Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Repsol nhượng cổ phần vì bị Trung Quốc ép, Việt Nam càng quyết tâm kiện ?

VOA, 23/06/2020

Công ty dầu khí Tây Ban Nha Repsol va quyết đnh chuyn nhượng li c phn ba lô du khí vn không hot đng được trong nhng năm qua cho PetroVietnam do sc ép ca Trung Quc và các chuyên gia cho rng đng thái này là h qu tt yếu nhưng có th làm Hà Nội quyết tâm hơn trong vic kin Bc Kinh ra toà quc tế vì nhng tranh chp trên Bin Đông.

repsol1

Repsol được cho là đã chuyn nhượng li c phn ca ba lô thăm dò du khí trên Bin Đông cho tp đoàn du khí quc gia PetroVietnam trước sc ép ca Trung Quc.

Theo ghi nhận ca trang Archyde hôm 13/6, Repsol đã ký mt tho thun vi tp đoàn du khí nhà nước PetroVietnam đ chuyn nhượng các c phn ca công ty này ti Châu Á. Trong số ba lô du khí mà công ty Tây Ban Nha nhượng li c phn cho PetroVietnam có m Cá Rng Đ, mt d án mà chính ph Vit Nam đã yêu cu Repsol ngng khai thác t năm 2017 vì sc ép ca Trung Quc.

Công ty dầu khí Tây Ban Nha s chuyn nhượng 51,57% số c phn lô 07/03 PSC và 40% s c phn lô 135-136/03 PSC cho công ty du khí Vit Nam, theo Archyde.

Repsol không ngay lập tc tr li yêu cu bình lun ca VOA v thông tin trên.

Hồi tháng 5/2018, Reuters cho biết rng Repsol đã tiến hành thương lượng vi PetroVietnam và các quan chc chính ph v vic đn bù cho nhng tác đng t vic ngng hot đng d án Cá Rng Đ trong khu vc Bãi Tư Chính mà Trung Quc nhiu ln đưa tàu vào nhm gây sc ép đi vi hot đng khai thác gn đường "lưỡi bò" 9 đoạn mà Bc Kinh đơn phương tuyên b.

Giáo sư Carl Thayer ca Đi hc New South Wales, người thường bình lun v các vn đ Bin Đông, cho rng quyết đnh ca Repsol tr li ba lô thăm dò du khí là h qu bi vì trong hai năm qua công ty này đã không thể tiến hành các hot đng thương mi liên quan.

"Có thể lp lun rng Trung Quc đã do nt Vit Nam mt cách thành công t ba năm trước", Giáo sư Thayer nói khi trích dn thông tin chuyn nhượng ca Repsol t Archyde trong phn đăng ti v vic Repsol tr lại cổ phn cho PetroVietnam trên Thayer Consultancy Brackground Brief hôm 18/6.

Theo bình luận ca Archyde, đng thái này ca Repsol được cho là đã hóa gii được cuc xung đt vi PetroVietnam liên quan đến tình trng ca các lô thăm dò du khí này cũng như làm giảm s hin din ca h Vit Nam, "mt quc gia được coi là ri ro, bi trong nhng năm gn đây, các hot đng ca h đã b nh hưởng bi xung đt lãnh th trên Bin Đông".

Chính quyền Vit Nam hi tháng 7/2017 đã phi yêu cu Repsol ngng hot đng thăm dò khí đốt ti m Cá Rng Đ khu vc Bãi Tư Chính mà Vit Nam nói thuc "vùng ch quyn không tranh cãi" ca mình. Chưa đy mt năm sau đó, Repsol li mt ln na phi dng hot đng ti m du khí này, mà theo các ngun tin ca Reuters và các chuyên gia quốc tế v Bin Đông, vn do sc ép t Trung Quc.

Sau vụ Cá Rng Đ b ép ngng khai thác ln 2, Ch tch Trung Quc Tp Cn Bình đã c B trưởng Ngoi giao Vương Ngh ti Vit Nam trong chuyến thăm chính thc vào tháng 4/2018 đ đ xut "cùng hp tác để khai thác" trong vùng Bin Đông tranh chp.

Nhận đnh v quyết đnh mi nht ca Repsol, Tiến s Hà Hoàng Hp ca Vin nghiên cu Đông Nam Á ISEAS-Yusof Ishak có tr s Singapore cho rng Repsol b Trung Quc ép phi ri khi Vit Nam nh có quyền ảnh hưởng thông qua vic nm gi c phn Repsol Brazil. Theo Reuters, tp đoàn Sinopec ca Trung Quc chi 7,1 t USD mua 40% c phn ca Repsol chi nhánh Brazil hi năm 2010.

Hồi tháng 5/2018, Repsol được cho là đã bt đu các cuc thương tho vi PetroVienam về vic đn bù sau khi chính ph Hà Ni yêu cu công ty Tây Ban Nha ngng thăm dò du khí do sc ép ca Bc Kinh. Có thông tin t gii chuyên gia du khí lúc đó cho rng PetroVietnam phi bi thường khong 400 triu USD cho Repsol.

Theo Giáo sư Thayer, bất c vic ngng thăm dò du khí nào cũng s nh hưởng đến kh năng đáp ng nhu cu tiêu th năng lượng ngày càng tăng ca Vit Nam và s thêm gánh nng do tách đng ca đi dch Covid-19 đi vi tăng trưởng kinh tế nói riêng ca Vit Nam và trên toàn cu nói chung.

Theo cả Giáo sư Thayer và Tiến sĩ Hp, PetroVietnam s không có đ ngun lc đ t mình phát trin các lô du khí mà Repsol va tr li và s phi tìm các đi tác nước ngoài đ cùng hp tác và khai thác.

Những xung đt gia Vit Nam và Trung Quc trên vùng biển Đông đc bit tăng cao trong nhng năm gn đây đã khiến Hà Ni ln đu tiên gi công hàm phn đi Bc Kinh ti Liên Hp Quc hi cui tháng 3 va qua đ phn bác các lp lun ca Trung Quc v vn đ Bin Đông.

Theo Tiến sĩ Hợp, Vit Nam đang chun b kiện Trung Quc v Bin Đông và s càng quyết tâm làm vic này sau đng thái rút lui ca Repsol.

"Nó sẽ thúc đy vic Vit Nam s kin Trung Quc ra toà quc tế vì hin hay Trung Quc đang gây hn Bin Đông ch không phi Vit Nam. Nó có nh hưởng tt vì thúc đẩy Vit Nam sm đưa Trung Quc ra mt toà án nào đó", Tiến sĩ Hp nói.

Thạc s Hoàng Vit, mt nhà nghiên cu lut bin và hi đo Vit Nam, trước đó trong tháng này cũng nhn đnh vi VOA rng "sm mun gì Vit Nam phi khi kin Trung Quc" vì "Trung Quốc s không dng các tham vng ca h trên khu vc Bin Đông" và "ti mt mc nào đó thì Vit Nam không chu ni, buc phi đưa Trung Quc ra toà".

Hồi đu tháng này, c vn cp cao v Châu Á và Giám đc D án Sc mnh Trung Quc ca Trung tâm Nghiên cu Chiến lược và Quc tế (CSIS) ca M, Bonnie Glaser, nói vi VOA rng Vit Nam đã trong "tư thế sng sàng" và ch cn "mt quyết tâm chính tr" là s kin Trung Quc ra toà án quc tế v tranh chp Bin Đông.

Nguồn : VOA, 23/06/2020

******************

Repsol nhượng cổ phần ba lô dầu : Trung Quốc đe dọa thành công Việt Nam trên Biển Đông ?

Tập đoàn dầu khí Repsol của Tây Ba Nha đã ký thỏa thuận với PetroVietnam để chuyển nhượng cổ phần tại ba lô thăm dò dầu khí thuộc vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam - vốn không hoạt động được từ ba năm nay do sức ép từ Trung Quốc, trong đó có dự án Cá Rồng Đỏ.

repsol0

Lô 07/03 nằm cạnh Lô 136-03 mà Việt Nam phải ngưng khai thác hồi 7/2017

Cụ thể, Repsol sẽ chuyển nhượng cho Petro Vietnam 51,75% cổ phần ở lô 07/03 PSC và 40% cổ phần ở lô 135-136/03 PSC.

Bằng cách này, Repsol được cho là đã hóa giải được cuộc xung đột với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam liên quan đến tình trạng của các lô này và làm giảm sự hiện diện của họ ở Việt Nam, "một quốc gia được coi là rủi ro, bởi trong những năm gần đây, các hoạt động của họ đã bị ảnh hưởng bởi cuộc xung đột lãnh thổ trên Biển Đông", theo bình luận trên trang Archyde.

Năm 2018, Repsol từng nhận được yêu cầu của PetroVietnam về việc ngưng dự án Cá Rồng Đỏ tại lô 07/03, nơi Repsol có 52% cổ phần, do sức ép từ Trung Quốc.

BBC News tiếng Việt có cuộc trao đổi với Giáo sư Carl Thayer, nhà nghiên cứu chính trị Đông Nam Á từ Úc, quanh động thái mới của Repsol và các tác động tới Việt Nam.

BBC : Ông có cho rằng động thái này đã chứng minh rằng Trung Quốc đã thành công trong việc dọa nạt Việt Nam và các đối tác kinh doanh, khi Việt Nam và các đối tác đã phải từ bỏ các quyền lợi trên Biển Đông vốn được luật pháp quốc tế công nhận ?

Carl Thayer : Có thể lập luận rằng Trung Quốc đã thành công trong việc dọa nạt Việt Nam từ ba năm trước.

Việc Repsol quyết định trả lại ba lô thăm dò (135-136 / 03 và 07/03) chỉ là hệ quả vì trong hai năm qua, Repsol đã không thể tiến hành các hoạt động thương mại liên quan đến các dự án này.

Theo luật quốc tế, Việt Nam có quyền chủ quyền đối với các mỏ khí trong các lô này vì chúng nằm trong Vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Trung Quốc đã thành công trong việc đe dọa Việt Nam vào tháng 7/2017 và một lần nữa vào tháng 3/2018 khi Việt Nam đình chỉ và sau đó tạm dừng hoạt động khai thác lô dầu đang được Repsol tiến hành trong các khối 07/03 và 136/03.

Việt Nam đã không tiến hành bất kỳ hoạt động thăm dò dầu thương mại nào trong các lô này kể từ đó.

BBC : Hành động này sẽ ảnh hưởng đến việc đầu tư của các công ty dầu khí quốc tế khác vào thị trường khai thác dầu ở Việt Nam do lo sợ áp lực của Trung Quốc ?

Carl Thayer : Các công ty dầu khí quốc tế hiện đang hoạt động tại vùng biển Việt Nam bao gồm ONGC Videsh của Ấn Độ, Exxon Mobil của Mỹ, và Roseft của Nga - từ lâu đã nhận thức được những rủi ro mà họ đang gặp phải.

Trong quá khứ, chính phủ Ấn Độ đã thúc giục ONGC Videsh tiếp tục hoạt động khai thác dầu khí tại đây.

Năm 2018 đã có tin đồn rằng Exxon Mobil sẽ rời khỏi Việt Nam vì lý do tài chính. Tuy nhiên, đầu tháng này, một quan chức cấp cao của ExxonMobil đã điện đàm với Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc để bày tỏ mối quan tâm của công ty mình trong việc phát triển các nhà máy điện khí hóa lỏng (LNG) trên đất liền.

Bất kỳ áp lực nào của Trung Quốc đối với Exxon Mobil tại thời điểm này có thể sẽ khiến Hoa Kỳ nhảy vào can thiệp.

Rosneft đã giữ vững quan điểm của mình vào năm ngoái. Có báo cáo rằng các hoạt động thăm dò dầu khí có thể tiếp tục trong các lô đã được cấp phép cho Rosneft. Giàn khoan dầu Clyde Boudreaux gần đây đã được kéo đến Vũng Tàu.

BBC : Việt Nam được cho là sẽ phải chịu thiệt hại tài chính lớn do động thái mới đây của Repsol. Thiệt hại này sẽ ảnh hưởng đến tình trạng ngành dầu khí Việt Nam như thế nào ?

Carl Thayer : Các lô dầu khí mà Repsol vận hành được ước tính chứa 172 tỷ feet khối khí tự nhiên có thể phục hồi, 45 triệu thùng dầu thô và 2,3 triệu thùng nước ngưng (dầu thô nhẹ).

Nếu các lô này có thể bơm dầu và khí đốt lên bờ để sản xuất điện, chúng sẽ góp phần quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu năng lượng của Việt Nam.

Vào tháng 5/2018, có thông tin rằng Respol đã tham gia các cuộc đàm phán với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam để được bồi thường khi chính phủ Việt Nam ra lệnh cho họ ngừng hoạt động. Ước tính vào thời điểm đó, nếu Repsol bị đình chỉ hoạt động hoàn toàn, các nhà đầu tư sẽ mất trắng gần 200 triệu đô la đã bỏ ra.

Bất kỳ việc đình chỉ khai thác dầu nào cũng sẽ ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng nhu cầu năng lượng ngày càng tăng của Việt Nam và đè nặng lên các tác động do dịch Covid-19 gây ra đối với tăng trưởng kinh tế nói riêng tại Việt Nam và trên toàn cầu nói chung.

BBC : Liệu động thái này có nói lên rằng chính phủ Việt Nam sẽ không bao giờ dám kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế liên quan đến các tranh chấp trên Biển Đông ?

Carl Thayer : Có ý kiến cho rằng Việt Nam bị ràng buộc bởi luật pháp quốc tế liên quan đến cách thức chọn hành động pháp lý mà Việt Nam có thể khởi xướng.

Ví dụ, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) chỉ bao gồm "các tranh chấp liên quan đến việc giải thích hoặc ứng dụng" Công ước.

UNCLOS không thể giải quyết các tranh chấp về chủ quyền, phân định ranh giới trên biển và các hoạt động quân sự.

Tòa trọng tài quốc tế cần có sự đồng ý của cả hai bên. Và như chúng ta đã chứng kiến từ vụ Philippines kiệnTrung Quốc, UNCLOS không có bất kỳ biện pháp thực thi nào.

Điều này không có nghĩa là Việt Nam sẽ không bao giờ kiện, nhưng họ sẽ phải lựa chọn các vấn đề của mình một cách cẩn thận. Cách tiếp cận của Philippines là yêu cầu Tòa Trọng tài - được thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS - để xác định các quyền lợi của họ theo Luật Biển.

Quyết định chuyển nhượng hợp đồng sản xuất chung của mình trong lô 07/03 và 135-136 / 03 cho Tập đoàn Dầu khí được thực hiện trên cơ sở thương mại.

Tập đoàn Dầu khí Việt Nam có lẽ không có đủ nguồn lực để tự phát triển các khối này. Tập đoàn này sẽ phải tìm kiếm đối tác nước ngoài.

Điều này sẽ khó khăn vào thời điểm sự hiếu chiến của Trung Quốc gia tăng và căng thẳng giữa Bắc Kinh và Washington leo thang.

Mỹ Hằng

Nguồn : BBC, 20/06/2020

Additional Info

  • Author VOA tiếng Việt, Carl Thayer, Mỹ Hằng
Published in Diễn đàn

Khoan dầu trên Biển Đông : Việt Nam nói hoạt động theo luật quốc tế (VOA, 18/05/2018)

Bộ Ngoi giao Vit Nam nói trong mt thông cáo gi cho Reuters hôm 17/5 rng các hot đng du khí hàng hi ca mình là phù hp vi lut phát quc tế và được tiến hành trong vùng bin mà Vit Nam có hoàn toàn ch quyn.

dau1

Bộ ngoi giao Vit Nam đưa ra tuyên b phn ng v các hot đng ca Trung Quc trên Biển Đông qua Twitter (@PressDept_MoFA)

Thông cáo này được đưa ra mt ngày sau khi hai nguồn tin riêng ca Reuters cho biết Rosneft Vit Nam BV, thuc công ty du m quc gia Nga Rosneft, lo ngi rng công vic khoan du mi hp tác vi Vit Nam gn đây trong khu vc Bin Đông s khiến Bc Kinh ni gin.

"Như chúng tôi đã luôn khng đnh, tt c các hot đng kinh tế hàng hi ca Vit Nam, bao gm các hot đng du khí, đã được cp phép và được tiến hành trong các khu hàng hi hoàn toàn nm trong lãnh th ca Vit Nam và thuc quyn tài phán (ca Vit Nam)", người phát ngôn Lê Th Thu Hng nói trong mt thông cáo gi cho Reuters.

dau2

Công ty Rosneft của Nga lo s vic khoan thăm dò du khí ca h vi Vit Nam trên Biển Đông cũng s b Trung Quc chèn ép như h đã làm vi công ty năng lượng ca Tây Ban Nha, Repsol.

Ngày 15/5, Rosneft cho biết chi nhánh ca h ti Vit Nam đã bt đu khoan giếng LD-3P, thuc m khí Lan Đ Lô 06.1, cách b bin phía đông nam Vit Nam 370km. Lô này "nm trong khu vc đường ‘lưỡi bò’ 9 đon mà Trung Quc vch ra", theo công ty nghiên cu và tư vn năng lượng Wood Mckenzie.

Tòa trọng tài quc tế La Haye đã bác b đường ‘lưỡi bò’ 9 đon ca Trung Quc trong mt phán quyết ra vào ngày 12/7/2016. Nhưng Trung Quc ph nhn phán quyết này.

Phát ngôn viên Lục Khng ca B Ngoi giao Trung Quc hôm 17/5, khi được hi v tường trình ca Reuters v v khoan du ca công ty Nga, nói : "Không có quc gia, t chc, công ty hay cá nhân nào được phép thc hin các hot đng thăm dò hoc khai thác du khi trong vùng bin thuc thm quyn ca Trung Quc khi không được phép ca chính ph Trung Quc".

Phát ngôn viên Bộ Ngoi giao Trung Quc "kêu gi các bên liên quan tôn trng ch quyn và quyn tài phán ca Trung Quc và không làm bt c điu gì có th nh hưởng đến quan h song phương hoc hòa bình và n đnh trong khu vc".

Trong khi đó người phát ngôn B Ngoi giao Vit Nam nói trong tuyên b gi đến Reuters rng "các hot đng du khí ca Vit Nam được thc hin theo Công ước v Lut bin năm 1982 ca Liên Hip Quc".

Đường lưỡi bò 9 đon ca Trung Quc đánh dấu mt khu vc rng ln trên Bin Đông mà nước này tuyên b ch quyn, bao gm c khu đc quyn kinh tế ca Vit Nam.

Các bản đ khu vc cho thy lô 06.1 nm vào khong 85 km bên trong khu vc tranh chp.

Trong chưa đy 1 năm qua, Repsol, mt công ty năng lượng ca Tây Ban Nha đã b Vit Nam 2 ln yêu cu dng các d án khoan du trên vùng bin có tranh chp vi Trung Quc. Theo Reuters và BBC, Repsol phi dng khai thác khí đt vì sc ép ca Bc Kinh lên Hà Ni. Repsol đã yêu cu Vit Nam phi bi thường cho nhng thit hi t vic dng d án.

Sau 2 lần Repsol b yêu cu ngng các d án ca "Cá Rng Đ", các chuyên gia cnh báo "s không có công ty nước ngoài nào còn mun đu tư vào Vit Nam na".

Trong một ln phng vn vào tháng trước vi VOA, hai chuyên gia về Biển Đông ca M, Gregory Poling ca Vin nghiên cu chiến lược quc tế (CSIS) và Alexander Vuving ca Trung tâm nghiên cu an ninh Châu Á-Thái Bình Dương Daniels K. Inouye cho rng Vit Nam đang b Trung Quc ln át trên Biển Đông, "rơi vào thế kt" và "không biết phi tiến lên phía trước như thế nào".

Tập đoàn du khí quc gia PetroVietnam đu tháng 4 đã lên tiếng tha nhn rng tình hình căng thng trên Biển Đông s nh hưởng đến hot đng du khí ca h trong năm nay. Theo bài viết đăng ti trên trang web của PetroVietnam hôm 3/4, tp đoàn du khí này nói "nhng din biến phc tp (trên Biển Đông) s nh hưởng đến vic kêu gi các nhà đu tư nước ngoài tham gia đu tư tìm kiếm thăm dò du khí các lô còn m ca tp đoàn".

*******************

Rosneft cũng sẽ bỏ chạy như Repsol ? (CaliToday, 18/05/2018)

Sau vụ Repsol và nỗi nhục Cá Rồng Đỏ, chính thể độc đảng ở Việt có vẻ ‘khôn ra’ khi tìm cách dựa dẫm vào Công ty dầu mỏ quốc gia Nga Rosneft để khoan giếng LD-3P, thuộc mỏ khí ngoài khơi Lan Đỏ ở Lô 06.1, cách phía đông nam Việt Nam 370 km.

dau3

Giàn khoan JDC Hakuryu-5 của tập đoàn Rosneft ở ngoài khơi Vũng Tàu, Việt Nam. Ảnh chụp ngày 29/04/2018 của Reuters/Maxim Shemetov

Nhưng ‘cái khó lại ló cái ngu’. Ngay cả Rosneft của người Nga cũng đang rơi vào tình trạng cám cảnh như Repsol của Tây Ban Nha khi bắt đầu bị Trung Quốc gây sức ép phải rời bỏ mỏ Lan Đỏ.

Theo Reuters, ngày 17/5/2018 Rosneft đã phải lên tiếng bày tỏ lo ngại rằng hoạt động khoan dầu mới hợp tác với Việt Nam gần đây trong khu vực Biển Đông sẽ khiến Bắc Kinh nổi giận.

Tuy thông cáo của Rosneft, mà chi nhánh tại Việt Nam là Rosneft Việt Nam BV, đã nói rõ : "Khu vực thuộc Biển Đông mà Rosneft được giấy phép khai thác nằm bên trong vùng lãnh hải của Việt Nam…", và tập đoàn Nga này khẳng định là chỉ tiến hành các hoạt động "trên thềm lục địa của Việt Nam, phù hợp hoàn toàn với nghĩa vụ quy định trong giấy phép hoạt động và trên tinh thần tôn trọng luật lệ của Việt Nam"., nhưng một công ty nghiên cứu và tư vấn năng lượng là Wood Mackenzie cho biết lô này nằm trong khu vực đường lưỡi bò chín đoạn mà Trung Quốc tự vạch ra.

Tuyên bố của Rosneft được đưa ra vào lúc tại Bắc Kinh, phát ngôn viên bộ ngoại giao Trung Quốc Lục Khảng lên tiếng cảnh cáo là không một quốc gia, tổ chức, công ty hoặc cá nhân nào có quyền tiến hành thăm dò hoặc khai thác dầu khí trong vùng biển của Trung Quốc nếu không được phép của Bắc Kinh.

Phát ngôn viên Trung Quốc đã tuyên bố như trên khi được hỏi về sự kiện chi nhánh tại Việt Nam của tập đoàn Nhà Nước Nga Rosneft đã bắt đầu hoạt động khoan dầu khí tại một khu vực trên Biển Đông mà Bắc Kinh đòi chủ quyền.

Chính thể Việt Nam, cùng nền ngân sách đang rơi vào cảnh suy kiệt mà chỉ còn trông chờ vào thói đè đầu dân chúng để tróc thuế và khai thác nguồn tài nguyên gần như duy nhất còn lại là dầu khí, đang lâm vào bi kịch không những phải ‘giương cờ trắng’ tại mỏ Cá Rồng Đỏ và mỏ Cá Voi Xanh, mà còn phải ‘quy hàng thiên triều’ ở mỏ Lan Đỏ.

Tháng Bảy năm 2017 đã xảy ra một sự kiện mà xứng đáng được liệt vào loại "nhục quốc thể" : chính quyền Việt Nam phải "giương cờ trắng" khi yêu cầu Repsol ngừng hoạt động thăm dò khí đốt tại mỏ Cá Rồng Đỏ ở khu vực Bãi Tư Chính mà luôn được Bộ ngoại giao Việt Nam chiến đấu võ miệng "thuộc vùng chủ quyền không tranh cãi của Việt Nam". Dù chưa bao giờ giới tuyên giáo hay Bộ ngoại giao Việt Nam dám nói toạc về cái nguồn cơn sâu xa của vụ "nhục quốc thể" ấy, nhưng vụ "giương cờ trắng" này lại trùng hợp một cách kỳ lạ với tin tức quốc tế cho biết sau khi Bắc Kinh đe dọa sẽ tấn công một số căn cứ quân sự của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa nếu Việt Nam cho phép Repsol tiếp tục khoan thăm dò dầu khí.

Vào tháng Tư, 2018, một lần nữa Repsol vội vàng tháo chạy khỏi mỏ dầu khí Cá Rồng Đỏ. Cũng vẫn do sức ép không hiểu đến mức độ nào của Trung Quốc.

Đến lúc đó, tình thế đã trở nên bi kịch hơn hẳn : không những các giàn phóng tên lửa của Việt Nam ở Trường Sa đã chẳng thể khiến Trung Quốc hoảng sợ, mà cả sự hiện diện của hàng không mẫu hạm Mỹ USS Carl Vinson ở Đà Nẵng vào đầu tháng Ba, 2018 – theo lời "cầu viện" chính thức của Bộ Quốc phòng Việt Nam – cũng chẳng mấy có tác dụng răn đe Trung Quốc.

Và thay vì tiếp tục "can đảm bám biển", "bản lĩnh Việt Nam" lại thể hiện bằng cơ chế "tự xử" : nếu ở "nỗi nhục Bãi Tư Chính" lần đầu, Petro Vietnam có thể phải bồi thường cho Repsol khoảng 36 triệu USD – kinh phí mà Repsol đã phải bỏ ra để thăm dò dầu khí, thì đến tháng Tư năm 2018, con số bồi thường đã lên đến 200 triệu USD.

Trong khi đó, Tập Cận Bình lại cử Vương Nghị – Bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc – đến Việt Nam ngay sau vụ Bãi Tư Chính lần hai, với một "tối hậu thư" : Việt Nam phải "cùng hợp tác khai thác" mỏ Cá Rồng Đỏ với Trung Quốc. Nếu không, "bản lĩnh Việt Nam" sẽ hết cửa kiếm tiền ngay trong vùng lãnh thổ của mình.

Còn bây giờ là người Nga…

Nhưng người bạn được xem là truyền thống ấy của Việt Nam lại đã không hề làm giới chóp bu Việt Nam an tâm, đơn giản là trong toàn bộ vụ Hải Dương 981 vào năm 2014, Moscow đã giữ im lặng, cho dù quốc gia này vẫn chiếm đến 90% lượng vũ khí cung cấp cho Việt Nam, tính đến thời điểm này.

Sự im lặng đầy chủ ý của người Nga có thể được lý giải phần nào : Putin đã và đang trở thành một đồng minh thân cận của Tập Cận Bình trong cuộc chiến tranh lạnh đang được khởi động với người Mỹ.

Và nếu Putin và Tập Cận Bình thỏa thuận được với nhau một lợi ích nào đó lớn hơn hẳn lợi nhuận từ mỏ Lan Đỏ mà Rosneft dự định hợp tác với Việt Nam cùng khai thác, tương lai chắc chắn là Rosneft cũng sẽ phải cuốn cờ tháo chạy khỏi vùng chủ quyền Việt Nam như Repsol đã từng như thế.

Thiền Lâm

******************

Trung Quốc, Nga và Việt Nam nói gì về dự án khí của Rosneft ? (BBC, 17/05/2018)

Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố không đối tượng nào được tiến hành khai thác dầu khí hoặc các tài nguyên khác "ở vùng biển của Trung Quốc" khi chưa được sự đồng ý của Bắc Kinh.

dau4

Giàn khoan Lan Tây được vận hành bởi Rosneft ở ngoài khơi Vũng Tàu

Cụ thể, Bắc Kinh nhắc tới hoạt động mới đây của công ty Rosneft Vietnam BV, một công ty con của hãng dầu khí quốc gia Nga Rosneft tại khu vực ngoài khơi Vũng Tàu.

"Tôi đã xem các báo cáo có liên quan. Tôi muốn nhắc lại rằng không một quốc gia, tổ chức, công ty hay cá nhân nào được tiến hành khai thác hoặc phát triển hoạt động dầu khí tại vùng biển của Trung Quốc khi chưa được phép từ phía chính phủ Trung Quốc", phát ngôn viên Lục Khảng phát biểu trong cuộc họp báo thường lệ hôm thứ Năm, 17/5.

"Do đó, chúng tôi thúc giục các bên liên quan hãy nghiêm chỉnh tôn trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc, chớ làm gì gây ảnh hưởng tới quan hệ song phương hay hòa bình, ổn định trong khu vực".

Trong một tuyên bố đưa ra trước đó, cũng trong ngày 17/5, Rosneft nói hoạt động khoan thăm dò của hãng diễn ra trong vùng lãnh hải của Việt Nam, hai ngày sau khi công ty con của hãng bắt đầu tiến hành việc khoan thăm dò ở vùng biển ngoài khơi Vũng Tàu.

Bộ Ngoại giao Việt Nam cùng ngày ra tuyên bố nói các hoạt động dầu khí trên biển được thực hiện phù hợp với luật pháp quốc tế và trong vùng biển hoàn toàn thuộc chủ quyền của Việt Nam.

"Toàn bộ các hoạt động kinh tế trên biển của Việt Nam, gồm cả các hoạt động dầu khí, đều được cấp phép và tiến hành trên các vùng biển hoàn toàn thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam", phát ngôn viên Lê Thị Thu Hằng được Reuters dẫn lời.

Vị trí hoạt động mới nhất của Rosneft là trong Lô 06.01, thuộc dự án mỏ khí Lan Đỏ và nằm trong Bể Nam Côn Sơn.

Theo bản đồ khai thác dầu khí chính thức của PetroVietnam, thì Lô 06.1 nằm gần với bờ biển Việt Nam hơn so với các lô 07.03 và 136.03, những nơi đối tác khác của PetroVietnam đã phải dừng hoạt động thăm dò, khai thác hồi tháng 3/2018 và 7/2017 do sức ép từ phía Bắc Kinh.

Chi nhánh của Rosneft tại Việt Nam trước đó đã tỏ ý quan ngại về việc hoạt động mới nhất của hãng có thể khiến Bắc Kinh tức giận, Reuters dẫn hai nguồn tin có liên hệ trực tiếp tới hãng, cho biết hôm thứ Tư.

Phát ngôn viên Điện Kremlin Dmitry Peskov hôm thứ Năm nói rằng hãng đã không hề tham vấn với chính phủ về hoạt động của hãng tại Biển Đông.

Theo trang tin euro-petrole.com chuyên về dầu khí, thì hiện Rosneft đang có một số dự án ở ngoài khơi Việt Nam.

Trong Lô 06.1, nằm cách bờ biển Việt Nam 370 km, chi nhánh của Rosneft tại Việt Nam là Rosneft Vietnam BV sở hữu 35% cổ phần các dự án, và đóng vai trò nhà điều hành dự án. Tại lô này có ba mỏ khí là Lan Tây, Lan Đỏ và Phong Lan Dại.

Trong số các dự án khác, Rosneft thông qua công ty con trên nắm 100% cổ phần và là nhà điều hành của các dự án dầu khí nằm trong Lô 05.3/11, ngay cạnh Lô 06.1. Tại lô này, Rosneft đã tiến hành khoan lần đầu tiên hồi 6/2016 và lần thứ hai trong 3/2018.

Một công ty con khác của Rosneft là Rosneft Pipeline BV nắm 32,67% cổ phần trong dự án Đường ống khí Nam Côn Sơn.

Quan điểm cho đến ngày 14/04/2016 của chính quyền Nga về Biển Đông được Bộ trưởng Ngoại giao Sergei Lavrov nói tại một cuộc họp báo quốc tế rằng Kremlin tôn trọng Công ước Luật biển (UNCLOS) và DOC.

Nhưng điểm đáng chú ý là ông Lavrov nhấn mạnh Nga "muốn các nước liên quan trong tranh chấp Biển Đông giải quyết 'trực tiếp' với nhau, và phê phán cách ông gọi là "quốc tế hóa" vấn đề, theo nhà nghiên cứu Anton Tsvetov.

Ông Tsvetov khi đó có bài trên trang The Diplomat (21/04/2016) nói báo chí Trung Quốc hoan nghênh lời ông Lavrov, còn Bộ Ngoại giao Việt Nam khi ấy đã đáp lại bằng cách kêu gọi "tranh chấp cần được giải quyết bởi tất cả các bên liên quan".

Hồi tháng Ba, PetroVietnam yêu cầu hãng năng lượng của Tây Ban Nha, Repsol, ngưng dự án Cá Rồng Đỏ nằm trong Lô 07/03, khiến Repsol và các đối tác thiệt hại ước tính khoảng 200 triệu đô la đã đầu tư vào dự án.

Lô 07/03 nằm ngay cạnh Lô 136/03, nơi mà cũng Repsol bị chính phủ Việt Nam yêu cầu ngưng hoạt động khoan thăm dò hồi tháng Bảy năm ngoái.

Lô 136-03 là nơi PetroVietnam cho Talisman-Việt Nam, công ty con của Repsol thuê.

********************

Khoan dầu trên Biển Đông : Tập đoàn Nga bác bỏ phản đối của Bắc Kinh (RFI, 17/05/2018)

Không đầy hai hôm sau khi loan báo việc bắt đầu khoan dầu khí tại một khu vực ở Biển Đông, ngoài khơi miền Nam Việt Nam, tập đoàn dầu khí Nga Rosneft hôm nay, 17/05/2018 đã lên tiếng khẳng định rằng nơi họ được phép khai thác hoàn toàn thuộc chủ quyền Việt Nam.

dau8

Giàn khoan JDC Hakuryu-5 của tập đoàn Rosneft ở ngoài khơi Vũng Tàu, Việt Nam. Ảnh chụp ngày 29/04/2018. Thegioibantin.com

Lời khẳng định này được công bố ít lâu sau khi Bắc Kinh lên tiếng cảnh cáo những ai dám thăm dò và khai thác dầu khí trên các vùng biển thuộc chủ quyền Trung Quốc ở Biển Đông.

Theo hãng tin Anh Reuters, trong một bản thông cáo công bố tại Mátxcơva, tập đoàn dầu khí Nga Rosneft, mà chi nhánh tại Việt Nam vừa bắt đầu công việc khoan dầu ở Biển Đông, đã nói rõ : "Khu vực thuộc Biển Đông mà Rosneft được giấy phép khai thác nằm bên trong vùng lãnh hải của Việt Nam…".

Tập đoàn Nga khẳng định là chỉ tiến hành các hoạt động "trên thềm lục địa của Việt Nam, phù hợp hoàn toàn với nghĩa vụ quy định trong giấy phép hoạt động và trên tinh thần tôn trọng luật lệ của Việt Nam".

Tuyên bố của Rosneft được đưa ra vào lúc tại Bắc Kinh, phát ngôn viên bộ ngoại giao Trung Quốc Lục Khảng lên tiếng cảnh cáo là không một quốc gia, tổ chức, công ty hoặc cá nhân nào có quyền tiến hành thăm dò hoặc khai thác dầu khí trong vùng biển của Trung Quốc nếu không được phép của Bắc Kinh.

Phát ngôn viên Trung Quốc đã tuyên bố như trên khi được hỏi về sự kiện chi nhánh tại Việt Nam của tập đoàn Nhà Nước Nga Rosneft đã bắt đầu hoạt động khoan dầu khí tại một khu vực trên Biển Đông mà Bắc Kinh đòi chủ quyền.

Ngày 15/05, tập đoàn dầu khí Nga loan báo là chi nhánh của họ tại Việt Nam đã bắt đầu việc khoan dò ở mỏ Lan Đỏ, thuộc lô 6.1 trên Biển Đông, ngoài khơi Vũng Tàu, cách bờ biển 230 hải lý. Giàn khoan Hakyryu-5 của Rosneft đã đến khu vực khoan hôm từ ngày 06/05 và cho đến hôm qua 16/05, vẫn ở trong lô khai thác.

Vào hôm qua, trích dẫn hai nguồn tin thông thạo, hãng Reuters tiết lộ rằng Rosneft đang lo ngại là hoạt động của họ ở Biển Đông sẽ chọc giận Trung Quốc. Điều khiến Rosneft lo ngại, theo Reuters, là việc công ty tư vấn và nghiên cứu năng lương Wood Mackenzie cho rằng lô dầu khí này nằm bên trong đường 9 đoạn mà Trung Quốc dùng để đòi chủ quyền rộng khắp trên Biển Đông. Bản đồ khu vực cho thấy là nơi khai thác nằm sâu 53 hải lý (85km) bên trong vùng tranh chấp.

Chính vì vậy, theo Reuters, phía Rosneft đã rất kín đáo trong việc thông tin về hoạt động tại mỏ Lan Đỏ.

Tháng Ba vừa qua, Việt Nam đã phải ngưng dự án khoan dầu của tập đoàn Tây Ban Nha Repsol tại mỏ Cá Rồng Đỏ, gần khu vực Lan Đỏ, sau khi bị Bắc Kinh gây sức ép. Hiện Repsol đang yêu cầu phía chính quyền Việt Nam bồi thường thiệt hại.

Bước qua tháng Tư, đến lượt tập đoàn dầu khí Nhà Nước PetroVietnam thừa nhận rằng tranh chấp chủ quyền Biển Đông với Trung Quốc ảnh hưởng đến hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí ngoài khơi của Việt Nam.

********************

Tới lượt công ty dầu khí Nga tại Việt Nam lo bị Bắc Kinh ‘bắt chẹt’ (VOA, 17/05/2018)

Rosneft Việt Nam BV, thuc công ty du m quc gia Nga Rosneft, va lên tiếng bày t lo ngi rng công vic khoan du mi hp tác vi Vit Nam gn đây trong khu vc Bin Đông s khiến Bc Kinh ni gin, Reuters dn hai ngun tin trc tiếp am hiu v tình hình cho biết ngày 17/5.

dau5

Logo của tp đoàn du khí quc gia Nga Rosneft ti văn phòng Moscow, Nga.

Trước đó vào ngày 15/5, Rosneft cho biết đơn v ti Vit Nam đã bt đu khoan giếng LD-3P, thuc m khí ngoài khơi Lan Đ Lô 06.1, cách phía đông nam Vit Nam 370 km. Lô này nm trong khu vc đường lưỡi bò chín đon mà Trung Quc vạch ra, theo công ty nghiên cu và tư vn năng lượng Wood Mackenzie.

Khi được hi v tường thut ca Reuters trước đó v v khoan du này, người phát ngôn B Ngoi giao Trung Quc Lc Khng nói : "Không có quc gia, t chc, công ty hay cá nhân nào được phép thc hin các hot đng thăm dò hoc khai thác du khí trong vùng biển thuc thm quyn ca Trung Quc, khi không được phép ca chính ph Trung Quc".

Phát ngôn viên của Trung Quc nói thêm trong cuc hp báo ngày 17/5 rng : "Chúng tôi kêu gi các bên liên quan tôn trng ch quyn và quyn tài phán ca Trung Quc và không làm bất c điu gì có th nh hưởng đến quan h song phương hoc hòa bình và n đnh trong khu vc".

Đường lưỡi bò 9 đon ca Trung Quc đánh du mt khu vc rng ln Bin Đông mà nước này tuyên b ch quyn, bao gm c nhng khu vc rng ln là khu đc quyền kinh tế ca Vit Nam.

Theo Reuters, đường lưỡi bò 9 đon ca Trung Quc làm cho yêu sách ch quyn ca Bc Kinh tr nên "mơ h". Mc dù vy, nhng năm gn đây Trung Quc gia tăng tun tra và thc thi công lc trong khu vc, tuyên b có các quyn lch sử đi vi ngun tài nguyên và mi th ti đây.

Các bản đ khu vc cho thy lô 06.1 nm vào khong 85 km bên trong khu vc tranh chp.

Hồi tháng 3, Vit Nam đã dng mt d án khoan du lô "Cá Rng Đ" gn đó, sau khi b áp lc t phía Trung Quc, Reuters dẫn các ngun tin cho biết.

Lô này được cp phép cho tp đoàn năng lượng Tây Ban Nha Repsol.

dau6

Vẫn theo Reuters, Repsol đã yêu cu Vit Nam phi bi thường cho nhng thit hi t vic dng d án.

Lo ngại s vic tái din và áp lc t phía Trung Quc, công ty Nga Rosneft Vit Nam mun vic khoan du ít gây chú ý nht có th, bt chp tuyên b ca công ty m, các ngun tin cho Reuters biết.

Hôm 17/5, công ty mẹ ca Rosneft Vit Nam nói vic khoan du ca mình ti lô 06.1 nm trong vùng lãnh hi ca Vit Nam, và phù hp vi lut pháp Vit Nam.

Cả B Ngoi giao Vit Nam lẫn B Ngoi giao Nga đu không tr li yêu cu bình lun ca Reuters.

PetroVietnam cảnh báo khó khăn

Cả hai công ty Rosneft và Gazprom ca Nga đu có các d án phát trin quan trng trong vùng bin Vit Nam nm trong khu vc mà Trung Quc tuyên b ch quyền, Reuters dn li ông Ian Storey, chuyên gia an ninh khu vc ti Vin ISEAS-Yusof Ishak ca Singapore cho biết.

"Mặc dù các nhà ngoi giao Nga đã kín đáo bày t quan ngi vi các đi tác M rng Trung Quc có th gây áp lc lên Moscow đ chm dt các d án này, nhưng cho đến nay Bc Kinh đã kim chế chưa làm vic này vì quan h đi tác chiến lược ngày càng gn gũi hơn gia hai nước", ông Storey nói.

"Đây sẽ là mt đòn nghiêm trng đi vi mi quan h đng minh Trung-Nga đang phát trin nhanh chóng, nếu Bắc Kinh yêu cu Moscow chm dt các d án năng lượng Vit Nam", chuyên gia ca Vin ISEAS-Yusof Ishak nói thêm.

Trung Quốc đã tr thành đim đến hàng đu ca Nga v xut khu, phn ln bi vì Nga là nhà cung cp du và khí đt ln nht cho Trung Quc, chủ yếu thông qua các đường ng dn du.

dau7

Nhân viên Rosneft tại Vit Nam đang làm vic giàn khai thác khí Lan Tây trên Bin Đông, ngoài khơi Vũng Tàu.

Việc khoan du m khí Lan Đ trong lô 06.1 s được thc hin bng cách sử dng thiết b "Hakuryu-5" ca công ty Khoan du Nht Bn, Reuters dn tuyên b ca Rosneft cho biết.

Hakuryu-5 đã được đưa đến khu vc tranh chp vào ngày 6/5, theo d liu công c theo dõi tàu Eikon ca Thomson Reuters. D liu này vn ghi nhn thiết b đang nm lô 06.1 vào cui ngày 16/5.

Việc khoan du có tm quan trng ln đi vi Vit Nam, vn đang phi vt ln đ duy trì sn lượng du thô và khí đt trong bi cnh sn lượng t các m trng đim gim và áp lc liên tc t phía Trung Quc các vùng biển tranh chp.

Hồi tháng Tư, tp đoàn du khí quc gia Vit Nam, PetroVietnam, cho biết căng thng hàng hi vi Trung Quc gây tn hi cho các hot đng thăm dò và khai thác ngoài khơi ca tp đoàn trong năm nay.

Hà Nội và Bc Kinh lâu nay vn tranh chp v ranh gii hàng hi, mt vn đ được xem là "nhy cm" v chính tr Vit Nam.

Published in Châu Á
mercredi, 16 août 2017 17:46

Chung quanh lô dầu khí 136-03

Sự việc Trung Quốc hăm họa vũ lực ở lô dầu khí 136-03 hồi trung tuần tháng sáu 2017 đã khiến cho Việt Nam "xoay trục" về hướng Hoa Kỳ.

khoandau0

Vị trí lô dầu khí 136-03 nằm trong thềm lục địa Việt Nam

Chính quyền cộng sản Việt Nam đã bỏ phí một khoảng thời gian 8 năm quí giá, hai nhiệm kỳ của Tổng thống Obama, để có thể "kết thân" với Hoa Kỳ với tư thế "khá hơn hiện nay" trong chính sách "chuyển trục" của đại cường. Thời gian 8 năm đã có thể gắn bó, Việt Nam đã có thể trở thành "cường quốc trung bình" trong khu vực, theo lời hứa của các lãnh đạo Hoa Kỳ.

Những "hứa hẹn" gọi là "cam kết bảo vệ Biển Đông" hôm kia giữa ông Bộ trưởng bộ Quốc phòng Ngô Xuân Lịch và đồng nhiệm Hoa Kỳ Jim Mattis, cho ta một chút lạc quan. Nhưng trong bối cảnh căng thẳng địa chiến lược khu vực Đông bắc Á, Bắc Hàn lên tiếng đe dọa Mỹ bằng hỏa tiễn "liên lục địa" với đầu đạn hạt nhân. Việt Nam đi "cầu viện" Mỹ trong hoàn cảnh như thế chưa chắc là đem lại hữu ích thực sự cho quốc gia. Nhưng dầu thế nào, khi Việt Nam đứng dưới "cây dù" của Mỹ, vẫn "an toàn" hơn là "đứng một mình", nói là "mở cửa cho tất cả các nước", mà chịu sự đe dọa thường xuyên của Trung Quốc.

Việt Nam đã mua được của Mỹ một số vũ khí "hữu dụng", với giá bạn bè "bớt 50%". "Nghĩa cử" của Mỹ đã "vả" vào những cái miệng tham lam đòi lại quả 25% của đám "hạm tướng" ăn của dân không từ một thứ gì.

Những chiếc trục thăng đời mới Mỹ đặc biệt sản xuất cho "chiến tranh biển đảo", được bán cho Việt Nam. Với giàn "thủy quân lục chiến" tinh nhuệ (nghe nói Việt Nam nhờ Mỹ huấn luyện), ta có thể hy vọng sắp tới Việt Nam có thể "chơi tay ngang" với Trung Quốc trong cuộc chiến giành chủ quyền ở các đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Chính sách "đi dây" của cộng sản Việt Nam hy vọng chấm dứt. Biết bao lần tôi đã cảnh báo, "Việt Nam không đi với nước này chống nước kia", nhưng không ai cấm Việt Nam đi tìm "đồng minh" để ký kết một "liên minh phòng thủ".

Nhưng nếu "tự vệ" thôi thì vẫn chưa đủ. Tự vệ là nhằm bảo vệ lãnh thổ không để bị "mất thêm". Chiến tranh là giải pháp "tệ hại" cuối cùng để giải quyết tranh chấp lãnh thổ. Trong khi giải pháp "tối ưu" vẫn là pháp lý.

Bài viết dưới đây tóm lược những ý kiến chủ đạo của cá nhân tôi trong "hồ sơ chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa" viết từ nhiều năm trước, đăng hồi đầu năm 2017. Mục đích cảnh báo chính sách "quốc tế hóa Biển Đông" của nhà nước cộng sản Việt Nam đang thất bại.

Thử xét vấn đề "kế thừa" và sự "liên tục quốc gia" về chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường sa Trên nền tảng các công ước Vienne 1969, 1978 và Hiệp định Paris 1973.

"Việt Nam có chủ quyền không thể tranh cãi ở Hoàng Sa và Trường Sa" là câu nói mà ta thường nghe nơi cửa miệng của các phát ngôn nhân bộ Ngoại giao Việt Nam. Mỗi khi phía Trung Quốc có một hành vi nào đó xâm phạm đến quyền và lợi ích của Việt Nam ở Biển Đông, lập tức điệp khúc này lại thấy xuất hiện trên các phương tiện truyền thông của nhà nước.

Mặc dầu lời phát biểu trên là cần thiết để phản đối những hành vi của Trung Quốc (đồng thời khẳng định chủ quyền của Việt Nam ở các vùng lãnh thổ này), nhưng ngày qua ngày nếu chỉ lặp đi lặp lại một lời nói, một luận điệu, thì ý nghĩa của câu nói tự nhiên sẽ giảm đi.

Trong khi trên thực tế, các hành vi mạnh mẽ thể hiện quyền chủ quyền (Droit de souvraineté - Right of sovereignty) của Trung Quốc tại biển Đông, toàn bộ khu vực biển chung quanh Hoàng Sa đã trở thành việc "nội bộ" của Trung Quốc. Còn thái độ của "quốc tế", nếu Việt Nam không có phản ứng gì khác, thì nó trở thành "việc đã rồi".

Cái gọi là "thành phố Tam Sa" được thành lập từ tháng 7 năm 2012, thủ phủ đặt ở đảo Phú Lâm (thuộc HS). Như cái tên gọi, Tam Sa được đặt ra để "quản lý" ba nhóm đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa), Trường Sa (Trung Quốc gọi là Nam Sa) và Trung sa (gồm bãi chìm Macclesfield và Scarborough). Trong khoảng thời gian không dài lắm Trung Quốc đã hoàn tất việc "quân sự hóa" Hoàng Sa. Đảo Phú Lâm được mở rộng, trở thành một "pháo đài" với độ qui mô không kém các căn cứ của Mỹ ở Guam (Thái Bình dương) hay Diego Garcia (Ấn Độ dương). Đảo Quang Hòa, thuộc nhóm Nguyệt Thiềm, chiếm của Việt Nam bằng vũ lực ngày 19/1/1974, cũng được bồi đắp mở rộng. Một phi trường được xây dựng đồng thời các giàn cao xạ, hỏa tiễn phòng không cũng được bố trí trên đảo này.

Trung Quốc cũng cho phép tổ chức du lịch các đảo HS, cùng lúc đuổi, bắn các tàu đánh cá của Việt Nam không cho phép đến gần khu vực. Trung Quốc cũng ra lệnh "cấm đánh cá" trong một vùng biển rộng lớn, từ 12 vĩ độ về phía bắc, tức bao gồm các ngư trường truyền thống của Việt Nam, từ tháng 5 đến tháng 8 hàng năm.

Vấn đề là Trung Quốc không ngừng ở Hoàng Sa. Họ tiếp tục chiến thuật "tằm ăn dâu" ở khu vực Trường Sa.

Trung Quốc đã xây dựng trong một thời gian nhanh kỷ lục một hoặc hai năm (2013-2015) các bãi san hô (trong đó 6 bãi chiếm của Việt Nam bằng vũ lực 14 tháng 3 năm 1988, gồm các bãi Chữ Thập, Gạc Ma, Huy Gơ, Ga Ven, Rubi và Châu Viên) thành những đảo nhân tạo có bề rộng vượt trội bất kỳ căn cứ quân sự của Mỹ ở ngoài nước Mỹ. Trung Quốc cũng hoàn tất việc "quân sự hóa" tại các đảo nhân tạo này với những phi trường, công sự cũng như hệ thống cao xạ, hỏa tiễn phòng không.

Những phản kháng "chiếu lệ" của Việt Nam trong suốt thời gian qua cho thấy hoàn toàn không hiệu quả. Điều này kéo dài, dư luận quốc tế nhìn nhận "sự việc đã rồi" của Trung Quốc. Tính hợp pháp các hành vi "effectivité" của Trung Quốc trên vùng biển này sẽ được khẳng định.

Việt Nam cần chấm dứt "điệp khúc" nhàm chán của phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao.

Mỗi ngày một ít, nếu tính từ năm 2012 đến nay, cái mà quốc tế gọi là "xắt lát xúc xích" (Việt Nam gọi là tằm ăn dâu), mỗi ngày Trung Quốc "cắn một chút", kết quả trở thành to lớn kinh khủng. Đe dọa Trung Quốc thành lập vùng Nhận dạng phòng không - ADIZ" bao gồm cả vùng biển Trường Sa là có thật.

1. Vấn đề "quốc tế hóa tranh chấp"

Để biện hộ cho sự bất lực của mình, bộ Ngoại giao Việt Nam thường vịn vào lý lẽ "quốc tế hóa việc tranh chấp" và "tranh đấu với Trung Quốc bằng biện pháp ngoại giao" .

Thế nào "quốc tế hóa" một "tranh chấp" về chủ quyền lãnh thổ giữa hai hay nhiều quốc gia ?

Ý nghĩa của việc "quốc tế hóa" một tranh chấp về lãnh thổ thường được hiểu như là việc "giới hạn chủ quyền lãnh thổ của một quốc gia vì lợi ích của một số nước hay các tổ chức quốc tế".

Việc "giới hạn chủ quyền lãnh thổ" ở đây có thể hiểu là quyền tài phán của quốc gia ở vùng lãnh thổ liên hệ bị giới hạn, hay bị thay thể bằng quyền tài phán do quốc tế công pháp qui định.

"Quốc tế" ở đây có thể là Liên Hiệp Quốc, là các cơ quan trọng tài hay phán quyết của tòa án quốc tế…

"Lợi ích" này có thể là sự hòa bình, các quyền (của các quốc gia, tổ chức khác…) đã được qui định bởi luật pháp quốc tế v.v...

Nhưng nhân danh "bảo vệ lợi ích" các nước có thể can thiệp vào nội bộ một nước khác.

Mỹ và một số nước đồng minh, vì quyền lợi và an ninh quốc gia, nên đã can thiệp vào nội bộ các nước Afghanistan, Irak... Bây giờ, giả sử quyền lợi của Mỹ (và các nước khác) ở Biển Đông bị đe dọa (như bị giới hạn quyền tự do hàng hải và hàng không ở khu vực Biển Đông do vùng ADIZ của Trung Quốc), các nước này có thể sẽ "can thiệp" vào khu vực (để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của họ).

Theo thời gian Việt Nam cũng thay đổi lập trường yêu sách về biển đảo, để vừa phù hợp với luật quốc tế, vừa ép mình do hệ quả của việc "quốc tế hóa", điển hình qua hồ sơ "Thềm lục địa mở rộng" nộp LHQ hay các việc ủng hộ Tòa CPA trong vụ xử Phi-Trung Quốc cũng như hoan nghênh sự có mặt của hải quân Hoa Kỳ trong khu vực.

Nhưng hiệu quả vẫn là "không có gì". Việc "quốc tế hóa" không hề ngăn chặn được bước tiến của Trung Quốc. Còn việc gọi là "đấu tranh với Trung Quốc", kết cuộc Việt Nam ngày càng lệ thuộc vào Trung Quốc.

Các bản "Tuyên bố chung" của hai bên luôn nhấn mạnh ở việc giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo "theo nhận thức chung đạt được của lãnh đạo cấp cao trong quá khứ". Bản "Tuyên bố chung" năm nay (2017) "lãnh đạo hai nước" khẳng định thêm một điều là Việt Nam và Trung Quốc "cùng chia sẻ một tương lai chung". Nếu suy diễn ra Biển Đông, những gì của Việt Nam cũng là của Trung Quốc.

Theo tôi, lãnh đạo Việt Nam phải thấy, và nhìn nhận, sự thất bại ngày càng sâu sắc trong các chính sách của mình. Nếu cứ tiếp tục như vậy, khu vực biển TS không bao lâu sẽ cùng số phận với vùng biển HS.

Việc Mỹ vừa thay đổi lãnh đạo. Nhận thức về quyền lợi và cách "tiếp cận" để bảo vệ quyền lợi của họ ở Biển Đông có thể sẽ thay đổi. Việc này sẽ tạo cho Việt Nam một "thời cơ" để phá vỡ cái "hiện trạng tù mù" hiện nay.

Kỹ niệm 44 năm ngày Hiệp định Paris 27 tháng giêng 1973 được ký kết cũng là cơ hội để nhắc lại một điều cơ bản của Hiệp định này về việc "bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ" của Việt Nam của các đại cường. Yếu tố này có thể đem lại cho các học giả trong nước một quan niệm khác về luật học, cũng như cho giàn lãnh đạo mới của Việt Nam một cái nhìn khác (hơn lãnh đạo cũ) và một phương cách mới nhằm giải quyết tranh chấp với Trung Quốc.

2. Sự "liên tục" và "thừa kế" quốc gia về vấn đề lãnh thổ

"Kế thừa quốc gia" và "liên tục quốc gia" là những khái niệm thuộc Quốc tế công pháp, thể hiện qua các điều ước thuộc các công ước Vienne, điển hình là các công ước 1969 và 1978 về sự kế thừa lãnh thổ và hiệu lực các kết ước quốc tế.

Việc kế thừa quốc gia được (công ước Vienne 1978) đặt ra trong những tình huống : 1/ một vùng lãnh thổ của quốc gia này trở thành lãnh thổ của quốc gia khác. 2/ Quốc gia vừa dành được độc lập (Phần IV, điều 16 đến điều 30 Công ước Vienne) 3/ sự thống nhứt giữa hai quốc gia và 4/ một quốc gia bị phân rã thành nhiều quốc gia

"Kế thừa" quốc gia được định nghĩa là việc thay thế một quốc gia bởi một quốc gia khác ở các quan hệ quốc tế, về những vấn đề liên quan đến lãnh thổ.

Việc kế thừa quốc gia thể hiện qua các thủ tục pháp lý nhằm tái xác định (hay phủ định), trách nhiệm của quốc gia thừa kế đối với vùng lãnh thổ mới cũng như hiệu lực các kết ước, hay các tuyên bố của nhà nước tiền nhiệm đã thể hiện trước các định chế quốc tế, hay đối với các quốc gia khác.

Trường hợp hai miền Việt Nam sau 30-4-1975 :

Câu hỏi đặt ra là các sử gia và học giả Việt Nam sẽ phải dựa vào trường hợp nào (trong 4 trường hợp dẫn trên) để khẳng định danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa ?

Trường hợp nào sẽ chứng minh cho sự "liên tục" của "quốc gia" Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa ? tức chứng minh được tính pháp nhân của "quốc gia" Việt Nam luôn tồn tại, cũng như danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa luôn "liên tục", từ thời xa xưa các vua chúa Việt Nam khám phá, khai thác và quản lý (không gián đoạn) đến nay, bất chấp những biến cố đã làm thay đổi về lãnh thổ, dân số, chính trị, hay tên nước… ?

Đồng thời trường hợp nào sẽ xóa bỏ hiệu lực các kết ước, như công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng, các tài liệu lịch sử... phát xuất từ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, mà phía Trung Quốc sử dụng lâu nay như là những bằng chứng pháp lý ?

3. Thế bí về các lập luận chủ quyền của các học giả Việt Nam

a) Về lập luận "có hai quốc gia Việt Nam"

Hầu hết các học giả Việt Nam đều quan niệm rằng có hai "quốc gia Việt Nam" độc lập, có chủ quyền trong khoảng thời gian từ 1954 đến 30-4-1975. Quan điểm này có (rất) nhiều điều không ổn, về pháp lý cũng như trên thực tế. Hệ quả là không thuyết phục được dư luận quốc tế.

Quan điểm này cho rằng chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa được thụ đắc từ sự "kế thừa" : Chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa từ Việt Nam Cộng Hòa chuyển sang Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Sau đó thực thể này thống nhứt với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trở thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày hôm nay.

Về pháp lý, nếu Việt Nam Cộng Hòa là một "quốc gia độc lập, có chủ quyền", thì việc Trung Quốc chiếm HS là việc "nội bộ" giữa hai "quốc gia độc lập, có chủ quyền" là Việt Nam Cộng Hòa và Trung Quốc. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là "quốc gia" thứ ba, không có liên can.

Tức là, khi quan niệm có "hai quốc gia" Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thì sẽ không còn tranh cãi nào về chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Quốc chiếm HS là chiếm trên tay Việt Nam Cộng Hòa. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa lấy tư cách gì để phản đối ?

Ngoài ra, Tuyên bố đơn phương của "quốc gia" Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, còn gọi là công hàm 1958 của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng, nội dung nhìn nhận yêu sách về lãnh thổ và hải phận của Trung Quốc. Mặc dầu một số học giả Việt Nam cho rằng đó là "vũ khí tuyên truyền của Trung Quốc", nhưng thực tế cho thấy đây là một bằng chứng quan trọng của Trung Quốc nhằm chứng minh chủ quyền của họ ở Hoàng Sa và Trường Sa.

Theo tập quán quốc tế, việc im lặng trong trường hợp (bắt buộc một quốc gia phải lên tiếng) đã là sự "đồng thuận ám thị". Huống chi Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa còn ra tuyên bố công khai "nhìn nhận" yêu sách của Trung Quốc.

Tức là, khi quan niệm "có hai quốc gia Việt Nam", thì mọi vận động, mọi chứng cứ về chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa sẽ là điều vô ích.

Trong trường hợp này Việt Nam Cộng Hòa đơn giản là một "quốc gia" bị "giải thể", không có thừa kế. Lãnh thổ Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam Cộng Hòa được "sáp nhập" đơn thuần vào lãnh thổ một nước khác. Mọi kết ước của Việt Nam Cộng Hòa ký kết với các tổ chức quốc tế hay các quốc gia khác, trở thành "vô hiệu lực - caduc".

b) Về lập luận "quốc gia vừa dành được độc lập"

Đây (có lẽ) là quan điểm chính thức của Việt Nam hiện nay, vì nó thể hiện đúng trên lý thuyết "trình tự lịch sử khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa".

Nguyên tắc (pháp lý) áp dụng trong trường hợp này là "table rase". Có nghĩa là quốc gia (vừa mới độc lập) không bị chi phối bởi các kết ước do quốc gia tiền nhiệm ký kết.

Nhưng điều này không còn thuyết phục.

Trên thực tế, Mỹ không hề có tham vọng về lãnh thổ ở miền Nam. Sự có mặt của Mỹ ở miền Nam không khác với việc quân Mỹ có mặt ở Tây Đức (trước khi thống nhứt với Đông Đức đầu thâp niên 90), hay ở Nam Hàn, Nhật hoặc ở các nước đồng minh hiện nay.

Mặt trận giải phóng miền Nam "trương cờ giải phóng" dưới thời chính phủ Ngô Đình Diệm. Vấn đề là không ai trưng ra được bằng chứng cho thấy chính quyền ông Diệm bị chi phối, hay bị khuynh loát bởi bất kỳ thế lực ngoại bang nào, kể cả Mỹ. Ngược lại, ông Diệm bị chết vì lý do chống Mỹ đổ quân vào Việt Nam.

Ngay cả dưới thời chính phủ ông Kỳ, Thiệu… Không có chính phủ nào của Việt Nam Cộng Hòa bị lệ thuộc và Mỹ, theo kiểu thực dân hết cả.

Việt Nam Cộng Hòa không hề lệ thuộc vào Mỹ như một chính phủ "bù nhìn" với "đế quốc thực dân" là Mỹ. Mặt trận giải phóng miền Nam lấy lý do gì để trương cờ "giải phóng" ?

Đồng thời sự thật lịch sử cho thấy thực thể chính trị Mặt trận giải phóng miền Nam chỉ là "cánh tay nối dài" của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, do đảng cộng sản Việt Nam lập nên, nhân Đại hội đảng toàn quốc lần thứ ba.

Vì vậy làm gì có thể vịn vào lý do "quốc gia vừa dành được độc lập" để "xù" tất cả những kết ước trong quá khứ ?

Ngay cả khi chấp nhận lập luận này, thì quốc gia gọi là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hôm nay vịn vào cái gì để chối bỏ di sản của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ? Không có lý do nào thuyết phục cả. Đơn giản vì Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia "tiếp nối" quốc gia Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, lãnh đạo luôn Mặt trận giải phóng miền Nam (do Trung ương cục miền Nam lãnh đạo).

Làm cách nào để hiện hữu hai lập trường đối nghịch, theo kiểu Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam (kế thừa Mặt trận giải phóng miền Nam) và Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc (tiếp nối Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa với công hàm 1958) ?, Lịch sử đã bạch hóa, không lẽ cứ tiếp tục ngụy biện bằng "bịa sử" ?

Trước sự lấn lướt của Trung Quốc, trước đây ở HS, bây giờ áp lực mạnh mẽ ở TS, Việt Nam hoàn toàn không có phản ứng nào khác, ngoài luận điệu cũ mòn đã nói ở phần dẫn nhập. Các học giả Việt Nam đã tự "đào mồ" chôn mình, vì đã đưa trường hợp thống nhứt Việt Nam vào dưới ánh sáng của "luật quốc tế".

Các lập luận sai lầm của các học giả Việt Nam cần phải chấm dứt.

4. Hiệp định Paris 27/1/1973

Hiệp định Paris được ký kết ngày 27 tháng giêng năm 1973. Trên nhiều phương diện nó giống như một "bản sao" của Hiệp định Genève 27/3/1954. Bởi vì, thứ nhứt, cả hai hiệp định không nhằm giải quyết dứt khoát cuộc "chiến tranh" mà chỉ tạo một "khoảng trống cơ hội" gọi là "đình chiến". Cơ hội này giúp cho Hoa Kỳ "tháo chạy trong danh dự". Nhưng phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nhân cơ hội (đồng minh đã tháo chạy) dồn quân đánh bại Việt Nam Cộng Hòa, thâu tóm lãnh thổ chỉ hai năm sau.

Thứ hai, Hiệp định Paris 1973 và Hiệp định Genève 1954 cùng khẳng định nguyên tắc "một quốc gia Việt Nam duy nhứt".

Điều 1, chương I Hiệp định Paris 1973 qui định "Hoa Kỳ và các nước tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam, như hiệp định Genève 1954 đã xác nhận".

Cả hai Hiệp định đều được "quốc tế" bảo trợ, bao gồm Trung Quốc. Riêng hiệp định Paris 1973, đại diện phía Trung Quốc là Bộ trưởng bộ ngoại giao Cơ Bằng Phi (Chi Peng Fei).

Tức là, trong khoản thời gian 1954 đến 1975, hai thực thể chính trị có tên Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở miền Bắc và Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam, đều thuộc về một "quốc gia Việt Nam duy nhứt".

Từ điểm này ta thấy quan điểm "hai quốc gia Việt Nam" của các học giả Việt Nam đã sai. Tư cách pháp nhân của hai thực thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa trước quốc tế cần phải được xác định. Nhưng dứt khoát Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa không phải là "hai quốc gia độc lập, có chủ quyền".

Trên quan điểm công pháp quốc tế, "quốc gia", là thực thể pháp nhân duy nhứt, bất khả phân. Tư cách pháp nhân của hai thực thể chính trị Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là hai "quốc gia chưa hoàn tất" (Etat partiel). Cả hai miền đều thuộc về một quốc gia duy nhứt gọi là Việt Nam. Trường hợp tương tự Đông và Tây Đức, Nam và Bắc Hàn hay Trung Quốc lục địa và Đài Loan cho ta thấy điều này.

Và nếu hai thực thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa đều thuộc về một "quốc gia duy nhứt là Việt Nam", thì việc "thống nhứt" hai miền là việc "nội bộ" của quốc gia Việt Nam. Việc "thống nhứt đất nước" đã thể hiện theo "cái cách" của Việt Nam.

Vấn đề "liên tục quốc gia" hay "kế thừa quốc gia", như các công ước Vienne đòi hỏi, cũng không đặt ra. Đơn giản vì chỉ có một "quốc gia Việt Nam duy nhứt". Việt Nam trước sau vẫn là Việt Nam, luôn là Việt Nam, thì tự nó đã "liên tục", tự nó đã "truyền tục" trong nội bộ.

Trong khi, nếu quan niệm Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là hai "quốc gia", vấn đề "thừa kế quốc gia" phải xét theo các qui định của luật quốc tế. Các tuyên bố đơn phương, các tài liệu lịch sử… từ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa xuất phát cũng được xét dưới ánh sáng của luật quốc tế.

5. Trở lại Lá thư mở ngày 29/5/2014 gởi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng

Tháng 5 năm 2014 tôi có viết thư mở gởi thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nhằm thuyết phục ông này kiện Trung Quốc sau vụ giàn khoan HY 981. Nội dung phản đối quan điểm của quan chức cũng như học giả Việt Nam cho rằng "có hai quốc gia Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trước 1975". 
Lá thư viết :

"Vấn đề chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam được xác định theo Hiệp định Paris năm 1973 : "Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như Hiệp định Genève 1954 về Việt Nam đã công nhận".

Tinh thần hai hiệp định, cũng là một chân lý làm nên chất keo gắn bó nhân dân và đất nước Việt Nam : đất nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một…

Điều này thể hiện lên thực tế. Trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1973, không có bất kỳ quốc gia nào trên thế giới nhìn nhận sự hiện hữu của hai quốc gia Việt Nam. Khối Tư bản nhìn nhận Việt Nam Cộng Hòa là đại diện của nước Việt Nam duy nhứt. Khối XHCN công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là đại diện nước Việt Nam duy nhứt. Nước này nhìn nhận phía này thì không nhìn nhận phía kia, hay ngược lại.

Trên tinh thần tôn trọng "độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam" của các hiệp ước quốc tế này (mà các nước Mỹ, Trung Quốc, Anh, Pháp… đồng bảo trợ chúng), bất kỳ các tuyên bố, các hành vi đơn phương của một bên (Việt Nam Cộng Hòa hay Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa), nếu có làm tổn hại đến việc toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chúng đều không có giá trị.

Nhà cầm quyền Trung Quốc viện dẫn công hàm của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết nhằm ủng hộ tuyên bố về lãnh thổ và hải phận của Trung Quốc tháng 9 năm 1958, cho rằng nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa (và Trường Sa).

Điều này hiển nhiên không đúng.

Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng viết trong khoản thời gian 1954-1973, có liên quan đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, đi ngược lại tinh thần hai Hiệp định 1954 và 1973, do đó không có giá trị pháp lý ràng buộc".

6. Vấn đề hòa giải quốc gia

Như vậy lối thoát pháp lý của Việt Nam hiện nay để khẳng định chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa là phải dựa vào nội dung các hiệp định Genève 1954 và Paris 1973 đồng thời tiếp nhận di sản của Việt Nam Cộng Hòa.

Nước Việt Nam hôm nay không thể "ôm" mãi mối mâu thuẫn do lịch sử để lại là sự xung đột giữa hai miền. Phe chiến thắng, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đã áp đặt lý lẽ của mình trong toàn xã hội Việt Nam từ 1975 đến nay. Vì vậy làm sao thuyết phục được dư luận quốc tế, khi lập luận về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa là lập luận của phe chiến bại Việt Nam Cộng Hòa ?

Sau một cuộc nội chiến, một nhà nước bình thường, mong muốn đất nước phát triển lành mạnh, luôn áp dụng một chính sách "hòa giải quốc gia" để hóa giải mọi oán thù gây ra do cuộc chiến. Các bài học như cuộc nội chiến nước Mỹ, hay các xung đột quốc tế như Thế chiến thứ II… cho thấy các nước giàu mạnh nhứt thế giới đều là các nước có chính sách "hòa giải" được áp dụng hữu hiệu.

Việt Nam hôm nay vẫn luôn đứng sau các nước phát triển Châu Á, mặc dầu Việt Nam có dư tiềm năng để qua mặt các nước Thái Lan, Đài Loan, Nam Hàn… Thậm chí Việt Nam đang bị Campuchia qua mặt trên một số lãnh vực. Trong khi trên phương diện chủ quyền lãnh thổ, Trung Quốc ngày càng lấn tới.

Nguyên nhân là mâu thuẫn nội bộ của Việt Nam quá lớn, trở thành một sức trì, Việt Nam không nỗ lực tiến tới là sẽ thụt lùi.

Hòa giải quốc gia không phải là vấn đề "sỉ diện" của đảng cộng sản Việt Nam mà là mệnh lệnh của tương lai dân tộc và sự toàn vẹn lãnh thổ.

Trương Nhân Tuấn

Nguồn : fb.nhantuan.truong, 10/08/2017

Published in Diễn đàn

V Bãi Tư Chính tháng By năm 2017 đã khiến l ra mt s tht quá cay đng : trên trường quc tế, chính th Vit Nam chưa bao gi cô đc đến thế. Mt ln na, cn nhìn li toàn cc khung cnh “đi tác chiến lược ca Vit Nam và liu chính th này có tiếp tc kiếm được tin Bin Đông hay không

Résultat de recherche d'images pour "Đối tác chiến lược Tây Ban Nha đâu rồi ?"

Mt trm gác ni ca Vit Nam ti Trường Sa.

Tây Ban Nha đâu ri ?

Nhiu ngun tin quc tế và trong nước cho biết vào ngày 24/7/2017, chính quyn Vit Nam đã phi yêu cu ngng hot đng thăm dò khí đt ca Repsol - mt công ty Tây Ban Nha liên doanh vi Vit Nam - ngay ti Bãi Tư Chính mà vn được B Ngoi giao chiến đu võ ming thuc vùng ch quyn không tranh cãi ca Vit Nam. Tâm thế giương c trng quá d và quá nhanh vào lúc Trung Quc mi ch tung mt đòn ph đu tâm lý là mt bng chng không th rõ hơn : B Chính tr Hà Ni đã tr nên yếu t đến mc b người đng chí 4 tt o ép theo cách có mun kiếm tin ngay trong vùng hi phn ca mình cũng không còn được.

Repsol đã phi b ra 300 triu USD ban đu đ chun b khoan thăm dò. Nhưng nếu hot đng khai thác khí đt này b “đi tác chiến lược toàn din ln nht ca Vit Nam là Trung Quc quyết lit phá bĩnh, s tin 300 triu USD đó s mc cánh bay lên tri, thm chí chính ph Vit Nam còn phi mang công mc n mà bi thường toàn b s tin này.

Nhưng cho ti nay, vn không có ly bt k phn ng nào t phía Tây Ban Nha - mt quóc gia mà Vit Nam đã ký kết “đi tác chiến lược vào năm 2009.

Tây Ban Nha đâu ri ?

Nhưng đây không phi ln đu tiên các “đi tác chiến lược biến mt.

Tt c đu quay lưng

2017 không phi là ln đu tiên chính th Vit Nam đ b v cách cư x ca “đi tác chiến lược.

Vào năm 2014, khi giàn khoan Hi Dương 981 ca Trung Quc xông thng vào vùng lãnh hi Vit Nam, hu hết các “đi tác chiến lược ca Vit Nam, k c nước Nga ca Putin, đu th ơ hoc quay lưng khi Vit Nam b uy hiếp. Trong v Hi Dương 981, thm chí trên kênh CNN toàn là nhng đi din ngoi giao ca Trung Quc phát biu ch không phi là đi din ngoi giao ca Vit Nam.

Ba năm sau, tháng By năm 2017, tiếp sau v viên thượng tướng Phm Trường Long - Phó ch tch quân y trung ương Trung Quc - bt thn b v na chng trong chuyến công du Vit Nam, mt chuyên gia nghiên cu quân s là giáo sư Carl Thayer ca Hc vin quc phòng Australia, đã tiết l vic Bc Kinh ni gin đến mc triu hi đi s ca mình và đe da s tn công các căn c quân s ca Vit Nam trên qun đo Trường Sa nếu Vit Nam cho phép Repsol tiếp tc khoan thăm dò khí đt ti Bãi Tư Chính.

Sau đó là hình nh 200 tàu Trung Quc t vây cht Bãi Tư Chính, cùng 4 ngư dân Vit b tàu l bn trng thương

Nhưng đã không h xut hit bt k du hiu nào cho thy Tây Ban Nha, Nga, M hay nhng “đi tác chiến lược toàn din khác ca Vit Nam t ra quan tâm và chia s vi Hà Ni trong cơn hon nn mi nht này. Tt c c như th đ cho “đi tác chiến lược toàn din duy nht là Bc Kinh mun làm gì thì làm.

Chính th Vit Nam đã ăn ra sao đ sinh ra nông ni y ?

Chính thc phá sn chính sách “đu dây

Hãy quay ngược kim đng h. T năm 2001 đến năm 2013, Vit Nam đã t tuyên b thiết lp quan h đi tác chiến lược vi Liên bang Nga (2001), Nht Bn (2006), n Đ (2007), Trung Quc (2008), Hàn Quc, Tây Ban Nha, Australia (2009), Vương quc Anh (2010), Đc (2011) và Ý (2013). Tng cng có đến chn mt chc quan h đi tác chiến lược. Trong s này, mt s mi quan h như vi Trung Quc và LB Nga còn được nâng lên tm “đi tác chiến lược toàn din.

Vài năm trước khi xy ra làn sóng đi tác chiến lược ca Vit Nam vi các nước, đã có nhiu ý kiến cho rng quá nhiu đi tác chiến lược thì khi xy ra tình trng khó khăn vi Vit Nam, như khi Vit Nam b gây áp lc quân s t Trung Quc, thì các đi tác chiến lược khác s không có trách nhim gì c, bi h xem đó là vn đ riêng tư ca Vit Nam, tc s không có mt ngun lc tp trung đ gii quyết vn đ Vit Nam khi mà ngun lc đó b dàn tri quá nhiu.

Qu thc, khi có quá nhiu các mi quan h đi tác chiến lược thì bn thân các mi quan h đó không còn thc s là chiến lược” na. Vic đưa ra khái nim “đi tác chiến lược như là mt t khóa quan trng trong tư duy đi ngoi Vit Nam hin nay cũng vì vy chng còn ý nghĩa gì.

Tây Ban Nha li là mt “đi tác chiến lược khá vô nghĩa, bi quc gia này hu như không có nh hưởng gì ti an ninh, quc phòng ca Vit Nam, tr ch nghĩa thành tích đi ngoi còn nước còn tát ca gii chóp bu Hà Ni.

Cho ti lúc này, có th không quá h đ đ sơ kết rng gii chóp bu Hà Ni còn chưa tht s hiu h mun gì trong phong trào thiết lp quan h đi tác chiến lược.

Rt cuc, chính đng cơ bt cá đa phương vô cùng tn đã chng mang li mt người bn thc s nào.

Mt trong nhng dn chng cho triết lý lm mi ti nm không là vào năm 2014 khi đi thoi v vic ni lng cm vn võ khí sát thương cho Vit Nam, Tư lnh quân đi Hoa K Thái Bình Dương, Đô đc Samuel Locklear, đã như ma mai : Vic này phn ln ph thuc vào Vit Nam mun gì vì h có nhiu đi tác, nhiu láng ging, cũng như nhiu mi quan ngi v an ninh.

Ti nay, kết qu hơn 16 năm Vit Nam mun làm bn vi tt c các nước cùng hàng chc đi tác chiến lược ca chính th này đã ch được đúc rút thành li giu ct không thèm che đy ca chính gii quc tế.

Ti nay và đc bit bng v Bãi Tư Chính tháng By năm 2017, chính sách cùng chiến thut “đu dây ca Vit Nam vi Trung Quc ln phương Tây đã chính thc phá sn. S ch còn li mt chút may mn nếu Trung Quc không tn công Vit Nam trên Bin Đông trong tương lai gn.

Vì nếu xung đt quân s n ra, không hiu quân đi Vit Nam s đánh chác ra sao

Tin, tin, tin, tin, tin !

Trong khi qun cc trong ni cô đơn vô cùng tn trên trường quc tế, chính th Vit Nam li đang cn tin hơn bao gi hết.

C như li thoi trong vTt c đu là con tôi” ca Arthur Miller - mt kch tác gia ca M - thìTin, tin, tin, tin, tin ! C nói mãi ri tt c cũng thế mà thôi !”.

Gii chính khách và các nhóm li ích Vit chưa bao gi chán tin theo triết lý tin là tiên là pht.

Và tin đ duy trì chế đ.

Nhưng tình hình ngân sách chính ph (bao gm c ngân sách đng cm quyn) li chưa bao gi quay qut như gi đây. Sau tiết l chn đng ngân sách trung ương ch còn 45 ngàn t đng mà không biết chi cho cái gì” ca B trưởng kế hoch và đu tư Bùi Quang Vinh vào cui năm 2015, đến đu năm 2017 chính tân th tướng Nguyn Xuân Phúc đã phi tht ra li cnh báo sp đ tài khóa quc gia. Tình trng ngân sách cho đến lúc đó là khó khăn gp bi năm 2016 - như tiết l ca vài chuyên gia tài chính ca chính quyn.

Mt trong nhng khó khăn gp bi như thế có ngun gc t thc trng gim thu trong xut khu du thô. T năm 2015 đến nay, giá du thô quc tế đã st gn mt na và do đó đã khiến s thu t xut khu du thô ca Vit Nam cũng gim khong 40%, tc ht đến 50.000 - 60.000 t đng.

Làm thế nào đ bù đp khó khăn ngân sách và kiếm li được 60.000 t đng b ht thu trên ?

Nếu chiến dch tăng thuế bo v môi trường t 3.000 đng/lít vt lên đến 8.000 đng/lít được chính quyn và nhóm li ích xăng du tiến hành trót lt, ngân sách trung ương s đt được s thu 100.000 t đng hàng năm, so vi hin ti ch có khong 40.000 t đng.

Ngoài ra, còn có mt phương kế khác đ tăng thu. Ti k hp quc hi tháng 5 - 6 năm 2017, Chính ph đã nêu ra mt đ xut đc bit : gia tăng sn lượng khai thác du thô. Tuy nhiên, phía y ban kinh tế quc hi li lăn tăn trước đ xut này. Lý do đơn gin là tr lượng du thô ca Vit Nam chng còn bao nhiêu, do đó c đào lên mà ăn như tc đ hin nay thì chng my lúc s hết sch.

Cn cp tc tìm ra nhng ngun tr lượng cùng doanh s mi. Mt trong nhng tim năng có th cu vãn ngân sách là m khí đt Cá Rng Đ lô 136/03 thuc Bãi Tư Chính. Nếu Công ty Repsol ca Tây Ban Nha khoan thăm dò thành công thì ngân sách cùng chế đ Vit Nam s được chia phn không ít.

Nhưng gi đây li là hoàn cnh khó chng khó”. Trong lúc hu hết ngun ngoi vin như tài tr ODA, kiu hi đu gim sút trm trng, ngun thu ngoi t t khí đt ca ngân sách Vit Nam li b “đi tác chiến lược toàn din Trung Quc thng tay bóp nght.

“Bn lĩnh Vit Nam đã hết ca kiếm tin ngay trong vùng ch quyn ca mình !

Năm 2017, “đi tác chiến lược toàn din Trung Quc đã thêm mt ln na khiến gii chính tr Bn tt, mười sáu ch vàng trng mt. Trong nhiu ni nhc trên đi, có l ni nhc thuc loi tn cùng nht là b k thù cm tù ngay trong nhà mình.

Phạm Chí Dũng

Nguồn : VOA, 26/07/2017

Published in Diễn đàn