Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

I. Tổng quan

Tòa án hình sự quốc tế (International Criminal Court – ICC) được thành lập trên cơ sở Quy chế Rome năm 1998, nhằm hướng đến truy cứu trách nhiệm hình sự đối với 4 nhóm tội phạm : tội xâm lược, tội phạm chiến tranh, tội ác chống loài người và tội phạm diệt chủng. Về mặt nguyên tắc, các hành vi phạm tội do các cá nhân (hoặc tổ chức) tiến hành trên phạm vi một lãnh thổ quốc gia nhất định, do đó nó thuộc thẩm quyền truy cứu của quốc gia đó. Tuy nhiên, do những đặc điểm đặc trưng của 4 nhóm tội phạm này (có liên quan mật thiết với chính quyền và những người đứng đầu trong bộ máy nhà nước) cho nên trong nhiều trường hợp việc truy cứu trách nhiệm hình sự gặp phải những rào cản và khó khăn nhất định. Do đó, việc thành lập ICC nhằm mục đích bổ trợ cho hệ thống tư pháp quốc gia trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm và tránh bỏ lọt người phạm tội. Hay nói cách khác, hoạt động của ICC không nhằm ‘tranh giành’ thẩm quyền xét xử các tội phạm hình sự của các tòa án quốc gia, mà nó chỉ tham gia khi các quốc gia ‘không thể’ hoặc ‘không muốn’ xét xử các tội thuộc 4 nhóm tội phạm nói trên. Trên cơ sở các hoạt động quân sự hiện tại mà Nga tiến hành nhằm chống lại Ukraine, một quốc gia có độc lập và chủ quyền, và dựa vào các quy định của pháp luật quốc tế, bài viết này hướng tới làm rõ các hành vi cấu thành tội phạm xâm lược và tội phạm chiến tranh chứa đựng trong chiến dịch quân sự này.

cpi1

Tòa án hình sự quốc tế (International Criminal Court – ICC)

II. Tội phạm xâm lược

Theo điều 1, Nghị quyết số 3314 ngày 14/12/1974 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, thì xâm lược là "việc một quốc gia sử dụng lực lượng vũ trang nhằm chống lại chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hay sự độc lập về chính trị của một quốc gia hoặc một liên minh các quốc gia khác, hoặc theo những cách khác trái với Hiến chương Liên Hợp Quốc".

Trên cơ sở đó, pháp luật của các nước cũng cụ thể hóa hành vi xâm lược trong quan hệ quốc tế. Chẳng hạn, theo khoản 7 Điều 2 Luật Quốc phòng Việt Nam 2018, "Xâm lược là hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc bằng cách sử dụng lực lượng vũ trang hoặc cách thức khác trái với pháp luật Việt Nam và luật pháp quốc tế".

Theo khoản 1, Điều 8bis, Quy chế Rome 1998 về Tòa án hình sự quốc tế (ICC), …"Tội phạm xâm lược có nghĩa là lập kế hoạch, chuẩn bị, bắt đầu hoặc thực hiện, bởi một người ở một vị trí có thẩm quyền để thực hiện quyền kiểm soát hoặc chỉ đạo các hành động chính trị hoặc quân sự của một Quốc gia, hành động xâm lược mà xét theo đặc tính, mức độ nghiêm trọng và quy mô của nó, tạo thành một sự vi phạm Hiến chương Liên Hợp Quốc".

Tiếp đó, khoản 2, Điều 8bis của Quy chế Rome 1998 về Tòa án hình sự quốc tế có định nghĩa lại hành vi xâm lược trên cơ sở định nghĩa của Nghị quyết 3314 nói trên. Đồng thời, khoản 2 Điều 8bis cũng xác định cụ thể các hành vi bị coi là xâm lược, bao gồm nhưng không giới hạn trong các hành vi sau :

1. Sử dụng lực lượng vũ trang chiếm đóng hoặc tấn công lãnh thổ của Quốc gia khác, hoặc bất kỳ hành vi chiếm đóng quân sự nào, dù là tạm thời, xuất phát từ sự xâm lược hoặc tấn công đó, hoặc bất kỳ sự sáp nhập lãnh thổ hoặc một phần lãnh thổ của Quốc gia khác bằng cách sử dụng vũ lực ;

2. Sử dụng lực lượng vũ trang bắn phá vào lãnh thổ quốc gia khác, hoặc sử dụng bất kỳ vũ khí nào chống lại lãnh thổ quốc gia khác ;

3. Phong tỏa hải cảng hay bờ biển của quốc gia khác bằng lực lượng vũ trang ;

4. Sử dụng lực lượng vũ trang tấn công các lực lượng hải lục không quân, hoặc tầu ngầm hay hạm đội của quốc gia khác ;

5. Sử dụng lực lượng vũ trang trong lãnh thổ quốc gia khác theo thỏa thuận, mà không tuân thủ các điều khoản của thỏa thuận hoặc mở rộng sự hiện diện trong vùng lãnh thổ đó vượt quá thỏa thuận ;

6. Cho phép quốc gia khác sử dụng lãnh thổ của mình để xâm lược nước thứ ba ;

7. Dưới danh nghĩa quốc gia, gửi hoặc cùng gửi các băng nhóm vũ trang, không chính quy hoặc đánh thuê, để thực hiện các hành động của lực lượng vũ trang chống lại quốc gia khác ở mức độ đủ nghiêm trọng như những hành động đã nêu trên, hoặc sự can dự của họ ở đó được coi là đáng kể.

Nếu đối chiếu định nghĩa và các đặc điểm cấu thành của tội xâm lược theo quy định của pháp luật quốc tế với hành động quân sự của Nga ở Ukraine trong gần hai tháng qua, rõ ràng các hành động của quân đội Nga đã cấu thành tội xâm lược. Trong trường hợp này, ông Putin, các quan chức và tướng lĩnh trực tiếp tổ chức và chỉ huy cuộc chiến là những cá nhân phạm tội xâm lược, tức là có thể thuộc phạm vi thẩm quyền xét xử của ICC.

III. Tội phạm chiến tranh

Khoản 2, Điều 8 Quy chế Rome 1998 đã liệt kê một loạt các hành vi cấu thành tội phạm chiến tranh, bao gồm :

1. Những vi phạm nghiêm trọng các Công ước Geneva 12/8/1949, cụ thể là bất kỳ hành vi nào chống lại người hay tài sản được bảo hộ theo các quy định của Công ước Geneva liên quan sau đây :

(i) Cố ý giết người ;

(ii) Tra tấn hoặc đối xử vô nhân đạo, kể cả những thí nghiệm sinh học ;

(iii) Cố ý gây đau đớn hoặc tổn thương nghiêm trọng cho thân thể hoặc sức khỏe ;

(iv) Hủy hoại và chiếm đoạt nhiều tài sản không vì yêu cầu quân sự và được thực hiện một cách bất hợp pháp và bừa bãi ;

(v) Buộc tù binh chiến tranh hoặc những người được bảo hộ khác phải phục dịch trong quân đội của bên đối địch ;

(vi) Cố ý tước đoạt quyền được xét xử công bằng và hợp thức của tù binh hoặc những người được bảo hộ khác ;

(vii) Trục xuất, chuyển giao hoặc giam giữ bất hợp pháp ;

(viii) Bắt giữ con tin.

2. Những hành vi khác vi phạm nghiêm trọng luật pháp và tập quán được áp dụng trong xung đột vũ trang có tính quốc tế trong khuôn khổ luật pháp quốc tế, cụ thể là :

(i) Cố ý tấn công vào cộng đồng dân cư hoặc những thường dân không trực tiếp tham gia chiến sự ;

(ii) Cố ý tấn công vào các mục tiêu dân sự, nghĩa là các mục tiêu phi quân sự ;

(iii) Cố ý tấn công vào nhân viên, kho thiết bị, vật tư, các đơn vị, phương tiện giao thông tham gia trợ giúp nhân đạo hoặc sứ mệnh gìn giữ hòa bình theo Hiến chương Liên Hợp Quốc miễn là những đối tượng này được hưởng bảo hộ như thường dân và các mục tiêu dân sự theo luật quốc tế về xung đột vũ trang ;

(iv) Cố ý mở cuộc tấn công mặc dù biết rằng cuộc tấn công đó có khả năng gây thương vong cho thường dân hoặc gây hư hại cho các mục tiêu dân sự hoặc làm tổn hại trên diện rộng, lâu dài và nghiêm trọng cho môi trường tự nhiên mà rõ ràng vượt quá mức cần thiết để đạt được ưu thế quân sự dự kiến ;

(v) Tấn công hoặc bắn phá, bằng bất kỳ phương tiện nào, các thành phố, làng mạc, nhà cửa hoặc công trình xây dựng không được bảo vệ và không phải là mục tiêu quân sự ;

(vi) Giết hoặc làm bị thương binh sĩ đã hạ vũ khí hoặc không còn phương tiện tự vệ và đã tự nguyện đầu hàng ;

(vii) Sử dụng sai cờ ngừng bắn, cờ hoặc phù hiệu và đồng phục của quân địch hoặc của Liên Hợp Quốc, cũng như các biểu tượng phân biệt của các Công ước Geneva, gây chết người hoặc thương tích nghiêm trọng ;

(viii) Lực lượng chiếm đóng trực tiếp hay gián tiếp di dời các bộ phận dân cư của mình đến vùng lãnh thổ đang chiếm đóng, hoặc trục xuất hay di dời toàn bộ hay các bộ phận dân cư của lãnh thổ bị chiếm đóng trong phạm vi hoặc ra ngoài phạm vi lãnh thổ đó ;

(ix) Cố ý tấn công vào các tòa nhà được sử dụng cho mục đích tôn giáo, giáo dục, nghệ thuật, khoa học, từ thiện, các tượng đài lịch sử, bệnh viện, và những nơi tiếp nhận người ốm, người bị thương, với điều kiện đó không phải là các mục tiêu quân sự.

(x) Đưa người của bên đối địch ra để cắt xẻo cơ thể hoặc để tiến hành thí nghiệm y học hay khoa học dưới bất kỳ hình thức nào mà không thể coi là điều trị y tế, nha khoa hay bệnh viện cho người đó cũng như không phải vì lợi ích của người đó, và gây chết người hoặc nguy hiểm nghiêm trọng cho sức khỏe của họ ;

(xi) Lừa dối giết hoặc gây thương tích cho những người thuộc quốc gia hay quân đội đối địch ;

(xii) Tuyên bố tuyệt diệt ;

(xiii) Hủy hoại hoặc chiếm giữ tài sản của kẻ thù, trừ phi việc đó là do yêu cầu cấp bách của chiến tranh ;

(xiv) Tuyên bố hủy bỏ, đình chỉ hoặc không chấp nhận tại tòa án các quyền và hành vi của công dân bên đối địch ;

(xv) Buộc công dân bên đối địch tham gia các hoạt động chiến tranh chống lại chính đất nước họ cho dù họ đã phục vụ quân đội của nước tham chiến trước khi bắt đầu chiến tranh ;

(xvi) Cướp bóc một thành phố hoặc địa điểm kể cả khi chiếm được nơi đó bằng tấn công ;

(xvii) Sử dụng chất độc hoặc vũ khí có chất độc ;

(xviii) Sử dụng hơi ngạt, hơi độc hoặc các loại khí khác, cũng như các loại chất láng, chất liệu hoặc phương tiện tương tự khác ;

(xix) Sử dụng đầu đạn có khả năng giãn nở hay dàn máng trong cơ thể con người, như đầu đạn có vỏ bọc cứng không phủ kín lõi hoặc được khía thủng thành các rạch ;

(xx) Sử dụng vũ khí, đạn phóng, vật liệu và các phương pháp chiến tranh có thể gây tổn thương vô ích hoặc đau đớn không cần thiết hoặc vốn là sự vi phạm bừa bãi pháp luật quốc tế về xung đột vũ trang, miễn là những vũ khí, đạn phóng, vật liệu và phương pháp chiến tranh đó bị cấm hoàn toàn và được ghi trong phụ lục của Quy chế này bằng một văn bản sửa đổi phù hợp với các quy định liên quan tại các Điều 121 và 123 ;

(xxi) Xúc phạm nhân phẩm, cụ thể là sự đối xử mang tính làm nhục và hạ thấp nhân cách ;

(xxii) Hiếp dâm, bắt làm nô lệ tình dục, cưỡng ép mại dâm, ép buộc mang thai như quy định tại Điều 7 khoản 2 (f), cưỡng ép triệt sản hoặc bất kỳ hình thức bạo lực tình dục nào khác cấu thành hành vi vi phạm nghiêm trọng các Công ước Geneva ;

(xxiii) Sử dụng sự có mặt của thường dân hoặc những người được bảo hộ khác để tránh các hoạt động quân sự cho các vị trí, khu vực hoặc lực lượng quân đội nhất định ;

(xxiv) Cố ý tấn công vào các tòa nhà, vật tư, đơn vị y tế, phương tiện vận chuyển và nhân viên mang biểu tượng phân biệt của các Công ước Geneva phù hợp với luật pháp quốc tế ;

(xxv) Cố ý sử dụng nạn đói của dân thường như một phương pháp tiến hành chiến tranh bằng cách tước đi của họ những thứ thiết yếu nhất cho sự sống, kể cả việc cố ý ngăn chặn hàng cứu trợ như được quy định trong các Công ước Geneva.

(xxvi) Cưỡng ép hoặc tuyển mộ trẻ em dưới 15 tuổi vào lực lượng vũ trang quốc gia hoặc dùng những trẻ em đó tích cực tham gia chiến sự.

3. Những vi phạm nghiêm trọng Điều 3 chung của các Công ước Geneva ngày 12/8/1949 trong trường hợp xung đột vũ trang không mang tính quốc tế, cụ thể là bất kỳ hành vi nào được thực hiện nhằm vào những người không tham gia tích cực vào chiến sự, kể cả các binh sĩ đã hạ vũ khí và những người bị loại khỏi vòng chiến đấu do bị ốm, bị thương, bị giam giữ hay vì bất kỳ lý do nào khác sau đây :

(i) Xâm phạm đến tính mạng và thân thể, cụ thể là giết người dưới mọi hình thức, gây thương tật, đối xử tàn ác và tra tấn ;

(ii) Xúc phạm nhân phẩm, cụ thể là sự đối xử mang tính làm nhục và hạ thấp nhân phẩm ;

(iii) Bắt giữ con tin ;

(iv) Thông qua bản án và thi hành hình phạt mà không có phán quyết trước đó của một tòa án được thành lập hợp thức có đủ những bảo đảm tư pháp được thừa nhận là không thể thiếu.

4. Những hành vi khác vi phạm nghiêm trọng luật và tập quán áp dụng trong xung đột vũ trang không mang tính quốc tế, trong khuôn khổ luật pháp quốc tế, cụ thể là bất kỳ hành vi nào sau đây :

(i) Cố ý tấn công vào cộng đồng dân cư hoặc những thường dân không trực tiếp tham gia chiến sự ;

(ii) Cố ý tấn công vào các tòa nhà, vật tư, đơn vị y tế, phương tiện vận chuyển và nhân viên mang biểu tượng phân biệt của các Công ước Geneva phù hợp với luật pháp quốc tế ;

(iii) Cố ý tấn công vào nhân viên, kho thiết bị, vật tư, các đơn vị, phương tiện giao thông tham gia trợ giúp nhân đạo hoặc sứ mệnh gìn giữ hòa bình theo Hiến chương Liên Hợp Quốc miễn là những đối tượng này được hưởng sự bảo hộ như thường dân và các mục tiêu dân sự theo luật quốc tế về xung đột vũ trang ;

(iv) Cố ý tấn công vào các tòa nhà được sử dụng cho mục đích tôn giáo, giáo dục, nghệ thuật, khoa học, từ thiện, các tượng đài lịch sử, bệnh viện, và những nơi tiếp nhận người bị ốm, người bị thương, với điều kiện đó không phải là các mục tiêu quân sự ;

(v) Cướp bóc một thành phố hoặc địa điểm, kể cả khi chiếm được nơi đó bằng tấn công ;

(vi) Hiếp dâm, bắt làm nô lệ tình dục, cưỡng ép mại dâm, ép buộc mang thai như quy định tại Điều 7 khoản 2(f), cưỡng ép triệt sản hoặc bất kỳ hình thức bạo lực tình dục nào khác cấu thành hành vi vi phạm nghiêm trọng Điều 3 chung của bốn Công ước Geneva ;

(vii) Cưỡng ép hoặc tuyển mộ trẻ em dưới 15 tuổi vào lực lượng vũ trang quốc gia hoặc dùng các trẻ em đó tích cực tham gia chiến sự ;

(viii) Ra lệnh di dân vì các lý do liên quan đến cuộc xung đột, trừ phi để bảo đảm an toàn cho dân thường hoặc vì yêu cầu quân sự cấp bách.

(ix) Lừa dối giết hoặc gây thương tích cho binh sĩ của bên đối địch ;

(x) Tuyên bố tuyệt diệt ;

(xi) Đưa người của bên đối địch ra để cắt xẻo cơ thể hoặc để tiến hành thí nghiệm y học hay khoa học dưới bất kỳ hình thức nào mà không thể coi là điều trị y tế, nha khoa hay bệnh viện cho người đó cũng như không phải vì lợi ích của người đó và gây chết người hoặc nguy hiểm nghiêm trọng cho sức khỏe của họ ;

(xii) Hủy hoại hoặc chiếm giữ tài sản của bên đối địch, trừ phi việc đó là do yêu cầu cấp bách của cuộc xung đột.

Căn cứ vào cơ sở những quy định này, có thể thấy rằng nhiều hành vi của quân đội Nga thực hiện ở Ukraine có thể cấu thành tội phạm chiến tranh. Theo như điều tra của nhiều tổ chức quốc tế, truyền thông, và các tố cáo của người dân Ukraine, quân đội Nga đã nhiều lần tấn công vào các mục tiêu phi quân sự như khu dân cư, chung cư cao tầng, bệnh viện, bệnh viện phụ sản, trường học, các khu chợ, nhà hát, viện bảo tàng… Đặc biệt, việc tìm thấy những hố chôn tập thể ở một số vùng trước đây bị quân Nga chiếm đóng mà nay đã rút đi như Bucha, hay Mariupol càng làm tăng thêm sự nghi ngờ về những hành vi phạm tội phạm chiến tranh mà Nga tiến hành ở Ukraine. Hiện tại, theo truyền thông của các nước, Cơ quan Công tố của Tòa án Hình sự quốc tế, các quốc gia liên quan và một số tổ chức quốc tế độc lập cũng đang tiến hành điều tra hiện trường, thu thập chứng cứ, phỏng vấn người dân địa phương ở Ukraine để làm rõ liệu các hành vi của quân đội Nga có cấu thành tội phạm chiến tranh hay không.

IV. Thẩm quyền truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những loại tội phạm này

1. Thẩm quyền của Tòa án hình sự quốc tế – ICC

Trong các hệ thống pháp luật quốc gia, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm được thực hiện tương đối thuận lợi bởi Nhà nước có đầy đủ quyền lực cũng như các công cụ và phương tiện hỗ trợ hiệu quả. Tuy nhiên, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm thuộc thẩm quyền của ICC không hề là một điều đơn giản, nếu không muốn nói là rất khó khăn. Điều này xuất phát từ nguyên nhân đầu tiên là các tội phạm này liên quan trực tiếp đến các quan chức lãnh đạo cấp cao của một quốc gia, những người phát động và lãnh đạo các hành động quân sự là khởi đầu của các hành vi phạm tội thuộc 4 nhóm tội thuộc thẩm quyền của ICC. Do đó, trong nhiều trường hợp chính quyền của các quốc gia vi phạm cố ý bao che, né tránh hoặc từ chối truy cứu trách nhiệm của những cá nhân vi phạm này. Đây chính là trường hợp các quốc gia ‘KHÔNG MUỐN’ xét xử như đề cập ở phần mở đầu của bài viết. Chẳng hạn, nhiều hành động của quân đội Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam đã cấu thành tội xâm lược và tội phạm chiến tranh. Từ đó, các cá nhân phát động, chỉ đạo và điều hành cuộc chiến cũng như những người lính trực tiếp chiến đấu trên chiến trường có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, bản thân chính quyền và hệ thống pháp tư pháp Hoa Kỳ chắc chắn là không muốn thực hiện việc truy cứu này. Tương tự, các hành vi quân sự của Trung Quốc chống lại Việt Nam trong cuộc hải chiến Hoàng Sa 1974, chiến tranh biên giới 1979, cuộc đụng độ quân sự ở bãi Gạc Ma 1988… cũng có bản chất như vậy. Và giờ đây, khi Nga tấn công Ukraine, nhiều hành vi của lãnh đạo cấp cao, tướng lĩnh và lính Nga trong ‘chiến dịch quân sự đặc biệt’ đã cấu thành tội xâm lược và tội phạm chiến tranh, nhưng chắc chắn chính quyền của ông Putin sẽ lãng tránh hoặc từ chối truy cứu trách nhiệm.

Không những thế, nhiều quốc gia còn ký kết các Hiệp định miễn trừ song phương (Bilateral Immunity Agreement – BIA) nhằm tránh cho công dân nước mình bị chuyển giao cho ICC xét xử. Hoa Kỳ là quốc gia điển hình cho vấn đề này khi họ đã vận động và ký được gần 110 BIA với các quốc gia và vùng lãnh thổ. Điều này đảm bảo rằng nếu công dân của họ (bao gồm cả binh lĩnh và tướng lĩnh) có các hành vi phạm tội thuộc 4 nhóm tội của ICC sẽ không bị quốc gia sở tại chuyển giao cho ICC xét xử. Điều này cũng dễ hiểu bởi vì Hoa Kỳ là quốc gia có lực lượng quân đội hiện diện ở nhiều nước nhất, và họ cũng là quốc gia can thiệp quân sự vào nhiều nơi nhất trên thế giới. Chính vì vậy, trong quá trình hình thành và phát triển của ICC, thế giới chứng kiến một cuộc chạy đua giữa EU – bên ủng hộ ICC và Hoa Kỳ – bên phản đối ICC. Trong khi EU làm việc không ngừng nghỉ, thậm chí sử dụng nhiều lợi ích kinh tế thương mại, để thuyết phục và vận động các quốc gia tham gia Quy chế Rome 1998, tức là ủng hộ sự tồn tại và phát triển của ICC, thì Hoa Kỳ cũng ra sức vận động các nước ký kết các BIA để miễn trừ cho công dân của họ trong những trường hợp cần thiết.

Măt khác, thẩm quyền của ICC cũng có thể phát sinh khi các quốc gia ‘KHÔNG THỂ’ xét xử các tội phạm. Về mặt nguyên tắc, một hành vi chỉ bị xem là tội phạm nếu nó được quy định trong luật hình sự của một quốc gia và từ đó phát sinh thẩm quyền xét xử của tòa án quốc gia đó. Tuy nhiên, việc nhìn nhận đánh giá một hành vi nguy hiểm cho xã hội có nên được quy định là tội phạm hay không sẽ tùy thuộc vào chính quyền của các nước. Do đó, có nhiều hành vi ở quốc gia này thì bị coi là tội phạm, nhưng ở quốc gia khác thì không. Trong số các hành vi cấu thành các tội phạm thuộc 4 nhóm tội theo Quy chế Rome, có nhiều hành vi không bị xem là tội phạm hình sự trong hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia, do đó các tòa án ở các quốc gia đó sẽ ‘KHÔNG THỂ’ xét xử. Ngoài ra, trong một số trường hợp cá biệt, các quốc gia ‘KHÔNG THỂ’ xét xử do hệ thống tư pháp của họ không đáp ứng được tiêu chuẩn hoặc họ thiếu đội ngũ chuyên gia đủ kiến thức chuyên môn để xét xử. Cũng có thể có trường hợp quốc gia sở tại nơi xảy ra hành vi bị nghi phạm tội có đủ các điều kiện cơ sở vật chất, nhân sự và hệ thống pháp luật để truy cứu trách nhiệm nhưng gặp khó khăn trong việc bắt giữ nghi can và điều tra hành vi phạm tội do đối tượng nghi phạm không hiện diện ở quốc gia đó và thiếu sự hợp tác hiệu quả từ phía các quốc gia liên quan. Do đó, họ cũng ‘KHÔNG THỂ’ điều tra và xét xử trong trường hợp này.

Như vậy, trong hai trường hợp các quốc gia ‘KHÔNG MUỐN’ hoặc ‘KHÔNG THỂ’ xét xử thì thẩm quyền truy cứu trách nhiệm sẽ thuộc về ICC.

2. Có thể truy cứu trách nhiệm các hành vi phạm tội trong cuộc xung đột Nga-Ukraine hay không ?

a) Thẩm quyền của ICC trong điều tra và truy cứu các hành vi phạm tội khi Nga và Ukraine chưa tham gia Quy chế Rome 1998

Như nói ở trên, các tòa án của Nga sẽ không bao giờ truy cứu trách nhiệm đối với các hành vi của binh lính, tướng lĩnh và quan chức của Nga thực hiện trên lãnh thổ của Ukraine. Trong trường hợp này, thẩm quyền truy cứu có thể sẽ thuộc về các tòa án của Ukraine nơi xảy ra hành vi bị nghi phạm tội hoặc ICC. Để xác định thẩm quyền của các tòa án Ukraine, trước hết phải xem xét liệu các hành vi của quân đội Nga có cấu thành một tội phạm gì hay không trong hệ thống pháp luật của Ukraine. Nếu các hành vi đó không được quy định trong hệ thống pháp luật của Ukraine thì các tòa án của quốc gia này đương nhiên không có thẩm quyền xét xử. Ngược lại, trường hợp các hành vi của quân đội Nga thực sự đã cấu thành tội phạm theo pháp luật của Ukraine, thì tiếp theo phải xem xét liệu Ukraine ‘CÓ MUỐN’ hoặc ‘CÓ THỂ’ xét xử hay không, tức là trở lại câu hỏi ở phần 1) nói trên. Nếu Ukraine ‘KHÔNG MUỐN’ hoặc ‘KHÔNG THỂ’ điều tra và xét xử, thì lúc này mới bàn tới thẩm quyền của ICC.

Theo quy định của Quy chế Rome, thẩm quyền của ICC trước hết giới hạn đối với các hành vi xảy ra trên lãnh thổ hoặc được tiến hành bởi công dân của quốc gia là thành viên của Quy chế Rome. Trên thực tế, hiện tại cơ quan công tố của ICC cũng đang tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ để làm rõ cấu thành tội phạm đối với các hành vi của quân đội Nga ở Ukraine. Tuy vậy, ngay cả khi ICC có đầy đủ chứng cứ cấu thành tội xâm lược hoặc tội phạm chiến tranh của quân đội Nga thì việc truy cứu cũng sẽ khó thực hiện được. Lý do đầu tiên là Nga chưa phải là một thành viên của Quy chế Rome, do đó họ không bị ràng buộc bởi các quy định của Quy chế này. Chính quyền của ông Putin có thể tuyên bố họ không chấp nhận thẩm quyền của ICC đối với các vụ việc liên quan đến công dân họ, tương tự như việc họ vừa tuyên bố Tòa án Công lý quốc tế (International Court of Justice) không có thẩm quyền đối với vụ việc mà Ukraine đệ trình chống lại hành vi xâm lược của Nga. Mặt khác, bản thân Ukraine, là quốc gia nơi xảy ra các hành vi có dấu hiệu phạm tội, cũng chưa phải là thành viên của Quy chế Rome, do đó ICC không có thẩm quyền đương nhiên đối với các hành vi của quân đội Nga thực hiện trên lãnh thổ của Ukraine.

b) Vai trò của Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc trong mối quan hệ với ICC

Được xem là cơ quan chính trị thường trực của Liên Hợp Quốc, Hội đồng Bảo an chịu trách nhiệm chính trong việc đảm bảo hòa bình và an ninh quốc tế. Tuy nhiên, trong trường hợp xung đột Nga – Ukraine, chủ thể chính gây ra mất an ninh và đe dọa hòa bình là Nga, một trong 5 thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an và có quyền phủ quyết. Về lý thuyết, Hội đồng Bảo an có thể hỗ trợ cho ICC trong những trường hợp các tình huống có dấu hiệu phạm tội không xảy ra trên lãnh thổ hoặc không được thực hiện bởi công dân của quốc gia là thành viên của Quy chế Rome. Cụ thể, theo khoản b, điều 13 Quy chế Rome, Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc có thể thông qua một nghị quyết để thực hiện việc đề xuất cho ICC tiến hành điều tra một tình huống và truy cứu những hành vi phạm tội xảy ra trên lãnh thổ của quốc gia chưa phải là thành viên hoặc những hành vi được tiến hành bởi công dân của quốc gia chưa phải là thành viên của Quy chế Rome. Tuy vậy, trên thực tế, rào cản ở đây là Nga có thế sử dụng quyền phủ quyết để ngăn chặn Hội đồng Bảo an thông qua một nghị quyết như vậy.

c) Có thể dựa vào các tòa án lâm thời ?

Trong lịch sử đấu tranh phòng chống tội phạm quốc tế, đã có một số tòa án lâm thời (ad-hoc) được lập ra để giải quyết những vụ việc cụ thể, sau khi hoàn thành nhiệm vụ thì các tòa đó được giải thể. Chẳng hạn, sau Thế chiến thứ hai, một loạt các cá nhân của chế độ phát-xít Đức và Nhật bị đưa ra xét xử ở các tòa án quốc tế lâm thời là Tòa án Nuremberg 1946 và Tòa án Tokyo 1946 vì hành vi phạm tội phạm chiến tranh. Do Đức và Nhật là những nước bại trận sau cuộc chiến, buộc phải ký văn bản đầu hàng, cho nên việc truy tố và xét xử được tiến hành tương đối thuận lợi. Sau này, thế giới cũng chứng kiến các tòa án mang tính chất lâm thời khác như Tòa án Ruanda 1994 và Tòa án Nam Tư 1993 được lập ra để xét xử các tội phạm chiến tranh và tội diệt chủng, đều nằm trong 4 nhóm tội thuộc thẩm quyền của ICC. Thực chất, Rwanda và Nam Tư là những quốc gia không có vị thế lớn trên trường quốc tế, hơn nữa chính quyền có những sự thay đổi trong giai đoạn chuyển giao, do đó việc đưa các cựu quan chức của chính quyền ra xét xử cũng hầu như không gặp những cản trở gì.

Tuy vậy, sau khi ICC được thành lập vào năm 1998 và chính thức đi vào hoạt động vào năm 2002 với tư cách là một tòa án thường trực, thì không có một tòa án lâm thời nào được thành lập nữa. Về bản chất, các tòa án lâm thời trước đây được thành lập trong khuôn khổ Liên Hợp Quốc và hoạt động mang nặng tính chính trị, thậm chí là thiên vị, khác với ICC là một cơ quan tư pháp mang tính độc lập. Sắp tới, việc Liên Hợp Quốc có quyết định thành lập một tòa án lâm thời để xét xử các hành vi bị xem là tội phạm trong cuộc xung đột Nga – Ukraine hay không vẫn còn là một câu hỏi phía trước.

Nhưng một điều có thể thấy trước là việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi do quan chức và lực lượng quân đội Nga sẽ rất khó khăn, nếu không muốn nói là không thể. Càng khó khăn hơn khi Nga là một cường quốc về quân sự, ông Putin thì luôn lăm le ‘nút bấm hạt nhân’ trong tay, và Nga lại là quốc gia có quyền phủ quyết trong Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Sự khó khăn này cũng tương tự như việc đưa các quan chức, tướng lĩnh và binh lính của Hoa Kỳ ra truy cứu trách nhiệm trước ICC về các hành vi mà họ thực hiện trong các cuộc can thiệp quân sự ở Iraq, Nam Tư hay Afghanistan trước đây. Mặc dù có nhiều bằng chứng và tài liệu do các tổ chức quốc tế độc lập thu thập và công bố chứng minh hành vi phạm tội của quân đội Hoa Kỳ ở các nơi mà họ can thiệp quân sự (chẳng hạn việc ngược đãi tù binh, giết nhầm dân thường, không kích vào các cơ sở dân sự… được trang WikiLeak của Julian Assange điều tra và tiết lộ), nhưng cho đến nay hầu như chưa một cá nhân công dân nào của Hoa Kỳ bị ICC đưa ra xét xử.

V. Kết luận

Việc hành động quân sự của Nga tiến hành ở Ukraine có cấu thành tội xâm lược và tội phạm chiến tranh hay không có lẽ phải chờ kết quả điều tra chính thức của các cơ quan chức năng, nhất là cơ quan công tố của Tòa án Hình sự quốc tế. Tuy nhiên, với những gì đã và đang diễn ra ở chiến trường Ukraine đối chiếu với các quy định hiện hành của pháp luật quốc tế, việc kết luận Nga phạm tội xâm lược và tội phạm chiến tranh có lẽ không có gì phải bàn cãi.

Vấn đề là làm sao để có một cơ chế truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với các cá nhân có liên quan, đảm bảo công lý được thực thi mới là điều đáng nói, đặc biệt khi chủ thể vi phạm là những quan chức đứng đầu nhà nước của những cường quốc. Đây vẫn đang là một khiếm khuyết của pháp luật quốc tế nói chung và luật hình sự quốc tế nói riêng.

Hồ Nhân Ái

Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 24/04/2022

© Tiến sĩ Hồ Nhân Ái, Khoa Luật Quốc tế – Trường Đại học Luật – Đại học Huế.

Tài liệu tham khảo :

1. Quy chế Rome 1998 về Tòa án hình sự quốc tế

2. MacKennan Graziano and Lan Mei, "The Crime of Aggression Under the Rome Statute and Implications for Corporate Accountability", The Harvard Inetrnational Law, April 2017

3. Anouk T. Boas, "Định nghĩa tội phạm xâm lược và sự liên quan đến các cuộc xung đột vũ trang đương đại", Brief 1, International Crime Database, June 2013

4. Associated Press in Washington, "Is Vladimir Putin a war criminal, and who decides ?", The Guardian, 17/03/2022

5. "War crimes and Russia’s invasion of Ukraine", Aljazeera, 17/03/2022

6. The States Parties to the Rome Statute, International Criminal Court

7. Louise Arbour, "The Relationship Between the ICC and the UN Security Council", Global Governance 20, 2014, Vol. 20, No. 2, pp.195-201.

Additional Info

  • Author Hồ Nhân Ái
Published in Diễn đàn

Trump nói chưa đọc báo cáo của công tố viên đặc biệt (VOA, 07/04/2019)

"Tôi chưa đc Báo cáo Mueller, mc dù tôi có quyn làm như vy", ông Trump viết trên Twitter. "Ch mi biết các kết lun, và kết lun quan trng nht. Không có s Thông đng".

trump1

Tổng thng M Donald Trump hôm th By cho biết ông chưa đc báo cáo ca Công t viên đc bit Robert Mueller điu tra nhng liên h gia ban vn tranh c tng thng năm 2016 ca ông vi Nga.

Bộ trưởng Tư pháp M William Barr nói ông d đnh s công b bn được che bt thông tin ca báo cáo điu tra dài gn 400 trang v s can thip ca Nga vào cuc bu c năm 2016 vào gia tháng này, nếu không phi là sm hơn.

Vào ngày 22 tháng 3, ông Mueller hoàn tất cuc điu tra kéo dài 22 tháng và ông Barr gi mt bc thư bn trang cho Quc hi hai ngày sau đó phác tho nhng kết lun chính. Ông Barr nói với các nhà lp pháp rng cuc điu tra không xác đnh rng các thành viên ca ban vn đng Trump đã âm mưu vi Nga, nhưng cũng không xác đnh tng thng vô can v cáo buc cn tr công lí.

Ông Barr nói ông kết lun rng không có đ bng chng cho thấy ông Trump phm ti cn tr công lí. Nhưng các bn tin ca gii truyn thông trong tun này cho biết các thành viên trong đi ngũ ca ông Mueller không hài lòng vi cách mà ông Barr, mt người được ông Trump b nhim, mô t các kết lun ca bn báo cáo.

*****************

Nhà Trắng : Phe Dân Chủ ‘không bao giờ’ thấy hồ sơ thuế của Tổng thống Trump (VOA, 07/04/2019)

Chánh văn phòng Nhà Trắng Mick Mulvaney hôm 7/4 tuyên b rng h sơ hoàn thuế ca Tng thng Donald Trump s không bao gi được chuyn giao cho các nhà lp pháp Dân ch, theo Reuters.

trump2

Tổng thống Trump. Ảnh minh họa

Khi được hi trên chương trình "Fox News Sunday" liu phe Dân ch ti Quc hi M s thành công trong vic ly được h sơ hoàn thuế ca Tng thng Trump hay không, ông Mulvaney nói : "Không bao gi".

Quan chức này cũng bác b n lc tìm cách tiếp cn h sơ, chính thc được Ch tch y ban thuế ca H vin M Richard Neal công b hôm 3/4, coi đó là mt th đon chính tr ca phe Dân ch mà ông cho là không ngng công kích ông Trump.

"Phe Dân chủ yêu cu IRS (Cơ quan Thuế v M) trao các h sơ. Điu đó s không xy ra và h biết điu đó. Đây là mt chiêu trò chính tr", ông Mulvaney nói.

Trong khi đó, phe Dân chủ đáp tr rng yêu cu tiếp cn h sơ thuế mà ông Neal gi B Tài chính có căn c v mt pháp lý và cn thiết đ điu tra vì ông Trump t chi tiết l h sơ thuế và không t b các quyn li kinh doanh khi làm tng thng.

Một lut sư ca ông Trump hôm 5/4 chỉ trích bước đi ca phe Dân ch, đòi h sơ hoàn thuế cá nhân và kinh doanh trong sáu năm ca ông Trump, là mt "n lc sai lch" nhm chính tr hóa các điu lut v thuế, đng thi cáo buc chuyn đó là vic can thip vào vic kim toán ca Cơ quan Thuế v Mỹ.

**********************

Mỹ hủy visa của công tố viên ICC để ‘bảo vệ chủ quyền’ (VOA, 07/04/2019)

Công tố viên ca Tòa án Hình s Quc tế (ICC) hôm th Sáu cho biết visa vào M ca bà đã b hy b.

trump3

Công tố viên Tòa án Hình s Quc tế, Fatou Bensouda, b M hy b visa vì cuc điu tra ca bà nhm vào lc lượng Mỹ Afghanistan.

Văn phòng của công t viên Fatou Bensouda cho biết vic M hy b visa ca bà không nên ảnh hưởng ti các chuyến đi ca bà đến M d các cuc hp, bao gm các cuc hp thường xuyên ti Hi đng Bo an Liên Hip Quc.

Mỹ chưa bao gi là thành viên ca ICC, mt tòa án đt tr s ti thành ph The Hague đc trách truy t các ti nghiêm trọng ch khi các quc gia khác không mun hoc không th đưa nghi phm ra trước công lí.

Người phát ngôn ca Liên Hip Quc Stephane Dujarric nói : "Chúng tôi hi vng Hoa Kỳ tuân th tha thun cho phép các nhân viên ca ICC du hành đ thc hin công tác ca h ti Liên Hip Quc".

Bộ Ngoi giao M xác nhn vic hy b visa ca bà Bensouda.

"Hoa Kỳ sẽ thc hin các bước cn thiết đ bo v ch quyn ca mình và bo v người dân ca chúng tôi khi vic điu tra và truy t bt công ca Tòa án Hình s Quc tế", bộ nói.

Tháng trước, Ngoi trưởng M Mike Pompeo nói rng Washington s hy b hoc t chi visa cp cho nhân viên ICC đang tìm cách điu tra các ti ác chiến tranh và các hành vi ngược đãi khác ca lc lượng M Afghanistan hoc các nơi khác và có th làm như vy vi nhng người tìm kiếm hành đng nhm vào Israel.

Công tố viên ICC này có mt yêu cu đang ch th lí đ xem xét các ti ác chiến tranh kh dĩ xy ra Afghanistan mà có th liên quan đến người M. Người Palestine cũng đã yêu cu tòa án th lí các vụ kin chng li Israel.

Bà Bensouda năm ngoái đã yêu cầu m mt cuc điu tra v các cáo buc ti ác chiến tranh gây ra bi lc lượng an ninh quc gia Afghanistan, phiến quân mng lưới Taliban và Haqqani, cũng như các lc lượng và quan chc tình báo Mỹ Afghanistan k t tháng 5 năm 2003.

Chính quyền Clinton năm 2000 kí Quy chế Rome sáng lp ICC, nhưng ông có nhng ng vc v phm vi thm quyn tài phán ca tòa án và không bao gi đ trình nó đ Thượng vin phê chun.

Published in Quốc tế

Lời giới thiệu : Quy chế Rome về Tòa án Hình sự Quốc tế đã được 120 quốc gia tham gia Hội nghị Ngoại giao của Liên Hợp Quốc tổ chức tại Rome từ 15/6 đến 17/07/1998 chấp thuận, được phê chuẩn ngày 11/04/2002 và có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2002. Thẩm quyền của tòa án là điều tra, truy tố và trừng phạt các cá nhân vi phạm tội ác diệt chủng, tội ác chống nhân loại, tội ác chiến tranh và tội ác xâm lược.

cpi1

Trụ sở Tòa án Hình sự Quốc tế tại Den Haag (La Haye) Hòa Lan

Hiện nay đã có đã có tất cả 114 quốc gia tham gia hiệp ước này. Ngoài ra, còn có 34 quốc gia, trong đó có Nga, đã ký vào hiệp ước nhưng chưa được quốc hội phê chuẩn.

Mỹ là một trong các quốc gia đứng ra vận động mạnh mẽ cho việc thành lập Quy chế Rome về Tòa án Hình sự Quốc tế và đã ký tên vào hiệp ước này ngày 31/12/2000. Tuy nhiên, ngày 11/09/2001 quân khủng bố mở cuộc tấn công Tòa Tháp Đôi thuộc Trung tâm Thương mại Thế giới ở New York, Bin Laden được coi là nghi can đầu tiên trong thảm kịch này và đang ở Afghanistan. Ngày 7/10/2001, sau khi Taliban từ chối giao nộp Bin Laden và nhiều lần thách thức, Hoa Kỳ và các đồng minh bắt đầu mở cuộc tấn công vào Afghanistan. Sau đó, ngày 20/03/2003 Mỹ mở cuộc tấn công vào Iraq không có sự cho phép của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, viện lý do Saddam Hussein tàng trử võ khí giết người hàng loạt. Để tránh bị truy tố về tội ác xâm lược, tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại, ngày 6/05/2002 Tổng thống Bush đã rút tên ra khỏi hiệp ước Tòa án Hình sự Quốc tế.

cpi2

Cố vấn Tòa Bạch Ốc, Jared Kushner, găp Thủ tướng Do Thái, Benjamin Netanyahu, tại Jerusalem ngày 24/08/20147 - Ảnh minh họa

Nhiều người tin rằng Donald Trump là người được Thượng Đế sai đến để cứu nước Mỹ. Nhưng họ quên rằng Donald Trump còn có một "sứ mạng" quan trọng hơn là cứu Do Thái, vì Jared Kushner con rể của ông, là người Do Thái, tức con Thiên Chúa. Luật sư Michael Cohen, người đã cứu ông ra khỏi 3.500 vụ tranh tụng cũng là người Do Thái. Do Thái lại là nguồn tài chánh tranh cử của Donald Trump. Vì thế, ngày 14/05/2018, Donald Trump đã ra lệnh chuyển sứ quán Mỹ từ Tel Aviv đến Jerusalem và coi Jerusalem là thủ dô của Do Thái, mặc dầu hành động này trái với Nghị quyết số 478 ngày 20/08/1980 của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Đây làm hành động không chính phủ nào của Mỹ trước đó muốn làm.

Trong thực tế, Jerusalem hiện nay là di sản chung của ba tôn giáo : Do thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo.

Trong tập "Le Loup et l'agneau" (Chó sói và cừu non), La Fontaine đã nói : "La raison du plus fort est toujours la meilleure", nghĩa là lý của lý của kẻ mạnh bao giờ cũng thắng. Donald Trump đang áp dụng nguyên tắc đó để cai trị. Hiến pháp, luật pháp và hiệp ước quốc tế được đặt dưới ghế ngồi, vì ông không biết tý gì vế luật pháp.

Dưới đây là bản tin "Mỹ đe dọa trừng phạt Tòa án Hình sự Quốc tế" do đài VOA của chính phủ Hoa Kỳ công bố ngày 10/09/2018. Lý do được Mỹ đưa ra dể trừng phạt là vì Tòa án Hình sự Quốc tế dọa sẽ tiến hành điều tra về tội phạm chiến tranh của người Mỹ ở Afghanistan và các tội phạm của Israel đối với người Palestine.

Lữ Giang

(12/09/2018)

**************

Mỹ đe dọa trừng phạt Tòa án Hình sự Quốc tế (VOA, 10/09/2018)

Ngày 10/9, Hoa Kỳ đưa ra lập trường cứng rắn đối với Tòa án Hình sự Quốc tế (ICC-International Criminal Court), đe dọa sẽ trừng phạt các thẩm phán ICC nếu họ tiến hành điều tra về tội phạm chiến tranh của người Mỹ ở Afghanistan, theo Reuters.

cpi3

Cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ John Bolton.

Cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Donald Trump, John Bolton, dự kiến sẽ đưa ra tuyên bố trong bài phát biểu vào giữa trưa 10/9 ở Federalist Society, một tổ chức bảo thủ ở Washington. Đây sẽ là bài phát biểu lớn đầu tiên của ông kể từ khi gia nhập chính quyền của ông Trump.

"Hoa Kỳ sẽ sử dụng bất kỳ biện pháp cần thiết nào để bảo vệ công dân và các đồng minh của chúng tôi khỏi bị tòa án bất hợp pháp này truy tố một cách bất công", Reuters dẫn lại lời ông Bolton sẽ nói dựa theo bài phát biểu mà hãng thông tấn này xem được.

Ông Bolton dự kiến cũng sẽ cho biết việc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ thông báo đóng cửa văn phòng Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) tại Washington vì lo ngại về những nỗ lực của Palestine nhằm thúc đẩy ICC điều tra Israel.

"Hoa Kỳ sẽ luôn luôn đồng hành với người bạn và đồng minh của chúng tôi là Israel", vẫn theo bản thảo bài phát biểu của ông Bolton.

Phía Palestine nói rằng họ không hề nản chí trong vấn đề ICC và Israel. Họ mô tả kế hoạch đóng cửa PLO là chiến thuật gây áp lực mới nhất từ chính quyền của ông Trump. Trước đó, Mỹ cắt giảm tài trợ cho cơ quan của Liên Hiệp Quốc dành cho người tị nạn Palestine và các bệnh viện ở Đông Jerusalem, nơi người Palestine muốn là thủ đô của quốc gia tương lai của mình.

"Chúng tôi lặp lại rằng các quyền của người Palestine không phải là để bán, chúng tôi sẽ không để yên cho những đe dọa và bắt nạt của Hoa Kỳ", Reuters dẫn lời ông Saeb Erekat, một quan chức Palestine, nói trong một tuyên bố.

"Theo đó, chúng tôi tiếp tục kêu gọi Tòa án Hình sự Quốc tế mở cuộc điều tra trực tiếp về tội ác của Israel".

Israel chưa có phản ứng gì. Các văn phòng chính phủ nước này hiện đang đóng cửa nhân dịp năm mới của người Do Thái.

cpi4

Tòa nhà của ICC ở La Haye, Hà Lan.

Theo bản thảo bài phát biểu của ông Bolton, chính quyền của ông Trump "sẽ chống lại" nếu ICC tiến hành mở cuộc điều tra về tội phạm chiến tranh do các binh sĩ và chuyên gia tình báo Mỹ thực hiện trong cuộc chiến ở Afghanistan.

Nếu một cuộc điều tra như vậy xảy ra, chính quyền của ông Trump sẽ xem xét cấm các thẩm phán và công tố viên ICC nhập cảnh vào Hoa Kỳ, đưa ra các biện pháp trừng phạt đối với bất kỳ khoản tiền nào mà họ có trong hệ thống tài chính của Mỹ và truy tố họ tại các tòa án Mỹ.

"Chúng tôi sẽ không hợp tác với ICC. Chúng tôi sẽ không hỗ trợ cho ICC. Chúng tôi sẽ không tham gia ICC. Chúng tôi sẽ để ICC tự tàn lụi. Thực ra, ICC đã chết đối với chúng tôi", bản thảo của ông Bolton nói.

Ngoài ra, Hoa Kỳ có thể đàm phán các thỏa thuận song phương ràng buộc hơn để ngăn cấm các quốc gia tố cáo công dân Mỹ ra tòa án có trụ sở tại La Haye, vẫn theo bản văn.

Mục đích của tòa án quốc tế là xét xử các thủ phạm gây tội ác chiến tranh, tội ác chống lại nhân loại và tội diệt chủng.

Hoa Kỳ đã không phê chuẩn hiệp ước Rome thành lập ICC vào năm 2002 và Tổng thống George W. Bush vào thời điểm đó đã phản đối tòa án này. Người kế nhiệm ông Bush, Tổng thống Barack Obama, đã thực hiện một số bước hợp tác với tòa án.

"Chúng tôi sẽ xem xét các bước trong Hội đồng Bảo an LHQ để hạn chế quyền hạn của tòa án, bao gồm đảm bảo rằng ICC không thực thi thẩm quyền đối với người Mỹ và công dân của các đồng minh chúng tôi, những người không phê chuẩn Quy chế Rome".

Trong khi đó, người Palestine phản ứng bất bình đối với việc cắt giảm tài trợ của Hoa Kỳ, cảnh báo rằng việc này có thể dẫn đến đói nghèo và thịnh nộ hơn, vốn là hai trong những yếu tố châm ngòi cho nhiều thập niên xung đột với Israel.

Tuần trước, Tổng thống Trump ra lệnh phân bổ 25 triệu đôla dành cho việc chăm sóc người Palestine ở Đông Jerusalem sang mục đích sử dụng khác.

"Quyết định này sẽ gây ra khó khăn nghiêm trọng về tiền bạc cho các bệnh viện và chắc chắn sẽ gây ra chậm trễ trong việc cứu sống và các điều trị khẩn cấp khác", ông Walid Nammour, người đứng đầu mạng lưới 6 bệnh viện bị ảnh hưởng nói với các phóng viên hôm 10/9. "Nói chung, quyết định này gây ra nguy cơ cho sức khỏe của 5 triệu người Palestine".

Published in Diễn đàn

Tòa Án Hình Sự Quốc Tế (CPI) vào hôm qua, 08/02/2018 cho biết đã bắt đầu thủ tục xem xét sơ bộ các hành động phạm tội ác chống nhân loại ở Venezuela và Philippines.

cpi1

Đối lập Venezuela tuần hành lên án chính phủ Nicolas Maduro, tại bang Tachira-San Cristobal, ngày 22/04/2017. AFP/George Castellanos

Đối với Philippines, đó là cuộc chiến chống ma túy của tổng thống Duterte, đã làm ít nhất 4000 người chết từ tháng Bảy 2016, theo số liệu chính thức, và gấp đôi theo các tổ chức bảo vệ nhân quyền, với những vụ tự do giết người trong các chiến dịch của cảnh sát.

Trường hợp Venezuela là những vụ đàn áp từ tháng 4/2017, nhắm vào các vụ biểu tình chống tổng thống Maduro. Cảnh sát đã dùng võ lực để giải tán, hàng ngàn người phe đối lập bị bắt, bị hành hung trong lúc bị giam giữ.

Cho dù Tòa Án Hình Sự Quốc Tế khẳng định là việc xem xét sơ bộ này không phải là một cuộc điều tra thực thụ, và tòa cũng không có thời hạn về việc lấy quyết định, phát ngôn viên phủ tổng thống Philippines cho là tòa án đã mở điều tra và Manila sẽ chứng minh rằng Tòa Án CPI "bất tài".

Chính quyền Venezuela thì đã có phản ứng rất mạnh mẽ. Thông tín viên RFI tại Venezuela, Julien Gonzalez ghi nhận :

"Một vụ xét xử theo kiểu bài trừ dị giáo thời Trung Cổ, một cung cách hành xử phô trương và đáng xấu hổ : Đây là phản ứng của bộ Ngoại Giao Venezuela.

Caracas phủ nhận tất cả những cáo buộc. Về các cuộc biểu tình chống ông Maduro, phía chính quyền cho đây là do phe đối lập đã tung tiền ra để tổ chức trong lúc cảnh sát chỉ lo việc duy trì trật tự, bảo vệ Nhà Nước pháp quyền, và nhiều cảnh sát đã hy sinh.

Nếu thông báo của Tòa Án Quốc Tế làm chính quyền tức giận, thì nhiều người khác lại hoan nghênh, như cựu chưởng lý Luisa Ortega Diaz. Bà nhắc lại là đã đưa ra trước Tòa Án CPI hơn 1.600 bằng chứng về những điều bà gọi là "tội ác" gây ra trong các cuộc biểu tình.

Nghị viện Venezuela, nơi mà phe đối lập chiếm đa số, thông báo sẽ hợp tác với tòa án CPI."

Mai Vân

Published in Quốc tế

Tòa án tội phạm chiến tranh LHQ y án 6 bị can Bosnia và Croatia (VOA, 30/11/2017)

Một tòa án v ti phm chiến tranh LHQ hôm th Tư 29/11 đã gi nguyên các cáo buc đi vi sáu cu lãnh đo chính tr và quân s Bosnia và Croatia, những người vào năm 2013 b kết án vi phm ti ác chiến tranh trong nhng năm 1990.

balkan1

Cựu Bộ trưởng Quc phòng Croatia Jadranko Prlic ra tòa hôm 29/11/2017.

Đây là quyết đnh cui cùng ca Toà án Hình s Quc tế đi vi Nam Tư cũ, mt tòa án do LHQ thành lp vào năm 1993. Tòa án d kiến s đóng ca khi hết hn nhim vụ vào cui năm nay.

Cách đây bốn năm, nhng quan chc này đã b kết ti khi tham gia vào chiến dch "thanh trng sc tc" chng li người Hi giáo Bosnia trong cuc chiến Bosnia.

Trong số các quan chc này có cu B trưởng Quc phòng Jadranko Prlic, người đã bị chính ph Croatia dưới thi Tng thng Franjo Tudjmano kết án vì đã tham gia vào mt tp đoàn ti phm đ lp ra mt nhà nước thun túy sc tc.

Một s hình pht đi vi ông Prlic và các b cáo khác đã b đo ngược trong mt phiên phúc thm, nhưng thẩm phán chính nói rng "tt c sáu b can vn b kết án v nhiu ti danh và là ti rt nghiêm trng".

Buổi xét x đã b đình ch sau khi mt trong nhng b can, cu ch huy quân đi Slobodan Praljak, được cho là đã ung phi mt chai nước có cht đc tại tòa. Khi uống cht này, ông Praljak hét lên : "Tôi không phi là mt ti phm chiến tranh", ngay sau khi tòa tuyên bn án 20 năm tù giam đi vi ông.

Bản án ban đu cho biết ông Tudjman gi vai trò ch cht trong kế hoch thành lp mt tiu nhà nước Croatia ở Bosnia.

*********************

Tội phạm chiến tranh uống thuộc độc tự vẫn trước tòa quốc tế (VOA, 30/11/2017)

Một cu ch huy quân s Croatia gc Bosnia hôm 29/11 ung thuc độc ngay trong phòng tuyên án của tòa án hình s quc tế, và qua đi không lâu sau đó, sau khi tòa bác đơn kháng án ca ông chng bn án tù 20 năm.

TOPSHOT-COMBO-NETHERLANDS-SERBIA-BOSNIA-CROATIA-WARCRIMES-TRIAL-

Trong bức nh ca Tòa án Hình s Quc tế hôm 29/11/2017, ông Praljak đưa mt chai nh lên ming, trước phiên tòa xét tội ác chiến tranh La Haye, Hà Lan. Ông hét : "Tôi không phi là ti phm chiến tranh" (ICTY via AP)

Hành động t sát ca ông Slobodan Praljak ngay trước tòa được truyn đi qua kết ni video, din ra trong nhng phút chót của phiên xét x cui cùng ca Tòa án Hình s Quc tế (ICTY) xét x nhng ti ác chiến tranh xy ra ti Liên bang Nam Tư cũ.

Theo hãng tin Reuters, ông Praljak, 72 tuổi, được đưa vào bnh vin sau khi ung mt cht gì t mt chai hoc ly nh giữa lúc quan tòa đọc phán quyết, bác đơn kháng án ca ông và ca 5 ti phm chiến tranh Croatia gc Bosnia khác.

Trước s kinh ngc ca quan tòa và nhng người hin din, ông Praljak nói : "Tôi va ung thuc đc". Ông tuyên b : "Tôi không phi là mt ti phạm chiến tranh. Tôi chng đi phán quyết này".

Sau khi uống cn, ông Praljak ngi xung và xm ngay trên ghế , theo li k ca mt lut sư có mt ti phiên tòa.

"Praljak uống mt cht lng ti phiên tòa và xm xung ngay sau đó. Ông được nhân viên y tế ca tòa chữa tr, nhưng "qua đi hôm nay ti bnh vin HMC La Haye", người phát ngôn ca tòa án Nenad Golcevski cho biết.

Quan tòa Carmel Agius, chủ ta phiên xét x, lp tc đình ch mi din tiến. Trong khi cuc gio nghim t thi đ tìm nguyên nhân gây tử vong được xúc tiến, công chúng được yêu cu ri phòng x.

Vẫn theo hãng tin Reuters, ông Praljak b kết ti v vai trò ca ông trong v cm gi bt hp pháp 1000 tín đ Hi giáo Bosnia. Ông b kết ti giết người và đàn áp, cưỡng bc các tín đ Hi giáo rời các vùng lãnh thổ Bosnia mà Croatia tuyên b thuc quyn kim soát ca h.

Ông Praljak còn bị cáo buc là người đã ra lnh phá hy mt di tích lch s đã có t thế k 16, là cây cu Mostar. Nhưng trong mt mt s người Croatia, ông được xem như mt v anh hùng trong cuộc chiến chng li Serbia.

Thủ Tướng Croatia Andrej Plenkovic nói ông ly làm tiếc v cái chết ca ông Praljak, và đã ng li chia bun vi gia đình ông.

******************

Dư luận Croatia chia rẽ về vụ bị cáo Slobodan Praljak tự tử tại Tòa La Haye (RFI, 30/11/2017)

Trong phiên tòa cuối cùng trước khi đóng cửa hẳn vào tháng 12 tới, hôm qua một sự kiện vô tiền khoáng hậu đã xảy ra tại Tòa án Hình sự Quốc tế về Nam Tư cũ ở La Haye. Khi tòa vừa tuyên án, một trong sáu bị cáo là cựu tướng Slobodan Praljak đã uống thuốc độc khiến phiên tòa phải ngưng lại. Ông Praljak tử vong vài giờ sau tại bệnh viện. Chính quyền Hà Lan hôm nay 30/11/2017 cho mở điều tra.

balkan3

Bị cáo, cựu tướng quân Croatia - Bosnia, Slobodan Praljak uống thuốc độc ngay khi tòa tuyên án ông 20 năm tù vì phạm tội ác chiếc tranh. Ảnh chụp qua TV trực tiếp tại tòa án La Haye ngày 29/11/2017 ?ICTY via  Reuters TV

Tại Croatia, Quốc Hội hôm nay dành một phút mặc niệm cho "tất cả thường dân bị thiệt mạng trong chiến tranh ở Croatia và Bosnia", và nữ tổng thống Kolinda Grabar-Kitarovic ngưng chuyến công du Iceland.

Từ Belgrade, thông tín viên RFI Laurent Rouy cho biết, dư luận Croatia vẫn chia rẽ về cáo buộc tội phạm chiến tranh có tổ chức của Tòa án La Haye.

Thủ tướng Croatia, ông Andrej Plenkovic, không ngần ngại nói rằng đây là một bất công sâu sắc về đạo đức, khi nói về bản án 25 năm tù giam do Tòa án Hình sự Quốc tế La Haye tuyên, và vụ tự tử ngay tại tòa của cựu tướng lãnh Slobodan Praljak, bị coi là tội phạm chiến tranh. Tòa án La Hay tuyên án sáu bị cáo người Croatia, vì các tội ác chiến tranh đối với thường dân Bosnia.

Đối với thủ tướng Plenkovic, đây cũng là bất công đối với nhân dân Croatia. Tại Quốc Hội nước này, nhiều dân biểu cho rằng quyết định của Tòa án Hình sự Quốc tế là ác độc.

Ở Mostar thuộc Bosnia, nơi nhiều người Croatia sinh sống, hơn một ngàn người đã thắp nến tại trung tâm thành phố để vinh danh những người bị kết án.

Nhưng không phải ai cũng chia sẻ sự cảm thông đối với các bị cáo. Goran Beus, dân biểu đối lập cho biết rất bất bình trước quan điểm của Quốc Hội.

Đối với ông, tướng Praljak trước hết là một tội phạm chiến tranh. Về phía Bosnia, Reis, cơ quan lãnh đạo tôn giáo cao nhất kêu gọi người Croatia lên án chính sách đã lỗi thời để hướng về hòa giải thực sự".

Phiên xử vừa rồi là phiên phúc thẩm, liên quan đến sáu cựu lãnh đạo và thủ lãnh quân sự Croatia tại Bosnia, về tội ác chiến tranh. Trong cuộc chiến Bosnia (1992-1995), Croatia và Bosnia cùng chiến đấu chống lại lực lượng Serbia, nhưng trong khoảng thời gian gần một năm (1993-1994) Croatia và Bosnia lại tấn công lẫn nhau.

Đây là lần thứ ba một bị cáo của Tòa án Hình sự Quốc tế về Nam Tư cũ tự sát kể từ 1988, nhưng là lần đầu tiên diễn ra ngay tại phòng xử án. Trước đó hai bị cáo Serbia ở Croatia là Milan Babic và Slavko Dokmanovic treo cổ trong phòng giam.

Thụy My

Published in Quốc tế