Không những mạ lỵ quân đội Hoa Kỳ, Trump cũng đã từng mạ lỵ cuộc chiến bảo vệ tự do tại Việt Nam
Lời giới thiệu : Trong những ngày vừa qua báo chí xôn xao tường thuật việc Tổng thống Trump từng miệt thị binh sĩ Hoa Kỳ tử trận là những kẻ thất bại và khờ khạo (Americans who died in war are losers and suckers). Trước đây Trump từng nói John McCain không phải là một anh hùng vì bị bắt làm tù bình. Cách đây hai ngày, trong buổi họp báo tại Tòa Bạch Cung, ông còn khốn kiếp kết tội các tướng lãnh Hoa Kỳ là những kẻ chỉ muốn có chiến tranh để các công ty Hoa Kỳ có cơ hội sản xuất thêm võ khí. Nhân dịp này chúng ta nhắc lại quan điểm về chiến tranh Việt Nam của Tổng thống Donald Trump.
Tổng thống Trump : chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến tồi tệ
Trong thời gian thăm viếng Anh Quốc đầu tháng 6 năm vừa qua, khi được Nhà Báo Piers Morgan phỏng vấn trong chương trình World Exclusive được phát hình trên hệ thống truyền hình Good Morning Britain (GMB), Tổng thống Trump tuyên bố ông chống chiến tranh Việt Nam. Ông nói chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến tồi tệ, không phải như cuộc chiến chống Đức Quốc Xã. Ngoài ra ông còn ca ngợi những nhà lãnh đạo và nước Việt Nam hiện nay.
Trong cuộc phỏng vấn Tổng thống Trump nói nguyên văn như sau :
"Quả thực, tôi chưa bao giờ hâm mộ cuộc chiến đó. Tôi sẽ thành thật với anh. Tôi nghĩ đây là một cuộc chiến tranh tồi tệ. Nó ở rất xa. Anh biết, anh đang nói về Việt Nam và vào lúc đó không ai nghe nói về đất nước này. Ngày nay, họ đang làm việc rất tốt, thật sự, về thương mại họ xông xáo. Ho rất xông xáo".
"Họ là những nhà thương thuyết tuyệt vời và là những doanh nhân vĩ đại nhưng không ai nghe nói về Việt Nam và tôi nói, "Chúng ta đang làm gì ? Rất nhiều người đang chết. Cái gì đang xẩy ra ở đó ? Vì vậy tôi không bao giờ là người hâm mộ. Đây không như tôi đang chiến đấu chống Đức Quốc Xã, tôi đang chiến đấu – Chúng tôi đang chiến đấu chống Hitler. Và tôi giống rất nhiều người.
"Tôi không xuống đường biểu tình. Anh biết, tôi không nói "Tôi sẽ dọn qua Canada" như nhiều người đã làm, nhưng không, tôi không là một người hâm mộ cuộc chiến này. Cuộc chiến này không phải một thứ mà tôi nên tham dự vào" (1).
Đây là một sự phỉ báng thẳng vào mặt các cựu quân nhân VNCH, những người tị nạn cộng sản, các cựu chiến bình Hoa Kỳ từng tham chiến tại Việt Nam và hàng trăm ngàn thanh niên Việt, Mỹ đã hi sinh bảo vệ tự do, chống lại chế độ độc tài, tham nhũng mà chính ông Trump cũng lên án.
Một mặt ông Trump kêu gọi thế giới lật đổ các chế độ cộng sản và xã hội chủ nghĩa, một mặt ông ca ngợi Việt Nam cộng sản là một nước có một cuộc sống rất tốt và có những nhà lãnh đạo tài ba. Đó là một mâu thuẫn hiển nhiên.
Tổng thống Trump chủ trương tiêu diệt Trung Quốc ?
Phần đông những cựu quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và người Việt tị nạn cộng sản là những người ủng hộ mãnh liệt Tổng thống Trump vì ông theo đuổi chính sách đối đầu với Trung Quốc qua việc áp đặt thuế quan trên hàng của Trung Quốc nhập cảng vào Mỹ. Ngoài ra Ô. Trump còn áp dụng một số biện pháp phi quan thuế như trừng phạt Huawei và ZTE, cấm các công ty Mỹ bán những bộ phận điện tử cho các công ty này và kêu gọi các công ty Hoa Kỳ và nước ngoài bỏ Trung Quốc qua dầu tư vào các nước khác.
Khi đến Việt Nam tham dự Hội Nghị APEC vào cuối năm 2017, ông Trump nhắc đến cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng chống lại ách cai trị của Trung Quốc để giành lại độc lập. Ông đưa ra một thông điệp mạnh mẽ về việc bảo vệ chủ quyền quốc gia của Việt Nam. Lời tuyên bố này của ông Trump đã làm vui lòng tất cả mọi người Việt và vô tình làm mê hoặc khá nhiều người Việt.
Dưới thời Tổng thống Obama, Đại sứ Mỹ tại Hà Nội và các sĩ quan cao cấp của Hoa Kỳ cũng từng viếng thăm Đền Thờ Hai Bà và đến quan sát sông Bạch Đằng nơi xẩy ra một cuộc hải chiến giúp quân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Tướng Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán. Nhưng những sự kiện này không gây nhiều chú ý.
Ông Trump từng tuyên bố chống lại chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Ông nói "Hầu như ở những nơi nào mà chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản được áp dụng đều đã tạo ra những thống khổ, tham nhũng và ung thối. Sự thèm khát quyền lực của chủ nghĩa xã hội đã dẫn đến việc bành trướng, xâm lăng và đàn áp. Tất cả các quốc gia trên thế giới cần phải chống lại chủ nghĩa xã hội và chống lại sự đau khổ mà nó mang đến cho mọi người" (2).
Nhiều người Việt đã ghi lòng tạc dạ câu nói kinh điển trên đây của ông Trump như thể chưa có ai đưa ra nhận định đó bao giờ. Nhưng khi nói đến chủ nghĩa xã hội, Tổng thống Trump thực sự nhắm tấn công Đảng Dân chủ Mỹ và các nước Châu Âu, đặc biệt các quốc gia Bắc Âu, với chính sách quốc gia xây dựng trên trách nhiệm cộng đồng, ưu tiên về an sinh và công bằng xã hội, ủng hộ hệ thống thuế lũy tiến và giảm ngân sách quốc phòng. Trong khi đó, Đảng Cộng hòa Mỹ chú trọng về quyền tự do cá nhân, phát triển khu vực tư và xây dựng các công ty lớn dựa trên lý thuyết kinh tế "nước thấm xuôi" (trickle down economics), cắt giảm tối đa những chương trình an sinh xã hội như trong dự án ngân sách 2020-2021, ủng hộ một thuế suất đồng đều bất kể giầu nghèo và tăng ngân sách quốc phòng.
Sự thật là cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa đều có cùng một lập trường chống sự bành trướng của Trung Quốc, chống chế độ cộng sản và chủ nghĩa xã hội cộng sản, không riêng gì Tổng thống Trump. Bà Chủ tịch Hạ viện Nancy Pelosi (Dân chủ, California) và Lãnh tụ thiểu số Thượng viện Chuck Schumer (Dân chủ, New York) có lập trường cứng rắn với Trung Quốc.
Bà Nancy Pelosi từng trương biểu ngữ "Tưởng niệm những người đã chết cho dân chủ" khi bà biểu tình tại Quảng trường Thiên An Môn vào 1991 vài hôm trước ngày tưởng niệm cuộc tàn sát sinh viên vào 1989. Cựu Tổng thống Obama từng cho chiến hạm qua eo biển Đài Loan nhiều lần hơn cả ông Trump, coi đây là việc làm thường xuyên nên không làm ầm ĩ.
Trong hơn ba năm qua, ông Trump chưa làm một việc gì cụ thể và hiệu quả để chống lại chính sách bành trướng của Trung Quốc. Ông đã rút Hoa Kỳ ra khỏi Hiệp định Hợp tác xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership – TPP) ngay trong tuần lễ đầu nhậm chức tổng thống. TPP do chính quyền Obama xây dựng để đoàn kết các nước ven Thái Bình Dương và cô lập Trung Quốc. Thương chiến với Trung Quốc chỉ nhắm làm giảm cán cân thương mại bất lợi, nhưng làm kinh tế của cả hai nước bị thiệt hại đáng kể.
Ông Trump đe dọa phủ quyết Đạo luật Nhân quyền và Dân chủ cho Hồng Kông, nhưng thất bại vì Quốc hội có dư phiếu để vô hiệu quyền phủ quyết. Mới đây ông còn tuyên bố Hồng Kông là một phần của Trung Quốc nên ông không can thiệp khi Trung Quốc ban hành luật an ninh quốc gia.
Trong hơn ba năm qua, Tổng thống Trump đã làm giảm uy tín của Hoa Kỳ đáng kể. Những cuộc biểu bột phát ở khắp nơi trên thế giới chống cá nhân ông và những gì xấu xí đang xẩy ra ở Hoa Kỳ. Hệ quà là vị thế của Trung Quốc và Nga ngày càng mạnh hơn. Ông Trump đã cô lập hóa Hoa Kỳ với thế giới và ngay cả với những nước đồng minh truyền thống như Anh, Đức, Pháp, Canada, Ý và Nhật. Cụ thể là Hội nghị Thượng đỉnh G-7 được dự trù tổ chức tại Hoa Kỳ vào năm nay khó thành hình. Bà Angela Merkel, Thủ tướng Đức từ chối không tham dự lấy cớ đại dịch Covid-19. Dự định mời Tổng thống Vladimir Putin tham dự của Tổng thống Trump không được hưởng ứng. Nếu G-7 xụp, NATO sẽ đổ theo.
Cuốn sách sắp phát hành của ông John Bolton "Căn phòng nơi sự việc xẩy ra : Hồi ký Nhà Trắng" (‘The Room Where It Happened : A White House Memoir’) tố cáo Tổng thống Trump tại Hội nghị Thượng đỉnh Osaka, Nhật Bản của 20 nước vào cuối tháng 6 năm vừa qua, đã xin xỏ Trung Quốc dùng sức mạnh kinh tế để giúp ông thắng cử trong cuộc bầu cử cuối năm nay. Ông Trump đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của nông dân trong cuộc bầu cử sắp tới và yêu cầu Trung Quốc gia tăng mua đậu nành và lúa mì.
Ngoài ra, ông Bolton còn tiết lộ rằng Tổng thống Trump đã nói trong buổi họp với Chủ tịch Tập Cận Bình rằng Đảng Dân chủ có thái độ thù nghịch với Trung Quốc. Như vậy chúng ta phải hiểu rằng Đảng Cộng hòa thì không.
Ông Bolton là một luật sư Hoa Kỳ, theo Đảng Cộng hòa, cựu cố vấn an ninh quốc gia của Nhà Trắng trong 2018-2019. Ông Trump đang kiện để cấm không cho cuốn sách này được phát hành với lý do tiết lộ bí mật quốc gia.
Người Việt thất vọng
Lời tuyên bố của Tổng thống Trump về chiến tranh Việt Nam chắc hẳn làm cho nhóm người Mỹ gốc Việt từng hăng hái ủng hộ ông bằng mọi giá thất vọng. Họ từng bất chấp những sai trái hiển nhiên của ông và tư cách bất xứng với cương vị của một vị tổng thống của một cường quốc và của thế giới tự do. Ít học, thiếu lý luận, nên họ thường chỉ biết văng tục với những ai dám phê bình đến ông Trump mà họ coi như một vị giáo chủ.
Khi đến Việt Nam họp thượng đỉnh với Chủ tịch Bắc Hàn Kim Jong-un vào tháng 2 vừa qua, Tổng thống Trump cũng đã ca ngợi Việt Nam là một mô hình tốt đẹp cho Bắc Hàn noi theo và mời Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng viếng thăm Hoa Kỳ vào năm nay để tiếp tục thảo luận về những biện pháp tăng cường sự hợp tác toàn diện giữa hai nước.
Những tín đồ Việt ủng hộ Trump trong và ngoài nước hẳn đã thất vọng khi Tổng thống Trump phất cờ đỏ sao vàng tại Hà Nội nhưng còn cố gắng bênh vực Trump. Nay một lần nữa bị Tổng thống Trump nhục mạ điều linh thiêng nhất đối với những người tị nạn cộng sản, cuộc chiến bảo vệ tự do. Rất tiếc những người tôn thờ Trump ngậm bồ hòn làm ngọt, mũ ni che tai, không dám có một phản ứng nào cả.
Trong quá khứ và cho đến ngay giờ phút này người Việt, đặc biệt là những cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa ghét cay ghét đắng những nhân vật nổi tiếng chống chiến tranh Việt Nam như John Kerry, Chuck Hagel, Jane Fonda, Tom Hayden và Joan Baez, ngoại trừ Donald Trump, một người trốn lính năm lần.
Nguyễn Quốc Khải
(09/09/2020)
(1) "Well I was never a fan of that war. I'll be honest with you, I thought it was a terrible war. I thought it was very far away. Nobody ever, you know, you're talking about Vietnam and at that time nobody ever heard of the country. Today they're doing very well, in fact on trade they are brutal. They're very brutal.
"They're great negotiators, they're great business people but nobody heard of Vietnam and I say, "What are we doing ? So many people dying. What is happening over there ?" So I was never a fan. This isn't like I'm fighting against Nazi Germany, I'm fighting -- We're fighting against Hitler. And I was like a lot of people".
"I wasn't out in the streets marching. I wasn't saying, you know, "I'm going to move to Canada"., which a lot of people did, but no I was not a fan of that war. That war was not something I should've been involved".
(2) "Virtually everywhere socialism or communism has been tried it has produced suffering, corruption, and decay. Socialism’s thirst for power leads to expansion, incursion, and oppression. All nations of the world should resist socialism and the misery that it brings to everyone".
Lời giới thiệu : Nhân ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, 19/6/2020, nhắc lại quan điểm về chiến tranh Việt Nam của Tổng thống Donald Trump.
Tổng thống Trump : Chiến tranh Việt Nam lực lượng một cuộc chiến tồi tệ
Trong thời gian thăm viếng Anh Quốc đầu tháng 6 năm vừa qua, khi được nhà báo Piers Morgan phỏng vấn trong chương trình World Exclusive được phát hình trên hệ thống truyền hình Good Morning Britain (GMB), Tổng thống Trump tuyên bố ông chống chiến tranh Việt Nam. Ông nói chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến tồi tệ, không phải như cuộc chiến chống Đức Quốc Xã. Ngoài ra ông còn ca ngợi những nhà lãnh đạo và nước Việt Nam hiện nay.
Trong cuộc phỏng vấn Tổng thống Trump nói nguyên văn như sau :
"Quả thực, tôi chưa bao giờ hâm mộ cuộc chiến đó. Tôi sẽ thành thật với anh. Tôi nghĩ đây là một cuộc chiến tranh tồi tệ. Nó ở rất xa. Anh biết, anh đang nói về Việt Nam và vào lúc đó không ai nghe nói về đất nước này. Ngày nay, họ đang làm việc rất tốt, thật sự, về thương mại họ xông xáo. Ho rất xông xáo".
"Họ là những nhà thương thuyết tuyệt vời và là những doanh nhân vĩ đại nhưng không ai nghe nói về Việt Nam và tôi nói, "Chúng ta đang làm gì ? Rất nhiều người đang chết. Cái gì đang xẩy ra ở đó ? Vì vậy tôi không bao giờ là người hâm mộ. Đây không như tôi đang chiến đấu chống Đức Quốc Xã, tôi đang chiến đấu – Chúng tôi đang chiến đấu chống Hitler. Và tôi giống rất nhiều người.
"Tôi không xuống đường biểu tình. Anh biết, tôi không nói "Tôi sẽ dọn qua Canada" như nhiều người đã làm, nhưng không, tôi không là một người hâm mộ cuộc chiến này. Cuộc chiến này không phải một thứ mà tôi nên tham dự vào".
"Well I was never a fan of that war. I'll be honest with you, I thought it was a terrible war. I thought it was very far away. Nobody ever, you know, you're talking about Vietnam and at that time nobody ever heard of the country. Today they're doing very well, in fact on trade they are brutal. They're very brutal.
"They're great negotiators, they're great business people but nobody heard of Vietnam and I say, "What are we doing ? So many people dying. What is happening over there ?" So I was never a fan. This isn't like I'm fighting against Nazi Germany, I'm fighting -- We're fighting against Hitler. And I was like a lot of people".
"I wasn't out in the streets marching. I wasn't saying, you know, "I'm going to move to Canada"., which a lot of people did, but no I was not a fan of that war. That war was not something I should've been involved".
Đây là một sự phỉ báng thẳng vào mặt các cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa, những người tị nạn cộng sản, các cựu chiến bình Hoa Kỳ từng tham chiến tại Việt Nam và hàng trăm ngàn thanh niên Việt, Mỹ đã hi sinh bảo vệ tự do, chống lại chế độ độc tài, tham nhũng mà chính ông Trump cũng lên án.
Một mặt ông Trump kêu gọi thế giới lật đổ các chế độ cộng sản và xã hội chủ nghĩa, một mặt ông ca ngợi Việt Nam cộng sản là một nước có một cuộc sống rất tốt và có những nhà lãnh đạo tài ba. Đó là một mâu thuẫn hiển nhiên.
Tổng thống Trump chủ trương tiêu diệt Trung Quốc ?
Phần đông những cựu quân nhân Quân lực Việt Nam Cộng Hòa và người Việt tị nạn cộng sản là những người ủng hộ mãnh liệt Tổng thống Trump vì ông theo đuổi chính sách đối đầu với Trung Quốc qua việc áp đặt thuế quan trên hàng của Trung Quốc nhập cảng vào Mỹ. Ngoài ra ông Trump còn áp dụng một số biện pháp phi quan thuế như trừng phạt Huawei và ZTE, cấm các công ty Mỹ bán những bộ phận điện tử cho các công ty này và kêu gọi các công ty Hoa Kỳ và nước ngoài bỏ Trung Quốc qua đầu tư vào các nước khác.
Khi đến Việt Nam tham dự Hội nghị APEC vào cuối năm 2017, ông Trump nhắc đến cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng chống lại ách cai trị của Trung Quốc để dành lại độc lập. Ông đưa ra một thông điệp mạnh mẽ về việc bảo vệ chủ quyền quốc gia của Việt Nam. Lời tuyên bố này của ông Trump đã làm vui lòng tất cả mọi người Việt và vô tình làm mê hoặc khá nhiều người Việt.
Dưới thời Tổng thống Obama, Đại sứ Mỹ tại Hà Nội và các sĩ quan cao cấp của Hoa Kỳ cũng từng viếng thăm Đền Thờ Hai Bà và đến quan sát sông Bạch Đằng nơi xẩy ra một cuộc hải chiến giúp quân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của tướng Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán. Nhưng những sự kiện này không gây nhiều chú ý.
Ông Trump từng tuyên bố chống lại xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản. Ông nói :
"Hầu như ở những nơi nào mà chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản được áp dụng đều đã tạo ra những thống khổ, tham nhũng và ung thối. Sự thèm khát quyền lực của chủ nghĩa xã hội đã dẫn đến việc bành trướng, xâm lăng và đàn áp. Tất cả các quốc gia trên thế giới cần phải chống lại chủ nghĩa xã hội và chống lại sự đau khổ mà nó mang đến cho mọi người".
"Virtually everywhere socialism or communism has been tried it has produced suffering, corruption, and decay. Socialism’s thirst for power leads to expansion, incursion, and oppression. All nations of the world should resist socialism and the misery that it brings to everyone".
Nhiều người Việt đã ghi lòng tạc dạ câu nói kinh điển trên đây của ông Trump như thể chưa có ai đưa ra nhận định đó bao giờ. Nhưng khi nói đến chủ nghĩa xã hội, Tổng thống Trump thực sự nhắm tấn công Đảng Dân chủ và các nước Châu Âu, đặc biệt các quốc gia Bắc Âu, với chính sách quốc gia xây dựng trên trách nhiệm cộng đồng, ưu tiên về an sinh và công bằng xã hội, ủng hộ hệ thống thuế lũy tiến và giảm ngân sách quốc phòng Trong khi đó, Đảng Cộng hòa chú trọng về quyền tự do cá nhân, phát triển khu vực tư và xây dựng các công ty lớn dựa trên lý thuyết kinh tế "nước thấm xuôi" (trickle down economics), cắt giảm tối đa những chương trình an sinh xã hội như trong dự án ngân sách 2020-2021, ủng hộ một thuế suất đồng đều bất kể giầu nghèo và tăng ngân sách quốc phòng.
Sự thật là cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa đều có cùng một lập trường chống sự bành trướng của Trung Quốc, chống chế độ cộng sản và chủ nghĩa cộng sản, không riêng gì Tổng thống Trump. Bà Chủ tịch Hạ Viện Nancy Pelosi (Dân chủ, California) và Lãnh tụ thiểu số Thượng Viện Chuck Schumer (Dân chủ, New York) có lập trường cứng rắn với Trung Quốc.
Bà Nancy Pelosi từng trương biểu ngữ "Tưởng niệm những người đã chết cho Dân chủ" khi bà biểu tình tại Quảng trường Thiên An Môn vào 1991 vài hôm trước ngày tưởng niệm cuộc tàn sát sinh viên vào 1989. Cựu Tổng thống Obama từng cho chiến hạm qua eo biển Đài Loan nhiều lần hơn cả ông Trump, coi đây là việc làm thường xuyên nên không làm ầm ĩ.
Trong hơn ba năm qua, ông Trump chưa làm một việc gì cụ thể và hiệu quả để chống lại chính sách bành trướng của Trung Quốc. Ông đã rút Hoa Kỳ ra khỏi Hiệp định Hợp tác xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership – TPP) ngay trong tuần lễ đầu nhậm chức tổng thống. TPP do chính quyền Obama xây dựng để đoàn kết các nước ven Thái Bình Dương và cô lập Trung Quốc. Thương chiến với Trung Quốc chỉ nhắm làm giảm cán cân thương mại bất lợi, nhưng làm kinh tế của cả hai nước bị thiệt hại đáng kể
Ông Trump đe dọa phủ quyết Đạo luật Nhân quyền và Dân chủ cho Hồng Kông, nhưng thất bại vì Quốc hội có dư phiếu để vô hiệu quyền phủ quyết. Mới đây ông còn tuyên bố Hồng Kông là một phần của Trung Quốc nên ông không can thiệp khi Trung Quốc ban hành luật an ninh quốc gia.
Trong hơn ba năm qua, Tổng thống Trump đã làm giảm uy tín của Hoa Kỳ đáng kể. Những cuộc biểu bột phát ở khắp nơi trên thế giới chống cá nhân ông và những gì xấu xí đang xẩy ra ở Hoa Kỳ. Hệ quà là vị thế của Trung Quốc và Nga ngày càng mạnh hơn. Ông Trump đã cô lập hóa Hoa Kỳ với thế giới và ngay cả với những nước đồng minh truyền thống như Anh, Đức, Pháp, Canada, Ý và Nhật. Cụ thể là Hội nghị Thượng đỉnh G-7 được dự trù tổ chức tại Hoa Kỳ vào năm nay khó thành hình. Bà Angela Merkel, Thủ tướng Đức từ chối không tham dự lấy cớ đại dịch Covid-199. Dự định mời Tổng thống Vladimir Putin tham dự của Tổng thống Trump không được hưởng ứng. Nếu G-7 xụp, NATO sẽ đổ theo.
Cuốn hồi ký của John Bolton tố cáo Tổng thống Trump hạ mình xin xỏ Chủ tịch Tập Cận Bình giúp ông thắng cử cuối năm 2020. Ông Trump còn chỉ trích Đảng Dân chủ có thái độ thù nghịch với Trung Quốc (điều này phải hiểu rằng ông Trump thân thiện với Trung Quốc).
Cuốn sách sắp phát hành của ông John Bolton "Căn phòng nơi sự việc xẩy ra : Hồi ký Nhà Trắng" (‘The Room Where It Happened : A White House Memoir’) tố cáo Tổng thống Trump tại Hội nghị Thượng đỉnh Osaka, Nhật Bản của 20 nước vào cuối tháng 6 năm vừa qua, đã xin xỏ Trung Quốc dùng sức mạnh kinh tế để giúp ông thắng cử trong cuộc bầu cử cuối năm nay. Ông Trump đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của nông dân trong cuộc bầu cử sắp tới và yêu cầu Trung Quốc gia tăng mua đậu nành và lúa mì.
Ngoài ra, ông Bolton còn tiết lộ rằng Tổng thống Trump đã nói trong buổi họp với Chủ tịch Tập Cận Bình rằng Đảng Dân chủ có thái độ thù nghịch với Trung Quốc. Như vậy chúng ta phải hiểu rằng Đảng Cộng hòa thì không.
Ông Bolton là một luật sư Hoa Kỳ, theo Đảng Cộng hòa, cựu cố vấn an ninh quốc gia của Nhà Trắng trong 2018-2019. Ông Trump đang kiện để cấm không cho cuốn sách này được phát hành với lý do tiết lộ bí mật quốc gia.
Người Việt thất vọng
Lời tuyên bố của Tổng thống Trump về chiến tranh Việt Nam chắc hẳn làm cho nhóm người Mỹ gốc Việt từng hăng hái ủng hộ ông bằng mọi giá thất vọng. Họ từng bất chấp những sai trái hiển nhiên của ông và tư cách bất xứng với cương vị của một vị tổng thống của một cường quốc và của thế giới tự do. Ít học, thiếu lý luận, nên họ thường chỉ biết văng tục với những ai dám phê bình đến ông Trump mà họ coi như một vị giáo chủ.
Khi đến Việt Nam họp thượng đỉnh với Chủ tịch Bắc Hàn Kim Jong-un vào tháng 2 vừa qua, Tổng thống Trump cũng đã ca ngợi Việt Nam là một mô hình tốt đẹp cho Bắc Hàn noi theo và mời Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng viếng thăm Hoa Kỳ vào năm nay để tiếp tục thảo luận về những biện pháp tăng cường sự hợp tác toàn diện giữa hai nước.
Những tín đồ Việt ủng hộ Trump trong và ngoài nước hẳn đã thất vọng khi Tổng thống Trump phất cờ đỏ sao vàng tại Hà Nội nhưng còn cố gắng bênh vực Trump. Nay một lần nữa bị Tổng thống Trump nhục mạ điều linh thiêng nhất đối với những người tị nạn cộng sản, cuộc chiến bảo vệ tự do. Rất tiếc những người tôn thờ Trump ngậm bồ hòn làm ngọt, mũ ni che tai, không dám có một phản ứng nào cả.
Trong quá khứ và cho đến ngay giờ phút này, người Việt đặc biệt là những cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa ghét cay ghét đắng những nhân vật nổi tiếng chống chiến tranh Việt Nam như John Kerry, Chuck Hagel, Jane Fonda, Tom Hayden và Joan Baez, ngoại trừ Donald Trump, một người trốn lính năm lần.
Nguyễn Quốc Khải
Nguồn : Việt Báo, 18/06/2020
Những ngày vừa qua Cuộc chiến Việt Nam xuất hiện nhiều trên truyền thông Hoa Kỳ dù không trùng vào dịp kỷ niệm lớn nào.
Bức tường tại Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam. Hình minh họa.
Một trong những lý do là các ứng viên cho cuộc Bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ vào năm sau đều bị báo chí soi vì không ai trong số họ từng đi lính ở Việt Nam dù khi đó họ thuộc độ tuổi phải đi nghĩa vụ quân sự.
Tổng thống Trump được hoãn quân dịch vì đang học dở dang và sau đó có giấy của bác sỹ chứng nhận bị gai xương gót chân. Tuy nhiên con gái của bác sỹ viết giấy chứng nhận đó từng nói cha cô viết giấy vì quen thân phụ của ông Trump.
Thượng nghị sỹ của Đảng Dân chủ Tammy Duckworth, người mất cả hai chân khi phục vụ trong quân ngũ ở Iraq, thậm chí gọi ông Trump là "kẻ hèn nhát" vì tìm mọi lý do để không sang Việt Nam hồi cuối những năm 60 và đầu thập niên 70.
Thượng nghị sỹ Duckworth nói như vậy sau khi ông Trump phát biểu với báo chí Anh rằng ông "không thích cuộc chiến Việt Nam" và cho rằng Hoa Kỳ đáng ra không nên tham chiến ở đó.
Trong phỏng vấn với CNN, vốn được hơn nửa triệu người xem và hàng chục ngàn người tán thưởng, bà Duckworth nói : "Tôi không biết bất cứ ai mặc áo lính, nhất là những người ra trận, lại nói họ thích chiến tranh. Thực ra tôi phản đối Cuộc chiến Iraq nhưng tình nguyện tới đó khi đơn vị của tôi được điều động. Còn vị tổng thống hiện nay đã làm mọi chuyện để không đáp lại lời kêu gọi của đất nước. Nếu ông thực sự là người yêu nước, ông đã đáp lại lời kêu gọi của đất nước. Không chỉ một lần mà ông đã trốn quân dịch năm lần liền."
Bài báo của CNN cũng nói các tổng thống Kennedy, Johnson, Nixon, Ford và George H.W. Bush đều từng tham chiến trong lực lượng hải quân. Tổng thống Reagan và Carter không tham gia chiến đấu nhưng đều tham gia quân ngũ. Trái lại, các Tổng thống Clinton, Obama và Trump không phục vụ trong quân đội ngày nào còn ông George W. Bush cũng tìm cách để khỏi phải đi Việt Nam bằng cách tham gia lực lượng Vệ binh Quốc gia.
Trong các ứng viên tổng thống cho kỳ bầu cử vào năm 2020, Thượng nghị sỹ Bernie Sanders, ứng viên độc lập, nộp đơn phản đối cuộc chiến Việt Nam và từ chối đi lính cách đây hơn 40 năm nhưng ông cũng đã quá tuổi vào thời điểm tuyển nghĩa vụ. Về sau này ông nói ông chỉ phản đối chính sách chứ không phản đối những người tham chiến.
Ứng viên của Đảng Dân chủ, cựu phó tổng thống Joe Biden, từng hoãn nghĩa vụ năm lần vì còn đang đi học và sau đó bị loại vì bị hen suyễn, vẫn theo CNN. Hãng truyền hình này cũng cho rằng có thể sẽ không có ai từng tham chiến ở Việt Nam trở thành tổng thống Hoa Kỳ.
Trong khi nhiều người tìm cách để ở lại Hoa Kỳ trong thời gian diễn ra cuộc chiến Việt Nam, New York Times đưa tin về một trường hợp khai tăng tuổi để nhập ngũ và tới Việt Nam chiến đấu. Tờ này dẫn tin của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ nói rằng Dan Bullock có thể là người lính Mỹ trẻ nhất bị thiệt mạng kể từ Thế Chiến I khi ngã xuống ở tỉnh Quảng Nam hôm 6/6/1969 khi mới 15 tuổi. Tin về kỷ niệm 50 năm ngày người lính trẻ hy sinh đã được hơn 16.000 lượt chia sẻ và hơn 1.000 bình luận trên Facebook.
Một tin khác cũng được hàng ngàn người chia sẻ là thông báo hôm 10/6 của nhà tang lễ ở bang South Carolina chiêu mộ tình nguyện viên tham dự tang lễ của cựu binh Cuộc chiến Việt Nam James Miske. Ông Miske qua đời ở tuổi 75 và không có ai thân thích.
Tháng Sáu này cũng đánh dấu 47 năm ngày ‘Em bé Napalm’ Phan Thị Kim Phúc bị bom Napalm đốt cháy quần áo và gây bỏng nặng hôm 8/6/1972. Video về bà Kim Phúc nhân dịp này cũng thu hút hàng chục ngàn phản ứng trên trang Facebook mang tên Brut, trang chuyên về các video thời sự ngắn. Video nói hồi năm 1996 bà Kim Phúc đã tới dự và phát biểu nhân Ngày Cựu binh Hoa Kỳ tại Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam, vốn là bức tường ghi tên hơn 58.000 lính Hoa Kỳ không trở về sau cuộc chiến.
Bản sao của bức tường này hiện vẫn đang trên đường đi vòng quanh Hoa Kỳ. Hồi đầu tháng Sáu bức tường đã tới bang Colorado. Bang Ohio sẽ là một trong những điểm dừng chân sắp tới của bức tường ghi nhớ hàng triệu lính Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam và hàng chục ngàn người tử trận.
Năm 2020 sẽ đánh dấu 45 năm ngày Cuộc chiến Việt Nam kết thúc nhưng những bàn cãi về cuộc chiến này sẽ vẫn còn kéo dài trong nhiều năm tới đây.
Nguyễn Hùng
Nguồn : VOA, 14/06/2019
Thảm cảnh bắt đầu từ vụ Buôn Mê Thuột thất thủ, tiếp đến là quyết định của Tổng thống Thiệu bỏ ngỏ Cao nguyên cho cộng quân, di tản chiến thuật. Thế là quân dân các vùng di tản bị rơi vào tình cảnh tán loạn. Nhiều quân nhân bỏ ngũ chạy về lo cho gia đình di tản. Những người dân thường cũng rời bỏ cửa nhà, ruộng vườn, tài sản tháo chạy về phía tự do như dòng thác đổ.
Công tội của các tập đoàn lãnh đạo công cụ tay sai ngoại bang trong quá khứ cũng như hiện tại, mai này sẽ được lịch sử phán xét công minh. Dẫu sao, cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn chấm dứt cũng nên coi là một niềm vui chung của cả dân tộc.
Người ta ghi nhận "có đến nửa triệu quân dân Cao nguyên di tản về Nha Trang, một tỉnh ven biển Miền Trung của Việt Nam Cộng Hòa, phòng tuyến cuối cùng của Quân Đoàn II, Quân Khu II. Sau quyết định triệt thoái của ông Thiệu, Quân Đoàn II tan vỡ nhanh như một giấc chiêm bao. Mới đầu hôm sớm mai Quân Đoàn đã bị tiêu hủy trong nháy mắt. Hành lang phía tây Sài Gòn bị đe dọa trầm trọng…" (27).
Trong khi đó ở Huế, quân dân rút về Đà Nẵng, rồi tranh nhau tìm đường ra biển. Một số khác theo đường bộ tháo chạy về phía nam như một "Đại lộ kinh hoàng". Vì trên đại lộ ấy, nhiều cảnh đau lòng đã diễn ra. Người ta đã phải chứng kiến cảnh tranh sống, sát hại nhau, nạn thổ phỉ cướp bóc, hãm hiếp công khai giữa thanh thiên bạch nhật. Mọi giá trị nhân bản, đạo đức bị chà đạp ; tình huynh đệ chi binh, nghĩa đồng bào trở thành xa lạ trong cuộc "rút lui chiến thuật" đầy hỗn loạn này. Thảm cảnh này cũng diễn ra tương tự ở nhiều tuyến "rút lui chiến thuật" khác trên các nẻo đường đất nước. Mọi người tháo chạy về phía tự do, vì lúc ấy có lời đồn đãi rằng "đã có thương lượng cho Cộng sản Bắc Việt một nửa lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa mà không chống cự…".
Quả thực đến đầu tháng 4 năm 1975, một nửa lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa đã bỏ ngỏ cho Cộng quân đến tiếp quản. Tốc độ rút quân quá nhanh đến độ đối phương không kịp tiếp thu, không đủ người và thực ra cũng không cần đủ người để giữ đất. Trong vòng vài tuần, 150.000 binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã tự hủy và mất khả năng chiến đấu. Thế quân bình chiến lược hoàn toàn bị đảo ngược. Chế độ Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam Việt Nam lâm nguy !
Mặc dầu thực tế diễn ra đúng với ý muốn của Hoa Kỳ, nhưng Tổng thống Gerald Ford lúc đó vẫn làm ra vẻ quan tâm đến việc cứu vớt số phận đã được an bài của Việt Nam Cộng Hòa. Ông Ford đã đề nghị một ngân khoản viện trợ quân sự bổ sung 700 triệu Mỹ kim trang bị và lập cầu không vận khẩn cấp chuyển đồ tiếp tế cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Hành động này của Tổng thống Ford chẳng khác chi hành động của một nhà đạo đức giả, một bác sĩ vô lương tâm, biết rằng con bệnh sắp chết và cái chết ấy có một phần trách nhiệm do mình gây ra, nhưng bề ngoài vẫn tỏ ra hết lòng muốn cứu sống con bệnh. Dẫu sao, đó cũng chỉ là những lời tuyên bố để che đậy một ý đồ cũng chẳng thay đổi được thực tế.
Thực tế lúc đó là, ông Bùi Diễm, Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Mỹ, đã từ Washington trở về tuyên bố một cách tuyệt vọng, rằng : "Không còn hy vọng gì về phía Mỹ nữa, chúng ta phải tính đến các điều kiện thực tế…".
Thực tế là một nửa nước đã mất, người ta chỉ còn trông chờ vào một cứu tinh. Nhưng nào còn ai dám làm cứu tinh, khi người Mỹ đã bỏ cuộc. Vậy chỉ còn trông chờ một phép lạ, mà phép lạ thì siêu hình khó xẩy ra. Vậy chỉ còn cách chấp nhận thực tế mà tờ New York Time số ra ngày 1/4/1975 đã phản ánh tổng quát "Quân Bắc Việt đã tràn lên khắp đất nước và chỉ gặp vài kháng cự lẻ tẻ, lãnh thổ bị chiếm là do bỏ cuộc thực sự…".
Theo đánh giá của một nhân viên cao cấp CIA có mặt vào những giờ phút hấp hối của chế độ Việt Nam Cộng Hòa thì :
"Lúc này, để bảo vệ Sài gòn, quân Nam Việt đang tơi tả, chỉ còn tương đương sáu sư đoàn, đương đầu với 18 sư đoàn quân Bắc Việt, một đa số áp đảo. Điều mà Nam Việt Nam hy vọng thực hiện là lập một phòng tuyến án ngự cuối cùng chạy từ một phần đất Cao nguyên xuống tới bờ biển miền Trung, xuyên ngang thị trấn Xuân Lộc…" (28).
Thế nhưng tình hình thực tế ngày càng nguy kịch. Trong lúc lâm nguy người ta lại nói nhiều đến giải pháp được Mỹ khuyến khích từ lâu, là thương lượng với cộng sản để thành lập một chính phủ liên hiệp ba thành phần. Đây cũng là giải pháp tương tự từng được qui định trong Hiệp Định Genève 1954, nhưng đã không được các bên thực hiện. Đó cũng là giải pháp bị bác bỏ năm 1965 vì đường lối chiến tranh đã được lựa chọn. Nay một lần nữa giải pháp thương lượng với cộng sản để thành lập một chính phủ liên hiệp ba thành phần được chọn lựa trong Hiệp Định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình cho Việt Nam năm 1973.
Thực ra, đây là một giải pháp chỉ có giá trị pháp lý trên văn bản có tính nguyên tắc, thực tế thâm tâm người Mỹ không muốn nó được thực hiện, vì họ không còn muốn dính líu thêm nữa mà chỉ muốn cắt bỏ chế độ Việt Nam Cộng Hòa càng sớm càng tốt. Vì rằng, để cho chế độ này tồn tại dưới bất cứ hình thức nào đều làm cản trở tiến trình đi vào thế chiến lược quốc tế mới của Mỹ. Điều này cũng phù hợp với tham vọng của phe cộng sản Bắc Việt, không muốn thương lượng trong điều kiện hiện lại quá thuận lợi, mà chỉ cần ông Thiệu bị lật đổ bằng chính người của ông ta. Họ muốn chế độ Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ trước khi họ đến tiếp quản mà không phải tàn phá giết chóc nhiều. Họ muốn một sự sụp đổ từ từ để những chiến lợi phẩm dành cho họ vẫn còn nguyên vẹn. Và đúng như vậy, mọi tài sản của chế độ miền Nam bị sụp đổ không do sức mạnh chiến đấu của phe cộng sản Bắc Việt.
Và cũng đúng như sự mong muốn của chính quyền cộng sản Hà Nội, ông Thiệu đã phải từ chức trước áp lực quần chúng và các phe phái tranh giành quyền lực dưới sự đạo diễn của CIA. Ngày 21/4/1975, bằng một bài diễn văn gay gắt ông Thiệu đã tố cáo sự phản bội của Mỹ, được truyền đi trên các phương tiện truyền thông đại chúng, phương tiện mà truớc đó người Mỹ đã thiết lập cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa làm công việc tuyên truyền lôi kéo những con tim, khối óc và cả mạng sống của nhân dân miền Nam Việt Nam đi vào chiến lược chống cộng bảo vệ chế độ và phần đất tự do miền Nam Việt Nam như một "tiền đồn của thế giới tự do" ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản quốc tế !
Hãy nghe những lời tố cáo muộn màng của ông Thiệu :
"Họ bỏ rơi chúng tôi. Họ bán rẻ chúng tôi. Họ đâm sau lưng chúng tôi. Một nước đồng minh lớn đã không làm tròn lời hứa với với một nước đồng minh nhỏ…" (29).
Đây lại một lầm lẫn lớn, cho đến lúc này ông Thiệu vẫn chưa nhận ra thực trạng này : Chưa bao giờ Việt Nam Cộng Hòa được Mỹ đối xử như một đồng minh. Rồi ông Thiệu hằn học oán trách người Mỹ :
"Các ông bỏ chạy để mặc chúng tôi làm cái việc mà các ông làm không xong. Chúng tôi không có gì hết mà các ông lại muốn chúng tôi hoàn thành điều mà các ông không làm nổi... Khi ký Hiệp định hòa bình, Mỹ đã thỏa thuận sẽ thay thế vũ khí trên căn bản một đổi một. Nhưng Mỹ không giữ lời. Ngày nay còn ai có thể tin vào lời hứa hẹn của Mỹ nữa hay không ?..." (30).
Ngày 26 tháng 4 năm 1975, nghĩa là năm ngày sau khi Tổng thống Thiệu từ chức, Quốc hội Sài Gòn đã khởi đầu bằng một thông báo, theo đó người được Tổng thống Thiệu chỉ định nắm quyền tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (theo Hiến Pháp) là Phó Tổng thống Trần Văn Hương, nay được Quốc hội ủy nhiệm quyền tuyển chọn một người thay thế ông trong chức vụ Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa.
Trên căn bản thông báo này, quyền Tổng thống Trần Văn Hương đã chỉ định đại tướng Dương Văn Minh làm Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (ngoài dự liệu của Hiến Pháp). Ngày 28/4/1975, tướng Minh nhậm chức, cử giáo sư Vũ Văn Mẫu vào chức vụ thủ tướng chính phủ, đứng ra thành lập nội các hòa giải, thay thế chính phủ chống cộng cuối cùng của ông Nguyễn Bá Cẩn mới được thành lập trước đó một tuần.
Như vậy là tướng Dương Văn Minh, người hùng của cuộc đảo chánh năm 1963, đưa đến sự cáo chung nền Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa, nay lại được Mỹ tuyển chọn đúng ý Việt cộng làm nhiệm vụ khai tử nền Đệ nhị Việt Nam Cộng Hòa mà chính ông đã góp phần tạo dựng.
Mặc dầu hai ông tổng thống Dương Văn Minh và thủ tướng Vũ Văn Mẫu đã cố gắng đơn phương giương cao ngọn cờ "hòa giải và hòa hợp dân tộc", với một số động tác mời chào giả tạo, như ra thông cáo giả vờ đuổi hết người Mỹ, rằng trong vòng 48 giờ đồng hồ, người Mỹ cuối cùng phải rời khỏi Việt Nam ; ra quyết định thả hết các tù chính trị (tức tù Việt cộng)… Nhưng tất cả đã muộn rồi, cộng sản Bắc Việt đã cảm thấy đang ở thế thượng phong, chẳng cần "hòa giải hòa hợp" với ai nữa. Vì "hòa giải hòa hợp dân tộc" vốn chỉ là chiến thuật thường được cộng sản sử dụng khi chưa đủ sức thanh toán đối phương, giành thắng lợi tối hậu mà thôi.
Sau đây là một đoạn tường thuật của một nhà văn Việt Cộng về những giây phút cuối cùng của cái "Chính phủ hòa giải hòa hợp" vào giờ thứ 25 của cuộc chiến :
"…11 giờ 30 ngày 30 tháng 4 năm 1975
Chiếc xe tăng tiến vào xô đổ cánh cửa sắt của Dinh Độc Lập. Từ trên xe nhẩy xuống một tổ chiến sĩ Quân Giải phóng trẻ măng, mặc đồng phục lá cây, cầm lá cờ mầu đỏ xanh có ngôi sao vàng, lao nhanh về phía dinh.
Những thành viên của chính phủ Dương Văn Minh mới nhận chức ngày hôm trước về tề tựu tại phòng chính của dinh Độc Lập, đứng dậy khi những người cán bộ của Quân đoàn II, mặt sạm khói súng và bụi đường xa bước vào. Họ đã tiến quân qua nhiều thành phố suốt dọc bờ biển miền Trung tới đây.
Dương Văn Minh nói :
- Toàn thể chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đều có mặt đợi các ngài đến để bàn giao chính quyền.
Một cán bộ trả lời :
- Các ông còn gì nữa để bàn giao ! Các ông phải đầu hàng vô điều kiện ! (31).
Khi đọc những lời tường thuật trên đây, người bàng quan không khỏi cảm thấy tội nghiệp cho tướng Dương Văn Minh, khi thấy lịch sử dường như đã luôn chọn ông làm công việc "khai sơn phá thạch", nôm na là làm công việc lót đường để cho kẻ khác gặt hái thành quả.
Trong khi đó một phóng viên của hãng thông tấn AP ở lại Sài Gòn đến phút chót đã kể lại :
"Không có một tiếng súng nào, hàng trăm người Sài Gòn cũng như tôi đứng há miệng nhìn đoàn xe tăng ngày càng nhiều của cộng sản tiến vào thành phố. Đến trưa, mọi chuyện đều xong. Trong suốt 13 năm viết về chiến tranh Việt Nam, tôi không bao giờ tưởng đến chuyện nó kết thúc theo lối này. Tôi hình dung phải có một cuộc mặc cả về chính trị tương tự như đã xẩy ra ở Lào mười năm về trước. Hoặc là một trận đánh theo kiểu Armageddon ở Châu Âu trong Thế Chiến Hai, mà kết cuộc là thành phố bị tan nát. Chuyện đầu hàng là điều hoàn toàn tôi không ngờ tới..." (32).
Một viên chức CIA, rời Việt Nam trong toán CIA cuối cùng vào ngày 30/4/1975, đã ghi lại những hình ảnh cuối cùng của cuộc chiến như sau :
"Chiếc máy bay trực thăng đã bắt đầu rời khỏi Tòa Đại Sứ. Người xạ thủ ở đuôi máy bay đang cúi rạp người trên súng của mình. Máy bay vòng trên thành phố. Trong khỏanh khắc tôi có thể nhìn thấy bóng dáng của một trong những cửa sổ tiệm rượu Mini Bar, một tiệm nổi tiếng vào bậc nhất ở Sài Gòn, nơi biết bao chàng lính Mỹ đã mất sạch cả cơ nghiệp cùng với sự ngây thơ của mình. Và rồi chiếc máy bay ngoặt lại, hướng về phía Nam, bay qua Biên Hòa, thấy toán xe Bắc Việt đèn sáng trưng đang uốn mình trên con đường vào Biên Hòa… Trong phút chốc, kiến trúc khổng lồ mầu xám của một hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ đã bao lấy chúng tôi như một cái kén khổng lồ bằng kim khí…" (33).
Một ngày trước khi Sài Gòn rơi vào tay quân cộng sản Bắc Việt (29/4/1975), Đại sứ Mỹ cuối cùng Martin đã bình tĩnh ngồi ở bàn làm việc trong tòa Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn đợi lệnh từ Hoa Thịnh Đốn trả lời yêu cầu của ông xin gia hạn di tản. Nhưng từ Tòa Bạch Ốc đã ban ra lệnh cuối cùng : "Tổng thống Hoa Kỳ lệnh cho Đại sứ Martin phải rời đi bằng chiếc máy bay này". Đó là chiếc máy bay CH-46 được gởi đến đón Martin mang tên "Lady Ace 09" (32 bis).
Như vậy là cuộc chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt với thái độ phủi tay không thương tiếc của Hoa Kỳ, người khởi đầu và cũng là người kết thúc sinh mạng một chế độ công cụ của mình.
Micheal Maclear, một nhà báo Mỹ trong cuốn "Việt Nam, cuộc chiến tranh mười nghìn ngày" đã ghi lại cảm tưởng của Martin đối với cuộc chiến kết thúc là "thấy nhẹ cả người". Đó là cuộc chiến tranh chưa bao giờ được chính thức gọi là chiến tranh, dù nó là cuộc chiến tranh dài nhất của Mỹ đã chấm dứt. Nó là "một cuộc xung đột", "một sự dính líu", "một kinh nghiệm" và thất bại của nó sẽ được các sử gia có thể phán xét, không còn là mối bận tâm của nhân dân Hoa Kỳ. Rất đơn giản, họ nghĩ là họ đã chiến đấu, hoặc người của họ đã chiến đấu, thế là đủ. Từ hai năm về trước (1973-1975), họ đã thực hiện được một nền hòa bình cho họ tại Việt Nam. Hầu hết người Mỹ đã cảm thấy "một nền hòa bình trong danh dự" đã đạt được như người ta bảo. Giờ đây, họ đang nhìn với vẻ bàng quan chán ngắt, có đôi chút sửng sốt, song sự thật không phải hoàn toàn bị bất ngờ. Tám năm chiến đấu của Mỹ, chỉ trong nhiều tuần đã trở thành vô nghĩa...
Vô nghĩa ư ?
Thực ra, cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc như thế đã chỉ có thể là vô nghĩa và vô ích với nhân dân Mỹ, khi mà họ đã phải gánh chịu mọi chi phí cho cuộc chiến, với cái giá máu xương của 58.000 binh sĩ con em của họ phải bỏ mạng tại Việt Nam, mà vẫn không thực hiện được mục đích cao cả là giúp nhân dân Việt Nam bảo vệ được chế độ dân chủ và phần đất tự do ở miền Nam Việt Nam. Nhưng nó vẫn có ý nghĩa và lợi ích đối với chính quyền Mỹ, khi sự kết thúc chiến tranh đến vào lúc mà các mục tiêu chiến lược của họ đã đạt được qua cuộc chiến tranh này, mở ra một thời kỳ đầy triển vọng sau chiến tranh cho công cuộc làm ăn mới của giới tư bản Mỹ ở vùng này, trong khung cảnh một thế chiến lược toàn cầu mới.
Riêng đối với nhân dân Việt Nam, cuộc chiến tranh kéo dài trên 20 năm (1954-1975) kết thúc như thế thì quả là vô nghĩa và tàn hại. Và sự chấm dứt cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn này, vừa là nỗi đau, vừa là niềm vui chung cho cả dân tộc Việt Nam.
Là nỗi đau cho nhân dân miền Bắc vì đã từng phải sống khổ cực, hy sinh chiến đấu cho một chiêu bài giả hiệu "độc lập dân tộc, chống đế quốc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước trong hòa bình, ấm no, hạnh phúc…".
Cũng là nỗi đau của nhân dân yêu chuộng tự do dân chủ ở miền Nam Việt Nam, vì đã ngay tình và nhiệt thành lao vào một cuộc chiến "bảo vệ chế độ tự do dân chủ".
Từ nỗi đau chung này, nhân dân hai miền Bắc-Nam Việt Nam cùng có chung một mối hận đối với những kẻ cầm quyền trên cả hai miền Nam-Bắc, từng là công cụ đắc lực một thời cho ngọai bang, đã xô đẩy nhân dân hai miền vào một cuộc chiến tàn hại và vô nghĩa.
Người dân tự hỏi : Tại sao cũng trong gọng kềm của của cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu, Bắc Hàn và Nam Hàn đã có thể cùng tồn tại để chờ cơ may thống nhất một cách hòa bình. Trong khi Việt Nam thì đi đến thống nhất bằng một cuộc chiến cốt nhục tương tàn, anh em một nhà tàn sát lẫn nhau và tàn phá tan hoang đất nuớc ?
Công tội của các tập đoàn lãnh đạo công cụ tay sai ngoại bang trong quá khứ cũng như hiện tại, mai này sẽ được lịch sử phán xét công minh. Dẫu sao, cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn chấm dứt cũng nên coi là một niềm vui chung của cả dân tộc. Vì đây là cơ may mới cho đất nước vươn lên trong thời kỳ các nước giầu tỏ ra thực tâm muốn giúp các nước nghèo đi vào thế ổn định để phát triển, trong nỗ lực thiết lập một nền trật tự thế giới mới hay là một hệ thống kinh tế quốc tế mới.
Đó là chiến lược "toàn cầu hóa của các cường quốc" : Toàn cầu hóa về chính trị bằng một chế độ dân chủ và toàn cầu hóa về kinh tế với một nền kinh tế thị trường. Trong khung cảnh ấy, các quốc gia lớn nhỏ cạnh tranh, cùng tồn tại hòa bình và các bên đều cùng có lợi (ít hay nhiều).
Houston, tháng 4 năm 2018
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 14/04/2018
Ghi chú :
Trích từ "Việt Nam trong thế chiến lược quốc tế mới" của Thiện Ý.
- Từ (27) đến (33 bis) : Theo "The Ten Thousand Days War" của Michael Maclear, nhà báo Mỹ được giải thưởng Pulitzer nhờ những bài viết về chiến tranh Việt Nam.
- Xin vào : luatkhoavietnam.com , mục "Diễn Đàn", tiểu mục "Tác giả & Tác phẩm" để đọc thêm trong tài liệu nghiên cứu lý luận "Việt Nam trong thế chiến lược quốc tế mới", tiểu mục "Phỏng vấn & Hội luận" để nghe Đài VOA phỏng vấn tác giả Thiện Ý năm 1995 về tác phẩm này.
Trong bài "Tất cả chính trị đều là ‘thực tế’ được dàn dựng", cựu Dân biểu Robert Linlithgow đã viết : "Chính trị được dàn dựng. Nó không phải là thực tế". (Politics is staged. It’s not reality). Quả đúng như vậy. Nhìn lại đống tài liệu về cuộc chiến Việt Nam từ 1954 đến 1975 dày khoảng 150.000 trang đã được Mỹ giải mã, chúng ta thấy các biến cố quan trọng đều do Mỹ dàn dựng rất công phu, từ việc lèo lái chính phủ Ngô Đình Diệm đi theo đường lối của Mỹ đến vụ giết hai tổng thống Ngô Đình Diệm và John Kennedy để đổ quân vào Việt Nam, thực hiệc mục tiêu của cuộc chiến rồi bỏ rơi Miền Nam… đều đã được tính toán rất tỉ mỉ và chính xác.
Averell Harriman (phải), kẻ ra lệnh giết ông Diệm và ông Nhu
Mặc dầu đống tài liệu được giải mã cao ngất còn nằm sờ sờ trước mắt, từ 1975 đến nay, Mỹ đã cho dàn dựng lại cuộc chiến Việt Nam với nhiều tình tiết rất khác xa với thực tế và sử liệu đã được công bố, để phục vụ cho các chính sách và mục tiêu từng giai đoạn của Mỹ.
Những nổ lực đáng buồn
Có 4 bộ phim dàn dựng lại cuộc chiến Việt Nam đã được người Việt hải ngoại quan tâm và phản đối vì cho rằng không trung thực.
Bộ thứ nhất : "Vietnam The Ten Thousand Days War" (Việt Nam cuộc chiến 10.000 ngày), trọn bộ 13 tập, của Michael Maclear phổ biến 1980.
Bộ thứ hai : "Vietnam : A Television History" (Việt Nam : một Lịch sử Truyền hình), gồm 13 tập, do hãng WGBH-TV (thuộc PBS) ở Boston phổ biến năm 1983.
Bộ thứ ba : "Last days in Vietnam" (Những ngày cuối cùng ở Việt Nam), do đạo diễn Rory Kennedy thực hiện và phổ biến năm 2014.
Bộ thứ tư : "The Vietnam War" (Cuộc chiến Việt Nam), gồm 10 tập, do hai nhà đạo diễn Ken Burnes và Lynn Novick thực hiện, PBS mới phổ biến (2017).
Bộ thứ tư này quan trọng nhất, được mấy chục tổ chức tài chánh và truyền hình Mỹ tài trợ, đứng đầu là Bank of America, Corporation for Public Broadcasting (CPB), The Public Broadcasting Service (PBS), The Park Foundation, The Arthur Vining Davis Foundations… Đạo diễn Ken Burns khoe đã phỏng vấn gần 80 nhân chứng, bao gồm cả những người Mỹ từng tham chiến và những người phản chiến, những người lính chiến và dân thường của cả hai phía Việt Nam, người thắng và người bại trong cuộc chiến. Ông nói : Hơn bốn mươi năm đã trôi qua kể từ khi cuộc chiến kết thúc, chúng ta vẫn chưa thể quên Việt Nam. Và chúng ta vẫn còn tranh luận vì sao cuộc chiến này lại đi đến sai lầm, trách nhiệm thuộc về ai và có đáng có một cuộc chiến như thế này không".
Như chúng tôi đã nói, những thông tin được thu lợm kiểu này chỉ có thể được dùng để nói lên cách nhìn của một số cá nhân về cuộc chiến, hay đưa tới những kết luận mà người phỏng vấn muốn, chứ không thể dùng làm sử liệu được, vì việc chọn người được phỏng vấn nhiều khi thiếu khách quan, những điều họ biết nhiều khi chỉ là một phần nhỏ của vấn đề và cảm tính thường xen lấn vào…
Ngoài dùng phim ảnh, Mỹ còn tổ chức các cuộc hội thảo để vẽ lại cuộc chiến Việt Nam.
Trong ba ngày 26, 27 và 28/4/2016, "Hội nghị Thượng đỉnh về Chiến tranh Việt Nam" (Vietnam War Summit) đã được Hoa Kỳ tổ chức tại Thư viện LBJ, Austin, Texas, để vẽ lại lịch sử cuộc chiến Việt Nam và đưa chế độ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào thay chỗ của Việt Nam Cộng Hòa trước 1975. Nhân vật chính trong hội nghị là cựu ngoại trưởng Kissinger đã tuyên bố : "Không có ai muốn chiến tranh, không có ai muốn leo thang chiến tranh. Họ đều muốn hòa bình. Nhưng câu hỏi là, "Trong những điều kiện nào bạn có thể làm điều đó ?". Theo ông, thất bại của Hoa Kỳ ở Việt Nam là do chính người Mỹ tự gây ra, và trước hết là đã đánh giá thấp sự kiên trì của giới lãnh đạo Bắc Việt !
Khó gỡ thì tìm cách đạp xuống
Khi vẽ lại chiến tranh Việt Nam để biến đen thành trắng và trắng thành đen, điều mà Mỹ gặp khó khăn nhất là việc lật đổ và giết Tổng thống Ngô Đình Diệm. Trong cuốn hồi ký mang tên "The memoirs of Richard Nixon", Tổng thống Nixon có kể lại rằng khi đến Pakistan, ông đã gặp lại người bạn cũ là Tổng thống Ayub Khan. Tổng thống Khan đã nói một cách đau buồn về việc hạ sát Tổng thống Ngô Đình Diệm như sau :
"Tôi không thể nói-lẽ ra các ông đừng bao giờ ủng hộ ông Diệm ngay từ đầu. Nhưng các ông đã ủng hộ ông ta trong một thời gian dài và mọi người ở Á Châu đều biết điều đó. Dù họ có tán thành hay không tán thành điều đó, họ biết điều đó. Rồi đột nhiên các ông ngừng ủng hộ ông ta-và ông Diệm đã bị giết". Ông ta lắc đầu và kết luận : "Việc hạ sát ông Diệm có ba ý nghĩa đối với các nhà lãnh đạo Á Châu : làm một người bạn với Hoa Kỳ là nguy hiểm ; trung lập phải trả cái giá của nó ; và đôi khi làm kẻ thù (của Hoa Kỳ) lại tốt hơn ! Lòng tin cậy như một sợi chỉ mong manh và một khi nó đã đứt, rất khó mà nối lại".
Đó là một thực tế không thể phủ nhận được. Để làm giảm nhẹ bớt ảnh hưởng của biến cố tai hại này. khi vẽ lại lịch sử, Mỹ gần như không muốn nói về những gì đã xảy ra dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, chỉ đưa ra vài lời "chúc dữ" ông Diệm với ẩn ý giải thích tại sao Mỹ phải lật đổ và giết ông ta. Trong bộ phim "Vietnam: A Television History", Mỹ đặt tên tập 3 là "America's Mandarin (1954–1963)" (Vị Quan lại của Hoa Kỳ) trong đó mô tả ông Diệm đã áp dụng chế độ gia đình trị, nên Việt Cộng nổi lên chống Diệm và trở thành một sự đe dọa nghiêm trọng khiến Mỹ phải đưa quân vào để cứu Miền Nam. Trong bộ "The Vietnam War" Mỹ lại cho rằng ông Diệm "kiêu căng" và "ngạo mạn" một "đấng cứu thế không có thông điệp"…
Tuy nhiên, mặc dầu đã lấp liếm và đạp Đệ Nhất Cộng Hòa xuống như vậy, hiện nay không một nước nào ở Đông Nam Á chịu đi theo Mỹ như Việt Nam Cộng Hòa trước đây, một số đứng hẳn về phía Trung Quốc và một số bắt cá hai tay. Để ngăn chặn Việt Nam đứng hẵn về phía Trung Quốc, Mỹ phải ký tuyên bố "đối tác toàn diện" với Việt Nam và đang vẽ lại lịch sử chiến tranh Việt Nam để tiến tới "hòa giải hòa hợp".
Để làm sáng tỏ lịch sử trong giai đoạn này, trong phạm vi bài này chúng tôi sẽ căn cứ vào sử liệu do Mỹ công bố, trình bày khái lược những thủ đoạn Mỹ đã sử dụng khi xây dựng rồi phá sập chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa để tạo lý do đổ quân vào Việt Nam, thực hiện cuộc chiến mà Mỹ muốn.
Chuyện 'Khi Đồng Minh Nhảy Vào'
Cầm cuốn "Khi Đồng Minh nhảy vào" của Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, tôi mở ra và tìm ngay có Nghị quyết số NSC 5429/2 ngày 20/8/1954 của Hội đồng an ninh quốc gia Hoa Kỳ hay không.
Ông Diệm mới chấp chánh ngày 7/7/1954 thì ngày 20/8/1954, tức chỉ 43 ngày sau, Hội đồng an ninh quốc gia Hoa Kỳ đã họp và ban hành nghị quyết nói về chính sách của Hoa Kỳ sau Hiệp định Genève (US policies toward post-Geneva Vietnam), đồng thời phái Trung Tá Lansdale thuộc cơ quan OSS (tiền thân của CIA) đến hướng dẫn ông Diệm làm. Ông Diệm và ông Nhu không hay biết gì cả. Nghị quyết này được in trong bộ Foreign Relations of the United States (FRUS), 1952–1954, East Asia and the Pacific, Vol. XII, Part 1. p. 769-976.
Đại tá Lansdale được phái đển giúp ông Diệm
Tôi rất mừng khi thấy sách Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng có nghị quyết đó đăng ở trang 198–200. Nhưng tôi thất vọng khi thấy Tiến sĩ Hưng chỉ tóm lược phần phân tích và nhận định của nghị quyết mà thôi, còn phần các kế hoạch hành động cụ thể không được nói đến. Có lẽ Tiến sĩ Hưng chưa đọc hết các tài liệu liên quan, nên không biết kế hoạch đó nằm trong phần Phụ đính, không in trong bộ FRUS 1952-1954, mà in trong The Pentagon Papers !
Về phương diện chính trị, kế hoạch này đã ấn định như sau :
"Chính trị : Pháp phải trao trả độc lập hoàn toàn (gồm cả quyền rút lui khỏi Liên Hiệp Pháp) cho Nam Việt Nam và và yểm trợ một chính phủ bản xứ mạnh (a strong indigenous government). Diệm phải mở rộng căn bản chính phủ, bầu cử quốc hội, soạn thảo hiến pháp và truất phế Bảo Đại một cách hợp pháp (legally dethrone Bao Dai). Sự hợp tác và hỗ trợ của Pháp cho những chính sách này là cần thiết ; duy trì FEC (French Expeditionary Corps - Quân Đội Viễn Chinh Pháp), là chủ yếu đối với an ninh Nam Việt Nam".
(Gravel Edition, The Pentagon Papers, Volume I, Beacon Press, Boston, 1971, p. 204)
Chỉ với những câu viết vắn gọn như vậy, khi được triển khai, nó trở thành những biến cố lớn. Đọc các sử liệu tiếp theo, chúng ta sẽ hiểu tại sao ông Diệm phải truất phế Bảo Đại đến hai lần, việc dẹp tan các giáo phái, thống nhất quân đội và hình thành một chính phủ bản xứ mạnh (a strong indigenous government) bằng cách tiến tới một chế độ độc đảng giống Trung Hoa Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan.
Tướng Lansdale đã tranh luận rất gay gắt với ông Frederick Reinhardt, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Cộng Hòa (1955-1957) lúc đó về việc thành lập Đảng Cần Lao. Nhưng Đại sứ Reinhardt bảo : "Vì ông Diệm nay là Tổng thống được bầu, ông ấy cần có một đảng riêng của ông". Tướng Lansdale cho biết thêm : "Ông Reinhardt nói với tôi một cách cương quyết rằng quyết định về chính sách của Hoa Kỳ đã được ấn định và tôi phải hướng các hành động của tôi theo nó". Trong bản phúc trình 17/1/1961, Tướng Lansdale nói rõ : "Đảng Cần Lao không phải là ý kiến của nhà Ngô, trước tiên nó được đề xướng bởi Bộ ngoại giao Hoa Kỳ để loại bỏ cộng sản ra khỏi đất nước (the CLP was not their idea ; it "was originally promoted by the U.S. State Department" to rid the country of communists).
Tuy nhiên, khi Mỹ muốn đem quân vào Việt Nam để thực hiện mục tiêu mà Mỹ muốn, ông Diệm không đồng ý, Mỹ liền đảo ngược kế hoach lại.
Khi Mỹ quyết phá sập Đệ Nhất Cộng Hòa
Ngày 14/3/1957, ông Elbridge Durbrow được bổ nhiệm làm Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Cộng Hòa thay thế Đại sứ G. Frederick Reinhardt. Kế hoạch phá sập chế độ Ngô Đình Diệm bắt đầu.
Đại sứ Durbrow được phái đến để phá sập Đệ Nhất Cộng Hòa.
Nếu khởi đầu Mỹ muốn ông Diệm hình thành tại miền Nam một chế độ gióng các chế độ chuyên chế của Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan, của Park Chung Hee ở Nam Hàn, của Sukarno và Suharto ở Nam Đương hay của Lý Quang Diệu ở Singapore... để loại bỏ cộng sản khỏi đất nước (to rid the country of communists), thì nay Đại sứ Durbrow yêu cầu ông Diệm "thực hiện dân chủ để được lòng dân và thắng cộng sản". Tướng Lansdale đã phản đối vì cho ràng việc thay đổi nhanh như thế sẽ làm Miền Nam trở thành bất ổn.
Năm 1960 Đại Sứ Durbrow đã yểm trợ thành lập Khối Tự Do Tiến Bộ, thường được gọi là nhóm Caravelle, do ông Phan Khắc Sửu làm Trưởng Khối, để vận động thay thế ông Diệm. Tướng Lansdale đã viết giác thư đề ngày 20.9.1960 phân tích những sai lầm của Đại Sứ Durbrow. Nhưng Washington im lặng.
Một cuộc đảo chánh đã xảy ra ngày 11/11/1960, có nhiều thành phần của nhóm Caravelle tham dự. Cuộc đảo chánh thất bại. Hôm 4/12/1960, Đại sứ Durbrow đã phải cho Luật sư Hoàng Cơ Thụy ngồi co gối trong thùng ngoại giao (valise diplomatique) để đưa ra khỏi Việt Nam.
Vì Đại sứ Durbrow có nhiều bất đồng với chính phủ Ngô Đình Diệm và tai tiếng trong vụ đảo chánh ngày 11/11/1960, ngày 15/3/1961 Tổng thống Kennedy đã quyết định cử ông Federick E. Nolting làm Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn thay thế Durbrow. Nhưng ngày 17/8/1963 Bộ ngoại giao đã cử ông Henry Cabot Lodge đến làm đại sứ tại Sài Gòn để tổ chức lật đổ và giết Tổng thống Diệm.
Mở đường cho Bắc Việt Nam xâm nhập vào miền Nam
Từ ngày 12 đến 22/1/1959, Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã họp Hội nghị lần thứ 15 tại Hà Nội dưa ra nghị quyết "giải phóng miền Nam". Tháng 5 năm 1959, Hà Nội quyết định mở đường Trường Sơn Tây trên đất Lào để xâm nhập vào Miền Nam, lấy tên là Đường 559, thường được gọi là đường Hồ Chí Minh.
Muốn đi vào Nam, bộ đội Bắc Việt phải từ Quảng Bình theo quốc lộ 12 đi qua Lào bằng đèo Mụ Giạ rồi tiến vào Nam. Cái trở ngại lớn mà Cộng quân gặp phải là con đường số 9 nối liền Đồng Hà với tỉnh Savannakhet, nơi có quân đội Việt Nam Cộng Hòa tuần phòng thường xuyên. Cộng quân phải lập mật khu 601 gần Tchépone, nằm cách biên giới Việt-Lào khoảng 40 cây số để làm nơi trú quân. Từ đó Cộng quân vượt qua đường số 9 rồi đi lên cao nguyên Boloven để xuống ngã ba Tam Biên.
Chính phủ Ngô Đình Diệm đã ký hiệp ước với Lào cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đóng chốt ở Tchépone và Mường Phín, đồng thời giao cho Thiếu tá Trần Khắc Kính, Phó Giám đốc Sở Liên Lạc, mở các cuộc hành quân trên đất Lào để ngăn chặn Cộng quân xâm nhập vào miền Nam. Số quân Việt Nam Cộng Hòa đóng chốt và hành quân ở Lào có lúc lên đến khoảng 170.000 người. Cộng quân khó xâm nhập được.
Đùng một cái, ngày 25/1/1963, Tổng thống Kennedy tuyên bố ông muốn biến Lào thành "một nước độc lập, hòa bình và không liên kết". Averell Harriman, Thứ trưởng ngoại giao về chính trị, được coi là người có quyền hành nhất lúc đó tại Tòa Bạch Ốc, cho rằng phải trung lập hóa Lào để ngăn chặn Cộng quân dùng đất Lào xâm nhập vào Miền Nam. Ngày 16/5/1961, một Hội nghị quốc tế Giải quyết vấn đề Lào được triệu tập tại Genève. Chính phủ Ngô Đình Diệm phản đối rất mạnh, nhưng Harriman cứ tiến tới. Ngày 23/7/1962, Hiệp Ước Hòa Bình tại Lào đã được ký kết, 666 cố vấn Mỹ và toàn bộ quân đội của Việt Nam Cộng Hòa phải rút khỏi Lào. Bắc Việt cũng cam kết như thế. Nhưng thực tế không như Harriman tuyên bố. Theo báo cáo của CIA, sau khi Lào tuyên bố trung lập, khoảng 7.000 bộ đội Bắc Việt chẳng những không chịu rút khỏi Lào mà còn bành trướng thêm.
Henry Cabot Lodge, kẻ thi hành lệnh đảo chánh, giết ông Diệm và ông Nhu
Nhiều người tin rằng Harriman đã mở đường cho Bắc Việt tràn vào Miền Nam rồi viện vào lý do đó tuyên bố phải đổ quân vào để "cứu Miền Nam"!
Lịch sử vẫn là lịch sử…
Trên đây là những nét đại cương về tình hình Miền Nam dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa được tìm thấy trong sử liệu của Mỹ, nhưng khi vẽ lại lịch sử chiến tranh Việt Nam để phục vụ mục tiêu mới, Mỹ đã tìm cách bôi bác để che dấu sự thật.
Robert F. Turner, Giáo sư Luật tại Đại học Virginia và cũng là một học giả nổi tiếng về chủ nghĩa cộng sản Việt Nam, đã từng nhận định rằng đa số những gì về chiến tranh Việt Nam đang được giảng dạy tại các trường trung học và đại học ở Mỹ lại gần với thần thoại hơn là lịch sử.
Như Dalai Latma đã nói : "History is history. And my statement will not change past history". Lịch sử là lịch sử. Và lời tuyên bố của tôi không thay đổi được lịch sử đã qua.
Ngày 12/10/2017
Lữ Giang
"Đó là một sự xấu hổ thường nhật". Ken Burns đã nói như vậy khi được hỏi về trải nghiệm sản xuất bộ phim tài liệu "Cuộc chiến Việt Nam" mà ông hợp tác cùng nữ đạo diễn Lynn Novick. Burns và Novick bắt đầu dự án với "một sự ngạo mạn" rằng họ hiểu cuộc chiến. Nhưng ngay khi bắt đầu quá trình nghiên cứu, họ nhận ra họ đã gần như không biết gì.
Tượng đài chiến tranh Việt Nam tại Military Park, Oklahoma City. (Photo by Jacob Derichsweiler)
Những năm gần đây là thời gian nở rộ cho những nghiên cứu mới về Việt Nam, một chủ đề phần nào đánh mất sự hứng thú từ phía các học giả và công chúng vào những năm 90. Chiến tranh lạnh kết thúc với sự sụp đổ của hệ thống Cộng sản làm tăng sự tự tin về sức mạnh và làm giảm mối quan tâm tới những cuộc chiến thất bại của Mỹ. Nhưng sang thế kỷ 21, hai cuộc chiến Afghanistan và Iraq mà nhiều người gọi là "một Việt Nam khác" cùng các tài liệu được giải mật từ tàng thư của Mỹ, Đông Âu, một phần từ Trung Quốc và Việt Nam đã khiến Chiến Tranh Đông Dương lần thứ 2 thu hút những nghiên cứu mới. Một trong các công trình được mong đợi là bộ phim tài liệu "Cuộc chiến Việt Nam" bắt đầu phát sóng vào giữa tháng 09/2017 trên kênh PBS đồng đạo diễn bởi Ken Burns và Lynn Novick.
Ken Burns, 64 tuổi, nổi tiếng với kiểu tóc "úp nồi", là một tượng đài về làm phim tài liệu ở Mỹ. Ông trở nên nổi tiếng sau khi hoàn thành bộ "Cuộc Nội Chiến" nói về Nội Chiến Hoa Kỳ phát sóng năm 1990. "Cuộc Nội Chiến" thu hút tới 40 triệu người xem, thiết lập kỷ lục cho chương trình có nhiều người xem nhất trong lịch sử của PBS. Sau thành công đó, Burns tạo cho mình danh tiếng như "người kể chuyện nước Mỹ" bằng loạt phim tài liệu về các câu chuyện kinh điển của Mỹ như "Bóng chày" (1994), "Jazz" (2001), "Luật cấm đồ cồn" (2011), và "Gia tộc Roosevelt" (2014). "Cuộc chiến Việt Nam" có lẽ cũng sẽ theo mạch đó, chỉ là một câu chuyện khác của nước Mỹ nếu không có Lynn Novick, người quả quyết rằng "Cuộc chiến Việt Nam" phải được thực hiện cả ở Việt Nam và kể những câu chuyện Việt Nam.
Lynn Novick sinh năm 1962, bà tốt nghiệp Đại học Yale và bắt đầu làm việc cho Burns khi bộ phim "Cuộc Nội Chiến" đang ở giai đoạn hậu kỳ. Ấn tượng với năng lực của Novick, Burns đã đề nghị bà làm nhà sản xuất cho phim tài liệu "Bóng Chày". Tới bộ tài liệu về Frank Lloyd Wright, kiến trúc sư bậc thày của Mỹ thì Burns và Novick trở thành đồng đạo diễn và tiếp tục như vậy với hầu hết các phim về sau. Trong quá trình làm "Cuộc chiến Việt Nam", Lynn Novick đã tới Việt Nam ba lần. Cùng nhà sản xuất Sarah Botstein, bà điều hành tất cả các hoạt động của dự án tại đây. Ken Burns do phải phẫu thuật thận đã không thể bay sang. Trong chuyến bay từ Mỹ tới Việt Nam tháng 08/2017, Novick đã tự nhủ đó sẽ là lần cuối cùng nhưng bà biết mình đã nhầm ngay khi đặt chân xuống mặt đất. Tuy dự án phim đã kết thúc nhưng một mối liên hệ cá nhân đã hình thành giữa bà và nhiều người bạn Việt. Sau những gì nhận được từ Việt Nam, bà cảm thấy mình có trách nhiệm phải làm cho bộ phim xem được ở Việt Nam thay vì chỉ mang nó về Mỹ như một sản phẩm thương mại. Lynn Novick mong rằng một ngày bà sẽ mang con trai và cả Ken Burns tới Việt Nam. Như vậy sẽ là lần đầu tiên bà giúp ông mở rộng tầm nhìn chứ không phải chiều ngược lại.
Có thể nói "Cuộc chiến Việt Nam" là một trong những dự án tham vọng nhất của Ken Burns và Novick. Bộ phim có độ dài 18 giờ chia làm 10 tập, được thực hiện trong 10 năm với kinh phí 30 triệu Đô-la Mỹ. Đội ngũ sản xuất đã thực hiện khối lượng nghiên cứu khổng lồ với 25,000 bức ảnh, hơn 15,000 giờ phim tư liệu, phỏng vấn trên dưới 80 nhân chứng, cung cấp nhiều tài liệu, thông tin mới được giải mật chưa từng được biết tới. Trent Reznor, nhạc sĩ từng đạt tượng vàng Oscar cho phần âm thanh của phim "Mạng xã hội" chịu trách nhiệm sản xuất âm thanh. 120 tác phẩm nổi tiếng của Bob Dylan, The Beatles và rất nhiều tên tuổi khác cũng được cấp quyền sử dụng để tái tạo không khí những năm 60, 70 của thế kỷ 20. Do tính chất nhạy cảm của đề tài này ở Việt Nam, Thomas Vallely, một cựu binh Mỹ, người có đóng góp lớn vào tiến trình bình thường hoá quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, đã phải lên tiếng để Bộ Ngoại Giao và bộ Quốc Phòng Việt Nam đồng ý ngầm cho Novick phỏng vấn và quay phim. Đội ngũ cố vấn cũng tập hợp các chuyên gia hàng đầu về Việt Nam như nhà sử học Fredrik Logevall từ Đại học Harvard, hay nhà báo Huy Đức, tác giả cuốn "Bên Thắng Cuộc".
Cả Ken Burns và Lynn Novick đều thừa nhận "Cuộc chiến Việt Nam" là chủ đề khó khăn và phức tạp nhất mà họ từng thực hiện khi có quá nhiều luồng quan điểm, quá nhiều cách nhìn nhận từ các đối tượng khác nhau. Khi được hỏi vì sao lựa chiến tranh Việt Nam, mở lại những hồi ức đau thương và tranh luận cay đắng không có hồi kết, hai đạo diễn cho rằng "Việt Nam" vẫn là công việc còn dang dở của nước Mỹ. Không có ai thực sự hiểu cuộc chiến đã xảy ra thế nào và những người trải qua nó phải chịu đựng ra sao. "Việt Nam" là chìa khoá để hiểu những vấn đề nội tại của nước Mỹ: chính quyền gian dối, chia rẽ trong xã hội và sự thiếu vắng những trao đổi mang tính xây dựng. Năm mươi năm sau đỉnh điểm của cuộc xung đột dường như là thời điểm lý tưởng cho một cách nhìn mới. Quãng thời gian đủ dài để bụi bặm chính trị lắng xuống nhưng cũng không quá dài để còn được nghe trực tiếp từ người đã thật sự trải qua nó. Burns và Novick cũng chia sẻ hy vọng bộ phim sẽ là một cơ hội để người Việt Nam hiểu hơn về cuộc nội chiến của chính mình cũng như "Cuộc Nội Chiến" của Burns đã làm cho người Mỹ vào năm 1990.
Ken Burns và Lynn Novick đặt ra một nguyên tắc khi bắt tay vào sản xuất "Cuộc chiến Việt Nam". Đó là phim sẽ không có sự tham gia của những nhân vật cộm cán mà theo Burns là những người "sẽ lái lịch sử theo hướng mà họ muốn". Không John Kerry hay John McCain, không Henry Kissinger hay Jane Fonda. Thay vào đó, bộ phim đã phỏng vấn những người "bình thường" từ tất cả các bên. Những người lính Mỹ, miền Bắc Việt Nam, Nam Việt Nam, giải phóng quân, gia đình tử sĩ Mỹ, liệt sĩ Việt Nam, thanh niên xung phong, người tị nạn, nhà hoạt động phản chiến...đã phơi bày cho công chúng một Cuộc chiến Việt Nam ở nhiều góc cạnh nhất và nhiều sự thật nhất, hơn tất cả những gì từng được biết. Một Cuộc chiến Việt Nam không phải từ lời lẽ của những người tiến hành nó mà từ câu chuyện của những người đã trực tiếp trải qua và chịu đựng nó một cách đau thương nhất và cũng hào hùng nhất.
Nhật Huy
Nguồn : VOA, 09/26/2017
Tổng hợp từ các nguồn:
Là một trong những người có mặt trong bộ phim tài liệu nhiều tập "The Vietnam War" về chiến tranh Việt Nam của đạo diễn Ken Burns, nhà văn Nguyên Ngọc, nguyên là một sĩ quan trong quân đội miền Bắc, cho rằng Việt Nam cũng nên làm như Mỹ, tức là phải nhìn lại quá khứ, xét lại một cuộc chiến tranh mà theo ông đã dần dần trở thành một cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn do khác biệt ý thức hệ.
RFI : Thưa nhà văn Nguyên Ngọc, khi xem lại toàn bộ phim "The Vietnam War", ông có những nhận xét như thế nào về cách thực hiện bộ phim này ?
Nguyên Ngọc : Theo tôi, đây là một phim lớn và rất quan trọng về chiến tranh Việt Nam. Trước đây đã có nhiều phim về chiến tranh Việt Nam, kể cả hư cấu và phim tài liệu, nhưng đây là phim lớn nhất, dài đến 10 tập và 18 giờ. Đáng nói hơn nữa, đây là một phim rất quan trọng. Sau hơn 40 năm, phim này cho thấy nước Mỹ vẫn chưa ra khỏi cái ảm ảnh của cuộc chiến tranh đó.
Khi nói rằng nước Mỹ chưa ra khỏi chiến tranh Việt Nam, nhiều người, kể cả tôi, đã nghĩ rằng đó là một điểm yếu của nước Mỹ. Nhưng xem phim này thì tôi thấy hóa ra đó là cái mạnh của nước Mỹ. Đấy là một quốc gia luôn luôn nhìn trở lại và đặt câu hỏi về quá khứ, về cuộc chiến tranh của mình, về những gì mình đã làm trong suốt cuộc chiến tranh đó. Sức mạnh của nước Mỹ chính là luôn luôn biết tự đặt câu hỏi về quá khứ của mình.
RFI : Thưa nhà văn Nguyên Ngọc, cho tới nay, về phía Việt Nam, chiến tranh Việt Nam vẫn được mô tả như là chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Nhưng nay nhìn lại thì ông có thấy cần đặt lại vấn đề về định nghĩa cuộc chiến tranh này hay không ?
Nguyên Ngọc : Chính là tôi muốn nói về điều đó. Phim này gợi ý rất nhiều điều cho chúng ta. Vì sao mình làm cuộc chiến tranh đó, mình đã làm nó như thế nào, nó để lại những gì cho mình ? Những điều đó không được đặt mạnh, đặt một cách đầy đủ.
Đã hơn 40 năm rồi, khi mà nói về chiến tranh này, bởi vì Việt Nam là người thắng cuộc, nên người ta thường nói theo chiều hướng khẳng định và ca ngợi nó. Còn cuộc chiến tranh đó đem lại những gì cho đất nước này, kể cả mặt tốt và mặt tàn phá của nó, tàn phá cả về vật chất lẫn tinh thần, thì chưa bao giờ được đặt ra một cách nghiêm túc.
Riêng tôi là một người làm nghệ thuật, tôi ao ước Việt Nam có thể có một bộ phim tài liệu theo kiểu như vậy. Giá như Việt Nam cũng tự hỏi mình như thế. Theo tôi đó là điều cần thiết.
RFI : Thưa ông Nguyên Ngọc, một trong những điều cần phải được đặt lại đó thiệt hại quá lớn về nhân mạng về phía Việt Nam để đổi lấy chiến thắng đó ? Có nên đặt lại vấn đề là lẽ ra chúng ta có thể chọn cách khác để đạt được mục tiêu thống nhất và hòa bình mà không cần phải đổ máu nhiều như vậy ?
Nguyên Ngọc : Để trả lời câu hỏi đó thì tôi xin nói vì sao tôi đã đến với phim này. Người rủ tôi đến với phim này là một người bạn Mỹ Thomas Vallely. Tôi với Vallely có một cái duyên rất kỳ lạ : Hồi sau Mậu Thân, khoảng 1970-1971, tôi hoạt động ở vùng bắc Quảng Nam, trên bờ sông Thu Bồn. Thời kỳ đó vô cùng ác liệt và cả bờ sông đều trắng hết, không còn màu xanh trên mặt đất. Bãi sông Thu Bồn trước đây là một bãi dâu xanh ngắt, thì bây giờ trên đó có mọc lên một loại cây rất lạ, gọi là cây bói, giống như lau sậy. Chúng tôi đào hầm bí mật trong những bãi bói đó.
Sau này, Vallely mới kể rằng chính ông là thủy quân lục chiến đã hoạt động ngay tại khu vực đó. Hàng ngày ông vẫn bắn vào bãi bói vì nghi chúng tôi núp trong bãi bói đó. Có hôm chúng tôi cũng bắn lại. Có lần tôi nói với Vellely rằng : "May là ông bắn cũng xoàng và tôi thì cũng bắn xoàng !".
Chúng tôi gặp lại nhau và trở nên thân thiết với nhau là vì hai điều. Thứ nhất là chúng tôi gặp nhau trong giáo dục : Vallely là người đã giúp rất nhiều cho giáo dục Việt Nam. Thứ hai là chúng tôi đều hết sức ngưỡng mộ Phan Châu Trinh. Tôi nhắc đến chuyện đó để mà nói như thế này : Phan Châu Trinh đã từng nghĩ đến một con đường khác, mà nếu làm được thì chúng ta đã có thể đạt những điều mà chúng ta tha thiết mong muốn và có thể tránh được hai cuộc chiến tranh bi thảm và tàn phá ghê gớm như thế. Vallely cũng rất ngưỡng mộ Phan Châu Trinh trong ý tưởng đó. Cho nên chính ông đã rủ tôi đến nhóm làm phim của Ken Burns và Lynn Novick.
RFI : Phim nói về nhiều giai đoạn của cuộc chiến, trong đó có một sự kiện mà cho tới nay ở Việt Nam không ai nói đến, đó là vụ thảm sát ở Huế 1968, mà bản thân ông có nhắc đến trong phim. Theo ông biết thì vì sao lại có vụ đó ?
Nguyên Ngọc : Trong chiến dịch Mậu Thân 1968 thì Huế là thành phố mà đánh vào được và chiếm lâu nhất. Do chiếm lâu nhất và tưởng là giải phóng hẳn rồi và đã lập chính quyền, cho nên các cơ sở bí mật trong thành phố đều xuất hiện hết, bộc lộ ra hết.
Sau đó, lực lượng chiếm thành phố bị đối phương vây trở lại và phải mở đường máu mà ra. Trước đó, khi vào chiếm Huế, người ta đã bắt những người bị cho là cộng tác với Mỹ, với chính quyền miền Nam. Trong số đó có thể có những người đúng là có làm cho Mỹ và chính quyền miền Nam, và cũng có thể có những người phạm những tội ác với những cơ cơ sở hoặc là những người theo cách mạng ở Huế. Nhưng cũng có thể có những người bị bắt nhầm và thậm chí cũng có thể có những người bị bắt chỉ vì thù hằn riêng tư.
Cho đến khi bí quá, rút ra không được, nếu thả những người này ra thì tất cả những cơ sở bí mật được chuẩn bị bao nhiêu năm, bây giờ bộc lộ ra hết, nếu thả những người bị bắt ra thì họ sẽ chỉ điểm số người hoạt động bí mật.
Trong tình thế như vậy, người ta đã có chủ trương giết những người đó. Tôi không trực tiếp ở đấy và cũng không biết cái lệnh đó là từ ai. Nhưng trong phim tôi có nói, đấy là một vết nhơ, một vết đen trong cuộc chiến tranh, về phía Việt Nam.
Trong phim không chỉ có chuyện đó, mà còn có những vụ như những vụ thanh trừng từ sau Cách mạng tháng Tám. Theo tôi, phim đã nói chính xác, nói đúng, nói khách quan, công bằng về những điều đó, kể cả về phía Việt Nam, kể cả phía Mỹ và phía chính quyền miền Nam. Đấy cũng là một cái quý của phim này và điều đó làm chúng tôi phải nghĩ lại. Chúng tôi đã đi một con đường như thế nào mà để dẫn đến những hành động như thế, những vết đen như thế.
RFI : Chiến tranh đã chấm dứt từ lâu, Việt Nam và Mỹ đã hòa giải với nhau, vì sao giữa người Việt Nam vẫn chưa có hòa giải ?
Nguyên Ngọc : Trong phim, Bảo Ninh có nói một ý, mà theo tôi ở Việt Nam bây giờ người ta cũng nghĩ như vậy. Cuộc chiến tranh Pháp rồi chiến tranh Mỹ vừa có tính chất chống xâm lược, vừa có tính chất giải phóng dân tộc, nhưng cũng có tính chất nội chiến. Và càng về sau thì tính chất nội chiến càng sâu đậm hơn. Một cuộc tàn sát nhau, huynh đệ tương tàn vì ý thức hệ. Đó là một sự thật. Bảo Ninh đã nói điều đó và ở Việt Nam bây giờ có người đã nói ra, có người chưa nói ra, nhưng ai cũng thấy điều đó.
Ông Lê Xuân Khoa gọi cuộc chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mang tính chất ủy nhiệm, chiến tranh mang tính ý thức hệ. Chính cái đó nó đã phá nát xã hội Việt Nam. Trong phim, tôi có nói rằng cuộc chiến tranh này đã chia rẽ dân tộc một cách kinh khủng. Chưa bao giờ dân tộc Việt Nam bị chia rẽ như bây giờ. Cái tính chất ý thức hệ của cuộc chiến tranh làm cho xã hội Việt Nam bị xé nát, hậu quả đó đến bây giờ vẫn còn ?
RFI : Sự chia rẽ đó phải chăng một phần xuất phát từ thời gian sau 1975, khi miền Bắc chiến thắng miền Nam thì họ đã đưa nhiều quân nhân, công chức chế độ cũ đi học tập cải tạo, và đã có những chính sách, những hành động khiến cho rất nhiều người đã vượt biên, bỏ nước ra đi và nhiều người đã bỏ mạng ?
Nguyên Ngọc : Sự chia rẽ đó chính là hậu quả của tính chất nội chiến càng ngày càng đậm của cuộc chiến tranh. Lẽ ra là sau năm 75 anh phải hiểu ra điều đó để mà quay trở lại. Anh đã lỡ đi qua con đường đã chọn, con đường dẫn đến một cuộc nội chiến như thế. Nhưng sau năm 1975, không những anh đã không sửa chữa những điều đó, đã không tỉnh táo để chủ động hòa giải, mà một loạt những chính sách đã khiến sự chia rẽ thêm sâu sắc, làm cho tình hình thêm tệ hại.
Thanh Phương thực hiện
Bộ sách lịch sử mới của Viện sử học Việt Nam thay đổi cách gọi ngụy quân ngụy quyền bằng Việt Nam Cộng Hòa, để chỉ chính quyền miền Nam Việt Nam trước năm 1975.
Xe tăng của bộ đội cộng sản tiến vào dinh Độc Lập, Sài Gòn, 30/4/1975, kết thúc cuộc chiến tranh Việt Nam. AFP
Sự kiện này được nhiều người ca ngợi, nhưng cũng bị khá nhiều ý kiến chỉ trích bên trong Việt Nam.
Những ý kiến khác nhau
Nhà báo Võ Văn Tạo và nhà văn Thùy Linh đều cho rằng việc dùng tên Việt Nam Cộng Hòa thay cho ngụy quân ngụy quyền là điều rất tích cực cho việc hòa hợp hòa giải dân tộc. Cả hai người đều lớn lên ở miền Bắc trước năm 1975, nhà báo Võ Văn Tạo, hiện sống ở Nha Trang, từng là bộ đội cộng sản tham chiến trong chiến tranh Việt Nam, còn nhà văn Thùy Linh, sống ở Hà Nội, từng tốt nghiệp trường an ninh của nhà nước Việt Nam.
Bà Thùy Linh nói rằng việc thay đổi như vậy làm cho những người Việt từng đối nghịch nhau có thể dễ dàng nói chuyện với nhau hơn.
Ông Võ Văn Tạo cho biết một nhà báo của báo Quân đội nhân dân, tờ báo nổi tiếng có quan điểm cứng rắn của đảng cộng sản, cũng nhận được yêu cầu của cấp trên là dùng từ Việt Nam Cộng Hòa từ đây trở về sau. Tuy nhiên ông Tạo cũng thận trọng cho rằng việc đổi tên này chỉ mới là quan điểm của giới sử học, chứ chưa có một quan điểm chính thức nào của nhà nước Việt Nam được công bố.
Tuy vậy cũng có những ý kiến chỉ trích rất mạnh việc dùng danh xưng Việt Nam Cộng Hòa thay cho ngụy quân ngụy quyền. Một người tên là Lê Ngọc Thống viết trên mạng xã hội rằng nếu như sau năm 1954 có hai chính quyền tại Việt Nam thì đâu còn gì là giải phóng miền Nam nữa ! Trong những bài viết của mình ông Thống nói rằng ông từng là sĩ quan hải quân của quân đội nhân dân Việt Nam.
Trong nhóm ý kiến chỉ trích, mạnh mẽ nhất là bài viết được cho là của ông Trung tướng về hưu Nguyễn Thanh Tuấn. Ông Tuấn yêu cầu phải thu hồi bộ sách lịch sử mới xuất bản, và những người biên soạn bộ sử mới là vô trách nhiệm, làm không công cho Mỹ phá hoại đất nước.
Nhà văn Thùy Linh nhận xét về nhóm ý kiến chỉ trích này :
"Những con người đã trải qua chiến tranh, gắn cuộc đời họ với chiến tranh, mang tâm thế của người chiến thắng, thì cái số đó, thậm chí thế hệ trẻ hơn, họ đã bị nhồi sọ, nếu họ không chấp nhận chuyện đấy thì tôi cũng không có gì ngạc nhiên. Mà cái số đấy rất đông trong xã hội, điều đó cũng không có gì ngạc nhiên. Bởi vì bao nhiêu năm nay họ đã được dạy dỗ với cái nhìn như thế rồi, và thậm chí có khá nhiều người đã đi học nước ngoài, họ cũng không chấp nhận được là phía bên kia chiến tuyến, hay những người đã thất bại, lại có thể đứng ngang hàng với họ".
Bà nói thêm rằng những người bên phía thắng cuộc trong cuộc chiến tranh Việt Nam lại đang ở một cái thế tự ti về địa vị kinh tế, xã hội của mình, nên sự phản kháng với những thay đổi cũng là một cách để giúp họ tự tin hơn.
Chúng tôi hỏi chuyện hai người thuộc thế hệ trẻ sinh ra và lớn lên sau chiến tranh Việt Nam.
Anh Nguyễn Quang Bách, tốt nghiệp Học viện báo chí tuyên truyền, hiện sống ở Hà Nội, cho biết quan điểm của anh :
"Quan điểm cho rằng Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia độc lập sau hiệp định Geneva thì chắc chắn là xuyên tạc lịch sử. Còn cái ý kiến đổi tên gọi ngụy quân ngụy quyền do Mỹ tạo ra và huấn luyện để phá hiệp định Geneva, thì nếu có đổi tên thì cũng không xóa được lịch sử và bản chất ngụy quyền ngụy quân. Có khi đổi tên đi thì tai hại hơn vì dân sẽ không tin những nhà sử học khách quan nữa, đành rằng với chủ trương hòa hợp dân tộc thì không nên bêu rếu, hận thù đối với ai đã làm việc và đi lính trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa".
Chị Nguyễn Như Ngọc, tốt nghiệp ngành kinh tế tài chính, hiện làm việc tại Sài Gòn thì lại cho rằng việc đổi tên gọi như vậy mang ý nghĩa tốt :
"Với tôi thì tôi nhìn chuyện đó đỡ khắc khe hơn so với lớp người trước. Nếu dùng từ ngụy quân ngụy quyền thì nặng, cũng như cái từ Việt cộng vậy, nghe rất nặng. Theo tôi thì thay đổi như vậy thì theo chiều hướng viết về những người xưa bớt sự thù hằn hơn".
Nội chiến hay không nội chiến
Việc tranh cãi về tính chất của cuộc chiến Việt Nam vẫn còn đang diễn ra, có ý kiến cho rằng đó là một cuộc nội chiến, còn quan điểm chính thống của nhà nước Việt Nam hiện nay thì cho rằng đó là cuộc chiến tranh chống xâm lược.
Vào dịp 30 tháng Tư năm 2013, trong một lần hỏi chuyện nhà sử học Dương Trung Quốc, đồng thời là đại biểu Quốc hội Việt Nam, ông cho rằng khó có thể nói cuộc chiến Việt Nam là nội chiến vì có sự tham gia quá lớn của quân đội nước ngoài.
Nhà báo Võ Văn Tạo lại có cái nhìn khác :
"Tôi nghĩ rằng ông Dương Trung Quốc lập luận như vậy thì ông có cái lý của ông ấy, bởi vì cuộc chiến tại miền Nam Việt Nam bắt đầu từ những năm 1950, kết thúc ngày 30 tháng Tư năm 1975, pha trộn cả hai dạng. Thứ nhất có chống ngoại xâm bởi vì có hay không thì người ta cũng phải thừa nhận một thực tiễn khách quan là vào thời điểm cao nhất của cuộc chiến tranh, năm 1968, có đến nửa triệu quân viễn chinh Mỹ ở Việt Nam. Thứ hai là cũng trong giai đoạn đó, tại địa bàn miền Nam Việt Nam, trong quốc gia Việt Nam này, có hai phe đánh nhau thì cũng có thể gọi nó là một cuộc nội chiến. Nếu chống ngoại xâm thì chỉ đến tháng Giêng năm 1973, người Mỹ ký hiệp định Paris rồi rút quân, họ làm rất nghiêm túc, như vậy ít nhất cái giai đoạn từ đó đến 30 tháng Tư năm 75 cũng là nội chiến".
Ông Tạo cũng nói thêm rằng sự can thiệp của người Mỹ tại miền Nam Việt Nam không mang tính chất của một cuộc chiến chiếm đất, làm thuộc địa như người Pháp trước đây, mà là với mục đích để ngăn chận chủ nghĩa cộng sản đang bành trướng trên thế giới vào thời gian đó.
Bạn trẻ Nguyễn Như Ngọc cũng nhìn về cuộc chiến tranh Việt Nam tương tự như ông Võ Văn Tạo :
"Về cuộc chiến đó, tôi nghĩ là đó vẫn là cuộc chiến tranh chống xâm lược, bởi vì có sự tiếp tay của nước ngoài vào cuộc chiến tranh đó. Nhưng tôi vẫn thấy nó là cuộc nội chiến vì vẫn có dân Việt Nam mình (đánh nhau) trong đó".
Trở lại với bộ sách lịch sử mới ra đời, một số nhà nghiên cứu biển Đông, trong đó có ông Nguyễn Nhã nói rằng việc thừa nhận chính quyền Việt Nam Cộng Hòa sẽ giúp cho việc đấu tranh về chủ quyền biên giới hải đảo của Việt Nam thuận tiện hơn. Luật sư Lê Công Định thì cho rằng điều đó không ảnh hưởng gì đến tính kế thừa của hai nhà nước nối tiếp nhau, nhưng ông cũng cho rằng nếu thực sự những người cầm quyền hiện nay đổi thái độ về chính thể miền Nam trước năm 1975, điều đó có lợi cho việc hòa hợp hòa giải dân tộc.
Anh Nguyễn Quang Bách thì nói rằng :
"Về mặt pháp lý đấu tranh chủ quyền, thì Việt Nam vẫn dùng tên chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, chứ không dùng ngụy quân ngụy quyền. Nhưng mà để giáo dục lịch sử, mà lịch sử do người thắng tạo nên, thì chúng ta vẫn dùng ngụy quân ngụy quyền cũng chẳng ảnh hưởng gì đến chuyện hòa hợp hòa giải dân tộc".
Nói về việc hòa hợp hòa giải dân tộc nhà văn Thùy Linh cho rằng :
"Còn rất lâu mới có thể hòa giải và hòa hợp, kể cả những người Việt ở nước ngoài, thì tôi thấy cái tâm lý chống cộng cực đoan nó cũng kinh khủng như những người cộng sản chống Việt Nam Cộng Hòa".
Sau khi bài phỏng vấn Luật sư Lê Công Định về sự tồn tại của Việt Nam Cộng Hòa như là một thực tế lịch sử, một bạn đọc tại quận Cam California viết trên trang web của chúng tôi một cách trào lộng, xin được trích nguyên văn như sau :
Không cần thay đổi. Gọi ngụy thì đã sao. Tôi đã quen và yêu cái từ "ngụy" rồi. Bác sĩ "ngụy" là những người thầy thuốc giỏi, tận tụy phục vụ bệnh nhân, đầy y đức. không gây khó khăn kiếm chác tiền bạc bệnh nhân. Thầy giáo "ngụy" là thầy giáo giỏi về chuyên môn, dày đạo đức. Học sinh "ngụy" là những học sinh lễ độ với thầy, kính yêu bè bạn... Nói chung, những gì thuộc về "ngụy" đều tốt. Cứ giữ cái từ "ngụy" đi. Tôi hãnh diện là người dân ngụy, là người lính ngụy phục vụ cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa mà có kẻ gọi chúng tôi là Ngụy.
Kính Hòa RFA
Nguồn : RFA, 23/08/2017
Hàn Quốc hôm 13/6 nói rằng nước này "quý trọng" quan hệ với Việt Nam, sau khi Hà Nội lên tiếng kêu gọi Seoul "không gây tổn thương tới tình cảm của nhân dân Việt Nam".
Trong buổi họp báo thường kỳ, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hàn Quốc nói rằng kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1992, Seoul luôn nỗ lực tăng cường mối bang giao với quan điểm "gác lại quá khứ, hướng tới tương lai".
"Chúng tôi sẽ tiếp tục nỗ lực củng cố mối quan hệ hữu nghị tiến về phía trước", ông Cho June-hyuck được hãng tin Yonhap dẫn lời nói.
Giới quan sát cho rằng phía Hàn Quốc đang tìm cách làm giảm bớt căng thẳng ngoại giao với Việt Nam, ít ngày sau khi Hà Nội bất ngờ mạnh mẽ chỉ trích phát biểu của Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in, trong đó ông tôn vinh các cựu binh sĩ nước này từng tham chiến ở Việt Nam.
Hôm 6/6, ông Jae-in nói rằng "đóng góp của các binh sĩ Hàn Quốc trong Chiến tranh Việt Nam giúp phát triển kinh tế đất nước", theo Yonhap.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng sau đó cho biết rằng đại diện của Bộ này đã bày tỏ sự phản đối với Đại sứ quán Hàn Quốc ở Hà Nội.
Bà Hằng nói : "Việt Nam mong muốn phát triển quan hệ hữu nghị với tất cả các nước, trong đó có Hàn Quốc. Lãnh đạo hai nước đã đạt được nhận thức chung về việc gác lại quá khứ, hướng tới tương lai. Chúng tôi đề nghị chính phủ Hàn Quốc không có các hành động và phát ngôn gây tổn thương tới tình cảm của nhân dân Việt Nam, ảnh hưởng tiêu cực tới quan hệ hợp tác hữu nghị hai nước".
Trong khi đó, báo chí Hàn Quốc dẫn lời phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hàn Quốc nói rằng phát biểu của tổng thống nước này chỉ nhằm mục đích gợi nhắc sự cần thiết phải hỗ trợ những người đã hy sinh mạng sống vì tổ quốc.
Ước tính có hàng trăm nghìn binh sĩ Hàn Quốc cùng với lực lượng Mỹ tham chiến ở Việt Nam, và đó vẫn được coi là một chủ đề nhạy cảm trong quan hệ Hà Nội – Seoul, dù bang giao song phương đã phát triển không ngừng hơn hai thập kỷ qua kể từ khi thiết lập quan hệ.
Thời gian qua, nhiều thành viên Hàn Quốc thuộc phong trào "Xin lỗi Việt Nam" đã tới các tỉnh miền Trung để tạ lỗi những người dân được coi là nạn nhân của lính Hàn Quốc trong Chiến tranh Việt Nam.
Tuy nhiên, ông Trần Văn Ty, một người tự nhận là con lai Hàn Quốc sinh ra sau khi mẹ ông "bị lính Hàn Quốc hãm hiếp", nói với VOA Việt Ngữ rằng ông vẫn chờ chính quyền Seoul chính thức xin lỗi thân mẫu ông và nhiều phụ nữ Việt khác.
"Tôi chỉ mong có một việc duy nhất đó là họ làm, họ phải đích thân làm, phải có những lời nói như thế nào đó đối với những người mẹ. Tùy vào tấm lòng của họ. Và tùy vào việc họ có thể lựa lời họ nói như thế nào đó, bởi vì trong cuộc chiến chúng tôi cũng không thể nào bắt bẻ họ được bởi vì đó là chiến tranh. Nếu bên này không bắn bên kia, thì bên kia cũng bắn bên này", ông Ty nói.
"Vấn đề hãm hiếp phụ nữ đó, sau cuộc chiến, chính phủ Hàn họ phải biết rằng đấy là một cái việc làm sai. Họ phải có động thái nào đó để họ bày tỏ. Đằng này họ không nói bất cứ cái gì hết. Họ cũng không thừa nhận và không có một lời nào để an ủi tinh thần của những người mẹ".
Tranh cãi ngoại giao giữa Hà Nội và Seoul xảy ra trong bối cảnh Hàn Quốc chính thức trở thành nhà đầu tư lớn nhất ở Việt Nam, với số vốn lên tới 50 tỷ đôla tính tới cuối năm 2016, theo Cơ quan Thúc đẩy Đầu tư Thương mại Hàn Quốc.
Tổ chức này cho biết rằng trong vòng hơn hai thập kỷ qua, kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ, Hàn Quốc đã đổ vốn đầu tư vào gần 6 nghìn dự án khắp Việt Nam.
https://av.voanews.com/Videoroot/Pangeavideo/2017/06/4/45/45365c3b-f417-483e-a6be-92c41115af6a.mp4
Viễn Đông
***********************
Hàn Quốc ‘đầu tư lớn nhất’ ở Việt Nam từ khi Đổi mới (BBC, 13/06/2017)
Hàn Quốc là nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất ở Việt Nam, tính cả giai đoạn từ 1988 đến 2016, theo số liệu của Cục Xúc tiến thương mại và đầu tư Hàn Quốc.
Samsung là một trong các nhà đầu tư lớn nhất ở Việt Nam
71% tổng số vốn đầu tư được rót vào lĩnh vực chế tạo, tiếp theo là điều hành bất động sản và xây dựng.
Cơ quan này nói trong 28 năm qua, Hàn Quốc đầu tư 50 tỷ đôla vào Việt Nam, vượt qua Nhật Bản (42 tỷ) và Singapore (38 tỷ). Tiếp theo là Đài Loan (31 tỷ) và Quần đảo Virgin thuộc Anh (20 tỷ).
Số liệu từ Bộ Công thương Việt Nam cũng nói từ 2014, Hàn Quốc đã trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam cả về dự án đầu tư lẫn tổng số vốn đầu tư.
Trước đó, bà Trần Kim Oanh, Cục Xúc tiến thương mại Việt Nam, được dẫn lời nói từ 2014, Hàn Quốc đã trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam cả về dự án đầu tư lẫn tổng số vốn đầu tư.
************************
Nam Bắc Hàn và Cuộc chiến Việt Nam (BBC, 13/06/2017)
Bộ Ngoại giao Việt Nam, qua lời nữ phát ngôn viên Lê Thu Hằng hôm 09/06, đã đề nghị Chính phủ Hàn Quốc "không có các hành động và phát ngôn gây tổn thương tới tình cảm của nhân dân Việt Nam".
Tân Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in (bìa trái) trong Lễ Tưởng niệm Chiến tranh hôm 06/06/2017 : phát biểu 'ghi công' quân đội Hàn Quốc trong các cuộc chiến ở nước ngoài đã gây phản ứng từ Hà Nội
Tân Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in hôm 6/6 đã phát biểu vinh danh 'người Hàn Quốc có công' tham chiến tại nước ngoài, gồm chiến tranh Việt Nam.
Hà Nội luôn nêu rõ rằng "Việt Nam mong muốn phát triển quan hệ hữu nghị với tất cả các nước, trong đó có Hàn Quốc".
Nhưng di sản cuộc chiến vẫn gợi lại thời bốn nước : Hàn Quốc, Triều Tiên, Nam và Bắc Việt Nam đứng hai lằn ranh ý thức hệ thù địch trong Chiến tranh Lạnh.
Hai nước miền Bắc trong tình hữu nghị cộng sản
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (Bắc Hàn) là một trong những nước đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngay từ năm 1950.
Tháng Bảy năm 1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh có chuyến thăm chính thức Bình Nhưỡng, và nối tiếp là chuyến thăm Hà Nội của lãnh tụ Kim Nhật Thành cuối năm 1958.
Nhưng phải đến năm 2000, Bắc Hàn và Việt Nam mới lần đầu tiên xác nhận - như tin đồn đã có từ lâu - rằng phi công Bắc Hàn đã tham chiến chống các vụ oanh kích không quân Hoa Kỳ thực hiện ở miền Bắc Việt Nam.
Các bạn bè và đồng minh thời Chiến tranh Lạnh : người Bắc Hàn chờ đón đoàn Bắc Việt Nam và Ấn Độ năm 1955
Đến năm 2007, báo Báo Tuổi Trẻ mới tiết lộ có 14 phi công Bắc Hàn bị giết và được chôn ở tỉnh Bắc Giang - hài cốt của họ sau được hồi hương.
Trong lá thư gửi tờ báo để đính chính một số chi tiết, một tướng về hưu của Việt Nam cho hay 87 người lính Bắc Hàn đã phục vụ ở Việt Nam từ 1967 đến đầu 1969.
Có 14 người được phong liệt sĩ và quân nhân Bắc Hàn được nói đã bắn rơi 26 máy bay Mỹ.
Đầu tháng 12/2011, Trung tâm Woodrow Wilson ở Mỹ công bố thêm tư liệu cho biết về số phi công Bắc Hàn này.
Theo đó, ngày 21/9/1966, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đồng ý về yêu cầu của Bình Nhưỡng muốn gửi một đơn vị không quân tình nguyện sang Việt Nam chiến đấu.
Đơn vị này sẽ "tổ chức thành từng đại đội nằm trong đội hình trung đoàn không quân của ta, mặc quân phục Việt Nam, cùng sử dụng một sân bay".
Theo văn bản cuộc họp, Đại tướng Võ Nguyên Giáp kết luận :
"Bộ đội không quân Triều Tiên mang danh nghĩa là chuyên gia, nhưng thực chất là quân tình nguyện. Vì vậy, ta phải đoàn kết tôn trọng bạn, nhưng phải giữ vững chủ quyền".
"Trong quá trình huấn luyện và chiến đấu, ta cần chỉ rõ phạm vi hoạt động của bạn, chỉ định sân bay chính, sân bay dự bị. Trong chỉ huy, ta là cấp trên của bạn, nhưng tại trung đoàn bạn sẽ trực tiếp chỉ huy, có đại diện của ta để giao nhiệm vụ".
"Đại tướng yêu cầu hiệp đồng giữa hai bên phải rõ ràng, rành mạch để tránh những phức tạp không đáng có về sau".
Đến cuối tháng 9 tại Hà Nội, hai bên ký nghị định thư, theo đó :
Vẫn là đồng chí : Phái đoàn Bộ Quốc phòng Bắc Triều Tiên thăm Hà Nội năm 2015
"Phía Triều Tiên sẽ cử sang Việt Nam số chuyên gia đủ để phụ trách 1 đại đội máy bay MiG17 của Việt Nam (đại đội gồm 10 máy bay). Cuối năm 1966 hoặc đầu năm 1967, khi phía Việt Nam chuẩn bị đủ máy bay, phía Triều Tiên sẽ đưa sang Việt Nam số chuyên gia đủ để phụ trách đại đội MiG17 thứ hai của Việt Nam".
"Trong năm 1967, khi nào phía Triều Tiên chuẩn bị xong chuyên gia và Việt Nam chuẩn bị được máy bay, phía Triều Tiên sẽ cử thêm sang Việt Nam một số chuyên gia đủ để phụ trách 1 đại đội máy bay MiG21 của Việt Nam".
Có mặt ở miền Nam Việt Nam ?
Trung tâm Woodrow Wilson còn công bố một văn bản của Bộ Ngoại giao Romania ngày 6/7/1967, do Eliza Gheorghe dịch sang tiếng Anh, nêu thông tin người Bắc Hàn có mặt ở Nam Việt Nam thời chiến.
Bức điện tường thuật cuộc gặp của một người thuộc Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và nhân viên ngoại giao của Romania ở Bình Nhưỡng.
Nhà ngoại giao người Việt cho hay nhiều nhân viên Bắc Hàn đã có mặt ở miền Nam Việt Nam.
Ông này nói : "Họ hoạt động ở những khu vực nơi lính Nam Hàn có mặt, để nghiên cứu chiến thuật của họ, khả năng sẵn sàng chiến đấu và tinh thần của lính Nam Hàn, và tuyên truyền chống lại phía Nam Hàn".
Theo bức điện, Sứ quán Bắc Hàn ở Hà Nội là nơi điều phối các hoạt động của bộ đội Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên tại miền Nam Việt Nam.
Đại Hàn tham chiến ồ ạt và để lại tội ác
So với vài đơn vị Bình Nhưỡng cử sang giúp Hà Nội và đồng thời học hỏi kinh nghiệm chiến tranh thì kẻ thù của miền Bắc là Đại Hàn Dân quốc cử sang 300 nghìn lượt quân giúp Việt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ chống cộng sản.
Quân lính Đại Hàn dùng xe ủy phá nhà dân ở Nam Việt Nam
Theo Korea Herald thì trong vào bảy năm kể từ 1965 có hai sư đoàn bộ binh Đại Hàn và một lực lượng Thủy quân Lục chiến đã tham chiến phía đồng minh Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam.
Trong số này, ước tính có khoảng 8000 người bị thương và 3000 người thiệt mạng.
BBC News hồi 2003 nêu rằng tổng cộng có 300 nghìn quân Đại Hàn lần lượt tham chiến tại Việt Nam, lực lượng lớn thứ nhì sau quân đội Hoa Kỳ.
Các vụ thảm sát lính Đại Hàn gây ra với thường dân Việt Nam đã được nói đến ngay từ khi xảy ra cuộc chiến và để lại di sản sâu nặng cho quan hệ hai bên và cho cả những quân nhân Hàn tham chiến.
Hồi năm 2009, di sản chiến tranh ở Nam Việt Nam đã được nêu ra nhân "chuyến thăm vội vã" của một bộ trưởng sang Việt Nam để chuẩn bị cho chuyến công du của Tổng thống Hàn khi đó, ông Lee Myung-bak.
Theo tờ Korean Herald, có vẻ như phía Hàn Quốc bị xấu hổ vì Việt Nam phản đối một dự luật công nhận danh dự và quyền lợi cho các cựu binh Đại Hàn từng tham chiến tại Việt Nam.
Ngoài việc cho cựu chiến binh được hưởng quyền lợi vật chất, dự luật công nhận họ sang Việt Nam chiến đấu "để gìn giữ hòa bình trên thế giới".
Điều này đã khiến Ngoại trưởng Yu Muyng-hwan phải "vội vã" sang Việt Nam hôm 11/10/2009 để tìm cách giải tỏa "cảm xúc" của Hà Nội.
Lý do chính trị và kinh tế
Tài liệu của Viện Asan, Hàn Quốc công bố năm 2013 cho rằng có hai lý do khiến Tổng thống Park Chunghee, cha của nữ tổng thống Park Geun-hye vừa bị phế truất, quyết định đem quân sang Nam Việt Nam.
Lý do đầu tiên là để duy trì quan hệ với Hoa Kỳ, biến Seoul thành đồng minh không thể thiếu ở Đông Á, đề phòng trường hợp Mỹ muốn rút khỏi Nam Hàn, để nước này một mình đối phó với miền Bắc cộng sản.
Lý do thứ nhì là kinh tế. Các khoản tiền Hoa Kỳ trả để Seul đem quân sang Nam Việt Nam và các dịch vụ khác cho quân đội Hoa Kỳ ở Châu Á đã đóng góp to lớn vào Sự thần kỳ kinh tế Hàn Quốc.
Có vẻ như dư luận Hàn biết rõ mối lợi này.
Một điều tra năm 2012 của Asan Institute for Policy Studies, có 80% người Hàn hiện nay biết về vai trò trước đây của quân đội nước họ tại Việt Nan, và 57% vẫn ủng hộ chuyện tham chiến đó.
Trái với tuyên truyền của bộ máy thời ông Park Chunghee rằng chiến đấu ở Việt Nam là để ngăn làn sóng cộng sản, 54% người được hỏi tin rằng tham chiến ở Việt Nam có mục tiêu đem lại lợi ích kinh tế.
Trong số người được hỏi về lý do tham chiến vì kinh tế này, 58% tin rằng Hàn Quốc đã đạt mục tiêu.
Bài viết 'A Perspective on Korea's Participation in the Vietnam War' (09/04/2013) còn gọi cuộc chiến Việt Nam là "Mỏ Vàng - El Dorado" cho Hàn Quốc.
Người ta tin rằng Hàn Quốc đã kiếm được 5 tỷ USD (theo thời giá khi đó) trong tám năm tham chiến từ các nguồn khác nhau, gồm cả viện trợ quân sự của Hoa Kỳ để hiện đại hóa quân đội, tiền lương cho quân Hàn ở Việt Nam, các hợp đồng dân sự hàng triệu USD và thương mại được mở rộng với Việt Nam Cộng Hòa.
Hai lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa : Tướng Nguyễn Văn Thiệu và Tướng Nguyễn Cao Kỳ đến vinh danh Sư đoàn Mãnh Hổ của Đại Hàn "sau một chiến dịch thắng lợi" năm 1966
Sau hai năm tham chiến, thu nhập từ chiến tranh chiếm 40% nguồn thu bằng ngoại tệ của Hàn Quốc, và từ 1965 đến 1972, nước này thu về 1 tỷ USD tiền mặt.
...Có thể tin rằng sự tham chiến của Hàn Quốc và Nam Việt Nam là yếu tố đóng góp cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Một số học giả tin rằng thu nhập tài chính từ cuộc chiến đã góp 7-8% GDP cho Hàn Quốc từ 1966-1969.
Tội ác chiến tranh và hòa giải
Hồi 2009, hãng Yonhap trích lời Đại sứ Việt Nam khi đó, ông Phạm Tiến Văn nói :
"Đúng là Nam Hàn đã gây vết thương trong quá khứ bằng việc tham gia cuộc chiến, nhưng chúng tôi không bao giờ nhắc đến điều đó để duy trì mối quan hệ tương lai tốt giữa hai nước".
Nguồn này nói nhờ chính các nhà báo Hàn Quốc mà các tội ác của quân Đại Hàn ở Nam Việt Nam được nói đến sau chiến tranh tại nước họ.
Trong khi đó, truyền thông Phương Tây đã nêu ra vai trò của các lãnh đạo Việt Nam Cộng hòa như Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ từng có động tác "vinh danh" các đơn vị Đại Hàn tham chiến.
Sau chiến tranh, nước Việt Nam thống nhất đã bình thường hóa quan hệ với Hàn Quốc.
Cũng đã có các công trình Hàn Quốc bỏ tiền xây dựng như ở Phú Yên nhằm tạ lỗi với Việt Nam cho những gì quân đội của họ gây ra.
Tổng thống Kim Dae-jung từng coi trang sử nước ông tham chiến ở Việt Nam là "sự kiện lịch sử bất hạnh".
Phát biểu mới nhất của Tổng thống Moon Jae-in, người gốc Bắc di cư có cha mẹ chạy vào Nam năm 1953, có thể chỉ nhằm vui lòng các phái cánh hữu, bảo thủ và chống cộng trong nước.
Nhưng những gì chính giới Hàn Quốc nêu ra vẫn dễ gây ra phản ứng vì như điều tra của Viện Asan cho thấy, không ít người Hàn chưa sẵn sàng nhìn nhận trách nhiệm về các tội ác quân đội họ gây ra ở Nam Việt Nam.
*************************
Hà Nội chỉ trích Hàn Quốc vinh danh cựu quân nhân tham chiến ở Việt Nam (RFI, 13/06/2017)
Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae In đọc diễn văn nhân Ngày Tưởng Niệm hôm 06/06/2017. REUTERS/Kim Hong-Ji
Ngày 12/06/2017, Hà Nội phản đối việc tổng thống Moon Jae In vinh danh các cựu chiến binh Hàn Quốc tham chiến ở Việt Nam, xem việc này "ảnh hưởng tiêu cực" đến quan hệ giữa hai nước.
Trong bài phát biểu nhân Ngày Tưởng Niệm hôm 06/06 vừa qua, tổng thống Moon Jae In đã đặc biệt nhấn mạnh đến "sự tận tụy và hy sinh" của các cựu chiến binh Hàn Quốc từng tham chiến ở Việt Nam, mô tả họ là những người đã đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế của nước này.
Phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng ngày 12/06/2017 tuyên bố rằng phát biểu nói trên của tổng thống Hàn Quốc "gây tổn thương" cho người dân Việt Nam, và Việt Nam "đề nghị chính phủ Hàn Quốc không có các hành động và phát ngôn gây tổn thương tới tình cảm của nhân dân Việt Nam, ảnh hưởng tiêu cực tới quan hệ hợp tác hữu nghị hai nước".
Bà Lê Thị Thu Hằng cũng cho biết là về vấn đề này, ngày 09/06/2017, đại diện bộ Ngoại Giao Việt Nam đã có trao đổi "nghiêm khắc" với đại diện đại sứ quán Hàn Quốc tại Việt Nam.
Trong thời gian chiến tranh Việt Nam, Seoul đã gởi gần 300 000 quân đến tham chiến cùng với quân đội Mỹ. Nhờ tham chiến ở Việt Nam mà Hàn Quốc, lúc đó còn là một trong những nước nghèo nhất thế giới, đã được vay hàng tỷ đôla từ Hoa Kỳ và các định chế tài chính quốc tế và từ đó nước này bắt đầu phát triển thành một trong những nền kinh tế giàu mạnh nhất thế giới như hiện nay.
Nhưng trong thời gian chiến tranh Việt Nam, quân đội Hàn Quốc bị cáo buộc đã tàn sát hàng ngàn thường dân. Cho tới nay, Seoul vẫn không nhìn nhận quân đội Hàn Quốc đã gây ra những vụ thảm sát này. Theo lời một nhà hoạt động Hàn Quốc nói với nhật báo The Korea Times, đây là lần đầu tiên chính phủ Việt Nam có phản ứng chính thức về cáo buộc thảm sát đó, vì cho tới nay, chủ trương của Việt Nam là "gác lại quá khứ, hướng tới tương lai"
Hôm nay, bộ Ngoại giao Hàn Quốc đã cố làm dịu sự tức giận của phía Việt Nam, khẳng định rằng quan hệ hữu nghị giữa hai nước "rất quan trọng". Phát ngôn viên bộ Ngoại Giao nước này giải thích rằng tuyên bố của tổng thống Moon Jae In nhằm kêu gọi phải đãi ngộ xứng đáng hơn với những quân nhân đã từng phục vụ đất nước, chứ không nhằm làm tổn thương tình cảm của người dân Việt Nam.
Hiện giờ, Hàn Quốc là nước đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam, với tổng cộng 50 tỷ đôla tính đến cuối năm 2016, theo số liệu của Cơ Quan Xúc Tiến Đầu Tư - Mậu Dịch Hàn Quốc.
Thanh Phương
Đa số các nhà phân tích đã nói rằng chính phủ Trump là chính phủ của các nhà kinh doanh và tướng lãnh, thiếu các nhà chuyên môn.
Jared Kushner, con rể của Trump và là người có quyền lực số 1 về các quyết định của Trump
Trả lời phỏng vấn của WaPo, cậu Jared Kushner, con rể của Trump và là người có quyền lực số 1 về các quyết định của Trump, đã tuyên bố : "Chính phủ Mỹ nên vận hành như một công ty Mỹ khổng lồ. Hy vọng của chúng tôi là chúng ta có thể đạt được nhiều thành công và hiệu quả cho các khách hàng của mình, đó là các công dân".
Nhân ngày 30 tháng Tư, chúng tôi xin nói về hai tướng nổi bật nhất trong Nội các của Trump là Steve Bannon và HR McMaster, và quan điểm của hai ông về chiến tranh Việt Nam, để độc giả có thể thấy tại sao Nội các Trump đang gặp nhiều khó khăn trong việc lãnh đạo nước Mỹ và thế giới, và tại sao miền Nam mất.
Hai tướng nổi bật của Trump
Khi Trump ra ứng cử, Steve Bannon, một cựu tướng Hải quân, được chọn làm người điều khiển chiến dịch tranh cử của Trump và là người đã đưa Trump đến chiến thắng. Sau khi Trump nhận chức, Bannon trở thành "Phụ tá Tổng thống và đứng đầu Chiến lược của Nội các Donald Trump". Ông được coi là bộ óc của Tòa Bạch Ốc. Với nhiệm vụ đó, Bannon đã đẩy Trump đi theo phương thức và những tuyên bố khi còn tranh cử của Trump, đưa chính quyền Trump đi từ rối loạn này đến rối loạn khác. Bị nhiều chống đối và tranh chấp, ngày 5/4/2017 Bannon đã bị loại ra khỏi Hội đồng An ninh Quốc gia. Tướng H.R. McMaster được đưa lên thay.
H.R. McMaster là một trung tướng hiện dịch, được Trump cử làm Cố vấn Hội đồng An ninh quốc gia ngày 20/2/2017. Ông có kinh nghiệm tại chiến trường Afghanistan và Iraq, nhưng kinh nghiệm chính trị gần như không có gì.
Có nhiều đấu hiệu cho thấy các nhà chiến lược Mỹ đứng đàng sau hậu trường đang dùng McMaster và tướng James Mattis, Bộ trưởng Quốc phòng, đẩy Trump trở lại củng cố vai trò lãnh đạo thế giới của nước Mỹ như dưới hai đời tổng thống George Walker Bush và Barack Hussein Obama, vì nếu để chính phủ Mỹ "vận hành như một công ty Mỹ khổng lồ", theo chủ trương của Jared Kushner, con rể của Trump, thì nước Mỹ sẽ đi đời nhà ma. Nhưng chuyện không dễ dàng vì Trump không có các khái niệm căn bản về các vấn đề chính trị, kinh tế và quân sự của nước Mỹ cũng như thế giới, chỉ thích làm các chuyện lặt vặt để "biểu dương khí thế".
Cả tướng Steve Bannon lẫn tướng H.R. McMaster đều chỉ trích về những sai lầm của hai tổng thống Johnson và Nixon đã đưa cuộc chiến Việt Nam đến thất bại.
Tướng Steve Bannon 64 tuổi, tốt nghiệp MBA (Master Business Administration) tại Đại học Harvard năm 1985, còn tướng H.R. McMaster, 54 tuổi, tốt nghiệp tiến sĩ sử học tại Đại học North Carolina ở Chapel Hill. Cả hai đều có kiến thức và kinh nghiệm chiến đấu, nhưng không có kinh nghiệm chính trị. Chúng ta thử nghe hai ông nói về chiến tranh Việt Nam.
Những cách nhìn về chiến tranh Việt Nam
1. Cách nhìn của tướng Bannon
Tổng thống Donald Trump và cựu cố vấn an ninh tướng Bannon
Steve Bannon đã đề nghị tất cả viên chức Tòa Bạch Ốc phải đọc cuốn sách phân tích các sai lầm của chính quyền Mỹ dẫn đến chiến tranh Việt Nam trước đây, đó là cuốn "The Best and the Brightest" của tác giả David Halberstam, xuất bản từ năm 1972. Cuốn sách nhận định rằng giới lãnh đạo Mỹ lúc bấy giờ ảo tưởng, tự tin quá mức, không một chút am tường và hiểu biết về thực địa trong chính giới Mỹ khi quyết định đổ quân, nên đã loại bỏ những nhà lãnh đạo lỗi lạc của miền Nam Việt Nam như Tổng thống Ngô Đình Diệm, thay vì coi trọng lòng ái quốc và tài năng của ông ấy… để rồi dẫn đưa quân đội Mỹ sa lầy vào một cuộc chiến kéo dài và không lối thoát. Phải nói là "nhục nhã cuốn cờ về nước" hơn là "rút quân trong danh dự".
Theo ông, hãy nhìn vào những gì Israel đã làm… không cần sự hiện diện của quân đội Mỹ mà chỉ nhờ vào sự trợ giúp phát triển công nghệ chiến tranh, ngày nay họ đã là một quốc gia hùng cường có thể kìm chế và kiểm soát được khu vực Trung Đông về chính trị, kinh tế và ngoại giao độc lập.
David Halberstam vừa là một ký giả vừa là một sử gia. Năm 1963, ông được giải thưởng George Polk Award của báo New York Times vì chụp được những tấm hình về vụ thiêu sống Thích Quảng Đức. Ông đã rời Việt Nam năm 1964 và được giải thưởng Pulitzer Prize for International Reporting.
2. Cách nhìn của tướng H.R. McMaster
Tổng thống Donald Trump và Tướng McMaster
Trong cuốn "Xao lãng nhiệm vụ : Lyndon Johnson, Robert McNamara, các Tham mưu liên quân và những sự tin tưởng sai lầm đưa đến Việt Nam" (1997), Tướng H.R. McMaster cáo buộc cựu Tổng thống Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson và các cố vấn chính trị, dân sự và quân sự của ông về việc làm mất Việt Nam. Cuốn này là một phần trong luận án tiến sĩ của ông. Ông đặt vấn đề :
"Tôi tự hỏi làm thế nào và tại sao Việt Nam đã trở thành một cuộc chiến tranh của Mỹ - một cuộc chiến mà người ta đã chiến đấu và chết mà không có một ý tưởng rõ ràng về hành động và hy sinh của họ đã góp phần làm cho cuộc chiến chấm dứt".
Trong việc tìm kiếm câu trả lời, McMaster cho rằng "Vai trò của quân đội trong việc ra quyết định về Việt Nam rất ít được hiểu và phần lớn bị bỏ qua". Ông chỉ trích rất nặng Alain C. Enthoven, Phụ tá Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ từ 1961 đến 1969, cho rằng ông này "quá kiêu ngạo, coi quân đội có trí tuệ thấp kém hơn ông ta, còn quân đội đã xem Enthoven và các nhân viên khác của McNamara như những kẻ thù". Ông đi đến kết luận : "Chiến tranh đã bị mất tại Washington, D.C., ngay cả trước khi người Mỹ chịu trách nhiệm duy nhất cho cuộc chiến năm 1965 và trước khi họ nhận ra đất nước đang ở trong chiến tranh ; thực sự, ngay cả trước khi các đơn vị đầu tiên của Mỹ được triển khai".
3. Không có tầm nhìn chiến lược
Nhìn chung, hai tướng Steve Bannon và McMaster của Trump đều không có tầm nhìn chiến lược. Họ không biết chính xác mục tiêu của Hoa Kỳ khi mở cuộc chiến ở Đông Dương từ 1965 đến 1967 là gì, cuộc chiến đó đã được tiến hành ra sao, và sau khi đạt được mục tiêu rồi, nó phải kết thúc như thế nào. Những người không biết chiến lược, chỉ nhìn vào một số diễn biến của cuộc chiến, đã cho rằng Mỹ thua, nhưng sự thật không phải vậy.
Ở miền Nam Việt Nam, sau khi giết được ông Diệm rồi, Mỹ không cho bất cứ người Việt nào có tầm nhìn chiến lược đứng ra lãnh đạo, họ chỉ dùng những kẻ chỉ biết tuân hành sự chỉ đạo của Mỹ. Năm 1971, khi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu mới thăm dò để mời Giáo sư Nguyễn Văn Bông ra làm Thủ tướng ngày 10/11/1971, người ta đã để cho một "Việt Cộng" (có tên tuổi đàng hoàng) hạ sát ông tại ngã tư Cao Thắng – Phan Thanh Giản. Ông Thiệu không biết gì đã nghi người ra lệnh giết Giáo sư Bông là Tướng Trần Thiện Khiêm, vì cho rằng Tướng Khiêm sợ ông Bông giành chức Thủ tướng của ông ta. Năm 1974, khi ông Thiệu mời Luật sư Trần Văn Tuyên ra làm Thủ tướng, tôi đã đến gặp ông tại văn phòng và lưu ý rằng "Maître" phải coi chừng, chúng nó sẽ giết "Maître" như đã giết Giáo sư Bông !
Ký giả David Halberstam viết cuốn "The Best and the Brightest" từ năm 1972, khi các tài liệu mật chưa được giải mã, nên ông không thể thấy các mặt trái đàng sau của cuộc chiến. Còn luận án của tướng McMaster cũng chỉ là thứ bài tập của sinh viên, chưa có tầm nhìn sâu sắc nên không thể căn cứ vào đó để đưa ra kết luật về cuộc chiến Việt Nam được.
Trong hơn 20 năm qua, căn cứ vào các tài liệu Mỹ đã tiết lộ, chúng tôi đã trình bày nhiều lần về mặt thật của cuộc chiến Việt Nam qua nhiều tài liệu khác nhau. Hôm nay chúng tôi chỉ tóm lược như sau :
Mỹ đi vào chiến tranh Việt Nam bằng mọi giá
Thuyết Domino (Domino theory), xuất hiện dưới thời của Tổng thống Dwight D. Eisenhower, cho rằng nguy cơ phát triển của chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam, nếu Hoa kỳ không ngăn cản, nó sẽ lan rộng ra các nước tại Đông Nam Á giống như quân bài Domino. Nhưng các nhà phân tích cho rằng thuyết này đã bị phóng đại, vì vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ giới hạn trong phạm vi ba nước Việt-Miên-Lào mà thôi. Hoa Kỳ thừa biết như vậy, nhưng Hoa Kỳ vẫn đổ quân vào Việt Nam bằng mọi giá.
1. Giết hai Tổng thống
Để đi vào chiến tranh Việt Nam, người Mỹ đã phải giết hai tổng thống, Tổng thống Ngô Đình Diệm của Việt Nam Cộng Hòa và Tổng Thống Kennedy của Mỹ, vì hai tổng thống này đã ngăn cản việc Mỹ đổ quân vào Việt Nam.
2. Đổ quân vào Việt Nam chẳng cần hỏi ai
Không cần xin phép ai, lúc 9 giờ sáng ngày 8/3/1965, Lữ đoàn 9 thủy quân lục chiến Mỹ đã đổ bộ vào bãi biển Đà Nẵng, mở màn cho sự can thiệp trực tiếp của Mỹ vào cuộc chiến Việt Nam.
Ông Bùi Diễm, lúc đó là Bộ trưởng Phủ thủ tướng, cho biết Thủ tướng Phan Huy Quát đã hỏi ông : "Có gì đặc biệt về phương diện quân sự mà chúng ta không được biết, đến độ họ phải hành động một cách vội vàng như vậy". Sứ thần Melvin Manfull của Mỹ đã đến yêu cầu ra một thông cáo chung về việc này (Bùi Diễm, Gọng kìm lịch sử, Paris 2000, tr. 222-223).
3. Thực hiện cuộc chiến một cách tàn bạo
Tướng Curtis LeMay, Tư lệnh Không quân Mỹ tuyên bố : "Chúng tôi sẽ ném bom để đưa chúng về Thời kỳ đồ đá" (We're going to bomb them back into the Stone Age).
Theo tài liệu của Bộ quốc phòng Mỹ, trong cuộc chiến Việt Nam, Hoa Kỳ đã thực hiện tất cả 1.899.688 phi vụ, ném xuống Đông Dương 6.727.084 tấn bom, so với 2.700.000 tấn đã ném xuống Đức trong Đại Chiến thứ II. Tổng số chi phí là 352 tỷ USD (giá thời đó).
Có 5 tỉnh của Việt Nam có tỷ lệ bom mìn nặng nhất là Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên – Huế. Việt Nam ước tính khoảng 6,6 triệu ha đất đang bị ô nhiễm bom mìn. Theo sự ước tính của Mỹ, nếu muốn rà phá toàn bộ bom mìn này phải mất 320 năm.
Nạn nhân của cuộc chiến được ước tính là 5.773.190 người, trong đó có khoảng 2.122.700 người bị chết. Có 58.169 quân nhân Mỹ bị giết, 153.303 bị thương và 1.643 bị mất tích. Miền Nam có 440.357 quân nhân bị chết và khoảng 499.000 bị thương.
Mỹ rút ra khỏi Việt Nam bằng mọi giá
Mỹ đã thực sự thực hiện cuộc chiến tại Việt Nam chỉ có 3 năm, từ 1965 đến 1967, sau đó ra đi. Nhưng việc ra đi khó hơn việc đưa cuộc chiến vào rất nhiều. Kissinger đã đưa ra kế hoạch thiết lập "Một khoảng cách vừa phải" (Decent Interval), làm thế nào để sau khi Mỹ rút quân khỏi Việt Nam khoảng 2 năm, miền Nam mất là vừa, lúc đó dư luận sẽ không đổ lỗi cho việc miền Nam mất là do sự phản bội của Mỹ, mà do sự bất tài (incompetence) của người miền Nam. Frank Snepp, Trưởng nhóm phân tích của CIA tại Sài Gòn đã viết một cuốn sách dài 590 trang với cái tên là "Decent Interval" để nói về kế hoạch này của Kissinger. Kế hoạch đó gồm những điểm chính sau đây :
1. Lập các phong trào phản chiến để tạo lý do rút quân : Richard Flacks, Vivian Rothstein, Ross Canton, Abe Peck, Thiền sư Nhất Hạnh, Trịnh Công Sơn, John Kerry, Jane Fonda, Tom Hayden… đã được đưa ra phát động các chiến dịch phản chiến.
2. Làm giảm bớt sức mạnh của quân đội Miền Bắc : Đưa Sư đoàn Không kỵ 101 của Mỹ từ Quy Nhơn ra Huế phục sẵn rồi dụ cộng quân vào chiếm cổ thành Huế trong Tết Mậu Thân 1968 và dùng đại pháo tiêu diệt. Mở các cuộc hành quân qua Cambodia năm 1970 và Hạ Lào năm 1971 dể làm tan vỡ các lực lượng chủ lực của Bắc Việt. Gài Sư đoàn 308, một sư đoàn thiện chiến nhất của Bắc Việt, vào Cổ thành Quảng Trị năm 1972 rồi cho B-52 san bằng, v.v.
3. Đem miền Nam bán cho Trung Quốc : Ngày 20/6/1972 Kissinger đến Bắc Kinh gặp Thủ tướng Chu Ân Lai và giao miền Nam cho Trung Quốc. Kissinger nói "tôi tin rằng tương lai quan hệ giữa Hoa Kỳ và Bắc Kinh quan trọng đối với Á châu hơn là những gì có thể xẩy ra tại Phnom Penh, Hà Nội hay Sài Gòn".
4. Buộc hai bên ký Hiệp định Paris : Ngày 18/2/1972, hàng loạt B.52 đã bay đến ném bom xuống các căn cứ quân sự ở Hải Phòng và Hà Nội. Sau 12 ngày bị dội bom, ngày 30/12/1972 Hà Nội đồng ý sửa đổi lại một số điều khoản của Hiệp Định Paris và hai bên đã ký kết ngày 27/1/1973.
5. Đánh lừa Tổng thống Thiệu lập kế hoạch tái phối trí "Đầu bé đít to" : Rút quân từ Quân khu 2 và Quân khu 1 về Tuy Hòa lập phòng tuyến, gây ra biến loạn đưa tới sự sụp đổ của miền Nam rồi đưa Dương Văn Minh ra tuyên bố đầu hàng.
Tất cả các kịch bản đó đều đã được soạn thảo rất kỹ càng và được thực hiện chính xác trong từng giai đoạn.
Chỉ có Việt Nam Cộng Hòa thua
Nhìn qua các diễn biến của cuộc chiến Việt Nam, chúng ta thấy rằng mục tiêu chính của các nhà lãnh đạo Mỹ khi mở cuộc chiến Việt Nam là tiêu thụ tất cả những loại vũ khí tồn kho từ Thế chiến II và thí nghiệm các vũ khí mới, bất chấp những thảm họa có thể gây ra. Việt Nam được chọn làm chiến địa và Việt Nam Cộng Hòa bị biến thành con cờ thí. Giai đoạn kế tiếp là Afghanistan và giai đoạn tới có thể là Iran…
Các tướng Mỹ như Steve Bannon và HR McMaster đều không có tầm nhìn chiến lược, chỉ có tầm nhìn chiến thuật, nên cho rằng các nhà lãnh đạo Mỹ đã sai lầm trong việc mở và điều hành cuộc chiến Việt Nam, nhưng trong thực tế họ đã thành công và các mục tiêu đề ra đều đã đạt được. Chỉ có Việt Nam Cộng Hòa thua.
Nhiều viên chức và sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa khi bị đưa vào các trại tù cải tạo hay đã được qua Mỹ vẫn còn nói với nhau : "Nếu Tổng thống Nixon đừng bị mất chức vì vụ Watergate, miền Nam đã không mất !". Đa số người Việt ở Mỹ đã ghi danh vào Đảng Cộng Hòa vì tin rằng Đảng Cộng Hòa chống Cộng… Đến nay, nhiều người vẫn còn tin như thế. Ai có ý kiến khác họ, thường bị coi là tay sai cộng sản hay đặc công cộng sản nằm vùng. Với cái lối đấu tranh này, mất miền Nam là chuyện không thể tránh được và còn thua dài dài.
Ngày 27/4/2017
Lữ Giang