Đâu đó vẫn còn có sự thỏa hiệp ít nhiều để tránh ‘quá phật lòng’ với ‘anh cả đỏ’ Trung Quốc vì tránh chọc giận Bắc Kinh cũng như các hậu quả về địa chính trị.
Thành phố Móng Cái (tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam) và thành phố Đông Hưng (Trung Quốc) hợp tác ngăn chặn sự lây lan của virus corona (VoV, 30/01/2020).
"Số lao động người Trung Quốc trở lại thành phố làm việc sau Tết là 1.069 người (thuộc 187 doanh nghiệp), chuyên gia là 750 người, nhà quản lý là 80 người, lao động kỹ thuật 70 người, giám đốc điều hành là 30 người… Sở đã đề nghị chỉ đạo điều hành từ xa, ở khách sạn, nhà trọ chứ không trực tiếp đến công ty" – báo cáo của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh, viết. Chỉ dám dùng từ nhẹ nhàng "đề nghị chỉ đạo", vì tránh chọc giận Bắc Kinh cũng như các hậu quả địa chính trị.
Theo dự báo, điểm bùng phát dịch viêm đường hô hấp cấp do virus corona chủng mới vẫn còn ở phía trước khi những người nhiễm virus hết thời gian ủ bệnh. Con số bệnh nhân tại Trung Quốc và những nơi khác vẫn đang tăng đều.
Điểm cộng cho truyền thông tuyên giáo Đảng ở Việt Nam hiện tại, là dường như đang cố gắng tiếp cận đa chiều về cách hành xử của nhà chức trách Việt Nam ở vấn nạn dịch cúm virus corona.
Áp lực về cách đưa tin, về việc ‘mở cổng bình luận’ trên báo điện tử đã ít nhiều mang đến hiệu quả tích cực, tác động đến cung cách quản lý ‘nhìn sắc mặt’ thường thấy lâu nay mỗi khi có vấn đề liên quan yếu tố đến từ Trung Quốc, một quốc gia tuy chỉ có 70 tuổi Đảng, song vẫn được coi là "Đảng anh", so với "Đảng em" vừa làm lễ mừng ‘sanh nhựt’ 90 hôm 3/2/2020.
Những bản tin ngắn gọn như : "Ngày 2-2, thông tin từ biên phòng cửa khẩu cảng Vũng Áng – Sơn Dương cho biết do diễn biến phức tạp của dịch virus corona, những thuyền viên mang quốc tịch Trung Quốc sẽ không cấp thị thực vào cảng Vũng Áng – Sơn Dương", trên thực tế đã chuyển tải một điều mà người Trung Quốc rất khó chịu, vì với những ai trong ngành cảng biển đều biết rõ rằng phía Trung Quốc mới là những ông, bà chủ của Cảng Sơn Dương chứ không phải là Việt Nam.
Formosa Hà Tĩnh, một doanh nghiệp từng hủy diệt môi sinh biển Việt Nam, giờ đây cũng lộ hẳn mặt là công ty của Trung Quốc, và chính quyền của Hà Tĩnh cũng rắn khi ‘yêu cầu’ những người lao động Trung Quốc này ‘tạm dừng’ sang Việt Nam. Phía Formosa đã cho biết hiện công ty này có 754 cán bộ, công nhân là người Trung Quốc. Trước Tết Canh Tý đã có 429 người về quê ăn tết đến nay vẫn chưa trở lại làm việc.
Có ý kiến về việc đã hơn 25 quốc gia và vùng lãnh thổ xác nhận có ca nhiễm virus corona, vốn được cho xuất hiện và bùng phát từ thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, miền Trung Trung Quốc. Vì vậy, các nước trên thế giới buộc phải thực hiện biện pháp cứng rắn với việc nhập cảnh của người Trung Quốc. Các nước giàu có như Mỹ và Úc, vốn đều là đối tác thương mại lớn của Trung Quốc, hiện cấm nhập cảnh đối với toàn bộ du khách nước ngoài nhập cảnh vào hai nước này từ Trung Quốc.
Nhưng với các nước kém phát triển hơn, đây là giải pháp khó thực hiện. Việt Nam thì ai cũng hiểu là nước không hề giàu có gì, và lâu nay vẫn phải lệ thuộc vào Trung Quốc trong mọi chuyện, kể cả về cái gọi là ‘ổn định chính trị’.
Thế nhưng rõ ràng là những người cộng sản Việt Nam không muốn vì sự lệ thuộc đó mà bỏ qua mối đe dọa đại dịch nghiêm trọng, tức một sự bùng phát dịch khốc liệt hơn ở Việt Nam sẽ có tác động đến chính trị trong nước, chẳng hạn như bầu cử trong nội bộ Đảng sắp tới đây, khi ấy nó sẽ vượt qua giới hạn địa chính trị.
WHO tới nay vẫn tuyên bố không cần thiết phải cấm bay đối với Trung Quốc. Nhưng dư luận, đặc biệt những người hoài nghi về tính minh bạch trong đợt virus corona, cũng chỉ trích WHO về cách nhìn nhận của tổ chức này đối với tình trạng dịch bệnh và quan điểm mềm mỏng với Trung Quốc.
Rõ ràng mặc dù nhận nhiều chỉ trích, song Việt Nam đang khá cương quyết trong các mối giao thương với Trung Quốc trước vấn nạn dịch virus corona này. Dẫu vậy, đâu đó vẫn còn có sự thỏa hiệp ít nhiều để tránh ‘quá phật lòng’ với ‘anh cả đỏ’ Trung Quốc.
Ông Lê Minh Tấn, Giám đốc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh cho hay, "Số lao động người Trung Quốc trở lại thành phố làm việc sau Tết là 1.069 người thuộc 187 doanh nghiệp, chuyên gia là 750 người, nhà quản lý là 80 người, lao động kỹ thuật 70 người, giám đốc điều hành là 30 người… Sở đã đề nghị chỉ đạo điều hành từ xa, ở khách sạn, nhà trọ chứ không trực tiếp đến công ty".
Tại sao lại có tình trạng này ? Rõ ràng đó là một sự thỏa hiệp về địa chính trị giữa cái gọi là hai Đảng anh em. Trong khi cả nước đang nỗ lực để chống dịch thì tại Thành phố Hồ Chí Minh lại để cho hơn 1.000 người Trung Quốc nhập cảnh vào Việt Nam ? Không gửi trả người về Trung Quốc thì cũng phải cách ly tại sân bay chứ ; còn nếu đã làm việc từ xa thì ở bên Trung Quốc vẫn làm được. Hơn 1000 người chứ ít ỏi gì…
Hiền Lương
Nguồn : VNTB, 05/02/2020
Tổ chức nhân quyền chỉ trích chính phủ Trung Quốc vi phạm nhân quyền trong quá trình xử lý dịch bệnh Corona (RFA, 31/01/2020)
Hôm 31/1/2020, Tổ chức Người bảo vệ Nhân quyền Trung Quốc (Chinese Human Rights Defenders) đã công bố một báo cáo chỉ ra rằng, việc đối phó với virus Corona của chính phủ Trung Quốc đã không đi kèm với việc tôn trọng và bảo vệ nhân quyền, cũng như việc thiếu minh bạch của chính phủ đã dẫn đến sự thất bại trong việc ứng phó khẩn cấp đối với sự bùng phát của dịch bệnh này.
Hình minh họa. Một cảnh sát đeo khẩu trang phòng dịch đứng trước bức hình lãnh tụ Mao Trạch Đông ở quảng trường Thiên An Môn, Bắc Kinh hôm 28/1/2020 AFP
Kiểm duyệt thông tin góp phần vào sự lây lan của bệnh dịch
Bản báo cáo cho biết, chính quyền Trung Quốc đã che đậy thông tin về sự lây lan của virus, có thể góp phần vào sự lây lan nhanh chóng của virus Corona trước khi Tập Cận Bình tuyên bố công khai về mối đe dọa của dịch bệnh vào ngày 20/1.
Chính phủ Trung Quốc đã đối phó với virus Corona bằng một chiến dịch bịt miệng những tiếng nói cảnh báo và loan tin về tình hình dịch bệnh từ/12 vừa qua.
Tổ chức nhân quyền này ghi nhận 254 trường hợp cư dân mạng bị chính quyền trừng phạt vì loan tải tin tức về virus Corona. Trong khi đó các nhà báo đưa tin về dịch bệnh thì bị hạn chế, chẳng hạn như cảnh sát Vũ Hán đã tạm giam các nhà báo Hồng Kông đến từ các đài RTHK, TVB và NOW TV vào ngày 14/1 bên ngoài Bệnh viện Jinyintan và buộc họ phải xóa đoạn phim khi đưa tin về tình hình dịch bệnh tại đây.
Báo cáo này cũng nêu ra việc Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Trung Quốc đã ban hành một lệnh cấm nhân viên y tế nói chuyện với các phóng viên. Một bệnh viện ở tỉnh Giang Tô đã phạt một y tá vì đã lên tiếng về virus Corona trong một nhóm WeChat với các đồng nghiệp của cô. Bệnh viện cảnh báo các nhân viên khác không được nói chuyện với các nhà báo hoặc trên phương tiện truyền thông.
Một số người bảo vệ nhân quyền Trung Quốc đã bị cảnh sát đến nhắc nhở và đe dọa xử lý hình sự nếu họ không chấm dứt chia sẻ thông tin về dịch bệnh trên các phương tiện thông tin xã hội.
"Những hạn chế hà khắc của chính phủ đối với quyền tự do thông tin đã cản trở nghiêm trọng các nỗ lực cảnh báo và cứu hộ sớm trong việc kiểm soát dịch bệnh", bản báo cáo nhận định.
Ngăn cản di chuyển khiến người dễ bị tổn thương bị bỏ rơi
Báo cáo này cho hay, khi phong tỏa thành phố Vũ Hán, ảnh hưởng đến hàng triệu người, chính quyền Trung Quốc đã không đưa ra bất kỳ một cảnh báo đầy đủ nào cho dân chúng, và chính phủ đã không cung cấp hỗ trợ đầy đủ kịp thời cho những người có nhu cầu đặc biệt, cũng như không cho phép người dân dự trữ các nhu cầu thiết yếu trong tình trạng bị phong tỏa.
Các biện pháp quyết liệt của chính quyền đã khiến những người dễ bị tổn thương, bao gồm cả người khuyết tật, không được hỗ trợ. Tổ chức này ghi nhận có một cậu bé 17 tuổi bị bại não đã chết vì đói và cảm lạnh do bị bỏ rơi khi những người thân chăm sóc cậu ta đều bị cách ly.
"Cho đến nay, tất cả cư dân đô thị ở các thành phố Trung Quốc đã bị nhốt dưới sự kiểm dịch trên toàn quốc với thông tin không đầy đủ. Trong khi đó chính phủ không cung cấp bất kỳ bằng chứng rõ ràng nào cho công chúng về hiệu quả của các biện pháp này", báo cáo cho biết.
Ứng phó khẩn cấp thất bại vì sự thiếu minh bạch của chính phủ
Báo cáo cũng chỉ ra rằng, chính sự thiếu minh bạch trong hệ thống chính trị độc đoán của Trung Quốc đã dẫn đến sự thất bại trong việc cảnh báo công chúng và phản ứng nhanh chóng trong việc đối phó với một cuộc khủng hoảng dịch bệnh ở mức độ lớn như vậy.
Bất chấp các cảnh báo về trường hợp nhiễm bệnh đầu tiên ở Vũ Hán vào ngày 8/12, xảy ra tại một Chợ hải sản ở Vũ Hán, các nhà chức trách đã không đóng cửa ngôi chợ này. Tiếp đến chính phủ còn nói với công chúng rằng "không có bằng chứng lây truyền từ người sang người" của bệnh dịch này, báo cáo cho hay.
Bên cạnh đó, việc hạ thấp số lượng các trường hợp bị nhiễm bệnh từ báo cáo của chính quyền Vũ Hán, cũng như việc thị trưởng Vũ Hán thừa nhận rằng ông chỉ có thể tiết lộ thông tin sau khi được chính quyền cấp trên cho phép, đã góp phần gây ra sự thất bại khi ứng phó khẩn cấp đối với dịch bệnh.
Ngoài ra, theo báo cáo, tổ chức này cũng nêu lên sự thất vọng đối với Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã "không tuân thủ các hướng dẫn của riêng mình" khi ban bố tình trạng khẩn cấp một cách muộn màng vào hôm 30/1, cũng như việc Tổng giám đốc WHO, ông Tedros Adhanom Ghebreyesus tới Bắc Kinh mà không bày tỏ bất kỳ lo ngại nào về việc vi phạm nhân quyền nghiêm trọng của chính phủ Trung Quốc trong quá trình ứng phó dịch bệnh, bao gồm các hạn chế về tự do ngôn luận, thông tin, báo chí, đàn áp các nỗ lực xã hội dân sự, và không chống lại sự phân biệt đối xử.
Minh Luật
****************
Việt Nam đóng cửa biên giới vì bệnh dịch, có cần thỏa thuận với Trung Quốc ? (RFA, 31/01/2020)
Tại phiên họp Chính phủ vào chiều ngày 30/1, trước ý kiến nêu ra có nên đóng cửa biên giới với Trung Quốc để phòng chống sự lây lan của bệnh dịch viên phổi Vũ Hán do virus Corona gây ra hay không, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh cho biết "Việt Nam và Trung Quốc có ký kết hiệp ước, nếu liên quan an ninh và dịch bệnh thì có thể đóng cửa nhưng phải có thỏa thuận giữa hai bên chứ Việt Nam không thể đơn phương", theo Zing.vn tường thuật.
Hình minh họa. Cửa khẩu quốc tế Lào Cai trên biên giới Việt Nam Trung Quốc hôm 9/5/2014 AFP
Báo Vietnamnet dẫn lời Phó thủ tướng nói rằng : "Việc đóng cửa biên giới phải liên quan đến 2 tình hình là an ninh và dịch bệnh nhưng phải có thỏa thuận 2 nước, báo trước 5 ngày".
Thông tin này đã thật sự gây ra sự lo lắng cho nhiều người, không chỉ vì phải đối diện với nguy cơ lây nhiễm bệnh dịch mà còn liên quan về vấn đề chủ quyền quốc gia. Bởi lẽ, việc một quốc gia không thể đơn phương đóng cửa biên giới, hoặc phải đợi thỏa thuận với một quốc gia khác thì mới được phép đóng cửa biên giới để phòng tránh bệnh dịch, trong trường hợp này rõ ràng chủ quyền quốc gia đã bị xâm phạm.
Tuy nhiên, khi đối với các quy định pháp lý thì thông tin này là toàn toàn không chính xác. Cụ thể theo Hiệp định về Cửa khẩu và Quy chế quản lý cửa khẩu biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung Quốc, tại Khoản 3 Điều 5 nêu rõ : "Để bảo vệ lợi ích xã hội, an ninh quốc gia hoặc vì lý do thiên tai nghiêm trọng, dịch bệnh truyền nhiễm lớn, dịch bệnh động thực vật và các trường hợp bất khả kháng khác, một Bên có thể tạm thời đóng hoặc hạn chế việc qua lại cửa khẩu. Tuy nhiên, cần phải thông báo cho phía Bên kia trước 5 ngày, trong trường hợp khẩn cấp không được ít hơn 24 giờ".
Như vậy, căn cứ vào quy định này, trong trường ứng phó khẩn cấp với bệnh dịch truyền nhiễm do virus Corona gây ra, phía Việt Nam hoàn toàn có thể đơn phương đóng cửa biên giới với Trung Quốc, với điều kiện chỉ cần thông báo cho phía Trung Quốc biết trước không được ít hơn 24h, chứ không cần phải "thỏa thuận" với phía Trung Quốc thì mới được phép đóng cửa biên giới như thông tin mà Phó thủ tướng Phạm Bình Minh đã nêu.
Một Phó thủ tướng, đứng đầu ngành ngoại giao của một quốc gia mà đưa thông tin sai lệch, thiếu kiến thức pháp luật liên quan đến biên giới và chủ quyền quốc gia như vậy thì thật đáng lo ngại.
Minh Luật
*******************
Việt Nam viện trợ y tế cho Trung Quốc chống virus Corona (RFA, 31/01/2020)
Thủ tướng Việt Nam và Thường trực Chính phủ đã quyết định viện trợ hàng hóa vật dụng y tế trị giá 500 ngàn USD cho Trung Quốc để đối phó với dịch viêm phổi cấp do virus Corona gây ra.
Các nhân viên y tế trong một bệnh viện ở Vũ Hán hôm 30/1/2020. AFP
Ngoài ra, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam cũng đã vận động viện trợ hàng hóa trị giá 100 ngàn USD cho phía Trung Quốc. Đồng thời bảy tỉnh biên giới phía Bắc đã có những hình thức hỗ trợ cho phía Trung Quốc.
Truyền thông trong nước loan tin hôm 31/1cho biết trước đó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc của Việt Nam đã gọi điện thăm hỏi Thủ tướng Quốc vụ viện Lý Khắc Cường của Trung Quốc vào hôm 27/1.
Tin cho biết ông Phúc đã khẳng định Việt Nam sẵn sàng cùng Trung Quốc tích cực hợp tác trong việc chống lại dịch bệnh đang lây lan như hiện nay.
Trong cuộc họp Chính phủ hôm 30/1, Thủ tướng Việt Nam nêu rõ tình hình bùng phát dịch bệnh rất nhanh và nghiêm trọng. Ông Phúc cũng cho rằng Việt Nam đã chủ động, có biện pháp sớm và đang kiểm soát tốt tình hình dịch bệnh.
*****************
Việt Nam viện trợ Trung Quốc nửa triệu đô la để chống dịch corona (VOA, 31/01/2020)
Chính phủ Việt Nam hôm 31/1 cho biết đã quyết định viện trợ hàng hóa, vật dụng y tế trị giá khoảng 500.000 USD để "chia sẻ với Chính phủ và nhân dân Trung Quốc" hiện đang phải đối phó với dịch cúm lan rộng toàn cầu do virus corona gây ra.
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc và Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường.
Bên cạnh đó, Hội Chữ Thập Đỏ Việt Nam cũng vận động viện trợ hàng hóa cho Trung Quốc trị giá khoảng 100.000 USD, theo trang tin chính thức của chính phủ Việt Nam.
Ngoài ra, 7 tỉnh biên giới của Việt Nam tiếp giáp với Trung Quốc cũng được chỉ đạo "có các hình thức hỗ trợ giúp đỡ cho nhân dân Trung Quốc, nhất là các tỉnh ven biên giới hai nước".
Trước đó, hôm 27/1, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã gửi điện thăm hỏi tới Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường. Ông khẳng định Việt Nam sẵn sàng tích cực hợp tác với Trung Quốc "trong cuộc đấu tranh chống lại dịch bệnh này".
Việt Nam hiện được xem là một trong những nước có nguy cơ lây nhiễm dịch bệnh cao nhất vì có chung đường biên giới với Trung Quốc và nhiều hoạt động giao thương, qua lại giữa hai bên.
Trong bối cảnh dịch bệnh đang lan nhanh khiến cho Tổ chức Y tế Thế giới phải công bố tình trạng "khẩn cấp toàn cầu", nhiều người dân bày tỏ lo ngại khi Việt Nam vẫn tiếp tục các hoạt động thông thương với quốc gia láng giềng, mặc dù có hạn chế hơn.
Tuy nhiên, khi trả lời về ý kiến "đóng cửa biên giới" như một số các quốc gia khác đã làm, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh trong cuộc họp của chính phủ vào chiều 30/1 nói rằng vì Việt Nam và Trung Quốc có ký kết hiệp ước, cho nên nếu liên quan đến an ninh và dịch bệnh thì có thể đóng cửa "nhưng phải có thoả thuận giữa hai bên, chứ Việt Nam không thể đơn phương", theo Tuổi Trẻ.
Ông Minh cũng nói thêm rằng tình hình dịch bệnh tại Việt Nam "có lẽ chưa nên đặt vấn đề đóng cửa biên giới" vì "chưa đến mức đó".
Thay vào đó, Phó Thủ tướng Việt Nam đề nghị chính phủ xem xét các giải pháp như hạn chế, cấm du lịch, đi lại giữa hai bên ; tạm ngừng lưu thông hàng hoá qua các cửa khẩu đến ngày 10/2 ; hợp tác, chia sẻ thông tin, hỗ trợ giữa các nước trong ASEAN ; tăng cường sản xuất các công cụ y tế, khẩu trang, đồ bảo hộ ; và tuyên truyền để tránh không làm cho dân hoảng loạn.
Tính đến chiều 30/1, Việt Nam đã xác nhận 5 ca nhiễm virus corona. Trong đó, có 2 người Trung Quốc và 3 người Việt Nam trở về từ Vũ Hán, khu vực xuất phát dịch bệnh của Trung Quốc.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ngày 30/1 đã ký chỉ thị tăng cường các biện pháp phòng chống dịch corona, trong đó có việc tạm dừng các chuyến bay đến/đi từ các khu vực có dịch của Trung Quốc ; dừng cấp thị thực du lịch cho người Trung Quốc và người nước ngoài đang hoặc từng ở Trung Quốc trong hai tuần qua ; dừng hoạt động xuất nhập cảnh đi du lịch bằng giấy thông hành ở biên giới ; không đưa lao động Việt Nam sang Trung Quốc làm việc ; hạn chế các lễ hội tập trung đông người…
******************
Lãnh đạo Hải Phòng yêu cầu hạn chế tối đa đưa người cư trú ở Hồ Bắc và các tỉnh có nguy cơ lây nhiễm bệnh từ Trung Quốc tới Hải Phòng làm việc.
Tính đến 31/1 5 tỉnh thành tại Việt Nam đã thông báo tạm ngưng đón khách du lịch đến từ Trung Quốc (ảnh Minh họa) AFP - RFA edited
Thông tin trên được truyền thông Việt Nam loan vào ngày 31/1 trong cuộc họp giữa lãnh đạo Hải Phòng với các doanh nghiệp Trung Quốc, Đài Loan, Hong Kong về việc phòng, chống dịch nCoV.
Sở Y tế Hải Phòng trong cùng ngày cho biết có hai mẹ con từ Thành phố Hồ Chí Minh ra Hải Phòng bị nghi nhiễm dịch nCoV, đã được cách ly tại BV Hữu nghị Việt Tiệp.
Trước tình hình dịch coronavirus mới tại Trung Quốc có những diễn biến phức tạp, sau khi 3 địa phương tại Việt Nam gồm Đà Nẵng, Khánh Hòa, Lào Cai đã chính thức ngưng đón khách Trung Quốc vào ngày 28/1 ; thì trong ngày 31/1 lần lượt Quảng Ninh, Cần Thơ cũng công bố dừng đón khách Trung Quốc.
Cụ thể, Quảng Ninh tạm dừng xuất nhập cảnh đối với các đối tượng qua cửa khẩu Móng Cái (Việt Nam)- Đông Hưng (Trung Quốc), đồng thời đóng cửa tất cả các đường mòn, lối mở biên giới trên địa bàn. Tạm dừng hoạt động xe du lịch tự lái từ Trung Quốc đến Thành phố Hạ Long.
UBND tỉnh Quảng Ninh cũng yêu cầu các công ty du lịch không tổ chức đón đoàn khách tới tỉnh, thành đang có dịch và không đón khách du lịch từ vùng có dịch đến Quảng Ninh. Không đưa người sang Trung Quốc, không để người Quảng Ninh, đặc biệt là các địa phương biên giới sang lao động, làm việc tại các vùng có dịch của Trung Quốc.
Tại Cần Thơ, Giám đốc Sở Văn hóa thể thao và du lịch gửi văn bản yêu cầu các khách sạn tạm thời không nhận khách Trung Quốc. Tại Cần Thơ hiện có khoảng 20 khách du lịch đến từ Trung Quốc, trong đó có 4 du khách đến từ Vũ Hán chưa phát hiện dấu hiệu nhiễm nCoV, hiện đang lưu trú tại một khách sạn lớn tại đây và đang xin gia hạn visa để ở lại Việt Nam thay vì về lại Vũ Hán.
Cũng trong ngày 31/1, nhiều địa phương khác tại Việt Nam cũng đã lên phương án huy động cả hệ thống chính trị phòng, chống dịch như Bình Định, Hậu Giang, Hà Tĩnh... Trong đó, cửa khẩu quốc tế Cầu Treo, cảng Vũng Áng ở Hà Tĩnh là nơi có số lượng đông người Trung Quốc nhập cảnh vào Việt Nam.
Vào ngày 30/1, Ủy Ban Nhân dân tỉnh Lạng Sơn cũng quyết định tạm dừng cấp giấy thông hành xuất nhập cảnh cho người dân.
*******************
Dịch Corona : Việt Nam dừng các lễ hội chưa khai mạc, ngừng cấp thị thực cho khách từ Trung Quốc (RFA, 31/01/2020)
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc hôm 31/1 vừa ký ban hành chỉ thị mới yêu cầu dừng các lễ hội chưa khai mạc để tránh lây lan virus corona gây bệnh viêm phổi cấp.
Hình minh họa. Một người đàn ông đeo khẩu trang làm lễ tại một chùa ở Hà Nội hôm 30/1/2020 - AFP
Chỉ thị được ban hành sau khi Tổ chức Y tế Thế giới WHO tuyên bố tình trạng y tế khẩn cấp toàn cầu.
Theo số liệu cập nhật của Bộ Y tế Việt Nam, tính đến ngày 31/1, đã có 9.930 trường hợp nhiễm virus corona mới và 213 trường hợp tử vong. Phần lớn các trường hợp nhiễm virus là ở Trung Quốc. Hiện Việt Nam cũng đã phát hiện 5 trường hợp nhiễm bệnh và đã phải cách ly 97 trường hợp ở cả ba miền bắc, trung, nam.
Chỉ thị mới của Thủ tướng yêu cầu hạn chế tập trung đông người, tạm dừng các lễ hội chưa khai mạc, trường hợp đặc biệt phải có ý kiến của Thủ tướng ; giảm quy mô lễ hội đã tổ chức, yêu cầu người dân đeo khẩu trang tại nơi công cộng.
Thủ tướng cũng yêu cầu dừng cấp phép bay đối với tất cả các chuyến bay từ vùng có dịch của Trung Quốc đến Việt Nam và ngược lại trừ trường hợp đặc biệt phải được sự đồng ý của Thủ tướng ; Tạm dừng cấp thị thực du lịch cho khách nước ngoài, bao gồm cả khách Trung Quốc đang hoặc đã từng ở Trung Quốc trong 2 tuần qua.
Chỉ thị cũng yêu cầu các địa phương có đường biên giới với Trung Quốc lập kênh liên lạc với cấp địa phương của Trung Quốc để cập nhật thông tin hàng ngày.
Dịch viêm phổi cấp xẩy ra vào đúng dịp Tết Nguyên đán khi có nhiều lễ hội. Theo truyền thông trong nước, lễ hội Chùa Hương ở phía bắc hiện vẫn đang diễn ra và quy tụ nhiều người, làm dấy lên lo ngại bệnh dịch sẽ lây lan.
Nhiều người dân những ngày qua đã lên mạng kêu gọi chính phủ đóng cửa biên giới với Trung Quốc sau khi một số quốc gia khác đã chính thức tuyên bố đóng cửa biên giới là Bắc Hàn, Mông Cổ và Nga.
Tuy nhiên, Phó Thủ tướng – Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh được báo trong nước trích lời hôm 31/1 nói rằng việc đóng cửa biên giới với Trung Quốc chỉ được thực hiện khi có trường hợp khẩn cấp về an ninh, dịch bệnh và phải có sự đồng ý từ cả hai phía, theo hiệp ước biên giới giữa hai nước.
2019 : Bãi Tư Chính là 'cái bẫy' của Trung Quốc cài cho Việt Nam
Quốc Phương, BBC, 25/12/2019
Năm 2019, Việt Nam đã tránh được 'cái bẫy pháp lý' mà Trung Quốc cài khi đối đầu với Việt Nam ở bãi Tư Chính và vùng biển lân cận, theo một phân tích được đưa ra trong năm của một nhà quan sát an ninh Biển Đông của Việt Nam.
Chiến hạm Hải quân Nhân dân Việt Nam Trần Hưng Đạo đến cảng quân sự dự mọt cuộc tập trận quân sự giữa ASEAN-Trung Quốc 2018 hôm 21/10/2018 tại Trạm Giang, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.
"Cái bẫy pháp lý của người ta là người ta bảo là họ hoạt động vào khu vực ở bãi Tư Chính là một bộ phận của Nam Sa, quần đảo 'thuộc chủ quyền' Trung Quốc", Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban Biên giới Chính phủ Việt Nam nói với BBC trong một phỏng vấn về bang giao quốc phòng của Việt Nam vào quý cuối năm.
"Rõ ràng ở đây Tư Chính và các bãi ngầm nằm ở trên thềm lục địa của Việt Nam, nó chẳng liên quan gì đến vấn đề quần đảo mà họ gọi là Nam Sa cả, tức là quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
"Đây là những bãi ngầm mà chìm sâu dưới mặt nước, chỗ sâu nhất là phải đến 17 mét mặt nước. Thế thì điều đó nó không có ý nghĩa gì, nhưng mà nếu như chúng ta phản đối rằng Trung Quốc vi phạm chủ quyền của Việt Nam thì như vậy cái bẫy pháp lý của họ đã thành công.
"Nghĩa là anh thừa nhận rằng các bãi ngầm này là thuộc bộ phận của quần đảo Trường Sa".
Theo chuyên gia này, đây là một 'cái bẫy' tinh tế được Trung Quốc 'giăng ra' mà ngay cả giới nghiên cứu cũng có thể 'nhầm lẫn', nếu không thực sự chú ý.
"Điều này ngay cả những người nghiên cứu cũng bị nhầm lẫn, thực ra đây là một bãi cạn ngầm mà nằm trong thềm lục địa được gọi là trên bãi cạn Tư Chính, chứ thực ra vùng biển ở vùng thềm lục địa của nó mới chính là điều chúng ta cần lưu ý, chứ không phải là bãi cạn.
"Vì nó chẳng có ý nghĩa khác gì cả, có là một cấu trúc của thềm lục địa thôi. Đó chính là bẫy pháp lý.
"Hay là họ nói rằng vùng biển mà xung quanh bãi Tư Chính là vùng biển phụ cận liên quan, nhưng trong luật biển chẳng có thuật ngữ 'phụ cận liên quan' như họ nói như vậy là nói một cách mơ hồ để người ta nhầm tưởng.
Mạng xã hội ở Việt Nam 'đi đầu' trong chủ động phát hiện các thông tin liên quan yêu sách đường lưỡi bò được 'cài' vào nhiều hàng hóa, dịch vụ, hoạt động của Trung Quốc đưa vào Việt Nam, theo nhà quan sát
"Thì thực sự mà nói là bãi cạn này về mặt pháp lý, Công ước luật biển thì nó chẳng có ý nghĩa gì để mà nói là vùng biển cái gọi là 'phụ cận liên quan' cả, bởi vì nó là bãi cạn mà nằm trên thềm lục địa, nó lại nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam.
"Trung Quốc họ muốn nói như vậy, nếu chúng ta (Việt Nam) không cẩn thận, khi mà phản đối, khi nêu thực chất của vấn đề thì có thể họ dùng cái đó để nói rằng như vậy là Việt Nam đã đồng ý, hay là các nước có thể đồng ý với quan niệm yêu sách của Trung Quốc, đấy là vấn đề pháp lý của Trung Quốc mà họ đã giăng ra.
"Việt Nam vừa rồi tôi nghĩ đã không bị vướng vào cái bẫy pháp lý, bẫy của họ và nói rất rõ rằng việc vi phạm đó là vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam và vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán, không nói một cách chung chung như là 'chủ quyền lãnh hải' như là trước đây thường nói", Tiến sĩ Trần Công Trục nói.
Kịch tính, bị động, khó khăn ?
Bãi Tư Chính là một sự kiện quan trọng không phải chi cho năm nay, mà cho cả suốt 5 năm qua, một nhà quan sát chuyển động thời sự và truyền thông từ Hà Nội, nói với cuộc hội luận Bàn Tròn Thứ Năm cuối cùng của năm 2019.
"Sự kiện quan trọng và cực kỳ quan trọng không chỉ cho 2019, mà tôi cho là quan trọng nhất trong 5 năm qua, đó là vụ Bãi Tư Chính và vấn đề đường lưỡi bò, gọi là đường lưỡi bò", blogger Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh nêu nhận định hôm 19/12/2019.
"Hai cái này tôi phải nêu làm một, bởi vì là nó đều rất liên quan đến âm mưu của Trung Quốc thôn tính Biển Đông. Vụ Tư Chính kéo dài hơn ba tháng và nó lôi kéo sự quan tâm rất là lớn của nhân dân cả nước (Việt Nam) và quốc tế".
Nhìn sang 2020, nhà điểm báo, điểm tin thời sự này cho rằng vụ việc Tư Chính trên Biển Đông sẽ có thể tiếp tục là thách thức cân não "kịch tính" đối với chính quyền Việt Nam :
"Về bãi Tư Chính và Biển Đông, đây là vấn đề mà chính quyền Việt Nam có thể nói gần như là hoàn toàn bị động, bây giờ xem xem, chờ xem Trung Quốc sẽ hành xử như thế nào và khi đó họ sẽ đối phó như thế nào là điều rất khó khăn.
"Và cái đó họ (chính quyền Việt Nam) không thể dễ như năm vừa qua, tức là năm nay, đó sẽ là vấn đề kịch tính. Hoặc rất ít khả năng là Trung Quốc không làm gì, nhưng nhiều khả năng là có chuyện và có chuyện thì nó sẽ rất kịch tính và Việt Nam đối phó như thế là điều cực kỳ khó".
Một tàu cá Trung Quốc hoạt động trên Biển Đông, phía xa là các tàu tuần duyên của Trung Quốc (hình minh họa)
Bình luận về một tác động mà biến cố đối đầu ở bãi Tư Chính và các vùng biển lân cận trên Biển Đông gây ra với nội bộ Việt Nam trong năm 2019, nhà quan sát này nói :
"Đó là một điều cũng cho thấy rõ rằng người dân hiểu hơn về chính quyền và chính quyền cũng hiểu phần nào về người dân trong cái phản ứng với Trung Quốc.
"Tóm tắt chuyện này, tôi cho rằng đảng Cộng sản và chính quyền Việt Nam cho rằng là người dân cứ hãy yên tâm, yên trí là đảng và nhà nước rất sáng suốt, người dân không nên một chút nào là có những hoạt động riêng lẻ, mà nên tất cả mọi cái đều phải nằm trong sự hoạt động và tổ chức của nhà nước.
"Nhưng ngược lại, người dân cho rằng là rất nhiều động thái không thấy yên tâm và gây khó hiểu và thấy bí ẩn trong việc xử lý vấn đề bãi Tư Chính này.
"Rõ nhất là việc Trung Quốc quấy nhiễu như thế nào ngoài bãi Tư Chính cụ thể ra sao, hàng ngày như thế nào, rồi họ gây khó cho các tàu cảnh sát biển của chúng ta (Việt Nam) như thế nào, thì hoàn toàn báo chí không nêu gì cả. Ít nhất đó là một yếu tố mà người dân không thể nào hiểu nổi và không tin tưởng.
"Thứ hai nữa là một số phản ứng hoặc một số hoạt động có tính chất khoa học của những người rất có uy tín đối với cả chính quyền lẫn nhân dân thì lại bị một thái độ 'rất khó chịu' của chính quyền và thể hiện kể cả người lãnh đạo nhà nước cho đến báo chí của nhà nước cũng thể hiện là 'rất khó chịu' về những lời nói, cho đến những hoạt động như thế.
"Thì đấy là một hiện tượng không phải chỉ nằm trong chuyện chủ quyền và quan hệ Trung Quốc - Việt Nam mà nó còn thể hiện thêm nữa thái độ của chính quyền đối với nhân dân trong vấn đề biển đảo, trong vấn đề dân chủ. Và hai nữa là thể hiện thái độ của nhân dân đối với chính quyền trong vấn đề này, thì nó càng ngày càng rõ thêm vấn đề này".
Về điều được cho là cần quan tâm liên quan đến yêu sách chủ quyền bằng bản đồ đường chín đoạn, hay còn được gọi là 'đường lưỡi bò' và cách thức Trung Quốc tiếp cận trên thực tế và khoảng cách trong đối phó trong nội bộ giữa chính quyền và nhân dân Việt Nam, blogger Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh nhấn mạnh :
Yêu sách chủ quyền dựa trên bản đồ đường chín đoạn (đường lưỡi bò) gây tranh cãi của Trung Quốc trên Biển đông
"Vấn đề đường lưỡi bò liên quan như thế, rất là nhiều sản phẩm của Trung Quốc tìm mọi cách rất là 'nham hiểm', 'khôn khéo' để mà đưa vào Việt Nam và chính hiện tượng mà không khích lệ lòng yêu nước của nhân dân bằng chính những hoạt động của họ - là họ phải chủ động phát hiện, chủ động để bảo vệ, chủ động để phản biện với chính quyền những hiện tượng đáng nghi ngờ.
"Không khích lệ cái đó, thì chính nó đã làm cho bộ lộ rất nhiều hiện tượng mà Trung Quốc đã âm thầm đưa những cái hình đường lưỡi bò vào Việt Nam và may, rất may là trên mạng xã hội, người ta bất chấp những sự gọi là gây khó chịu và thậm chí đe dọa, nhưng người ta vẫn có mọi cách để người ta phát hiện.
"Và chính báo chí nhà nước và nhà nước nhờ mạng xã hội để biết được chuyện đó", cựu sĩ quan an ninh từng làm việc trước đây trong ngành Công an của Việt Nam nói.
'Làm mạnh, xâm lược mềm' ?
Gần đây, tin tức nói Việt Nam đã gián tiếp lưu ý Trung Quốc điều chỉnh thái độ và ngưng động thái gây căng thẳng trên Biển Đông khi Việt Nam cho hay nước này đảm nhi ghế Chủ tịch luân phiên Asean, tuy nhiên, có ý kiến trong giới quan sát an ninh, quân sự và chính trị khu vực cho rằng Trung Quốc sẽ có thể tiếp tục 'làm mạnh' và có thể 'đưa giàn khoan' vào vùng biển mà Việt Nam có chủ quyền.
"Có những khả năng và giả thuyết thực tế rằng Trung Quốc tiếp tục làm mạnh ở Biển Đông, đặc biệt là có khả năng họ sẽ đưa giàn khoan vào khoan thăm dò và thậm chí là khoan khai thác ở trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và vùng thềm lục địa của Việt Nam mà họ coi đấy là vùng tranh chấp với đường chín đoạn của họ, mà họ tuyên bố" Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu cao cấp khách mời thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (Iseas, Singapore) nói với BBC tại một tọa đàm Bàn tròn thứ Năm cuối năm.
Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Ngô Xuân Lịch và phái đoàn tiếp và làm việc với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ và phái đoàn tại Hà Nội cuối tháng 11/2019
"Đấy là những khả năng thực tế và khả năng ấy là khả năng cao".
Bình luận tại chỗ về nhận định này, nhà nghiên cứu chính trị và bang giao quốc tế, Giáo sư Ngô Vĩnh Long từ Đại học Maine, Hoa Kỳ nói với BBC :
"Trung Quốc tiếp tục gây hấn như chúng ta đều biết. Vấn đề bây giờ là các nước trong khu vực và các nước ngoài sẽ làm gì ?
"Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ gần đây không chỉ sang thăm Việt Nam mà cũng sang thăm Philippines và nói với Philippines rằng nước này là đồng minh của Mỹ và Bộ trưởng Quốc phòng của Mỹ gặp Bộ trưởng Quốc phòng của Philippines và đã khẳng định lại quan hệ giữa Mỹ và Philippines.
"Thì chúng ta thấy rằng hiện nay có một chiều hướng của Mỹ là thúc đẩy các nước trong khu vực lên tiếng mạnh mẽ và có lên tiếng mạnh mẽ thì Mỹ và các nước khác mới có thể ủng hộ được.
"Mà ở đây vấn đề tôi thấy rất là lạc quan là bởi vì Việt Nam đã không những tuyên bố sẽ đem vấn đề Biển Đông ra Asean để đàm phán hay là để cho mọi người chú ý, mà cũng sẽ đem vấn đề Việt Nam ra trước Liên Hợp Quốc.
"Mà tôi nghĩ nếu Việt Nam đưa vấn đề Biển đông ra Liên Hợp Quốc thì Mỹ và các nước khác sẽ vận động ủng hộ Việt Nam".
Trước thông tin Việt Nam có thể 'kiện' Trung Quốc ra tòa quốc tế, Giáo sư Ngô Vĩnh Long bình luận thêm :
"Nói như vậy, có lẽ làm những nước quan tâm phấn khởi khi Việt Nam lần đầu tiên lên tiếng mạnh mẽ hơn là lúc trước".
Trở lại với khả năng Trung Quốc có thể làm gì tiếp theo trong năm mới 2020 ở trên Biển Đông, tại các khu vực mà Việt Nam quan tâm, Tiến sĩ Trần Công Trục với cái nhìn từ cuối năm 2019, đưa ra dự phóng :
"Hiện nay mà nói, để mà có thể xác định vị trí nào cụ thể thì rất khó, bởi vì Trung Quốc như đã biết thì họ đưa ra một yêu sách chiếm hầu hết Biển Đông rồi.
"Thì bất kỳ điểm nào mà nằm trong yêu sách đường lưỡi bò thì họ đều có thể sẽ tính họ làm, tùy thuộc vào tình huống, tùy thuộc vào thái độ của các nước có liên quan ở khu vực từ đó đến nay và tùy thuộc vào tình hình quốc tế, quan hệ quốc tế và thái độ của các nước trong việc lên tiếng đối với hoạt động đó của Trung Quốc để họ làm.
Người biểu tình Việt Nam xuống đường phản đối Trung Quốc ở trung tâm thành phố Hồ Chí Minh hôm 11/5/2014, sau khi Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 vào vùng biển Việt Nam tuyên bố và thực thi chủ quyền
"Tôi nghĩ là như vậy, (Trung Quốc) có thể tiến hành ngay khu vực thềm lục địa, trên vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam như trước đây, hoặc là trong vùng quần đảo Trường Sa của Việt Nam, hay là vùng thềm lục địa của Malaysia hay là của Philippines.
"Tất cả những vị trí đó có thể có khả năng xảy ra, chứ bây giờ không thể nói chính xác được, nhưng cách làm của họ, theo tôi nghĩ là ở giai đoạn hiện nay, thời buổi hiện nay, có lẽ họ sẽ sử dụng các hoạt động mang tính chất như là kinh tế, khoa học - kỹ thuật.
"Nhưng theo nhiều người nói đây là họ tổ chức cuộc 'xâm lược mềm', họ không dùng vũ lực như trước đây để mà xâm chiếm nữa, mà họ sẽ sử dụng những biện pháp về mặt kinh tế, về mặt dân sự về mặt khoa học - kỹ thuật để họ giành lấy trên thực tế yêu sách của họ.
"Nếu như các nước không có một sự cảnh giác cần thiết, không có một biện pháp cần thiết, thì như vậy có thể là một cách mà họ muốn chấp nhận yêu sách của họ, từ yêu sách đó, so với đàm phán, họ muốn các hợp tác cùng khai thác với Trung Quốc, mà loại bỏ những hoạt động khác khai thác, hợp tác với các nước khác.
"Ví dụ như vậy cũng là một cái cách và tôi nghĩ họ sẽ tiến hành làm", Tiến sĩ Trần Công Trục đưa ra dự đoán với BBC trong một phỏng vấn cuối năm hôm 21/11 từ Hà Nội.
Quốc Phương
Nguồn : BBC, 25/12/2019
********************
Trung Quốc sẽ tiếp tục gây sức ép lên Việt Nam trong năm 2020
RFA, 23/12/2019
Trung Quốc sẽ tiếp tục gây sức ép lên Việt Nam trong hoạt động khai thác dầu khí năm 2020
Trung Quốc có nhiều khả năng sẽ tiếp tục gây sức ép lên Việt Nam nếu công ty Rosneft nối lại hoạt động khai thác dầu khí ở Biển Đông trong năm 2020, theo nhận định của một chuyên gia quốc tế về tình hình khu vực, đưa ra nhân dịp cuối năm 2019.
Hình minh họa. Hình chụp hôm 1/6/2014 từ tàu Cảnh sát biển Việt Nam cho thấy tàu hải cảnh của Trung Quốc dang đuổi tàu Việt Nam gần giàn khoan dầu HD 981 ở Biển Đông - AFP
Trong bài phân tích hôm 16/12, Giáo sư Carl Thayer thuộc Học viện Quốc phòng Úc nhận định :
"Năm 2020 sẽ rất quan trọng. Nếu (công ty) Rosneft Vietnam nối lại hoạt động khai thác tại lô dầu khí của công ty thì (công ty) sẽ có nguy cơ bị các tàu hải cảnh của Trung Quốc quấy nhiễu".
Theo giáo sư Carl Thayer : "Trong năm 2020, chúng ta sẽ có khả năng thấy sự tiếp tục của những nỗ lực từ phía Trung Quốc để gây sức ép lên các quốc gia ven Biển Đông để ngưng hoặc chấm dứt các hoạt động của các tàu khai thác dầu của nước ngoài".
Từ tháng 5 đến tháng 10 năm nay, Trung Quốc đã điều hàng chục tàu hải cảnh, dân binh và khảo sát vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước Malaysia và Việt Nam, quấy nhiễu các hoạt động khai thác dầu khí ở hai nước.
Từ giữa tháng 6, Trung Quốc đã điều các tàu hải cảnh vào vùng thềm lục địa Việt Nam, quấy nhiễu hoạt động hậu cần phục vụ giàn khoan dầu ở lô 06 - 01 thuộc công ty liên doanh giữa Nga và Việt Nam là Rosneft Vietnam. Theo báo cáo của Minh Bạch Hàng Hải (một trang chuyên theo dõi về an ninh biển), tàu hải cảnh của Trung Quốc đã có lúc đi rất sát, gây nguy hiểm cho tàu hậu cần phục vụ giàn khoan dầu của Việt Nam.
Từ khoảng đầu tháng 7, Trung Quốc cũng điều hàng chục tàu bao gồm hải cảnh, dân binh và tàu khảo sát Hải Dương 8 vào khu vực phía bắc Bãi Tư Chính của Việt Nam. Tàu khảo sát Hải Dương đã có lúc chỉ còn cách bờ biển Phát Thiết ở miền trung của Việt Nam khoảng 185 km, tức là trong vòng 200 hải lý thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, căn cứ theo luật quốc tế.
Vị trí giàn khoan Hakuyru 5, tàu hải cảnh của Trung Quốc và tàu chấp pháp của Việt Nam gần lô 06 - 01 Courtesy of AMIT – Hình minh họa
Hôm 24/10, Trung Quốc tuyên bố rút tàu thăm dò Hải Dương 8 khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam sau khi có thông tin giàn khoan Hakuryu 5 phục vụ lô 06 - 01 đã được rút đi sau khi hoàn thành nhiệm vụ.
Theo Giáo sư Carl Thayer, trong năm 2020 : "Các tàu khảo sát của Trung Quốc sẽ không xin phép khi vào vùng nước mà Trung Quốc đòi chủ quyền. Điều này cho thấy là Trung Quốc đòi quyền đưa tàu khảo sát vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam bất cứ khi nào Trung Quốc muốn".
Vào khi quan hệ giữa Hà Nội và Bắc Kinh căng thẳng, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng đã lên tiếng khẳng định Trung Quốc có chủ quyền đối với toàn bộ vùng nước ở Bãi Tư Chính. Trung Quốc coi vùng nước này thuộc khu vực quần đảo Trường Sa mà nước này đòi chủ quyền toàn bộ.
"Kể từ tháng 5 năm nay, phía Việt Nam đã đơn phương thực hiện việc khoan tìm khí đốt ở vùng nước ở Wan'an Tan (Bãi Tư Chính) của Trung Quốc, điều này đã vi phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích của Trung Quốc. Nó cũng vi phạm thỏa thuận song phương về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết các vấn đề trên biển giữa Trung Quốc và Việt Nam, điều 5 của Tuyên bố chung của các bên ở Biển Đông (DOC), và các điều khoản liên quan trong UNCLOS (Công ước về luật biển của Liên Hiệp Quốc). Việt Nam nên ngay lập tức dừng các hoạt động vi phạm đơn phương để lập lại sự yên tĩnh tại vùng nước liên quan", ông Cảnh Sảng phát biểu trước các phóng viên ở Bắc Kinh hôm 18/9.
Giáo sư Carl Thayer, trong bài viết của mình hôm 16/9 cũng nhận định, Trung Quốc sẽ tiếp tục huy động sự có mặt thường xuyên của các tàu chiến, hải cảnh, dân binh và tàu cá ở khu vực Biển Đông.
"Trung Quốc sẽ tiếp tục thực hiện những tuần tra khẳng định chủ quyền tại những vùng nước mà đường đứt khúc 9 đoạn đi qua chồng lên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các quốc gia ven biển", giáo sư Carl Thayer viết.
Đường đứt khúc 9 đoạn của Trung Quốc đòi chủ quyền đến khoảng 90% diện tích khu vực Biển Đông, bao gồm cả hai quần đảo đang tranh chấp với các nước là Hoàng Sa và Trường Sa. Tòa Trọng tài Quốc tế ở The Hague, trong một phán quyết vào năm 2016, đã bác bỏ tính hợp lệ của đường đứt khúc này. Tuy nhiên, Bắc Kinh không chấp nhận phán quyết của tòa.
Không những thế, Giáo sư Carl Thayer cũng nhận định, trong năm 2020, Trung Quốc sẽ vẫn tiếp tục "quân sự hóa các đảo nhân tạo theo từng bước một, tiến hành nhữn cải tiến về chất lượng đối với các hệ thống vũ khí (trên các đảo)".
Từ khoảng cuối năm 2014, Trung Quốc đã tiến hành xây lấp các đảo nhân tạo ở Biển Đông và triển khai vũ khí ra các đảo này, bất chấp phản đối của quốc tế.
Theo đánh giá của chuyên gia Greg Poling, Giám đốc Sáng Kiến Minh Bạch Hàng Hải (AMTI), việc xây lấp các đảo nhân tạo đã giúp Trung Quốc gây sức ép lên các nước khác và duy trì sự hiện diện của các tàu nước này tại các vùng biển xa.
"Việc xây dựng các cơ sở quân sự ở Trường Sa đã cho phép Bắc Kinh có thể triển khai tàu. Họ có thể triển khai tàu hải cảnh và thậm chí tàu dân quân biển đến các nơi và thường trực ở đó 24 giờ một ngày, 7 ngày một tuần trong toàn bộ khu vực nằm trong đường đứt khúc 9 đoạn. Họ có thể liên tục gây sách nhiễu theo cách mà họ đã không thể làm được vào năm 2015".
Trong năm 2020, Trung Quốc được cho là cũng sẽ thúc đẩy việc hoàn tất các vòng tham vấn về Bộ Quy tắc về ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC). Bắc Kinh trước đó đã đưa ra một khung thời gian để hoàn thành các vòng tham vấn này vào năm 2021.
Theo đánh giá của Giáo sư Carl Thayer, việc Bắc Kinh hối thúc các nước ASEAN hoàn tất các vòng tham vấn COC là khiến "các nước ASEAN sẽ có ít thời gian để mặc cả với Trung Quốc về các vấn đề còn tranh cãi như phạm vi địa lý, liệu COC có tính ràng buộc về pháp lý hay không, các tranh chấp sẽ được giải quyết thế nào, và việc giải quyết các tranh chấp sẽ được thực hiện ra sao, và vai trò của các bên thứ ba".
Trong đề nghị về COC, Bắc Kinh cũng muốn loại bỏ việc tham gia khai thác dầu khí của các công ty ngoài khu vực tại Biển Đông.
Năm 2020, Việt Nam sẽ là Chủ tịch luân phiên của ASEAN. Đây được cho là cơ hội nhưng cũng là một thách thức đối với Việt Nam. Năm 2010, khi là Chủ tịch luân phiên của ASEAN, Hà Nội đã thành công trong việc khiến Mỹ lên tiếng khẳng định quyền lợi của Mỹ ở Biển Đông ngay tại diễn đàn ASEAN. Lần này, theo Giáo sư Carl Thayer, Hà Nội có cơ hội tham vấn với các thành viên ASEAN, định hình nghị trình và kết quả các cuộc gặp của ASEAN và đưa ra tuyên bố của quốc gia chủ tịch. Mặc dù vậy thách thức cho Việt Nam là nguyên tắc đồng thuận của ASEAN trong mọi vấn đề. Đây cũng cũng chính là nguyên tắc khiến ASEAN có lúc đã không thể đưa ra được các tuyên bố chung, nhất là khi nói đến các hành động lấn lướt của Trung Quốc ở Biển Đông.
Nguồn : RFA tiếng Việt, 23/12/2019
Đại sứ Phạm Sao Mai : Việt Nam luôn ghi nhớ sự hỗ trợ của Trung Quốc trong sự nghiệp giải phóng dân tộc (RFA, 21/12/2019)
Hôm 19/12/2019, phát biểu tại buổi lễ kỷ niệm 75 năm thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam tại Bắc Kinh, ông Đại sứ Phạm Sao Mai phát biểu, điểm lại chặng đường hình thành và phát triển của Quân đội Nhân dân Việt Nam, qua đó bày tỏ lòng biết ơn Trung Quốc.
Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh trao Quyết định cho Đại sứ Phạm Sao Mai, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước CHxã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa kiêm nhiệm Micronesia. Courtesy of dangcongsan.vn - Hình minh họa.
Tạp chí thông tin đối ngoại dẫn lời Đại sứ Phạm Sao Mai khẳng định, để có được những chiến thắng huy hoàng đó, bên cạnh sự đấu tranh anh dũng hy sinh đầy gian khổ, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã nhận được sự giúp đỡ to lớn của quân đội và nhân dân các nước anh em, bè bạn.
Trong đó có sự ủng hộ, hỗ trợ của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam.
"Đảng, Nhà nước, nhân dân và Quân đội Nhân dân Việt Nam luôn ghi nhớ, trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ quý báu này", TTXVN dẫn lời Đại sứ vừa nhậm chức vào tháng 11 năm nay nêu rõ.
Hồi tháng 4, chính quyền Việt Nam cũng tổ chức lễ tưởng niệm cho các binh sĩ Trung Quốc tử trận ở Việt Nam trong chiến tranh với Mỹ.
Một quan chức địa phương ở tỉnh Thái Nguyên khi đó bày tỏ : "Những anh hùng đó đã hy sinh tại Việt Nam để giành độc lập cho đất nước chúng ta, vì hòa bình thế giới. Việc chăm sóc phần mộ của họ là cách mà chúng tôi thể hiện lòng tri ân và kính trọng những gì họ đã làm".
Tân Hoa Xã dẫn thông tin từ Đại sứ quán Trung Quốc nhắc lại rằng, trong chiến tranh, Bắc Kinh cử hơn 320 ngàn lính thuộc quân đội giải phóng nhân dân Trung Hoa sang Việt Nam chiến đấu, giúp bảo vệ độc lập theo yêu cầu của đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó hơn 1400 binh sĩ Trung Quốc đã ngã xuống trên đất Việt Nam.
******************
Facebook gỡ hàng loạt tài khoản giả 'chống cộng, phò Trump' của Đại Kỷ Nguyên (BBC, 21/12/2019)
Facebook mới đây công bố đã xóa hơn 900 tài khoản, nhóm và trang nội dung trên Facebook và Instagram mà họ cho là sử dụng tài khoản giả để tạo ra các chiến dịch bóp méo thông tin ở quy mô lớn, bao gồm việc đăng các ảnh đại diện giả được tạo ra bằng trí tuệ nhân tạo.
Ảnh chụp màn hình thông tin trên trang Đại Kỷ Nguyên trong nghiên cứu cửu Facebook
Theo New York Times, những người đứng sau mạng lưới này gồm 610 tài khoản Facebook, 89 trang Facebook, 156 nhóm và 72 tài khoản Instagram đăng các tin tức về chính trị Mỹ, bao gồm luận tội Tổng thống Trump, tư tưởng bảo thủ, ứng cử viên chính trị, thương mại và tôn giáo.
Forbes dẫn lời Facebook, rằng các tài khoản, nhóm và trang nội dung này liên quan đến một mạng được gọi là Vẻ đẹp Cuộc sống (The Beauty of Life - BL). "Các tài khoản đáng ngờ này thường thúc đẩy một thông điệp chống cộng, ủng hộ Trump trên hàng trăm tài khoản và trang nội dung", Forbes viết.
Theo đó, Facebook cho biết điều tra của họ cho thấy BL là một nhánh của nhà cung cấp nội dung Đại Kỷ Nguyên (The Epoch Times) có trụ sở tại Hoa Kỳ với các cá nhân tại Việt Nam đang làm việc thay mặt cho họ.
Facebook nói rằng họ đã làm việc với các nhà nghiên cứu độc lập của nhóm nghiên cứu Graphika và Phòng thí nghiệm nghiên cứu pháp y kỹ thuật số (DFRLab) của Hội đồng Đại Tây Dương trước khi có biện pháp mạnh tay với mạng lưới người dùng, trang và nhóm giả mạo này.
Báo cáo chung dài 39 trang của Facebook và nhóm nhà nghiên cứu nói trên được công bố hôm 20/12, cho hay : "Việc tập trung mạnh vào ủng hộ Tổng thống Trump từ các trang được quản lý tại Việt Nam cũng có thể cho thấy mong muốn đẩy mạnh các thông điệp ủng hộ Trump trong suốt cuộc bầu cử năm 2020".
Facebook cho biết Tập đoàn truyền thông Epoch, chủ của Đại Kỷ Nguyên, đã chi 9,5 triệu đô la cho quảng cáo truyền bá nội dung thông qua các trang tin và nhóm hiện đang bị cấm hoạt động trên Facebook. Tập đoàn này phủ nhận mọi cáo buộc.
"Tập đoàn truyền thông Epoch không có liên hệ gì với trang web BL", chủ tịch tập đoàn, ông Stephen Gregory cho biết trong một tuyên bố vào thứ Sáu. "Đại Kỷ Nguyên và các công ty truyền thông BL không liên kết với nhau. BL được lập ra bởi một nhân viên cũ và sử dụng một số nhân viên cũ của chúng tôi".
Nghiên cứu nói gì ?
Một trong số các điểm chính mà nghiên cứu của Facebook và các nhà khoa học chỉ ra bao gồm việc nhiều nhóm (trên Facebook và Instagram) tập trung vào chính trị Mỹ nhưng một phần hoặc chủ yếu được quản lý từ Việt Nam.
Vẻ đẹp Cuộc sống (BL) là một nhà cung cấp nội dung online mà họ tự mô tả là tập trung vào sứ mệnh "mang tới thế giới những khía cạnh tươi đẹp nhất của cuộc sống" với ba trang chính bằng tiếng Anh trên Facebook, ngoài ra còn có các trang bằng tiếng Trung, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha.
Nội dung ở mạng lưới này khá đa dạng, trong đó có một số trang BL tập trung hơn và chính trị, Trung Quốc và Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Các nội dung chống Trung Quốc được đưa tin rộng rãi bằng nhiều thứ tiếng. Trong khi các trang bằng tiếng Anh thì nặng về đưa tin ủng hộ Trump và lôi kéo gần 100 nhóm có các tên gọi ủng hộ Trump.
Các trang này cũng đưa tin có nội dung tấn công các đối thủ và những người phản đối Trump.
Facebook cho hay họ có 'động thái' với BL không phải vì các nội dung đăng tải trên trang này, mà vì các hành vi liên kết không trung thực.
Và theo một cách nào đó, sự kết hợp giữa nội dung 'phò Trump, chống cộng' này rất phù hợp với đường lối của Tập đoàn Truyền thông Epoch, chủ của Đại Kỷ Nguyên, nghiên cứu cho hay. BL và Tập đoàn Truyền thông Epoch cũng có sự tương đồng về nhân sự và kỹ thuật.
Cả Đại Kỷ Nguyen và BL đều phủ nhận có liên quan đến nhau, nhưng Facebook cho hay : Mặc dù những người đứng sau mạng lưới này đã cố gắng che giấu danh tính và sự phối hợp của họ, điều tra của chúng tôi đã kết nối hoạt động này với Epoch Media Group, một tổ chức truyền thông có trụ sở tại Hoa Kỳ và các cá nhân ở Việt Nam làm việc thay mặt họ.
Đại Kỷ Nguyên Việt Nam
Đại Kỷ Nguyên lọt vào 'tầm ngắm' của Facebook
Facebook đã gỡ hàng loạt trang tiếng Việt trực tiếp liên kết với Thời báo Đại Kỷ Nguyên. Trong đó có một trang gần 9 triệu người theo dõi được gọi là Đại Kỷ Nguyên - EpochTimes Việt Nam ; một trang khác, 12,6 triệu người theo dõi, được gọi là Đại Kỷ Nguyên. Một trang nữa là Đại Kỷ Nguyên Văn hóa.
Các trang này đều liên kết với Epoch Times (tiếng Anh) và BL.
Các trang bằng tiếng Việt này đưa thông tin với nội dung phong phú từ văn hóa, thể thao tới chính trị. Với những bài về chính trị Mỹ, khi được dịch ra, ngôn ngữ được sử dụng trên các trang này có vẻ trung lập, cố gắng không đứng về phe nào. Nhưng bài báo mà các nội dung này liên kết đến thì vô cùng thiên lệch, mang nặng tính đảng phái, nghiên cứu của Facebook cho hay.
Những bài về chính trị Mỹ nghiêng về ủng hộ Trump. Ví dụ các tiêu đề bài báo chính ngày 19/12/2019 trên trang là về việc ông Trump gây quỹ 5 triệu đô là vào ngày luận tội ông, sử dùng nguồn tin là trang ủng hộ Trump có tên Breitbart. Đồng thời đăng các tin nhắc đi nhắc lại tweet của ông Trump rằng vụ luận tội là tồi tệ và rằng ông không làm gì sai.
Ngày càng có nhiều người Trung Quốc nắm vị trí đứng đầu các tổ chức quản lý lớn trên toàn cầu, mà gần đây nhất là trường hợp ông Khuất Đông Ngọc (Qu Dongyu) được cử lên lãnh đạo Tổ Chức Lương Nông Liên Hiệp Quốc FAO vào tháng 06/2019. Theo phân tích của chuyên gia Edouard Tetreau trên nhật báo kinh tế Pháp Les Echos ngày 27/11/2019, sự kiện đó rõ ràng là kết quả của một kế hoạch được vạch ra từ lâu, thế nhưng chỉ gần đây thôi mới được Phương Tây chú ý. Đối với tác giả, phương Tây cần phản ứng nhanh chóng, vì nếu chậm trễ, tất cả các định chế điều hành thế giới sẽ bị Bắc Kinh thâu tóm.
Tân tổng giám đốc FAO người Trung Quốc Khuất Đông Ngọc (Qu Dongyu) đã được bầu lên ngày 23/06/2019 tại Roma (Ý). Vincenzo PINTO/AFP
Tác giả bài phân tích trước hết nêu bật vai trò của 4 định chế quốc tế đang có lãnh đạo là người Trung Quốc : từ FAO, ITU, cho đến ICAO và UNIDO. Đây là 4 trong tổng số 15 cơ quan, tổ chức Liên Hiệp Quốc, trong đó còn có các định chế nổi tiếng hơn như Ngân Hàng Thế Giới WB, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế IMF, Tổ Chức Y Tế Thế Giới WHO.
ITU, FAO, ICAO, UNIDO : Các định chế có giá trị chiến lược
Liên Minh Viễn Thông Quốc Tế ITU là tổ chức lâu đời nhất trong số các tổ chức này. Thành lập từ năm 1865, trụ sở tại Genève, Thụy Sĩ, định chế này đã được sát nhập vào Liên Hợp Quốc vào năm 1947. Trong thế kỷ hai mươi mốt này, vai trò của ITU được cho là rất quan trọng, vì tổ chức này có trách nhiệm điều tiết và quy hoạch màng viễn thông trên thế giới. Thẩm quyền của Liên Minh Viễn Thông Quốc Tế bao trùm hành tinh, từ việc quy định các chuẩn mực, phân bổ các tần số vô tuyến điện và các quỹ đạo vệ tinh trên không gian, cho đến những vấn đề liên quan đến truy cập Internet và Internet băng thông rộng, liên lạc hàng hải và hàng không…
Tổ Chức Lương Nông Liên Hiệp Quốc FAO, có trụ sở tại Roma (Ý), cũng có trách nhiệm quy định các tiêu chuẩn toàn cầu và ban hành các quy định quốc tế trong một lĩnh vực thậm chí còn rộng lớn hơn cả viễn thông : nông nghiệp và lương thực thực phẩm. Nguồn lực của định chế này rất đáng kể, với hơn 10.500 nhân viên có nhiệm vụ hỗ trợ kỹ thuật cho các nước đang phát triển, điều hòa các tiêu chuẩn trong các lĩnh vực dinh dưỡng, nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản…
Tổ Chức Hàng Không Dân Dụng Quốc Tế ICAO cũng rất quan trọng vì là cơ chế tạo ra các chuẩn mực quốc tế thống nhất áp dụng cho mọi nước trong lĩnh vực hàng không dân sự. Đặt trụ sở tại Montreal, ICAO đảm trách việc tiêu chuẩn hóa ngành vận tải hàng không quốc tế, ấn định mã sân bay, mã công ty hàng không, cấp bằng cho các nhân viên hàng không, chia sẻ tần số vô tuyến… Nói tóm lại, ICAO có trách nhiệm giám sát trên khoảng 100.000 chuyến bay quốc tế hàng ngày.
Riêng Tổ Chức Phát Triển Công Nghiệp Liên Hiệp Quốc UNIDO, có trụ sở tại Vienna, là một định chế sinh sau đẻ muộn, chỉ mới được thành lập vào năm 1966. Tổ chức này có mục tiêu thúc đẩy nền công nghiệp của các nước đang phát triển.
Quan chức cao cấp của Bắc Kinh qua nắm các định chế Liên Hiệp Quốc
Chuyên gia Edouard Tétreau nhấn mạnh : Đó là bốn định chế quốc tế có tầm quan trọng chiến lược, với phạm vi hoạt động khác nhau, nhưng có một điểm chung : Lãnh đạo là người Trung Quốc, xuất thân từ chính quyền Bắc Kinh.
Khuất Đông Ngọc (Qu Dongyu) là thứ trưởng bộ nông nghiệp Trung Quốc trước khi qua làm việc tại Tổ Chức Lương Thực và Nông Nghiệp Liên Hiệp Quốc FAO vào năm 2015. Chỉ vài năm sau, nhân vật này đã được bầu làm tổng giám đốc tổ chức này vào tháng 6 năm 2019, sau một trận chiến tranh giành ảnh hưởng gay gắt, chống lại các ứng cử viên từ châu Âu và Hoa Kỳ.
Triệu Hậu Lân (Houlin Zhao) đứng đầu Cục Tiêu Chuẩn Viễn Thông Trung Quốc trước khi gia nhập Liên Minh Viễn Thông Quốc Tế ITU vào năm 2015, và đến năm 2018 là được lên làm lãnh đạo.
Tương tự như vậy, bà Liễu Phương (Fang Liu) nguyên là người đứng đầu ngành hàng không dân dụng Trung Quốc, đã được cử qua làm việc tại Tổ Chức Hàng Không Dân Dụng Quốc Tế ICAO vào năm 2007. Bà đã lên làm lãnh đạo tổ chức này vào năm 2015.
Còn ông Lí Dũng (Li Yong) là thứ trưởng tài chính của Trung Quốc trước khi qua lãnh đạo UNIDO từ năm 2013.
Kế hoạch tỉ mỉ, được chuẩn bị từ lâu
Theo ghi nhận của Edouard Tétreau, đà thăng tiến của các nhân vật Trung Quốc nói trên hoàn toàn không có gì là ngẫu nhiên, mà là kết quả của cả một kế hoach được vạch ra một cách tỉ mỉ.
Chiến lược của Trung Quốc là gửi các cán bộ chính trị và hành chính xứng đáng và năng nổ nhất của họ qua "nằm vùng" trong các cơ quan quản lý toàn cầu mà Bắc Kinh đánh giá là có giá trị chiến lược nhất cho họ, rồi chờ dịp là lên giành chức lãnh đạo. .
Ở New York, nơi đặt trụ sở Liên Hiệp Quốc, giới ngoại giao và chuyên gia ngày càng có thái độ quan ngại trước cách làm của Trung Quốc, vì lẽ Bắc Kinh hầu như đã dùng mọi phương cách để đạt được mục tiêu.
Thủ đoạn gây sức ép và hù dọa
Một chuyên gia phân tích thừa nhận : "Chúng tôi không đánh lại được Trung Quốc. Họ gửi hàng chục cộng tác viên qua làm việc miễn phí cho các tổ chức vốn bị ràng buộc chặt chẽ về ngân sách".
Một số quan sát viên khác thì đề cập đến những thủ đoạn "gây áp lực", "dọa nạt" nhắm vào các quốc gia được Trung Quốc trợ giúp tài chính, nhưng lại muốn thúc đẩy các ứng cử viên khác.
Những cách làm bị cho là "bất minh" này rất mới đối với một quốc gia được cho là luôn chú ý đến các quy tắc và thông lệ của ngoại giao thế giới, đã tạo nên những mối lo ngại chính đáng.
Loạt đơn kiện về tội vu khống được tập đoàn Trung Quốc Hoa Vi tung ra gần đây nhắm vào các nhà nghiên cứu nổi tiếng của Pháp là một phần trong số thủ đoạn dọa nạt đó.
Các hành động đó cho thấy rõ là Trung Quốc đặt lên hàng ưu tiên chiến lược việc kiểm soát của các tổ chức quản lý toàn cầu cũng như việc triển khai khắp thế giới đại tập đoàn viễn thông của họ vốn do một cựu sĩ quan quân đội Trung Quốc, một đảng viên Cộng Sản thành lập.
Phương Tây nên thức tỉnh
Đối với tác giả bài phân tích, Trung Quốc đang cố sức giành quyền kiểm soát những lãnh vực sẽ nhào nặn tương lai của thế giới : từ các chuẩn mực, hệ thống phân phối, cho đến các hạ tầng cơ sở nông sản thực phẩm, công nghiêp kỹ thuật số, hàng không, vũ trụ và viễn thông. Trong khi đó thì phương Tây dường như chỉ chú ý đến vấn đề tiền bạc hay những thứ phù phiếm.
Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế hiện do một người Bulgari lãnh đạo, Ngân Hàng Thế Giới thì trong tay một người Mỹ. Ngoài ra còn có một người Phần Lan nắm Tổ Chức Khí Tượng Thế Giới, một người Gruzia phụ trách Tổ Chức Du Lịch Thế Giới, và một người Pháp nắm cơ quan văn hóa UNESCO.
Tác giả kết luận : Tình hình không bao giờ là quá muộn, và kết cục không phải lúc nào cũng tồi tệ. Thế nhưng, nếu phương Tây vẫn còn mất đoàn kết, vẫn tiếp tục đấu tranh vì quá khứ, mà từ bỏ các chủ đề của tương lai để chúng lọt vào tay Trung Quốc, thì quả đúng là tương lai của thế giới sẽ được viết bằng tiếng Hoa.
Trọng Nghĩa
Trên trang Asia Times ngày 15/11/2019, nhà báo Bertil Lintner nhận định : "Việt Nam và Trung Quốc sẽ không bao giờ đồng thuận về Biển Đông" (1). Những lý do được nhà báo Thụy Điển đưa ra, có thể được tóm lược trong bốn ý chính, nhấn mạnh đến thái độ coi thường luật pháp quốc tế, thiếu trung thực của Trung Quốc, cũng như hành vi cậy lớn ăn hiếp các nước nhỏ trong vùng.
Không quân Trung Quốc luyện tập bắn đạn thật ở Biển Đông. Ảnh do báo Japan Times chụp lại trên truyền hình Trung Quốc ngày 29/09/2018. Capture d'image www.japantimes.co.jp
UNCLOS 1982 : Trung Quốc ký nhưng từ chối áp dụng
Lý do đầu tiên là bất đồng về việc áp dụng luật pháp quốc tế, cụ thể là Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, mà cả Việt Nam và Trung Quốc cùng ký.
Trong hội thảo quốc tế về Biển Đông lần thứ 11, với chủ đề "Hợp tác vì An ninh và Phát triển khu vực", diễn ra tại Hà Nội ngày 06-07/11/2019, thứ trưởng Ngoại Giao Việt Nam Lê Hoài Trung cho rằng những xung đột gần đây ở bãi Tư Chính, thuộc vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, cần được giải quyết theo Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. Hà Nội không loại trừ khả năng đưa vụ việc ra Tòa Trọng Tài Thường trực La Haye.
Ngay ngày 08/11, Bắc Kinh gia tăng sức ép đối với Hà Nội, thông qua phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc Cảnh Sảng (Geng Shuang), khi đe dọa Việt Nam "phải tránh đưa ra những biện pháp làm phức tạp thêm tình hình hoặc gây hại đến hòa bình và ổn định ở Biển Đông, cũng như đến quan hệ song phương". Trơ trẽn hơn, ông Cảnh Sảng còn khuyến cáo Việt Nam "phải đối mặt với thực tế lịch sử", có nghĩa là phải chấp nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với toàn bộ Biển Đông, mà Bắc Kinh một mực khẳng định có từ lâu đời.
Về khả năng Việt Nam đưa vụ việc ra Tòa Trọng tài La Haye nếu như hai bên không tìm được thỏa thuận bất chấp các cuộc đàm phán song phương hiện nay, nhà báo Bertil Lintner nhắc lại, Trung Quốc sẽ không bao giờ chấp nhận phán quyết của Tòa vì đối với Bắc Kinh, phán quyết sẽ đi ngược lại với lợi ích của Trung Quốc.
Trường hợp điển hình chính là phán quyết của Tòa án Trọng tài Thường trực La Haye năm 2016 về đơn kiện của Philippines. Theo Tòa, những yêu sách chủ quyền của Trung Quốc được thể hiện trong bản đồ "đường lưỡi bò" chiếm đến 90% diện tích Biển Đông là không có giá trị xét về mặt luật quốc tế, trong đó có Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. Bắc Kinh bỏ ngoài tai phán quyết không mang tính ràng buộc, dù Trung Quốc đã ký UNCLOS.
Chính phản ứng ngoan cố của Trung Quốc trước những biện pháp của Philippines và Việt Nam buộc cộng đồng quốc tế phải xem xét lại mức độ uy tín của Bắc Kinh trong việc tuân thủ quy định, luật pháp quốc tế.
Trung Quốc : Hứa suông và nuốt lời
Điểm thứ hai : Liệu có nên tin vào những lời hứa của Trung Quốc không ? Bắc Kinh ký UNCLOS, nhưng từ chối áp dụng thông qua sự kiện phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng tài Thường trực La Haye. Chủ tịch Tập Cận Bình trịnh trọng phát biểu với tổng thống Mỹ Barack Obama tháng 09/2015 tại Washington rằng "Trung Quốc không có ý định theo đuổi quân sự hóa" ở Biển Đông.
"Nói một đằng, làm một nẻo", trong nhiều năm liên tiếp, Trung Quốc cứ lặng lẽ bồi đắp các bãi cạn, rạn san hô thành đảo nhân đạo, xây nhà chứa máy bay, đường băng có thể phục vụ máy bay quân sự, trang bị hệ thống radar, xây cảng cho tầu chiến lưu trú, lắp hệ thống tên lửa... Hệ thống cơ sở hạ tầng quân sự này giúp Bắc Kinh chiếm được ưu thế kiểm soát toàn bộ tuyến đường hàng hải huyết mạch của thế giới.
Một ví dụ khác được nhà báo Thụy Điển nêu lên để xác định xem có nên tin vào lới hứa của Bắc Kinh hay không, đó là trường hợp Hồng Kông. Vào tháng 06/2017, người phát ngôn bộ Ngoại Giao Trung Quốc Lục Khảng từng phát biểu : "Hiện giờ Hồng Kông đã quay trở về với mẫu quốc từ 20 năm nay, tuyên bố chung giữa Vương quốc Anh và Trung Quốc, với tư cách là tài liệu lịch sử, không có ý nghĩa thực tế... Tôi hy vọng các bên liên quan ghi nhận thực tế này".
Theo các nhà quan sát ngoại giao trong khu vực, phát biểu của ông Lục Khảng đã trắng trợn bác những điều khoản trong Tuyên bố chung Anh-Trung Quốc được thủ tướng Trung Quốc lúc đó là Triệu Tử Dương (Zhao Ziyang) và thủ tướng Anh Margaret Thatcher ký năm 1984. Theo văn kiện này, Hồng Kông được hưởng quy chế tự trị "một nhà nước, hai chế độ" và sẽ không có gì thay đổi trong giai đoạn 50 năm, cho đến năm 2047. Thực tế đang diễn ra ở Hồng Kông cho thấy điều ngược lại.
Khăng khăng đòi chủ quyền ở Biển Đông... dựa theo truyền thuyết
Trở lại với lời khuyến cáo Việt Nam "phải đối mặt với thực tế lịch sử" của ông Cảnh Sảng, nhà báo Bertil Lintner nhắc lại là những yêu sách đòi chủ quyền trong đường 9 đoạn của Bắc Kinh đã bị Tòa án Trọng tài Thường trực bác bỏ. Các tấm bản đồ cổ của Trung Quốc không biết đến sự tồn tại của những hòn đảo, đá ngầm hiện đang có tranh chấp ở Biển Đông.
Bắc Kinh nêu những chuyến hải trình của Trịnh Hòa (Zhang He, 1371-1433), nhà thám hiểm và thương nhân Trung Quốc ở thế kỷ XV, để biện minh cho đòi hỏi chủ quyền, nhưng Trịnh Hòa chưa đi qua, thậm chí là còn không nhắc đến những hòn đảo đó. Những tài liệu và bản đồ được Trịnh Hòa và Mã Hoan (Ma Huan) sưu tầm ghi danh mục 700 địa điểm ở Đông Nam Á và Ấn Độ Dương, trong đó có nhiều đảo và cảng biển rất xa như quần đảo Andaman và Nicobar, Maldives và Lakshadweep, nhưng không nêu một điểm nào ở Biển Đông.
Nguyên nhân rất đơn giản, vì trên thực tế, đó không phải là những hòn đảo, mà chỉ là những bãi cạn, rạn san hô ngầm rất nguy hiểm, mà các đoàn thuyền vào thời kỳ đó, kể cả tầu của Trịnh Hòa, cũng phải đi vòng để tránh va chạm có nguy cơ làm vỡ tầu. Nhưng dưới tay chính quyền Bắc Kinh hiện nay, những bãi ngầm nửa chìm nửa nổi đó biến thành những hòn đảo nhân tạo.
Cấm quốc tế can thiệp "chuyện nội bộ" - Ỷ mạnh ép các nước Đông Nam Á
Trung Quốc luôn khẳng định, Biển Đông là vấn đề giữa Bắc Kinh và các nước có tranh chấp, là chuyện giữa Trung Quốc với các nước ASEAN và luôn cảnh báo, lên án mọi can thiệp vào "chuyện nội bộ".
Việc Trung Quốc coi thường các công ước, luật pháp quốc tế sẽ không được cộng đồng quốc tế tha thứ. Nhưng, theo nhiều nhà phân tích, cho đến giờ Trung Quốc luôn ỷ mạnh gây sức ép với các nước nhỏ trong vùng.
Phát biểu hôm 09/11 trước các nhà báo Philippines, Dereck Grossman, chuyên gia phân tích của Rand Corporation cho rằng quyết định gần đây của tổng thống Rodrigo Duterte về việc tham gia khai thác dầu khí chung với Trung Quốc ở Biển Đông có thể được diễn giải như là một "phần thưởng" cho việc tạm gác sang một bên phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng tài La Haye. Dĩ nhiên, việc thăm dò khai thác sẽ được tiến hành "theo quy định của Bắc Kinh" và "dưới sự chỉ đạo của Trung Quốc".
Một dấu hiệu khác cho thấy Philippines cúi mình trước Bắc Kinh, đó là vào tháng 11/2019, Manila đã cho đóng dấu vào hộ chiếu in hình bản đồ "đường lưỡi bò", có nghĩa là công nhận bản đồ chính thức của Trung Quốc.
Trong bốn nước Đông Nam Á có chủ quyền chồng chéo với Trung Quốc (Malaysia, Philippines, Việt Nam và Brunei, cùng với Đài Loan), Việt Nam là nước duy nhất mạnh mẽ chống lại sự bành trướng của Trung Quốc ở trong vùng, thông qua việc phản đối, theo dõi sát sao hoạt động của tầu Hải Dương Địa Chất 8 quần thảo trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Vậy mà khi đáp trả những lời phản đối, kêu gọi tôn trọng chủ quyền từ phía Việt Nam, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Cảnh Sảng, chuyển sang vu cáo Việt Nam và các nước có tranh chấp chủ quyền "xâm phạm và chiếm các đảo của Trung Quốc".
Tác giả Bertil Lintner kết luận, với thái độ coi thường trắng trợn các định chế quốc tế, như Tòa Trọng tài Thường trực La Haye, cùng với những lập luận nặng tính dân tộc về các hiệp ước dựa trên luật pháp, quan điểm của Trung Quốc về lịch sử hàng hải ở trong vùng sẽ tiếp tục gây nhiều sóng gió trong tương lai.
(1) Trung Quốc, Việt Nam sẽ không bao giờ đồng thuận về Biển Đông
Trung Quốc cảnh báo Việt Nam không làm ‘phức tạp’ tình hình tranh chấp Biển Đông bằng cách kiện ra tòa trọng tài quốc tế. Điều đó đồng nghĩa, Bắc Kinh đang ‘run sợ’ trước khả năng này.
Trung Quốc cảnh báo Việt Nam không làm ‘phức tạp’ tình hình tranh chấp Biển Đông bằng cách kiện ra tòa trọng tài quốc tế.
Một tuyên bố mới nhất từ Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Lê Hoài Trung, phát biểu tại một hội nghị, rằng Hà Nội sẽ xem xét kiện ra tòa trọng tài quốc tế nếu đàm phán với Trung Quốc không mang lại bất kỳ giải pháp nào.
Hòa giải tranh chấp, đàm phán tranh chấp và cuối cùng là các biện pháp tố tụng thuộc trọng tài quốc tế, dựa trên Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982.
Cách mà Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc cảnh báo các hành động của Hà Nội sẽ làm phức tạp hay suy yếu hòa bình, ổn định Biển Đông và phương hại quan hệ với Bắc Kinh thực chất ra là một nỗi lo sợ.
Bắc Kinh vẫn đang ráo riết tiến hành các hoạt động nhằm hiện thực hóa đường lưỡi bò trên Biển Đông, từ các thủ đoạn chèn đường lưỡi bò vào các hàng hóa xuất sang Việt Nam đến thực hiện thăm dò địa chất tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Trường hợp nếu tòa án trọng tài quốc tế đưa ra một phán quyết có lợi cho Việt Nam, tương tự phán quyết vào tháng 7/2016, thì Hà Nội nên duy trì hiệu lực và theo đuổi áp dụng phán quyết đó, thay vì bỏ ngang như cách mà chính quyền Durtete đang tiến hành.
Theo đuổi con đường pháp lý là một trong số nhiều giải pháp mà Hà Nội có thể tiến hành, và trong số đó bao gồm cả phát triển "bậc cao" với Mỹ.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mark Esper sẽ thăm Việt Nam và sau đó gặp gỡ người đồng cấp có vẻ sẽ là cơ hội để Việt-Mỹ có tầm nhìn chung và thực hiện các hoạt động chung nhằm ngăn ngừa sự đe dọa đến từ Trung Quốc. Các quyết sách quyết đoán từ Bắc Kinh đã đặt Hà Nội vào trạng thái đe dọa chủ quyền lãnh thổ, trong khi Mỹ sẽ mất tầm ảnh hưởng tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, khi quyền tự do hàng hải bị co thắt bởi đường chín đoạn của Trung Quốc.
Trang Nationalinterest.org trong một bài viết gần đây đã đặt câu hỏi, liệu ‘Việt Nam có thể là đồng minh mới của Mỹ chống lại Trung Quốc ?’ ?
Bài viết chỉ rõ ra rất nhiều những rạn nứt quan hệ và mối hiểm họa về chủ quyền của Việt Nam đến từ Bắc Kinh.
Và đặt giả thuyết rằng, nếu Trung Quốc tiến hành một cuộc xâm lược, thì Việt Nam có thể tổn thương về nhân mạng lẫn lãnh thổ. Và điều này đã đặt ra vấn đề, Hà Nội có thể cải thiện an ninh rất nhiều nếu liên minh với Mỹ, quốc gia duy nhất trên thế giới có khả năng thắng nếu một đối một với Trung Quốc. Hẳn nhiên, Mỹ cũng hưởng lợi từ chính mối quan hệ liên minh này.
Nhưng làm sao để thiết lập chính sách liên minh ? Đầu tiên, Hà Nội phải gỡ bỏ ‘lời nguyền quốc phòng’ bằng cách dở bỏ chính sách ba không, trong đó không liên minh với quốc gia thứ ba, và mở đường cho Mỹ thiết lập căn cứ tại Việt Nam (Cam Ranh là một ví dụ rõ ràng nhất).
Đó chính là đóng lại quá khứ, và hướng đến hiện tại, với một kẻ thù chung là Trung Quốc.
Điều này nên được Hà Nội nghiêm túc đặt trên bàn nghị sự, bởi nếu Trung Quốc thành công trong việc tuyên bố Biển Đông là chủ quyền ‘không thể tranh cãi’ thông qua đường chín đoạnthì Việt Nam cùng với các nước yêu sách khác sẽ mất quyền đánh bắt cá và khai thác nguồn dầu khí có giá trị trong phạm vi EEZ.
Ngoài câu chuyện liên minh với một quốc gia như Mỹ, thì một yếu tố mang tính chiến lược với Hà Nội chính là dân chủ hóa và cải thiện nhân quyền nhằm khuyến khích liên minh kinh tế và quân sự chặt chẽ hơn với các quốc gia ít chịu ảnh hưởng nhất của Trung Quốc (như Ấn Độ, Nga, Úc).
Mới đây, vào ngày 5/11, đài VOA cho biết, ‘Việt Nam sắp công bố sách trắng quốc phòng lần đầu tiên sau 1 thập kỷ’. Và dịp này chính là thể hiện tầm nhìn của lãnh đạo Hà Nội đến đâu, chủ động, tự tin hay là rụt rè trước Trung Quốc. Và nếu mở ra con đường phá vỡ chính sách ba không, thì đồng nghĩa vị thế của Việt Nam và cơ hội mở rộng quân sự lẫn kinh tế quốc gia là một ‘bước ngoặt lịch sử’, phù hợp với đường hướng chủ động tích cực ‘trong bối cảnh tình hình an ninh thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, thời cơ và thách thức đan xen’.
Việt Nam đang có cơ hội vàng, khi Bắc Kinh gia tăng xác lập ‘chủ quyền chín đoạn’ thì vào năm 2020, Việt Nam sẽ là Chủ tịch ASEAN 2020. Với chức vụ này, Việt Nam có thể thiết lập chương trình nghị sự có lợi cho lập trường Biển Đông trong năm tới, trong đó tìm kiếm sự thống nhất lớn hơn giữa các thành viên Asean về vấn đề Biển Đông.
‘Hà Nội sẽ bước đi rất cẩn thận và khéo léo’, nhưng bối cảnh chủ quyền quốc gia bị đe dọa thì táo bạo và chủ động về ngoại giao, quốc phòng là điều cần thiết.
Việt Nam phải tỏ ra cứng rắn với Trung Quốc dựa trên hợp tác với các ‘đối tác chiến lược’ như Mỹ để tạo ra hiệu quả rõ ràng trong bảo vệ chủ quyền quốc gia, tương tự như cách Hà Nội cấm hoàn toàn bộ phim hoạt hình ‘Abominable’ của DreamWorks vì có đường lưỡi bò trên bản đồ Biển Đông.
Nguyễn Hiền
Nguồn : VNTB, 13/11/2019
Từ Thành Đô đến Biển Đông
Miệng lưỡi lãnh đạo
Mã Lai - Phi Luật Tân - Hoa Kỳ
Phạm Trần
(07/11/2019)
Thực tế là Trung Quốc ngày càng có thêm những hành động xâm phạm thô bạo chủ quyền biển đảo của Việt Nam, mà gần nhất là vụ Bãi Tư Chính đã gây căng thẳng cao độ quan hệ ngoại giao song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc ; cũng như trong quan hệ quốc tế đã và đang đe dọa sự ổn định trong khu vực và hòa bình thế giới.
Không đồng minh vĩnh viễn, cũng chẳng kẻ thù vĩnh cửu
Đứng trước thực tế trên, cho đến lúc này, trong công luận có hai khuynh hướng trái ngược về đối đối sách của nhà đương quyền Việt Nam với Trung Quốc liên quan đến tranh chấp chủ quyền biển đảo tại Biển Đông :
- Cần thay đổi đối sách với Trung Quốc
- Cần tiếp tục đối sách bao lâu nay với Trung Quốc
I. Cần thay đổi đối sách với Trung Quốc
Những ngưởi theo khuynh hướng này, trong đó có chúng tôi đã thể hiện khuynh hướng của mình trên diễn đàn này qua bài viết "Đã đến lúc Việt Nam chấm dứt đối sách ‘đi dây’ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ" (1). Vì sao ?
Theo lập luận của chúng tôi được trình bày chi tiết trong bài viết nêu trên, thì có hai căn cứ để cần thay đổi đối sách "Đi dây" trong quan hệ song phương giữa Việt Nam với Trung Quốc và Việt Nam với Hoa Kỳ và từ bỏ chủ trương "Ba không" trong quan hệ đa phương với cộng đồng các quốc gia trên thế giới (Không tham gia liên minh quân sự với nước nào, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam, và không về phe nước nào chống lại một nước khác).
1. Vì chính sách đi dây này không có hiệu quả trên thực tế, đang tiến dần đến nhiều nguy cơ, dù Việt Nam đã có nhiều cố gắng theo đuổi hàng thập niên qua (1).
2. Vì đến lúc này, Việt Nam đã có đủ các yếu tố chủ quan cũng như khách quan thuận lợi để chấm dứt chính sách đi dây giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ (2).
II. Cần tiếp tục đối sách bao lâu nay với Trung Quốc
Theo khuynh hướng cần tiếp tục đối sách bao lâu nay của nhà đương quyền Việt Nam với Trung Quốc là "Đi dây" trong quan hệ song phương với Trung Quốc và với Hoa Kỳ, duy trì chủ trương "Ba không". Lập luận rằng, nếu thay đổi thì :
1. Trung Quốc sẽ có phản ứng điên cuồng, bất lợi và gây nhiều khó khăn nhiều mặt cho Việt Nam không thể vượt qua.
Khuynh hướng này cho rằng sự lựa chọn như thế sẽ rất nguy hiểm, đưa đến hậu quả nghiêm trọng, nhiều mặt khó lường do Trung Quốc gây ra. Trong khi quan hệ đồng minh với Hoa Kỳ bấp bênh, không có gì bảo đảm đáng tin cậy, do thực tế Hoa Kỳ có thể bỏ rơi Việt Nam, nếu sau đó Hoa Kỳ và Trung Quốc thỏa thuận được với nhau về phân chia quyền lực trong vùng và quyền lợi tại Biển Đông.
Khuynh hướng này đơn cử trường hợp mới đây Trung Quốc chỉ mới cố tình kéo dài thời gian kiểm soát thuế quan hàng thực phẩm tươi sống nhập từ Việt Nam qua biên giới, cũng đã làm nhiều mặt hàng hư thối. Trong khi kinh tế Việt Nam bao lâu nay lệ thuộc nặng nề vào nền kinh tế Trung Quốc. Đó là chưa kể những đòn trừng phạt quân sự, liệu Hoa Kỳ có giám can thiệp bênh vực khi Việt Nam liên minh với Hoa Kỳ ; hay lại như trường hợp của Philippines, một nước có hiệp ước liên minh quân sự với Hoa Kỳ, khi bị Trung Quốc chiếm một đảo của mình yêu cầu Hoa Kỳ can thiệp thì đã bị Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton thời Tổng thống Barack Obama thoái thác, rằng "Biển Đông đủ lớn cho Trung Quốc có phần" (?).
2. Về quan hệ đồng minh với Hoa Kỳ bấp bênh, không có gì bảo đảm.
Khuynh hướng này cho rằng, kinh nghiệm thực tế cho thấy Hoa Kỳ từng là đồng minh không đáng tin cậy và từng được thực tế cho thấy, vì quyền lợi thiết thân của quốc gia, Hoa Kỳ có thể "phản bội, bán đứng đồng minh".
Dẫn chứng thực tế trong quá khứ xa gần như : Trong thời kỳ chiến tranh Quốc- Cộng ; Nam - Bắc (1954-1975) Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam đã bị đồng minh Hoa Kỳ phản bội, bỏ rơi cho cộng sản Bắc Việt thôn tính, cộng sản hóa Miền Nam. Đó là hệ quả sau khi Hoa Kỳ đã bắt tay được với Trung Quốc qua Thông cáo chung Thượng Hải 1972 được ký kết giữa Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon và Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông ; hay như Mỹ bỏ rơi đồng minh Đài Loan để Trung Quốc chiếm chỗ trong Liên Hiệp Quốc năm 1995. Tất cả chỉ vì thị trường béo bở trên 1 tỷ dân Hoa lục hấp dẫn hơn nhiều so với thị trường tiêu thụ vũ khí ở Việt Nam qua cuộc chiến ; hay so với thị trường tiêu thụ hàng hóa không đáng kể, với vài chục triệu dân của đảo quốc Đài Loan.
Một vài trường hợp điển hình khác ở nơi này nơi khác trên thế giới, cũng được khuynh hướng này dẫn chứng như : Nicaragua một nước ở Trung Mỹ từng là đồng minh của Hoa Kỳ, rồi vì quyền lợi của Hoa Kỳ, tướng Daniel Ortega tổng thống xứ này đã bị Hoa Kỳ bắt đem về Hoa Kỳ xử tội "buôn bán ma túy" vào những năm đầu thập niên 2000. Và gần nhất vẫn đang là vấn đề thời sự là vụ Hoa Kỳ bỏ rơi đồng minh người Kurdistan ở vùng Trung Đông cho Thổ Nhĩ Kỳ triệt hạ, sau khi Tổng thống hai nước Mỹ-Thổ thỏa thuận ngầm được các quyền lợi song phương giữa hai quốc gia… Mặc dầu trước đó khối người Kurdistan từng là đồng minh giúp Hoa Kỳ tiêu diệt khủng bố ISIS.
III. Nhận định
Trên đây là những quan ngại làm căn cứ lập luận cho rằng Việt Nam không nên "từ bỏ chính sách ‘Ba Không’ để liên minh quân sự với Mỹ" . Nhưng với nhận định của chúng tôi và có lẽ cũng của nhiều người khác cùng nhận thức và quan điểm thì tất cả những quan ngại này, dù là thực tế, đều có thể hóa giải được, một khi Việt Nam dứt khoát "từ bỏ chính sách đi dây song phương giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc" để"thoát Trung", liên kết với Hoa kỳ và các quốc gia đồng minh trong một liên minh chống để ngăn chặn tham vọng bá quyền của Trung Quốc, không để bị Trung Quốc tiếp tục dùng "Vòng kim cô đỏ" từ quá khứ đến hiện tại, xiết cổ, kìm kẹp, ỷ mạnh hiếp yếu "bắt nạt Việt Nam" mãi được.
Bởi vì "không có đồng minh vĩnh viễn, cũng chẳng có kẻ thù vĩnh cửu". Thực tế đã như một quy luật xã hội, quyền lợi của quốc gia nào cũng thế, luôn được coi là tối thượng. Một khi các quốc gia có quyền lợi tương đồng thì hình thành các liên minh, khi lợi ích dị biệt thì liên minh tan rã.
Lịch sử đã cho thấy nhiều bằng chứng. Đơn cử : Trong Thế chiến II (1939-1945), Mỹ-Anh-Nga-Pháp-Trung Hoa Dân Quốc… là đồng minh chống lại Phe Trục Đức-Ý-Nhật, vì có chung mục đích và quyền lợi. Sau Thế chiến II, trong cuộc chiến ý thức hệ toàn cầu, hình thành thế giới lưỡng cực, Liên Xô - Trung Quốc cầm đầu phe xã hội chủ nghĩa, Hoa Kỳ lãnh đạo phe tư bản chủ nghĩa với các đồng minh Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật… Chiến tranh ý thức hệ toàn cầu hay chiến tranh lạnh chấm dứt, thế giới đa cực, hình thành các liên minh mới cạnh tranh nhau trên thị trường…
Và chẳng ở đâu xa, trong cuộc chiến tranh Quốc-Cộng tại Việt Nam (1954-1975), một hình thái "Chiến tranh nóng" (Hot War nơi các nước nghèo) bên cạnh hình thái "Chiến tranh lạnh" (Cold War giữa các nước giàu) Hoa Kỳ và các cường quốc như Anh, Pháp, Đức, Nhật trong "Phe tư bản chủ nghĩa" đều là đồng minh của quốc gia Việt Nam Cộng Hòa ở Nam Việt Nam. Trong khi quốc gia Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở Miền Bắc (ngụy dân tộc, ngụy dân chủ, cộng hòa) nằm trong liên minh "Phe các nước xã hội chủ nghĩa" đứng đầu là Liên Xô và Trung Quốc. Thế nhưng, sau chiến tranh, từ năm 1995 Việt Nam dưới chế độ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa, được Hoa Kỳ nối lại bang giao, từ đối thủ trên chiến trường trở thành đối tác trên thị trường. Từ đó, sau đó và nhờ đó Việt Nam đã có cơ hội từng bước phát triển nhiều mặt, nhất là mặt kinh tế, để có bộ mặt "phồn vinh" như hôm nay. Mặc dầu người dân ai cũng biết "bộ mặt phồn vinh" hôm nay là kết quả của con đường làm ăn "kinh tế thị trường theo định hướng tư bản chủ nghĩa" (trừ các dư luận viên của nhà đương quyền" ăn cơm Đảng múa tối ngày"). Nhưng vì sĩ diện, nhà đương quyền Việt Nam vẫn phải chơi trò gian thương "treo đầu dê bán thịt chó" (xanh vỏ đỏ lòng), rằng đó là nhờ con đường "kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa", như chúng tôi đã vạch trần trong nhiều bài viết trước đây trên diễn đàn này.
Nhưng nói gì thì nói, chính thực tế hôm nay, sau gần 25 năm thực hiện "Đối sách đi dây" (1995-2019) mềm dẻo, khôn khéo giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, Việt Nam đã hưởng lợi rất nhiều nhờ Hoa Kỳ. Theo nhận định của chúng tôi, đến lúc này, Việt Nam đã có đủ các yếu tố chủ quan cũng như khách quan thuận lợi để chấm dứt chính sách đi dây giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ (3).
Về mặt chủ quan Việt Nam ngày nay đã tạo được các điều kiện cần thiết để "thoát Trung", chỉ cần tạo thêm "điều kiện đủ" là từ bỏ "Đối sách đi dây" mạnh dạn tham gia liên minh với Hoa Kỳ và các đồng minh, không phải để chống Trung Quốc, mà để có thế lực tự vệ, giúp bảo vệ đất nước trước tham vọng bành trướng, bá quyền của Trung Quốc. Muốn làm được điều này, những người lãnh đạo đảng cầm quyền độc tôn và nhà nước độc tài toàn trị Việt Nam hôm nay, chỉ cần có dũng khí, vượt qua sự sợ hãi do ám ảnh "bóng ma" quá khứ do đã "ngả theo Liên Xô" (sau 1975 ít năm) nên bị Trung Quốc "dạy cho Việt Nam một bài học" (1979) gây khốn đốn nhiều năm cho Việt Nam đến độ phải cầu hòa xin bám trở lại trụ cột "Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Trung Quốc" (đang dãy chết) qua mật ước Thành Đô (1990).
Thế nhưng, các ông bà lãnh đạo "Đảng và Nhà nước ta" nên nhớ rằng thế lực của Liên Xô vào thời điểm Việt Nam chọn làm "Tổ quốc xã hội chủ nghĩa", chế độ xã hội chủ nghĩa Liên Xô đang giãy chết, nên đành bỏ mặc Việt Nam tự giải quyết mọi khó khăn do Trung Quốc gây ra ; hoàn toàn khác với thế lực của Hoa Kỳ lúc này (siêu cường). Nếu chọn đứng vào hàng ngũ với Hoa Kỳ và các nước đồng minh khác trong một liên minh có mục tiêu chung gián chỉ tham vọng bành trướng của Trung Quốc tại Biển Đông, vì có chung lợi ích với Việt Nam. Nếu vì sự lựa chọn này Việt Nam gặp nhiều khó khăn do Trung Quốc gây ra, thì lãnh đạo Việt Nam hãy vững tin một cách có cơ sở rằng, Hoa Kỳ và đồng minh có thừa khả năng giúp Việt Nam vượt qua tất cả. Đó là sự thật. Đừng để vuột mất cơ hội thuận lợi để "thoát Trung" khi có quyết định quá trễ.
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 02/11/2019
(1,2,3) Xin đọc thêm chi tiết nơi điểm trong bài viết "Đã đến lúc Việt Nam chấm dứt đối sách ‘đi dây’ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ" đã đăng tải và còn lưu trên diễn đàn này.
Chóp bu Việt Nam đã thêm một lần nữa bị vuột cơ hội vận động quốc tế về vụ Bãi Tư Chính, nhưng bởi chính thói đớn hèn đã trở thành nan y của chế độ này.
Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh 'đọc bài' nhưng không một lần dám nhắc cái tên Trung Quốc - Ảnh minh họa
Tại cuộc họp Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc (UNGA) vào ngày 28/09/2019, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã cắm đầu đọc một bài diễn văn dài tới 15 phút, với nội dung chủ yếu xoay quanh :
"Việt Nam đã nhiều lần lên tiếng quan ngại về những diễn biến phức tạp gần đây ở Biển Đông bao gồm những vụ xâm phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán ở vùng biển của Việt Nam đã được xác định bởi UNCLOS (Công ước về luật biển của Liên Hiệp Quốc 1982). Các nước liên quan nên kiềm chế, tránh các hành động đơn phương có thể làm phức tạp hoặc làm tăng thêm căng thẳng trên biển, và giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình theo luật quốc tế, bao gồm UNCLOS".
Blogger Phạm Thành bình luận : "Phạm Bình Minh nhắc tới luật quốc tế 6 lần, biển Đông 3 lần, 1 lần Indo-Pacific, 1 lần vùng đặc quyền kinh tế. Không nhắc tới Tàu một lần nào. Ông có nói tới một incident (sự cố ?). Tui nghĩ đám ngồi dưới chả hiểu sự cố gì…"
Đã quá đủ để nhìn ra ‘bản lĩnh Việt Nam’ !
Cử chỉ bị coi là câm nín của giới lãnh đạo Việt Nam và việc chẳng một quan chức cao cấp nào trong ‘tam trụ’ - từ Nguyễn Phú Trọng đã từng cầu an ‘trà Trung Quốc ngon hơn trà Việt Nam’ đến Nguyễn Xuân Phúc từng nghiêng ngoẹo cụng ly với Tập Cận Bình vào năm 2016, và cả Nguyễn Thị Kim Ngân uốn éo trước mặt họ Tập về ‘đại cục’ ở Bắc Kinh… đã dìm xác suất ‘kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế’ xuống đáy hy vọng, xứng đáng bổ sung thêm một ‘không’ nữa vào chính sách ‘ba không’ gậy ông đập lưng ông của Hà Nội : không kiện Trung Quốc !
222222222222222222
Nguyễn Phú Trọng đã từng cầu an ‘trà Trung Quốc ngon hơn trà Việt Nam
Rốt cuộc, tất cả từ không dám nổ súng cảnh cáo, không dám nhắc tên Trung Quốc và không dám kiện Trung Quốc đã khiến Bắc Kinh không chỉ ngày càng coi thường ‘vùng chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam’, mà còn giành ưu thế vượt mặt giới chóp bu Việt Nam trong hoạt động vận động quốc tế.
Đó chính là nguồn cơn khiến Bắc Kinh tự tin và ngạo mạn khi đưa ra tuyên bố mang tính khẳng định về vùng chủ quyền của Trung Quốc tại khu vực Bãi Tư Chính, và bây giờ còn muốn đuổi Việt Nam ra khỏi đó. Điều này rất có thể sẽ khiến một số quốc gia trên thế giới – vốn không am hiểu lắm về lịch sử chủ quyền vùng biển của Việt Nam và những mưu tính lắt léo trong "đường lưỡi bò 9 đoạn," tỏ ra dè dặt hơn nếu những nước này có ý muốn ủng hộ Việt Nam tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc, hoặc tại một tòa án quốc tế trong trường hợp Việt Nam dám kiện Trung Quốc ra trước thế giới, cho dù Việt Nam được đặt vào ghế "thành viên không thường trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc" vào năm 2019.
Nếu ngày càng nhiều quốc gia thờ ơ với vụ Bãi Tư Chính, đó sẽ là cơ hội để Bắc Kinh khuếch tán chiến dịch vận động các nước trong Liên Hiệp Quốc ủng hộ ‘chủ quyền’ của Trung Quốc ở khu vực này. Và nếu Trung Quốc đạt được một sự ủng hộ của một số nước nào đó, dưới dạng tuyên bố hoặc nghị quyết quốc tế, đó sẽ là cơ sở và tiền đề cực kỳ quan trọng để ‘Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa’ tiến hành một chiến dịch quân sự tốc chiến xâm chiếm Bãi Tư Chính của Việt Nam. Tốc chiến trước khi Việt Nam khai thác hết dầu để nuôi đảng !
Một sự ghẻ lạnh lạ lùng xâm phủ bộ mặt chính thể độc tài ở Việt Nam - luôn tự hào có rất nhiều quan hệ đối tác chiến lược.
‘Kẻ thù lớn bởi vì mi quỳ xuống’
Thường Sơn
Nguồn : VNTB, 30/09/2019