Nhà xuất bản Văn Hóa - Văn Nghệ, Sài Gòn 2016)
Tới vùng trũng Đồng Tháp Mười không thể không nhớ tới một Du kí Biên khảo ngắn Bảy Ngày Trong Đồng Tháp Mười của Nguyễn Hiến Lê, năm đó ông mới 22 tuổi, vừa tốt nghiệp Trường Công Chánh Hà Nội tháng 7 năm 1934, người cán sự công chánh thời còn rất trẻ ấy đã chọn vào Nam tới nhiệm sở là Miền Tây, đi đo đạc "lênh đênh trên khắp các kinh rạch từ Hồng Ngự tới Thủ Thừa, từ Cái Thia lên Mộc Hóa, có khi đi bộ trọn một tuần giữa một vùng bát ngát toàn lau sậy bàng năng, hai ba chục cây số không có một nóc nhà, một bóng người" (1).
Nguồn gốc tên Đồng Tháp Mười, Plaine des Joncs hay Đồng Cỏ Lát có nhiều giả thiết : hoặc là nơi xây tháp thứ mười của Thiên Hộ Dương kể từ sông Lớn đi vào trong thời kỳ chống Pháp, hoặc do ngôi tháp có mười bậc, nhưng cũng có người bảo rằng đó là ngôi chùa tháp thứ mười của người Khmer thời vua Jayavarman VII tính từ điểm xuất phát.
Đồng Tháp Mười nằm bên tả ngạn sông Tiền, bao gồm ba tỉnh Tiền Giang, Đồng Tháp, Long An với diện tích ngót một triệu hecta nếu kể cả vùng đất giữa hai con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây, [cộng với 300.000 hecta phía Svay Rieng bên Cambodia].
Đồng Tháp Mười, nơi mà hơn nửa thế kỷ trước đây thôi còn là một vùng hoang dã bát ngát sình lầy, dưới nước đỉa lội như bánh canh, trên trời muỗi bay rợp như đám mây... Đồng Tháp Mười ngày nay đã hoàn toàn đổi khác, dân tụ về ngày một đông, các vùng đất hoang kể cả các khu rừng tràm ngày một thu hẹp nhường chỗ cho nhà cửa và ruộng đồng. Khi mà đất chật người đông thì thiên nhiên chẳng còn ưu đãi và cuộc sống cũng không còn dễ dàng như những ngày xưa nữa "những ngày làm chơi ăn thiệt".
Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh,
Nước Tháp Mười lóng lánh cá tôm...
Đã qua rồi cái hình ảnh ước lệ của một Nam kỳ Lục Tỉnh thời Phạm Quỳnh báo Nam Phong và thi sĩ Tản Đà Đông Pháp Thời Báo từ ngoài Bắc vào thăm không ngớt lời ca ngợi về đời sống trong Nam dễ dãi vui tươi, với gạo trắng nước trong và tôm cá thì đầy đồng: nay thì chính những người nông dân Nam Bộ hào sảng hiếu khách ấy đang phải đổ mồ hôi sôi nước mắt, làm lúa cao sản ba vụ/năm để kiếm sống, "làm thiệt mà cũng chưa chắc có ăn".
Trở lại thăm Đồng Tháp, cũng không thể không nhớ tới con cá đuối nước mặn Selachian, tên khoa học là chondrichthyes, thuộc loài cá sụn mà ngư dân đánh bắt được trên sông Tiền, đoạn giữa hai xã Tân Mỹ và Tân Khánh Trung. Con cá đuối có chiều dài hơn 4 mét ngang 2 mét và nặng tới 270 ký. Đây cũng là lần đầu tiên ngư dân Đồng Bằng Sông Cửu Long lưới được một con cá nước mặn lớn như vậy trên một khúc sông nằm sâu trong đất liền rất xa biển mười ngày trước Giáng Sinh năm 2000 (2).
Đến với Gò Tháp trên vùng trũng Đống Tháp Mười
Đồng Tháp Mười và khu Tứ giác Long Xuyên vốn là hai vùng trũng thiên nhiên của đồng bằng sông Cửu Long.
Theo bài viết "Vùng đất ngập Đồng Tháp Mười" của bác sĩ Trần Ngươn Phiêu thì vùng trũng Đồng Tháp Mười có thể là lòng sông cũ của Cửu Long, nay sông Cửu đã đổi dòng và dời qua vị trí hiện nay. Biển Hồ Tonle Sap là vùng trũng rộng lớn khác được ví như trái tim của Cambodia. Ba vùng trũng ấy là ba bể chứa nước khổng lồ có chức năng điều hòa mực nước lên xuống của con sông Mekong vùng hạ lưu trong cả hai mùa Mưa và mùa Khô. Với những bước phát triển không bền vững (unsustainable development) chính con người đã và đang phá hủy nhịp điều hòa thiên nhiên tuyệt hảo ấy của con sông Mekong vốn có hàng bao ngàn năm.
Đến Gò Tháp là đến với một giồng lớn nhất của Đồng Tháp Mười, được biết tới như vùng đất của "sen hồng" nằm về phía đông-nam của Tràm chim Tam Nông, cách Sài Gòn không quá 100 km. Nơi có di chỉ của nền văn hóa Óc Eo, Vương quốc Phù Nam hiện diện từ thế kỷ thứ II trước Công nguyên kéo dài tới thế kỷ XII sau Công nguyên trên đồng bằng sông Cửu Long.
Trong lòng gò, qua những lần khai quật đã phát hiện được một di tích kiến trúc cổ với hai tượng thần Vishnu, được xác định là có niên đại từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ XII, được xếp vào hàng "Bảo vật quốc gia", rồi cạnh đó là cây Trôm trăm tuổi cũng được xếp vào Cây Di sản Việt Nam.
Cũng theo bác sĩ Trần Ngươn Phiêu thì "các nhà khảo cổ danh tiếng như Etienne Aymonier và Henri Parmentier thuộc trường Viễn Đông Bác Cổ đều đã viếng thăm Tháp Mười nhiều lần. [Trường Viễn Đông Bác Cổ/École française d'Extrême-Orient/EFEO, tiền thân là Phái đoàn Khảo cổ tại Đông Dương có từ năm 1898 và Trường Viễn Đông Bác Cổ chính thức thành lập ngày 20 tháng 1 năm 1900 là một trung tâm nghiên cứu thực địa của Pháp vềĐông phương học, có nhiệm vụ nghiên cứu, khai quật khảo cổ trên toàn bán đảo Đông Dương]. Louis Malleret, quản thủ Viện Bảo Tàng Sài Gòn, Viện trưởng trường Viễn Đông Bác Cổ, là người có công nghiên cứu nhiều nhất về Tháp Mười. Malleret còn là tác giả bộ Le Delta du Mekong, trong đó quyển thứ IV (Le Cisbassac) là chuyên khảo về Đồng Tháp. Các viên gạch di tích Tháp Mười còn được lưu giữ ở Bảo tàng viện Sài Gòn là do công của L. Malleret" (3).
Khai quật tượng thần Vishnu tại Gò Tháp Mười [nguồn : tư liệu Bảo tàng Đồng Tháp]
Gò Minh Sư được khai quật vào năm 2009 có dạng hai khối gần vuông gá vào nhau. Trong đó, hình khối vuông lớn ở phía Tây có cạnh dài 14,95m, khối vuông nhỏ phía Đông có cạnh dài 4.20m. Tại di tích này, các nhà khảo cổ đã tìm thấy một nhẫn vàng có khắc hình con ốc Sankha biểu tượng của thần Vishnu, các vòng đeo tay bằng đồng, một mảnh vỡ Yoni và đặc biệt là một máng nước thiêng (Somasutra) - dấu hiệu để nhận biết đền thần Shiva. Các nhà khảo cổ học đã xác định di tích này là đền thần Shiva, có niên đại từ thế kỷ thứ VI đến thế kỷ thứ XII. Năm 2012, di tích được xây mái để bảo quản.
Cây Trôm Trăm Tuổi - Sterculia foetida L., [nguồn : Gò Tháp, Di tích quốc gia đặc biệt. Nhà xuất bản Văn Hóa-Văn Nghệ, Sài Gòn 2016].
Vào hậu bán thế kỷ XIX (1862-1866), đây cũng là chiến khu chống Pháp nổi tiếng của Thiên Hộ Dương / Võ Duy Dương. Trong suốt hơn 3 năm, quân đội Pháp đã vô cùng vất vả, chịu cả tổn thất mà không thể nào xâm nhập được vào chiến khu Đồng Tháp Mười của Thiên Hộ Dương và Đốc Binh Kiều. Ngoài sức chiến đấu kiên cường của các nghĩa binh, còn phải kể tới yếu tố trận địa mà đội quân viễn chinh Pháp rất sợ khi phải lội vào một vùng lau sậy cao hơn đầu người, quanh năm sình lầy ngay cả mùa khô, với đỉa trâu như bánh canh, đầy muỗi mòng, khí hậu ẩm thấp với cái nóng thiêu đốt của mặt trời nhiệt đới gần xích đạo. Sau cùng, nhờ có sự dẫn đường hai tên Quản Tấn và huyện Lộc cùng với đám lính Việt theo Pháp mà lần đầu tiên quân Pháp thắng được trận chiến sình lầy mà Đô đốc De Lagrandière cho là một thắng lợi rất lớn về chính trị (4).
Đền thờ Thiên Hộ Dương là công trình kiến trúc mới xây sau này [Photo by Ngô Thế Vinh]
Tượng đồng Thiên Hộ Dương [nguồn : Gò Tháp, Di tích Quốc gia Đặc biệt. Nhà xuất bản Văn Hóa-Văn Nghệ, Sài Gòn 2016]
Từ thời vua Thiệu Trị (1841-1847) trên gò từng có một Ngôi Tháp Cổ Tự. Đến năm 1956, thời Đệ Nhất Cộng Hòa, chính quyền Ngô Đình Diệm cho dời ngôi Tháp Cổ Tự về phía bắc để xây dựng một "Viễn Vọng Đài" mười tầng cao 36 mét nhằm "quan sát hoạt động của lực lượng Cách mạng trong vùng Đồng Tháp Mười. Rạng sáng ngày 04/01/1960, "Viễn Vọng Đài" bị đặc công tiểu đoàn 502 tỉnh Kiến Phong đánh sập và chỉ còn lại phế tích ngổn ngang trên bề mặt gò" [sic].
Gò Tháp với diện tích 300 hecta, không chỉ là vùng khai quật khảo cổ quan trọng, nhưng cũng là nơi diễn ra các lễ hội hàng năm: rằm tháng 3 lễ vía Bà Chúa Xứ, rằm tháng 11 lễ giỗ Thiên Hộ Dương và Đốc Binh Kiều.
Viễn Vọng Đài hay còn gọi là Tháp Mười Tầng, được chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thời Tổng thống Ngô Đình Diệm dựng tại Gò Tháp làm trạm quan sát. [nguồn : Gò Tháp, Di tích Quốc gia Đặc biệt. Nhà xuất bản Văn Hoá-Văn Nghệ, Sài Gòn 2016].
Hệ sinh thái Đồng Tháp Mười
Không có mục đích du lịch khi tới đây, phần chúng tôi quan tâm nhiều hơn là hệ sinh thái Đồng Tháp Mười.
Theo thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, tốt nghiệp Đại học Wisconsin chuyên gia về wetlands (các vùng đất sình lầy), tiến sĩ Lê Anh Tuấn, chuyên gia về Biến đổi khí hậu và tiến sĩ Lê Phát Quới, Viện Tài nguyên và môi trường người quê Long An, thì Gò Tháp không trũng sâu như vùng Tràm Chim Tam Nông nhưng có thể coi đây là một Đồng Tháp Mười thu nhỏ, mang đủ các đặc tính hệ sinh thái của vùng trũng Đồng Tháp Mười, có thảm thực vật tiêu biểu với rừng tràm, cỏ lác, năng, và đầm sen, bông điên điển, cùng với các loài động vật rất đa dạng những loài cá theo mùa, tôm cua ốc, rùa lươn rắn và các loại chim muông.
Trong chuyến đi đồng bằng sông Cửu Long lần này, chúng tôi có những người bạn đồng hành khá lý tưởng, thuộc nhiều lãnh vực chuyên môn, các anh là "kho chất sám" đang có những nỗ lực cứu nguy con Sông Mekong và đồng bằng sông Cửu Long, với tầm nhìn xa ra toàn vùng và điều đáng ghi nhận là tiếng nói của các anh đang bắt đầu được lắng nghe. Dự trù ban đầu, đoàn có thêm tiến sĩ Nguyễn Ngọc Đệ, Khoa Nông học Đại học Cần Thơ nhưng anh phải đi tham dự một hội nghị lúa gạo tại Chiang Mai, Thái Lan.
Từ bao ngàn năm rồi, con sông Mekong dài hơn 4.800 km bắt nguồn từ xứ tuyết Tây Tạng, với ngót nửa chiều dài chảy qua Vân Nam Trung Quốc, xuống tới Thái Lào rồi chảy qua Cambodia, khi tới Phnom Penh thì chia ra là 4 Nhánh (người Pháp gọi là Quatre Bras / Bốn Cánh Tay): cánh tay thứ nhất là Mekong Thượng hay dòng chính sông Mekong chảy từ Lào vào Cam Bốt, cánh tay thứ hai con sông Tonle Sap chảy vào Biển Hồ và hai nhánh kia là sông Mekong Hạ vào Việt Nam trở thành sông Tiền, sông Bassac trở thành Sông Hậu khi tới Việt Nam.
Điều hòa mực nước sông Mekong vùng hạ lưu là ba hồ chứa nước lớn : Biển Hồ ở Cambodia có dung lượng 80 tỉ m3, đồng bằng sông Cửu Long có vùng trũng Đồng Tháp Mười với sức chứa 10 tỉ m3 nước và khu Tứ Giác Long Xuyên có sức chứa 9,2 tỉ m3 [Cánh đồng Tứ Giác Long Xuyên nối liền với cánh đồng Takeo bên Cambodia về mặt thủy văn]. Vào mùa mưa, khi lưu lượng nước sông Mekong dâng cao, về phía Cambodia con sông Tonle Sap đổi chiều chảy ngược vào Biển Hồ khiến diện tích Biển Hồ tăng gấp 5 lần vào mùa mưa so với mùa khô.
Khi xuống tới đồng bằng sông Cửu Long, nước hai con sông Tiền và sông Hậu dâng cao và rồi tràn bờ như một tấm thảm nước đổ tràn / sheet flow - "vừa chảy vừa chứa" vào hai vùng trũng thiên nhiên khổng lồ là Đồng Tháp Mười và Khu Tứ Giác Long Xuyên. Không chỉ có lượng nước tràn bờ từ hai con sông Tiền và sông Hậu, còn phải kể tới lượng nước tràn từ biên giới Cambodia qua đồng bằng sông Cửu Long, do nước khúc Sông Mekong bên Cambodia cũng tràn bờ đổ vào các cánh đồng lũ / floodplain đổ tràn qua Đồng Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên.
Chính là nhờ có 3 hồ chứa lớn : một ở Cambodia, hai ở đồng bằng sông Cửu Long Việt Nam khiến hai con sông Tiền và sông Hậu vào mùa mưa, cho dù lưu lượng dòng chảy rất lớn từ 36.000 m3/giây, có khi tới 39.000 m3/giây nhưng mực nước hai con sông vẫn chỉ dâng lên từ từ, không đột ngột gây lụt và tàn phá khủng khiếp như ở các tỉnh miền Trung và miền Bắc, và cư dân Miền Tây quen gọi đó là Mùa Nước Nổi hàng năm và họ có kinh nghiệm chung sống hài hòa biết xem lũ như một tài nguyên.
Sang mùa khô, con sông Tonle Sap lại đổi chiều chảy xuôi dòng [Tonle Sap là con sông duy nhất có đặc tính chảy hai chiều theo mùa] ; dòng chảy từ Biển Hồ kéo theo bao nhiêu tấn cá xuống đồng bằng sông Cửu Long và đồng thời nước từ hai túi chứa Đồng Tháp Mười và Khu Tứ Giác Long Xuyên cũng bắt đầu rỉ rả đổ ra các con sông, kéo dài từ 2 tới 4 tháng khiến ruộng đồng không thiếu nước và không bị ngập mặn.
Nhưng rồi sự điều hòa nhịp nhàng và kỳ diệu ấy của hệ sinh thái sông Mekong đã phải chịu nhiều "nhân tai", đang bị chính con người phá huỷ: từ những con đập thủy điện khổng lồ chắn ngang dòng chính sông Mekong ở thượng nguồn, trước tiên là Trung Quốc và nay tới Lào, các hồ chứa của những con đập này không chỉ giữ nước mà còn ngăn chặn nguồn phù sa ; Biển Hồ thì đang bị thu hẹp và cạn dần ; hai túi nước khổng lồ Đồng Tháp Mười và Khu Tứ Giác Long Xuyên với tổng cộng dung lượng ngót 20 tỉ m3 cũng đang bị thu nhỏ lại do đắp đê ngăn đập để làm lúa 3 vụ và mở rộng các khu gia cư.
Vùng Lụt Cambodia và Đồng Bằng Sông Cửu Long [nguồn: Akira Yamashita, Department of Environment and Natural Resources Management, Cần Thơ University, Vietnam]
Nói về hướng đi trong tương lai cho Đồng Tháp Mười, thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện chuyên gia Vùng Đất Ngập / Wetlands đưa ra một phân tích : "Bản thân những con đê không sao cả, nhưng đê khép kín không cho nước vào quanh năm để canh tác liên tục 3 vụ mới là vấn đề. Lý tưởng nhứt là giảm xuống còn 2 vụ, để cho nước trong mùa lũ có thể tràn đồng được, mang theo phù sa, tôm cá, làm tươi mới lại đất đai. Nhưng mà việc này khó vì khi người dân ở trong đê bao 25 năm thì nhà cửa, mồ mà, vườn tược đều xây dưới thấp trong vùng trũng, nên bây giờ xả lũ vào không được nữa. Thực tế là khi mới có đê bao khép kín ở Đồng Tháp Mười, người dân thích lắm vì có thêm thu nhập, có môi trường khô ráo, có đê làm đường giao thông thuận tiện, cá mắm thì vẫn còn, nước vẫn còn. Sau đó, khoảng 10 năm mới thấy chi phí canh tác tăng lên do dinh dưỡng trong đất bắt đầu suy kiệt, vẫn chưa sao. Sau 15 năm thấy chi phí tăng, nước ô nhiễm quá, cá mắm không còn, cũng chưa sao. Sau 20 năm thì thấy không ổn, chi phí canh tác đã đuổi theo gần bằng thu nhập từ lúa. Một gia đình 5 người canh tác 1 hecta lúa 3 vụ không thể đủ sống (trước đây canh tác 2 vụ sống được), phải bỏ nhà cửa đi Bình Dương, ra các thành phố kiếm kế sinh nhai. Bây giờ nhiều người sống trong đê lâu năm đã thấy vấn đề, muốn xả lũ vào lấy phù sa lại, nhưng không được. Một ô đê bao như vậy từ 100-500 hecta tức là có khoảng 100-500 gia đình. Muốn xả lũ vào thì phải "trưng cầu dân ý", nhưng không thể đồng thuận được xả lũ vào lại sẽ thiệt hại nhà cửa, mồ mả, vườn tược như đã nói ở trên. The point of no return !".
Cũng vẫn theo thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện thì phần nguyên sinh Đồng Tháp Mười nay chỉ còn khoảng 2% diện tích. Sự can thiệp của con người vào hai vùng trũng Đồng Tháp Mười và Khu Tứ Giác Long xuyên bất kể hậu quả, đã làm mất nguồn nước dự trữ cho mùa khô nơi đồng bằng sông Cửu Long và cũng có nghĩa là vắt cạn kiệt tài nguyên môi sinh Đồng Tháp Mười không thể nào phục hồi lại.
Cư dân đồng bằng sông Cửu Long đang phải trả giá cho những bước phát triển hủy hoại ấy (destructive development). Phục hồi nguyên trạng hệ sinh thái Sông Mekong và đồng bằng sông Cửu Long gần như là không thể được, nhưng phải biết dừng lại những bước sai lầm để giới hạn tổn thất/damage control và không làm trầm trọng thêm tình trạng vốn đã bi đát như hiện nay. Vấn đề là làm sao tạo được ý thức nơi người nông dân, và cả với giới chức quyền đa số đến từ Miền Bắc phải hiểu thế nào là phát triển bền vững (sustainaible development). Để hướng tới những bước phát triển hài hòa cho toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long thay vì phát triển tự phát và cục bộ, điều ấy đòi hỏi rất nhiều kiên nhẫn thuyết phục và cả thời gian.
***
Tiến sĩ Dương Văn Ni là một người nhỏ nhắn có nét thuần chất của một nông dân, với đôi chân từng lội ruộng dính phèn. Năm 9 tuổi đã phải xa gia đình, Tết Mậu Thân, Ni còn là một cậu bé đi rao bán bánh mì kiếm sống. Ni đã thoát ra khỏi cảnh nghèo bằng cắp sách tới trường đi học. Với kiến thức anh thu thập được từ các đại học tiên tiến [anh có bằng MS tại Philippines, rồi Ph.D ở Anh], anh Ni và các bạn đi với chúng tôi ngày hôm nay đang là bước tiếp nối thế hệ bậc thầy Phạm Hoàng Hộ, thầy Nguyễn Duy Xuân và rồi tới thế hệ Võ Tòng Xuân về sau này. Trong cố gắng bảo tồn nguồn tài nguyên thiên nhiên, các anh còn có nỗ lực kích hoạt quá khứ ấy và làm sao kết nối với đời sống hiện tại. Anh Ni lúc nào cũng đau đáu nghĩ tới thực trạng cuộc sống của bà con nông dân cũng là phần đời của anh trong đó.
Đến bên một đầm sen, anh Ni giải thích : "Sen là loại cây phổ biến ở Việt Nam, nhiều nhất là vùng Đồng Tháp Mười. Lợi ích của cây sen được mọi người biết tới : từ hoa, hạt, tim sen, ngó sen, lá sen đều có công dụng và ăn được ; ngay cả cọng sen đem gọt phần vỏ nhám đem muối dưa ăn cũng rất ngon và dòn, ngon hơn cả rau muống. Duy có tơ sen lấy từ cọng sen là chưa được khai thác đúng mức tuy mới đây đã có một cô doanh nhân trẻ từ Sài Gòn bắt đầu đi vào thử nghiệm khai thác".
Theo Tiến sĩ Lê Anh Tuấn, loại lụa đặc biệt làm từ tơ sen không phải là mới với một số quốc gia Đông Nam Á. Đó là một nghề truyền thống có từ cả trăm năm nơi ngôi làng Paw Khon, Miến Điện. Lụa này được dệt từ những sợi tơ kéo ra từ thân cây sen, tuy là sản phẩm hiếm và đắt giá nhưng rất thu hút du khách. Một chiếc khăn san dệt bằng tơ sen có giá thành đắt hơn lụa / silk có thể lên đến 100 USD [vnexpress.net] (5).
Mới đây 2009, một doanh nhân trẻ người Pháp Awen Delaval, đã lập một Công ty thời trang làm lụa từ tơ sen ở tỉnh Siêm Riệp, nơi có khu đền đài Angkor. Đây là một ngành tiểu công nghệ đòi hỏi nhiều công đoạn và rất tốn thời gian: để dệt được 1 mét lụa sen, phải cần khoảng 15.000 cọng sen để kéo được 3.000m sợi chỉ sen, và mỗi người chỉ có thể se được 300m chỉ sen mỗi ngày. Giá thành sản phẩm từ lụa sen rất cao như một chiếc áo làm từ lụa sen có giá 2.000 USD, một chiếc váy có giá lên tới 4.000 USD nhưng vẫn có người tìm mua. Do mức sản xuất không đủ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách, công ty của Awen Delaval đã phải thành lập riêng một nông trại sen với diện tích 20 hecta, để có thêm nguyên liệu cọng sen mở rộng sản xuất [vtv.vn/kinh-te] (5).
Nguyên liệu sen thì Đồng Tháp không hề thiếu, chỉ cần giới doanh nhân trẻ dám mạnh dạn đầu tư và đem lại công ăn việc làm cho bao cô gái Đồng Tháp, hay các cô gái Miền Tây nói chung, thay vì bỏ mặc họ phải bỏ quê lên thành phố kiếm sống hay phải chọn đi lấy chồng Hàn Quốc, Đài Loan và mới đây nhiều hơn, đang được khuyến khích là kết hôn với đám công nhân Tàu đang làm việc ở Việt Nam, hợp pháp hay không. Mong rằng tấn thảm kịch bị Hán hóa / Sinicization như quốc gia Tây Tạng không diễn ra ở đồng bằng sông Cửu Long vào những thập niên tới. Người Tây Tạng ngày nay đã trở thành thiểu số trên chính quê hương họ.
Đến với những khối đá lãng quên
Rải rác trên nền lá khô, dưới các tầng cây cao không thể không chú ý tới những khối đá tảng, có hình như những khối vuông hình cột. Theo anh Võ Tấn Nghĩa người trông coi khu Bảo tồn Gò Tháp, thì đây là những khối đá có gốc gác từ nền văn hóa Phù Nam hơn 1.500 năm trước, nguyên là chiếc cổng bằng đá đi vào Đền thần Shiva ; do một trận đại hồng thủy vào thế kỷ thứ VII, bị đổ sập một số trôi dạt xuống đây [sic].
Nhìn kỹ trên mặt đá, có chút tò mò mới thấy được những nét chữ khác nhau khắc trên mặt đá, và có lẽ chỉ mới đây thôi - từ thế kỷ trước, nay đã lu mờ do sức tàn phá của những trận mưa acid và sức bào mòn của thời gian. Tiến sĩ Lê Phát Quới trong nhóm tìm đọc và chụp hình với ống kính zoom những bài thơ rải rác trên mặt đá. Mấy dòng thơ cảm khái anh Quới đọc mà tôi còn nhớ được, có tựa đềĐồng Tháp Mười, không ghi ngày tháng, tác giả thì khuyết danh
Còn non còn nước còn ta
Non mòn biển cạn lòng ta vẫn đầy
Theo anh Nghĩa, người trông coi khu Bảo tồn Gò Tháp, thì đây là một trong những tảng đá từ cổng vào Đền Thần Shiva có gốc gác từ nền văn hóa Phù Nam từ hơn 1500 năm, bị ngã đổ và trôi dạt sau một trận đại hồng thủy vào Thế kỷ thứ VII.
Các bài thơ và bàn cờ tướng khắc trên đá chỉ mới có từ thế kỷ XX về sau này. (Photo by Ngô Thế Vinh)
Thêm một bài thơ khác trên đá, Gò Tháp 1956
Trên mặt bằng phẳng một khối đá khác, tôi không khỏi ngạc nhiên khi đọc được một dòng chữ tương đối còn rõ nét : Toàn dân Đồng Tháp ghi ơn Ngô Tổng Thống và đó cũng là câu đầu của một bài thơ mộc mạc nhưng cảm động ghi lại chuyến viếng thăm Đồng Tháp của Tổng Thống Ngô Đình Diệm vào ngày 13 tháng 7 năm 1956 tức năm Bính Thân.
Anh Nghĩa người trông coi khu Bảo tồn Gò Tháp, tuổi chừng 40 có dáng vẻ đôn hậu của người dân Nam Bộ, khi TT Ngô Đình Diệm tới đây thì anh chưa sinh ra, anh nói lại như một cổ tích : "Tháng 7 năm 1956, Ngô Đình Diệm tới đây khánh thành một công trình tỉnh Đồng Tháp, có tới ngồi đây đánh cờ, ăn chén bắp xôi, uống ly rượu nghĩa tình với dân Đồng Tháp" [sic].
Chúng tôi cùng nhau phải vừa đọc vừa đoán, dù hết sức tập trung, cũng vẫn là câu được câu mất. Hơn 60 năm rồi còn gì, liên tục phơi mình trong những cơn mưa lũ trong cái nóng ẩm miền nhiệt đới, những khối sa thạch ấy đang bị bào mòn theo thời gian.
Khi hỏi, mới được biết bài thơ khắc trên đá ấy không có trong cuốn sách Gò Tháp (3) vừa tái bản nhưng anh Nghĩa cũng đã ghi lại bài thơ bằng máy đánh chữ rồi được lưu trong máy như tài liệu riêng. Chúng tôi yêu cầu có bài thơ ấy và anh Nghĩa hứa là sẽ gửi cho chúng tôi.
Và rồi ba ngày sau, trước khi rời Sài Gòn, tôi đã được anh Nghĩa Gò Tháp gửi qua điện thư cho một bản chụp và dưới đây là nguyên vẹn bài thơ dân Đồng Tháp ghi ơn Tổng thống Ngô Đình Diệm khắc trên đá [nguồn : tư liệu của anh Nghĩa Gò Tháp].
Toàn dân Đồng Tháp ghi ơn Ngô Tổng Thống
Ngàn năm một thuở, vùng chính khí in bước Ngô chí sĩ
Quan san cách trở viếng cảnh người xưa suối vàng chắc hẳn
Tổng Đốc Binh Kiều. Tất (*) dạ khuây, cho hay, nhân sinh
Tư cổ thùy vô tử, tử ư quốc sự, tử cương thường.
Hết viếng người xưa, đến viếng dân,
Toàn dân Đồng Tháp đến tri ân, thương người lận đận
vì non nước, ký thác cuộc đời cho núi sông.
Nơi đây 13/7 năm Bính Thân "1956"
Tổng Thống ăn ngồi chung với dân,
Xếp bằng mặt đất bên chén bắp sôi,
Chai rượu nếp, tình người cao cả rộng bao la.
Đại tá Văn Là tường thuật sự,
Tháp mười đô thị thành hồng khách,
Báo quốc vong thân độc nhất quân,
Gẫm chuyện cổ kim chưa từng có,
Gò Tháp chốn nầy tạt (*) đá ghi.
Gò tháp ngày 14/7 năm Bính Thân 1956.
Một giải phóng quân Đồng Tháp đã khổ
mới chịu khổ để cứu khổ kẻ khác
Viết theo trên tản đá còn lại ở nền Tháp Mười tầng.
Một trang sử đã qua đi, không luận tới chuyện thành bại, ngậm ngùi để thấy rằng Miền Nam, Châu Á đã mất đi một khuôn mặt lãnh đạo "nhân cách".
Đồng Tháp Mười, 12/2017
Ngô Thế Vinh
(*) Ghi chú của người viết : vẫn giữ nguyên các từ ngữ "địch, ta" và những đánh vần sai chánh tả từ bản gốc.
Tham khảo :
(1) Nguyễn Hiến Lê, Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, Nhà xuất bản Nguyễn Hiến Lê, Sài Gòn 1954.
Nguyễn Hiến Lê sanh năm 1912 mất 1984, được biết tới như là một nhà giáo, nhà văn, học giả, dịch giả, với hơn 100 tác phẩm sáng tác, biên soạn và dịch thuật thuộc rất nhiều thể loại.
(2) Ngô Thế Vinh, Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng, Nhà xuất bản Văn Nghệ California 2000.
(3) Trần Ngươn Phiêu, Vùng Đất Ngập Đồng Tháp Mười, Amarillo, Texas 2006 [tư liệu Ngô Thế Vinh]. Diễn Đàn Thế Kỷ 6/12/2010.
(4) Gò Tháp, Di tích Quốc gia Đặc biệt, Nhà xuất bản Văn Hóa - Văn Nghệ, Sài Gòn 2016
(5) Lụa dệt từ sợi tơ sen khá phổ biến ở Myanmar và Cambodia :
http://vtv.vn/kinh-te/doc-dao-lua-lam-tu-cuong-sen-tai-campuchia-20170709110311059.htm