Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Cho dù là kéo dài bao lâu, dịch bệnh sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế thế giới.

economy0

Khách du lịch nước ngoài đeo khẩu trang để phòng hộ siêu dịch Covid-19 tại chợ Chatuchak ở Bangkok. (Ảnh của Natthawat Doeseanbut)

Tính đến thứ Tư, 80.991 trường hợp được xác nhận nhiễm Covid-19 ở 41 quốc gia và khu vực.

Covid-19 không còn là "vấn đề Trung Quốc" mà đã trở thành toàn cầu.

Khi tất cả các tổ chức nghiên cứu kinh tế Thái Lan, bao gồm Ngân hàng Thái Lan và Hội đồng Phát triển Kinh tế và Xã hội Quốc gia, đã giảm dự báo tăng trưởng GDP Thái Lan năm 2020 từ 2,8% xuống còn 2,0-1,8%, việc hiệu chỉnh lại dựa trên số lượng khách du lịch Trung Quốc và xuất khẩu sang Trung Quốc giảm. Nhưng lúc này, khách du lịch từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan và thậm chí cả các nước Châu Âu và Trung Đông sẽ ít hơn.

Ngành xuất khẩu của Thái Lan đang phải đối mặt với sự sụt giảm nhu cầu xuất khẩu toàn cầu. Khoảng 12% sản phẩm được xuất khẩu sang Trung Quốc. Nhưng hai quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là Nhật Bản và Hồng Kông, chiếm 15% tổng kim ngạch xuất khẩu của Thái Lan. Điều này có nghĩa là cần phải đánh giá lại tăng trưởng GDP của Thái Lan vào năm 2020.

Mặc dù số lượng nhiễm trùng mới đã giảm đáng kể, nhưng không có gì đảm bảo rằng bệnh dịch sẽ được ngăn chặn.

Câu hỏi lớn là, có bao nhiêu người đã được thử nghiệm cho đến nay để xác nhận 80.991 trường hợp ? Bởi Vũ Hán có dân số tới 11,8 triệu người.

Tất nhiên, cơ quan y tế ở Vũ Hán không có khả năng kiểm tra tất cả 11,8 triệu người, chứ chưa nói đến 58,5 triệu người sống ở các khu vực xung quanh Hồ Bắc. Giả sử họ có thể kiểm tra 10% công dân Vũ Hán, tương đương 1,18 triệu người. Điều này sẽ làm cho sức khỏe của hơn 10 triệu công dân còn lại nằm trong số chưa được biết đến. Đồng thời, Trung Quốc có dân số 1,38 tỷ. Tính đến thứ Tư, 78.064 trường hợp được xác nhận đã được báo cáo ở Trung Quốc và hơn 1 tỷ người Trung Quốc còn lại được cho là không có virus.

Các triệu chứng ban đầu của Covid-19 tương tự như cảm lạnh hoặc cúm. Cách duy nhất để biết rằng các triệu chứng như vậy là do Covid-19 gây ra là kiểm tra virus. Nếu không xét nghiệm, bệnh nhân sẽ mặc định là bệnh nhân cúm. Nếu bệnh nhân đó chết, trường hợp đó sẽ được báo cáo là từ vong do cúm.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới, có tới 650.000 ca tử vong trên toàn thế giới mỗi năm vì các bệnh về đường hô hấp do cúm theo mùa. Nếu bệnh nhân không được xét nghiệm đặc biệt, không thể biết liệu cái chết là do cúm thông thường hay do loại virus mới Covid-19.

Tại sao không kiểm tra mọi bệnh nhân có triệu chứng giống cúm ? Xét nghiệm vừa phức tạp vừa tốn kém (khoảng 250 Mỹ kim/ lần). Ngoài ra, việc cung cấp bộ dụng cụ thử nghiệm Covid-19 rất hạn chế. Bây giờ bạn đã hiểu tại sao một số quốc gia không có ca nhiễm bệnh Covid-19. Chỉ vì họ không có xét nghiệm thôi.

Hậu quả về kinh tế

Có hai rủi ro chính cho nền kinh tế.

Đầu tiên, dịch bệnh lây lan còn lâu mới hết. Những con số chúng ta thấy chỉ là những trường hợp "được xét nghiệm" chiếm một phần nhỏ trong toàn bộ dân số. Vẫn còn nhiều người mang virus vô tình lang thang khắp thế giới (có lẽ trong đó có cả hàng xóm của bạn).

Theo thủ tục y tế của Thái Lan, bạn cần phải đáp ứng điều kiện cần là PUI (Người được điều tra) trước khi thử nghiệm Covid-19.

Thứ hai, khi Trung Quốc nối lại hoạt động kinh doanh, mọi người sẽ tiếp tục các hoạt động bình thường trên các tàu điện ngầm đông nghẹt và khạc nhổ, và dịch bệnh có thể sẽ xuất hiện trở lại.

Loại bỏ hai rủi ro này sẽ mất bao nhiêu thời gian trước khi dịch bệnh kết thúc. Ba tháng ? Không có khả năng. Sáu tháng, như Sars và Mers ? Hy vọng. Cả một năm ? Có lẽ. Bất cứ lúc nào, dịch bệnh sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế thế giới.

Trước khi phân tích nền kinh tế của Thái Lan, hãy nhìn vào Trung Quốc. Nếu đợt bùng phát kéo dài trong sáu tháng, điều đó có nghĩa là sẽ kết thúc vào tháng 6, 90% các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ phá sản. Trên thực tế, có rất ít sự khác biệt giữa đợt bùng phát ba tháng hoặc sáu tháng. Cuộc khảo sát tương tự cho thấy 85% các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ phá sản trong ba tháng đầu tiên. Khảo sát này cho thấy chính xác rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Trung Quốc đang thiếu vốn và cần thu nhập liên tục để tồn tại. Nếu chính phủ Trung Quốc không thực hiện các biện pháp kích cầu đặc biệt, nền kinh tế Trung Quốc chắc chắn sẽ rơi vào suy thoái. Hãy để tôi nhắc lại rằng các biện pháp này phải là "ngoại lệ", chẳng hạn như giảm lãi suất từ ​​4,05% hiện tại xuống không.

Thái Lan, nước có nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào doanh thu du lịch và xuất khẩu, sẽ bị tổn thương nặng nề. Trung tâm của suy thoái kinh tế vẫn là Trung Quốc, nhưng các quốc gia khác cũng đang phải đối mặt với suy thoái của chính họ. GDP quý I năm 2020 của Nhật Bản sẽ cung cấp bằng chứng rõ ràng về tác động của Covid-19. Hãy chờ xem. 

Với Thái Lan 30,5% hàng xuất khẩu sang các nước bị ảnh hưởng nặng nề do Covid-19. Tôi tin rằng dữ liệu xuất khẩu tháng Hai của Thái Lan sẽ gây sốc cho nhiều người.

Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Thái Lan đang ở cùng tình trạng với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Trung Quốc. Họ đã bị ảnh hưởng bởi nhu cầu trong nước yếu. Sự sụt giảm nhu cầu trong và ngoài nước về du lịch và xuất khẩu sẽ khiến các công ty này phá sản.

Tôi khuyên chính phủ đừng nghĩ nhiều đến GDP và dữ liệu kinh tế vĩ mô vốn thể rất xấu hoặc không liên quan gì như dữ liệu lạm phát. Thay vào đó, nên tập trung vào các doanh nghiệp nhỏ và để tạo việc làm cho công nhân. Đây là cách duy nhất để duy trì sự toàn vẹn quốc gia và kinh tế.

Chartchai Parasuk

Nguyên tác : Can economy weather Covid-19 storm?, Bangkok Post, 27/02/2020

Khánh An dịch

Nguồn : VNTB, 28/02/2020

Additional Info

  • Author Chartchai Parasuk
Published in Diễn đàn
lundi, 04 septembre 2017 15:12

Hố đen tài khóa

Hố đen là thuật ngữ hàm ý một vật thể (hố) trong vũ trụ, tham lam đến nỗi không vật gì có thể thoát ra khỏi được nó, kể cả ánh sáng. Khi đã rơi vào hố đen, các quy luật vật lý thông thường đều bị phá vỡ.

Gần đây các nhà kinh tế đã dùng hình ảnh này để phản ảnh một cách dễ hiểu và đúng bản chất nhất sự đổ vỡ nền tài khóa của một quốc gia thông qua khái niệm "hố đen tài khóa". Làm thế nào để thoát khỏi hố đen tham lam này ?

hoden1

Hố đen tài khóa luôn có trọng tâm là các khoản chi tiêu, đầu tư lãng phí mà không có bất kỳ nguồn thu bất tận nào có thể đáp ứng được. Ảnh : Internet

Từ lỗ hổng đến hố đen tài khóa

Vào thập niên 1990, nhà kinh tế Mỹ Laurence Kotlikoff đã có đề xuất một thước đo mới là lỗ hổng tài khóa (fiscal gap). Dữ liệu về lỗ hổng tài khóa sau đó đã được Chính phủ, Quốc hội Mỹ (có công bố trên website để người dân giám sát), các ngân hàng trung ương, bộ tài chính các nước, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) và giới học giả của trên 40 nước phát triển, đang phát triển áp dụng và công bố.

Lỗ hổng tài khóa là "giá trị hiện tại" toàn bộ nghĩa vụ tài chính dự kiến (các khoản chi tiêu) của chính phủ trừ đi các khoản thu thuế và thu khác mà chính phủ dự kiến nhận được trong một khoảng thời gian nào đó (tổng toàn bộ các khoản thu, chi được chiết khấu về hiện tại với mức lãi suất thực). Do tính toán đầy đủ các khoản thu và chi của chính phủ, bao gồm bất kỳ nguồn thu và khoản mục chi nào, kể cả tiền trả lãi nợ gốc, nên lỗ hổng tài khóa là con số lớn đáng kinh ngạc so với các số liệu công bố chính thức.

Chẳng hạn, năm 2005, một số nghiên cứu cho thấy lỗ hổng tài khóa của Anh lên đến 505% GDP, gấp 14 lần số nợ công bố chính thức. Còn hiện tại, lỗ hổng tài khóa của Mỹ là 211.000 tỉ đô la (tính cho kỳ hạn 75 năm), lớn hơn 16 lần mức nợ chính thức và 12 lần GDP. Sau khi Giáo sư Kotlikoff công bố cách tính lỗ hổng tài khóa, vào năm 2015 đã có 17 nhà khoa học đoạt giải Nobel và 1.700 nhà kinh tế hàng đầu đồng ý với cách tiếp cận này. Họ đã gửi một thỉnh nguyện thư tới Quốc hội và Chính phủ Mỹ để cảnh báo nước Mỹ đã thực sự đổ vỡ, thậm chí xấu hơn cả Hy Lạp. Những giải pháp thích hợp cần phải được thực hiện ngay theo đề xuất của nhóm này là : Chính phủ hoặc phải tăng thuế tức thì và liên tục, hoặc phải cắt giảm 58% GDP các khoản chi liên bang, hoặc kết hợp đồng thời cả hai. Đâu dễ để làm được như thế. Nhiều nhà kinh tế vì vậy cho rằng nước Mỹ đã thực sự rơi vào "hố đen tài khóa".

Con số phản ánh khái quát sự mất cân bằng vị thế tài khóa hiện nay ở nước ta là tỷ lệ nợ công trên GDP. Tính toán của Bộ Tài chính cho thấy nợ công đã chạm ngưỡng an toàn 65% GDP. Nhưng nếu tính cả các khoản nợ của doanh nghiệp nhà nước, nợ công thật sự có thể vượt rất xa GDP. Dù vậy, các tính toán này có nhược điểm cơ bản là không "hướng về phía trước".

Các phép tính nợ công chính thức mà WB hay Bộ Tài chính nước ta đang áp dụng có nhược điểm lớn là tính theo số liệu lịch sử và tuân theo những quy ước thường gây tranh cãi. Nhược điểm này được khắc phục bằng thước đo lỗ hổng tài khóa. Tuy vẫn chưa thể hoàn hảo nhưng nó phản ảnh được tình trạng không bền vững của ngân sách quốc gia thông qua một cuộc kết toán liên thế hệ. "Trẻ sơ sinh tài khóa" là thuật ngữ nói lên những đứa bé mới ra đời cũng không thoát khỏi cảnh ngộ bị hố đen nuốt chửng.

Quốc hội, Chính phủ nên xây dựng kịch bản "Lỗ hổng tài khóa"

Lỗ hổng tài khóa phình to chẳng những phản ánh tình trạng sụp đổ tài khóa quốc gia mà còn của từng người dân trong viễn cảnh dài hạn. Vì thế cũng thật chính đáng để Quốc hội, Chính phủ xây dựng các kịch bản lỗ hổng tài khóa và công bố chính thức để người dân nhận thức được thân phận của mình. Giáo sư Kotlikoff cho rằng chỉ cần tốn vài phút tính trên bảng Excel là có thể làm được điều đơn giản này. Người viết thử ước tính lỗ hổng tài khóa ở Việt Nam nhằm có cái nhìn định chất vị thế bền vững tài khóa dưới hai kịch bản, thông qua đó nhằm phác thảo một vài hàm ý chính sách căn bản.

Kịch bản 1, tạm gọi là kịch bản cơ sở, với dữ liệu cơ bản là thừa nhận các công bố chính thức của Chính phủ. Trong đó biến số chính là mức thâm hụt ngân sách dự kiến 6% (bình quân giai đoạn năm năm gần đây), các yếu tố khác như mức nợ công và tăng trưởng GDP không thay đổi. Theo đó, lỗ hổng tài khóa ước tính cho 20 năm sắp tới xấp xỉ 10% GDP. Điều này có nghĩa thời gian đến, mỗi năm Chính phủ hoặc phải có nguồn thu thuế tăng thêm, hoặc cắt giảm chi tiêu 10% GDP, tức khoảng 500.000 tỉ đồng, hoặc kết hợp cả hai.

Kịch bản 2 với các giả định xấu hơn, như tình trạng các nguồn thu bán tài nguyên, dầu ngày càng cạn kiệt, tình trạng già hóa dân số, năng suất lao động suy giảm, tình trạng chi tiêu đầu tư lãng phí, tham nhũng vẫn hoành hành, đặc biệt là thể chế vẫn không có những thay đổi triệt để khiến cho bộ máy hành chính ngày càng phình to. Tất cả điều này khiến cho lỗ hổng tài khóa tăng nhanh đột biến. Từ con số của Anh, Mỹ, sẽ không ngạc nhiên nếu lỗ hổng tài khóa với các kịch bản đầy bất trắc và xấu nhất có thể làm cho nợ công lên đến gấp nhiều lần GDP, từ đó lỗ hổng tài khóa có thể lên đến hàng chục lần GDP. Lúc ấy, nền kinh tế chính thức rơi vào hố đen tài khóa.

Không có nhiều lựa chọn thoát khỏi hố đen

Với kịch bản lạc quan nhất, giả sử lỗ hổng tài khóa 10% GDP. Có hai lựa chọn khả dĩ. Thứ nhất, giả sử Chính phủ chọn kịch bản tăng thuế giá trị gia tăng từ 10% lên 12% ngay lập tức theo đề xuất của Bộ Tài chính. Ít nhất có hai điều sau đây cho thấy tính không khả thi của giải pháp này.

Điều đầu tiên, tác động bất lợi của tăng thuế giá trị gia tăng đến nền kinh tế có thể diễn ra ngay tức thì và do đó tác động tiêu cực đến các kế hoạch tăng trưởng của chính phủ. Nhiều bằng chứng cho thấy điều này. Chẳng hạn ở Nhật Bản, lần đầu tiên sau 17 năm cân nhắc tới lui, Chính phủ quyết định nâng thuế giá trị gia tăng từ 5% lên 8% vào tháng 4/2014. Ngay lập tức, ba tháng sau, kinh tế Nhật sụt giảm 6,8% (mức sụt giảm còn lớn hơn cả sự cố sóng thần và động đất tháng 3/2011) ; chỉ số giá tiêu dùng tăng 3,4% ; còn thất nghiệp tăng 0,1 điểm phần trăm. Kết quả bất ngờ này khiến Chính phủ Nhật quyết định trì hoãn kế hoạch tăng thuế lần hai, theo dự kiến lên mức 10% vào năm 2017. Điều khó hiểu nữa là cách làm của Bộ Tài chính của ta quá thiếu tính chuyên nghiệp. Ít nhất, Bộ Tài chính cũng phải tính toán các kịch bản lỗ hổng tài khóa, giả sử để mỗi năm có nguồn thu thuế giá trị gia tăng tăng thêm 500.000 tỉ đồng thì mức thuế suất tăng lên sẽ bao nhiêu (có đến mức từ 10% lên 12% ?). Ngoài ra, còn phải tính toán sơ bộ mỗi năm trung bình mỗi người dân sẽ phải gánh nặng thêm bao nhiêu tiền thuế và ảnh hưởng đến cuộc sống của họ ra sao.

Lựa chọn thứ hai là cắt giảm chi tiêu. Đây luôn là phản ứng chính sách hợp lòng dân và hợp lý mà chính phủ các nước sử dụng để nền kinh tế không rơi vào hố đen tài khóa. Hố đen tài khóa luôn có trọng tâm là các khoản chi tiêu, đầu tư lãng phí mà không có bất kỳ nguồn thu bất tận nào có thể đáp ứng được. Như ở Mỹ, hố đen là các chương trình chi tiêu an sinh và chăm sóc sức khỏe khổng lồ. Ở Việt Nam, hầu hết người dân đều có thể chỉ đích danh thủ phạm chính là các khoản chi tiêu thường xuyên, chiếm đến 70% tổng chi ngân sách, để nuôi sống bộ máy hành chính khổng lồ luôn gây khó cho tăng trưởng kinh tế. Đây là lựa chọn khả thi nhất và chắc chắn nhận được sự đồng tình của đa số người dân.

Làm gì để thoát khỏi hố đen ?

Không khó để nhận thấy quyết tâm của lãnh đạo Đảng và Chính phủ trong việc cải thiện vị thế tài khóa quốc gia. Nhưng nếu chỉ có những nghị quyết, những lời nói trừu tượng thì sẽ không có phép màu xảy ra. Mọi kế hoạch và chương trình hành động phải thật cụ thể.

Thứ nhất, không hô hào, không nói nhiều mà chỉ có hành động, hành động và hành động ngay lập tức. Các nghiên cứu cho thấy nếu không có những hành động quyết liệt và tức thì, lỗ hổng tài khóa sẽ ngày càng lớn dần theo cấp số nhân, đủ để tích tụ thành hố đen.

Thứ hai, các vấn đề kinh tế học của tài khóa rất đơn giản ; chỉ cần các cơ quan quản lý có quyết tâm chính trị cao độ, bài toán lỗ hổng tài khóa sẽ được giải quyết. Không nên để cho đề xuất tăng thuế vừa qua là một cuộc chiến của ngôn từ và đánh tráo khái niệm của các cơ quan quản lý. Thay vào đó, cách đặt vấn đề nên là liệu chúng ta đã và có nguy cơ rơi vào hố đen ? Thái độ có trách nhiệm trong tình huống này là bàn cách để thoát ra, còn những suy diễn lái vấn đề ra khỏi sự thật dễ dẫn đến những quyết định chính sách không thể chỉnh sửa được sau này.

Thứ ba, Chính phủ cần đưa ra các giải pháp chi tiết khép lại lỗ hổng tài khóa đến từng địa chỉ cụ thể.

Chẳng hạn với lỗ hổng là 500.000 tỉ đồng mỗi năm, mỗi bộ ngành và tỉnh, thành phố cần phải có trách nhiệm tiết giảm bao nhiêu chi tiêu thường xuyên và lãng phí. Nếu không hoàn thành thì trách nhiệm lãnh đạo sẽ như thế nào. Để làm được điều

này, Chính phủ nên xây dựng một ma trận trách nhiệm các bộ, ngành và tỉnh, thành có liên quan.

Thứ tư, trong trường hợp không thể cắt giảm chi tiêu thường xuyên mỗi năm lập tức 500.000 tỉ đồng, sẽ tính đến giải pháp dùng nguồn thu ngân sách từ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, đấu giá tài sản công hay tăng cường các hình thức đầu tư hợp tác công tư (PPP) để giảm nhẹ gánh nặng ngân sách nhà nước.

Thứ năm, nếu đã hết cách mà vẫn không thể lấp đầy lỗ hổng 500.000 tỉ đồng thì mới nghĩ đến giải pháp cuối cùng là tăng thuế. Do đây là giải pháp đến sau cùng, có khả năng Chính phủ chỉ cần có thêm một phần không nhiều nguồn thu mới cũng đủ để lấp đầy lỗ hổng tài khóa. Nếu thế, có đáng để Chính phủ nâng thuế giá trị gia tăng như đề xuất của Bộ Tài chính với quá nhiều rủi ro phía trước.

Khả dĩ nhất là tăng thuế tiêu thụ đặc biệt thật cao đối với rượu, bia, thuốc lá và nhất là thuế carbon đối với các nhà máy thải ra ô nhiễm. Hay cả hệ thống cần phải quyết liệt và hy sinh nhiều hơn nữa, tự động, tình nguyện cắt giảm chi tiêu lãng phí mạnh hơn để người lao động giảm đi nỗi lo tăng thuế và doanh nghiệp có thêm niềm tin kinh doanh.

Trần Ngọc Thơ

Nguồn : TBKTSG, 04/09/2017

Published in Diễn đàn

ktvn1

Kinh tế Việt Nam tăng 6,2% năm 2016, còn khó khăn năm 2017

Thực trng kinh tế Vit Nam l thuc vào Trung Quc là him ha mà công lun đã lên tiếng t nhiu năm nay. Mc đ l thuc din ra ngày càng nng n dưới thi Th tướng Nguyn Tn Dũng. Đây là điu mà nhiu người cm thy khó lý gii, bởi h tin ông Nguyn Tn Dũng không ch là nhân vt "chng Tàu" quyết lit nht trong ban lãnh đo Vit Nam, qua nhng phát ngôn mnh m nhm vào gã láng ging khng l "to xác, xu bng", mà còn là nhân vt quyn lc nht Vit Nam sut mt thi gian dài.

Vì thế, không ít người đã vi hình dung ra vin cnh kinh tế nước nhà s còn ti t hơn khi đng đu chính ph khóa  XIV là mt Nguyn Xuân Phúc vn b coi là "phn bi" người tin nhim Nguyn Tn Dũng.

Tuy nhiên, sau 9 tháng lèo lái nền kinh tế, xem ra chính phủ ca tân Th tướng Nguyn Xuân Phúc đã nhen nhóm hy vng "thoát Trung" v mt kinh tế, ít nht là trên phương din s liu thng kê.

ktvn2

Bảng 1 : S liu xut nhp khu gia Vit Nam và Trung Quc t năm 2000 đến 2016 (Ngun : Niên giám Thng kê 2000 - 2015 và báo chí nhà nước ; các ch s do tác gi tp hp và tính toán.)

ktvn3

Biểu đ 1 : T trng xut khu sang Trung Quc trong tng kim ngch xut khu và t trng nhp khu t Trung Quc trong tng kim ngch nhp khu qua các năm.

Nhập khu t Trung Quc năm 2016 là 49,8 t USD, ch tăng khong 300 triu USD so vi năm 2015, tc 0,6%. Nếu không tính năm 2009 (năm kinh tế Vit Nam suy thóa i và nhp khu t Trung Quc gim 3,5% trong bi cnh tng kim ngch nhp khu gim ti 13,34%) thì kể t năm 2001, khi Vit Nam bt đu nhp siêu t Trung Quc, đây là năm mà giá tr nhp khu t Trung Quc tăng thp nht. Bên cnh đó, xut khu sang Trung Quc đt 21,8 t USD, tăng ti 4,7 t USD so vi năm 2015, tương đương 27,4%. Vi tc đ gia tăng ngoạn mc này, t trng xut khu sang Trung Quc trong tng kim ngch xut khu chiếm ti 12,4%, mc cao nht t trước đến nay.

Nhờ nhp khu t Trung Quc hu như không tăng, trong khi xut khu sang th trường này li tăng mnh, nên giá tr nhp siêu từ Trung Quc năm 2016 ch còn 28 t USD so vi đnh cao 32 t USD ca năm 2015. Như vy, giá tr nhp siêu t Trung Quc năm 2016 thp hơn c năm 2014. Và nếu không tính năm 2009 (năm c tng kim ngch xut khu ln tng kim ngch nhp khu ca Vit Nam đều gim mnh) thì k t khi Vit Nam bt đu nhp siêu t Trung Quc, đây là năm duy nht nhp siêu t Trung Quc không nhng gim mà còn gim mnh ti 13,6%.

Tỷ trng hàng hóa  nhp khu t Trung Quc do đó đã gim t đnh cao 29,9% năm 2015 xung còn 28,7% năm 2016, thấp hơn c con s ca năm 2014 (29,5%).

Tuy thành tích trên đây của chính ph Vit Nam "hu Nguyn Tn Dũng" là khá n tượng, nhưng giá tr nhp siêu 28 t USD t Trung Quc vn là quá ln, gn như xoánhòa thành tích xut siêu 29,4 t USD sang thị trường M. Đc bit, t trng nhp khu t Trung Quc chiếm ti 28,7% tng kim ngch nhp khu là con s vn còn quá cao, nếu xét phn ln s này là hàng hóa  cht lượng thp, đc hi, hoc tim n nhng him ha lâu dài v an ninh quc phòng.

Ngoài ra, việc t trng xut khu sang Trung Quc trong tng kim ngch xut khu gia tăng tuy là điu đáng mng trong ngn hn, nhưng v lâu dài đây cũng là điu đáng lo ngi, khi phn ln hàng hóa  xut khu sang th trường này là khoáng sn, nguyên liu thô và nông sản. Đây là nhng loi hàng hóa  hoc gây ra hin tượng "chy máu khoáng sn", hoc không có giá tr gia tăng cao và d b phía Trung Quc d nhng mánh khoé quen thuc đ bt cht, lũng đon th trường, khiến các nhà xut khu, đc bit là người nông dân, bao phen điêu đứng.

Dù hy vọng "thoát Trung" v kinh tế xem ra đã được chính ph ca Th tướng Nguyn Xuân Phúc nhen nhóm, nhưng quãng thi gian 9 tháng va qua là chưa đ đ nói lên nhiu điu. Trong bi cnh Hip đnh Đi tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) sắp b tân Tng thng M Donald Trump chính thc khai t, đng lc tăng trưởng da trên khai thác tài nguyên và nhân công giá r đã đui sc, n công tăng cao, ngân sách cn kit, năm 2017 thc s là mt năm đy thách thc đi vi chính ph Vit Nam. Nếu không đy mnh ci cách, tái cơ cu nn kinh tế theo hướng th trường hóa , tư nhân hóa , phi tp trung hóa , phi điu tiết hóa  thì khng hong kinh tế là mt nguy cơ thc tế.

Lê Anh Hùng

Nguồn : VOA tiếng Việt, 10/01/2017 

Additional Info

  • Author Lê Anh Hùng
Published in Diễn đàn
vendredi, 06 janvier 2017 09:57

Gấp rút chữa cháy cho nền kinh tế

kinhte1

Cảnh buôn bán ở một góc phố Hà Nội hôm 8/12/2016. AFP photo

Phản hồi lời kêu gọi của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, trong tuần lễ đầu năm 2017 đã có nhà khoa học nói thẳng, nói thật. Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội nói rằng, ông chưa thấy động lực tăng trưởng cho năm 2017 ở đâu và năm 2017 có thể sẽ là năm kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn hơn.

Sự thật mất lòng

Nhận định trên báo mạng Dân Trí ngày 5/1/2017, Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành bày tỏ quan ngại sâu xa về dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2017. Theo lời Viện trưởng VEPR, Việt Nam có thể chịu tác động từ những diễn biến bất lợi từ tình hình Quốc tế và chưa thấy được những điểm mới từ trong nước, trong bối cảnh cải cách khu vực doanh nghiệp Nhà nước đang gặp khó khăn ; quản lý công chậm đổi mới, nợ công cao và tăng chi ngân sách vẫn lớn.

Trả lời Nam Nguyên vào tối 5/1/2017, chuyên gia kinh tế Phó Giáo sư Ngô Trí Long hiện sống và làm việc ở Hà Nội nhận định rằng, có nhiều dự báo khác nhau về mức tăng trưởng kinh tế của Việt Nam 2017, như 6,3% của Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế ; hay mức 6,7% của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia. Theo quan điểm của Phó Giáo sư Tiến sĩ Ngô Trí Long, sau khi không đạt mức tăng trưởng kinh tế như dự kiến của năm 2016 và với những thách thức khó lường của 2017 thì Chính phủ Việt Nam sẽ rất khó khăn và sẽ phải có quyết tâm hết sức mạnh mẽ để đạt tới mức tăng trưởng GDP 6,7%. Chuyên gia Ngô Trí Long cho rằng thương mại toàn cầu không sáng sủa với sự kiện Brexit, nước Anh rời khỏi EU ; đặc biệt là xu hướng dân tộc hướng nội ở Hoa Kỳ của Tổng thống đắc cử Donald Trump. Ngoài ra còn vấn đề xung đột trên thế giới hoặc thiên tai có thể xảy ra cũng ảnh hưởng thị trường mậu dịch toàn cầu.

Phó Giáo sư Ngô Trí Long nhấn mạnh tới các vấn đề mà nền kinh tế Việt Nam khó vượt qua.

"Trong nước nói chung là, những thách thức mới và lớn như rào cản về nợ công, nợ xấu vẫn chưa được giải quyết dứt điểm ; hay đặc biệt tình hình thiên tai lũ lụt, hạn hán, thời tiết khí hậu cũng ảnh hưởng rất lớn. Bên cạnh đó vấn đề tái cơ cấu tiến hành rất là chậm…đấy là những yếu tố tác động cản trở tăng trưởng.

Bên cạnh đó cũng có những điểm sáng, hy vọng cho tăng trưởng năm 2017, sự cải cách hành chính, thể chế cũng như môi trường, những động lực để giúp tăng trưởng thì Chính phủ làm rất là mạnh. Nhưng với những rào cản đã nêu thì theo quan điểm cá nhân tôi, để đạt mục tiêu tăng trưởng 6,7% thì Chính phủ phải hết sức quyết liệt đặc biệt về cải cách thể chế, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh ; tháo gỡ những rào cản, thủ tục hành chính bất cập…".

Theo Phó Giáo sư Ngô Trí Long, động lực của cải cách của Chính phủ cũng đặt được niềm tin trong doanh nghiệp. Đặc biệt một trong những vấn đề hết sức quan trọng, 6 tháng đầu năm 2016 nông nghiệp Việt Nam có mức tăng trưởng âm, cả năm thì tăng trưởng rất thấp. Nhưng năm nay Chính phủ coi nông nghiệp là lĩnh vực hết sức quan trọng, ví dụ như áp dụng khoa học kỹ thuật và có những đề án phát triển nông nghiệp, vun bồi cho nông nghiệp phát triển với trình độ công nghiệp cao.

Đề cập tới khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, Phó Giáo sư Ngô Trí Long tiếp lời :

"Trong năm 2017 này, một trong những vấn đề thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam là năng suất, chất lượng hiệu quả thì chưa đáng là bao. Nếu Chính phủ không cố gắng, không có động lực, không quyết tâm, có nghĩa là trên rất quyết liệt, nhưng giữa còn chần chừ và dưới thì chậm chạp, không thay đổi được tư tưởng và vẫn giữ nếp như vậy thì chắc chắn khó đạt được tăng trưởng 6,7%.."..

Nông dân đang bị "nghèo hóa"

VIETNAM-ECONOMY

Nông dân Việt Nam với mùa thu hoạch ở ngoại ô Hà Nội hôm 9/6/2016. AFP photo

Báo Dân Trí dẫn lời Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng VEPR, nhắc lại thảm họa môi trường từ Formosa tại 4 tỉnh miền Trung đã tác động trực tiếp đến sinh kế, kinh tế của hàng triệu hộ dân mà rất lâu mới có thể khắc phục được. Ngoài ra Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành nhấn mạnh tới thực tế gọi là nghèo hóa nông dân, nông thôn, sau hạn hán ở Tây nguyên và Nam Trung Bộ, hạn mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long, ngập lụt ở miền Trung… đã kéo giảm năng suất, tăng trưởng ngành nông nghiệp.

Vẫn theo Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành và Dân Trí Online, trước những thay đổi của điều kiện tự nhiên ; nguy cơ công nghiệp lạc hậu và tận dụng tài nguyên đang khiến Việt Nam phải đánh đổi và đứng trước con đường bắt buộc phải thay đổi, mới hy vọng có được tăng trưởng dài hạn, bền vững.

Trong cuộc phỏng vấn của chúng tôi, một nhà nghiên cứu khoa học là Giáo sư Bùi Chí Bửu, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam, phân tích là tái cấu trúc nông nghiệp ở Việt Nam đưa ra từ nhiều năm nay, nhưng bị chặn bước vì ba thách thức lớn. Đó là sản xuất quá nhỏ bé ; Việt Nam hội nhập quốc tế sâu, phải thực hiện các cam kết thương mại tự do nhiều nông sản bị cạnh tranh và sau hết trong hai năm 2015-2016 hiện tượng El Nino ảnh hưởng quá lớn làm cho lĩnh vực trồng trọt, kể cả cây công nghiệp như cà phê, hồ tiêu và ngành chăn nuôi đều bị ảnh hưởng, năng suất sụt giảm nghiêm trọng. Từ Saigon, Giáo sư Bùi Chí Bửu nhấn mạnh :

"Ba thách thức đó ảnh hưởng tái cấu trúc trong khi mình không có nhiều nghiên cứu chiều sâu về kinh tế, xã hội tất cả mọi thứ…cho nên cần thiết nhất là dành ngân sách đầu tư cho nghiên cứu những factors, những chìa khóa để giải quyết vấn đề. Chúng ta cần bấm đúng cái huyệt nào đó, nhưng cái huyệt này chưa được tìm thấy".

Chính phủ của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế 2017 khá cao là 6,7% và có những dấu hiệu cho thấy, Thủ tướng muốn gấp rút dập tắt những đám cháy âm ỉ đang hủy hoại nền kinh tế.

Báo mạng Một Thế Giới ngày 5/1/2017 đưa tin, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chỉ định Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ làm Trưởng Ban Chỉ đạo xử lý 12 dự án thua lỗ nghìn tỷ thuộc Bộ Công thương. Đây là một Ban mới được thành lập và có mục đích giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo xử lý các vướng mắc, tồn tại yếu kém của các dự án, doanh nghiệp lớn thuộc ngành công thương.

Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ được Một Thế Giới dẫn lời cho biết, việc xử lý các dự án thua lỗ nghìn tỷ phải tuân thủ nguyên tắc "kiên quyết xử lý các doanh nghiệp nhà nước thua lỗ, các dự án đầu tư của doanh nghiệp nhà nước không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp theo nguyên tắc và cơ chế thị trường" như Hội nghị Trung ương 4 khóa 12 đã chỉ đạo.

Phải chăng sẽ có nhiều dự án thua lỗ hàng nghìn tỷ chính thức bị xóa sổ và theo cơ chế thị trường thì có thể là bán sắt vụn. Phó Giáo sư Ngô Trí Long trả lời câu hỏi này :

"Tôi thấy rất đáng ngại, vấn đề này rất nhiều chuyên gia trong ngoài nước ai cũng nói sẽ cho phá sản, phá sản theo nguyên tắc đối với nhà nước thì sẽ phá sản như thế nào. Khi anh không còn khả năng thanh toán nữa thì đối với nhà nước với nguồn lực như vậy, trong điều kiện như vậy thì thực thi ra sao, biện pháp cụ thể như thế nào thì tôi nghĩ đòi hỏi bộ máy phải có tổ chức nghiên cứu đề án một cách cụ thể chứ không thể nói chung chung…".

Ai chịu trách nhiệm cao nhất ?

VIETNAM-EU-TRADE-DIPLOMACY

Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng trả lời báo chí tại Hà Nội hôm 4 tháng 8 năm 2015. AFP photo

Một khi các dự án thua lỗ nghìn tỷ được giải quyết một lần, chuyển từ chết lâm sàng sang chính thức khai tử, thì vấn đề trách nhiệm của giới lãnh đạo Bộ Công thương các thời kỳ những dự án đó thành hình, đặc biệt là nguyên Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng sẽ như thế nào. Chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long nhận định :

"Để không đi theo vết xe đổ hay ngựa quen đường cũ thì vấn đề quan trọng là phải xử lý trách nhiệm. Đấy là những bài học để răn đe cho những thế hệ mới này. Trong hoàn cảnh này thì tôi thấy ông Vũ Huy Hoàng chưa phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng, một người chịu trách nhiệm cao nhất, đó là ai, thì phải xem xét cụ thể trực tiếp trách nhiệm.

Ông Hoàng chưa phải là người trách nhiệm cao nhất và cuối cùng, bởi vì khi ông Hoàng đã thực hiện thực thi những điều đó thì còn thông qua cấp cao hơn. Thế thì cấp cao hơn dù đã nghỉ rồi hoặc đang đương chức thì cũng phải xem xét làm rõ trách nhiệm. Chứ không thể chỉ nói tới ông Hoàng là xong…cho nên vấn đề của Việt Nam ở đây là chưa triệt để xử lý trách nhiệm cụ thể những người đã gây ra hậu quả đó…nói rất là hay, rất là mạnh nhưng cụ thể thì thực thi cũng chẳng được là bao".

Trong bối cảnh Thủ tướng Việt Nam đặt kỳ vọng tăng trưởng kinh tế 2017 cao tới 6,7%, thông tin từ VnExpress ngày 5/1/2017 cho biết, tới nay đã có 12 tỉnh xin gạo cứu đói trước Tết Đinh Dậu, bao gồm Cao Bằng, Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai, Hà Nam, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Bình Định, Ninh Thuận, Đắk Nông.

Đọc bài báo, thấy thật là mỉa mai, khi các tỉnh xin cứu đói lại đều có những báo cáo về tình hình kinh tế xã hội với rất nhiều mỹ từ, như tổng sản phẩm tăng, các lĩnh vực sản xuất kinh tế đạt và vượt kế hoạch đề ra…

Nam Nguyên, phóng viên RFA

Additional Info

  • Author Nam Nguyên
Published in Diễn đàn