Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Nhân kỷ niệm Chiến tranh Biên giới Việt - Trung 1979, BBC đăng lại bài của tiến sĩ Balazs Szalontai về số phận ông Hoàng Văn Hoan, người từng là lãnh đạo cao cấp nhưng bị 'tử hình vắng mặt' vì chạy theo Trung Quốc :

hoan1

Ông Hoàng Văn Hoan (thứ nhì từ trái sang) lãnh đạo phái đoàn Việt Minh đứng cạnh Thứ trưởng Ấn Độ KG Mathur (đeo kính) tại Dehli năm 1954, bên trái ông Mathur là ông Hà Văn Lâu

Khi đã lưu vong ở Trung Quốc, Hoàng Văn Hoan, nhân vật lãnh đạo vào hàng cao cấp nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đào thoát ra nước ngoài từ trước tới nay, nói rằng sau cuộc chiến Việt - Trung, có tới 300.000 đảng viên thân Trung Quốc bị phe “thân Liên Xô” của Lê Duẩn loại bỏ.

Một cuộc thanh trừng nội bộ quả đã diễn ra trong 1979-80, nhưng như hồ sơ Hungary tiết lộ, ông Hoan đã phóng đại nhiều về tầm mức.

Việc thanh trừng vừa là nỗ lực bóc tách các “phần tử thân Trung Quốc” thật sự và tiềm năng, nhưng nó cũng là biểu hiệu của khủng hoảng kinh tế - xã hội ăn sâu ở Việt Nam.

Vai trò cá nhân

Sự đóng góp của ông Hoàng Văn Hoan cho phong trào Cộng sản Việt Nam không to lớn như ông nói mà cũng không nhỏ bé như phát ngôn nhân của Hà Nội cáo buộc sau khi ông đã bỏ trốn sang Trung Quốc.

Là thành viên sáng lập Đảng Cộng sản Đông Dương, ông có thời gian dài ở Trung Quốc. Trong cuộc chiến kháng Pháp, ông giữ chức thứ trưởng quốc phòng.

Năm 1948, ông được giao việc thành lập Văn phòng Hải ngoại ở Thái Lan, và sau đó là đại sứ đầu tiên của Bắc Việt ở Trung Quốc.

Mặc dù là thành viên thứ 13 trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng năm 1956, và sau này vào Bộ Chính trị, nhưng Hoan không thuộc vào nhóm lãnh đạo chủ chốt nhất.

Vị trí cao nhất ông từng giữ là phó chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội, và không nằm trong Ban Bí thư đầy quyền lực. Kết quả là, vị trí của ông bị lung lay hơn trước biến đổi trong quan hệ Việt - Trung, khi so với Trường Chinh hay Lê Duẩn là những người luôn có thể giữ vị trí, cho dù Hà Nội thân thiện với Bắc Kinh hay không.

Được biết vì tình cảm thân thiện với Trung Quốc, ông Hoan đạt đỉnh cao sự nghiệp vào đầu thập niên 1960 khi Bắc Việt tạm thời có thái độ thân Trung Quốc trong tranh chấp Liên Xô - Trung Quốc. Năm 1963, khi Ngoại trưởng Ung Văn Khiêm bị thay bằng Xuân Thủy (thân Trung Quốc hơn), ông Hoan cũng thành Trưởng Ban liên lạc đối ngoại Trung ương Đảng.

Nhưng trong giai đoạn 1965-66, quan hệ Xô - Việt bắt đầu cải thiện, cùng lúc với căng thẳng gia tăng giữa Hà Nội và Bắc Kinh. Trong môi trường mới này, ban lãnh đạo cảm thấy cần thay cả Xuân Thủy và Hoàng Văn Hoan bằng những cán bộ ít dính líu hơn đến chính sách thân Trung Quốc trước đây của ban lãnh đạo Hà Nội.

Năm 1971-72, Hà Nội bất mãn vì Trung - Mỹ làm hòa, có vẻ càng làm vị thế ông Hoan bị suy giảm.

Dù vậy ông vẫn là nhân vật quan trọng trong quan hệ Việt - Trung.

Ví dụ, năm 1969, chính ông đã giúp hoàn tất cuộc đàm phán kéo dài và khó khăn quanh viện trợ kinh tế của Trung Quốc. Tháng Năm 1973, ông tiến hành hội đàm bí mật tại Bắc Kinh về vấn đề Campuchia.

Năm 1974, ông Hoàng Văn Hoan cùng Nguyễn Côn, Bí thư Trung ương Đảng, đi Trung Quốc để “chữa bệnh”, nhưng có thể sứ mạng thực sự lại liên quan đến đàm phán biên giới bí mật Việt - Trung từ tháng Tám tới tháng 11, mà kết quả đã thất bại.

hoan2

Lãnh tụ Bắc Việt Nam, ông Hồ Chí Minh ăn trưa cùng Chủ tịch Trung Quốc Lưu Thiếu Kỳ tại Bắc Kinh tháng 8/1959

Sự khác biệt giữa Trung Quốc và Việt Nam về Campuchia và Hoàng Sa đã không thể hàn gắn và làm cho Hoàng Văn Hoan không còn có thể đóng vai trò trung gian thành công. Lê Duẩn và các đồng chí kết luận họ không còn cần ông nữa. Những liên lạc của ông với Bắc Kinh nay bị xem là rủi ro an ninh.

Sau Cuộc chiến Việt Nam, những cán bộ mà Lê Duẩn không còn cần hoặc tin tưởng dần dần bị thay thế. Năm 1975, công chúng không còn thấy Nguyễn Côn, và năm sau, Hoàng Văn Hoan bị ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Năm 1979, khi xung đột Việt - Campuchia và Việt - Trung lan rộng thành chiến tranh, vị trí của ông Hoan càng trở nên bấp bênh. Sang tháng 6, ông quyết định đào tẩu.

Lấy cớ ra nước ngoài chữa bệnh, ông đã xuống máy bay ở Pakistan và sang Trung Quốc, ở lại đó cho tới ngày qua đời năm 1991.

Tại nhiều cuộc họp báo, Hoàng Văn Hoan giải thích sự đào tẩu bằng cách nhấn mạnh ông đã từ lâu chống đối chính sách của Lê Duẩn, mà theo ông là đã biến Việt Nam thành vệ tinh Xô Viết, làm người Hoa bị phân biệt đối xử, và dẫn tới việc chiếm đóng Campuchia. Cáo buộc của ông một phần dựa trên sự thật, vì ngay từ tháng Giêng 1977, Đảng Cộng sản Việt Nam đã dự định giải tán và tái định cư một phần cộng đồng người Hoa ở Chợ Lớn.

Hiệp ước Việt - Xô 1978 cũng là một phần quan trọng cho sự chuẩn bị đánh Campuchia.

Nhưng mặt khác, ông Hoan và phía bảo trợ là Trung Quốc dễ dàng bỏ qua là năm 1978, Việt Nam vẫn tìm cách tránh phụ thuộc Moscow quá mức bằng việc cải thiện quan hệ Việt Nam - Asean, và thảo luận cả khả năng gia nhập Asean trong tương lai.

Sự đào thoát của ông Hoan hẳn làm Bộ Chính trị vô cùng lúng túng vì họ vẫn quen tự mô tả mình là mẫu mực đoàn kết.

Bắc Kinh càng làm vết thương thêm đau rát. Hai ngày sau khi tới Bắc Kinh, Hoàng Văn Hoan được Tổng Bí thư Hoa Quốc Phong đón tiếp, và ông Hoa tuyên bố “những kẻ phá hoại tình hữu nghị Việt - Trung sẽ vỡ đầu”.

hoan3

Các ông Lê Duẩn, Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng và Trường Chinh bên linh cữu Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1969 ở Hà Nội

Mặc dù Việt Nam nhấn mạnh sự trốn chạy của Hoàng Văn Hoan chỉ là trường hợp riêng lẻ, nhưng Bộ Chính trị biết chính sách của họ không được toàn dân ủng hộ.

Mùa xuân 1979, khi giới chức bắt 8000 Hoa kiều tái định cư từ Hà Nội vào “Vùng Kinh tế Mới”, nhiều người Việt Nam đã không đồng ý khi các đồng đội người Hoa của họ bị buộc ra đi. Khác biệt cũng tồn tại trong nội bộ lãnh đạo.

Tháng Sáu 1978, Trường Chinh và Lê Văn Lương ban đầu phản đối việc thông qua nghị quyết gọi Trung Quốc là kẻ thù nguy hiểm nhất của Việt Nam.

Khủng hoảng xã hội

Sự thanh trừng không lớn như ông Hoàng Văn Hoan cáo buộc, và cũng không đơn thuần do xung đột Việt - Trung.

Quyết loại bỏ những thành phần “bội phản”, giới chức có những biện pháp khắc nghiệt. Người Mèo và các cộng đồng thiểu số khác một phần đã phải ra đi khỏi các tỉnh miền bắc. Tại phiên họp của Ban Chấp hành Trung ương trong tháng Tám, ban lãnh đạo bàn vụ Hoan trốn thoát và chỉ trích ngành an ninh.

Nhiều cán bộ cao cấp, như Lý Ban, cựu thứ trưởng ngoại thương có gốc Hoa, bị quản thúc. Tháng Giêng 1980, Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn bị buộc về hưu. Kiểm soát ngành an ninh được chuyển sang cho một ủy ban mới thành lập do Lê Đức Thọ đứng đầu. Xuân Thủy, người đã tiễn chân ông Hoan hồi tháng Sáu, cũng bị giáng chức.

Tuy nhiên, sự thanh trừng không lớn như ông Hoan cáo buộc, và cũng không đơn thuần do xung đột Việt - Trung.

Trước hết, các vụ thanh trừng trong hàng ngũ Đảng đã bắt đầu từ những năm trước.

Giai đoạn 1970 - 75, chừng 80.000 đảng viên bị loại khỏi hàng ngũ, còn trong giai đoạn 1976-79, con số này là 74.000.

hoan4

Bộ đội Việt Nam ở Lạng Sơn : cuộc chiến biên giới giết chết hàng vạn người chỉ trong vòng chưa đến 30 ngày

Thứ hai, nhiều người mất thẻ Đảng vì những lý do không liên quan xung đột Việt - Trung.

Việc trục xuất các cá nhân thân Trung Quốc đạt đỉnh cao từ tháng 11-1979 tới tháng Hai 1980, nhưng từ tháng Ba, quá trình này bắt đầu chậm lại, và ưu tiên của chiến dịch sau đó hướng sang chống tham ô, biển thủ và các hành vi tội phạm.

Tại miền Nam, khu vực mà số đảng viên chỉ chiếm một phần ba của đảng, giới lãnh đạo định loại bỏ chừng 5% đảng viên (so với tỉ lệ trung bình cả nước là 3%). Điều này không chỉ chứng tỏ Hà Nội nghi ngờ dân số miền Nam mà đây còn là cố gắng kỷ luật những cán bộ người Bắc đã lạm dụng quyền lực sau khi được bổ nhiệm vào Nam.

Các vấn nạn xã hội, kinh tế và tội phạm mà Đảng Cộng sản Việt Nam phải đương đầu có vẻ khiến họ cố gắng hạn chế thiệt hại hơn là mở đợt thanh trừng chính trị to lớn.

Thất nghiệp và khan hiếm hàng hóa làm trộm cướp gia tăng. Giới chức đã phải huy động quân đội canh giữ ở cảng Hải Phòng nhưng cũng không có kết quả.

Ngược lại, một nhà ngoại giao Hungary nhận xét quân đội khi đó đang trở thành “quân dự bị gồm những kẻ tội phạm”. Không có việc làm, nhiều người lính giải ngũ đã phải thành trộm cướp.

Trong tình hình đó, ban lãnh đạo cộng sản, dù đã kết án tử hình vắng mặt với Hoàng Văn Hoan năm 1980, chỉ muốn xóa tên ông ra khỏi ký ức công chúng thay vì đưa ông ra cho người dân mắng chửi.

Và đến lúc qua đời, ông cũng đã "hết hạn sử dụng" đối với nước chủ nhà Trung Quốc, vì lúc đó, cả Hà Nội và Bắc Kinh đều muốn làm hòa chứ không cãi nhau quanh những sự kiện của quá khứ.

Balazs Szalontai

Nguồn : BBC, 21/02/2017

Tiến sĩ Balazs Szalontai là một nhà nghiên cứu độc lập ở Hungary. Ông là tác giả cuốn sách Kim Nhật Thành trong thời kỳ Khruschev (Đại học Stanford và Trung tâm Woodrow Wilson xuất bản, 2006). Bài viết dựa vào kho tư liệu tại Hungary và thể hiện quan điểm riêng của tác giả. Bài do Lê Quỳnh dịch, đã đăng tháng 4/2010 trên bbcvietnamese.com ở giao diện cũ.

Published in Diễn đàn

Ngày 17/2/1979, Trung Quốc bất ngờ nổ súng tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc. Nhân dân Việt Nam lại phải bước vào một cuộc chiến đấu mới. Nhưng với sự giúp đỡ của Liên Xô, quân và dân Việt Nam đã giáng trả những đòn đích đáng.

Hơn 30 năm sau, một tài liệu khá đầy đủ và tổng quan về những sự giúp đỡ của nhân dân và chính phủ Liên Xô nhằm ủng hộ Việt Nam trong cuộc chiến bảo vệ chủ quyền Tổ quốc đã được báo Phòng thủ Đường không và Vũ trụ Nga (VKO) đăng tải. 

lx1

Bộ đội Việt Nam chuẩn bị lên máy bay vận tải từ Campuchia về nước tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, tháng 2/1979.

Đầu năm 1979 , tại biên giới với Việt Nam, phía Trung Quốc hình thành mặt trận gồm 15 sư đoàn thê đội 1, 6 sư đoàn dã chiến quân thê đội 2, và 3 sư đoàn dự bị. Tổng quân số cụm quân được động viên để tham chiến chống Việt Nam lên tới 29 sư đoàn…

3h30 ngày 17/2/1979, trên một số hướng, sau 30 -35 phút nã pháo chuẩn bị, quân Trung Quốc đã xâm nhập nhập qua 20 đoạn biên giới Trung - Việt vào lãnh thổ Việt Nam.

… Nhưng trước tinh thần chiến đấu anh dũng của quân và dân Việt Nam, kế hoạch của ban lãnh đạo Bắc Kinh, dùng xung đột quân sự để nhanh chóng đập tan sự kháng cự của quân đội Việt Nam, buộc Việt Nam phải từ bỏ đường lối đối ngoại không lệ thuộc vào Trung Quốc , trước khi Liên Xô kịp can thiệp đã bất thành. Ý đồ của Bắc Kinh đảo ngược tình hình ở Campuchia cũng không đạt được.

Cuộc biểu dương lực lượng hùng hậu của Liên Xô

Trong thời gian từ 12 đến 26/3/1979, nhằm kiên quyết tạo áp lực quân sự lên Trung Quốc, theo chỉ thị của BCH TW Đảng Cộng sản Liên Xô, các Quân khu biên giới phía Đông (các vùng đất tiếp giáp với Trung Quốc của Liên Bang Xô Viết), tại lãnh thổ Mông Cổ và Hạm đội Thái Bình Dương đã tiến hành tập trận.

Tổng cộng đã có 20 sư đoàn binh chủng hợp thành và không quân tham gia, với tổng quân số lên tới hơn 200.000 sĩ quan, chiến sĩ, hơn 2.600 xe tăng, gần 900 máy bay, 80 tàu chiến các loại.

Diễn tập bắt đầu bằng lệnh động viên và chuyển các đơn vị vào tình trạng sẵn sàng chiến đấu cao nhất. Liên Xô đã động viên 52.000 quân nhân dự bị, huy động hơn 5.000 xe máy của nông nghiệp sang phục vụ yêu cầu sẵn sàng chiến đấu.

lx2

Máy bay trinh sát chống ngầm của Liên Xô chuẩn bị cất cánh từ Cam Ranh.

Các cuộc diễn tập quy mô lớn nhất diễn ra trên lãnh thổ Mông Cổ, huy động tới 6 sư đoàn bộ binh cơ giới và sư đoàn tăng, trong đó có 3 sư đoàn được điều động tới Mông Cổ từ Sibir và Zabaikal. Trong khuôn khổ cuộc diễn tập này còn có sự góp mặt gần 3 sư đoàn không quân, hai lữ đoàn độc lập và một số liên binh đoàn và đơn vị tăng cường.

Cùng lúc, trong các cuộc diễn tập ở Viễn Đông và Đông Kazakhstan (có đường biên giới với Trung Quốc), ngoài các đơn vị cấp sư đoàn trở lên bộ đội hiệp đồng binh chủng, còn có các đơn vị bộ đội biên phòng Liên Xô tham gia.

Tại các vùng có đường biên giới với Trung Quốc, lực lượng Xô Viết đã diễn tập các phương án tổ chức phòng ngự, đánh trả đội hình tiến công của đối phương, phản kích, và chuyển sang phản công.

Từ lãnh thổ Ukraina và Belorussia, các trung đoàn không quân chiến đấu đã sang triển khai lực lượng tại các sân bay của Mông Cổ.

Đồng thời với các cuộc diễn tập, chỉ trong hai đêm, các trung đoàn không quân không chỉ từ các quân khu lân cận, mà cả từ vùng Prikarpatia, cũng đã điều động ra phía đông (phía khu vực tiếp giáp hai lục địa Á - Âu).

Các cuộc chuyển quân trên của Không quân Xô Viết không chỉ liên quan đến đội hình chiến đấu cấp trung đoàn, với các phi công được huấn luyện tốt nhất, mà là cuộc di chuyển của toàn trung đoàn, kể cả các đơn vị và phân đội bảo dưỡng kỹ thuật trên không và mặt đất. 5 quân khu đã tham gia tiếp dầu cho cuộc diễn tập này.

Trong tiến trình diễn tập, có những khoảng thời gian trong không trung có tới 10 trung đoàn không quân tuyến một (đội hình chiến đấu) hoạt động. Các kíp bay đã bay tổng cộng 5.000 giờ, đã sử dụng tới 1.000 trái bom và tên lửa trong diễn tập bắn đạn thật.

lx3

Tàu đổ bộ của Liên Xô vận chuyển trang thiết bị quân sự lên quân cảng Cam Ranh.

Tại biển Đông, và biển Hoa Đông, gần 50 chiến hạm của Hạm đội Thái Bình Dương, trong số đó có 6 tàu ngầm đã trực chiến sẵn sàng chiến đấu và tiến hành tập trận đánh tiêu diệt hải quân đối phương. Tại vùng Primorie (ven biển Viễn Đông) đã diễn ra các cuộc đổ bộ của Thủy quân lục chiến Liên Xô.

Trợ chiến

Không quân Xô Viết còn cử các đơn vị của mình sang công tác tại Việt Nam để giải quyết vấn đề trinh sát đường không chống quân xâm lược trên lãnh thổ Việt Nam.

Các đơn vị thuộc không quân vận tải Liên Xô (các phi đội AN-12, AN-26, MI-8…) làm nhiệm vụ vận chuyển đường không trong lãnh thổ Việt Nam.

Với thực lực trang bị còn tương đối hạn chế, nhưng Không quân chiến thuật Liên Xô đã vận hành rất hiệu quả cầu hàng không giữa Liên Xô và Việt Nam. Trong khuôn khổ diễn tập tại Liên Xô và trong lúc thực hiện nhiệm vụ chuyên chở vũ khí, trang thiết bị cho Việt Nam, lực lượng này đã vận chuyển tổng cộng 20 ngàn quân, hơn 1.000 đơn vị trang bị xe máy, 20 máy bay và trực thăng, 3 ngàn tấn quân dụng, đạn dược.

Viện trợ quân sự

Riêng về mặt quân sự, viện trợ cho Việt Nam là một nhiệm vụ trọng đại, nhằm mục tiêu gia tăng nhanh chóng tiềm lực quân sự cho Việt Nam.

Chỉ trong giai đoạn từ khi cuộc xung đột bắt đầu (giữa tháng 2) đến cuối tháng 3/1979, bằng đường thủy, Liên Xô đã đưa sang Việt Nam hơn 400 xe tăng và xe bọc thép, xe chở quân, 400 cỗ pháo và súng phóng lựu, 50 dàn phóng đạn phản lực 40 nòng, cỡ 122 mm "Grad", hơn 100 cỗ pháo cao xạ, 400 đồng bộ cao xạ di động cùng hàng ngàn tên lửa đi theo, 800 súng chống tăng của bộ binh, 20 máy bay tiêm kích .

Dù việc chuyển giao gấp rút, nhưng các vũ khí và trang bị này đều đã được thẩm định về chất lượng sẵn sàng chiến đấu bởi một ủy ban gồm các chuyên gia có kiến thức và kinh nghiệm của quân đội Xô Viết.

lx4

Chiến hạm chống ngầm "Đô đốc Zakharov" tại Vịnh Cam Ranh 

Đòn cân não

Sự kháng cự kiên cường của quân đội Việt Nam cùng thái độ kiên quyết ủng hộ Việt Nam của Liên Xô và phản ứng của dư luận thế giới đã khiến Trung Quốc phải chịu tổn thất to lớn.

Một loạt các hành động quân sự - chính trị của Liên Xô dưới dạng các bước chuẩn bị cho việc tiến quân vào lãnh thổ Trung Quốc, cùng với mâu thuẫn trong giới cầm quyền Trung Quốc, cũng như các sai lầm nghiêm trọng trong chỉ đạo và tác chiến của quân đội nước này… đã dẫn đến việc ngày 5/3/1979 , Bắc Kinh phải ra quyết định rút quân, và 20/3/1979 phải thực hiện rút quân ra khỏi lãnh thổ Việt Nam.

Nhưng quân Trung Quốc sau đó vẫn ngoan cố đóng lại ở một số phần đất (sâu 1km vào lãnh thổ Việt Nam và rộng hai km), mà trước đó Trung Quốc cố tình gọi là "đất tranh chấp" ở vùng biên giới hai nước.

T.H

Nguồn : Infonet, 18/02/2017

Published in Việt Nam

Đánh giá lại cuộc xâm lăng Biên giới Việt Nam 1979-1989 mà Trung Quốc tiến hành, cần đặt nó vào khung pháp lý quốc tế để xác định nguyên nhân, tìm ra bài học.

Ngày này cách đây 38 năm, 17/2/1979, tiếng súng đã vang lên trên bầu trời biên giới, Trung Quốc tung 60 vạn quân xâm lược toàn tuyến biên giới phía Bắc nước ta, gây ra cuộc chiến vô cùng tàn khốc.

38 năm qua đi, hai nước đã bình thường hóa quan hệ 26 năm, nhưng nỗi ám ảnh từ cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược trên toàn tuyến biên giới phía Bắc năm 1979 và những xung đột quân sự suốt 10 năm sau đó vẫn còn dai dẳng. 

Không ai hiểu rõ hơn những người dân Việt Nam sống dọc tuyến biên giới với Trung Quốc, không ai hiểu hơn những gia đình liệt sĩ, những thương bệnh binh và cựu chiến binh từng có mặt ở tuyến đầu lửa đạn để giữ vững biên cương, lãnh thổ của Tổ quốc.

Trên tinh thần khách quan, khoa học, cầu thị, bài viết này tiếp cận một sự kiện lịch sử từ góc độ khoa học, tôi hy vọng góp thêm tiếng nói để làm sao nước nhà giữ được độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và tránh được chiến tranh.

Hơn ai hết, chúng ta đã đủ thấm thía nỗi đau của chiến tranh và giá trị của hòa bình. Thiếu đánh giá một cách khoa học, khách quan và cầu thị về cuộc chiến, hậu quả khôn lường

Có lẽ do tính chất thảm khốc và những hệ lụy to lớn của cuộc chiến, nên ngay sau khi hai nước chính thức bình thường hóa quan hệ, Trung Quốc và Việt Nam đã xác định : "khép lại quá khứ, hướng tới tương lai".

Vì vậy những năm đầu sau bình thường hóa, thực hiện chủ trương này, cả hai nước hầu như "khép lại", không nhắc gì đến cuộc chiến này, chỉ tập trung thúc đẩy các hoạt động hợp tác, hữu nghị.

Đây là cách ứng xử của chúng ta không chỉ với Trung Quốc, và với cả Hoa Kỳ. Tuy nhiên hiểu như thế nào về việc "khép lại quá khứ" hay chỉ "gác lại quá khứ" cũng là vấn đề cần được bàn bạc thấu đáo. 

Nếu như hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ xâm lược và thống nhất Tổ quốc đã được đúc kết thành nhiều công trình, bài học, được tái hiện khá cụ thể trong sách giáo khoa, thì còn 4 cuộc chiến / trận chiến khác chưa được mổ xẻ để rút ra bài học :

Ngoài cuộc chiến bảo vệ Biên giới phía Bắc 1979-1989 chống Trung Quốc xâm lược, còn cuộc chiến bảo vệ Biên giới Tây Nam chống bọn diệt chủng Khmer Đỏ ;

1 cuộc tấn công do Trung Quốc tính toán tổ chức thực hiện vào tháng Giêng năm 1974 để xâm chiếm nốt nhóm phía Tây quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam và một cuộc thảm sát để chiếm đoạt một phần quần đảo Trường Sa năm 1988.

quakhu1

Nghĩa trang liệt sĩ Trà Lĩnh (Cao Bằng), nơi yên nghỉ của hơn 300 liệt sĩ cuộc chiến Bảo vệ Biên giới phía Bắc năm 1979

Ôn lại các sự kiện lịch sử này với cái nhìn khoa học, khách quan, cầu thị trên tinh thần tôn trọng sự thật để rút ra những bài học cho tương lai, làm sao bảo vệ được độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, làm sao để tránh tối đa nguy cơ nổ ra chiến tranh.

Thiết nghĩ đó chính là việc làm cần thiết và hoàn toàn phù hợp với chủ trương "gác lại quá khứ" thay vì "khép lại quá khứ" đã từng tồn tại trong nhận thức và chi phối hành vi ứng xử của chúng ta trong mấy thập kỷ qua.

Thiết nghĩ đó cũng là những việc hết sức hệ trọng và cấp bách, khoa học và tiến bộ, vì lợi ích của chính dân tộc Việt Nam cũng như dân tộc Trung Quốc để tránh vết xe đổ của chiến tranh.

Chỉ có như vậy mới có thể xây dựng tình hữu nghị, hợp tác lâu dài, hướng tới tương lai.

Lâu nay chính sự khép lại, im lặng đã khiến những vết thương chưa lành trong dân chúng, trong các cựu chiến binh từ cả hai phía, khi không được chăm sóc đúng cách sẽ dễ mưng mủ, tác hại khôn lường. 

Đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, khi những tranh chấp phức tạp ở Biển Đông đang leo thang trước các hành động phiêu lưu, quân sự hóa từ phía Trung Quốc, bóng ma của cuộc chiến năm xưa đang dần trở lại trong tâm trí nhiều người.

Chính điều này sẽ là những nhân tố tiềm tàng bất ổn trong lòng xã hội, nó có thể bùng phát thành những diễn biến khó lường như những mặt trái mà chúng ta chứng kiến, trả giá trong cuộc khủng hoảng giàn khoan 981 Trung Quốc hạ đặt bất hợp pháp vào vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam năm 2014.

Lòng yêu nước của người dân nếu không được dẫn dắt bởi chính sự hiểu biết thấu đáo về lịch sử nước nhà, sẽ là nơi nuôi dưỡng mầm mống cực đoan và bất ổn.

Nhiều người lo, nhiều người phàn nàn về việc chúng ta chỉ đưa có "11 dòng" vào sách giáo khoa lịch sử về cuộc chiến bảo vệ Biên giới phía Bắc 1979 - 1989.

Nhưng theo tôi, quan trọng hơn là chúng ta tiếp cận như thế nào, dạy như thế nào về giai đoạn lịch sử này.

Sách giáo khoa không dạy, thì người dân quan tâm vẫn có thể tìm đọc trên Internet từ nhiều nguồn khác nhau. Trước những tài liệu thiếu nguồn kiểm chứng, nhưng lại thừa những miêu tả và từ ngữ thể hiện cảm xúc mạnh, tác hại của nó thật khó lường.

Không phải ai cũng đủ tỉnh táo để tiếp cận một cách đa chiều, nhìn nhận một cách khách quan, đánh giá theo hướng rút ra những bài học để tránh chiến tranh và bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ nếu các nhà chức trách, đội ngũ trí thức không nhận lãnh lấy trọng trách này.

Là một người nghiên cứu luật pháp quốc tế về biên giới lãnh thổ, và từng trực tiếp tham gia đàm phán hoạch định biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc, Campuchia, Lào... chúng tôi cũng có không ít những trải nghiệm, gặp không ít vấn đề do cách nhận thức của chúng ta về những sự kiện này.

Vì vậy, xin nêu lên một số bài học mà chúng tôi cho là có thể có ích cho những công trình nghiên cứu, phân tích, đánh giá, tổng hợp về những sự thật nói trên để vận dụng cho tương lai.

Bài học thứ nhất : tháo ngòi nổ xung đột

Cho đến nay, phía Trung Quốc vẫn tuyên truyền với người dân của họ và dư luận quốc tế rằng quân đội Trung Quốc đã tấn công sang toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam năm 1979 và kéo dài đến năm 1989 chỉ là cuộc "phản kích tự vệ", chứ không phải là một cuộc chiến tranh xâm lược. 

Sự thật về hành động và mức độ dã man của cái gọi là "phản kích tự vệ" mà Trung Quốc gây ra với Việt Nam năm 1979 - 1989 không thể biện minh bằng bất cứ lý do nào.

quakhu2

Nghĩa trang Vị Xuyên, mảnh đất bi hùng khiến trong lịch sử dân tộc.

Đó đích thực là một cuộc "xâm lược biên giới", chứ không phải là cuộc chiến tranh biên giới, càng không phải là một cuộc "phản kích tự vệ". 

Tuy nhiên, tại sao nó diễn ra và có cơ hội nào để tránh chiến tranh hay không là điều chúng ta cần làm rõ.

Hiện tại do phần lớn tài liệu về cuộc chiến hai bên đều chưa giải mật, nhưng đặt trong bối cảnh địa chính trị khu vực Đông Dương và cục diện quan hệ quốc tế thời bấy giờ, có thể nhận thấy những cơ hội tháo ngòi xung đột đã bị bỏ lỡ.

Thứ nhất là cuộc chiến ý thức hệ giữa phe xã hội chủ nghĩa với phe tư bản chủ nghĩa đã dần biến thành cuộc chiến tranh giành ngôi bá chủ giữa 3 siêu cường Mỹ - Trung - Xô, đã đẩy các nước nhỏ trở thành nạn nhân của các nước lớn.

Việt Nam đã trở thành đối tượng tranh giành ảnh hưởng gay gắt giữa Trung Quốc và Liên Xô trong cuộc đua trở thành "lãnh tụ cách mạng toàn cầu", đứng hẳn về bên nào cũng có thể khiến Việt Nam trở thành kẻ thù của bên còn lại.

Thứ hai, việc Việt Nam tấn công đánh trả các hành động chiến tranh đánh phá biên giới Tây Nam của bè lũ diệt chủng Khmer Đỏ và sau đó giúp nhân dân Campuchia loại bỏ bè lũ diệt chủng man rợ ấy là việc làm cần thiết, chính đáng, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân Campuchia. 

Nhưng trong bối cảnh đất nước Chùa Tháp vừa mới thoát khỏi cơn ác mộng diệt chủng, tàn dư Khmer Đỏ với sự hà hơi tiếp sức của Trung Quốc vẫn tiếp tục quấy phá, tìm cách lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ… lực lượng quân tình nguyện Việt Nam buộc phải duy trì sự hiện diện của mình thêm một thời gian cần thiết.

Chính hoàn cảnh này đã một mặt gây bất lợi vì tạo ra những hiểu lầm trong dư luận quốc tế và một bộ phận người Khmer, một mặt tạo cớ để Trung Quốc gây hấn.

Thứ ba, cho dù Trung Quốc thường nói rằng họ theo chủ nghĩa Mác - Lenin, nhưng thực chất tư tưởng coi mình là "trung tâm thiên hạ", tham vọng bành trướng xuống Đông Nam Á vẫn âm ỷ trong một bộ phận lãnh đạo cấp cao nước này qua nhiều thế hệ.

Chính vì thế, mọi động thái của họ trong quan hệ quốc tế luôn luôn có những tính toán phục vụ cho lợi ích và ý đồ chiến lược của họ là trên hết.

Chúng ta không bao giờ được quên và phủ nhận những đóng góp to lớn của Trung Quốc đã giúp Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến. Tuy nhiên, không phải vì thế mà quên rằng Việt Nam là cửa ngõ là phên dậu chống lại "phe tư bản chủ nghĩa" từ phía Nam dưới con mắt của một số chiến lược gia Trung Quốc.

Việt Nam là nước nhỏ, nhưng lại bị nhiều siêu cường nhòm ngó. Nếu ứng xử không khéo léo, không tìm cách tháo ngòi nổ xung đột, thì nguy cơ trở thành nạn nhân của những cuộc chiến tranh xâm lược là điều khó tránh khỏi.

Trong tình hình hiện nay, khi Biển Đông căng thẳng, đã có không ít quan điểm cho rằng Việt Nam phải liên minh với nước này, dựa vào nước kia để chống Trung Quốc.

Nếu điều đó xảy ra, thì một cuộc chiến bảo vệ Biên giới 1979 - 1989 có nguy cơ lặp lại.

Vì vậy, bên cạnh sự tự lực tự cường, việc đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại là hết sức cần thiết, không liên minh nước này để chống nước kia là lựa chọn sống còn đối với Việt Nam. 

Chỉ có như vậy, chúng ta mới có thể tìm cách đối thoại, tháo ngòi xung đột. Còn đương nhiên khi "cây muốn lặng mà gió chẳng đừng", thì giặc đến nhà đàn bà cũng đánh.

Nghiên cứu về cuộc chiến đấu bảo vệ Biên giới phía Bắc 1979-1989 mà không đặt vào bối cảnh địa chính trị khu vực, quốc tế thời kỳ đó để tìm cách tháo ngòi nổ xung đột, thì nguy cơ chiến tranh sẽ vẫn còn treo lủng lẳng trên đầu chúng ta.

Bài học thứ hai : chính sách đối ngoại cần dựa trên luật pháp quốc tế

Khách quan nhìn lại cách ứng xử của chúng ta trong quan hệ bang giao với các nước, đặc biệt là với Trung Quốc, qua cách nhìn đối với cuộc chiến bảo vệ Biên giới phía Bắc, có thể thấy rõ đã có lúc màu sắc của cảm xúc, tuyên truyền và các mục tiêu chính trị thường lấn lướt các nguyên tắc pháp lý trong bang giao quốc tế.

Có lẽ tình cảm yêu - ghét mãnh liệt đến cực đoan trong chúng ta đã dẫn đến những phản ứng còn mang nặng cảm xúc hơn lý trí trong quan hệ bang giao với một nước lớn đầy tham vọng và toan tính như Trung Quốc.

Những năm quan hệ nồng ấm chúng ta đã hết lời ca ngợi, nhiều khi thái quá.

Nhưng khi "cơm không lành, canh không ngọt", "anh cả Liên Xô" và "anh hai Trung Quốc" mâu thuẫn nhau, đẩy Việt Nam vào thế phải lựa chọn, rồi đến khi mâu thuẫn lợi ích lên đến cao trào, chúng ta chỉ trích không tiếc lời, thậm chí đưa cả vào những văn kiện chính thức.

Không cuộc chiến nào kéo dài mãi, không mâu thuẫn nào không có điểm dừng, đến khi bình thường hóa quan hệ, chính chúng ta rơi vào thế bí vì những tuyên bố giàu cảm xúc, lập trường chính trị ấy.

Thậm chí có những văn kiện chúng ta ban hành gây bất lợi cho chính chúng ta sau này trong đàm phán phân định biên giới với Trung Quốc bởi những câu chuyện đẫm mùi tuyên truyền mà thiếu tính khoa học, thiếu tính kiểm chứng.

Nó gây chia rẽ trong chính nội bộ của ta, và là đề tài cho các thế lực chính trị chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.

Đó là hạn chế của thời cuộc bởi dấu ấn của cuộc chiến ý thức hệ suốt mấy chục năm không dễ gì gột rửa. Nhưng nay thế thời đã thay đổi, quan hệ bang giao giữa các quốc gia là quan hệ giữa nhà nước với nhà nước, dựa trên luật pháp quốc tế và được thế giới thừa nhận.

Mọi mối quan hệ thân mật về chính trị chỉ có ý nghĩa tạo môi trường thuận lợi, tạo nhiều kênh đối thoại để giải quyết các tồn tại cũng như thúc đẩy hợp tác song phương.

Chính trị không thay thế được pháp lý, mà làm nền tảng cho pháp lý.

Vì vậy, đánh giá lại các sự kiện lịch sử như cuộc chiến bảo vệ Biên giới phía Bắc 1979-1989, cuộc chiến bảo vệ Biên giới Tây Nam, cuộc xâm chiếm Hoàng Sa 1974, Trường Sa 1988 rất cần một lăng kính khoa học, một thái độ khách quan, một cách tiếp cận cầu thị và bình tĩnh.

Mọi đánh giá áp đặt một chiều đều có mặt mạnh của nó trong những tình huống, hoàn cảnh nhất định để phục vụ một ý đồ nhất định, giúp đạt mục tiêu nhanh hơn. Nhưng về lâu dài, tác hại của nó lớn hơn rất nhiều, khó lường hết được.

Trong nội bộ dư luận Việt Nam có không ít quan điểm băn khoăn, hoài nghi về Hội nghị Thành Đô mà thực chất chỉ là những thỏa thuận chính trị giữa lãnh đạo hai Đảng để tạo nền tảng cho bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.

Còn mọi văn kiện hợp tác, ký kết giữa Việt Nam và Trung Quốc chỉ có ý nghĩa pháp lý dưới ánh sáng công pháp quốc tế, nếu nó được chính thức ký kết và thông qua bởi cơ quan quyền lực nhà nước có thẩm quyền của hai nước.

quakhu3

Hơn một nửa thác Bản Giốc của Việt Nam đã lọt vào tay Trung Quốc sau cuộc chiến tháng 2/1979

Những câu chuyện về thác Bản Giốc, Hữu Nghị Quan, núi Đất - Hà Giang vẫn âm ỷ trong lòng xã hội Việt Nam cho dù hiệp định phân định biên giới đã được ký kết sau quá trình đàm phán hết sức nghiêm túc, khách quan và thượng tôn pháp luật.

Bởi lẽ những tài liệu tuyên truyền của ta trong cuộc chiến bảo vệ Biên giới 1979 - 1989 có những nội dung không chính xác, nhưng lại không được giải ảo, giải mật mà xếp vào kho bí mật, nhạy cảm.

Cái thời của phe xã hội chủ nghĩa với phe tư bản chủ nghĩa đã qua, cái "thế giới đại đồng" hay còn được gọi bởi tên mới "cộng đồng chung vận mệnh" đã được chứng minh là một ảo mộng.

Thực tiễn khu vực và quốc tế hiện nay, nhất là sau Brexit và bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ cho thấy, chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc là không thể xóa nhòa. Ngược lại, nó sẽ được củng cố và hoàn thiện trong một sân chơi toàn cầu được bảo đảm bởi luật pháp quốc tế.

Chính vì vậy, khi đánh giá lại cuộc xâm lăng Biên giới Việt Nam 1979-1989 mà Trung Quốc tiến hành, cần đặt nó vào khung pháp lý quốc tế để xác định nguyên nhân, tìm ra bài học thay vì đứng trên lập trường chính trị, quan điểm chính trị.

Chỉ có như thế mới giúp hai đất nước, hai dân tộc thực sự hợp tác trên tinh thần "gác lại quá khứ, hướng tới tương lai".

Đây cũng chính là bài học quan trọng để giúp hai bên giải quyết các tranh chấp bất đồng trên Biển Đông hiện nay, nhất là chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, cũng như việc ứng dụng, giải thích UNCLOS 1982, chứ không phải niềm tin chính trị.

Bài học thứ ba : đề cao cảnh giác, tự lực tự cường

Đây là bài học muôn thủa trong hàng ngàn năm dựng nước, giữ nước của cha ông ta. Bài học Mỵ Châu - Trọng Thủy cần được thấm nhuần trong mọi hoạt động bang giao, đối ngoại của Việt Nam với các nước chứ không riêng gì Trung Quốc.

Chúng ta không phủ nhận vai trò và ý nghĩa của ngoại lực - sự giúp đỡ từ bạn bè quốc tế trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trước đây, cũng như việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Nhưng tinh thần tự lực tự cường, đề cao cảnh giác vẫn phải được đặt lên hàng đầu. Người Mỹ đã từng rút ra bài học mà chính chúng ta cũng đã từng nếm trải : miếng ăn miễn phí chỉ có trên bẫy chuột !

Trước khi nổ ra cuộc xâm lăng Biên giới phía Bắc 1979-1989, quan hệ Việt - Trung đã liên tục xấu đi và biểu hiện rõ bởi hoạt động "cắt viện trợ". Thực tiễn ấy cho thấy, mọi viện trợ đều có những tính toán chiến lược đằng sau nó.

Chúng ta nhận và nhận đến đâu, nhận như thế nào là một bài toán cần có một lời giải nghiêm túc.

Câu chuyện vay vốn ODA ngày nay cũng vậy, quan trọng không nằm ở chỗ vay được bao nhiêu tiền, mà là sử dụng đồng vốn vay thế nào cho hiệu quả nhất, ít thất thoát nhất mà không đánh đổi những lợi ích chiến lược.

Tháng Tư năm nay, Trung Quốc sẽ tổ chức một hội nghị quốc tế để quảng bá sáng kiến "một vành đai, một con đường" của họ và mời lãnh đạo nhiều nước tham dự, trong đó có Việt Nam.

Chúng ta nên chủ động tiếp cận trên tinh thần dùng luật pháp quốc tế soi sáng mục đích, ý nghĩa và cách thức vận hành của dự án "con đường, vành đai" này.

Những gì có thể hợp tác cùng có lợi thì nên triển khai, nhưng những gì cần bảo lưu về mặt chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia dân tộc thì không thể không tính đến.

Hợp tác và cạnh tranh đan xen nhau là một xu thế khách quan của lịch sử hiện đại. Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc hay với các nước khác đều không nằm ngoài xu thế ấy.

Sẽ có những cuộc chiến không tiếng súng, nhưng tác hại và hệ lụy của nó không kém gì chiến tranh nếu mất cảnh giác, trông chờ vào những nguồn vốn giá rẻ đi kèm công nghệ lạc hậu, ô nhiễm môi trường và một đội quân lao động tay chân tràn qua biên giới đến những địa bàn xung yếu của đất nước để làm ăn, kết hôn, sinh con đẻ cái.

Những ngày qua, báo chí cũng đã ôn lại sự kiện này như nén hương tưởng nhớ, tri ân những người ngã xuống và nhắc nhở thế hệ mai sau : đừng bao giờ "khép lại quá khứ", ngoảnh mặt với lịch sử, và đừng quên quá khứ, dù quá khứ ấy có cả những chuyện vui, chuyện buồn.

Người con đất Việt trong hay ngoài nước vẫn hướng về cuộc chiến vệ quốc vĩ đại bằng nhiều cách khác nhau. Những tiếng nói cần đưa vào trường học, vào sách giáo khoa bài học cụ thể về cuộc chiến ngày một nhiều.

Cá nhân người viết cũng chung tâm trạng ấy, mong muốn ấy. Trong khuôn khổ bài viết này, xin không nhắc lại những con số thương vong, những nỗi đau kéo dài theo năm tháng.

Chỉ xin tổng kết lại một số bài học từ cuộc chiến vệ quốc vĩ đại mà khốc liệt ấy, nhìn thẳng quá khứ để thấy rõ tương lai và vì vậy, chỉ có thể "gác lại quá khứ" chứ không được phép "khép lại quá khứ" !

TS Trần Công Trục

Nguồn : GDVN, 178/02/2017

Published in Diễn đàn

Truyền thông Nhà nước viết về cuộc chiến 1979 (RFA, 17/02/2017)

Mặc dù có ngăn chặn và bắt bớ những công dân tham gia hoạt động tưởng niệm như vừa nêu, nhưng báo chí nhà nước hôm nay lại có nhiều bài viết, phỏng vấn và hình ảnh về cuộc chiến biên giới diễn ra 38 năm về trước khiến 60.000 người Việt Nam thiệt mạng.

chientranh1

Năm nay báo chí trong nước có nhiều bài viết về cuộc chiến biên giới Việt Trung 1979. Screen shot

Báo VnExpress có một bài viết dài phỏng vấn những nhân chứng của cuộc chiến, những người lính đã tham gia chiến đấu, bị bắt và bị thương.

Báo Thanh niên phỏng vấn Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hà, nguyên Viện trưởng Viện lịch sử đảng về cuộc chiến. Trong bài phỏng vấn này ông Hà kêu gọi hai nước phải ngồi lại cùng nhau xem xét lại cuộc chiến dưới góc độ khoa học để có thể rút ra những bài học hữu ích cho tương lai.

Tờ Vietnam Net hôm nay cũng có bài viết có tựa ‘nhìn lại cuộc chiến tranh biên giới Việt Trung 1979. Trong khi đó kênh truyền hình VTC14 có một phóng sự dài hơn 30 chục phút ghi lại những lời kể và hình ảnh của cuộc chiến.

*****************

Hà Nội : Hàng chục người tưởng niệm cuộc chiến Việt-Trung 1979 (RFI, 17/02/2017)

chientranh2

Hàng chục người đã tập hợp trước tượng đài Lý Thái Tổ ở trung tâm thủ đô Hà Nội để kỷ niệm 38 năm ngày nổ ra cuộc chiến tranh biên giới

Vào hôm nay, 17/02/2017, hàng chục người đã tập hợp trước tượng đài Lý Thái Tổ ở trung tâm thủ đô Hà Nội để kỷ niệm 38 năm ngày nổ ra cuộc chiến tranh biên giới ngắn ngủi nhưng đẫm máu của Việt Nam chống lại Trung Quốc xâm lược.

Theo ghi nhận của hãng tin Mỹ AP, những người tham gia đã đến đặt hoa và thắp nhang trước tượng vua Lý Thái Tổ, dưới sự kiểm soát nghiêm ngặt của lực lượng cảnh sát, đã dùng loa phóng thanh kêu gọi đám đông giải tán.

AP đã trích lời một người tham gia đến dự lễ tưởng niệm bày tỏ nỗi "xúc động" trước việc còn có người nhớ đến những người đã hy sinh trong cuộc chiến tranh biên giới chống Trung Quốc vào năm 1979, những cũng bất bình trước việc chính quyền cố gắng hạn chế những cuộc tưởng niệm công cộng.

Theo hãng AP, chính phủ Việt Nam không có hoạt động chính thức nào đánh dấu sự kiện này, và cố gắng giới hạn các cuộc biểu tình phi chính thức. Thế nhưng các phương tiện truyền thông báo chí như đã được phép đề cập đến sự kiện này một cách rộng rãi.

Nhân dịp này, AP nêu bật : báo điện tử VnExpress hôm nay đã nêu lên một thực tế là cuộc chiến tranh biên giới đẫm máu và hủy diệt do Trung Quốc khởi động đánh vào Việt Nam, lại hiếm khi được đề cập trong một thời gian dài trước đây, và chỉ chiếm vỏn vẹn 11 dòng trong một quyển sách giáo khoa trung học.

Ngược dòng lịch sử thì ngày 17/2/1979, Trung Quốc bất ngờ tung hàng trăm nghìn quân tràn qua biên giới phía Bắc, đánh vào 6 tỉnh Lào Cai, Lai Châu, Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn, Quảng Ninh, gọi là để "dậy cho Việt Nam một bài học".

Theo một số nguồn tin, lực lượng Trung Quốc đánh vào Việt Nam lên đến 600.000 người, một con số còn cao hơn cả lực lượng Mỹ huy động vào cuộc chiến tranh Việt Nam trước đó, chỉ khoảng 550.000 người.

Còn lực lượng phòng thủ của Việt Nam lúc nổ ra chiến tranh chỉ khoảng 50.000 quân, chủ yếu là lính địa phương, công an võ trang và dân quân.

Gặp sức kháng cự dữ dội của Việt Nam, 30 ngày sau, Trung Quốc đã phải rút quân, để lại một khu vực biên giới phía bắc Việt Nam bị tàn phá nặng nề.

Quan hệ hai nước sau đó rơi vào tình trạng căng thẳng trong một chục năm, với những vụ đụng độ nhỏ dọc theo vùng biên giới, cho đến tận năm 1991 khi hai bên quyết định bình thường hóa quan hệ.

Cũng về quan hệ Việt-Trung, Bắc Kinh vào hôm qua, 16/02/2017 đã yêu cầu phía Việt Nam xin lỗi một công dân Trung Quốc mà Bắc Kinh cho là đã bị công an cửa khẩu Móng Cái (tỉnh Quảng Ninh, miền bắc Việt Nam) đánh đập ngày 07/02 vì không chịu đưa tiền hối lộ.

Theo hãng tin Anh Reuters, trong buổi họp báo thường kỳ, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc Cảnh Sảng cho biết là lãnh đạo vụ Lãnh Sự thuộc bộ Ngoại Giao Trung Quốc đã đặc biệt có cuộc tiếp xúc với đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh để "một lần nữa bày tỏ quan điểm cứng rắn" của Trung Quốc.

Phát ngôn viên này còn nói thêm : "Trung Quốc yêu cầu Việt Nam xin lỗi và bồi thường cho nạn nhân, xử lý nghiêm khắc những người có liên can và có những biện pháp hữu hiệu để bảo đảm sao cho việc này không tái diễn".

Theo phía Bắc Kinh, vụ việc đã làm dấy lên "công phẫn nơi các cư dân mạng" Trung Quốc.

Theo Reuters, ngày 15/02 vừa qua, bộ Ngoại Giao Việt Nam đã cho biết qua thư điện tử là chính quyền Hà Nội đang làm sáng tỏ vụ việc và sẽ giải quyết vấn đề tùy theo bản chất vụ việc.

Trọng Nghĩa

**************************

Bắt người tưởng niệm cuộc chiến biên giới Việt Trung (RFA, 17/02/2017)

chientranh3

Người dân đặt hoa và đốt nhang tưởng niệm những người đã mất trong cuộc chiến tranh biên giới với Trung Quốc hôm 17/2/1979. Ảnh chụp hôm 17/2/2017 tại Hà Nội. AFP photo

Công an đã bắt giữ khoảng hơn chục người và ngăn cản những người khác làm lễ tưởng niệm những người đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh biên giới với Trung Quốc hồi năm 1979.

Vào khoảng 9 giờ sáng, khoảng 100 người đã đến tượng đài Lý Thái Tổ ở trung tâm thành phố Hà Nội để thắp hương tưởng niệm những người đã chết trong cuộc chiến biên giới trước sự có mặt của rất đông công an và lực lượng an ninh. Hình ảnh video được phổ biến trên mạng sau đó cho thấy có một số người mặc thường phục đã tìm cách phá rối buổi lễ.

Tại Sài Gòn, vào sáng sớm, hàng chục người khác cũng đã tìm cách đến khu vực Tượng đài Trần Hưng Đạo ở quận 1 để làm lễ tưởng niệm. Tuy nhiên lực lượng công an, thanh niên xung phong, cảnh sát cơ động và công an mặc thường phục đã bao vây khu vực tượng đài tìm cách ngăn chặn mọi người vào làm lễ tưởng niệm. Một số người ở đây cũng bị bắt.

Đến cuối buổi chiều, những người bị tạm giữ đều được thả ra.

Trước đó vài ngày, các nhóm xã hội dân sự độc lập ở Việt Nam như Câu Lạc Bộ Lê Hiếu Đằng ở Sài Gòn và Nhóm No U ở Hà nội ra thông báo kêu gọi người dân tham gia lễ tưởng niệm và yêu cầu chính quyền đảm bảo an ninh cho lễ tưởng niệm.

*************************

Ngăn cản người dân vào Nghĩa trang Liệt sĩ Lạng Sơn (RFA, 17/02/2017)

chientranh4

Người dân Hà Nội đặt hoa hồng trắng tưởng niệm những người tử vong trong cuộc chiến tranh biên giới với Trung Quốc. Ảnh chụp hôm 16/2/2014. AFP photo

Một số người ở Bắc Giang lên Nghĩa trang Liệt sĩ tại Lạng Sơn để viếng một các liệt sĩ bỏ mình trong cuộc chiến biên giới phía bắc năm 1979 bị ngăn chặn.

Nhà hoạt động, thầy giáo Tô Oanh, cho biết như vừa nêu. Theo ông thì vào ngày 14 tháng 2 nhóm của ông gần chục người khi đến cổng Nghĩa Trang Liệt Sĩ thành phố Lạng Sơn thì bị trên 30 chục người khác đến vây lại đòi giấy giới thiệu và sự đồng ý của cơ quan chức năng địa phương mới có thể vào nghĩa trang để thắp hương cho các liệt sỹ.

Việc chụp ảnh từ bên ngoài nghĩa trang cũng bị ngăn chặn.

Thầy giáo Tô Oanh còn cho biết khi họ di chuyển trong địa bàn tỉnh Lạng Sơn, có nhiều người đi xe máy bám theo ; ngay cả khi dừng lại để ăn trưa.

Vào tối ngày 16 tháng 2, thầy giáo Tô Oanh cho Đài Á Châu Tự Do biết :

Khi tới đó, vừa dừng xe thì đã có trên 30 cán bộ anh ninh mặc thường phục ập đến vây quanh chúng tôi, trong đó trên một nửa là lực lượng nữ an ninh. Khi chúng tôi xuất trình giấy tờ để vào thắp hương các mộ thì không cho vào, họ đóng cổng, nói muốn vào thì phải liên hệ trước, phải có giấy giới thiệu rồi phải được địa phương đồng ý, chứ không được tự động. Chúng tôi dở máy ảnh ra chụp họ cũng không cho. Tôi có nói là ở đây đâu có ghi là cấm quay phim chụp ảnh, nhưng họ vẫn nói không được.

Trong những ngày vừa qua, hai nhóm tổ chức xã hội dân sự độc lập là Câu Lạc Bộ Lê Hiếu Đằng ở Sài Gòn và Nhóm No-U ở Hà Nội công khai kêu gọi trên mạng về việc tổ chức tưởng niệm cho đồng bào, binh sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến tranh biên giới phía bắc năm 1979.

Trong lời kêu gọi của nhóm No-U có đề nghị chính quyền Hà Nội bảo đảm an ninh, trật tự và ngăn chặn những người gọi là ‘dư luận viên’ đến quấy phá lễ tưởng niệm như từng xảy ra trước đây.

Published in Việt Nam

Cuộc chiến nổ ra ngày 17/2/1979 trên biên giới Việt - Trung thực ra đã nổ ra từ lâu trước đó, theo một sử gia từ Đại học Huế của Việt Nam.

Bas du formulaire

cuocchien1

Ông Hà Văn Thịnh cho rằng thực ra cuộc chiến 1979 trên Biên giới Việt - Trung đã khởi thủy từ năm 1974 khi Trung Quốc tấn chiếm quần đảo Hoàng Sa.

Bình luận với BBC hôm thứ Sáu nhân 38 năm đánh dấu cuộc chiến đẫm máu trên biên giới phía Bắc của Việt Nam sau khi Trung Quốc khởi binh tấn công trên toàn tuyến biên giới giữa hai nước, nhà sử học Hà Văn Thịnh nói :

"Tôi quan niệm hơi khác mọi người một chút, tôi cho rằng cuộc chiến tranh năm 1979 đã thực sự bắt đầu từ 19/01/1974 khi Trung Quốc đánh chiếm toàn bộ Hoàng Sa, đó là bắt đầu cuộc chiến tranh Việt Nam.

"Bắt đầu năm 1979 là đỉnh cao, năm 1988 nó biến thái, ngày 14/3/1988 chiếm Gạc Ma, một phần của Trường Sa, rồi tiếp đó, chúng ta biết đầu thế kỷ 21, nào là thành phố Tam Sa, nào là đường lưỡi bò (bản đồ đường chín đoạn).

"Rõ ràng là cuộc chiến tranh năm 1979 tôi nhấn mạnh là nó bắt đầu từ năm 1974, đến bây giờ nó vẫn đang tiếp diễn...

"Theo quan điểm quả tôi, chừng nào mà đất đai, biển đảo, máu thịt của Tổ quốc vẫn bị xâm lược Trung Quốc chiếm đóng, thì chừng đó chưa thể coi là bạn được".

Sử gia Hà Văn Thịnh nói về sự kiện 17/2/1979

Sử gia từ Huế chia sẻ một thống kê riêng của ông theo đó chỉ 5-10% sinh viên không thuộc ngành sử mà ông đã giảng dạy trong những dịp đánh dấu sự kiện biết được ngày 17/2/1979 là ngày gì và có ý nghĩa ra sao.

Khi được hỏi ông có tư vấn gì cho giới soạn thảo sách giáo khoa, giảng dạy, nghiên cứu và phổ biến lịch sử ở Việt Nam liên quan sự kiện trên và cuộc chiến Việt - Trung bắt nguồn từ đó, ông Hà Văn Thịnh nói :

"Trong hội đồng soạn thảo sách giáo khoa, có không ít các thầy của tôi, bây giờ bảo khuyên các thầy thì nó không đúng, nhưng với tư cách một học trò, tuy lớn tuổi rồi và cũng am hiểu đôi chút, tôi rất muốn góp ý là kính đề nghị các thầy, kính đề nghị các đồng nghiệp bằng tuổi tôi hoặc ít hơn tuổi tôi là cần phải tôn trọng lịch sử, cần phải tôn trọng sự thật.

"Chứ không thể nào chung chung, rồi mơ hồ, nửa biết, nửa không như vậy, trắng không ra trắng, đen không ra đen…", ông Hà Văn Thịnh, người có nhiều thập niên giảng dạy và nghiên cứu sử học tại Đại học Huế nêu quan điểm với BBC.

'Phải tạo áp lực'

Cũng hôm 17/2/2017, BBC đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Quang Thạch, nhà chủ xướng chương trình Sách hóa Nông thôn ở Việt Nam, ông cho BBC hay, hiện tại trong sách giáo khoa phổ thông ở nhà trường Việt Nam chí có vỏn vẹn '11 dòng' nói về cuộc chiến Việt - Trung năm 1979 với sự kiện mà ông gọi đích danh là 'Trung Quốc xâm lược Việt Nam'.

Sử gia Hà Văn Thịnh nói về cuộc chiến Việt - Trung 1979

Về ý nghĩa của việc người dân, nhất là giới trẻ, cần nắm được sự kiện 17/2/1979 nói riêng và những trang sử của quốc gia, kể cả những thăng trầm của dân tộc, nhà vận động văn hóa sách ở nông thôn Việt Nam nói :

"Những năm tháng, giai đoạn, những tấm thảm sử của đất nước, nếu người dân không biết, chúng ta phải luôn luôn nhắc nhở chính mình là một đất nước đánh lại, chống lại được ngoại xâm, trước hết chúng ta phải tự cường, tự lực, phải có sức mạnh và phải biết đến những tấm thảm sử của dân tộc để chúng ta cùng nhau lao động, học tập, cùng nhau đặt nền tảng cho sự phát triển của quốc gia, để chúng ta có một sức mạnh...

"Bản thân sức mạnh là sự tự kháng đối với những thế lực mà muốn bành trướng, xâm chiếm quốc gia, thành ra việc chúng ta phải nhắc lại những câu chuyện của lịch sử là nghiễm nhiên và mỗi chúng ta phải nỗ lực.

"Nếu trường hợp sách giáo khoa thời gian tới người ta chưa làm, thì chúng ta phải tạo áp lực xã hội, tạo dư luận để buộc người ta phải đưa vào. Đấy là chuyện đương nhiên.

"Còn một mặt nữa, với tư cách công dân, những người hiểu biết... phải biết phổ biến nó, nói với những người xung quanh mình, nói với những đứa trẻ, với đồng nghiệp, với bạn bè của mình để sự nhận biết về lịch sử được lan truyền trong dân chúng là việc nghiễm nhiên", ông Nguyễn Quang Thạch nói với BBC hôm thứ Sáu.

Quốc Phương

*************************

Cuộc chiến biên giới 1979 chưa được đề cập ‘tương xứng’ (VOA, 17/02/2017)

Sử gia Dương Trung Quc, cũng là mt đi biu quc hi Vit Nam, tha nhn gn đây có sự gia tăng thông tin v chiến tranh biên gii Vit – Trung năm 1979 trên các phương tin thông tin chính thng ca Vit Nam. Nhưng theo ông, mc đ đ cp vn "chưa tương xng" vi lch s vì nhng yếu t phc tp trong mi quan h Vit – Trung, nhất là trong bi cnh hin nay.

cuocchien2

Nghĩa trang các chiến sĩ Vit Nam hy sinh trong trn chiến ngày 17/2/1979 vi Trung Quc.

Nhân dịp k nim 38 năm cuc chiến 1979, hu hết các cơ quan báo chí chính thng Vit Nam hôm 16/2 đu đăng mt ni dung khá chi tiết v din tiến cuc chiến mà t trước ti nay ch được nói đến trong khong 10 dòng ch trong sách giáo khoa.

Nhà sử hc Dương Trung Quc cho rng s kin truyn thông bt đu đ cp ngày càng nhiu v cuc chiến biên gii phía Bc là do nhu cu xã hi đòi hi phi có s công bng và trung thc vi lch s.

Ông nói :

"Đúng là có một thi gian phi chăng là vì mối quan h gia hai nước, nht là hai đng, có s cam kết vi nhau là tránh nêu nhng vn đ đó lên, nên mc đ th hin rõ ràng là không tương xng vi s tht lch s. Gi đây, tôi nghĩ là có th có nhiu người nêu lên hơn cái nhu cu, nht là độ lùi thi gian nó đòi hi phi làm cho không nhng là công bng, mà còn phi làm cho nó trung thc vi lch s hơn".

Trong khi đó, tác giả ca rt nhiu bài viết nghiêm cu v cuc chiến tranh Vit – Trung năm 1979, giáo sư Ngô Vĩnh Long ti đi hc Maine, Hoa Kỳ, nhận xét v đng thái "m ca" thông tin v cuc chiến biên gii :

"Có rất nhiu người đã hy sinh trong cuc chiến 1979. Thành ra h rt bt mãn vì Trung Quc đã phá hoi 6 tnh min Bc và giết rt nhiu người dân Vit Nam. Cho nên tôi nghĩ chính phủ cũng phi m ra mt chút cho dân chúng khi phn ut quá, đc bit là hin nay Trung Quc đang có rt nhiu nh hưởng và đã gây nhiu xáo trn Vit Nam trong mi lãnh vc".

Tuy thừa nhn gn đây Vit Nam có s gia tăng đ cp trên truyn thông hay nỗ lc tìm kiếm các di tích, nhưng s gia Dương Trung Quc vn cho rng cuc chiến tranh biên gii năm 1979 vn chưa được nói đến mt cách tương xng vi thc tế lch s.

Ông phân tích :

"Dẫu sao đi na, quan h Vit Nam vi Trung Quc cũng có yếu t tương đi đc bit, là hai quc gia dính lin nhau, hai quc gia đã tng cùng mt [h thng] chính tr, k c đến ngay bây gi, bên cnh quan h nhà nước còn quan h đng. Chính vì thế phi ng xử như thế nào thì đây là mt vn đ thc tin đt ra. Còn ng x đã đáp ng được nhu cu ca người dân, là điu quan trng nht, hay chưa thì tôi cho đó vn là mt câu hi, đ mà tìm ra mt tiếng nói chung, mt cách ng x chung đ va bo đm được là trung thực vi lch s, va bo đm là không to ra môi trường không thun li cho vic duy trì mi quan h tích cc này".

Về phía người dân, gn đây, mt s cá nhân và t chc xã hi dân đã t t chc các hot đng tưởng nim công khai. Trong khi mt s khác có ý kiến phi đưa cuc chiến biên gii 1979 vào sách giáo khoa mt cách đy đ, trung thc vi lch s. S gia Dương Trung Quc cho rng vic này không d thc hin ngay tc thi mà đòi hi mt quy trình, trong đó không ch cuc chiến biên gii phía Bắc mà cả nhng vn đ lch s khác như hi đo, cũng phi được nêu lên mt cách tương xng hơn.

Ông nói thêm :

"Lẽ ra là chính các nhà s hc Trung Quc và Vit Nam phi ngi vi nhau nếu thc s mun nghiêm túc rút ra nhng bài hc đ tránh đ máu, tránh gây lại nhng chuyn cũ. Nó cũng ging như câu chuyn Vit Nam vi M, Vit Nam vi Pháp… Thế nhưng rt tiếc là điu đó chưa thc hin được. Tôi cho rng đây chính là vn đ cn đt nó ra đ nghiên cu mt cách hết sc khách quan và trung thc. Thế nhưng mà điều đó phi nói là không đơn gin, nht là trong bi cnh hin nay, k c trong quan h gia Vit Nam và Trung Quc".

Ngày 17/2/1979, Trung Quốc đã đưa quân tn công 6 tnh biên gii phía bc Vit Nam. Báo chí trong nước đưa tin Bc Kinh đã "huy đng cả hải quân và không quân", vi 60 vn quân và hàng trăm xe tăng, xe bc thép và hàng ngàn khu pháo m đu cuc tn công. Ngày 5 tháng 3 năm 1979, Vit Nam ra lnh tng đng viên. Trong cùng ngày, Trung Quc tuyên b đã hoàn thành mc tiêu chiến tranh, chiến thắng và bt đu rút quân.

Published in Diễn đàn

Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc từng là nỗi đau của dân tộc vì hàng chục ngàn chiến sĩ, người dân đã bỏ mình khi Trung Quốc xua quân tiến đánh nước ta vào năm 1979. Có điều kể từ sau Hội nghị Thành Đô đến nay báo chí không được phép nhắc tới, sách giáo khoa cũng không dạy cho học sinh dù chỉ là một cách sơ sài. Từ nhiều năm trước dư luận đã bức xúc và yêu cầu đổi chương trình lịch sử trong sách giáo khoa cho tới thời gian gần đây thì việc này mới được Bộ giáo dục cho phép trong chương trình cải cách sách giáo khoa.

giaokhoa1

Người dân Hà Nội tưởng niệm cuộc chiến xâm lược của Trung Quốc lên vùng biên giới phía Bắc Việt Nam 17/2/1979 - 17/2/2016.  AFP photo

Mặc Lâm phỏng vấn Giáo sư Vũ Dương Ninh, người tham gia vào việc biên soạn lịch sử trong sách giáo khoa mới sẽ xuất bản vào năm 2018.

Phải khách quan chuyện lịch sử

Mặc Lâm : Thưa Giáo sư, vấn đề cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc lại âm ỉ trở lại nhất là lúc mà sách giáo khoa mới sắp xuất bản. Là người tham gia biên tập chương trình mới ông có thấy vui về kết quả này không ?

Vũ Dương Ninh : Sự kiện này tôi nhớ hồi năm trước cũng đã có bàn bạc nhiều rồi. Sách giáo khoa không đưa lên đầy đủ nội dung của sự việc trong sách giáo khoa mà đưa một một cách sơ sài cho nên người học sẽ không nắm vững được vấn đề. Theo như năm ngoái đã thảo luận thì sách giáo khoa mới sẽ được cải biên một cách đầy đủ để cho học sinh có thể hiểu được những gì đã xảy ra.

Mặc Lâm : Trong một năm chờ đợi từ đây tới năm 2018 học sinh lại vẫn tiếp tục chịu thiệt thòi về những lỗ hổng mà Bộ Giáo dục tạo ra, ngoài việc phải chờ đợi thì thầy cô giáo có cách nào nhắc nhở một cách nhẹ nhàng về cuộc chiến năm 1979 không ạ ?

Vũ Dương Ninh : Thật ra thì bây giờ sách giáo khoa đang cải cách và người ta dự tính thay và đang viết trong năm nay. Chưa có sách giáo khoa mới nhưng các địa phương họ đều soạn thêm bài một cách rõ ràng theo ý đó. Theo kế hoạch thì đến năm 2018 khi có sách giáo khoa mới thì sẽ đưa nội dung mới vào còn bây giờ thì họ có những bài giảng để bổ sung vào những chỗ đó.

Mặc Lâm : Báo chí, dư luận xã hội đã nói quá nhiều về việc né tránh không cho học sinh biết sự thật về cuộc chiến tranh này, theo Giáo sư né tránh như vậy có phải là cách hành xử đúng đắn của nền giáo dục và liệu khi học sinh tự tìm hiều và biết được sự thật qua các nguồn khác thì kết quả sẽ ra sao ?

Vũ Dương Ninh : Tôi nghĩ thế này, nó là vấn đề lịch sử thì mình phải nói một cách khách quan những chuyện đã xảy ra. Vì nói hay không nói thì chuyện cũng đã xảy ra rồi phải cần cho học sinh biết. Vấn đề là thế này, chuyện xảy ra như vậy nhưng tại sao lại như vậy cần phân tích cho học sinh hiểu. Cũng như trước đây trong cuộc chiến chống Pháp và chống Mỹ thì mình cũng nói lên hết nhưng nó đâu có ảnh hưởng quan hệ Việt Pháp hay Việt Mỹ đâu ? Cái này nó có khó khăn hơn tức là nó không giống như đã xảy ra nhưng tôi nghĩ thế nào thì cũng phải nói một cách rõ ràng những sự việc nó xảy ra là như vậy.

Đến lúc phải thay đổi ?

VIETNAM-CHINA-WAR

Người dân dọc biên giới phía Bắc thuộc tỉnh Lạng Sơn chạy lánh nạn khi Trung Quốc đem quân xâm chiếm Việt Nam. Ảnh chụp hôm 23/2/1979. AFP photo

Mặc Lâm : Nhiều nhận xét cho rằng Trung Quốc như một quả bom nổ chậm nằm ngay trên đầu Việt Nam nên cố tránh không gây tác động tới ngòi nổ của nó là thượng sách nhất. Theo ông không nhắc tới hay né tránh sự thật lịch sử có phải là cách hay nhất để tránh chiến tranh hay không ?Và tai hại nhãn tiền cho học sinh có được thấy trước ?

Vũ Dương Ninh : Vâng, tất nhiên đã gọi là lịch sử thì nó phải khách quan, nói cho đầy đủ còn né tránh thì hậu quả sẽ rất là tai hại. Một lần người ta đã không hiểu được điều gì đã xảy ra mà khi đã không hiểu thì nhận thức về tình hình sẽ sai lầm cho nên chúng tôi thảo luận nhất quyết phải đưa sự thật lịch sử vào trong sách giáo khoa. Dĩ nhiên sách giáo khoa thì không thể nói được hết bởi vì nó có khuôn khổ một bài giảng, khuôn khổ của một cuốn sách nhưng vấn đề cốt lõi là phải nói cho đúng những sự kiện đã xảy ra. Như vậy để tránh tình trạng học sinh không hiểu về những vấn đề đang xảy ra và do đó ý thức bảo vệ tổ quốc, ý thức về gìn giữ biên giới cũng như biển đảo mình phải nâng cao ý thức đó cho học sinh trong thế hệ thanh niên mới.

Những điều đó chúng tôi đã thảo luận và nhất quyết đề cập tới vấn đề này một cách khách quan, chân thực và từ đó nhắc nhở hai điều, một là nhắc nhở tới những người đã hy sinh trong cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước hai là nhắc nhở tinh thần luôn luôn sẵn sàng bảo vệ tổ quốc. Chúng ta sống trong hòa bình thế nhưng phải luôn luôn trong tư thế bảo vệ đất nước của chúng ta. Đó là những điều chúng tôi sẽ thể hiện trong sách giáo khoa.

Mặc Lâm : Trong thời gian gần đây báo chí có vẻ được nới lỏng khi nhắc tới cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc với những bài viết gây cho người đọc nhiều cảm xúc. Có phải việc cho phép cải biên sách giáo khoa nằm trong cùng một thời điểm mà người ta thấy cần phải thay đổi hay không ạ ?

Vũ Dương Ninh : Vâng lý thuyết thì như thế. Phải nói rằng cho tới nay sau khi diễn ra cái vụ dàn khoan thì mạng xã hội bùng lên từ đó người ta mới đặt vấn đề mạnh mẽ phải đưa lịch sử chống Trung Quốc vào sách giáo khoa và từ đó đến nay năm nào cũng thảo luận về vấn đề này nhất là các tiềm năng để mà thử nghiệm về các dữ kiện họ tấn công ta ở phía Bắc cũng như ở đảo Gạc Ma. Bây giờ gần như nó đã được khẳng định nhất thiết phải đưa vào sách giáo khoa.

Điều này thì chỉ có lợi thôi, có lợi cho việc giáo dục thế hệ trẻ, thế hệ mới và như tôi vừa nói họ sẽ hiểu về nhiệm vụ trong việc bảo vệ tổ quốc đồng thời cũng vinh danh những người đã hy sinh trong cuộc đấu tranh này. Những điều đó tôi thấy là cần thiết nhưng mà cho tới nay vẫn đang biên soạn sách giáo khoa mới cho nên trong lúc chờ đợi từ năm ngoái đến năm nay tức là trong khi chưa có sách giáo khoa mới thì các sở giáo dục đã có biên soạn các tài liệu bổ sung để giảng dạy rồi. Không còn như cũ nữa đâu mà họ đã bổ sung sách mới vào rồi. Thế còn khi bộ giáo khoa mới vào năm 2018 thì chắc chắn sẽ đem chương trình lịch sử mới này vào.

Mặc Lâm : Xin cám ơn Giáo sư.

Mặc Lâm, biên tập viên RFA

Nguồn : RFA tiếng Việt, 16/02/2017

**************

Trung Quốc nói về chiến tranh biên giới 1979 (BBC, 16/02/2017)

giaokhoa3

Cuộc chiến 1979 gây tổn thất lớn cho cả hai bên

Nhân dịp 33 năm cuộc chiến biên giới Việt-Trung, mời quý vị cùng điểm qua nguồn tin Trung Quốc nói về sự kiện này.

Gần đây, các trang mạng kể cả chính thống của Trung Quốc đăng tải một số bài viết về cuộc chiến biên giới 1979. Nhà nghiên cứu Dương Danh Dy gửi từ Hà Nội bản dịch của ông cho bài trên mạng China.com, tựa đề "Trong cuộc đánh trả tự vệ Việt Nam năm 1979 : Vì sao không chia cắt Việt Nam, thương vong khi rút về lớn hơn khi tấn công ?".

Bài viết nhận định : "Năm 1979, trong trận đánh trả tự vệ Việt Nam, quân đội Trung Quốc với thế nhanh chóng tấn công, quân Việt từng bước tan rã, quân đội Trung Quốc nhắm thẳng Hà Nội. Sau đó Trung Quốc tuyên bố trận đánh đã đạt mục đích, tự rút quân về nước".

Tuy nhiên, bài này cũng thừa nhận : "Lâu nay chúng ta luôn tuyên truyền và miêu tả rằng chúng ta đã thắng lợi và Việt Nam đã thất bại, nhưng cùng với thời gian những văn kiện của chính quyền và tư liệu của Việt Nam cho thấy, cuộc chiến này không lạc quan như tuyên truyền trước đây, trong đó có nhiều bài học nặng nề đau đớn khiến chúng ta không thể không phản tỉnh một cách sâu sắc".

Các bài học đó là : Thứ nhất, kỷ luật quân sự nghiêm túc đã làm "quân ta" phải trả giá trầm trọng.

"Ba kỷ luật lớn, tám điều chú ý mà quân đội ta giữ nghiêm đã phát huy tác dụng lớn trong cuộc nội chiến Quốc, Cộng ; thế nhưng khi chúng ta vào Việt Nam đánh quân đội và chính quyền Việt Nam mà vẫn thực hiện ba kỷ luật lớn tám điều chú ý là tự trói chân trói tay mình lại, hy vọng dùng những cái đó để tranh thủ sự giúp đỡ và ủng hộ của nhân dân Việt Nam thì chẳng khác gì đàn gẩy tai trâu, tự chuốc lấy nhục."

"Nhân dân Việt Nam không phải là công dân Trung Quốc, làm sao họ có thể gần gũi quân đội nước ngoài đánh vào đất nước họ ?"

"Chiến tranh là chiến tranh, nhất là chiến tranh giữa các quốc gia, anh không thể hy vọng nhân dân nước khác đánh trống khua chiêng hoan nghênh anh xâm chiếm người ta, đó chẳng qua chỉ là trò bịt tai đi ăn cắp chuông, tự lừa dối mình và lừa dối người."

Bài học thứ hai, theo bài trên China.com, là "không quân phát triển trì trệ, lạc hậu không có sức công kích".

"Thứ ba, hải quân Biển Đông lúc đó còn chưa phát triển. Cuộc chiến hoàn toàn diễn ra trên lục địa Việt Nam."

Tác giả bài viết tỏ vẻ luyến tiếc về việc Trung Quốc không nhân cơ hội thu chiếm luôn các đảo ở Biển Đông.

"Đánh Việt Nam vừa để dạy bài học, vừa thu hồi lãnh thổ bị chiếm, vùng gần biên giói trên bộ bị Việt Nam chiếm giữ đã thu hồi hết cớ làm sao không thu hồi các đảo, bãi trên Biển Đông bị Việt Nam chiếm giữ ?"

"Điều giải thích duy nhất là hải quân của chúng ta chưa đủ, không chỉ chưa đủ để đánh lùi hải quân Việt Nam chiếm giữ đảo bãi của ta mà còn khó có thể đóng giữ ở đó, đánh lùi được kẻ địch tới xâm phạm. Điều khiến người ta lấy làm tiếc là các đảo bãi trên Biển Đông dưòng như đã bị các nước láng giềng xung quanh chia nhau chiếm hết rồi."

Đặc biệt, bài viết còn cho rằng tới nay hải quân Trung Quốc "vẫn chưa dùng tới sức đã có của mình để giải phòng và bảo vệ các đảo, bãi thiêng liêng đó".

Lý do thứ tư gây ra tổn thất cho quân đội Trung Quốc được cho là vì "sức ép bên ngoài".

"Khi quân đội ta đã tiến gần Hà Nội, dưói sức ép của thế lực quốc tế đứng đầu là Liên Xô, chúng ta không chỉ tuyên bố đình chỉ tấn công, mà còn công khai tuyên bố lập tức rút quân."

"Đó là một sai lầm chính trị và quân sự to lớn, trước khi rút quân đã tuyên bố rút sẽ khiến kẻ thù dễ dàng có thời gian và không gian chuẩn bị phản kích, địch có chuẩn bị còn ta thì không, địch thong dong mà chúng ta vội vã, không bị thương vong lớn mới là chuyện lạ."

Tổn thất lớn

Cho tới nay, thống kê vẫn chưa đồng nhất về con số thương vong của hai bên trong cuộc chiến biên giới Việt-Trung, mà Trung Quốc khởi xướng với động cơ mà Bắc Kinh gọi là "đánh trả tự vệ".

Phía Trung Quốc nói quân lính Việt Nam chết và bị thương vào khoảng 50.000 - 70.000, lính Trung Quốc khoảng 20.000.

Cũng trên mạng China.com từng đưa ra con số được nói là theo ghi chép từ hồ sơ mật về Trận Phản kích Tự vệ với Việt Nam, rằng Trung Quốc "tiêu diệt gần 6 vạn quân Việt Nam, trong đó hơn 42.000 đã chết và hơn 10.000 người bị thương, hơn 2.000 người bắt làm tù binh".

Phía Việt Nam thì trong một số bản tin hiếm hoi nói tiêu diệt hơn 30.000 lính Trung Quốc.

Tạp chí Time của Mỹ lại đưa ra con số khá khác biệt : ít nhất 20.000 lính Trung Quốc thiệt mạng, trong khi số bộ đội Việt Nam chết chưa tới 10.000 .

Hàng nghìn dân thường Việt Nam cũng thiệt mạng và thương vong.

******************

Ai cố tình lãng quên cuộc chiến biên giới Việt-Trung 1979 ? (RFA, 15/02/2017)

giaokhoa4

Bộ đội Việt Nam trên vùng biên giới phía bắc trong cuộc chiến biên giới với Trung Quốc hôm 1/3/1979. 600 ngàn lính Trung Quốc tấn công các tỉnh dọc biên giới của Việt Nam ngày 17 tháng 2 năm 1979. AFP photo

Chiến tranh biên giới Việt-Trung năm 1979 được truyền thông chính thống Việt Nam nhắc đến trong vài năm trở lại đây khiến dư luận thắc mắc bởi vì trước đây là sự im lặng, thậm chí bia thảm sát người Việt do lính Trung Quốc thực hiện trong cuộc chiến biên giới bị đục bỏ.

Liệu có phải tâm tư, nguyện vọng của các gia đình cựu chiến binh cùng nạn nhân trong cuộc chiến được nhà cầm quyền Hà Nội lắng nghe sau gần 4 thập niên ?

Nhà nước không tổ chức tưởng niệm

Cuộc chiến biên giới nổ ra vào sáng sớm ngày 17 tháng 2 năm 1979 khi 600 ngàn quân lính Trung Quốc tấn công các tỉnh dọc biên giới của Việt Nam ; bao gồm Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai và Lai Châu. Sau một tháng, Trung Quốc tuyên bố đã đạt mục đích và rút quân. Ghi nhận cho thấy hàng ngàn người dân Việt, đa số là phụ nữ và trẻ em bị giết hại trong thời gian quân Trung Quốc đánh sang Việt Nam. Nhiều cơ sở hạ tầng như khu dân cư, nông trường, hầm mỏ, nhà máy… bị san bằng.

Tuy vậy, cuộc chiến biên giới Việt-Trung không hoàn toàn chấm dứt vào ngày 16 tháng 3 năm 1979, thời điểm rút quân cuối cùng của Trung Quốc ; mà xung đột vũ trang giữa 2 nước còn tiếp diễn cho đến năm 1990. Đến tháng 11 năm 1991, Hà Nội và Bắc Kinh chính thức ký kết bình thường hóa quan hệ ngoại giao.

Mặc dù Việt Nam gọi tên đó là cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía bắc, đẩy lùi được âm mưu xâm lược của Trung Quốc, nhưng suốt gần 3 thập niên, nhà cầm quyền Hà Nội không chính thức tổ chức tưởng niệm ; cũng như không được các cơ quan truyền thông do Nhà nước quản lý nhắc đến dịp ngày 17 tháng 2 hàng năm.

Dẫu thế không vì vậy mà ký ức về đồng bào bị thảm sát, dân lành và quân nhân bị thương vong bởi quân đội Trung Quốc tàn bạo gây nên bị lu mờ trong tâm tưởng của các nạn nhân còn sống sót và trong lòng của nhiều người dân Việt Nam. Họ đặt ra câu hỏi vì sao cuộc chiến biên giới Việt-Trung năm 1979, một trang sử hào hùng của dân tộc lại bị đảng và nhà cầm quyền lãng quên trong nhiều năm trời như thế ?

Đáp câu hỏi vừa nêu với RFA nhân dịp kỷ niệm 38 năm cuộc chiến biên giới Việt-Trung, một số nhân sĩ trí thức trong nước cho biết kể từ khi Liên Xô và khối Đông Âu tan rã, Hà Nội đã quyết định "bắt tay" với Trung Quốc như một cách để duy trì chế độ và thực hiện chủ trương cũng như chỉ đạo bộ máy hành chính Việt Nam không được nhắc lại chuyện cũ, những xích mích hay rạn nứt với Trung Quốc trước đó.

Được lên tiếng nhỏ giọt

VIETNAM-CHINA-WAR

Một lính biên phòng Việt Nam bị thương trong cuộc xâm lược của Trung Quốc lên các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam hôm 17/2/1979. AFP photo

Thế nhưng, Đài Á Châu Tự Do ghi nhận vài năm trở lại đây, truyền thông chính thống nhắc đến cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 một cách nhỏ giọt và ngày càng chuyển tải ý nguyện của nhiều người dân rằng lãng quên là có tội ; cũng như cần phải cho con cháu đời sau nhận thức rõ bản chất xâm lược của Trung Quốc qua cuộc chiến đó. Nguyên Phó Tổng Biên tập Báo Sài Gòn Giải Phóng, ông Kha Lương Ngãi lên tiếng về lập luận của ông vì sao có hiện tượng Hà Nội cho phép cơ quan báo đài trong nước đưa tin liên quan cuộc chiến biên giới sau nhiều năm cấm đoán :

"Tôi không có đầy đủ thông tin để phát biểu chuyện này nhưng theo tôi đoán họ bị mang tiếng là ôm chân Bắc Kinh, chịu lệ thuộc Bắc Kinh để được bảo hộ đảng và chế độ cầm quyền. Họ bị mang tiếng quá rồi cho nên họ nới lỏng ra. Chắc cõ lẽ là như vậy."

Từ Nha Trang, nhà báo độc lập Võ Văn Tạo cho biết theo ghi nhận của ông chiến tranh biên giới năm 1979 bắt đầu được truyền thông lề phải nhắc đến từ việc không đề cập ai đã khơi mào cuộc chiến cách nay vài năm và dần dần phổ biến thông tin đầy đủ hơn về cuộc chiến cũng như các hệ lụy sau cuộc chiến. Nhà báo Võ Văn Tạo cho rằng đây là minh chứng cho dấu hiệu nới lỏng của Ban Tuyên giáo trong chỉ đạo đăng tải thông tin về chiến tranh biên giới năm 1979 nhưng không có nghĩa là được tự do trong việc đưa tin. Qua đồng nghiệp cũ và bạn bè trong giới báo chí, nhà báo Võ Văn Tạo được cho biết :

"Ban Tuyên giáo có chỉ đạo, ví dụ sắp tới đây là ngày bao nhiêu đó thì bắt đầu được đăng ; báo A, báo B đăng nhưng báo C, báo D thì chưa đăng rồi cách đấy một hai ngày thì báo C, báo D mới đăng… Đại khái là có những điều tiết nên không hoàn toàn là thống nhất, nhất quán đâu. Việc chỉ đạo báo chí thì cũng trồi sụt tùy theo ‘nóng lạnh’ giữa Ba Đình với Bắc Kinh."

Về phía dân chúng trong nước, những người quan tâm đến cuộc chiến tranh biên giới bi hùng năm 1979 chia sẻ với RFA việc tìm kiếm thông tin trong thời đại internet là đều không khó nhưng đối với họ đã đến lúc Chính phủ Việt Nam cần nhìn nhận cuộc chiến một cách đúng đắn và những người lính hy sinh để bảo vệ tổ quốc cần được vinh danh, cũng như tưởng nhớ nạn nhân bị sát hại trong cuộc chiến đó.

Hòa Ái, phóng viên RFA

Published in Diễn đàn

Chiến tranh xâm lược mà quân đội Trung Quốc tiến hành với chiêu bài "phản kích tự vệ" có thể đánh lừa người dân Trung Quốc nhưng không thể đánh lừa cả thế giới.

Hè năm 1966, khi Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, những sinh viên vừa nhập học khóa 11 Đại học Bách Khoa Hà Nội phải sơ tán lên Lạng Sơn. 

Tàu chạy từ Hà Nội lúc tối, qua Kép một đoạn phải tăng bo vì cầu hỏng, tất cả vào rừng sơ tán đợi đến tối mới lại có tàu đi tiếp. 

Đến Đồng Đăng lúc gần sáng, cả lớp lầm lũi đi, chẳng đứa nào buồn nói chuyện vì mệt và đói.

Chặng đường đi bộ khoảng 30 cây số từ ga Đồng Đăng đến Lũng Vài (xã Trùng Quán, huyện Văn Lãng) phải vượt qua một con dốc khá dài là dốc Bố Củng.

Thấy những xe quân sự Trung Quốc chạy, mấy đứa xui bọn con gái giơ tay vẫy, một xe dừng lại cho chúng tôi lên. 

Việc giấu tiên là mấy người lính trẻ Trung Quốc phát cho chúng tôi mỗi người một quyển "Mao tuyển" bìa màu đỏ to hơn bàn tay, tiếp đó mỗi đứa nhận được một chiếc huy hiệu "lãnh tụ vĩ đại". 

Vận dụng vốn tiếng Trung ít ỏi học ở phổ thông, mấy đứa "xia xia thủng chư mân", mấy người lính Trung Quốc cười vui vẻ móc túi cho thêm mỗi đứa một phong lương khô.

Tưởng chừng những kỷ niệm tốt đẹp ấy sẽ còn được nhân lên vì câu hát "Việt Nam Trung Hoa, núi liền núi, sông liền sông,…".

Không ngờ hơn chục năm sau, tháng 3 năm 1979, chúng tôi, những thày trò các trường Đại học trên địa bàn tỉnh Bắc Thái (nay là Thái Nguyên, Bắc Kạn) lại phải lên Lạng Sơn, lần này là trên những chiếc Zil ba cầu của Liên Xô. 

Một trung đoàn tự vệ chiến giấu gồm đa số là giảng viên và sinh viên đại học được lệnh hành quân gấp lên mặt trận Khánh Khê, vũ khí trang bị cho các chiến sĩ chỉ có một khẩu tiểu liên K63, 200 viên đạn và mấy quả lựu đạn chày. 

bg1

Bộ đội Việt Nam đánh trả quân Trung Quốc xâm lược tại Lạng Sơn năm 1979. (Ảnh trên vtc.vn)

Trên chốt tiền tiêu phía nam giấu cầu Khánh Khê các chiến sĩ phải ăn hạt bo bo luộc với cà pháo, tuy không có những trận đánh lớn nhưng tổn thất là không tránh khỏi.

Thấm thoắt chỉ hai năm nữa là tròn 40 năm ngày quân đội Trung Quốc vượt biên tấn công toàn tuyến biên giới phía bắc Tổ quốc ta. 

Có nhìn tận mắt cảnh trâu chạy lạc vào bãi mìn quân Trung Quốc gài trên triền đồi đối diện bên kia sông bị nổ tung, có tận mắt chứng kiến nghĩa trang liệt sĩ xây vội bên giấu cầu Khánh Khê, mấy trăm ngôi mộ liệt sĩ, chỉ có mộ liệt sĩ Lê Đình Chinh là được xây vôi cát còn lại chỉ là những nấm đất mới hiểu thế nào là "hữu nghị", thế nào là "hậu phương đáng tin cậy của nhân dân Việt Nam". 

Cuộc chiến tranh xâm lược mà quân đội Trung Quốc tiến hành với chiêu bài "phản kích tự vệ" có thể đánh lừa người dân Trung Quốc nhưng không thể đánh lừa cả thế giới. 

Đó không chỉ là cuộc xâm lược quy mô lớn mà còn là cuộc chiến tranh phá hoại không khác gì chiến tranh hủy diệt bằng không quân mà Mỹ đã tiến hành trên miền Bắc Việt Nam từ tháng 8 năm 1964.

Khẩu hiệu mà Mỹ rêu rao là "đưa Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá", còn giới cầm quyền Bắc Kinh khi đó thì cao giọng với thế giới, rằng để "dạy cho Việt Nam một bài học", thực chất phía sau tuyên bố ngông cuồng ấy là gì ?

Trả lời câu hỏi này, nếu lấy quan điểm của người Việt e là sẽ có người bảo không khách quan, vậy hãy xem người không mang dòng máu Việt nghĩ gì.

Trong lời giới thiệu cuốn sách "China and the Vietnam Wars, 1950-1975 (The New Cold War History)" của tác giả Qiang Zhai (Trại Cường), nhà sách Amazon.com viết : 

"Khi xem xét cách hành xử của Trung Quốc với Việt Nam, Zhai cung cấp những hiểu biết quan trọng về chính sách đối ngoại của Mao Trạch Đông và những động cơ tư tưởng và địa chính trị đằng sau nó. 

Trong suốt những năm 1950 và 1960, ông (Zhai) cho thấy, Mao coi Mỹ là mối đe dọa chính đối với an ninh của những người Cộng sản Trung Quốc và do đó (họ) thấy hỗ trợ cho Hồ Chí Minh như là một cách tốt để làm suy yếu ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực Đông Nam Á từ cuối những năm 1960 và 1970. 

Tuy nhiên, khi Mao coi là mối đe dọa lớn hơn từ Liên Xô, ông bắt giấu để điều chỉnh chính sách của mình và khuyến khích Bắc Việt chấp nhận một thỏa thuận hòa bình với Hoa Kỳ" [1].

Trong sách tác giả Qiang Zhai viết : "Mặc giấu họ (Trung Quốc) tuyên bố chính họ là những môn đồ của chủ nghĩa quốc tế Mác-Lênin song họ lại kế thừa hoàn toàn cái di sản lịch sử của Trung Hoa : quan niệm Đại Hán theo đó Trung Quốc là cái nôi của thế giới. 

Các quốc gia nhỏ bé khác bên ngoài Trung Quốc, trong đó có Việt Nam, là man di và phải là những chư hầu trong vùng ảnh hưởng của Trung Quốc" [4].

bg2

Bìa cuốn sách "China and the Vietnam Wars, 1950-1975" trên Amazon.com

Chiến thắng của Việt Nam trong cuộc chiến chống Mỹ thống nhất đất nước không phải là điều mà "người bạn lớn" mong đợi. 

Điều mà họ muốn - như Trại Cường khẳng định - Việt Nam "phải là chư hầu trong vùng ảnh hưởng của Trung Quốc" và đó mới chính là điều thôi thúc họ tiến hành cuộc chiến xâm lược đẫm máu nhất chống lại một quốc gia có chủ quyền kể từ sau chiến tranh Triều Tiên.

Thống kê chưa đầy đủ cho thấy : "quân Trung Quốc còn thực hiện chính sách cướp bóc và phá hoại triệt để ở các khu vực chiếm đóng được : ước tính 320/320 xã, 735/904 trường học, 428/430 bệnh viện, bệnh xá, 41/41 nông trường, 38/42 lâm trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ, 600.000 mét vuông nhà ở và 80.000 héc-ta hoa màu ở khu vực chiến sự bị tàn phá, 400.000 gia súc bị giết và bị cướp. 

Khoảng một nửa trong số 3,5 triệu dân ở biên giới bị mất nhà cửa, tài sản và phương tiện sinh sống. 

Các thị xã lớn Lạng Sơn, Cao Bằng và Cam Đường gần như bị hủy diệt hoàn toàn, lính Trung Quốc dùng mìn đánh sập hầu hết các công trình, nhà ở, cầu, đường bộ và đường sắt...

ngay cả những di tích lịch sử hoàn toàn không có ý nghĩa gì về mặt quân sự như hang Pắc Bó (Cao Bằng) – từng là nơi ở và làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, động Tam Thanh, Nhị Thanh (Lạng Sơn)… cũng bị phá hoại…" [2].

Nhiều năm trước, có dịp lên thăm anh Dương Chí Khuầy, bạn học cùng lớp, cùng tổ hồi đại học, anh là con trai đại tá Dương Đại Lâm, cần vụ của Bác Hồ. Nhà ông Dương Đại Lâm cách hang Pắc Bó chưa đến "một quăng dao".

Mấy đứa chúng tôi được anh Khuầy dẫn lên thăm hang, vòm hang lúc đó chỉ rộng hơn một mét vì đã bị lính Trung Quốc giật mìn đánh sập, dòng suối phía trước cửa hang có rất ít nước, trơ trọi những viên đá cuội, không còn "bàn đá chông chênh dịch sử Đảng", chỉ còn lại cây ổi khẳng khiu phía ngoài hang.

Cố Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai từng nhận định về Chủ tịch Hồ Chí Minh như sau : "Công ơn của Người đối với Tổ quốc chúng tôi cũng to lớn và vô cùng hiển hách…" [3].

Vậy mà một di tích lịch sử cách mạng vô cùng quý giá của nhân dân Việt Nam, gắn với quãng đời hoạt động cách mạng của Hồ Chủ tịch từ năm 1941 vẫn bị quân Trung Quốc nổ mìn phá sập. 

Đối chiếu với lời cố Thủ tướng Chu Ân Lai, ai là kẻ vô ơn, bạc nghĩa, ai là kẻ sẵn sàng chà đạp lên tinh thần quốc tế cao cả nhằm thỏa mãn tham vọng bắt các nước nhỏ làm chư hầu như nhận định của Qiang Zhai ?

Năm 2005, một người gốc Hoa, Xiaoming Zhang, giảng viên trường Cao Đẳng Chiến tranh không quân (Air War College) thuộc Bộ Không Quân Mỹ đã xuất bản bài viết "China’s 1979 War with Vietnam : A Reassessment" (Một cách đánh giá lại cuộc chiến 1979 của Trung Quốc với Việt Nam). 

Bài này được đăng trên tờ China Quarterly (tạm dịch : Tài liệu quý về Trung Quốc), một tạp chí quốc tế có uy tín xuất bản tại Anh Quốc. 

Tác giả viết : "Chủ thuyết chính trị của Mác, mặc giấu được cả hai nước suy tụng cũng không ngăn cản được việc Trung Quốc phát động một cuộc "chiến tranh tự vệ" chống lại quốc gia láng giềng nhỏ bé một khi quyền lợi dân tộc tối cao bị đe dọa…

Bắc Kinh luôn nói rằng họ không bao giờ gây sức ép về chính trị và kinh tế thông qua viện trợ vật chất và quân sự khổng lồ cho Hà Nội, nhưng họ lại muốn Hà Nội phải thừa nhận vai trò lãnh đạo của Trung Quốc đối với phong trào giải phóng dân tộc trong khu vực và trên thế giới" (bản dịch của Thời đại mới) [4].

Cuộc chiến tranh xâm lược mà Trung Quốc phát động năm 1979 chống Việt Nam không đơn giản chỉ là cuộc chiến biên giới giữa hai quốc gia có chủ quyền, chung ý thức hệ mà còn cho thấy nó báo hiệu một thời kỳ mới của lịch sử nhân loại.

Đó là sự kết thúc thời kỳ ngắn ngủi tồn tại hai hệ thống xã hội đối lập mà chúng ta quen gọi là "phe" - phe Xã hội chủ nghĩa và phe Tư bản chủ nghĩa. 

Tiếng súng mà Trung Quốc phát động trên tuyến biên giới dài 900 km giữa hai nước chính là đòn giáng mạnh vào niềm tin về một thế giới đại đồng.

Là sự khẳng định chân lý "không có bạn bè hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc là vĩnh viễn". 

Hơn chục năm sau, khi Liên Xô tan rã cũng là lúc phe Xã hội chủ nghĩa rơi vào khủng hoảng, thay vào đó hàng loạt nước Xã hội chủ nghĩa Đông Âu, trừ Nga, trở thành thành viên NATO hoặc Liên minh Châu Âu. 

Ảo mộng đưa Trung Quốc thành lãnh tụ của phong trào giải phóng dân tộc trong khu vực và trên thế giới - như nhận định của Xiaoming Zhang - sụp đổ là hậu quả tất yếu khiến giới lãnh đạo Bắc Kinh quay lại với chính mình.

Đó là lý do vì sao chủ thuyết "phục hưng dân tộc Trung Hoa" ra đời.

Thực ra, tìm trăm phương nghìn kế để trở thành lãnh tụ phong trào giải phóng dân tộc thế giới chỉ là chiêu bài che giấu những gì mà giới thống trị Trung Quốc đã làm hàng nghìn năm qua và sẽ vẫn tiếp tục trong thời gian sắp tới. 

Mộng ước ấy nằm trong ngay cái tên "Trung Quốc" - quốc gia là trung tâm của thiên hạ.

Chiến lược "cây gậy và củ cà rốt" của Mỹ đã được Trung Quốc vận dụng sáng tạo và nâng thành nghệ thuật. 

Chỉ cần một chút viện trợ kinh tế, chỉ cần lôi kéo một quốc gia, Bắc Kinh có thể biến ASEAN thành một tổ chức lỏng lẻo không thể đồng thuận những vấn đề quốc tế liên quan đến Trung Quốc.

Giới lãnh đạo Bắc Kinh say sưa với sự tăng trưởng ngoạn mục về kinh tế đang có ảo vọng sẽ thay thế Mỹ trở thành siêu cường thống trị thế giới cả về kinh tế, quân sự lẫn chính trị.

Và một lần nữa, những cái giấu dân tộc chủ nghĩa lại tìm cách thực hiện mộng ước "thế giới đại đồng" không phải theo một học thuyết xa vời nào đó mà là những vành đai, những con đường tơ lụa mới, bằng những đạo quân trá hình - công nhân, nông dân, ngư dân hiện diện bất kỳ nơi nào có thể. 

Trong bối cảnh ấy, chịu ảnh hưởng nhiều nhất, rõ nhất không ai khác chính là nước Việt Nam chúng ta, bởi chúng ta có thể chọn bạn bè nhưng không thể chọn láng giềng.

Xuân Dương

Nguồn : GDVN, 13/02/2017

Tài liệu tham khảo :

[1] https://www.amazon.com/China-Vietnam-Wars-1950-1975-History/dp/0807848425

[2] http://infonet.vn/chien-tranh-bien-gioi-1979-cuoc-chuyen-quan-than-toc-post158490.info

[3]http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/ArticleDetail.aspx ?articleid=740&sitepageid=424#sthash.sQh4Vrmv.dpbs

[4]http://nghiencuuquocte.org/2015/11/04/nhin-lai-cuoc-chien-viet-trung-nam-1979/#sthash.THID9Do4.dpuf

Published in Diễn đàn

Nhắc để dân ta nhớ, biết ơn và tôn vinh những chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh để bảo vệ biên cương tổ quốc, như chúng ta đã và sẽ vẫn tôn vinh bao nhiêu anh hùng liệt sĩ trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Không thể quên lãng.

biengioi1

Ảnh : Mạnh Thường

LTS : Nhân kỷ niệm 37 năm ngày mở đầu Chiến tranh Biên giới phía Bắc 17/2/1979, Tuần Việt Nam giới thiệu lại cùng bạn đọc một bài viết đăng tải cách đây tròn 2 năm mà đến nay vẫn nguyên tính thời sự nóng hổi. 

 ********************

Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên viện trưởng Viện chiến lược, Bộ công an :

Tưởng niệm cuộc chiến 1979 : Không có gì nhạy cảm

biengioi2

Thiếu tướng Lê Văn Cương. Ảnh : Nguyễn Khánh/TTO

Sau 35 năm nhìn lại cuộc chiến tranh biên giới (Chiến tranh biên giới) phía Bắc năm 1979, theo ông, chúng ta cần vạch ra rõ ràng, dứt khoát về bản chất và vị trí của cuộc chiến này trong lịch sử như thế nào ?

Lê Văn Cương : Đây là một cuộc kháng chiến chống xâm lược của dân tộc Việt Nam. Về bản chất, nó không khác gì các cuộc kháng chiến oanh liệt trong lịch sử như nhà Lý chống quân Tống, nhà Trần chiến thắng quân Nguyên, nhà Lê tiêu diệt quân Minh, và Quang Trung Nguyễn Huệ đánh thắng nhà Thanh.

Làm một phép so sánh thế này, năm 1788 đầu 1789, trong vòng 10 ngày, Quang Trung Nguyễn Huệ đã hành quân thần tốc để giải phóng và tiêu diệt 29 vạn quân Thanh vào ngày mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu 1789. Hàng năm ta vẫn kỷ niệm sự kiện này trong lễ hội Gò Đống Đa.

Còn cuộc kháng chiến năm 1979, với khoảng thời gian hơn 17 ngày (tính từ 17/2 khi Trung Quốc tràn qua biên giới Việt Nam đến 5/3/1979 khi Trung Quốc bắt đầu rút quân – PV), ta đã đuổi được 60 vạn quân Trung Quốc ra khỏi bờ cõi. Một cuộc kháng chiến chống xâm lược như vậy rất oanh liệt, vĩ đại chứ.

- Thế nhưng, nếu như chiến thắng của Quang Trung Nguyễn Huệ đã được ghi lại đậm nét, được tưởng nhớ hàng năm, thì cuộc kháng chiến 1979 đến nay dường như vẫn vắng bóng trong lịch sử Việt Nam ?

Lê Văn Cương : Trong hơn 20 năm nay, có lẽ từ khi bình thường hóa quan hệ Việt Trung năm 1991, chúng ta không tổ chức kỷ niệm, hệ thống truyền thông không đưa tin sự kiện Chiến tranh biên giới tháng 2/1979, ngay cả trong những năm kỷ niệm chẵn như 1989, 1994, 1999, 2004, 2009.

Hệ thống giáo trình chuẩn quốc gia các cấp học phổ thông, trung học, đại học và sau đại học đều không đưa cuộc kháng chiến này vào. Thế hệ trẻ không biết gì về cuộc chiến này.

Theo tôi, không có gì nhạy cảm ở đây, khi tưởng niệm một chiến công oanh liệt đến thế của dân tộc. Nó hoàn toàn khác và không liên quan gì đến kích động chủ nghĩa dân tộc cả.

Nước nào trên thế giới cũng tổ chức những ngày kỷ niệm tương tự như vậy. Nhật Bản và Mỹ hiện là đồng minh chặt chẽ. Nhưng chẳng hạn với sự kiện Trân Châu Cảng 7/12/1941, hàng năm nước Mỹ vẫn kỷ niệm và thế hệ sau vẫn hiểu rất sâu sắc thảm họa. Còn thanh niên Nhật vẫn tỏ tường tội ác của Mỹ khi ném 2 quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki. Nước Nhật ghi rõ sự kiện này trong SGK và cũng tưởng niệm hàng năm.

Ở châu Âu, thanh niên Anh, Pháp… vẫn hiểu tường tận tội ác của phát-xít Đức giai đoạn 1940-1945. Tất cả hệ thống sách giáo khoa sử của Mỹ, Nhật, Anh… đều có những trang đen tối như vậy cả, trong khi hiện họ là đồng minh của nhau.

Đối với Việt Nam, việc kỷ niệm những sự kiện như chiến thắng Ngọc Hồi, Đống Đa, chiến thắng Điện Biên Phủ, thống nhất đất nước 1975, Chiến tranh biên giới 1979… chính là để các thế hệ hiện tại khắc cốt ghi tâm, tưởng nhớ đến những người đã chiến đấu bảo vệ đất thiêng. Và cũng là để hun đúc cho họ ý chí quật cường yêu nước.

- Vậy chúng ta cần có hành động gì để trả lại vị trí xứng đáng cho cuộc chiến chống xâm lược 1979, và ghi tạc công lao của những người đã ngã xuống vì đất nước ?

Lê Văn Cương : Có một số việc cần làm :

Đưa sự kiện này vào thành chương/ phần trong giáo trình chuẩn quốc gia tại các cấp học, giống như đã làm với các cuộc kháng chiến khác. Muộn còn hơn không, tôi đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo cần biên soạn một chương riêng về cuộc chiến, đưa vào hệ thống giáo trình chuẩn quốc gia (phổ thông, đại học, và sau đại học…).

Tổ chức kỷ niệm trang trọng chiến thắng oanh liệt này. Rà soát tổng kiểm kê lại những người có công trong cuộc kháng chiến.

Lên tiếng để thế giới hiểu

- Từ những nghiên cứu của bản thân, xin ông cho biết dư luận thế giới nhìn nhận thế nào về bản chất cuộc chiến 1979, và về Trung Quốc trong cuộc chiến tranh này ?

Lê Văn Cương : Cuộc xâm lược của 60 vạn quân Trung Quốc trên toàn tuyến biên giới Việt Nam có bằng chứng rõ ràng, được ghi âm, ghi hình, cả thế giới biết và hầu hết đều có cái nhìn thống nhất đó là cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Cuộc xâm lược 1979 đã khiến thế giới hiểu rõ bản chất của Trung Quốc. Nó khiến họ mất uy tín quốc tế, bộc lộ bản chất bành trướng Đại Hán, bản chất nói một đằng làm một nẻo, không hề chứng tỏ chủ trương "phát triển hòa bình" của Trung Quốc khi đó.

Trong khi hơn 20 năm nay chúng ta không tổ chức kỷ niệm Chiến tranh biên giới 1979 thì bạn bè tôi đã tập hợp được ở Trung Quốc vào những năm kỷ niệm chẵn, họ làm rất rầm rộ. Có hàng 500 – 700 bài báo với tiêu đề kiểu "Chiến công oanh liệt của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc phản công quân Việt Nam xâm lược", "Quân xâm lược Việt Nam đã phải trả bài học đắt giá", v.v… Một sự xuyên tạc, đổi trắng thay đen.

Còn chúng ta ? "Gieo cái gì thì gặt cái đó", khi chính Việt Nam im lặng về một cuộc chiến chính nghĩa như vậy, thì thế giới làm sao bày tỏ sự ủng hộ ?

- Qua sự kiện Chiến tranh biên giới 1979, theo ông có bài học quan trọng nào chúng ta cần rút ra ?

Lê Văn Cương : Qua cuộc chiến tranh này, chúng ta phải nhận thức được bản chất của lãnh đạo Trung Quốc. Về bản thân người dân Trung Quốc, tôi nghĩ về cơ bản là hòa hiếu, muốn giao hảo, hữu nghị với Việt Nam.

Là một nước láng giềng chung đường biên giới 1.450 km với chúng ta, không thể không hiểu họ.

Với tập đoàn lãnh đạo Trung Quốc vào thời kỳ 1979 và ít ra trong khoảng 10 năm sau đó, toàn bộ hệ thống lý luận Mác - Lênin không có điểm nào biện minh cho việc lãnh đạo nước này xâm lược Việt Nam – một quốc gia trong hệ thống xã hội chủ nghĩa cả.

Qua cách xâm lược đó, tập đoàn lãnh đạo Trung Quốc cho thấy họ là ai ? Họ theo Chủ nghĩa Mác hay theo Chủ nghĩa bá quyền nước lớn ?

Quan hệ 16 chữ vàng hay cái gì đi nữa cũng sẽ chỉ là "ứng vạn biến". Còn cái "dĩ bất biến" luôn phải là độc lập, chủ quyền của Tổ quốc. Không được mơ hồ lấy cái "ứng vạn biến" để thay "dĩ bất biến".

- Có một thực tế mà chúng ta đều hiểu, Việt Nam là một nước nhỏ ở bên cạnh một nước lớn như Trung Quốc, vậy chúng ta cần một triết lý ứng xử thế nào cho phù hợp ?

Lê Văn Cương : Đây là một bài toán khó với hầu hết các nước trong tình trạng tương tự. Chẳng hạn Canada, Mexico… khi ở cạnh Mỹ, hay các nước nhỏ xung quanh Nga. Tất nhiên mức độ không như ta ở cạnh Trung Quốc.

Trong trường hợp này, tôi thấy có thể dẫn ra 1 câu nói của ông Lý Quang Diệu, mà tôi coi như một trong những câu hay nhất thế kỷ. Đại ý rằng thời nào cũng thế, cá lớn nuốt cá bé. Vì thế Singapore phải biến thành một con cá bé độc, để không ai dám ăn, ăn là chết.

Đó cũng là một gợi ý tốt cho Việt Nam. Nhưng làm như thế nào, câu trả lời thuộc về những nhà lãnh đạo !

Mỹ Hòa (thực hiện)

Nguồn : VietnamNet, 17/01/2017

********************

Nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình :

Sòng phẳng với lịch sử không phải kích động hận thù

biengioi3

Bệnh viện huyện Trùng Khánh, Cao Bằng bị quân Trung Quốc tàn phá tháng 2.1979. Ảnh tư liệu

Chiến tranh biên giới phía Bắc là một câu chuyện buồn trong lịch sử, một câu chuyện buồn trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Dẫu vậy, nó vẫn là lịch sử.

Và đã là lịch sử thì phải nhìn nhận nó với sự thật đầy đủ. Sẽ không thể không nhắc đến ngày 17/2/1979, ngày mà cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc đã nổ ra; ngày mà hàng ngàn con em chúng ta đã hy sinh để bảo vệ biên cương của Tổ quốc.  Nhắc để dân ta nhớ, biết ơn và tôn vinh những chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh để bảo vệ biên cương tổ quốc, như chúng ta đã và sẽ vẫn tôn vinh bao nhiêu anh hùng liệt sĩ trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Không những dân ta cần hiểu, mà nhân dân Trung Quốc cũng như nhân dân các nước cũng phải hiểu đúng : đâu là sự thật, đâu là lẽ phải và coi đó là bài học. Không thể quên lãng nó.

Nhiều người dân Trung Quốc đã hiểu sai cơ bản về cuộc chiến tranh biên giới đó. Nhưng tính chính nghĩa của Việt Nam trong cuộc chiến đó là sự thật không thể chối cãi. Có thể nào nghĩ rằng Việt Nam vừa ra khỏi cuộc chiến tranh vô cùng ác liệt kéo dài 30 năm, đang tập trung hàn gắn vết thương chiến tranh và đứng trước vô vàn khó khăn lại có thể khiêu khích Trung Quốc, một nước lớn, một nước xã hội chủ nghĩa đã ủng hộ và giúp đỡ mình trong cuộc chiến tranh cứu nước vừa qua? Thực tế là quân dân Việt Nam khi đó đã phải chống lại một cuộc chiến tranh biên giới to lớn để bảo vệ biên cương tổ quốc.

Làm việc với đại diện Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đồng tình với đề xuất của Giáo sư Phan Huy Lê rằng phải đưa mạnh dạn, đầy đủ hơn nữa những tài liệu về Hoàng Sa, Trường Sa đã được kiểm chứng vào sách giáo khoa để giáo dục thế hệ trẻ.

Theo tôi, không chỉ đưa vào sách giáo khoa những sự thật lịch sử về Hoàng Sa, Trường Sa mà ngay cả cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc cũng cần được nhắc đến đầy đủ. Con em chúng ta cần biết và có quyền biết lịch sử, biết những gì mà ông cha đã làm, để tự hào và tiếp nối truyền thống. Tôi muốn nhấn mạnh rằng : ta tôn trọng lịch sử, sòng phẳng với lịch sử không có nghĩa là chúng ta kích động hận thù. Chúng ta biết sự thật, để hiểu đâu là lẽ phải và để rút ra bài học cho các mối quan hệ quốc tế trong bối cảnh phức tạp ngày nay.

Tôi ủng hộ con đường ngoại giao khôn ngoan, mềm mỏng, tôn trọng các nguyên tắc quốc tế. Kinh nghiệm trong đấu tranh, né tránh hay im lặng đều không có lợi, vì như vậy chúng ta không làm rõ được sự thật, phải trái, đúng sai, có khi còn khuyến khích đối phương, khiến họ cho rằng ta yếu thế và ngày càng lấn tới. Tuy nhiên không bình tĩnh cân nhắc trong ứng xử cũng sẽ khiến cho tình hình thêm phức tạp, không có lợi cho sự nghiệp.

Vậy bài học rút ra từ quá khứ mất mát của chúng ta là gì đây ? Việt Nam là một dân tộc hòa hiếu. Xưa đến nay, ta rất chú trọng xây dựng quan hệ láng giềng tốt với Trung Quốc dù trong lịch sử hai nước đã có bao lần xung đột. Trong tình hình hiện nay, chúng ta cần một môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước và cần những bạn bè tốt để hợp tác nên Việt Nam càng coi trọng quan hệ hữu nghị với Trung Quốc – một nước lớn đang có những bước phát triển thần kỳ.

Nhưng như bất cứ dân tộc nào, chủ quyền quốc gia đối với Việt Nam là thiêng liêng và chúng ta sẽ kiên quyết bảo vệ bằng mọi giá, đồng thời chúng ta chủ trương mọi tranh chấp lãnh thổ được giải quyết bằng phương pháp hòa bình, có sự tôn trọng lẫn nhau.

Trong đấu tranh, chúng ta đã làm đúng theo lời dạy của Bác Hồ : "Dĩ bất biến, ứng vạn biến", luôn giữ vững lập trường nguyên tắc độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, nhưng vẫn linh hoạt, mềm dẻo trong sách lược.

Tôi tin vào sức mạnh của chính nghĩa, của lẽ phải, tin vào sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân và tin ở sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân thế giới. Ta cần hành động theo tinh thần đó. Nhưng tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng sẽ khó để bảo vệ chủ quyền nếu đất nước không có nội lực, không có nền tảng vững chắc về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng với đoàn kết dân tộc mạnh mẽ. Đây là nhiệm vụ quan trọng nhất mà chúng ta cần phấn đấu.

Lan Hương (ghi)

*********************

Trung tướng Khuất Duy Tiến, nguyên Cục trưởng Cục Quân lực Bộ Tổng tham mưu (Bộ Quốc phòng), Tư lệnh Quân đoàn 3 :

Thiếu quân chủ lực vẫn đánh thắng

biengioi4

Bộ đội Việt Nam đánh trả quân Trung Quốc xâm lược tại Lạng Sơn năm 1979. Ảnh tư liệu

Khi Trung Quốc tràn sang (với vũ khí hiện đại như xe tăng, máy bay), ta chỉ có Sư 3 Sao Vàng là chủ lực, còn lại là dân quân… Thời điểm đó quân chủ lực đang chiến đấu ở Campuchia. Trung Quốc nghĩ rằng ta không có quân chủ lực thì có thể sẽ đánh nhanh, thắng nhanh. Song, tinh thần chiến đấu ý thức giữ vững độc lập chủ quyền của người dân Việt Nam rất cao, nên đã chặn đứng quân Trung Quốc ở biên giới. Chỉ là dân quân địa phương mà đánh như vậy, khi gặp lực lượng chủ lực thì sao?

Cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 đã dạy chúng ta rằng, phải giữ lấy chủ quyền dân tộc, quốc gia nhưng phải tỉnh táo, khéo léo chớ gây ra chiến tranh. Tôi nghĩ rằng, trong năm nay hoặc sang năm phải có cuộc hội thảo xác định rõ cuộc tấn công của Trung Quốc năm 1979 là xâm lược Việt Nam, những chiến sĩ, người dân đã hy sinh trong chiến đấu để bảo vệ tổ quốc trong cuộc chiến này phải được công nhận là anh hùng, liệt sỹ. Dân tộc Việt Nam là dân tộc đời đời, bất di bất dịch nguyên tắc giữ vững toàn vẹn lãnh thổ. Đó là bài học mà từ già đến trẻ đều phải nhớ. Dân tộc độc lập thì mới tạo dựng được cuộc sống như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói là không gì quý hơn độc lập tự do. Để giữ được điều đó, về đối nội phải giáo dục cho người dân lòng yêu nước, luôn xây dựng đất nước như mục tiêu chúng ta đã đưa ra xây dựng đất nước dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ văn minh. Về đối ngoại thì thật khôn khéo, tỉnh táo, "lưỡi gươm thật sắc, nhưng bao giờ cũng phải sẵn sàng". Làm sao cho thế giới hiểu, và đồng tình, giúp đỡ chúng ta. Làm sao cho họ thấy chúng ta là tấm gương độc lập tự do dân chủ, yêu chuộng hòa bình, xây dựng đất nước ngày càng phát triển. 

H.Vũ (ghi)

*********************

Nhà nghiên cứu Dương Danh Dy :

Trung Quốc phải thừa nhận

biengioi5

Xe tăng Trung Quốc bị ta bắn hạ tại Cao Bằng, sáng 17/2 - Ảnh : Mạnh Thường

Việc xảy ra cuộc chiến tranh biên giới 17/2/1979 do Tung Quốc phát động, nguyên nhân chủ yếu là do phía Trung Quốc. Họ xứng đáng nhận sự lên án mạnh mẽ. Bởi vì dù cho có bất đồng quan hệ hai nước, Trung Quốc không thể mang quân đi đánh một nước láng giềng, từng là đồng minh của Trung Quốc, với một câu nói của Đặng Tiểu Bình là "dạy cho Việt Nam một bài học".

Suốt 35 năm qua, Trung Quốc không lúc nào ngừng tuyên truyền trong nội bộ họ về cuộc chiến tranh biên giới. Các bài báo, các tác phẩm văn học, các tác phẩm điện ảnh… đều nêu lên một điều là họ đã thắng lớn trong cuộc chiến đó.

Nhưng riêng năm nay, đúng ngày 4/1/2014, mạng Nhân dân Trung Quốc lần đầu tiên đăng một bài viết "Cuộc đánh trả tự vệ thảm liệt năm 1979 : Quân đội Trung – Việt trong 19 ngày đều bị tổn thất và thương vong 50 nghìn người". Sau đó bài này được mạng Phượng Hoàng đăng lại. Tức là lần đầu tiên Trung Quốc thừa nhận rằng trong cuộc chiến tranh cách đây 35 năm trong 20 ngày đầu tiên tổn thất về người của cả hai bên là như nhau, khác hoàn toàn với quan điểm trước đó là Trung Quốc đã thắng cuộc chiến tranh đó.

Như vậy, đấy là sự thực mà trước đây họ che giấu nhân dân Trung Quốc, và họ cuối cùng phải thừa nhận rằng đây là cuộc chiến tranh rất đẫm máu.

H. Phan (ghi)

**********************

Đạo diễn Trần Văn Thủy :

Luận về cuộc chiến, cần sự ngay thẳng

biengioi6

Tù binh Trung Quốc 

Năm 1978, trở về từ Liên Xô sau khóa học về đạo diễn, ông Trần Văn Thủy được giao làm phim về cuộc chiến tranh biên giới. Bộ phim có tên Phản Bội, được giải Vàng tại Liên hoan phim Việt Nam 1986.  Ông chia sẻ:

Từ khoảng tháng 3/1978, đã bắt đầu có những dấu hiệu bất đồng. Linh tính mách bảo tôi: chiến tranh sẽ xảy ra, thời điểm đó có những vấn đề khác nổi lên như "nạn kiều", Bắc Luân...  Tất cả các nhà làm phim tài liệu trong Nam ngoài Bắc đều được đưa lên vùng biên giới.

Tình hình xấu đi rất nhanh và cuộc chiến đã xảy ra. Tôi được phân công làm bộ phim tài liệu rất dài, gần 3 tiếng, dài nhất trong lịch sử phim tài liệu Việt Nam, sau này được đặt tên là Phản Bội.

Nỗi mất mát đau đớn của đồng bào 6 tỉnh phía bắc… Với số đông người Việt Nam, họ sững sờ và kinh hoàng không thể tưởng tượng được. Từ Lào Cai sang Cao Bằng, Lạng Sơn… chúng tôi đã chứng kiến và lắng nghe những câu chuyện vô cùng đau đớn. Luận bàn về cuộc chiến này cần nhiều giấy mực, thời gian và cả sự ngay thẳng.

Tính từ thời điểm đó đến nay đã mấy chục năm, nhưng vết đau ấy vẫn không thể xóa. Nếu ngày hôm nay, vì bất cứ lý do gì, mà ta lãng quên đi những con người đã ngã xuống trong một cuộc chiến cực kỳ vô lý và tàn bạo ấy, sẽ là một tội lỗi vô cùng lớn. Tôi đã nói điều này trong cuốn Chuyện nghề của Thủy.

Bộ phim Phản bội khi đó được đón nhận hào hứng. Vào thời điểm đó,  nó phù hợp với thái độ của người dân Việt Nam về chuyện chủ quyền đất nước, và sự phẫn nộ với cuộc chiến tàn bạo. Người xem bất ngờ và đồng tình về sự hấp dẫn, độ chính xác về lịch sử và những vấn đề đặt ra. Có thể nói trong tất cả những bộ phim của tôi chưa từng làm có sự đồng thuận của tất cả mọi người, mọi cấp như thế.  Bộ phim đã được chiếu rất nhiều lần, ở nhiều nơi, được nhận giải vàng Liên hoan phim Việt Nam 1980. 

H. Hường (ghi)

****************

Tóm tắt diễn biến chính Chiến tranh biên giới phía Bắc 1979

Rạng sáng ngày 17/2/1979, nhà cầm quyền Bắc Kinh đã điều động một lượng lớn quân đội và vũ khí hiện đại nhất mà họ có lúc đó tấn công vào 6 tỉnh biên giới phía bắc nước ta.

Trung Quốc đã huy động 60 vạn quân (chưa kể dân công hỏa tuyến phục vụ),tấn công trên toàn tuyến biên giới từ Quảng Ninh đến Phong Thổ dài trên 1.000 km, tập trung vào 3 khu vực Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai với Lào Cai là trọng điểm. Ngoài ra Trung Quốc còn mang theo mấy trăm máy bay, và một số tàu chiến thuộc hạm đội Nam hải sẵn sàng tham chiến khi cần thiết.

Thời gian tấn công : Cuộc tấn công của Trung Quốc vào lãnh thổ Việt Nam bắt đầu từ ngày 17/2/1979 và kết thúc ngày 16/3/1979, có thể chia làm 2 giai đoạn: giai đoạn tấn công và giai đoạn rút lui.

Giai đoạn tấn công : thời gian 17 ngày (từ 17/2 đến 5/3/1979) :

Ngày 17/2-19/2 : Quân đội Trung Quốc đột kích trên toàn tuyến biên giới dài trên 1.000 km chiếm một số vị trí tiền duyên của ta.

Ngày 20/2 : Chiếm thị xã Lào Cai, thị trấn Đồng Đăng.

Ngày 21/2 : Chiếm thị xã Cao Bằng

Ngày 22/2 : Chiếm thị trấn Bảo Lộc

Ngày 23/2: Chiếm thị xã Hà Giang

Ngày 24/2 : Chiếm thị trấn Cam Đường

Các ngày sau đó 2 bên đánh nhau dữ dội tại vùng gần Lạng Sơn, Sapa. Ngày 5/3 Trung Quốc chiếm Sapa và một phần thị xã Lạng Sơn.

Ngay trong ngày hôm đó (5/3), Trung Quốc tuyên bố đã đạt mục đích, bắt đầu rút quân khỏi Việt Nam. Việt Nam tuyên bố tổng động viên toàn quốc. Một sư đoàn chính quy Việt Nam điều từ Campuchia và Lào đã về tới sát mặt trận. Liên Xô bắt đầu tăng quân tới biên giới Trung Xô.

Giai đoạn rút lui : thời gian 10 ngày (từ 6/3 đến 16/3/1979) :

Kể từ lúc quân đội Trung Quốc rút lui, bộ đôi Việt Nam không tấn công, truy kích địch.

- Quân Trung Quốc bắt đầu rút khỏi một phần của thị xã Lạng Sơn từ 5/3, đến 12/3 rút hết khỏi Đồng Đăng.

- Bắt đầu rút khỏi vùng Lào Cai từ 7/3 đến 13/3 thì rút hết

- Bắt đầu rút khỏi vùng Cao Bằng từ 7/3, đến 14/3 thì rút hết.

Ngày 16/3/1979 Trung Quốc tuyên bố hoàn thành việc rút quân, chiến tranh kết thúc.

Thống kê thương vong (tài liệu do Nhà nghiên cứu Dương Danh Dy cung cấp) :

Một thống kê chính thức của Đài Loan  phản ánh, số người chết của phía Trung Quốc là 26.000 ; của phía Việt Nam là 30.000 người.

Số bị thương : Phía Trung Quốc là 37.000 người. Số thương vong phía Việt Nam là 32.000 người.

Về số bị bắt sống, phía Trung Quốc là 260 người. Phía Việt Nam là 1.600 người.

(theo Yisheng.chinese.com)

Trong cuộc chiến tranh này, Trung Quốc đã phá hoại hoàn toàn 4 thị xã, hơn 20 thị trấn, huyện lỵ, nhiều làng xóm, nhà máy, hầm mỏ, nông trường, cầu đường, nhà cửa… của nhân dân ta tại những nơi chúng đi qua.

Nhóm thực hiện :

Mỹ Hòa - Lan Hương - H.Vũ - H.Phan - H.Hường

Published in Diễn đàn
Trang 2 đến 2