Tạp chí Việt Nam trong dòng thời sự tuần này xin được dành để điểm qua một số bài trên báo chí quốc tế trong tháng 5 nói về Việt Nam. "Làm sao để Việt Nam tránh trở thành bãi rác công nghiệp của Trung Quốc ?". Đó là câu hỏi được tờ nhật báo Hồng Kông South China Morning Post đặt ra trong một bài đăng ngày 09/05/2019.
Ảnh minh họa : Một nhà máy dệt tại tỉnh Hà Nam. Việt Nam phải biết sàng lọc các dự án đầu tư nước ngoài để tránh trở thành bãi rác công nghiệp của Trung Quốc. Reuters
Tờ báo nhắc lại là trong thập niên qua, Việt Nam thu hút rất nhiều đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đến từ Trung Quốc, do các doanh nghiệp Trung Quốc gia tăng đầu tư ra nước ngoài nhằm thúc đẩy việc thâm nhập các thị trường mới. Nguồn vốn đầu tư từ Hoa lục, Hồng Kông và Macao chỉ ở mức 700 triệu đô la vào năm 2011, nhưng đến năm ngoái đã lên tới 2,4 tỷ đô la. Trung Quốc hiện là nhà đầu tư lớn thứ năm tại Việt Nam sau Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore, và các lĩnh vực thu hút đầu tư Trung Quốc ngày càng đa dạng.
Theo South China Morning Post, những người ủng hộ đầu tư từ Trung Quốc nói rằng nguồn vốn này đã góp phần cung cấp việc làm và nâng cao các tiêu chuẩn về công nghiệp, lao động và quy định. Nhưng những người chỉ trích cho rằng các dự án của Trung Quốc chỉ nhằm tận dụng nhân công rẻ và khoáng sản giá rẻ, đồng thời gây ô nhiễm môi trường và đẩy các đối tác Việt Nam vào bẫy nợ.
Đầu tư nước ngoài : Con dao hai lưỡi
South China Morning Post nhấn mạnh : dựa vào đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế là con dao hai lưỡi, với việc tập trung quá nhiều xuất khẩu sẽ tạo ra những rủi ro không cần thiết. Tờ báo trích lời bộ trưởng bộ công thương Việt Nam Trần Tuấn Anh nói rằng "sự phụ thuộc quá mức (vào đầu tư nước ngoài) là một yếu tố không ổn định, bởi vì sản xuất và xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI phụ thuộc rất nhiều vào chuỗi cung ứng của khu vực và toàn cầu".
Tiếp đến là vấn đề ô nhiễm. Giống như Trung Quốc trước đây, Việt Nam đã du nhập nhiều ngành công nghiệp bẩn như dệt may, giày da, nhiệt điện và khai thác quặng mỏ. Vào năm 2016, công ty Formosa Hà Tĩnh đã nhận trách nhiệm về việc xả chất thải công nghiệp ra biển ở bốn tỉnh ở miền trung, một thảm họa làm dấy lên mối lo cái giá về môi trường của các dự án FDI Trung Quốc. Nhiều doanh nghiệp Trung Quốc hoặc sử dụng công nghệ lỗi thời, hoặc sử dụng rất ít công nghệ mới. Do đó, Việt Nam có nguy cơ trở thành bãi rác công nghệ Trung Quốc, nếu không biết chọn lựa các dự án một cách khôn ngoan.
Máy móc và thiết bị được mang vào thường có thể được sản xuất trong nước, nhưng việc nhập khẩu ồ ạt hàng giá rẻ đã gây khó khăn cho một số ngành công nghiệp nội địa. Các dự án FDI sử dụng công nghệ Trung Quốc thường có chi phí cao gấp đôi hoặc ba lần so với các dự án tương tự nhưng sử dụng công nghệ Nhật Bản hoặc Châu Âu. Sự chênh lệch này dẫn đến việc đánh giá sai lệch hiệu quả dự án.
Việt Nam cần tiếp tục cải thiện các quy định
Một vấn đề khác được South China Morning Post nêu lên đó là đội giá, tức là các doanh nghiệp nước ngoài thường thổi phồng giá trị các khoản đầu tư của họ, gây tác động tiêu cực cho Việt Nam : thất thu thuế, lợi nhuận giảm và cạnh tranh không lành mạnh. Hầu hết các trường hợp đó đã không được đưa ra tòa, do khung pháp lý của Việt Nam còn yếu kém và các công ty nước ngoài che giấu hành vi của họ một cách rất tinh vi của. Nhiều đối tác trong nước cũng bị buộc phải vay nợ để trả lãi cho các dự án bị trì hoãn.
Theo South China Morning Post, để tránh những cạm bẫy nói trên, Việt Nam phải tiếp tục cải thiện các quy định, luật lệ và thủ tục. Việt Nam cần xây dựng luật chống chuyển giá và thu hẹp khoảng cách về ưu đãi thuế giữa các doanh nghiệp nước ngoài và trong nước, để tạo một sân chơi bình đẳng. Cơ quan thuế của địa phương nên được trao quyền để giám sát tốt hơn các công ty nước ngoài và kiểm tra việc tuân thủ luật pháp của họ. Một cơ sở dữ liệu về thuế nên được thiết lập để theo dõi mọi thay đổi trong thu nhập và doanh thu của doanh nghiệp nước ngoài.
Đối với những doanh nghiệp không tuân thủ luật, cần phải đưa ra các biện pháp trừng phạt thích hợp, chẳng hạn như giảm thời gian áp dụng mức giá ưu đãi hoặc thậm chí tăng thuế. Việt Nam sẽ cần phải tìm cách thu hút các ngành công nghiệp công nghệ cao, các công ty thân thiện với môi trường, năng lượng sạch, cũng như các thiết bị y tế và dịch vụ chăm sóc sức khỏe tiên tiến. Dòng vốn FDI của Trung Quốc hiện nay phần lớn tập trung vào các ngành có rủi ro cao như nhiệt điện, thép, hóa chất và xi măng. Cần phải sàng lọc những dự án vì chúng đòi hỏi đầu tư lớn, nhiều năng lượng và có nguy cơ gây ô nhiễm cho đất nước.
Truyền thông Việt Nam trong vòng kềm tỏa
Về nhân quyền, trang web của đài truyền hình Qatar Al Jazeera ngày 20/05 quan tâm đến cách thức mà chính quyền Việt Nam kiểm soát báo chí trong nước, qua bài viết mang tựa đề "Sợ hãi và hoang tưởng : Việt Nam kiểm soát truyền thông ra sao ?" Theo đài này, mức độ trấn áp quyền tự do ngôn luận ở Việt Nam đã tăng mạnh, và trong bản xếp hạng về tự do báo chí 2019 của tổ chức Phóng viên không biên giới, Việt Nam bị xếp hạng rất thấp, 176 trên 180 quốc gia, tụt thêm một hạng so với năm 2018.
Theo Phóng viên không biên giới, "mức độ khủng bố đã tăng mạnh trong hai năm qua, với việc nhiều nhà báo công dân bị cầm tù hoặc bị trục xuất do những bài viết của họ trên mạng". Ít nhất 30 nhà báo và blogger đang bị giam trong các nhà tù Việt Nam, nơi mà tình trạng ngược đãi tù nhân rất phổ biến.
Những phóng viên mà đài Al Jazeera đã tiếp xúc cho biết là các nhà báo trong nước vẫn được chỉ đạo về cách đưa tin, còn đại diện báo chí nước ngoài khi đi săn tin ngoài thủ đô Hà Nội đều cần được cấp giấy phép đi lại và được yêu cầu báo trước chủ đề, cũng như cho biết sẽ gặp những ai và hỏi những câu hỏi nào.
Đài Al Jazeera trích lời phóng viên Nguyễn Phương Linh, người đi khỏi Việt Nam vào năm 2014 sau khi làm báo được sáu năm : "Tôi đã từng đi lên vùng biên giới Việt - Trung với tư cách một du khách và đến thăm một khu chợ đen. Tôi rất muốn viết một bài báo về chuyến đi đó nhưng tôi sợ có thể gặp rắc rối vì không phải là một phóng viên được bộ cấp phép. Cho nên tôi đã không cho đăng bài báo đó".
Chính quyền cũng bị cáo buộc thường sử dụng các chiến thuật hù dọa phóng viên, và sự giám sát quá chặt chẽ khiến nhiều nhà báo phải tự kiểm duyệt, đồng thời tạo ra "sự sợ hãi và hoang tưởng".
Đài Al Jazeera nhắc lại là vào mỗi thứ Ba hàng tuần, các quan chức của bộ Thông Tin có cuộc họp giao ban với các tổng biên tập để thảo luận về những chủ đề tin tức sắp tới và những hạn chế hiện hành. Các chỉ thị sau đó được truyền đạt lại xuống dưới. Đài này trích lời giáo sư Carl Thayer, Đại học New South Wales, Úc, nói : "Những ai vi phạm đều bị cảnh cáo, bị phạt và nếu tái phạm sẽ bị đình chỉ công tác hoặc thậm chí bị bỏ tù".
Al Jazeera cũng nhắc lại vụ trang Tuổi Trẻ Online đã bị đình bản trong ba tháng vào tháng 7/2018, vị bị xem là "đã thông tin sai sự thật gây ảnh hưởng rất nghiêm trọng". Một nhà báo Tuổi Trẻ nói với Al Jazeera rằng lệnh đình bản này ảnh hưởng rất nhiều đến các phóng viên nói chung, vì nó không chỉ nhắm vào những điều mà tờ Tuổi Trẻ viết, mà còn nhắc nhở các tờ báo khác phải cẩn thận với những gì họ nói.
Chống tham nhũng : Những lý do thật sự
Tờ Asia Times ngày 14/05 thì quan tâm đến tình hình chính trị nội bộ qua bài viết tựa đề "Real reasons for Vietnam’s crackdown on graft" (Những lý thực sự của việc trấn áp tham nhũng ở Việt Nam). Mở đầu bài báo, Asia Times nhắc lại một tuyên bố của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng vào năm 2016 : "đánh chuột đừng để vỡ bình".
Theo Asia Times, điều ông Trọng muốn nói là chiến dịch chống tham nhũng do ông tiến hành, sẽ ngăn chặn mọi hành động gây thiệt hại cho bản thân Đảng cộng sản. Kể từ khi cuộc thanh trừng chống tham nhũng của ông bắt đầu vào năm 2016, nhiều lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước, và một số quan chức chính phủ và chính trị gia có thế lực đã bị hạ gục.
Trong số các lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước nói trên có ông Hà Văn Thắm, cựu chủ tịch Ocean Bank, ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước, là tâm điểm của một cuộc điều tra tham nhũng lớn, và trước đây là một trong những đại gia giàu có nhất Việt Nam, đã bị kết án tù chung thân năm ngoái. Phía các chính khách thì có ông Đinh La Thăng, bí thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, là ủy viên Bộ Chính trị đầu tiên bị cách chức trong hàng chục năm qua, vì vai trò trước đây là chủ tịch Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, một doanh nghiệp nhà nước lớn.
Theo Asia Times, một số lý do chống tham nhũng của ông Trọng đã được biết đến và không cần giải thích gì nhiều. Lý do đầu tiên, đặc biệt là giữa năm 2016 và 2017, là nhằm thanh trừng các lãnh đạo doanh nghiệp và chính trị gia thuộc phe Nguyễn Tấn Dũng, cựu thủ tướng năm 2016 đã thua ông Trọng trong việc giành vị trí lãnh đạo Đảng. Đây là hành động có thể dự đoán được : ông Dũng vươn lên từ hàng ngũ Đảng, và sau đó củng cố quyền lực khi trở thành thủ tướng, thông qua mối liên hệ với các lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước tham nhũng và các quan chức địa phương, được gọi là nhóm lợi ích, vào Đảng chỉ để làm giàu, chứ không phải vì ý thức hệ.
Lý do kinh tế lấn át chính trị
Tuy nhiên, Asia Times nhận xét, có thể nói chiến dịch chống tham nhũng ngày nay đã được lái sang một hướng khác. Lý do thanh trừng giờ đây là kinh tế, mà không phải chính trị. Luật chống tham nhũng của Việt Nam được sửa đổi năm ngoái lần đầu tiên đã mở rộng chiến dịch chống tham nhũng sang khu vực tư nhân.
Nhưng vấn đề mà Đảng cộng sản phải đối mặt đó là rất nhiều doanh nghiệp nhà nước nếu duy trì thì rất tốn kém, hầu như không tạo ra lợi nhuận, và được quản lý rất yếu kém. Đây là vấn đề quan trọng vì ngân sách Nhà nước đang gặp khó khăn. Chính phủ đã hạ được mức nợ công và thâm hụt ngân sách trong những năm gần đây. Nhưng các biện pháp thắt lưng buộc bụng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng của Nhà nước đầu tư vào cơ sở hạ tầng, trong khi đây là yếu tố cần thiết cho sự tăng trưởng của doanh nghiệp nhà nước và mức lương của công nhân Nhà nước, hiện đang tụt hậu so với khu vực tư nhân.
Theo Asia Times, Đảng cộng sản thực sự có ba phương án, trong đó phương án thứ ba hợp lý nhất, nếu nhìn từ quan điểm của Đảng cộng sản, đó là thoái vốn các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ nhiều nhất có thể được và chỉ giữ lại những doanh nghiệp có lợi. Nhưng vấn đề là việc thoái vốn khỏi các doanh nghiệp nhà nước đã bị đình trệ trong những năm gần đây, chủ yếu là do các nhà đầu tư tư nhân sau khi xem xét các doanh nghiệp đã nhận thấy là có quá nhiều rủi ro. Vì vậy, sẽ hợp lý khi cho rằng chỉ những doanh nghiệp nhà nước có lợi nhuận cao nhất, mà Nhà nước muốn bám vào, mới thu hút được các nhà đầu tư tư nhân nhiều nhất.
Asia Times kết luận bài báo : Điều có ý nghĩa (và là điều Hà Nội dường như đang làm) đó là tách các công ty có lợi nhuận cao và tốt nhất khỏi các công ty yếu kém và tham nhũng, đồng thời ngăn chặn các công ty này bòn rút ngân sách đã hạn hẹp của Nhà nước.
Thanh Phương
Nguồn : RFI tiếng Việt, 03/06/2019
Chủ tịch nước, tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng không xuất hiện từ gần một tháng nay. Truyền thông nhà nước liên tục đưa tin sức khỏe lãnh đạo tối cao sẽ sớm cải thiện. Ngược lại, không ít thông tin trên mạng xã hội, hay truyền thông bên ngoài, khẳng định bệnh tình ông là trầm trọng. Sức khỏe lãnh đạo tối cao Việt Nam đột ngột thành tâm điểm chú ý suốt cả tháng nay. Vì sao sức khỏe ông Trọng thành "đại sự" ?
Ông Nguyễn Phú Trọng tuyên thệ nhậm chức chủ tịch Nước trước Quốc hội, Hà Nội, ngày 23/10/2018. Reuters
Ông Nguyễn Phú Trọng không trực tiếp xuất hiện trên truyền thông Nhà nước, kể từ ngày 14/04/2019, sau chuyến công cán tại tỉnh Kiên Giang. Rất nhiều thông tin lan truyền về việc ông bị tai biến não phải cấp cứu. Chính quyền không xác nhận, cũng không bác bỏ thông tin.
Cuối tháng 4/2019, rất nhiều người đã trông đợi ông Nguyễn Phú Trọng sẽ chủ trì tang lễ quốc gia tướng Lê Đức Anh ngày 03/05. Nhưng ông không xuất hiện. Và dường như cũng không có kế hoạch xuất hiện tại một sự kiện quan trọng khác, là Hội nghị trung ương 10 của Đảng, tuần này. Tuy nhiên, hôm 10/05, Quốc hội thông báo là vào ngày 29/05, chủ tịch nước sẽ đọc tờ trình về việc Việt Nam gia nhập một công ước quan trọng của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về quyền lập công đoàn. Công chúng tiếp tục chờ đợi lãnh đạo tối cao bình phục.
Dù không xuất hiện, một số phản ứng tối thiểu của một nguyên thủ vẫn được duy trì. Ngày 05/05, lãnh đạo tối cao "gửi điện thăm hỏi" Nga về vụ tai nạn máy bay khiến 41 người chết. Ngày 06/05, gửi thư "chức mừng" ông Volodymyr Zelensky, tân tổng thống Ukraine. Ngày 09/05, "chúc mừng" ngày Độc lập của Israel...
Ngay trong thời gian ông Trọng không xuất hiện, ngày 05/05, Ủy ban Kiểm tra Trung ương ra thông báo về danh sách một loạt cựu quan chức cao cấp bị đề nghị kỉ luật, trong đó có một cựu phó thủ tướng, một cựu thứ trưởng quốc phòng, nguyên tư lệnh Hải quân. Nhiều người nuôi hy vọng là sự nghiệp "đốt lò", cụm từ thông dụng mới đây ở Việt Nam dùng để chỉ chiến dịch "chống tham nhũng" của tổng bí thư – chủ tịch nước, sẽ tiếp diễn, thậm chí quyết liệt hơn.
Càng ít thông tin về bệnh tình ông Nguyễn Phú Trọng, thì vấn đề sức khỏe ông dường như lại càng trở nên một câu chuyện quan trọng đối với một bộ phận xã hội Việt Nam. RFI đặt câu hỏi với nhà báo Võ Văn Tạo (Nha Trang), người quan tâm từ lâu nay đến chính trường Việt Nam.
***
RFI : Vì sao sức khỏe ông Trọng thành chuyện "đại sự" ?
Võ Văn Tạo : Những người nào biết rõ về chính trị Việt Nam, thì biết rằng nguyên tắc làm việc của mấy ông Đảng, Nhà nước Việt Nam không phải theo nguyên tắc cá nhân là chính đâu, mà là làm việc tập thể. Có một quyết định quan trọng nào đó, thì họ họp nhau lại, biểu quyết, rồi theo đa số. Thậm chí trong lịch sử, từng có trường hợp người giữ cương vị cao nhất nhưng thuộc phe thiểu số, thì vẫn phải phục tùng đa số. Cho nên là, việc một cá nhân ông Nguyễn Phú Trọng ở cương vị tổng bí thư, rồi kiêm chủ tịch Nước, mà ông ấy bệnh, thì với những ai hiểu biết chuyện chính trường Việt Nam, thì thấy rằng nó không quan trọng.
Nhưng tại sao nó lại trở nên quan trọng ?
Là vì có chuyện úp úp, mở mở về chuyện sức khỏe lãnh đạo, cán bộ cao cấp, của Nhà nước Việt Nam, luật pháp Việt Nam. Tôi nhớ cách đây 4, 5 năm, một ông cỡ bộ trưởng trong các trao đổi, tranh luận ở Quốc hội nói là "sức khỏe của lãnh đạo Đảng, Nhà nước không có gì phải bí mật cả ! Công khai thôi !". Báo chí trong nước đăng tải. Thế nhưng mà đến cuối hoặc giữa năm ngoái 2018, thì tự nhiên thông qua luật về sức khỏe lãnh đạo Đảng, Nhà nước thuộc về bí mật Nhà nước. Cho nên là "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược".
Điều buồn cười là ở chỗ này : Đã là bí mật, thì theo nguyên tắc mọi công dân bình đẳng trước pháp luật, thì tại sao ông Nguyễn Thiện Nhân (bí thư thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh), tại sao bà Kim Ngân (chủ tịch quốc hội), tại sao bà Hằng, người phát ngôn bộ ngoại giao, lại nói công khai trong tiếp xúc cử tri, và báo chí đăng lại ? Nếu như sức khỏe của ông Trọng là bí mật Nhà nước, thì ba người này đã vi phạm luật rồi.
Qua đây mới thấy là ở Việt Nam có hiện tượng, luật là một việc, còn những người giữ cương vị cao cấp trong Đảng, trong Nhà nước, thì họ không chịu sự điều chỉnh của luật. Nhìn chung là như vậy.
Trừ khi có vấn đề gì đó, có chiến dịch gì lớn, hoặc là do phe phái, có người vẫn bị xử theo luật. Như ông Đinh La Thăng chẳng hạn. Trước đây, hiếm khi các ông làm đến Bộ Chính trị hiếm khi bị đưa ra xử ở tòa hình sự… Có những vụ như Năm Cam, có liên quan đến Bộ Chính Trị, nhưng nội bộ họp rồi các ông ấy gợi ý với nhau : thôi, đồng chí nghỉ đi, làm đơn xin nghỉ, vì lý do sức khỏe, thì sẽ miễn trách nhiệm hình sự.
Thứ hai nữa, tại sao cử tri quan tâm đến sức khỏe ông Nguyễn Phú Trọng ?
Vì gần đây, ông Nguyễn Phú Trọng phát động chống tham nhũng. Như danh chính ngôn thuận mà nói, theo ông ấy, là vì cán bộ, đảng viên có chức, có quyền, có nhiều chuyện tiêu cực, tham nhũng, móc ngoặc, mafia, đủ trò hết, cái này làm mục ruỗng Đảng. Nếu không ngăn chặn nguy cơ đó, thì Đảng sẽ tan rã, mất chế độ cộng sản của các ông…
Công cuộc chống tham nhũng đang đà rất cao. Từ vài tháng trở lại đây, người ta dùng cái từ "người đốt lò vĩ đại" để nói về ông Trọng. Lôi ra rất nhiều cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước ở trung ương, cũng như địa phương, đưa vào xử lý hình sự. Phải nói là cả nước, dân chúng, cán bộ đều hào hứng với thông tin đó. Người dân cũng như cán bộ cấp thấp, những người thấp cổ bé họng đều biết rằng nạn tham nhũng quá nhiều, làm khổ cho dân. Còn mất chế độ hay không, mất Đảng hay không họ chưa nghĩ đến. Họ chỉ mong là dẹp bớt cái đó đi. Cho đến việc ông Trọng tự nhiên không còn xuất hiện những chỗ đông người, như tiếp khách nước ngoài, tiếp xúc cử tri… như thông tin đại chúng của Nhà nước vẫn thường đưa, thì họ lo lắng.
Đặc biệt là khi thông tin xì ra trên mạng là ông Nguyễn Phú Trọng ngất xỉu ngày 14/04, khi đang làm việc ở tỉnh Kiên Giang, rồi sau đó phải đưa cấp tốc máy bay về bệnh viện Chợ Rẫy TP Hồ Chí Minh để điều trị, rồi sau đó hai ngày đưa về bệnh viện Quân Y trung ương 108. Đây là những nguồn tin hết sức đáng tin cậy, vì họ đều có ảnh kèm theo.
Tôi cho rằng, đối với một nước văn minh, thì sức khỏe của một tổng thống hay một nhân vật tương tự, không phải là điều gì bí mật lớn cả. Ông ấy ốm thì nói là ốm…. Không hiểu vì sao với những nước cộng sản lại đưa vào vấn đề bí mật. Chính vì quy định như thế cho nên rất luộm thuộm. Báo chí thì lúc đăng, lúc không. Các nhân vật cao cấp của Đảng, Nhà nước phát ngôn cũng thế. Trên mạng thì ít thông tin chính thống, và thông tin chính thống không minh bạch, nên người ta đồn đại lung tung, đủ kiểu hết.
Chủ trương đưa sức khỏe cán bộ cao cấp vào bí mật là lợi bất cập hại. Nói nôm na là "gậy ông, đập lưng ông".
RFI : Phát biểu về sức khỏe ông Trọng của một số lãnh đạo Việt Nam nói lên điều gì ?
Võ Văn Tạo : Gần đây khi mà ông Trọng không xuất hiện trước công chúng nữa, từ hôm 14/04 đến giờ, thì một số thông tin mà một số lãnh đạo cao cấp như ông Nguyễn Thiện Nhân, rồi bà Kim Ngân, cứ nói là sức khỏe tốt này kia…, thì theo suy nghĩ của riêng tôi, là sắp sửa đến Đại hội 13, thì cuộc chạy đua vào những cương vị cao nhất khá là quyết liệt. Có thể ai đó đưa ra những thông tin như thế có thể là để trấn an dư luận, và cũng để dằn mặt phe đối thủ : Đừng manh động, coi chừng ! Cụ vẫn còn sống đấy, cụ khỏe lắm ! Không phải cụ mất đâu mà làm loạn ! Đấy là một cách hoãn binh của họ, thì sao ?
Nghi vấn này sẽ được giải đáp, nếu sau đây vài ba tháng, nếu ông Nguyễn Phú Trọng không xuất hiện trở lại làm việc. Tôi cho rằng đây chỉ là một cách hoãn binh, ổn định tình hình, trước khi họ thu xếp xong.
RFI : Trong những ngày tới sẽ diễn ra Hội nghị trung ương 10, được coi là một hội nghị quan trọng của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Trong dư luận, có quan điểm cho rằng với sự biến mất của ông Trọng, cuộc chạy đua quyền lực đã bắt đầu. Ông nghĩ sao ?
Võ Văn Tạo : Theo một số nguồn tin không phổ biến công khai, có người trao đổi với tôi về tình hình cuộc chạy đua, để chuẩn bị cho Đại hội 13, thì ông thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng đang tập trung sức lo vấn đề đó. Ông Vượng là người kín tiếng, chứ không phải là tay "hay nổ" như một vài người khác. Ví dụ như ông Nguyễn Xuân Phúc chẳng hạn.
Không rõ nguồn tin có đúng hay không, nhưng đại khái là họ nói rằng ông Trọng đã tin tưởng và giao việc lại cho ông Trần Quốc Vượng. Tôi nghĩ điều này cũng hợp lý thôi, vì ông Trọng vốn dĩ là người xuất thân thuần túy từ bên Đảng, chứ không phải làm công tác bên chính quyền, chính phủ, các bộ ngành, hay chính quyền địa phương. Ông Trần Quốc Vượng cũng thuộc dạng giống như thế.
Thứ hai là từ lúc ông Trần Quốc Vượng được điều động làm viện trưởng Viện Kiểm sát tối cao, đặc biệt là giai đoạn làm chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Đảng, thì tôi thấy rằng sức làm việc của Ủy ban Kiểm tra Đảng đã khác hẳn ngày xưa, khác đến 180° luôn. Chúng tôi làm nhà báo nhiều năm, tiếp xúc với thanh tra chính phủ, vào làm việc ở Khánh Hòa rất nhiều. Thứ hai, chúng tôi cũng có những nguồn tin từ trung ương nữa, thì rất nhiều đời các tổng tranh tra chính phủ làm việc là hầu như không có hiệu quả. Đa phần họ là một ổ tham nhũng, từ tổng thanh tra, đến phó tổng thanh tra, đến các trưởng đoàn, là vào các địa phương nơi có vụ việc, chỉ để… Thậm chí họ còn gặp các nhà báo họ còn rò rỉ thông tin, để các nhà báo viết lên, cho nặng lên, sau đó họ hành tội bên kia. Những người bị nghi, "biết điều" với họ, thì kết luận lại khác hẳn… Bên Ủy ban Kiểm tra thì những giai đoạn trước có vẻ trong sạch hơn, không có chuyện tiêu cực ấy, nhưng năng lực làm việc của họ rất yếu.
Từ khi ông Vượng làm chủ nhiệm, tôi thấy khác hẳn. Phát hiện ra các vụ Vina : Vinalines, Vinashine… Mà thời ông Nguyễn Tấn Dũng làm thủ tướng, quyền lực thâu tóm về ông ấy, có quyền ký tá (bổ nhiệm) các nhân vật chủ chốt của các tập đoàn nhà nước, các tổng công ty 91. Thì rõ ràng ông Vượng đã khui được chuyện đó. Và điều này hợp với ý ông Trọng, nên ông ấy có vẻ tín nhiệm ông Vượng.
Nhưng có một điều bất ngờ, là hôm vừa rồi, trong đám tang ông Lê Đức Anh, ông Trần Quốc Vượng lại không phải đại diện cho đoàn của Đảng đến viếng và đọc điếu văn, mà lại là ông Nguyễn Xuân Phúc. Cho nên cái này cũng làm cho dư luận rất khó phán đoán. Có thể ông Phúc sẽ là người kế nhiệm, nếu như ông Trọng không thể qua nổi. Kế nhiệm một trong hai chức, hoặc cả hai.
RFI : Vậy ông nhìn nhận về việc này thế nào ?
Võ Văn Tạo : Về chiêu bài tổ chức, họ có nhiều chiến thuật ghê gớm lắm. Tức là cứ để cho ông Phúc làm như thế, để mọi người tin rằng ông Phúc sẽ là người cầm trịch cao nhất, nhưng đến phút chót họ thay đổi phương án. Những điều đó, mình khó biết được lắm. Chỉ có trong nội bộ các ông ấy mới biết được thôi. Nhưng qua kinh nghiệm của một số đảng cộng sản khác, Liên Xô ngày xưa, Trung Quốc cũng vậy. Việt Nam cũng thế, ví dụ như những năm trước có những trường hợp rất bất ngờ ở phút chót. Do chuyện tranh đua quyền lực, nên một người nào có dấu hiệu lộ rõ là có dấu hiệu sẽ lên chức, thì sẽ có nhiều đối thủ ngay. Có những anh làm tổ chức rất thâm hiểm. Đưa những người anh không muốn cho lên, nhưng đánh tiếng từ trước mấy tháng, cả năm trời (trước Đại hội), người đó trở nên có nhiều đối thủ, nhiều đơn thư tố cáo. Thế là bị xem xét, rồi bị gác lại.
Cho nên trong chuyện vừa rồi, ông Phúc (thủ tướng) đọc điếu văn, rồi làm trưởng đoàn của Đảng, tôi thấy có hai khả năng, chứ không phải chỉ là một, như trên mạng đồn đoán, tức là đây là dấu hiệu cho thấy ông Phúc sẽ là người kế vị ngôi tổng bí thư của ông Trọng. Đây chỉ là một khả năng. Có thêm một khả năng khác, đây là hướng nghi binh của những người làm công tác tổ chức, thì sao ?
Các đảng cộng sản, như Đảng cộng sản Việt Nam, thao túng mọi lĩnh vực, kể cả chính quyền, các đoàn thể xã hội…, họ làm việc theo nguyên tắc tập thể, nên nếu có thay đổi ai (tức vị trí lãnh đạo tối cao), thì chỉ khác một phần, chứ không phải lớn lắm. Về bản chất của thể chế, của nền chính trị Việt Nam, không thay đổi nhiều đâu. Vì ông Trọng đang phát động chuyện "đốt lò" nên người ta quan tâm. Ngoài ra, vì ngoài ông Trọng ra, chưa có ai nổi trội, nên dư luận càng khó đoán định.
Cũng có người cho rằng ông Phúc có khả năng kế nhiệm tổng bí thư hơn cả, vì từng ở trong "Tứ trụ" (tức bốn chức vụ cao nhất) rồi, còn ông Vượng thì không ? Nhưng đó là thông lệ. Tuy nhiên, việc ông Nguyễn Phú Trọng, tuổi tác như thế mà hai lần tổng bí thư, thì cũng là ngoại lệ chứ ? Có thể là cái ngoại lệ của ông Nguyễn Phú Trọng sẽ mở ra một tiền lệ cho những người khác thì sao ? Tuy nhiên, bình luận cho vui vậy thôi. Thực chất tôi nghĩ là họ không khác nhau là mấy đâu. Họ làm việc theo nguyên tắc tập thể mà. Cá tính từng người nắm cương vị cao nhất chỉ có thể tạo nên khác biệt chút đỉnh thôi.
RFI : Xin cảm ơn nhà báo Võ Văn Tạo đã trả lời phỏng vấn RFI
Trọng Thành thực hiện
Nguồn : RFI, 13/05/2019
Luật An ninh mạng của Việt Nam đã có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2019, thế nhưng cho tới nay, các văn bản hướng dẫn thi hành luật vẫn chưa được ban hành. Lý do có thể là vì luật này tiếp tục bị chỉ trích là vi phạm quyền tự do ngôn luận trên Internet và gây khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp trong lĩnh vực Internet.
Biểu tình phản đối dự luật An ninh mạng và dự luật Đặc khu tại Việt Nam.
Các văn bản, gồm hai nghị định và quyết định của thủ tướng ban hành danh mục hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia, lẽ ra phải được Bộ Công an trình chính phủ trước ngày 01/10/2018, thế nhưng tiến trình này đã gặp nhiều chậm trễ.
Ngày 22/03 vừa qua, khi làm việc với Tổ công tác của thủ tướng Việt Nam, ông Lê Quý Vương, thứ trưởng Bộ Công an, đã giải thích sự chậm trễ này là do "gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, vì đây là lĩnh vực mới, đối tượng chịu điều chỉnh của các quy định gồm nhiều bộ, ngành, địa phương, tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp, nên việc xin ý kiến phải thực hiện nhiều lần, nhiều địa chỉ". Ông Lê Quý Vương thú nhận là "cũng còn có nhiều ý kiến khác nhau" giữa Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và Bộ Thông tin và truyền thông, "nên cần có thời gian trao đổi kỹ", nhưng thứ trưởng Công an không nói cụ thể là bất đồng về những điểm gì.
Đó là những lý do chính thức. Trả lời RFI Việt ngữ ngày 11/04, luật sư Hoàng Cao Sang, Văn phòng Luật sư Hoàng Việt, Sài Gòn, đưa ra phỏng đoán về sự chậm trễ này :
"Thứ nhất là sau khi ban hành Luật An ninh mạng, đã có rất nhiều phản ứng, quan điểm trái chiều về các điều luật quy định về sự thể hiện quan điểm của cá nhân, tổ chức, về các vấn đề liên quan đến an ninh, chính trị của nhà nước Việt Nam, cũng như về trách nhiệm của các công ty cung cấp dịch vụ trên không gian mạng. Tôi cho rằng luật này cũng sẽ ảnh hưởng đến đầu tư, kinh doanh, cũng như đến sự hội nhập của Việt Nam.
Cho nên, khi luật an ninh mạng ra đời, các nghị định hướng dẫn thi hành luật này vẫn chưa thể thông qua được. Chưa có ai nói lý do cụ thể về việc tại sao chưa thông qua, nhưng theo tôi phỏng đoán, với những thông tin đang có, do có quá nhiều ý kiến trái chiều về nhiều vấn đề của luật này, cho nên họ chưa thể ban hành các nghị định hướng dẫn một cách cụ thể để thực hiện Luật An ninh mạng".
Luật sư Hoàng Cao Sang nêu lên những quy định bị xem là trái với quyền tự do ngôn luận trên Internet của công dân :
"Chẳng hạn như về vấn đề nói xấu các lãnh đạo, các anh hùng, các danh nhân. Tôi cho rằng việc nói xấu các thành phần đó được định nghĩa rất mơ hồ. Như thế nào là nói xấu ? Anh có thể dùng cụm từ "nói xấu" để bắt người khác, khi người khác bày tỏ quan điểm về một nhân vật nào đấy. Chẳng như nói một ông bí thư hoặc một ông chủ tịch tỉnh có bồ nhí, rồi còn thăng cấp bồ nhí của mình một cách bất thường, thì có thể bị xem là nói xấu cán bộ, người tố cáo có thể bị bắt. Tôi cho rằng điều ấy là không ổn.
Trước khi Luật An ninh mạng có hiệu lực, tôi thấy có rất nhiều người dân cho rằng luật này giống như là một bóng ma đè bẹp sự bày tỏ quan điểm của mình, đè bẹp việc chống tham nhũng, tiêu cực của người dân".
Riêng giới doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp trong lĩnh vực Internet, hiện đang sốt ruột chờ xem chi tiết của các văn bản hướng dẫn thi hành Luật An ninh mạng của Việt Nam, vì luật này sẽ không chỉ buộc các công ty như Google hay Facebook phải gỡ bỏ những nội dung chỉ trích chính phủ, mà còn phải lưu trữ các dữ liệu ở Việt Nam. Hơn nữa, các công ty này sẽ buộc phải lập văn phòng đại diện ở Việt Nam, điều mà các công ty nói trên không muốn làm, vì sợ nhân viên của họ ở bị áp lực chính trị, thậm chí bị bắt giữ.
Luật sư Hoàng Cao Sang nêu lên những khó khăn của các doanh nghiệp nếu Luật An ninh mạng được áp dụng :
"Đối với các doanh nghiệp không liên quan đến vấn đề cung cấp dịch vụ mạng, họ không bị ảnh hưởng nhiều lắm. Luật An ninh mạng chủ yếu là tác động trực tiếp đến những doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng như Facebook, Google… ảnh hưởng đến trách nhiệm của những công ty này.
Chẳng hạn điều 44 của Luật An ninh mạng quy định trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên không gian mạng là phải cảnh báo khả năng mất an ninh mạng trong việc sử dụng dịch vụ và cung cấp những hướng dẫn phòng ngừa, hoặc xây dựng phương án, giải pháp phản ứng nhanh với sự cố an ninh mạng, hoặc xử lý ngay điểm yếu, lỗ hổng, mã độc tấn công mạng. Họ rất khó áp dụng những phương án này.
Đặc biệt, điều 26 của Luật An ninh mạng có quy định các doanh nghiệp phải có văn phòng đại diện hoặc chi nhánh ở Việt Nam. Tôi cho đó là một điều bất cập và không khả thi. Nhất là quy định về việc các doanh nghiệp này phải đặt hệ thống lưu trữ dữ liệu tại Việt Nam lại càng bất khả thi. Trên thế giới có hơn 250 quốc gia và vùng lãnh thổ. Quốc gia nào, vùng lãnh thổ nào cũng quy định như Việt Nam, thì làm sao mà các doanh nghiệp có thể đáp ứng yêu cầu như vậy ?
Thực tế là hiện nay, chẳng hạn như Facebook, họ có khoảng 11 trung tâm lưu trữ dữ liệu, trong đó có đến 6 trung tâm là nằm ở Mỹ, 2 nằm ở Singapore, Hồng Kông, một số trung tâm khác nằm ở Châu Âu, được sử dụng cho toàn bộ các quốc gia và hoạt động rất là tốt. Bây giờ yêu cầu họ đặt trung tâm dữ liệu ở từng quốc gia là điều bất khả thi".
Tờ Washhington Post ngày 16/03 trích lời tiến sĩ Vũ Minh Khương, Đại học Chính sách công Lý Quang Diệu, Singapore, người đã cố vấn cho chính phủ Việt Nam về an ninh mạng :
"Thay vì xây dựng một hệ thống luật pháp vững chắc cần thiết cho việc thúc đẩy phát triển kinh tế thông qua công nghệ, chính phủ chỉ quan tâm đến các vấn đề tin giả và bất cứ những gì có thể gây phương hại cho ổn định chính trị".
Theo tờ nhật báo Mỹ, đối tượng chính của luật an ninh mạng của Việt Nam là Google và Facebook. Tờ báo trích lời nữ ca sĩ Mai Khôi và cũng là một nhà hoạt động chính trị ở Việt Nam, nhận định :
"Luật an ninh là một mưu toan của chính phủ nhằm kiểm soát không gian duy nhất mà trong đó người dân có thể tự do phát biểu".
Luật sư Hoàng Cao Sang cũng có ý kiến tương tự :
"Thực hiện Luật An ninh mạng sẽ rất là khó khăn, ví dụ như yêu cầu họ đặt trung tâm lưu trữ dữ liệu ở Việt Nam là không thể được, mà nếu không đặt trung tâm dữ liệu, thì họ không được hoạt động ở Việt Nam, có nghĩa là người dân sẽ không sử dụng được các dịch vụ như Facebook, Google hoặc Yahoo. Những dịch vụ đó đang làm thay đổi toàn bộ xã hội Việt Nam : thay đổi về nhận thức, về thương mại và về quyền con người. Nếu chặn những cái đó, tôi không biết xã hội sẽ đi về đâu".
Bên cạnh những ý kiến trái chiều của các nhà hoạt động và các doanh nghiệp, quốc tế cũng tiếp tục chỉ trích Luật An ninh mạng của Việt Nam. Trong bản kết luận, công bố ngày 28/03/2019, về Báo cáo quốc gia về tình hình nhân quyền của Việt Nam theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) lần thứ ba, Ủy ban Nhân quyền Liên Hiệp Quốc đã xem Luật An ninh mạng của Việt Nam là một luật xâm phạm quyền tự do ngôn luận trên mạng, vì luật này cấm việc sử dụng Internet để phổ biến những thông tin chống hoặc chỉ trích nhà nước.
Trong bản thông cáo đưa ra ngày 04/03/2019, nhân cuộc đối thoại nhân quyền Liên Hiệp Châu Âu –Việt Nam, tổ chức nhân quyền của Mỹ Human Rights Watch, cũng nhấn mạnh rằng Luật An ninh mạng của Việt Nam "đe dọa quyền về cuộc sống riêng tư và có thể tạo điều kiện cho việc đàn áp mạnh hơn nữa các hành vi bất đồng chính kiến hoặc vận động trên mạng".
Cho dù chưa có các văn bản hướng dẫn thi hành Luật An ninh mạng, nhưng chính quyền Hà Nội đã bắt đầu mạnh tay với các tập đoàn Internet quốc tế. Chỉ vài ngày sau khi luật này có hiệu lực, mạng xã hội Facebook đã bị cáo buộc tội Vu khống, bôi nhọ cá nhân, tổ chức. Cụ thể, Facebook bị xem là "không đáp ứng tốt" việc bóc gỡ các trang có những hoạt động "kích động chống phá Nhà nước", theo yêu cầu của cơ quan chức năng. Facebook còn bị cáo buộc thêm hai tội là Cho phép quảng cáo bất hợp pháp và trốn thuế.
Đáp lại những cáo buộc đó, công ty Facebook ngày 09/01/2019 cho biết họ đã hạn chế nội dung bất hợp pháp và đang thảo luận với chính phủ Việt Nam.
Thanh Phương
Nguồn : RFI, 15/04/2019
Bên cạnh ca khúc "Ly rượu mừng" (mà đến đầu năm 2016 mới được cho phép hát ở Việt Nam !), cứ mỗi Tết đến, những ca khúc quen thuộc của mùa Xuân lại rộn ràng cất lên trong các chương trình văn nghệ mừng năm mới. Đại đa số các sáng tác bất hủ về chủ đề Xuân đều là những bài hát có từ trước năm 1975.
Thiếu nữ áo dài và hoa đào trong dịp Tết Nguyên đán tại Việt Nam (Ảnh chụp ngày 22/01/2017) Reuters
Trước thềm năm mới Kỷ Hợi, hôm nay chúng tôi xin mời quý vị điểm qua một số bản nhạc Xuân tiêu biểu, với sự tham gia của giáo sư – nhạc sĩ Trần Quang Hải tại Paris.
Một trong những ca khúc xưa nhất về mùa Xuân, chắc ai cũng biết, đó là "Xuân đã về" (1950) của nhạc sĩ Minh Kỳ. Với giai điệu nhịp nhàng và tiết tấu rộn ràng, "Xuân đã về" miêu tả thật sống động cảnh vật mùa xuân trên cánh đồng quê Việt Nam. Nghe ca khúc này, ai cũng cảm thấy lòng phơi phới, yêu đời.
Và chắc cũng không ai mà không biết đến ca khúc vui tươi, rộn ràng không kém, đó là "Anh cho em mùa Xuân" của nhạc sĩ Nguyễn Hiền, phổ thơ Kim Tuấn :
Anh cho em mùa xuân, nụ hoa vàng mới nở
Chiều đông nào nhung nhớ
Đường lao xao lá đầy, chân bước mòn vỉa phố
Mắt buồn vịn ngọn cây...
Tuy ra mắt từ năm 1962, nhạc phẩm này vẫn được nhiều người ưa thích, và tiếp tục được nhiều ca sĩ trình bày, kể cả trong giới trẻ hiện nay. Bài hát được viết theo điệu tango, nhưng cũng nhiều người hát theo điệu Cha Cha Cha cho nó sôi động hơn.
Nhưng bên cạnh đó, có những ca khúc tuy không được phổ biến nhiều bằng, nhưng cũng là những sáng tác rất hay về mùa Xuân, như ghi nhận của nhạc sĩ Trần Quang Hải :
"Ví dụ như "Xuân Thôn Dã" hoặc "Xuân Miền Nam" của ông Văn Phụng cũng rất là hay, còn Hoàng Trọng cũng có một bài rất nổi tiếng, đó là bài "Gió Mùa Xuân Tới". Một bài khác cũng được nhiều người biết đến, do nữ ca sĩ Thu Hương từng hát, đó là bài "Gái Xuân" của Từ Vũ, phổ thơ của thi sĩ Nguyễn Bính và sau này cũng được nhiều ca sĩ hát.
Còn bài "Mộng Chiều Xuân" của ông Ngọc Bích là một trong bài hát về Xuân theo điệu tango. Ngay như ông Phạm Đình Chương cũng có viết một bài vào năm 1953, đó là "Xuân Tha Hương". Bài này cũng rất nổi tiếng, nhưng điệu nhạc hơi buồn, vì ông nói đến lúc mới di cư vào Nam, còn nhớ về quê mẹ, cho nên được viết theo cung thứ, buồn hơn là bài "Ly Rượu Mừng".
Nhạc sĩ Văn Cao và Phạm Duy
Theo nhạc sĩ Trần Quang Hải, cố nhạc sĩ Phạm Duy cũng là một người có rất nhiều sáng tác về mùa Xuân, mà tiêu biểu là ca khúc "Xuân Ca" :
"Phạm Duy là người sáng tác rất nhiều bài Xuân nổi tiếng, như bài "Xuân Ca", được nhiều người hát, hay bài "Hoa Xuân" "Tuổi Xuân". Nhưng có một bài mà tôi còn đặt nghi vấn là bài "Bến Xuân", viết chung với ông Văn Cao, nhưng trong tất cả các tài liệu, họ chỉ đề "Bến Xuân" là của Văn Cao. Theo tôi, bài này do cả hai người viết trước năm 1954. "Bến Xuân" là một bài hát rất hay, rất êm dịu, nhẹ nhàng, chứ không phải là nhạc tranh đấu".
Bài hát : Bến Xuân - Tiếng hát Khánh Lý những năm 1980's (Nguồn : Trần Mạnh Hà, 29/03/2009)
Đa số những ca khúc về mùa Xuân sáng tác trước năm 75 đều phản ánh một thời kỳ chiến tranh máu lửa và gắn liền với mùa Xuân là hình ảnh của anh chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, theo ghi nhận của nhạc sĩ Trần Quang Hải.
Một số ca khúc Xuân trước năm 75 cũng phản ánh tâm trạng của người lính phải sống cảnh xa nhà trong những ngày Tết, vì họ phải ở lại tiền đồn heo hút để canh giữ cho người dân được đón năm mới trong thanh bình, mà tiêu biểu nhất chính là "Xuân này con không về"của nhạc sĩ Nhật Ngân, nhạc phẩm bất hủ vốn gắn liền tên tuổi của cố danh ca Duy Khánh. Nhạc sĩ Trần Quang Hải nhắc lại :
"Nhạc sĩ Nhật Ngân viết bài "Xuân này con không về" với dòng nhạc đặc biệt miền Trung, nhạc ngữ rất là miền Trung, âm giai cũng là miền Trung. Thành ra những người nào miền Trung khi hát thì đều làm thoát ra được cái hình ảnh đó, mà anh Duy Khánh là một trong những ca sĩ gốc miền Trung, có một giọng hát rất truyền cảm và gây ra một ảnh hưởng rất lớn trong giới tân nhạc Việt Nam.
Tôi nghĩ đó là một bài về mùa Xuân với một hình ảnh không có gì là hy vọng. Nói rằng "Xuân này con không về" có nghĩa là con phải ở lại đó, hoặc có thể là con bỏ thây nơi sa trường. Đó là những hình ảnh rất đẹp mà anh Duy Khánh đã lột tả được và đã đem bài đó đi khắp nơi trong miền Nam. Tôi thấy đó là một đóng góp rất lớn".
Tuyệt đại đa số các nhạc phẩm nổi tiếng về mùa Xuân đều là sáng tác ở miền Nam trước năm 75, nhưng đặc biệt có một ca khúc của cố nhạc sĩ Văn Cao, ra đời sau thời điểm đó, trong nhiều năm tưởng đã bị chìm vào quên lãng, nhưng cuối cùng cũng được cho phép hát công khai và dần dần cũng trở thành bất hủ, đó là bài "Mùa Xuân Đầu Tiên", được Văn Cao sáng tác vào dịp Tết Bính Thìn (1976). Nhạc sĩ Trần Quang Hải kể lại số phận ba chìm bảy nổi của ca khúc này :
"Sau năm 75, tờ báo Sài Gòn Giải Phóng đặt ông Văn Cao viết bài đó và đăng đầu tiên trong số Xuân Sài Gòn Giải Phóng. Nhưng lúc đó, tất cả những bài hát của Văn Cao đều bị cấm. Cho tới gần 20 năm sau mới được hát trở lại. Ông có nói với người là Văn Thao : "Cha viết bài này là muốn mừng cho đất nước được thống nhất và nhân dân được đoàn tụ. Nhưng cái đó chỉ là ước mơ thôi, sau đó thì không được như thế.
Tới khi ông ấy mất vào ngày 20/07/1995, lúc đó tất cả nhạc của ông Văn Cao được hồi phục. Trong buổi lễ 49 ngày ông Văn Cao mất, có một người đứng ra hát "Mùa Xuân Đầu Tiên", được nổi tiếng từ đó, đó là ca sĩ Thanh Thúy, khi ấy mới 17 tuổi. Bài hát này sau đó được phổ biến rộng rãi ở Việt Nam, phần lớn là ở miền Bắc hơn là trong miền Nam".
Cũng rơi vào buổi giao thời tương tự như "Mùa Xuân Đầu Tiên", đó là "Điệp Khúc Mùa Xuân", một bài hát có tiết tấu nhanh, nhưng vẫn dịu dàng, thích hợp với không khí vừa náo nức vừa mơ màng của những ngày Xuân, với niềm mong ước "tình xuân ơi xin dệt mối yêu thương, từ bao nhiêu năm tình sầu muôn hướng". Nhạc sĩ Trần Quang Hải cho biết thêm vài chi tiết về sáng tác này của nhạc sĩ Quốc Dũng, một trong những người đầu tiên viết những ca khúc nhạc trẻ bằng tiếng Việt vào đầu thập niên 1970 ở miền Nam :
"Quốc Dũng đã sáng tác rất nhiều bài và đặc biệt là bài "Điệp Khúc Mùa Xuân", viết theo điệu nhạc kích động, sáng tác vào tháng 10/1974, nhưng được nổi tiếng vào thời gian sau 75, được người ở miền Nam hát rất nhiều. Bảo Yến, vợ đầu tiên của Quốc Dũng, đã hát bài này đầu tiên và sau đó được hàng chục ca sĩ khác nối tiếp nhau hát, tại vì bài này có tiết tấu phù hợp với sở thích của giới trẻ. Có thể nói đây là một trong những bài nổi tiếng nhất về mùa Xuân sau 75 tại Việt Nam".
Chương trình đặc biệt đón Xuân Kỷ Hợi đến đây làm chấm dứt. RFI Việt ngữ rất cám ơn nhạc sĩ Trần Quang Hải tham gia vào chương trình và nhân đây xin chúc toàn thể quý vị thính giả một năm mới an khang thịnh vượng.
Thanh Phương
Nguồn : RFI, 04/02/2019
Ông Nguyễn Phú Trọng thâu tóm quyền lực và đẩy mạnh chiến dịch chống tham nhũng, Việt Nam hội nhập sâu hơn vào kinh tế thế giới qua việc gia nhập CPTPP và chuẩn bị ký hiệp định tự mậu dịch với Liên Hiệp Châu Âu, nhưng chính quyền vẫn tiếp tục trấn áp những tiếng nói đối lập. Đó là một số điểm nổi bật của thời sự Việt Nam trong năm 2018.
Biểu tình phản đối dự luật Đặc khu kinh tế ngày 10/06/2018, tại Sài Gòn. Kao NGUYEN / AFP
Năm 2018 là năm đánh dấu một thay đổi lớn trong cơ cấu quyền lực của Việt Nam, với việc tổng bí thư Đảng Cộng Sản Nguyễn Phú Trọng ngày 23/10 chính thức được Quốc Hội được bầu làm chủ tịch nước, thay thế ông Trần Đại Quang, qua đời vào tháng 9. Đây là lần đầu tiên kể từ thời ông Hồ Chí Minh, một lãnh đạo đảng kiêm nhiệm chức chủ tịch nước. Trong một bài viết đăng trên mạng ngày 04/10/2018, tức là sau khi có tin ông Nguyễn Phú Trọng sẽ kiêm nhiệm chức chủ tịch nước, Asia Times đã nhận định đây là một sự củng cố quyền lực chưa từng có, đưa ông trở thành một Tập Cận Bình của Việt Nam. Ông Tập Cận Bình hiện cũng là tổng bí thư kiêm chủ tịch Trung Quốc.
Tuy nhiên, trả lời phỏng vấn RFI trong tạp chí Việt Nam phát ngày 29 /10, tiến sĩ Lê Hồng Hiệp, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore, cho rằng hiện còn quá sớm để khẳng định Việt Nam sẽ đi theo mô hình Trung Quốc :
Tôi nghĩ là hiện còn tương đối là quá sớm để khẳng định xu thế trong tương lai. Ít nhất là trong những phát biểu gần đây của ông Nguyễn Phú Trọng, ông cũng nói rằng đây là một giải pháp tạm thời, trong bối cảnh chủ tịch nước Trần Đại Quang qua đời đột ngột và ông được đề cử để nắm chức vụ ấy.
Điều này cho thấy là bản thân ông Nguyễn Phú Trọng và những lãnh đạo khác của đảng vẫn chưa đưa ra quyết định cuối cùng về việc có nên hợp nhất hai chức vụ này hay không, và quan trọng hơn là có nên kéo dài sự dàn xếp hiện tại đối với ông Trọng hay không ? (… ) Có lẽ là từ giờ đến Đại hội 13, người ta sẽ đánh giá cụ thể hơn hiệu quả của việc tổng bí thư kiêm nhiệm chủ tịch nước, để xem có nên tiếp tục duy trì sau Đại hội 13 hay không. Nếu họ muốn duy trì (cơ cấu này), ai sẽ là người được lựa chọn để thay thế ông Trọng ở cả hai chức vụ ? Cả hai vấn đề đều chưa có lời giải ở thời điểm này. Tôi nghĩ là họ sẽ cần có thời gian hơn để quyết định và như vậy câu hỏi Việt Nam có sẽ theo mô hình của Trung Quốc hay không thì có lẽ cũng cần thời gian để kiểm chứng.
Dù là tạm thời hay không, với việc kiêm nhiệm hai chức vụ lãnh đạo tối cao, ông Nguyễn Phú Trọng đã thâu tóm đủ quyền lực để có thể đẩy mạnh hơn nữa chiến dịch chống tham nhũng và qua đó triệt hạ các đối thủ chính trị, nhất là những người thuộc phe cựu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Trong những tháng cuối năm, nhiều quan chức cao cấp đã bị bắt giữ, trong đó gây chấn động nhiều nhất là vụ bắt giam ông Trần Bắc Hà, cựu chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (BIDV), vì tội "vi phạm các quy định về ngân hàng". Trần Bắc Hà là một nhà tài phiệt được mô tả là có quyền hành rất lớn và là nhân vật thân tín của ông Nguyễn Tấn Dũng. Cuối năm, chiến dịch chống tham nhũng vẫn không ngớt cường độ : ngày 10/12, công an đã bắt ông Trương Văn Tuyến (nguyên tổng giám đốc Vinashin) ; Phạm Thanh Sơn (phó tổng giám đốc SBIC, Vinashin) về tội "Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản" .
Về mặt kinh tế, sự kiện đáng chú nhất trong năm 2018, đó là việc Việt Nam gia nhập Hiệp định tự do mậu dịch Đối tác Toàn diện Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Ngày 12/11/2018, Quốc hội Việt Nam đã phê chuẩn CPTPP và như vậy Việt Nam là nước thứ bảy thông qua hiệp định này, sau các nước New Zealand, Canada, Úc, Nhật Bản, Mêhicô và Singapore. CPTPP sẽ có hiệu lực kể từ ngày 30/12/2018.
Trả lời RFI trong tạp chí ngày 12/03, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cho rằng hiệp định CPTPP sẽ thúc đẩy những cải cách ở Việt Nam :
Tôi thích nhất TPP là ở chỗ các chuẩn mực, các yêu cầu của hiệp định này rất là rõ và cao hơn, để Việt Nam trong quá trình cải cách của mình phải vươn tới những chuẩn mực đó, chứ không thể lúc nào cũng nhấn mạnh đến đặc thù Việt Nam để trì hoãn một số cải cách hoặc cải cách không đồng bộ. Những cải cách thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán của Việt Nam đôi khi làm cho cải cách kém hiệu quả hơn nhiều trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường.
Bây giờ, nếu không có một chuyển đổi thật mạnh mẽ, thật nhất quán, để làm cho Việt Nam vượt lên, thì Việt Nam sẽ khó mà cạnh tranh với thế giới ngày nay. Tôi cho rằng, thúc đẩy cải cách thể chế và cải cách bộ máy hành chính của Việt Nam là một điều hết sức cần thiết mà hiệp định này có thể mang lại.
Đặc biệt, hiệp định CPTPP sẽ dẫn đến việc thành lập công đoàn độc lập ở Việt Nam, bởi vì trong số ba công ước cơ bản của Tổ chức Lao động Quốc tế mà Việt Nam sẽ phải phê chuẩn, có công ước 87 về quyền tự do lập hội. Công ước quy định là người lao động và người sử dụng lao động được quyền tự thành lập một tổ chức và tham gia một tổ chức theo sự lựa chọn của mình, chứ không bắt buộc phải theo công đoàn chính thức.
Ngoài CPTPP, Việt Nam còn đang chuẩn bị ký kết hiệp định tương tự với Liên Hiệp Châu Âu. Ngày 17/10, Ủy ban châu Âu đã thông qua việc đệ trình Hiệp định Tự do Thương mại EVFTA và Hiệp định Bảo hộ Đầu tư với Việt Nam, chuẩn bị cho việc ký kết và hoàn tất tiến trình. Hiện chưa biết khi nào tiến trình này mới hoàn tất, nhưng một có một điều chắc chắn, đó là vấn đề nhân quyền ở Việt Nam đã phần nào gây cản trở việc ký kết.
Về vấn đề này, trả lời phỏng vấn RFI trong tạp chí ngày 15/10, trưởng phái đoàn Liên Hiệp Châu Âu tại Việt Nam, Bruno Angelet, nói :
Liên quan đến hiệp định tự do mậu dịch, các nguyên tắc và các giá trị của châu Âu được ghi trong phần mở đầu của hiệp định. Việc thẩm định sự tôn trọng các giá trị và nguyên tắc đó sẽ được tiến hành một khi hiệp định tự do mậu dịch Liên Hiệp Châu Âu – Việt Nam được thực hiện. Chúng tôi cũng cần có sự bảo đảm là Việt Nam có quyết tâm và có khả năng tuân thủ các cam kết của mình, nhất là những cam kết được ghi trong hiệp định. Việt Nam cũng phải có những cam kết quốc tế về quyền lao động.
Đó là những cam kết đòi hỏi rất nhiều nỗ lực, nhưng sẽ đưa Việt Nam lên một nấc cao hơn và giúp Việt Nam phát triển một xã hội trình độ cao hơn và hiện đại hơn so với các nước láng giềng. Tôi hiểu rằng Nghị Viện Châu Âu có những đòi hỏi gắt gao hơn về nhân quyền và tôi không biết là khi được đưa ra phê chuẩn ở Nghị Viện, hiệp định sẽ nhận được đa số phiếu như thế nào. Vấn đề nhân quyền ở Việt Nam chắc chắc được thảo luận, được tranh luận nhiều hơn.
Tình hình nhân quyền ở Việt Nam trong năm 2018 tiếp tục gây quan ngại cho các tổ chức quốc tế, với thêm nhiều nhà bất đồng chính kiến bị kết án tù, gần đây nhất là cô Huỳnh Thục Vy, ngày 30/11/2018 đã bị một tòa án ở tỉnh Đắk Lắk tuyên án 33 tháng tù giam với tội danh "xúc phạm quốc kỳ" theo điều 276 Luật Hình sự. Do có con nhỏ và đang mang thai, bà được hoãn thi hành án, nhưng bị cấm rời khỏi nơi cư trú, cấm xuất cảnh.
Nhân vụ xử Huỳnh Thục Vy, trong một thông cáo đưa ra ngày 20/11, tổ chức Human Rights Watch đã kêu gọi Liên Hiệp Châu Âu và các nhà tài trợ, đối tác thương mại quốc tế yêu cầu chính quyền Việt Nam "thực hiện những lời hứa cải thiện hồ sơ nhân quyền tồi tệ của mình nếu muốn có các mối quan hệ chính trị và kinh tế tốt đẹp hơn".
Trong năm 2018, chính quyền Việt Nam đã trả tự do cho một số nhà bất đồng chính kiến, nhưng buộc họ phải ra nước ngoài, như trường hợp của luật sư Nguyễn Văn Đài và gần đây nhất là blogger Mẹ Nấm - Nguyễn Ngọc Như Quỳnh.
Không chỉ trấn áp những nhà hoạt động nhân quyền, chính quyền Hà Nội còn tỏ thái độ cứng rắn với những đảng viên có những phát biểu không thuận tai Đảng, đặc biệt qua vụ Ủy Ban Kiểm Tra Trung Ương đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 25/10 đã đề nghị kỷ luật giáo sư Chu Hảo. Nguyên là thứ trưởng bộ Khoa học và Công nghệ, và hiện là Giám đốc Nhà xuất bản Tri Thức, ông Chu Hảo, bị cáo buộc là đã cho phát hành "một số cuốn sách có nội dung trái với quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước", cũng như đã "có những bài viết, phát ngôn có nội dung trái với Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng".
Nhiều nhân sĩ trí thức trong nước đã phản đối vụ kỷ luật giáo sư Chu Hảo, riêng nhà văn Nguyên Ngọc đã tỏ thái độ bằng cách tuyên bố từ bỏ đảng. Trong một lá thư ngỏ đề ngày 11/11/2018, gần 100 giáo sư, tiến sĩ và nhà nghiên cứu về Việt Nam từ nhiều nước trên thế giới cũng đã lên tiếng "bày tỏ quan ngại" về các cáo buộc "vô căn cứ và đáng lo ngại" đối với giáo sư Chu Hảo.
Để kiểm soát chặt chẽ hơn những thông tin trên Internet, trong năm 2018, Việt Nam cũng đã thông qua luật an ninh mạng, sẽ bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2019. Luật này không chỉ bị chỉ trích là bóp nghẹt quyền tự do ngôn luận trên mạng, mà còn gây lo ngại cho giới doanh nghiệp Việt Nam cũng như của nước ngoài. Tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam thường niên 2018, diễn ra trong tháng 12, Hiệp hội Doanh nghiệp Mỹ tại Việt Nam (Amcham) đã bày tỏ lo ngại rằng Luật an ninh mạng "có thể gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế Việt Nam qua việc cản trở luồng dữ liệu tự do mà nền kinh tế số toàn cầu xây dựng".
Trong năm 2018, một dự luật khác đã gặp phản đối mạnh hơn cả luật an ninh mạng. Đó là dự luật đặc khu, vì luật này dự trù cho nhà đầu tư nước ngoài thuê đất đến 99 năm tại các đặc khu, được cho là sẽ tạo điều kiện cho Trung Quốc kiểm soát những khu vực trọng yếu của Việt Nam, như đặc khu kinh tế Vân Đồn ở Quảng Ninh, nằm gần biên giới Trung Quốc. Sau các cuộc biểu tình rầm rộ trong nước và của người Việt ở nước ngoài, chính phủ Việt Nam đã phải quyết định hoãn cuộc biểu quyết luật đặc khu cho đến năm sau. Tuy nhiên, Hà Nội vẫn kết án tù nhiều người tham gia các cuộc biểu tình chống luật này.
Thanh Phương
Nguồn : RFI, 17/12/2018
Trong thời gian qua báo chí đã nói về bẫy nợ của Trung Quốc đối với một số quốc gia. Nay phải chăng sắp đến lượt Việt Nam cũng sẽ sập chiếc bẫy nợ này ? Hiện giờ, chúng ta chưa đi đến tình trạng đó, nhưng trước mắt rõ ràng là Việt Nam đang đối diện với nhiều nguy cơ từ các dự án đầu tư của Trung Quốc.
Tuyến tầu điện Cát Linh - Hà Đông do chủ thầu Trung Quốc xây dựng ở Hà Nội. Ảnh minh họa.CC/shansov.net
Trong một báo cáo vào tháng 08/2018 gởi thủ tướng Việt Nam về Định hướng thu hút, quản lý và sử dụng vốn viện trợ phát triển ODA và vốn vay ưu đãi, bộ Kế hoạch và Đầu tư đã lên tiếng cảnh báo về nguy cơ nợ Trung Quốc. Theo báo cáo này, vốn gọi là "ưu đãi" của Trung Quốc cho Việt Nam thật ra cũng tương tự các khoản vay tín dụng xuất khẩu, tức là các khoản vay có điều kiện (chỉ định thầu cho các doanh nghiệp Trung Quốc) và có điều kiện vay kém ưu đãi hơn so với ODA của các nhà tài trợ khác tại Việt Nam.
Cụ thể, bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết vốn vay Trung Quốc có lãi suất là 3%/năm, cao hơn vốn vay của Nhật Bản (0,4 - 1,2%), Hàn Quốc (0-2%) hoặc Ấn Độ (1,75%). Chưa kể phí cam kết 0,5% và phí quản lý 0,5%. Thời hạn vay vốn của Trung Quốc là 15 năm và thời gian ân hạn là 5 năm, cả hai đều thấp hơn so với các nhà tài trợ khác. Các khoản vay tín dụng ưu đãi của Trung Quốc được cấp qua Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc (China Eximbank).
Báo cáo nói trên của bộ Kế hoạch và Đầu tư đặc biệt nhấn mạnh là một số dự án sử dụng vốn vay, nhà thầu, thiết bị Trung Quốc "thường xuyên chậm tiến độ, không đảm bảo chất lượng, tăng tổng mức đầu tư... ảnh hưởng hiệu quả đầu tư".
Theo tiến sĩ Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế, việc Việt Nam vay nợ nhiều từ Trung Quốc đang góp phần khiến quan hệ giữa hai nước ngày càng bất đối xứng :
"Quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc hiện đang xuất hiện sự bất bình đẳng, bất đối xứng với Trung Quốc, tức là Việt Nam vay nợ của Trung Quốc rất nhiều, vay nợ trong lĩnh vực điện, xây các nhà máy điện than với công nghệ Trung Quốc, gây ô nhiễm và gây phản ứng không hài lòng, tiêu cực trong dân chúng. Ngoài ra, nhập siêu của Việt Nam đối với Trung Quốc rất lớn. Đấy là hai yếu tố tạo nên sự bất bình đẳng và không cân bằng trong quan hệ giữa hai nước.
Việt Nam không được hưởng chính sách lãi suất vay nợ ưu đãi về lãi xuất và các điều kiện chi trả. Các dự án mà Việt Nam nhận đầu tư của Trung Quốc chủ yếu là do tập đoàn điện lực EVN ký kết, theo phương thức "chìa khóa trao tay" và công nhân Trung Quốc thực hiện xây lắp các công nghệ Trung Quốc, hoàn thành và chuyển giao cho Việt Nam. Sự giám sát của Việt Nam đối với các dự án này cũng không được thực hiện, mà việc giám sát là do các cơ quan của Trung Quốc thực hiện.
Cho nên đã có nhiều sự lo ngại về việc các dự án đó không bảo đảm về mặt kỹ thuật, cũng như gây ô nhiễm môi trường".
Theo báo chí trong nước, báo cáo của Bộ Công Thương cho thấy trong số 19 dự án nhiệt điện đầu tư theo phương thức BOT (Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao ), có 3 dự án có sự tham gia của nhà đầu tư Trung Quốc với cổ phần chiếm đa số chi phối. Đó là dự án nhiệt điện Vĩnh Tân 1, Vũng Áng 2 và Vĩnh Tân 3. Ngoài ra, tuy không góp mặt với tư cách chủ đầu tư, nhiều doanh nghiệp Trung Quốc cũng đã trúng thầu các dự án nhiệt điện ở Việt Nam. Chẳng hạn như nhà thầu KAIDI đã lần lượt trúng thầu các dự án như Nhà máy điện Thăng Long, Nhà máy điện Hải Dương và Nhà máy nhiệt điện Cẩm Phả 3, Nhà máy nhiệt điện Mạo Khê.
Trong một bài báo đăng trên mạng ngày 02/12/2018, tờ Dân Trí cho biết chính bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam đã nhìn nhận rằng trong thời gian qua có nhiều nhà thầu Trung Quốc trúng thầu các dự án của Việt Nam, nhưng trong quá trình thực hiện đã xuất hiện một số tình trạng như : thi công chậm tiến độ, chất lượng của hàng hóa, công trình sau khi hoàn thành không cao, công trình xuống cấp nhanh sau khi hết hạn bảo hành... Nhiều chủ đầu tư đã buộc phải chấm dứt hợp đồng với nhà thầu Trung Quốc, kể cả chấp nhận bị kiện.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư nêu lên nguyên nhân chủ yếu dẫn đến nhà thầu Trung Quốc trúng thầu. Đó là những dự án đó sử dụng vốn vay của Trung Quốc, mà để vay vốn Trung Quốc thì Việt Nam phải chấp nhận nhà thầu Trung Quốc thực hiện gói thầu như một điều kiện vay.
Trước đây, vào năm 2016, Trung Quốc cũng đã đề nghị cho Việt Nam vay 300 triệu đôla để thực hiện dự án đường cao tốc Vân Đồn - Móng Cái. Nhưng chính quyền tỉnh Quảng Ninh đã từ chối. Tháng 10/2018, Sở Giao thông Vận tải tỉnh này vừa thông báo đã giao cho 3 nhà đầu tư Việt Nam thực hiện dự án, với mức vốn gần 500 triệu đôla. Theo dự kiến dự án đường cao tốc Vân Đồn - Móng Cái sẽ được khởi công xây dựng trong tháng 12.
Theo tiến sĩ Lê Đăng Doanh, Trung Quốc đã tỏ ra "hào phóng" với dự án đường cao tốc Vân Đồn - Móng Cái chính vì đây là một dự án có lợi cho Trung Quốc, nhất là vì Vân Đồn rất có thể sẽ là một đặc khu kinh tế dành riêng cho Trung Quốc :
"Dự án Vân Đồn - Móng Cái rõ ràng là mang lại lợi ích lớn cho Trung Quốc. Nếu có dự án này thì hàng hóa Trung Quốc, du khách Trung Quốc sẽ có thể sang Việt Nam một cách dễ dàng. Dự án luật đặc khu, mà đã bị người dân phản đối rất gay gắt và chính phủ đã phải tạm dừng trình Quốc Hội, có dự trù là công dân Trung Quốc có thể vào Việt Nam mà không cần visa để kinh doanh, đầu tư tại Vân Đồn. Tôi hy vọng là nếu dự luật được trình ra, những điều mà người dân đã có phản ứng sẽ được xem xét một cách thận trọng và thỏa đáng".
Hy vọng là dự án đường cao tốc Vân Đồn - Móng Cái sẽ không rơi vào tình trạng giống như dự án đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông ở Hà Nội, một dự án vay vốn của Trung Quốc, vừa bị chậm trễ, vừa bị đội giá rất nhiều. Tờ Tiền Phong trong một bài báo đăng trên mạng ngày 30/10/2018 cho biết công trình này theo dự kiến lẽ ra đã hoàn thành từ tháng 6/2015, nhưng cho đến nay vẫn chưa được đưa vào sử dụng. Còn vốn đầu tư cho dự án ban đầu được dự kiến là 552 triệu đôla, nhưng nay đã tăng lên tới gần 900 triệu đôla, tức là tăng gần 40%.
Với 552 triệu đôla tiền vay ODA Trung Quốc để thực hiện dự án Cát Linh - Hà Đông và với lãi vay thương mại ưu đãi trung bình 3%/năm, nhiều chuyên gia cho rằng, mỗi năm phía Việt Nam phải trả khoảng 240 tỷ đồng tiền lãi (tương đương 600 triệu đồng/ngày).
Còn với khoản lãi vay tăng thêm do dự án bị đội giá, Việt Nam phải trả nợ trong vòng 9 năm cho ngân hàng China EximBank của Trung Quốc từ tháng 01/2016 đến 15/11/2025. Cộng cả hai khoản vay, mặc dù dự án chưa hoàn thành, nhưng mỗi ngày phía Việt Nam đang phải trả cho Trung Quốc cả lãi lẫn gốc khoảng 2,4 tỷ đồng.
Nhưng làm thế nào để tránh cho các nhà thầu Trung Quốc liên tục thắng thầu ? Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, biện pháp cần thực hiện là Việt Nam "phải tự chủ về vốn, tránh việc vay vốn Trung Quốc quá nhiều".
Tiến sĩ Lê Dăng Doanh thì đề nghị chính phủ phải xét lại các quy định, luật lệ về đầu tư và đấu thầu :
"Thủ thuật của Trung Quốc là lợi dụng luật đầu tư và luật đấu thầu của Việt Nam là người nào bỏ thầu giá thấp nhất thì sẽ được chấp nhận. Các nhà thầu Trung Quốc bỏ thầu với giá rất thấp cho nên luôn thắng thầu. Sau khi họ thắng thầu và tiến hành xây dựng thì công trình đó đội giá lên gấp nhiều lần, như dự án đường sắt Cát Linh - Hà Đông của Hà Nội hiện nay, đang gây sự chú ý của dư luận.
Cho nên, Việt Nam cần phải điều chỉnh quá trình xét duyệt các dự án của Trung Quốc và điều chỉnh các điều kiện của luật đất thầu, để tránh rơi vào cái bẫy của Trung Quốc, tức là chào thầu rất rẻ, nhưng cuối cùng Việt Nam phải trả một cái giá rất đắt, với một công nghệ rất kém, với nhiều yếu tố môi trường mà người dân rất quan tâm".
CPTPP sẽ mở đường cho việc thành lập công đoàn độc lập
Thanh Phương, RFI, 03/12/2018
Không chỉ có tác động về mặt kinh tế, CPTPP, một hiệp định tự do thương mại thế hệ mới, còn có những tác động to lớn về mặt xã hội ở Việt Nam, đặc biệt là về lao động, mở đường cho việc thành lập công đoàn độc lập.
Một nhà máy lắp ráp xe gắn máy tại Hải Phòng. Ảnh chụp ngày 03/11/2018. Reuters
Ngày 12/11/2018, Quốc hội Việt Nam đã phê chuẩn Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Như vậy Việt Nam là nước thứ 7 thông qua hiệp định này, sau các nước New Zealand, Canada, Úc, Nhật Bản, Meehicô và Singapore. CPTPP sẽ có hiệu lực kể từ ngày 30/12/2018.
Không chỉ có tác động về mặt kinh tế, CPTPP, một hiệp định tự do thương mại thế hệ mới, còn có những tác động to lớn về mặt xã hội ở Việt Nam, đặc biệt là về lao động. Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), hiệp định này đặt ra những yêu cầu cụ thể về quyền lao động và điều kiện làm việc nhằm đảm bảo tự do thương mại, nói chung là buộc Việt Nam phải hiện đại hoá pháp luật về lao động, giúp người lao động và doanh nghiệp cùng được hưởng lợi ích về kinh tế một cách công bằng.
Theo thống kê, tại Việt Nam đã có hơn 6.000 cuộc đình công diễn ra kể từ giữa thập niên 90 và tất cả đều là đình công tự phát, chứ không phải là do công đoàn khởi xướng. Trả lời phỏng vấn RFI, luật sư Hoàng Cao Sang, Văn phòng luật sư Hoàng Luật Việt, cũng đưa ra nhận định tương tự :
" Hiện tại ở Việt Nam, đa phần người lao động bị thiệt thòi, vì tổ chức công đoàn lại ăn lương của người sử dụng lao động, cho nên công đoàn này thường là không hiệu quả và không bảo vệ được người lao động và tất cả tranh chấp, đình công đều mang tính tự phát. Khi mà tự phát như vậy thì họ không biết được đâu là quyền của mình và đâu là nghĩa vụ của mình, để mình thực hiện, cho nên người lao động thường là bị ép hoặc không được đảm bảo quyền lợi. Không một cá nhân, hay một tổ chức nào hiểu biết về pháp luật để bảo vệ họ.
Một điều nữa là pháp luật Việt Nam hiện nay cũng chưa tham gia những công ước bảo vệ người lao động, cũng như bảo vệ người sử dụng lao động một cách tốt nhất theo luật của quốc tế".
Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP yêu cầu tất cả các nước tham gia phải thông qua và duy trì các quyền được nêu trong Tuyên bố năm 1998 của ILO về Các nguyên tắc và Quyền cơ bản trong lao động trong pháp luật, thể chế và thông lệ của họ. Các quyền này được quy định trong 8 công ước cơ bản của ILO.
Tuy nhiên, theo ILO, cho đến nay Việt Nam vẫn chưa phê chuẩn ba công ước cơ bản (Công ước số 87, 98 và 105) liên quan đến quyền tự do hiệp hội, quyền thương lượng tập thể và xóa bỏ lao động cưỡng bức. LS Hoàng Cao Sang cho biết thêm về nội dung của 3 công ước nói trên :
" Cái quan trọng nhất mà hiệp định này đưa ra, đó là Việt Nam phải cam kết về vấn đề chế độ lao động, mà cụ thể là trong chương 19 của hiệp định, họ viện dẫn rất là nhiều quy định pháp luật, trong đó có Tuyên bố của ILO 1998. Trong tuyên bố đó có 8 công ước, mà Việt Nam mới ký được 5 công ước, còn 3 công ước nữa chưa ký.
Tôi cho rằng đây là những công ước rất quan trọng đối với việc Việt Nam phải thay đổi cơ chế làm việc của mình trong các doanh nghiệp, đối với từ người sử dụng lao động cho đến người lao động và pháp luật đối với quan hệ lao động này.
Trong 3 công ước chưa ký đó, tôi cho rằng công ước 87 là hơi "nhạy cảm" với cơ chế và pháp luật Việt Nam, đó là về quyền tự do và hiệp hội và về việc bảo vệ quyền được tổ chức. Đó là công ước quan trọng nhất, đã gây cản trở nhiều nhất trong quá trình đàm phán gia nhập CPTPP. Công ước có quy định là người lao động và người sử dụng lao động được quyền tự tạo một tổ chức và tham gia tổ chức theo sự lựa chọn của mình, chứ không phải như quy định bây giờ là phải theo công đoàn chính thức.
Còn công ước 98 là về những nguyên tắc quyền tổ chức và thương lượng tập thể đối với người lao động. Công ước 105 là về xóa bỏ lao động cưỡng bức. Điều quan trọng mà họ đưa ra là khi mà người lao động đình công hoặc bị xử lý kỷ luật thì sẽ không bị cưỡng bức, không bị bắt làm một công việc nào đó mang tính cưỡng bức, không bị phân biệt đối xử chủng tộc, xã hội, tôn giáo".
Lộ trình phê chuẩn ba công ước cơ bản sẽ diễn ra như thế nào, luật sư Hoàng Cao Sang cho biết :
" Khi Việt Nam đã ký kết và phê chuẩn tham gia thì tất nhiên Việt Nam phải sửa đổi pháp luật và những cơ chế đúng với 3 công ước nói trên. Theo lộ trình tôi được biết, Việt Nam sẽ phê chuẩn công ước 98 vào năm 2019, công ước 105 vào năm 2020 và công ước 87 vào năm 2023. Công ước 87 là công ước gây cản trở nhiều nhất là Việt Nam phải có một thời gian nhất định để tham gia ký kết và phê chuẩn công ước ấy. Năm 2023 là thời hạn kéo dài nhất. Tôi cho rằng Nhà nước Việt Nam kéo dài thời gian để có một sự chuẩn bị nhất định cho công ước ấy".
Để thực thi những nguyên tắc được đề ra trong các công ước cơ bản, việc sửa đổi Bộ Luật Lao động là bước đầu tiên và quan trọng nhất tại Việt Nam. Theo kế hoạch, dự thảo Bộ Luật Lao động sửa đổi sẽ được trình Quốc hội thông qua vào cuối năm 2019.
Về lâu dài, sau khi CPTTP có hiệu lực, như đã nói ở trên, người lao động ở Việt Nam trên nguyên tắc sẽ được phép thành lập hay gia nhập các tổ chức do họ tự lựa chọn ở cấp cơ sở, và những tổ chức đó có thể không thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, tổ chức công đoàn chính thức. Như vậy là CPTPP sẽ mở đường cho việc hình thành công đoàn độc lập ở Việt Nam, một xu thế mà chính quyền đã cố trì hoãn, nhưng cuối cùng buộc phải chấp nhận đi theo. Đối với luật sư Hoàng Cao Sang, CPTPP và tiếp đến là hiệp định tự do mậu dịch với Liên Hiệp Châu Âu (EU) là những động lực buộc Việt Nam phải thay đổi.
***************
‘Cơ hội CPTPP’ : Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam kéo nhau ‘du hí’ ở Hà Lan
Minh Quân, VNTB, 03/12/2018
Trong rất nhiều năm qua, bằng một quy định tài chính tự đặt ra, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam đã nghiễm nhiên phè phỡn hưởng thụ ít nhất 3% trên tổng quỹ lương doanh nghiệp (gồm 2% do doanh nghiệp phải ‘đóng góp’ và 1% từ thu nhập của người lao động). Một quy định mà rất nhiều doanh nghiệp và công nhân đã phẫn nộ : ‘không ăn cướp thì là cái gì !’.
Bức ảnh dưới đây có lẽ đã đủ để lột tả về thực chất của vụ "đoàn công tác của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam do ông Ngọ Duy Hiểu, Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Chủ tịch Công đoàn viên chức Việt Nam dẫn đầu thăm làm việc tại Hà Lan từ ngày 24/11- 2/12/2018, nhằm học hỏi kinh nghiệm từ các nước có chế độ chính sách xã hội tiên tiến hàng đầu như Hà Lan, đồng thời, tìm biện pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả và vai trò của Công đoàn trong đại diện, bảo vệ quyền lợi của người lao động".
Chân dung ‘đoàn Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam’. Ảnh : báo Thế Giới & Việt Nam
Trong bức ảnh này, có đến hai chục ‘đại biểu Việt Nam’ - như báo Thế Giới & Việt Nam đưa tin, trong khi chỉ có mặt duy nhất một người Hà Lan nhưng lại chẳng được báo Việt Nam giới thiệu về tên tuổi và chức danh - điều mà rất dễ khiến người đọc nghi ngờ về tính thực chất của "Đoàn cũng có buổi gặp làm việc Bộ Lao động và Quan hệ xã hội Hà Lan, Công đoàn Thiên chúa giáo (CNV), Hiệp hội Giới chủ, tổ chức May mặc công bằng (Fair wear Foudation) và một số doanh nghiệp của Hà Lan…".
Nội dung làm việc quá chung chung và đặc biệt là kết quả làm việc về ‘hợp tác quốc tế’ cũng chung chung không kém của ‘đoàn Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam’ đã cung cấp thêm một bằng chứng trần trụi về tổ chức hội đoàn ‘cánh tay nối dài của đảng’ này đã quen thói xài tiền chùa để du hí nước ngoài trong nhiều năm qua như thế nào.
Chuyến ‘du hí’ đến Hà Lan của ‘đoàn Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam’ xảy ra ít ngày sau việc đích thân ‘Tổng Chủ’ Nguyễn Phú Trọng ‘chỉ đạo’ Quốc hội thông qua Hiệp định CPTPP (Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương) và lần đầu tiên phải công nhận hoạt động của Công đàon độc lập, công nhận quyền tự do lập nghiệp đoàn của người lao động, và cũng lần đầu tiên Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam’ phải đối mặt với việc phải cạnh tranh sòng phẳng với các tổ chức công đoàn độc lập, đối mặt với nguy cơ bị người lao động tẩy chay và quay lưng nếu tới đây ‘cánh tay nối dài của đảng’ này không biết cách ‘bảo vệ quyền lợi người lao động’.
Từ năm 2013 khi Hiệp định TPP (tiền thân của Hiệp định CPTPP) bắt đầu thành hình cho đến nay, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam’ là tổ chức có nhiều lý cớ nhất trong số các hội đoàn nhà nước để ‘đi công tác nước ngoài’ bằng tiền đóng thuế của dân. Nhưng cũng từ đó đến trước khi CPTPP được chính thức thông qua, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam’ đã không có bất cứ một động tác nào hỗ trợ công nhân thực hiện những cuộc đình công chính đáng của họ, cũng không có tác động nào nhằm sửa Luật Lao động để cải thiện mối quan hệ chủ - thợ theo yêu cầu của TPP trước đây và CPTPP sau này.
Một thực tế không thể chối cãi trong rất nhiều năm qua là Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam đã chưa bao giờ đồng thuận, càng không hề lãnh đạo, tổ chức bất kỳ vụ đình công nào với bất kỳ yêu cầu biểu thị chính đáng nào của công nhân trong gần 1.000 cuộc đình công tự phát hàng năm.
Nhiều nguồn tin từ giới công nhân còn khẳng định rằng nhiều lãnh đạo công đoàn nhà nước đã được trả lương cao để phục vụ cho giới chủ đầu tư và bảo vệ lợi ích của đảng cầm quyền, thay vì bảo vệ người lao động. Ngay cả một số nhà nghiên cứu thuộc chính quyền cũng không che giấu rằng không phải là điều bất thường khi các nhà quản lý trở thành lãnh đạo công đoàn và sử dụng công cụ này để thao túng các cuộc bầu cử công đoàn. Rất nhiều ví dụ trong thực tế đã cho thấy giới lãnh đạo công đoàn ở nhiều địa phương đã thỏa hiệp và toa rập với giới chủ và công an địa phương để theo dõi công nhân, chỉ điểm những người đứng đầu phong trào đình công để công an truy xét, sách nhiễu và bắt bớ họ.
Vào tháng Mười Một năm 2018 khi Quốc hội thông qua Hiệp định CPTPP, một quan chức của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là Phó Chủ tịch Ngọ Duy Hiểu lập tức vu cáo : "Nếu không cẩn thận, sẽ hình thành một loại tổ chức công đoàn gọi là 'công đoàn vàng', hoặc một loại tổ chức đại diện người lao động nhưng tham gia để thực hiện hoạt động chính trị và chống phá, gây phức tạp".
Cùng với Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, Hội Nông Dân Việt Nam, Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam nằm trong số 6 ‘cánh tay nối dài của đảng’ bị xem là bám chặt đời sống ký sinh, mỗi năm tiêu xài đến 14.000 tỷ đồng tiền ngân sách - tức tiền mà người dân phải è cổ đóng thuế.
Nhưng ngoài tiền cấp từ ngân sách, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam còn một nguồn thu rất màu mỡ khác.
Trong rất nhiều năm qua, bằng một quy định tài chính tự đặt ra, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam đã nghiễm nhiên phè phỡn hưởng thụ ít nhất 3% trên tổng quỹ lương doanh nghiệp (gồm 2% do doanh nghiệp phải ‘đóng góp’ và 1% từ thu nhập của người lao động).
Một quy định mà rất nhiều doanh nghiệp và công nhân đã phẫn nộ : ‘không ăn cướp thì là cái gì !’
Minh Quân
Nguồn : VNTB, 03/12/2018
Trong số các lĩnh vực hợp tác lâu năm giữa Pháp và Việt Nam, hợp tác về pháp luật, tư pháp đã được khởi xướng ngay từ năm 1986, nhằm hỗ trợ công cuộc "đổi mới" của Việt Nam, và sau này là nhằm hỗ trợ cho cải cách tư pháp ở Việt Nam. Việt Nam có thể học hỏi nhiều kinh nghiệm của Pháp trong lĩnh vực như tư pháp cho tội phạm vị thành niên, phát triển án lệ.
Các diễn giả tại hội thảo (từ trái sang phải) : Chủ tịch Hội đồng Quốc gia các Luật sư đoàn Christianne Feral-schuhl, đại sứ Việt Nam tại Pháp Nguyễn Thiệp, luật sư Thi My Hanh Ngo-Folliot và giáo sư Trần Thanh Vân.RFI
Trong khuôn khổ kỷ niệm 45 năm bang giao Pháp - Việt Nam và 5 quan hệ Đối tác chiến lược giữa hai nước, vào chiều tối 16/10/2018, một cuộc hội thảo về hợp tác Pháp - Việt đã diễn ra tại Nhà Luật sư đoàn (Maison du Barreau) ở Paris, theo sáng kiến của luật sư Thi My Hanh Ngo-Folliot, chủ tịch Ủy ban Việt Nam trong Luật sư đoàn Paris.
Khách mời danh dự của cuộc hội thảo này là hai giáo sư Lê Kim Ngọc và Trần Thanh Vân, tức là hai sáng lập viên của Trung tâm Quốc tế Khoa học và Giáo dục liên ngành, những người đã có nhiều đóng góp cho hợp tác Pháp - Việt.
Tuy chỉ kéo dài chưa tới 3 tiếng đồng hồ, nhưng hội thảo đã có thể điểm qua những kết quả và triển vọng hợp tác giữa hai nước, trong nhiều lĩnh vực, từ y tế, giáo dục, quốc phòng, cho đến tư pháp, với phần trình bày của các diễn giả, trong đó có cựu đại sứ Pháp tại Việt Nam Claude Blanchemaison, bác sĩ Gildas Treguier, phó chủ tịch Liên đoàn Y tế Pháp - Việt Nam, thẩm phán Patrick Matet thuộc Tòa Phá án của Pháp và đại sứ Việt Nam tại Pháp Nguyễn Thiệp. Đối với luật sư Thi My Hanh Ngo-Folliot, các diễn giả có điểm chung là họ đều rất tâm huyết với hợp tác Pháp - Việt.
Trong số các lĩnh vực hợp tác lâu năm giữa Pháp và Việt Nam, hợp tác về pháp luật, tư pháp đã được khởi xướng ngay từ năm 1986, nhằm hỗ trợ công cuộc "đổi mới" của Việt Nam, và sau này là nhằm hỗ trợ cho cải cách tư pháp ở Việt Nam. Nhân chuyến viếng thăm của tổng thống François Mitterrand hòi tháng 02/1993, hai thỏa thuận quan trọng đã được ký kết : Thỏa thuận hợp tác pháp luật và tư pháp giữa Pháp và Việt Nam và Thỏa thuận thành lập Nhà Pháp luật Việt - Pháp tại Hà Nội.
Nhà Pháp luật Việt - Pháp, được thành lập năm 1993 và hoạt động cho đến 2012, đã tư vấn và hỗ trợ Việt Nam thực hiện cải cách cũng như tổ chức các đợt nghiên cứu thực tiễn tại Pháp, đào tạo cho các chuyên ngành pháp lý (thẩm phán, luật sư, công chứng viên, thừa phát lại), đào tạo tiếng Pháp chuyên ngành luật…
Coi như là tiếp nối công việc của Nhà Pháp luật Việt - Pháp, luật sư Thi My Hanh Ngo-Folliot từ mấy năm qua đã có nhiều hoạt động để giúp đào tạo, nâng cao trình độ cho các thẩm phán, luật sư Việt Nam. Trả lời RFI sau hội thảo, luật sư Thi My Hanh Ngo-Folliot cho biết :
"Chúng tôi có dự án giữa tháng 5 và tháng 6 năm tới tổ chức nhiều hội thảo ở Việt Nam, ở Hà Nội về luật hợp đồng, ở Huế về luật cầm cố, thế chấp tài sản, ở Thành phố Hồ Chí Minh và Quy Nhơn hội thảo về trọng tài quốc tế. Đây là lĩnh vực mới mà Việt Nam có rất nhiều nhu cầu về đào tạo, nâng cao trình độ, để các trọng tài Việt Nam có thể tham gia hoạt động trên thế giới".
Một hợp tác đáng chú ý khác giữa Pháp và Việt Nam là thỏa thuận hợp tác giữa Tòa Phá án (Cour de cassation) của Pháp với Tòa án Nhân dân Tối cao Việt Nam, ký vào năm 2013.
Trả lời RFI sau cuộc hội thảo ngày 16/10, thẩm phán Patrick Matet cho biết thêm :
"Tòa phá án của Pháp đã ký một hiệp định với Tòa án Tối cao Việt Nam để tăng cường hợp tác giữa hai nước và đáp ứng nhu cầu của các thẩm phán Việt Nam, cũng như của Tòa án Tối cao Việt Nam. Đây cũng là phương cách để tòa án của hai bên bổ túc kiến thức cho nhau.
Cũng như các cơ chế khác của Việt Nam, Tòa án Tối cao Việt Nam, về luật dân sự, là dựa theo luật của nước Pháp chính quốc, tức là coi như giống với luật hiện hành tại Pháp, không phải giống về các điều luật, mà là về cơ cấu của luật.
Kể từ khi ký kết thỏa thuận, chúng tôi đã nhiều lần tổ chức cho các phái đoàn Pháp và Việt Nam đi thăm lẫn nhau, tổ chức nhiều cuộc hội thảo để các thẩm phán Việt Nam và Pháp có dịp trao đổi với nhau về nhiều chủ đề : tư pháp vị thành niên, giải thích các phán quyết, phổ biến các quyết định của Tư pháp, phát triển án lệ. Đó là những vấn đề liên quan đến cả hai nước Pháp và Việt Nam".
Những lĩnh vực mà thẩm phán Matet vừa nêu, đặc biệt là tư pháp đối với tội phạm vị thành niên và phát triển án lệ, là những lĩnh vực mà Việt Nam đang học hỏi kinh nghiệm từ các nước. Thẩm phán Matet cũng cho rằng Pháp có thể đóng góp nhiều kinh nghiệm cho các thẩm phán Việt Nam, đặc biệt Pháp là quốc gia có lịch sử phát triển án lệ từ lâu, như nhiều nền tư pháp tiên tiến khác trên thế giới :
"Việt Nam đã phát triển hệ thống tư pháp vị thành niên riêng. Nhưng chúng tôi đã có rất nhiều kinh nghiệm từ năm 1945 trong lĩnh vực này. Tôi nghĩ là nước Pháp có thể đóng góp cho Việt Nam những kinh nghiệm đó, nhất là về mặt hỗ trợ giáo dục vị thành niên.
Về án lệ, vì những lý do liên quan đến tổ chức hệ thống tư pháp, Việt Nam không muốn có những án lệ, cho nên những án lệ không có trọng lượng giống như ở Châu Âu, nhất là ở Pháp. Dần dần, Việt Nam mới nhận thấy sự cần thiết phải cho một người biết về cách thi hành các phán quyết của thẩm phán. Từ khoảng 2 năm nay, Tòa án Tối cao đã xem một số phán quyết của họ là án lệ. Nhưng hiện giờ việc tiếp nhận khái niệm án lệ còn hạn chế, vì chỉ có 17 trên tổng số 300 phán quyết của Tòa án Tối cao Việt Nam được gắn "nhãn hiệu" án lệ.
Về việc phổ biến các phán quyết, thì tôi thấy ở Việt Nam có một cơ chế khá là độc đáo, cho phép người dân tiếp cận được những phán quyết của tòa, nhất là của Tòa án Tối cao. Tất cả các phán quyết này có thể được tham khảo trên mạng. Bây giờ phải tìm hiểu xem việc phổ biến như vậy có tác động như thế nào đối với công luận. Đây chỉ mới là giai đoạn đầu. Phía Việt Nam phải tiến hành đánh giá về hiệu quả của cơ chế đó.
Trong thời đại mở như hiện nay, việc phổ biến các quyết định của tư pháp phải mang tính toàn diện. Nước Pháp cũng đang theo hướng thiết lập một trung tâm dữ liệu mở để phổ biến toàn bộ các quyết định tư pháp và tôi tin là Việt Nam sẽ biết cách để thích ứng với tình hình mới. Tương lai sẽ cho chúng ta biết là Việt Nam đi về hướng nào".
Ngoài việc cung cấp những kinh nghiệm, Pháp tiếp tục giúp Việt Nam về mặt đào tạo trong lĩnh vực tư pháp. Chẳng hạn như nhân chuyến viếng thăm của phái đoàn Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam đến Paris, Trường đào tạo thẩm phán quốc gia Pháp năm ngoái đã ký kết Thỏa thuận chung về hợp tác đào tạo tư pháp với Học viện Tòa án Việt Nam.
Tại cuộc hội thảo ngày 16/10 ở Nhà Luật sư đoàn tại Paris, một số diễn giả, trong đó có đại sứ Việt Nam tại Pháp Nguyễn Thiệp, cũng nêu lên khả năng phục hồi lại hoạt động của Nhà Pháp luật Việt - Pháp.
Trong suốt nhiều thập niên qua, tại toàn bộ các nước Châu Á, việc mua bán phần lớn thường vẫn là bằng tiền mặt. Phương tiện thanh toán thay thế là thẻ tín dụng thì chỉ thật sự phổ biến tại những nước phát triển. Nhưng nay với sự bùng nổ của công nghệ thông tin và của điện thoại di động, các nước Châu Á đang đồng loạt chuyển mình tiến đến một xã hội không sử dụng tiền mặt. Việt Nam cũng đang đi theo xu hướng đó. Vấn đề là phải có những chính sách như thế nào để thực hiện được mục tiêu đề ra.
Tiền mặt sẽ dần dần đươc thay thế bằng các phương tiện thanh toán khác ở Việt Nam. Reuters
Theo đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2016-2020 mà thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã phê duyệt, mục tiêu đề ra là đến cuối năm 2020, tỷ trọng tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán sẽ ở mức thấp hơn 10%. Mục tiêu tổng thể của kế hoạch này là 100% các siêu thị, trung tâm mua sắm và các cơ sở phân phối hiện đại có thể chấp nhận thiết bị thẻ. Bên cạnh đó, kế hoạch này nhắm đến mục tiêu là nâng tỷ lệ người 15 tuổi trở lên có tài khoản ngân hàng lên ít nhất 70% vào cuối năm 2020.
Hiện giờ, tiền mặt vẫn là phương thức thanh toán phổ biến tại Việt Nam. Lượng giao dịch phi tiền mặt tại Việt Nam thấp hơn rất nhiều cho các nước trong khu vực (chỉ chiếm 4,3%, trong khi ở Malaysia là 89%, Thái Lan là 59,7%).
Nhưng trong hai năm trở lại đây, công nghệ thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán phi tiếp xúc đã được ứng dụng một cách mạnh mẽ tại Việt Nam. Theo thông tin từ Ngân Hàng Nhà Nước, giá trị giao dịch tài chính qua điện thoại di động năm 2017 tăng 81%, giá trị giao dịch qua Internet cũng tăng 67% so với trước. Tổ chức thẻ quốc tế Visa cũng vừa công bố các số liệu nghiên cứu cho thấy số lượng giao dịch không tiếp xúc tại Việt Nam đang tăng cao với tốc độ 44% mỗi tháng trong giai đoạn từ tháng 07/2017 đến cuối tháng 05/2018.
Đây cũng là ghi nhận của ông Huỳnh Bửu Quang, tổng giám đốc ngân hàng Maritime Bank, trả lời phỏng vấn ban Việt ngữ RFI ngày 09/07/2018 :
"Hình thức thanh toán trong hoạt động tiêu dùng của người dân chủ yếu vẫn là tiền mặt. Tuy nhiên, trong 10 năm vừa qua, tỷ lệ sử dụng thanh toán không dùng tiền mặt đã tăng lên rất nhiều, cụ thể là thanh toán bằng thẻ ngân hàng (thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng), rồi thanh toán qua các phương tiện như mobile banking, internet banking đã trở nên phổ biến hơn nhiều.
Trong hai năm trở lại đây, các ngân hàng cũng liên tục đưa ra những hình thức thanh toán không tiền mặt mới, ví dụ như thanh toán bằng QR code hay gần đây nhất là Samsung Pay. Với sự phát triển đó, tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt cũng tăng lên".
Cũng theo ông Huỳnh Bửu Quang, việc mua hàng trên mạng (E-Commerce) nay cũng ngày càng phổ biến ở Việt Nam, tuy vẫn còn ít người thanh toán trước bằng thẻ :
"Mua bán trên E-Commerce cũng có tốc độ tăng trưởng khá là cao ở thị trường Việt Nam. Thanh toán cho mua sắm trên mạng thì một mặt là thanh toán bằng thẻ tín dụng. Nhưng mặt khác vẫn có cái thực tế là người dân order (đặt mua) hàng bằng thẻ tín dụng, nhưng thanh toán bằng hình thức COD, tức là khi đơn vị cung ứng giao hàng đến tận nơi, người mua mới thanh toán bằng tiền. Đó vẫn là hình thức thanh toán phổ biến nhất với online shopping tại Việt Nam".
Hiện nay, trong tỷ trọng thanh toán hàng online, việc thanh toán trước bằng thẻ tín dụng chỉ chiếm phần nhỏ, còn phần lớn thì khi nhận hàng thì người ta mới thanh toán bằng tiền mặt. Theo tôi, lý do chính là chỉ khi nhận hàng và thấy chất lượng hàng đó như thế nào, thì lúc đó người ta mới an tâm thanh toán".
Sự phát triển nhanh chóng như trên không có gì là đáng ngạc nhiên với một quốc gia đông dân, dân số trẻ và có tỷ lệ người sử dụng Internet rất cao. Dân số của Việt Nam tính đến đầu tháng 07/2018 là trên 95 triệu 500 ngàn người theo số liệu mới nhất từ Liên Hiệp Quốc. Theo thống kê của mạng We are social thì số người sử dụng Internet ở Việt Nam nay đã lên đến 65 triệu.
Còn theo báo cáo Nielsen Vietnam 2017, tại Việt Nam hiện nay 95% dân số tại các thành phố lớn sử dụng điện thoại di động và 84% trong số đó sở hữu smartphone. Nói chung điện thoại di động nay đã trở thành vật bất ly thân với hầu hết người sử dụng. Nhiều người, nhất là những người trẻ, nay không còn ngại thử các ứng dụng thanh toán di động tại Việt Nam.
Tổng giám đốc Maritime Bank Huỳnh Bửu Quang cũng tin tưởng là hình thức thanh toán không dùng tiền mặt sẽ tăng nhanh hơn nữa trong những năm tới :
"Tôi tin chắc là tỷ trọng sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế Việt Nam trong tương lai sẽ tăng nhanh hơn do tác động của nhiều yếu tố. Thứ nhất là chính sách rõ ràng và cũng là quyết tâm rất lớn của chính phủ Việt Nam đẩy mạnh hình thức thanh toán không dùng tiền mặt thông qua việc phổ cập hóa việc mở tài khoản ngân hàng, tạo các hành lang pháp lý để phổ biến các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt.
Thứ hai là các ngân hàng cũng liên tục đưa ra những dịch vụ mới, những hình thức thanh toán không dùng tiền mặt mới ngày càng tiện lợi hơn và bảo đảm tính an toàn cho người cho khách hàng.
Hai tác động đẩy này, cùng với số người sử dụng điện thoại thông minh, tỷ lệ người sử dụng Internet rất là cao, và việc mua hàng online phổ biến ngày càng nhiều, cũng như sự tiếp nhận những công nghệ mới, sản phẩm dịch vụ mới của dân số trẻ Việt Nam, đó là những điều kiện hết sức thuận lợi cho việc phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam".
Đây rõ ràng là một thị trường đầy tiềm năng, cho nên nó đang thu hút ngày càng nhiều công ty công nghệ tài chính (FinTech – Financial Technology). Theo báo cáo "Khảo sát toàn cảnh về FinTech khu vực ASEAN 2018" do Công ty kiểm toán và tư vấn quốc tế Ernst & Young (EY) thực hiện và công bố gần đây, hiện có đến 80 công ty công nghệ tài chính đang hoạt động ở Việt Nam và 47% trong số đó cung cấp các dịch vụ thanh toán.
Theo lời bà Nguyễn Thùy Dương, Phó Tổng Giám đốc EY Việt Nam, hiện cũng là Phó Chủ tịch CLB VietFinTech, các công ty FinTech ở Việt Nam hiện quy mô còn nhỏ, các chính sách, quy định dành cho những công ty này cũng còn hạn chế. Tuy vậy, thị trường công nghệ tài chính đang trên đà tăng nhanh ở Việt Nam. Theo nghiên cứu của Solidiance, công ty tham vấn chuyên về khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, thị trường FinTech Việt Nam đã đạt 4,4 tỷ đôla năm 2017 và theo sẽ đạt 7,8 tỷ đôla vào năm 2020.
Trong báo cáo tiêu đề "Mở khóa tiềm năng phát triển FinTech của Việt Nam", Solidiance cho rằng công nghệ tài chính Việt Nam phát triển nhờ những yếu tố như tỷ lệ phổ biến của Internet và điện thoại thông minh trong các trung tâm đô thị, ví điện tử ngày càng phổ biến, thu nhập tăng, tiêu dùng tăng và lĩnh vực thương mại điện tử phát triển.
Solidiance nhận định nếu chính phủ Việt Nam thành công trong kế hoạch 70% người trên 15 tuổi có tài khoản ngân hàng trong hai năm tới, thị trường FinTech sẽ được thúc đẩy hơn nữa. Michael Sieburg, chuyên gia của Solidiance, cho rằng điều đó còn phụ thuộc vào những hành động tiếp theo của chính phủ Việt Nam. Trước mắt, chuyên gia của Solidiance ghi nhận là các ứng dụng thanh toán kỹ thuật số có thể giúp thu hút những người khó tiếp cận dịch vụ ngân hàng truyền thống, mở đường hướng đến một xã hội không tiền mặt hoặc ít tiền mặt.
Đây cũng là ý kiến của ông Huỳnh Bửu Quang, tổng giám đốc Maritime Bank :
"Tôi nghĩ mục tiêu đó là hoàn toàn khả thi. Để đạt được mục tiêu đó, một mặt chính phủ phải tiếp tục hoàn thiện những hành lang pháp lý để cho các loại hình thanh toán không tiền mặt được phát triển hơn ở Việt Nam, kể cả công nghệ mới nhất là là blockchain (công nghệ truyền tải dữ liệu một cách an toàn). Các quy định về bảo mật phải tuân thủ các chuẩn của quốc tế, ví dụ như bắt đầu 2020, tất cả các loại thẻ phải đều là thẻ chip, tấc cả các máy ATM (máy rút tiền tự động) cũng phải nhận thẻ chip, các máy POS (Point of Sale – máy thanh toán hóa đơn bằng thẻ ngân hàng) cũng phải đọc thẻ chip, cùng với nhiều quy định khác liên quan đến bảo mật thông tin cho người dùng, để người tiêu dùng cảm thấy an tâm hơn khi sử dụng các phương tiện thanh toán không tiền mặt.
Đối với người tiêu dùng, với sự tham gia rất tích cực của các tổ chức tín dụng, cũng như của các công ty có chức năng trung gian thanh toán trong việc phổ cập các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, cũng như đưa ra những hình thức không dùng tiền mặt mới, tiện lợi hơn, an toàn hơn, chi phí thấp hơn cho người dùng, mục tiêu dưới 10% (dùng tiền mặt) hoàn toàn có thể thành hiện thực vào năm 2020. Cộng với các yếu tố như thu nhập cũng tăng lên, trả lương qua tài khoản ngày càng phổ biến hơn rất nhiều, theo tôi nghĩ, việc đạt mục tiêu 70% dân số (trên 15 tuổi) có tài khoản vào năm 2020 là khả thi.
Điểm đặc biệt của Việt Nam là hình thức thanh toán bằng chèque chưa bao giờ là hình thức phổ biến cả, mà Việt Nam đi thẳng từ tiền giấy sang tiền plastic, rồi bây giờ qua các loại tiền điện tử, ví điện tử".
Thanh Phương
Việc cho phép sử dụng đồng nhân dân tệ tại vùng biên giới Việt - Trung sẽ có hại cho nền kinh tế của Việt Nam hay không, đó là vấn đề đang gây rất nhiều tranh cãi kể từ khi Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vào ngày 28/08/2018 ban hành "Thông tư hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc" (Thông tư 19). Thông tư sẽ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 12/10.
Ảnh minh họa : giấy bạc nhân dân tệ. Reuters
Theo giải thích của Ngân hàng Nhà nước, cơ chế thanh toán trong mua bán ở biên giới Việt - Trung (biên mậu) đã được thực hiện từ năm 2004 và thông tư mới được ban hành là nhằm "khắc phục những vướng mắc, bất cập" của quyết định năm 2004. Thông tư này "cũng nhằm thúc đẩy thanh toán biên mậu, tạo thuận lợi cho người dân hai nước trong việc giao thương, thực hiện tốt hơn việc quản lý Nhà nước về ngoại hối".
Theo văn bản mới, các thương nhân, cư dân biên giới Việt Nam, Trung Quốc có hoạt động thương mại qua biên giới giữa hai nước sẽ được phép thanh toán cả bằng đồng Việt Nam lẫn nhân dân tệ Trung Quốc, tức là bằng bản tệ của hai nước.
Trả lời VietnamNet ngày 03/09, ông Nguyễn Ngọc Minh, Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý ngoại hối, Ngân hàng Nhà nước, thành viên tổ soạn thảo Thông tư 19, cho biết là trên thế giới, các nước có chung đường biên giới, có những hợp tác thương mại song phương, vẫn thường thanh toán bằng bản tệ, như Thái Lan, Miến Điện, Nga, Trung Quốc...
Trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ ngày 04/09/2018, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan tại Hà Nội, cũng nhận định là Thông tư 19 quy định rất chặt chẽ về việc sử dụng đồng nhân dân tệ trong giao thương ở vùng biên giới, cho nên nếu được áp dụng nghiêm chỉnh thì sẽ ít có nguy cơ việc sử dụng đồng tiền của Trung Quốc lan sang những nơi khác :
"Không phải là Ngân hàng Nhà nước tự đưa ra thông tư này. Thông tư được đưa ra là căn cứ trên nghị định số 14 của chính phủ, được ban hành đầu năm nay, hướng dẫn thi hành luật về quản lý ngoại thương, mà Quốc Hội ban hành từ năm 2017, thực thi từ ngày 01/01/2018. Vì luật này được thực thi vào đầu năm, cho nên chính phủ mới ban hành một nghị định vào tháng Giêng, để quy định các chi tiết về hoạt động thương mại biên giới.
Nghị định này thật ra quy định chung về các hoạt động thương mại giữa Việt Nam với các nước có biên giới đất liền với Việt Nam (Cam Bốt, Lào và Trung Quốc), nói rõ là chỉ quy định cho những hoạt động thương mại của cư dân hoặc thương nhân ở các tỉnh biên giới và các chợ ở biên giới. Các văn bản này cũng quy định rất rõ về danh mục hàng hóa nào, về phạm vi nào được coi là biên giới, cư dân nào thì được coi là cư dân biên giới và thương nhân như thế nào thì được hoạt động ở biên giới các nước này.
Tất cả các văn bản đó khoanh trong một đối tượng nhất định, chứ không quá rộng trong xã hội. Ngoài ra người ta cũng quy định rõ là các cơ quan Nhà nước giám sát, kiểm soát bằng những công cụ nào. Còn đối với ngân hàng thì người ta cũng quy định rõ là dù sử dụng đồng bản tệ của hai nước, dù bằng phương thức nào, kể cả tiền mặt, thì thương nhân, cư dân cũng phải báo cáo cho ngân hàng và đưa tiền đó vào hệ thống ngân hàng trong thời gian 7 ngày sau khi thực hiện giao dịch, cùng với tất cả các chứng từ liên quan. Tôi cho là họ đã quy định khá rõ về các công cụ quản lý, cho nên nguy cơ nó lan ra các nơi khác, nếu theo luật, thì được giảm thiểu đáng kể".
Mặc dù thông tư quy định chặt chẽ như vậy, nhưng nhiều người lo ngại là thông tư nói trên sẽ dẫn đến nguy cơ "nhân dân tệ hóa" nền kinh tế Việt Nam.
Trên mạng hiện đang lan truyền một tuyên bố của giới nhân sĩ trí thức người Việt trong và ngoài nước, phản đối việc cho phép sử dụng nhân dân tệ ở Việt Nam. Bản tuyên bố cho rằng : "Việc sử dụng nhân dân tệ trong giao thương, dù giới hạn ở khu vực biên giới Việt - Trung, không chỉ vi phạm nguyên tắc chủ quyền tiền tệ, mà còn tạo tiền lệ nguy hiểm về sự tồn tại mặc nhiên hai đơn vị tiền tệ song hành trên lãnh thổ quốc gia". Theo các tác giả bản tuyên bố, đó còn là hành động "xâm lấn và xâm phạm chủ quyền tiền tệ của Việt Nam, có thể dẫn đến sự nhân dân tệ hoá cả nền kinh tế Việt Nam và vô cùng nguy hại cho an ninh quốc gia".
Họ yêu cầu bộ Tư pháp ngay lập tức hủy bỏ Thông tư 19 và đòi truy xét trách nhiệm của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và mọi quan chức có liên quan đến việc soạn thảo và ban hành thông tư này.
Trả lời báo điện tử Một Thế Giới ngày 02/09, tiến sĩ Đinh Trọng Thịnh, thuộc Học viện Tài chính, cũng cho rằng "việc quy định vùng biên mậu của Việt Nam được phép sử dụng nhân dân tệ cũng cần được quản lý để loại tiền này không đi ra khỏi khu vực cho phép". Đồng thời, theo ông, Việt Nam cần thúc đẩy phía Trung Quốc chấp nhận chính thức cho dùng đồng Việt Nam tại khu vực lãnh thổ nước họ ở biên giới.
Cũng trên báo điện tử Một Thế Giới, ông Nguyễn Khắc Quốc Bảo, Trưởng khoa Tài chính, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, cảnh báo rằng việc cho phép thanh toán trực tiếp bằng nhân dân tệ ở các vùng biên giới giáp với Trung Quốc là "chính thức mở ra một cánh cổng để nhân dân tệ dần dần len lỏi vào nền kinh tế Việt Nam" và "làm gia tăng sâu sắc hơn nữa sự lệ thuộc của kinh tế Việt Nam vào Trung Quốc".
Ông Nguyễn Khắc Quốc Bảo nhắc lại rằng hiện giờ quan hệ mậu dịch giữa Việt Nam và Trung Quốc rất lớn và Việt Nam đang mua hàng từ Trung Quốc nhiều hơn bán được hàng cho Trung Quốc. Việc cho phép sử dụng nhân dân tệ để thanh toán trực tiếp đối với hoạt động thương mại biên giới có thể sẽ làm cho trao đổi mậu dịch của Việt Nam với Trung Quốc bị thâm hụt nhiều hơn.
Theo chuyên gia Phạm Chi Lan, mối lo ngại về nguy cơ của việc cho phép sử dụng nhân dân tệ là xuất phát từ tình trạng hiện nay của quan hệ kinh tế Việt - Trung :
"Trước hết là hiện nay, quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc có nhiều diễn biến phức tạp và gần đây có thêm nhiều nguy cơ mà làm cho người Việt Nam lo lắng thêm, kể cả cá nhân tôi, ví dụ như tình trạng Trung Quốc xuất siêu sang Việt Nam rất nhiều. Tất cả những thông tin Việt Nam đưa ra, về con số thống kê chẳng hạn không khớp với con số của Trung Quốc. Phía Trung Quốc chứng minh họ xuất siêu sang Việt Nam rất nhiều so với con số mà Việt Nam công bố về nhập siêu từ Trung Quốc. Điều đó có nghĩa là còn một khoảng khá lớn, có năm lên tới tương đương 20 tỷ đôla, mà Việt Nam không kiểm soát được phần nhập khẩu từ Trung Quốc. Hàng Trung Quốc có thể thâm nhập Việt Nam một cách quá đáng, mà Nhà nước Việt Nam không thể kiểm soát nổi, gây bất lợi cho phía Việt Nam.
Thứ hai là hiện tượng buôn bán qua biên giới diễn ra nhiều năm nay rồi, thực sự là Nhà nước Việt Nam chưa quản lý được tốt, chưa bao giờ chứng minh được quy mô thương mại ở biên giới là bao nhiêu. Người ta cứ coi biên mậu là có tỷ lệ nhỏ, nhưng với con số chênh lệch lên đến hàng chục tỷ đôla như vậy, quy mô của nó không hề nhỏ chút nào ! Biên mậu mà không quản lý được thì cũng có nghĩa là Nhà nước thất thu về thuế và có nhiều bất lợi khác có thể xảy ra, kể cả về chất lượng hàng hóa, cạnh tranh không lành mạnh, buôn gian bán lận.
Thứ ba là gần đây nổi lên chuyện về các đặc khu kinh tế. Vì những hiện tượng như vậy cho nên người ta sợ là Trung Quốc sẽ lạm dụng tất cả những cái đó để gây thêm bất lợi cho Việt Nam. Vì vậy mà người dân bức xúc về thông tư này.
Nếu như Nhà nước thực hiện được các điều quy định trong thông tư này, cũng như Nghị định 14 của chính phủ về thương mại biên giới và luật về quản lý ngoại thương mà Quốc Hội đã thông qua, thì không sao. Các quy định này khá chặt chẽ và đủ để Việt Nam kiểm soát được. Nhưng vấn đề là liệu các cơ quan Nhà nước có kiểm soát được tốt hay không. Đó là điều vẫn gây lo ngại".
Từ chuyện nhân dân tệ, chuyên gia Phạm Chi Lan cho rằng Nhà nước Việt Nam cũng cần rút kinh nghiệm trong việc thông báo các quyết định có liên quan đến quan hệ với Trung Quốc :
"Người dân Việt Nam rất nhạy cảm với các vấn đề với Trung Quốc, cho nên khi đưa ra bất cứ quy định nào liên quan đến Trung Quốc, phải có một sự chuẩn bị kỹ càng hơn và phải có giải thích đầy đủ cho người dân từ đầu, đừng để người ta phải tự đi tìm hiểu. Nói thật, tôi được tiếng là chuyên gia, nhưng đâu có phải là đọc được hết ! Cũng phải đọc mãi, suy nghĩ mãi thì mới hiểu được ra vấn đề. Những người khác đâu có thời giờ như vậy. Cho nên người ta có thể bức xúc. Các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm phải giải trình rõ cho người dân khi đưa ra các quy định mới".
Thanh Phương
Nguồn : RFI, 10/09/2018