Nguyên thủ Việt Nam hôm 24/6 đã gửi lời thăm hỏi người đồng nhiệm ở quốc gia láng giềng sau khi xảy ra vụ lở núi chết chóc.
Theo Bộ Ngoại giao Việt Nam, ông Trần Đại Quang đã gửi điện hỏi thăm Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sau khi biết tin về vụ lở núi ở tỉnh Tứ Xuyên.
Tin cho hay, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh cũng chuyển lời tới Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc Dương Khiết Trì và Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị.
Ông Trần Đại Quang đã gửi điện hỏi thăm Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sau khi biết tin về vụ lở núi ở tỉnh Tứ Xuyên
Hơn 100 dân làng Tân Ma có thể đã thiệt mạng, sau khi một trận lở đất tại vùng núi hẻo lánh của Trung Quốc chôn vùi hơn 60 ngôi nhà.
Reuters dẫn lại Tân Hoa Xã đưa tin thêm rằng tới ngày 24/6 các nhân viên cứu hộ mới chỉ tìm thấy 6 thi thể.
Đây là lần đầu tiên báo chí do nhà nước kiểm soát ở Việt Nam đưa tin liên quan tới quan hệ Hà Nội – Bắc Kinh, sáu ngày sau khi một quan chức quốc phòng đầy quyền lực của Trung Quốc "đột ngột cắt ngắn chuyến thăm" tới "nước cộng sản anh em".
Việt Nam tới nay vẫn chưa nêu lý do về việc ông Phạm Trường Long, Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc, hủy một sự kiện giao lưu quân sự và bỏ về nước hôm 18/6. Còn Bắc Kinh nói rằng việc đó liên quan tới chuyện sắp xếp lịch làm việc.
Hoàn cầu Thời báo của nhà nước Trung Quốc hôm 22/6 viết : "Các cơ quan truyền thông nước ngoài cho rằng việc hủy này có thể xuất phát từ chuyện bất đồng song phương về việc Việt Nam khoan dầu và khí ở khu vực tranh chấp ở Biển Đông".
Việt Nam khoan dầu và khí ở khu vực tranh chấp ở Biển Đông
Tờ báo có tư tưởng dân tộc cực đoan này viết thêm : "Phía Việt Nam chưa đưa ra bất kỳ tuyên bố chính thức nào. Dường như quan hệ Việt – Trung sẽ tiếp tục sóng gió vì tranh chấp Biển Đông trong tương lai".
Hoàn cầu Thời báo, tờ từng chỉ trích Việt Nam xích lại gần hơn với Nhật Bản và Mỹ, cho rằng "Trung Quốc và Việt Nam phải tránh để tranh chấp vượt khỏi tầm kiểm soát".
"Lịch sử cho thấy rằng một sự đối đầu giữa hai nước theo chủ nghĩa xã hội sẽ thực sự thảm khốc vì cả hai đều có khả năng lớn trong việc huy động dân chúng", tờ báo cảnh báo
Các nhà quan sát cho rằng vụ ông Phạm Trường Long cho thấy "sóng gió đang nổi lên trong quan hệ Việt - Trung".
Ngày 21/6 vừa qua, trang mạng của Đài Á Châu Tự Do (RFA) đăng bài "Căng thẳng Việt - Trung", trong đó có đoạn : "Chuyên gia quốc tế lo ngại sẽ có đụng độ xảy ra trên biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc gần bãi Tư Chính, nơi tàu Trung Quốc cắt cáp tàu Việt Nam vào năm 2011. Đây là lô dầu 136/03 mà Việt Nam mới đây bắt đầu cho thực hiện các hoạt động khai thác dầu. Giáo sư Carl Thayer, thuộc Học viện Quốc phòng Úc cho biết đã có thông tin về việc Trung Quốc đã triển khai khoảng 40 tàu và máy bay vận tải Y-8 đến khu vực khai thác của Việt Nam".
Trong một cuộc biểu tình tại Đồng Nai.
Đây không phải là lần đầu Trung Quốc có động thái hăm doạ Việt Nam. Trong quá khứ, Bắc Kinh đã không ít lần hành xử như vậy, kể cả việc điều động quân đội, và đó là những diễn biến hết sức nhạy cảm mà truyền thông chính thống của cả hai bên không bao giờ đưa tin. Kể từ năm 1990 đến nay, giữa Việt Nam và Trung Quốc không xảy ra thêm một vụ đụng độ quân sự nào. Vì thế, người ta cũng không bao giờ biết được đầy đủ thông tin về những lần Bắc Kinh "động binh" đe dọa Hà Nội, mà chỉ nghe phong phanh qua những thông tin rò rỉ, hoặc qua những kênh thông tin không chính thức, trong bối cảnh ngay từ năm 2008, Trung Quốc đã soạn thảo kế hoạch xâm lấn Việt Nam 31 ngày (*) một cách bài bản và chi tiết.
Tại sao Trung Quốc hay đe dọa Việt Nam ?
Mặc dù bối cảnh diễn ra các vụ căng thẳng ngoại giao khác nhau trong từng trường hợp cụ thể nhưng bản chất của chúng thì gần như không thay đổi : Việt Nam muốn bảo vệ chủ quyền hay lợi ích quốc gia hợp pháp của mình trước sự ức hiếp quá đáng của Trung Quốc. Chẳng hạn, trong vụ căng thẳng đang thu hút sự chú ý đặc biệt của dư luận trong và ngoài nước nói trên, Việt Nam từ trước tới nay luôn khẳng định khu vực bãi Tư Chính nằm trong thềm lục địa của mình, không thuộc khu vực tranh chấp với bất kỳ quốc gia nào. Ngược lại, phía Trung Quốc thì cho rằng khu vực đó nằm trong đường lưỡi bò, vốn do họ tưởng tượng ra và bao trùm phần lớn Biển Đông, vì thế đó là khu vực tranh chấp, cần "thương lượng, đàm phán" để "phân định".
Việc Bắc Kinh lần này lại giở thủ đoạn đe dọa quân sự với Việt Nam là bằng chứng cho thấy đây là "ngón võ" ưa thích của họ, thường đem lại kết quả có lợi cho họ. Bởi chỉ cần một lần bị đe dọa mà đối phương không tỏ ra nao núng thì kẻ hăm dọa đã cảm thấy ê chề, còn đối tượng bị hăm doạ thì lại càng trở nên khinh nhờn, cứng đầu.
Tại sao Trung Quốc lại thường thành công với thủ đoạn đe dọa sử dụng bạo lực với Việt Nam, và tại sao dù hai bên đã không ít lần xảy ra căng thẳng nhưng kể từ năm 1990 đến nay chưa một vụ đụng độ quân sự nào giữa hai bên được ghi nhận ?
Xin thưa, lý do rất đơn giản. Trong ban lãnh đạo Việt Nam luôn tồn tại ba xu hướng quan điểm – đó là xu hướng "thân Tàu", xu hướng "thân Mỹ, phương Tây" và xu hướng trung dung (không theo Tàu mà cũng chẳng theo Tây). Trong ba xu hướng quan điểm này, xu hướng "thân Tàu" hầu như luôn chiếm ưu thế, bằng chứng là kể từ sau Đại hội VI đến nay, các vị Tổng Bí thư luôn thể hiện lập trường đó, trong khi đất nước thì ngày càng rơi vào vòng cương tỏa của Bắc Kinh.
Dĩ nhiên, những người có lập trường "thân Tàu" thì luôn sẵn sàng nhượng bộ các ông chủ Trung Nam Hải, hoặc ít nhất là không phản đối trước những yêu sách của họ. Quan trọng hơn, Trung Quốc không chỉ là chỗ dựa của phái "thân Tàu", mà còn là chỗ dựa của cả chế độ cộng sản Việt Nam. Vì thế, nếu Bắc Kinh phát động tấn công quân sự Việt Nam thì cộng sản Việt Nam gần như chắc chắn sẽ sụp đổ. Trước viễn cảnh đó, việc Trung Quốc đe doạ tấn công còn tác động đến tâm lý và làm lung lay lập trường của các thành viên có quan điểm trung dung, thậm chí cả những người có xu hướng cấp tiến trong bộ máy, bởi cho dù có căm ghét người láng giềng phương bắc "to xác, xấu bụng" đến mấy đi nữa thì những ông "vua không ngai" này cũng không muốn chế độ sụp đổ để rồi mọi quyền lực, bổng lộc bỗng chốc "một đi không trở lại".
"Thấu hiểu" tâm lý đó nên mỗi khi căng thẳng xảy ra, Trung Quốc thường hăm dọa tấn công Việt Nam, và kết quả là họ gần như luôn đạt được điều mình mong muốn trong những lần đe dọa "động binh", tiến thêm một bước đến mục tiêu hiện thực hóa giấc mơ thôn tính Việt Nam vốn cháy bỏng trong tâm can suốt hàng ngàn năm nay.
Vậy nếu Hà Nội không chịu không chịu lùi bước thì Trung Quốc có dám đánh Việt Nam hay không ?
Những yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông là hoàn toàn phi pháp, bất chấp cả bằng chứng lịch sử lẫn luật pháp quốc tế. Vì vậy, Trung Quốc luôn yếu thế về mặt lý lẽ, và sức mạnh đáng kể nhất của họ chính là quân sự. Mặc dù vậy, bản thân Bắc Kinh cũng rất ngại phải dùng tới sức mạnh này. Bởi lẽ nếu họ đánh Việt Nam thì Hà Nội buộc phải ngả sang Mỹ và phương Tây để bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia, đồng thời cải tổ hệ thống và dân chủ hóa đất nước để tự cường dân tộc, nếu không muốn bị dân chúng vùng lên lật đổ trong một cuộc cách mạng bạo lực. Còn Mỹ và đồng minh, cho dù không muốn bị cuốn vào một cuộc chiến trực diện kéo theo nhiều hậu quả khó lường với Trung Quốc, cũng sẽ vì lợi ích thiết thân của mình mà ủng hộ Việt Nam trong khả năng có thể. Chỉ chừng đó thôi đã cho thấy đây là một cuộc chiến đầy rủi ro với Bắc Kinh, chưa kể phản ứng của các quốc gia trong khu vực và cộng đồng quốc tế.
Tóm lại, chừng nào ban lãnh đạo Việt Nam còn trùm lên đầu dân tộc cái vòng kim cô mang tên Marx-Lenin, chừng đó các gọng kìm chính trị - kinh tế - quân sự mang nhãn hiệu Đại Hán vẫn dần siết chặt dải đất hình chữ S, và khi đó thì Trung Quốc chẳng dại gì mà lại muốn "dạy cho Việt Nam một bài học".
Bất luận thế nào, khi đối tượng bị doạ dẫm cứ im lặng chịu đựng một cách hèn nhát, bạc nhược để rồi đi tới đầu hàng, nhượng bộ theo cách này hay cách khác thì quả thực là "ngu gì mà không doạ".
Lê Anh Hùng
Nguồn : VOA, 23/06/2017
(*) http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/China-InvasdionPlans-and-who-was-behind-the-scene-to-mastermind-MLam-09092008134943.html
Bắc Kinh tức giận vì Hà Nội xích lại gần với Tokyo và Washington ? (RFI, 22/06/2017)
Tranh cãi đã nổ ra trong cuộc họp kín khiến Trung Quốc đột ngột hủy cuộc họp quân sự cấp cao với Việt Nam. Giới phân tích đưa ra hai nguyên nhân làm cho Trung Quốc giận dữ dẫn đến việc hủy bỏ cuộc gặp giữa các giới chức quân sự này.
Tổng thống Mỹ Donald Trump đón tiếp thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc tại Nhà Trắng, Washington, ngày 31/05/2017. REUTERS/Jonathan Ernst
Thứ nhất, trong chuyến công du Hà Nội tuần này, tướng Trung Quốc Phạm Trường Long (Fan Chanlong), phó chủ tịch quân ủy trung ương, đã tỏ ra tức giận trước các nỗ lực gần đây của Việt Nam thúc đẩy hợp tác chiến lược với Hoa Kỳ và Nhật Bản.
Trong một thời gian ngắn, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã có hai chuyến công du đến Washington và Tokyo. Bên cạnh đó, hồi tuần trước, lực lượng tuần duyên Việt Nam và Nhật Bản còn tiến hành các cuộc thao dượt chung trên Biển Đông với chủ đề ngăn chận đánh bắt bất hợp pháp.
Nguyên nhân thứ hai, cũng có lẽ là lý do chính khiến Trung Quốc bực bội, Việt Nam rất có thể đã từ chối từ bỏ việc thăm dò và khai thác dầu khí tại một số khu vực trên Biển Đông mà cả hai bên đều có yêu sách chủ quyền.
Đòi hỏi này của Bắc Kinh có thể liên quan đến một dự án gọi là Blue Whale (Cá Voi Xanh), một dự án thăm dò dầu khí chung trên Biển Đông giữa tập đoàn Nhà nước PetroVietnam với Exxon Mobil, mà ngoại trưởng Mỹ hiện nay, Rex Tillerson từng là lãnh đạo. Thỏa thuận khai thác khí ga này được ký kết dưới thời ngoại trưởng John Kerry.
Khu vực khai thác này, dự kiến để sản xuất khí cho nhà máy phát điện thế hệ mới vào năm 2030, lại sát với quần đảo Hoàng Sa, nơi đang có tranh chấp và gần với "đường chín đoạn" mà Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền, chiếm gần hết diện tích vùng Biển Đông.
Trả lời phỏng vấn tờ New York Times, ông Alexander L.Vuving, chuyên gia về Việt Nam thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu về An Ninh Châu Á Thái Bình Dương Daniel K.Inouye, tại Hawai, nhận định dự án này dường như đang tạo ra "một tiền lệ nguy hiểm cho chiến lược Biển Đông của Trung Quốc".
Dẫu sao thì Việt Nam và Trung Quốc rồi cũng sẽ phải "sớm giải quyết vấn đề này vì cả hai bên đều mong muốn sự ổn định" như nhận định của ông Hứa Lợi Bình (Xu Liping), chuyên gia về Việt Nam và Đông Nam Á, thuộc Học Viện Khoa Học Xã Hội Trung Quốc.
Một quan điểm cũng được ông Lê Hồng Hiệp, thuộc Iseas Yusof Ishak Institute tại Singapore đồng chia sẻ. Tuy nhiên, vị chuyên gia này cũng cảnh báo là trong ngắn hạn có nguy cơ xảy ra nhiều căng thẳng mới. Trung Quốc dường như đang gia tăng nỗ lực ngăn chận Việt Nam xích lại gần với Hoa Kỳ và Nhật Bản.
Trả lời New York Times qua thư điện tử, ông viết : "Vì Việt Nam muốn đạt được các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, nước này đang có kế hoạch khai thác dầu khí nhiều hơn trên vùng Biển Đông. Vì vậy, rủi ro đối đầu trên biển cũng tăng theo".
Minh Anh
**********************
Trung Quốc đột ngột hủy cuộc họp quân sự với Việt Nam (RFI, 22/06/2017)
Báo Mỹ New York Times ngày 21/06/2017 cho biết cuộc họp cấp cao quân sự để bàn về tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và Việt Nam đã đột ngột bị hủy vào giờ chót. Theo giới chuyên gia, dường như đã nổ ra tranh cãi giữa Trung Quốc và Việt Nam trong một cuộc họp kín trước đó.
Tàu hải cảnh Trung Quốc (P) sử dụng vòi rồng tấn công tầu hải cảnh Việt Nam trên Biển Đông, gần quần đảo Hoàng Sa. Ảnh chụp ngày 03/05/2014. Reuters/Vietnam Marine Guard
Cuộc gặp giữa các giới chức quân sự Việt Nam và Trung Quốc được dự kiến vào thứ Ba, 20/06. Tuy nhiên, sự kiện này đã bị hủy bỏ và cùng ngày, bộ Quốc Phòng Trung Quốc ra thông cáo ngắn gọn cho biết lý do là vì điều kiện "sắp xếp công việc".
Thông báo này được đưa ra sau khi tướng Trung Quốc Phạm Trường Long (Fan Chanlong), phó chủ tịch quân ủy trung ương, đã rút ngắn chuyến công du Việt Nam.
Giới quan sát đưa ra nhiều giả thuyết như Trung Quốc tức giận về việc Việt Nam thúc đẩy hợp tác chiến lược với Hoa Kỳ và Nhật Bản. Và dường như Bắc Kinh không thuyết phục được Hà Nội từ bỏ dự án khai thác dầu khí trên Biển Đông.
Trên nguyên tắc, cuộc họp giữa các giới chức quân sự này được tổ chức trong khuôn khổ Chương Trình Trao Đổi Hữu Nghị Biên Giới Quốc Phòng Việt – Trung, được bắt đầu từ năm 2014, nhằm thúc đẩy hợp tác quốc phòng song phương.
Trước đó, truyền thông Nhà nước Trung Quốc và Việt Nam đã loan báo rộng rãi cuộc họp lần này, dự kiến được tổ chức tại một điểm nằm dọc theo vùng biên giới, nơi từng xảy ra cuộc chiến biên giới đẫm máu 1979.
Minh Anh
******************
Trung Quốc nói gì về ‘hủy giao lưu quốc phòng Trung-Việt’ ? (BBC, 22/06/2017)
Báo Trung Quốc, Hoàn cầu Thời báo, hôm 21/6 đã xác nhận giao lưu hữu nghị Quốc phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc bị hủy bỏ.
Thượng tướng Phạm Trường Long (trái) là Phó Chủ tịch Quân ủy trung ương của Giải Phóng Quân
Tờ báo cũng xác nhận Thượng tướng Phạm Trường Long, Phó Chủ tịch Quân ủy trung ương Trung Quốc, cắt ngắn chuyến thăm Việt Nam tuần này.
Tuy vậy, tờ báo không nói có hay không mâu thuẫn giữa hai nước, mà chỉ nói nguyên do vì "sự sắp xếp công việc".
Rút ngắn hay bị mời về ?
"Phía Trung Quốc quyết định hủy cuộc gặp quốc phòng ở biên giới vì nguyên do liên quan sự sắp xếp công việc", tờ báo dẫn lời một viên chức thông tin của bộ quốc phòng Trung Quốc.
Hoàn cầu Thời báo nói phái đoàn Thượng tướng Phạm Trường Long, rời Bắc Kinh hôm 12/6, thăm Tây Ban Nha, Phần Lan rồi đến Việt Nam.
Tờ báo hoàn toàn không nhắc có mâu thuẫn gì dẫn đến việc cắt ngắn chuyến thăm Việt Nam.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp Thượng tướng Phạm Trường Long tại Hà Nội hôm 18/06
Trả lời thảo luận trên Facebook Live của BBC Tiếng Việt hôm 22/06, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu người Việt ở Singapore nói theo ông biết thì "phía Việt Nam đã mời Thượng tướng Trung Quốc về" vì các phát biểu của ông ta.
Tân Hoa Xã tường thuật rằng ông Phạm trong chuyến thăm đã nhấn mạnh rằng "toàn bộ các đảo ở Biển Nam Hải [là tên gọi Trung Quốc dùng để chỉ Biển Đông] đã thuộc lãnh thổ Trung Quốc kể từ thời thượng cổ".
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp cũng nói tuyên bố của Tướng Phạm "như một lời đe dọa quân sự" đối với Việt Nam.
Trong khi đó, ngày 22/6, tờ báo lớn đặt tại Hong Kong, South China Morning Post, cũng dẫn lời các chuyên gia Trung Quốc về sự việc.
Theo giới quan sát Trung Quốc, việc hủy giao lưu dường như thể hiện bất mãn của Bắc Kinh về việc Việt Nam định khai thác dầu khí ở Biển Đông, và nỗ lực gần hơn với Nhật.
Hồi tháng Giêng, Tập đoàn dầu khí Hoa Kỳ ExxonMobil ký thỏa thuận khung phát triển và bán khí đốt từ mỏ Cá Voi Xanh ở Biển Đông với hai đối tác Việt Nam.
Hôm 13/6, tàu Echigo của Lực lượng bảo vệ bờ biển Nhật Bản thăm Đà Nẵng và có các hoạt động huấn luyện chung trên biển với Bộ tư lệnh Cảnh sát biển Vùng 2 tại Đà Nẵng.
Nhân dân không thích nhau
Ngô Sĩ Tồn, chủ tịch Viện Nghiên cứu Nam Hải đặt tại Trung Quốc, nói với South China Morning Post :
"Một nguyên nhân trực tiếp dẫn tới việc cắt ngắn chuyến thăm của ông Phạm có thể là vì Bắc Kinh xem Việt Nam nuốt lời hứa không khai thác dầu khí ở khu vực tranh chấp ở Nam Hải".
Ông này nói : "Việt Nam gần đây cũng quan hệ nhiều hơn với Mỹ và Nhật".
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc gần đây đã thăm liên tiếp Hoa Kỳ và Nhật Bản.
Trong khi đó, Giáo sư Ngô Vĩnh Long nói với Diễn đàn Bàn tròn của BBC hôm 22/06 :
"Điểm khai thác ExxonMobil ký với Việt Nam nằm trong thềm lục địa của Việt Nam nên không phải là vùng tranh chấp".
Ông Trương Minh Lượng, chuyên gia từ Đại học Tế Nam, nói quan hệ hai nước có thể sẽ xấu đi.
Phái đoàn quân sự Trung Quốc gồm các tư lệnh, phó tư lệnh của Tham mưu, Hải lục không quân đến Hà Nội hội đàm với Bộ Quốc phòng Việt Nam hôm 18/06. Người mặc đồ dân sự là đại sứ Hồng Tiểu Dũng.
"Trung Quốc và Việt Nam đang ở trong thế nghịch lý".
"Về chính thức, hai chính phủ nỗ lực xây dựng quan hệ tốt hơn nhưng ở phía không chính thức, nhân dân hai nước đang có thái độ ngày càng tiêu cực về nhau".
**********************
Diễn biến mới vụ tướng Trung Quốc ‘đột ngột bỏ về’ (VOA, 22/06/2017)
Việc ông Phạm Trường Long, quan chức quân sự đầy quyền lực của quốc gia láng giềng phương Bắc, mới đột ngột cắt ngắn chuyến thăm "quốc gia cộng sản anh em" tiếp tục gây ra nhiều đồn đoán.
Phó Chủ tịch Quân ủy trung ương Trung Quốc Phạm Trường Long
Ông Nguyễn Vinh Quang, cựu Phó đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, nói với VOA Việt Ngữ rằng đây là một chuyện "chưa từng có" : "Chưa có trường hợp tiền lệ. Tôi cũng cảm thấy đột ngột về chuyện này".
Bộ Quốc phòng Trung Quốc đã ra thông cáo ngắn gọn, trong đó nói rằng vị tướng của họ phải hủy sự kiện giao lưu trên biên giới với phía Việt Nam vì lý do "sắp xếp lịch làm việc".
Tuy nhiên, ông Trần Công Trục, Cựu Trưởng ban Biên giới Chính phủ, cho rằng gốc rễ của vấn đề có thể xuất phát từ chuyện tranh chấp lãnh hải.
Ông nhận định tiếp : "Với một chuyến đi như vậy, phải tổ chức, sắp xếp từ trước, có thể hàng năm trời rồi, nhưng mà bây giờ thay đổi thì chắc nó có vấn đề nào đó trong quá trình trao đổi giữa hai bên. Cũng có thể liên quan đến ý kiến khác nhau của hai bên về Biển Đông, một trong những vấn đề căng thẳng và phức tạp".
Phát ngôn viên Cảnh Sảng hôm 22/6 trả lời câu hỏi về vụ ông Phạm Trường Long.
Khi được hỏi liệu có thể xác nhận rằng việc Phó Chủ tịch Quân ủy trung ương Trung Quốc Phạm Trường Long cắt ngắn chuyến đi vì bất đồng về Biển Đông, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm 22/6 không trả lời thẳng vào câu hỏi.
Ông Cảnh Sảng nói : "Với nỗ lực chung của Trung Quốc và các nước trong khu vực, tình hình Biển Đông đang nguội đi và tiến triển theo chiều hướng tích cực. Đó là một thành tựu đạt được sau nhiều nỗ lực và nên được tất cả các bên trân trọng".
"Các nước liên quan cần phải kiềm chế không có các hành động đơn phương có thể làm phức tạp tình hình tại vùng biển tranh chấp. Chúng tôi kêu gọi các bên liên quan cùng làm việc với Trung Quốc để cùng duy trì quan hệ song phương và bảo vệ hòa bình và ổn định của khu vực", người phát ngôn Trung Quốc nói.
Trong khi đó, tờ Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng ở Hong Kong hôm 22/6 dẫn lời ông Ngô Sĩ Tồn, chủ tịch Viện Nghiên cứu Nam Hải của Trung Quốc nói rằng "một lý do trực tiếp dẫn tới việc cắt ngắn chuyến thăm của ông Phạm có thể vì Bắc Kinh cho rằng Việt Nam đã phá vỡ cam kết không khai thác dầu tại các vùng tranh chấp ở Nam Hải (Biển Đông). Việt Nam gần đây cũng đã liên hệ nhiều hơn với Mỹ và Nhật". Đầu năm nay, tập đoàn dầu khí ExxonMobil của Mỹ đã ký thỏa thuận khung phát triển và bán khí đốt từ mỏ Cá Voi Xanh ở Biển Đông với Việt Nam.
Tin nói ông Phạm Trường Long nói với Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch (ảnh) rằng Biển Đông là "lãnh thổ Trung Quốc từ thời xa xưa".
Tới ngày 22/6, Bộ Ngoại giao Việt Nam vẫn chưa hồi đáp email của VOA Việt Ngữ về thông tin mà vị tướng chỉ đứng sau Chủ tịch Tập Cận Bình trong Quân ủy trung ương Trung Quốc tuyên bố trước Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Ngô Xuân Lịch rằng Biển Đông là "lãnh thổ Trung Quốc từ thời xa xưa".
Tiến sĩ Trục cho rằng tuyên bố như vậy từng được Trung Quốc nêu ra, nhưng đáng chú ý là nó phát ra từ ông Phạm Trường Long, trong cuộc gặp với quan chức cấp cao của nước chủ nhà.
Cựu quan chức từng xử lý vấn đề biên giới của Việt Nam nói thêm : "Trong cuộc gặp với các lãnh đạo Việt Nam, ông ta là người đại diện cho Trung Quốc nêu ra chuyện này, thì rõ ràng, một lần nữa thể hiện lập trường hết sức cứng rắn của Trung Quốc".
Ông nói tiếp : "Trong quá trình hai bên đàm phán với nhau, việc mỗi bên thể hiện lập trường của mình là chuyện bình thường để rồi từ đó hai bên bàn bạc với nhau để có được thỏa thuận cần thiết. Những người có thiện chí, có ý muốn rõ ràng cùng nhau ngồi đàm phán giải quyết tranh chấp thì không vì quan điểm khác nhau đó mà tự ái, hay có thái độ bất bình thường".
Tới tối ngày 22/6, báo chí do nhà nước kiểm soát của Việt Nam không đưa bất kỳ thông tin nào về việc ông Phạm cắt ngắn chuyến công du, cũng như không có lời giải thích từ phía Hà Nội.
Trong cuộc gặp với ông Ashton Carter năm 2015 ở Lầu Năm Góc, ông Phạm cũng tuyên bố rằng Nam Hải (Biển Đông) thuộc về Trung Quốc từ thời xa xưa.
Một số nhà phân tích cho rằng việc Việt Nam xích lại gần với Hoa Kỳ và Nhật, nhất là chuyến thăm mới đây của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, với các tuyên bố về Biển Đông sau đó, đã làm mếch lòng Trung Quốc.
Bản thân tướng Phạm Trường Long, trong cuộc gặp với người đứng đầu Bộ Quốc phòng Mỹ năm 2015, đã thúc giục quân đội Hoa Kỳ "giảm bớt các hoạt động hải quân và không quân ở Biển Đông cũng như duy trì quan điểm không đứng về phía nào trong cuộc tranh chấp tại đó nhằm duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực".
Trong cuộc gặp với ông Ashton Carter khi đó, ông Phạm cũng tuyên bố rằng Nam Hải (Biển Đông) thuộc về Trung Quốc từ thời xa xưa, cũng như tuyên bố rằng Bắc Kinh có quyền xây dựng và thiết lập các cơ sở quân sự trên đó, theo Bộ Quốc phòng Trung Quốc.
Bộ này năm ngoái cũng đưa tin rằng Phó Chủ tịch Quân ủy Phạm Trường Long đã tới quần đảo Nam Sa, tức Trường Sa, và đã gặp các sĩ quan cũng như binh sĩ đồn trú trên đó. Tin cho hay, quan chức quân sự này cũng đã được cập nhật về tiến độ xây dựng đảo.
Viễn Đông
************************
Năm điều cần biết về Thượng tướng 70 tuổi họ Phạm của Trung Quốc (BBC, 22/06/2017)
Chuyến thăm bị rút ngắn của tướng ba sao Phạm Trường Long (Fan Changlong 范长龙) sang Hà Nội hôm 18/06/2016 tiếp tục là đề tài bình luận của báo chí khu vực.
Thượng tướng Phạm Trường Long lên làm Phó Chủ tịch Quân ủy trung ương năm 2012, khi đã 65 tuổi
BBC Tiếng Việt giới thiệu năm điều nổi bật về Thượng tướng 70 tuổi, Phó Chủ tịch Quân ủy trung ương, cơ quan kiểm soát các lực lượng vũ trang của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
1. Tuổi đã cao vẫn thăng chức
Năm 2012, trước kỳ Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 12, ông Phạm Trường Long khi đó đã vào tuổi 65 mới là Tư lệnh Quân khu Tế Nam.
Tuy thế, cơ hội lên nhanh chóng của ông đã được một số nhà bình luận Trung Quốc nêu ra vào tháng 10 năm đó.
Dù chưa từng là ủy viên Quân ủy trung ương, ông đã vào thẳng Bộ Chính trị và được phong vượt hai cấp, trở thành một trong ba Phó Chủ tịch Quân ủy trung ương.
Xuất thân từ bộ binh nhưng sau tốt nghiệp Học viện Quân sự Pháo binh, ông cũng từng giữ các chức vụ trong quân khu ở Thẩm Dương trước khi về Tế Nam.
Năm 2008, sau khi xảy ra trận động đất Tứ Xuyên, ông là một trong những tướng lĩnh đầu tiên xuất hiện tại hiện trường và đã trực tiếp điều động hàng nghìn quân từ Tế Nam đến cứu trợ nạn nhân thiên tai.
Điều này đã có tác động tích cực rất lớn đến hình ảnh của quân đội Trung Quốc trong con mắt dư luận.
Các mạng xã hội Trung Quốc phê phán quan chức Tứ Xuyên, nhất là cán bộ ngành xây dựng sau vụ một trường học xây ẩu bị sụp vì động đất, vùi chết nhiều học sinh, nhưng ca ngợi quân đội đã cứu dân.
2. Ngoại giao quân sự
Quốc tế biết đến ông Phạm Trường Long như nhân vật hàng đầu về ngoại giao quân sự của Trung Quốc.
Tướng Phạm Trường Long đón Cố vấn an ninh quốc gia ở Hoa Kỳ, bà Susan Rice tại Bắc Kinh tháng 9/2014
Vì Trung Quốc không còn phong đại tướng, ông Phạm là người có quân hàm và chức vụ Đảng cao nhất để tiếp các khách quốc tế.
Về độ gần cận với Chủ tịch Tập Cận Bình, Tướng Phạm có vị trí tương ứng với Cố vấn an ninh quốc gia ở Hoa Kỳ, và đã đón bà Susan Rice, người giữ chức vụ đó của Mỹ sang thăm Bắc Kinh tháng 9/2014.
Trong các cuộc gặp bộ trưởng quốc phòng nước khác, báo chí Trung Quốc gọi ông Phạm là "người tương nhiệm" (counterpart), coi như có quyền như bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc.
Nhưng với quy định của Trung Quốc, ông Phạm Trường Long còn có chức vụ cao hơn Bộ trưởng Quốc phòng Thường Vạn Toàn, người không phải là Ủy viên Bộ Chính trị.
Ông Phạm cũng đã thăm Thuỵ Sĩ, Pakistan và các nước Đông Nam Á để hội đàm về an ninh và quân sự.
Chuyến công tác của ông đến Hà Nội "bị rút ngắn" hoặc có ý kiến nói là "bị mời về" vẫn được dư luận quan tâm.
3. Sẵn sàng tỏ thái độ
Tướng họ Phạm nổi tiếng là người sẵn sàng nói thẳng với khách, kể cả khách Hoa Kỳ về các vấn đề Trung Quốc cho là quan trọng.
Hồi tháng 4/2014, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Chuck Hagel đã "nhận gáo nước lạnh" từ chính Tướng Phạm Trường Long khi sang thăm Bắc Kinh.
Trước khi đến, ông Hagel đã nói "không nước nào có thể tự ý đi khắp thế giới rồi sửa lại biên giới, vi phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các nước khác bằng vũ lực, áp chế và đe dọa, dù cho đó là chuyện mấy hòn đảo nhỏ ở Thái Bình Dương hay chuyện các quốc gia lớn tại châu Âu".
Trong lúc gặp ông Hagel, Tướng Phạm nói "nhân dân Trung Quốc gồm cả tôi, rất bất bình với những lời lẽ như vậy của ngài".
Tuy thế, chuyến thăm của ông Hagel cũng đạt được đồng thuận 7 điểm với Tướng Phạm, chủ yếu để hai bên Mỹ-Trung thông báo cho nhau về các hoạt động quân sự quan trọng.
Vị tướng họ Phạm đã nói thẳng cho Bộ trưởng Chuck Hagel thái độ của 'nhân dân Trung Quốc'
4. Được tin cậy và 'nói theo lãnh tụ'
Là người báo cáo trực tiếp lên Chủ tịch Đảng kiêm Chủ tịch nước Tập Cận Bình, ông Phạm có quyền lực lớn.
Năm 2014, ông được ông Tập Cận Bình giao nhiệm vụ chủ trì một nhóm nghiên cứu chiến lược để cải tổ các lực lượng vũ trang Trung Quốc, chuyển trọng tâm từ bộ binh sang tên lửa, hỏa tiễn, hải quân và không quân tầm xa.
Các phát biểu của ông Phạm cũng phản ánh sự thay đổi thái độ của Trung Quốc không còn còn muốn ẩn mình, tránh phô trương sức mạnh theo nguyên tắc 'thao quang dưỡng hối' của Đặng Tiểu Bình.
Từ thời của ông Tập Cận Bình, Trung Quốc bộc lộ quyết tâm đại cường và ông Phạm thể hiện điều đó qua nhiều phát biểu và gần nhất là tại Hà Nội.
Bình luận hồi 2014 về sự kiện ông Phạm "nói cứng" với Bộ trưởng Mỹ Chuck Hagel, Dingding Chen viết trên trang The Diplomat rằng thái độ cá nhân của Chủ tịch Tập đã ảnh hưởng đến phát ngôn của tướng lĩnh Trung Quốc.
"Với ông Tập nay là lãnh đạo có quyền lực cao nhất, phong cách của ông ta có thể đã ảnh hưởng đến Quân Giải phóng và các tướng Trung Quốc".
5. Từ miền Bắc giá lạnh ra hải đảo
Sinh năm 1947 ở Liêu Ninh, ông Phạm nhập ngũ và vào Đảng Cộng sản năm 1969 để phục vụ tại Quân khu Thẩm Dương ở vùng Bắc Trung Quốc.
Lên làm sỹ quan, ông từng viết bài về cuộc chiến Trung - Xô và tranh chấp sông Ussuri River.
Bài học ông Phạm rút ra là "quân nhân phải hy sinh cho tổ quốc vì thân thể họ, một khi đã vào quân đội, không còn của riêng họ nữa".
Vai trò của ông Phạm cũng tăng dần với xu hướng vươn ra các đảo và biển nước xanh của Trung Quốc.
Trung Quốc khai trương hàng không mẫu hạm hoàn toàn tự chế ở Đại Liên tháng 4/2017
Trong chuyến thăm Trung Quốc, ông Chuck Hagel được Tướng Phạm dẫn ra xem chiếc hàng không mẫu hạm đang đóng của Trung Quốc, tàu Liêu Ninh.
Sang tháng 4/2017, ông lại đại diện cho Đảng cộng sản và Quân Giải phóng đến cảng Đại Liên khai trương chiếc hàng không mẫu hạm thứ nhì (chưa đặt tên) hoàn toàn do Trung Quốc chế tạo.
Hồi tháng 4/2016, báo chí Trung Quốc thông báo ông ra "các đảo ở Nam Hải" để thăm quân sĩ nhưng không nói rõ đảo nào.
Hãng tin Reuters trong bài từ Bắc Kinh hôm 15/04 tin rằng phái đoàn do Tướng Phạm Trường Long dẫn đầu không chỉ ra các đảo và còn "thanh tra cả công tác xây dựng tôn tạo" tại các bãi đá (reefs) ở Biển Đông.
Điều này gợi ý có thể ông Phạm đã đưa đoàn tướng tá Trung Quốc ra chính Bãi Đá Chữ Thập mà Trung Quốc gọi là đảo Vĩnh Thử, được kiến tạo mới để làm sân bay quân sự, trong vùng quần đảo Trường Sa.
Học giả Lê Hồng Hiệp mới trả lời phỏng vấn trên BBC. Theo tôi, cái gì cũng đổ thừa cho ASEAN và Trung Quốc là không đúng.
Việt Nam, qua các bản tuyên bố chung ký kết với Trung Quốc từ 1991 đến nay, cho thấy họ đã đặt quyền lợi của đảng lên trên quyền lợi của đất nước. Ảnh minh họa
Lãnh đạo Trung Quốc, cũng như những lãnh đạo các nước trong ASEAN, đều có những vận động riêng của họ, phục vụ cho lợi ích của đất nước họ. Điều này không ai có thể phản đối.
Vấn đề là, trong hồ sơ Biển Đông, lãnh đạo Việt Nam luôn "xé lẻ", "đi đêm" với Trung Quốc, không thèm đếm xỉa gì tới khối ASEAN.
Bằng chứng là bản Tuyên bố về cách ứng xử ở biển Đông (DOC), ký kết giữa Trung Quốc và các nước ASEAN năm 2002 thường xuyên bị Việt Nam "bỏ xó".
Lãnh đạo Việt Nam, qua các bản tuyên bố chung ký kết với Trung Quốc từ 1991 đến nay, cho thấy họ đã đặt quyền lợi của đảng lên trên quyền lợi của đất nước. Và cũng từ những bản tuyên bố này ta thấy phía Việt Nam, một bên của khối ASEAN, chủ động đàm phán riêng với Trung Quốc về Biển Đông, ký kết những thỏa thuận đi ngược lại tinh thần DOC.
Dĩ nhiên các việc này tiềm tàng những nguy cơ, không chỉ cho Việt Nam (về toàn vẹn lãnh thổ) mà còn làm cho khối ASEAN bị phân rẽ sâu sắc.
Bây giờ Việt Nam bị "lép về" trước Trung Quốc, "học giả" trách khối ASEAN không có tiếng nói chung về Biển Đông.
Theo tôi, tiên trách kỷ hậu trách nhân. Sự việc (nếu tồi tệ xảy ra) hoàn toàn là do đảng CSVN gây ra. Qui trách nhiệm cho khối ASEAN là việc làm thiếu tự trọng của một người làm công tác khoa học.
Bằng chứng Việt Nam "xé lẻ", bỏ qua ASEAN để đi đêm với Trung Quốc :
Xét Tuyên bố Việt Nam-Trung Quốc 2008, giữa Nông Đức Mạnh và Hồ Cẩm Đào :
"Hai bên tiếp tục thúc đẩy một cách vững chắc đàm phán về phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và tích cực trao đổi ý kiến về vấn đề hợp tác cùng phát triển, sớm khởi động cùng khảo sát ở khu vực này. Hai bên đồng ý nghiêm chỉnh tuân thủ nhận thức chung liên quan của lãnh đạo cấp cao hai nước, cùng nhau giữ gìn ổn định tình hình Biển Ðông ; tiếp tục duy trì cơ chế đàm phán về vấn đề trên biển, kiên trì thông qua đàm phán hòa bình tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều chấp nhận được ; đồng thời tích cực nghiên cứu và bàn bạc vấn đề hợp tác cùng phát triển để tìm ra mô hình và khu vực phù hợp".
Xét thêm Tuyên bố chung 2011, giữa Nguyễn Phú Trọng và Hồ cẩm Đào :
"Hai bên đánh giá tích cực việc hai nước ký kết "Thỏa thuận các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết các vấn đề trên biển" ; cho rằng việc ký kết Thỏa thuận này có ý nghĩa chỉ đạo quan trọng đối với việc xử lý và giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển, sẽ cùng nỗ lực thực hiện nghiêm chỉnh Thỏa thuận này."
Câu hỏi đặt ra (cho ông Nông Đức Mạnh và bộ sậu Bộ chính trị cùng thời), từ đâu có cái gọi là "nhận thức chung của lãnh đạo về Biển Đông" ? Những "nhận thức" này là gì ?
Và cho Nguyẽn Phú Trọng và bộ sậu Bộ chính trị, vì sao Việt Nam ký kết riêng với Trung Quốc về cái gọi là "Thỏa thuận các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết các vấn đề trên biển" ?
"Các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết các vấn đề trên biển" gồm có những thứ gì ?
Đã có DOC rồi, làm gì thì cũng dựa theo tinh thần đó mà làm. Điều này cho thấy Việt Nam đã không coi ASEAN và DOC ra cái gì.
Còn về phán quyết của tòa CPA về vụ kiện Phi-Trung Quốc. Nhà "học giả" cũng không thể qui trách nhiệm cho Phi, hay cho nước nào đó trong ASEAN.
Từ lâu, ngay cả trên BBC, tôi có viết rằng phán quyết của Tòa án trọng tài thường trực (PCA), về "pháp thể" của các đá ở Trường Sa cũng như hiệu lực biển các đá này, là "LUẬT".
Lý ra Việt Nam phải vận động hết mình để phán quyết (luật) này được áp dụng cho Biển Đông. Không, Việt Nam lại "đi đêm", hết với Trung Quốc đến Mỹ ; hết Phi lại đến Nhật.
Chuyện của mình mà mình không lo. Lại "đổ thừa" cho nước này nước nọ làm cản trở. Theo tôi, việc này nặng về tính cách tuyên truyền hơn là một "học thuật".
Trương Nhân Tuấn
Nguồn : fb.nhantuan.truong, 22/06/2017
Trung Quốc đang lặp lại vụ Crestone từ năm 1992
Vụ này đại khái Trung Quốc ký giấy phép cho công ty Crestone của Mỹ được phép khai thác dầu khi tại vùng mà Trung Quốc gọi là "Vạn An Bắc 21", có diện tích 10.000 hải lý vuông. Bãi này có tên Việt Nam là Tư Chính, chỉ cách bờ biển Việt Nam 160 hải lý trong khi cách bờ đảo Hải Nam đến 600 hải lý.
Trung Quốc ký giấy phép cho công ty Crestone của Mỹ được phép khai thác dầu khi tại vùng mà Trung Quốc gọi là "Vạn An Bắc 21"
Một bản đồ "tin hành lang" được đưa lên net, cho thấy tàu hải giám của Trung Quốc đang có mặt đông đảo trong một khu vực rộng lớn. Tiếp theo tin tức do học giả Carle Thayer tiết lộ trên báo chí, Trung Quốc điều khoảng 40 chiếc tàu vào khu vực, ta có thể kết luận rằng "nguồn tin hành lang" là có cơ sở.
Giả sử rằng vị trí tàu hải giám của Trung Quốc ghi trên bản đồ là chính xác, thì ta thấy tàu hải giám của Trung Quốc đã không chỉ có mặt ở Tư chính (tức Vạn an bắc 21 của Trung Quốc) mà còn (có thể) cũng có mặt ở các mỏ Lan Tây, Lan Đỏ, Mộc Tinh, Hải Thạch, Rồng đôi..., thuộc "bồn trũng Côn sơn", cận bờ Việt Nam hơn, mà Việt Nam đã khai thác các mỏ này từ năm 1994. Các hệ thống ống dẫn từ các mỏ này về các nhà máy (Gò dầu, Mỹ xuân) trong lục địa cũng đã đặt từ lâu.
Với sự việc ngoại bang xâm phạm chủ quyền trầm trọng như vậy mà báo chí trong nước im xo. Ngay cả các "tòa" báo Nhân dân xuất bản ở Luân Đôn, ở Paris, ở Washington... cũng "đói tin". Có báo phải xào nấu tin tức của Tân hoa xã. Có báo thì "nghe nồi chõ" hoặc "tin hành lang".
Cái loa tuyên truyền của Việt Nam, hàng ngày vốn phát ra rất mạnh mẽ, thì nay đã bị ông tướng Phạm Trường Long của Trung Quốc "giao thiệp nghiêm khắc" làm cho im miệng. Ngay cả Trọng lú, Quang độc, Phúc niểng... sau khi diện kiến với "thái thú" của thiên triều, cũng đều ngậm thẻ qua đèo. Đéo ai dám hó hé điều gì.
Chuyện Trung Quốc dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa tháng giêng 1974, sau đó các bãi đá ở Trường Sa tháng ba 1988, nhờ ơn "đảng và nhà nước" nên đã được xem như "chuyện đã rồi". Cho tới năm 2013, khi Trung Quốc xây dựng đảo nhân tạo "hoành tráng" trên các bãi đá chiếm được của Việt Nam bằng vũ lực năm 1988, sau đó biến chúng thành những căn cứ quân sự quan trọng đe dọa an ninh quốc phòng của Việt Nam, thì (cũng nhờ ơn đảng và nhà nước), chúng đã trở thành "chuyện đã rồi". Riêng vùng biển Trường sa (rộng lớn), bao gồm các bãi Tư chính, Vũng mây, Thanh long, Bạch hổ, Mộc tinh, Lan tây, Lan đỏ, Sư tử vàng, sư tử trắng... thì (cũng nhờ ơn đảng và nhà nước), được Tổng bí thư Lê Khả Phiêu nhìn nhận là "có tranh chấp" với Trung Quốc. Vụ này phía Trung Quốc đề nghị từ năm 1994.
Đéo mẹ (ai chửi tui nghe), chuyện của đất nước mà tụi chó đẻ xem như là chuyện "anh em trong nhà" (lời của Phùng đại tướng, sic !). Tụi nó đóng cửa giải quyết với nhau. Dân chúng, đứa nào léng phéng biểu tình, phản đối nọ kia thì bỏ tù rục xương. Còn thằng nào ở nước ngoài hó hé, cấm tiệt không cho chúng về nước.
Bây giờ chuyện đã sắp "công khai". Con giun xéo mãi cũng oằn. Huống chi mấy cái mỏ dầu khí là "tài nguyên" của đảng.
Nhưng vấn đề là đảng không biết lấy đâu ra người để biểu tình, bày tỏ uy thế ủng hộ "đảng và nhà nước" như thời điểm giàn khoan 981.
Người bỏ tù hết, còn đâu ?
Mà ngay cả khi "có chiến tranh", chắc cũng không có người nào sẵn sàng hy sinh xương máu để bảo vệ quyền lợi của đảng.
Ai chửi tui nghe, không chừng để cho bọn Trung Quốc "quậy tưng" mấy cái mỏ Mộc tinh, Lan Tây, Thanh long, Bạch hổ, Đại hùng... không chừng lại "tốt" cho dân tộc Việt Nam.
Bọn Trung Quốc có thể "quậy nát bét", nhưng không thể khai thác được những mỏ dầu khí này. Còn đảng cộng sản Việt Nam mà không có mấy cái mỏ này thì sụp.
Không có tiền trả lương bọn chó săn thì phải sụp thôi.
Trương Nhân Tuấn
Nguồn : fb.nhantuan.truong, 22/06/2017
Nghe nói Trung Quốc đang chuyển giàn khoan tới lô 136 trên thềm lục địa của Việt Nam để khai thác dầu. Không biết giàn khoan này là giàn khoan nào ? Giàn khoan (nổi tiếng) 981 thì hiện đang cắm ở cửa vịnh Bắc Việt.
Lô 136 thuộc các bãi Tư Chính và Vũng Mây (cũng như các lô 133,134 và 135). Theo các bản đồ đã công bố (của PetroVN), yêu sách thềm lục địa của Indonesia có chồng lấn ở chỏm tây nam, thuộc lô 136. Dĩ nhiên các bãi này nằm lọt thỏm trong đường chín đoạn của Trung Quốc.
Nếu tin này đúng thì Trung Quốc đang lặp lại chiêu trò từ nhiều năm trước, như vụ cắt cáp tàu Bình Minh hay vụ cho hãng Cresstone của Mỹ khai thác ở bãi Vạn an bắc.
Việc này (và vụ giàn khoan 981 đang cắm ở cửa vịnh Bắc Việt) xảy ra vừa khi (hay đang lúc ?) ông tướng Phạm Trường Long, phó Chủ tịch Quân ủy trung ương của Trung Quốc họp với tứ trụ Việt Nam ở Hà nội. Cũng nghe nói ông Long rời Hà nội trong giận dỗi.
Nghe lời bình loạn của các "học giả" Việt Nam thì vụ này (Trung Quốc làm dữ) đến từ chuyến đi Mỹ, sau đó đi Nhật của ông Phúc. Việt Nam được Nhật hứa hẹn trợ giúp tăng cường khả năng phòng thủ biển.
Tôi thì nghĩ khác.
Ông Long tới gặp tam trụ Trọng lú, Quang độc và Phúc niểng, có dặn dò mấy ông này rằng các đảo ở Nam Hải (Nam hải chư đảo), tức các đảo ở biển Đông, thuộc về Trung Quốc từ thời thuợng cổ. Dĩ nhiên ông Long đưa bằng chứng cho tứ trụ Việt Nam coi.
Vụ này hơi bị kẹt. Bằng chứng của ông Long đã được "bác" Hồ phê chuẩn (qua công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng). Viên chức Việt Nam trước kia cũng chia sẻ quan điểm lịch sử của Trung Quốc : Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung Quốc từ thời nhà Tống.
Gần đây, lãnh tụ của "ta", ông Lê Khả Phiêu cũng cam kết rằng vùng biển Trường Sa của Việt Nam có "tranh chấp" với Trung Quốc.
Thì việc làm của các giàn khoan của Trung Quốc, hoạt động ở thềm lục địa Việt Nam trong vùng Vịnh Bắc Việt, hay ở lô 136, chỉ thể hiện quan điểm của lãnh đạo "ta".
Thật là lưỡng nan. Nếu không dựa vào bọn "ngụy" Việt Nam Cộng Hòa thì lấy gì làm bằng chứng chủ quyền của Việt Nam bây giờ ?
Mà dựa vào thì cũng kẹt.
Những người chuyên nghiên cứu về chủ quyền lãnh thổ đất nước, như cá nhân tôi, thì bị "cấm visa", chỉ vì nguồn gốc xuất thân từ Việt Nam Cộng Hòa. Nhà nưóc Việt Nam còn "truất quốc tịch" của những người Việt Nam, chỉ vì họ có ý kiến khác.
Bây giờ nhà nước Việt Nam lấy tư cách gì để bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ quyền lợi của Việt Nam tại Biển Đông ?
Lý lẽ không có. Ngoại trừ những lý lẽ mà phía Trung Quốc đã lấy làm bằng chứng chống lại Việt Nam. Lãnh đạo cộng sản Việt Nam chỉ còn cách đem máu xương Việt Nam để "bảo vệ đất nước". Mà thực ra là lấy xương máu của dân lành để che đậy cái lật lọng của mình.
Bổn cũ (sắp) lặp lại. Cụ Trần Trọng Kim có phê phán ông Hồ như vầy : "Để sửa chữa cái sai lầm của mình, ông Hồ đã đưa cả nước vào biển máu". Sai lầm ở đây là vụ ông Hồ ký hiệp định sơ bộ với Pháp.
Trương Nhân Tuấn
Nguồn : fb.nhantuan.truong, 21/06/2017
Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc Phạm Trường Long (Fan Changlong) đã sang thăm chính thức Việt Nam từ ngày 18 đến này 19 tháng 6 năm 2017. Ông cũng có kế hoạch cùng với Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Ngô Xuân Lịch chủ trì các hoạt động giao lưu biên giới giữa quân đội hai nước được tổ chức ở hai tỉnh Lai Châu và Vân Nam từ ngày 20 đến 22 tháng 6. Tuy nhiên, Tướng Phạm đã cắt ngắn chuyến thăm và bất ngờ rời Việt Nam vào chiều tối ngày 18/6 mà không công bố nguyên nhân. Quyết định bất ngờ của ông có thể là chỉ dấu cho thấy sóng gió dường như đang tích tụ trong quan hệ Việt – Trung.
Hình : Chủ tịch nước Trần Đại Quang tiếp Tướng Phạm Trường Long. Nguồn : Dân Trí.
Kể từ sau khủng hoảng giàn khoan năm 2014, quan hệ Việt – Trung đã có những bước cải thiện đáng kể. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình thăm Việt Nam vào tháng 11/2015, và ba nhà lãnh đạo cao nhất của Việt Nam cũng đã thăm Trung Quốc trong chín tháng qua. Hai nước cũng tăng cường quan hệ kinh tế, với việc Việt Nam tích cực ủng hộ Ngân hàng Đầu tư Hạ tầng châu Á do Trung Quốc dẫn dắt cũng như Sáng kiến Vành đai và Con đường của nước này.
Tuy nhiên, trong khi phục hồi quan hệ với Trung Quốc thì Việt Nam cũng tăng cường quan hệ với các đối thủ chiến lược của nước này, nhất là Hoa Kỳ và Nhật Bản. Ví dụ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc là nhà lãnh đạo khối ASEAN đầu tiên thăm Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Donald Trump vào cuối tháng 5/2017. Không lâu sau đó, ông lại có một chuyến thăm cấp cao tới Nhật Bản, trong đó các thỏa thuận trị giá tới hơn 22 tỉ đô la Mỹ đã được ký kết.
Quan trọng hơn, các sáng kiến hợp tác quốc phòng chi tiết giữa Việt Nam và hai cường quốc cũng đã được nêu bật trong các tuyên bố chung của hai chuyến thăm. Các tuyên bố này cũng nhấn mạnh lập trường chung của Việt Nam với hai cường quốc về vấn đề Biển Đông. Đồng thời, Washington và Tokyo cũng đã cung cấp cho Việt Nam các tàu Cảnh sát Biển và xuồng tuần tra nhằm giúp Việt Nam nâng cao năng lực hàng hải.
Những diễn tiến này chắc chắn đã làm một số người ở Bắc Kinh khó chịu. Ví dụ, vào ngày 18/06/2017, tờ Hoàn Cầu Thời báo đã cho đăng một xã luận chỉ trích các bước đi ngoại giao này của Việt Nam. Bài viết cho rằng "tham vọng của Việt Nam" có thể "khuấy động đối đầu" và làm bất ổn khu vực, và rằng "việc Việt Nam thường xuyên trao đổi với Hoa Kỳ và Nhật Bản về vấn đề Biển Đông không nên được coi là việc làm tử tế".
Mặc dù hai bên chưa đưa ra lời giải thích cho quyết định của tướng Phạm,nhưng những diễn tiến này có thể đã đóng một vai trò nào đó.
Cho dù lý do thực sự cho quyết định của tướng Phạm là gì thì sự cố này cũng không phải là một tín hiệu tích cực cho quan hệ song phương. Vì vậy, một làn sóng căng thẳng mới trong quan hệ song phương là điều có thể xảy ra trong thời gian tới.
Lê Hồng Hiệp
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 21/06/2017
Thượng tướng Phạm Trường Long, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó chủ tịch Quân ủy Trung Ương Trung Quốc vào ngày 18 tháng 6 được đại tướng Ngô Xuân Lịch, bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam đón nhân chuyến thăm chính thức trong hai ngày 18 và 19 tháng 6.
Phó chủ tịch Quân ủy Trung Ương Trung Quốc Phạm Trường Long (phải) và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam Ngô Xuân Lịch. AFP photo
Tin cho biết trong lần gặp này, hai phía ký kết Thỏa thuận hợp tác đào tạo giữa Bộ quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Trung Quốc. Hai phía cũng thống nhất biện pháp hợp tác trong thời gian tới nhằm triển khai Tuyên bố tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng đến năm 2025 mà hai phía mới ký kết vào tháng giêng năm nay.
Sau hai ngày thăm chính thức Việt Nam, ông Phạm Trường Long sẽ cùng người đứng đầu ngành quốc phòng Việt Nam chủ trì các hoạt động giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam- Trung Quốc lần thứ tư tại Lai Châu- Việt Nam và Vân Nam- Trung Quốc từ ngày 20 đến 22 tháng 6.
Hai nước cùng theo hệ tư tưởng cộng sản nhưng đang có tranh chấp chủ quyền lãnh hải tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Quốc hoàn tất việc cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa từ năm 1974 ; hiện nay Trung Quốc tiến hành quân sự hóa những đảo nhân tạo tại Trường Sa ; trong đó có những đảo chiếm của Việt Nam vào năm 1988.
Đánh giá lại cuộc xâm lăng Biên giới Việt Nam 1979-1989 mà Trung Quốc tiến hành, cần đặt nó vào khung pháp lý quốc tế để xác định nguyên nhân, tìm ra bài học.
Ngày này cách đây 38 năm, 17/2/1979, tiếng súng đã vang lên trên bầu trời biên giới, Trung Quốc tung 60 vạn quân xâm lược toàn tuyến biên giới phía Bắc nước ta, gây ra cuộc chiến vô cùng tàn khốc.
38 năm qua đi, hai nước đã bình thường hóa quan hệ 26 năm, nhưng nỗi ám ảnh từ cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược trên toàn tuyến biên giới phía Bắc năm 1979 và những xung đột quân sự suốt 10 năm sau đó vẫn còn dai dẳng.
Không ai hiểu rõ hơn những người dân Việt Nam sống dọc tuyến biên giới với Trung Quốc, không ai hiểu hơn những gia đình liệt sĩ, những thương bệnh binh và cựu chiến binh từng có mặt ở tuyến đầu lửa đạn để giữ vững biên cương, lãnh thổ của Tổ quốc.
Trên tinh thần khách quan, khoa học, cầu thị, bài viết này tiếp cận một sự kiện lịch sử từ góc độ khoa học, tôi hy vọng góp thêm tiếng nói để làm sao nước nhà giữ được độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và tránh được chiến tranh.
Hơn ai hết, chúng ta đã đủ thấm thía nỗi đau của chiến tranh và giá trị của hòa bình. Thiếu đánh giá một cách khoa học, khách quan và cầu thị về cuộc chiến, hậu quả khôn lường
Có lẽ do tính chất thảm khốc và những hệ lụy to lớn của cuộc chiến, nên ngay sau khi hai nước chính thức bình thường hóa quan hệ, Trung Quốc và Việt Nam đã xác định : "khép lại quá khứ, hướng tới tương lai".
Vì vậy những năm đầu sau bình thường hóa, thực hiện chủ trương này, cả hai nước hầu như "khép lại", không nhắc gì đến cuộc chiến này, chỉ tập trung thúc đẩy các hoạt động hợp tác, hữu nghị.
Đây là cách ứng xử của chúng ta không chỉ với Trung Quốc, và với cả Hoa Kỳ. Tuy nhiên hiểu như thế nào về việc "khép lại quá khứ" hay chỉ "gác lại quá khứ" cũng là vấn đề cần được bàn bạc thấu đáo.
Nếu như hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ xâm lược và thống nhất Tổ quốc đã được đúc kết thành nhiều công trình, bài học, được tái hiện khá cụ thể trong sách giáo khoa, thì còn 4 cuộc chiến / trận chiến khác chưa được mổ xẻ để rút ra bài học :
Ngoài cuộc chiến bảo vệ Biên giới phía Bắc 1979-1989 chống Trung Quốc xâm lược, còn cuộc chiến bảo vệ Biên giới Tây Nam chống bọn diệt chủng Khmer Đỏ ;
1 cuộc tấn công do Trung Quốc tính toán tổ chức thực hiện vào tháng Giêng năm 1974 để xâm chiếm nốt nhóm phía Tây quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam và một cuộc thảm sát để chiếm đoạt một phần quần đảo Trường Sa năm 1988.
Nghĩa trang liệt sĩ Trà Lĩnh (Cao Bằng), nơi yên nghỉ của hơn 300 liệt sĩ cuộc chiến Bảo vệ Biên giới phía Bắc năm 1979
Ôn lại các sự kiện lịch sử này với cái nhìn khoa học, khách quan, cầu thị trên tinh thần tôn trọng sự thật để rút ra những bài học cho tương lai, làm sao bảo vệ được độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, làm sao để tránh tối đa nguy cơ nổ ra chiến tranh.
Thiết nghĩ đó chính là việc làm cần thiết và hoàn toàn phù hợp với chủ trương "gác lại quá khứ" thay vì "khép lại quá khứ" đã từng tồn tại trong nhận thức và chi phối hành vi ứng xử của chúng ta trong mấy thập kỷ qua.
Thiết nghĩ đó cũng là những việc hết sức hệ trọng và cấp bách, khoa học và tiến bộ, vì lợi ích của chính dân tộc Việt Nam cũng như dân tộc Trung Quốc để tránh vết xe đổ của chiến tranh.
Chỉ có như vậy mới có thể xây dựng tình hữu nghị, hợp tác lâu dài, hướng tới tương lai.
Lâu nay chính sự khép lại, im lặng đã khiến những vết thương chưa lành trong dân chúng, trong các cựu chiến binh từ cả hai phía, khi không được chăm sóc đúng cách sẽ dễ mưng mủ, tác hại khôn lường.
Đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, khi những tranh chấp phức tạp ở Biển Đông đang leo thang trước các hành động phiêu lưu, quân sự hóa từ phía Trung Quốc, bóng ma của cuộc chiến năm xưa đang dần trở lại trong tâm trí nhiều người.
Chính điều này sẽ là những nhân tố tiềm tàng bất ổn trong lòng xã hội, nó có thể bùng phát thành những diễn biến khó lường như những mặt trái mà chúng ta chứng kiến, trả giá trong cuộc khủng hoảng giàn khoan 981 Trung Quốc hạ đặt bất hợp pháp vào vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam năm 2014.
Lòng yêu nước của người dân nếu không được dẫn dắt bởi chính sự hiểu biết thấu đáo về lịch sử nước nhà, sẽ là nơi nuôi dưỡng mầm mống cực đoan và bất ổn.
Nhiều người lo, nhiều người phàn nàn về việc chúng ta chỉ đưa có "11 dòng" vào sách giáo khoa lịch sử về cuộc chiến bảo vệ Biên giới phía Bắc 1979 - 1989.
Nhưng theo tôi, quan trọng hơn là chúng ta tiếp cận như thế nào, dạy như thế nào về giai đoạn lịch sử này.
Sách giáo khoa không dạy, thì người dân quan tâm vẫn có thể tìm đọc trên Internet từ nhiều nguồn khác nhau. Trước những tài liệu thiếu nguồn kiểm chứng, nhưng lại thừa những miêu tả và từ ngữ thể hiện cảm xúc mạnh, tác hại của nó thật khó lường.
Không phải ai cũng đủ tỉnh táo để tiếp cận một cách đa chiều, nhìn nhận một cách khách quan, đánh giá theo hướng rút ra những bài học để tránh chiến tranh và bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ nếu các nhà chức trách, đội ngũ trí thức không nhận lãnh lấy trọng trách này.
Là một người nghiên cứu luật pháp quốc tế về biên giới lãnh thổ, và từng trực tiếp tham gia đàm phán hoạch định biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc, Campuchia, Lào... chúng tôi cũng có không ít những trải nghiệm, gặp không ít vấn đề do cách nhận thức của chúng ta về những sự kiện này.
Vì vậy, xin nêu lên một số bài học mà chúng tôi cho là có thể có ích cho những công trình nghiên cứu, phân tích, đánh giá, tổng hợp về những sự thật nói trên để vận dụng cho tương lai.
Bài học thứ nhất : tháo ngòi nổ xung đột
Cho đến nay, phía Trung Quốc vẫn tuyên truyền với người dân của họ và dư luận quốc tế rằng quân đội Trung Quốc đã tấn công sang toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam năm 1979 và kéo dài đến năm 1989 chỉ là cuộc "phản kích tự vệ", chứ không phải là một cuộc chiến tranh xâm lược.
Sự thật về hành động và mức độ dã man của cái gọi là "phản kích tự vệ" mà Trung Quốc gây ra với Việt Nam năm 1979 - 1989 không thể biện minh bằng bất cứ lý do nào.
Nghĩa trang Vị Xuyên, mảnh đất bi hùng khiến trong lịch sử dân tộc.
Đó đích thực là một cuộc "xâm lược biên giới", chứ không phải là cuộc chiến tranh biên giới, càng không phải là một cuộc "phản kích tự vệ".
Tuy nhiên, tại sao nó diễn ra và có cơ hội nào để tránh chiến tranh hay không là điều chúng ta cần làm rõ.
Hiện tại do phần lớn tài liệu về cuộc chiến hai bên đều chưa giải mật, nhưng đặt trong bối cảnh địa chính trị khu vực Đông Dương và cục diện quan hệ quốc tế thời bấy giờ, có thể nhận thấy những cơ hội tháo ngòi xung đột đã bị bỏ lỡ.
Thứ nhất là cuộc chiến ý thức hệ giữa phe xã hội chủ nghĩa với phe tư bản chủ nghĩa đã dần biến thành cuộc chiến tranh giành ngôi bá chủ giữa 3 siêu cường Mỹ - Trung - Xô, đã đẩy các nước nhỏ trở thành nạn nhân của các nước lớn.
Việt Nam đã trở thành đối tượng tranh giành ảnh hưởng gay gắt giữa Trung Quốc và Liên Xô trong cuộc đua trở thành "lãnh tụ cách mạng toàn cầu", đứng hẳn về bên nào cũng có thể khiến Việt Nam trở thành kẻ thù của bên còn lại.
Thứ hai, việc Việt Nam tấn công đánh trả các hành động chiến tranh đánh phá biên giới Tây Nam của bè lũ diệt chủng Khmer Đỏ và sau đó giúp nhân dân Campuchia loại bỏ bè lũ diệt chủng man rợ ấy là việc làm cần thiết, chính đáng, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân Campuchia.
Nhưng trong bối cảnh đất nước Chùa Tháp vừa mới thoát khỏi cơn ác mộng diệt chủng, tàn dư Khmer Đỏ với sự hà hơi tiếp sức của Trung Quốc vẫn tiếp tục quấy phá, tìm cách lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ… lực lượng quân tình nguyện Việt Nam buộc phải duy trì sự hiện diện của mình thêm một thời gian cần thiết.
Chính hoàn cảnh này đã một mặt gây bất lợi vì tạo ra những hiểu lầm trong dư luận quốc tế và một bộ phận người Khmer, một mặt tạo cớ để Trung Quốc gây hấn.
Thứ ba, cho dù Trung Quốc thường nói rằng họ theo chủ nghĩa Mác - Lenin, nhưng thực chất tư tưởng coi mình là "trung tâm thiên hạ", tham vọng bành trướng xuống Đông Nam Á vẫn âm ỷ trong một bộ phận lãnh đạo cấp cao nước này qua nhiều thế hệ.
Chính vì thế, mọi động thái của họ trong quan hệ quốc tế luôn luôn có những tính toán phục vụ cho lợi ích và ý đồ chiến lược của họ là trên hết.
Chúng ta không bao giờ được quên và phủ nhận những đóng góp to lớn của Trung Quốc đã giúp Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến. Tuy nhiên, không phải vì thế mà quên rằng Việt Nam là cửa ngõ là phên dậu chống lại "phe tư bản chủ nghĩa" từ phía Nam dưới con mắt của một số chiến lược gia Trung Quốc.
Việt Nam là nước nhỏ, nhưng lại bị nhiều siêu cường nhòm ngó. Nếu ứng xử không khéo léo, không tìm cách tháo ngòi nổ xung đột, thì nguy cơ trở thành nạn nhân của những cuộc chiến tranh xâm lược là điều khó tránh khỏi.
Trong tình hình hiện nay, khi Biển Đông căng thẳng, đã có không ít quan điểm cho rằng Việt Nam phải liên minh với nước này, dựa vào nước kia để chống Trung Quốc.
Nếu điều đó xảy ra, thì một cuộc chiến bảo vệ Biên giới 1979 - 1989 có nguy cơ lặp lại.
Vì vậy, bên cạnh sự tự lực tự cường, việc đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại là hết sức cần thiết, không liên minh nước này để chống nước kia là lựa chọn sống còn đối với Việt Nam.
Chỉ có như vậy, chúng ta mới có thể tìm cách đối thoại, tháo ngòi xung đột. Còn đương nhiên khi "cây muốn lặng mà gió chẳng đừng", thì giặc đến nhà đàn bà cũng đánh.
Nghiên cứu về cuộc chiến đấu bảo vệ Biên giới phía Bắc 1979-1989 mà không đặt vào bối cảnh địa chính trị khu vực, quốc tế thời kỳ đó để tìm cách tháo ngòi nổ xung đột, thì nguy cơ chiến tranh sẽ vẫn còn treo lủng lẳng trên đầu chúng ta.
Bài học thứ hai : chính sách đối ngoại cần dựa trên luật pháp quốc tế
Khách quan nhìn lại cách ứng xử của chúng ta trong quan hệ bang giao với các nước, đặc biệt là với Trung Quốc, qua cách nhìn đối với cuộc chiến bảo vệ Biên giới phía Bắc, có thể thấy rõ đã có lúc màu sắc của cảm xúc, tuyên truyền và các mục tiêu chính trị thường lấn lướt các nguyên tắc pháp lý trong bang giao quốc tế.
Có lẽ tình cảm yêu - ghét mãnh liệt đến cực đoan trong chúng ta đã dẫn đến những phản ứng còn mang nặng cảm xúc hơn lý trí trong quan hệ bang giao với một nước lớn đầy tham vọng và toan tính như Trung Quốc.
Những năm quan hệ nồng ấm chúng ta đã hết lời ca ngợi, nhiều khi thái quá.
Nhưng khi "cơm không lành, canh không ngọt", "anh cả Liên Xô" và "anh hai Trung Quốc" mâu thuẫn nhau, đẩy Việt Nam vào thế phải lựa chọn, rồi đến khi mâu thuẫn lợi ích lên đến cao trào, chúng ta chỉ trích không tiếc lời, thậm chí đưa cả vào những văn kiện chính thức.
Không cuộc chiến nào kéo dài mãi, không mâu thuẫn nào không có điểm dừng, đến khi bình thường hóa quan hệ, chính chúng ta rơi vào thế bí vì những tuyên bố giàu cảm xúc, lập trường chính trị ấy.
Thậm chí có những văn kiện chúng ta ban hành gây bất lợi cho chính chúng ta sau này trong đàm phán phân định biên giới với Trung Quốc bởi những câu chuyện đẫm mùi tuyên truyền mà thiếu tính khoa học, thiếu tính kiểm chứng.
Nó gây chia rẽ trong chính nội bộ của ta, và là đề tài cho các thế lực chính trị chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.
Đó là hạn chế của thời cuộc bởi dấu ấn của cuộc chiến ý thức hệ suốt mấy chục năm không dễ gì gột rửa. Nhưng nay thế thời đã thay đổi, quan hệ bang giao giữa các quốc gia là quan hệ giữa nhà nước với nhà nước, dựa trên luật pháp quốc tế và được thế giới thừa nhận.
Mọi mối quan hệ thân mật về chính trị chỉ có ý nghĩa tạo môi trường thuận lợi, tạo nhiều kênh đối thoại để giải quyết các tồn tại cũng như thúc đẩy hợp tác song phương.
Chính trị không thay thế được pháp lý, mà làm nền tảng cho pháp lý.
Vì vậy, đánh giá lại các sự kiện lịch sử như cuộc chiến bảo vệ Biên giới phía Bắc 1979-1989, cuộc chiến bảo vệ Biên giới Tây Nam, cuộc xâm chiếm Hoàng Sa 1974, Trường Sa 1988 rất cần một lăng kính khoa học, một thái độ khách quan, một cách tiếp cận cầu thị và bình tĩnh.
Mọi đánh giá áp đặt một chiều đều có mặt mạnh của nó trong những tình huống, hoàn cảnh nhất định để phục vụ một ý đồ nhất định, giúp đạt mục tiêu nhanh hơn. Nhưng về lâu dài, tác hại của nó lớn hơn rất nhiều, khó lường hết được.
Trong nội bộ dư luận Việt Nam có không ít quan điểm băn khoăn, hoài nghi về Hội nghị Thành Đô mà thực chất chỉ là những thỏa thuận chính trị giữa lãnh đạo hai Đảng để tạo nền tảng cho bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.
Còn mọi văn kiện hợp tác, ký kết giữa Việt Nam và Trung Quốc chỉ có ý nghĩa pháp lý dưới ánh sáng công pháp quốc tế, nếu nó được chính thức ký kết và thông qua bởi cơ quan quyền lực nhà nước có thẩm quyền của hai nước.
Hơn một nửa thác Bản Giốc của Việt Nam đã lọt vào tay Trung Quốc sau cuộc chiến tháng 2/1979
Những câu chuyện về thác Bản Giốc, Hữu Nghị Quan, núi Đất - Hà Giang vẫn âm ỷ trong lòng xã hội Việt Nam cho dù hiệp định phân định biên giới đã được ký kết sau quá trình đàm phán hết sức nghiêm túc, khách quan và thượng tôn pháp luật.
Bởi lẽ những tài liệu tuyên truyền của ta trong cuộc chiến bảo vệ Biên giới 1979 - 1989 có những nội dung không chính xác, nhưng lại không được giải ảo, giải mật mà xếp vào kho bí mật, nhạy cảm.
Cái thời của phe xã hội chủ nghĩa với phe tư bản chủ nghĩa đã qua, cái "thế giới đại đồng" hay còn được gọi bởi tên mới "cộng đồng chung vận mệnh" đã được chứng minh là một ảo mộng.
Thực tiễn khu vực và quốc tế hiện nay, nhất là sau Brexit và bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ cho thấy, chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc là không thể xóa nhòa. Ngược lại, nó sẽ được củng cố và hoàn thiện trong một sân chơi toàn cầu được bảo đảm bởi luật pháp quốc tế.
Chính vì vậy, khi đánh giá lại cuộc xâm lăng Biên giới Việt Nam 1979-1989 mà Trung Quốc tiến hành, cần đặt nó vào khung pháp lý quốc tế để xác định nguyên nhân, tìm ra bài học thay vì đứng trên lập trường chính trị, quan điểm chính trị.
Chỉ có như thế mới giúp hai đất nước, hai dân tộc thực sự hợp tác trên tinh thần "gác lại quá khứ, hướng tới tương lai".
Đây cũng chính là bài học quan trọng để giúp hai bên giải quyết các tranh chấp bất đồng trên Biển Đông hiện nay, nhất là chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, cũng như việc ứng dụng, giải thích UNCLOS 1982, chứ không phải niềm tin chính trị.
Bài học thứ ba : đề cao cảnh giác, tự lực tự cường
Đây là bài học muôn thủa trong hàng ngàn năm dựng nước, giữ nước của cha ông ta. Bài học Mỵ Châu - Trọng Thủy cần được thấm nhuần trong mọi hoạt động bang giao, đối ngoại của Việt Nam với các nước chứ không riêng gì Trung Quốc.
Chúng ta không phủ nhận vai trò và ý nghĩa của ngoại lực - sự giúp đỡ từ bạn bè quốc tế trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trước đây, cũng như việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Nhưng tinh thần tự lực tự cường, đề cao cảnh giác vẫn phải được đặt lên hàng đầu. Người Mỹ đã từng rút ra bài học mà chính chúng ta cũng đã từng nếm trải : miếng ăn miễn phí chỉ có trên bẫy chuột !
Trước khi nổ ra cuộc xâm lăng Biên giới phía Bắc 1979-1989, quan hệ Việt - Trung đã liên tục xấu đi và biểu hiện rõ bởi hoạt động "cắt viện trợ". Thực tiễn ấy cho thấy, mọi viện trợ đều có những tính toán chiến lược đằng sau nó.
Chúng ta nhận và nhận đến đâu, nhận như thế nào là một bài toán cần có một lời giải nghiêm túc.
Câu chuyện vay vốn ODA ngày nay cũng vậy, quan trọng không nằm ở chỗ vay được bao nhiêu tiền, mà là sử dụng đồng vốn vay thế nào cho hiệu quả nhất, ít thất thoát nhất mà không đánh đổi những lợi ích chiến lược.
Tháng Tư năm nay, Trung Quốc sẽ tổ chức một hội nghị quốc tế để quảng bá sáng kiến "một vành đai, một con đường" của họ và mời lãnh đạo nhiều nước tham dự, trong đó có Việt Nam.
Chúng ta nên chủ động tiếp cận trên tinh thần dùng luật pháp quốc tế soi sáng mục đích, ý nghĩa và cách thức vận hành của dự án "con đường, vành đai" này.
Những gì có thể hợp tác cùng có lợi thì nên triển khai, nhưng những gì cần bảo lưu về mặt chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia dân tộc thì không thể không tính đến.
Hợp tác và cạnh tranh đan xen nhau là một xu thế khách quan của lịch sử hiện đại. Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc hay với các nước khác đều không nằm ngoài xu thế ấy.
Sẽ có những cuộc chiến không tiếng súng, nhưng tác hại và hệ lụy của nó không kém gì chiến tranh nếu mất cảnh giác, trông chờ vào những nguồn vốn giá rẻ đi kèm công nghệ lạc hậu, ô nhiễm môi trường và một đội quân lao động tay chân tràn qua biên giới đến những địa bàn xung yếu của đất nước để làm ăn, kết hôn, sinh con đẻ cái.
Những ngày qua, báo chí cũng đã ôn lại sự kiện này như nén hương tưởng nhớ, tri ân những người ngã xuống và nhắc nhở thế hệ mai sau : đừng bao giờ "khép lại quá khứ", ngoảnh mặt với lịch sử, và đừng quên quá khứ, dù quá khứ ấy có cả những chuyện vui, chuyện buồn.
Người con đất Việt trong hay ngoài nước vẫn hướng về cuộc chiến vệ quốc vĩ đại bằng nhiều cách khác nhau. Những tiếng nói cần đưa vào trường học, vào sách giáo khoa bài học cụ thể về cuộc chiến ngày một nhiều.
Cá nhân người viết cũng chung tâm trạng ấy, mong muốn ấy. Trong khuôn khổ bài viết này, xin không nhắc lại những con số thương vong, những nỗi đau kéo dài theo năm tháng.
Chỉ xin tổng kết lại một số bài học từ cuộc chiến vệ quốc vĩ đại mà khốc liệt ấy, nhìn thẳng quá khứ để thấy rõ tương lai và vì vậy, chỉ có thể "gác lại quá khứ" chứ không được phép "khép lại quá khứ" !
TS Trần Công Trục
Nguồn : GDVN, 178/02/2017
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng mở đầu năm 2017 bằng cuộc sang chầu Bắc Triều của Tập Cận Bình để nhận chỉ thị mới.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng hội đàm tại Bắc Kinh ngày 12 tháng 1 năm 2017. AFP photo
Bốn ngày, 10 cuộc gặp với hầu hết quan chửc trong Ban Thường ủy, 15 văn bản ký kết, 1 Thông cáo chung. Đó là nội dung của các cuộc hội đàm Việt - Trung mở đầu năm 2017. Có gì đặc biệt hay mới mẻ trong cuộc hội đàm này ?
Có thể nói ngay nó rất cũ. Vẫn nhắc đến "16 chữ vàng" và "4 Tốt". Tuy nhiên, cũng có vài điều mới, đáng chú ý. Phía Trung Quốc đề ra "tam đồng" - "đồng cảm, đồng thuận, đồng tâm" - để thắt chặt hơn tình nghĩa cộng sản anh em, vì họ lo sợ sự bất đồng, sự phân tâm vào lúc này. Có một từ mới nữa là "nhất quán", cả 2 bên đều dùng, với cái nghĩa là "một mực như trước, không thay đổi chút nào". Hai chữ này nói lên niềm lo âu, chủ sợ người ở bỏ chủ, người ở lo chủ trừng phạt, cả hai đều lo sự thay lòng đổi dạ khi tình hình thế giới và khu vực đang có thay đổi lớn.
Đâu là những nét mới nữa ? Trước hết đây là các văn kiện gắn bó nhiều mặt nhất, sâu đậm nhất giữa 2 đảng, 2 nhà nước cộng sản từ trước đến nay. Các từ "chân thành, thẳng thắn" được nhắc đi nhắc lại nói lên sự lo ngại, nghi kỵ nhau, khi thế giới đang biến động.
Các văn kiện nêu lên việc giúp nhau đào tạo cán bộ cấp cao, cùng nhau nghiên cứu lý luận chính trị, hợp tác trong an ninh biên giới, an ninh quốc phòng, quan hệ ngoại giao, đầu tư phát triển công nghiệp, giao thông vận tải, khai khoáng, thương mại, ngân hàng tín dụng, xuất nhập khẩu và viện trợ, an toàn thực phẩm, truyền thông, truyền thanh truyền hình, xuất bản và du lịch...
Nét nổi bật của chuyến đi Trung Quốc của ông Trọng kỳ này là ông và Bộ Chính trị đã bỏ ngoài tai mọi ý kiến đóng góp, can ngăn của đông đảo nhân dân, của một bộ phận đông đảo đảng viên, trong đó có nhiều đảng viên cao cấp, từng là ủy viên Bộ Chính trị, Phó thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội, Bộ trưởng, hàng trăm Giáo sư Tiến sĩ, các nguyên cố vấn của thủ tướng và hàng ngàn công dân nam nữ đầy thiện chí trong hơn ba chục tổ chức dân sự và hàng trăm bloggers tự do.
Ý kiến chung của số công dân yêu nước, sáng suốt và dũng cảm này là : lúc này hơn lúc nào hết cần dựa trên tư duy độc lập và quyền tự quyết dân tộc, lãnh đạo đảng và Nhà nước phải công khai hóa nội dung cuộc mật đàm Thành Đô, dứt khoát từ bỏ sợi dây trói buộc "16 chữ vàng" và "4 Tốt" lừa mỵ, xem xét lại cụ thể các mối quan hệ, các dự án kinh tế, công nghiệp, xây dựng, buôn bán với Trung Quốc, lọai bỏ mọi ký kết bất bình đẳng, có thiệt hại lớn cho phía Việt Nam, xem xét số người Hoa trên đất Việt Nam, trả về những người không đủ giấy tờ hợp lệ.
Mong rằng Ban Tuyên huấn trung ương sẽ tiến hành một cuộc điều tra dư luận trung thực để xem nhân dân, trí thức, đảng viên cộng sản, đoàn viên cộng sản còn có bao nhiêu phần trăm còn tin ở chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội Mác-xít và chế độ độc đảng ?
Tình hình nội bộ Trung Quốc hiện nay là khó khăn, nguy hiểm nhất - kinh tế mất đà, đồng nguyên mất giá, nợ nần chồng chất, dự trữ ngoại tệ vơi đi từng ngày ; Đài Loan tỏ ra cứng cỏi tự tin ; Hồng Kông ra mặt thách thức, tự coi mình tiến bộ, văn minh hơn lục địa.
Cả Ngoại trưởng mới Rex Tillerson lẫn Bộ trưởng Quốc phòng mới James Mattis của Hoa Kỳ dưới thời Donald Trump sắp tới đều xem Trung Quốc là đối tượng cần ngăn chặn, trừng phạt, cô lập, còn nghiêm khắc cảnh cáo Trung Cộng không được xây dựng thêm các đảo nhân tạo ở Biển Đông và không được quân sự hóa, thậm chí không được phép sử dụng các đảo này, theo như kết luận của Tòa án Quốc tế. Đây là một điểm nhắc nhở cho phe nhóm giáo điều cực đoan của ông Trọng hãy sáng suốt, kịp thời tách xa khỏi Bắc Kinh. Nếu chưa tách xa thì cũng phải buông lỏng ra từng bước, khi Trung Quốc đang trong tình trạng bị cô lập và đe dọa, không còn đáng sợ nữa. Thời cơ lớn để "thoát Trung" trong khi vẫn giữ quan hệ hòa bình hợp tác bình đẳng với Trung Quốc là lúc này. Hãy nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, gắn bó với thời đại, tự tin ở nội lực dân tộc. Lúc này cũng là dịp tốt nhất để Đảng Cộng sản thực hiện đại đòan kết dân tộc.
Chuyến đi Bắc Kinh của ông Trọng rất tai hại vì nó trái lẽ phải, trái ý dân, phản dân tộc, đi ngược lại các bước đối ngoại thức thời, tiến bộ gần đây của Việt Nam gắn bó thêm với Liên Âu, Nhật Bản, Ấn Độ, Đài Loan, Indonesia và Malaysia...
Cho nên vào lúc lẽ ra phải buông lỏng mối quan hệ phụ thuộc với Trung Cộng để từng bước thắt chặt hơn mối quan hệ với các nước dân chủ quốc tế, thì ông Trọng và Bộ Chính trị lại lao sâu hơn vào cái cũi Thành Đô, đi ngược lại mong muốn của tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam cũng như của đông đảo bạn bè quốc tế.
Thật là đáng buồn cho những ngày Tết Đinh Dậu sắp đến cho nhân dân ta. Chuyến đi của ông Tổng Trọng như một bóng đen phủ kín bầu trời Việt Nam, dù cho đốt bao nhiêu pháo bông của không tỏa sáng nổi.
Bùi Tín
Nguồn : VOA, 19/01/2017
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đến Bắc Kinh (RFA, 12/01/2017)
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã tới Thủ đô Bắc Kinh hôm 12/1/2017. Photo courtesy of tuoitre.vn
Ông tổng bí thư đảng cộng sản Nguyễn Phú Trọng, nhân vật lãnh đạo hàng đầu tại Việt Nam, chiều hôm nay đến Bắc Kinh trong chuyến công du lân bang Trung Quốc kéo dài 4 ngày.
Chuyến đi được truyền thông chính phủ Hà Nội nói là ‘định hướng phát triển lành mạnh, lâu dài cho quan hệ Việt- Trung, củng cố cục diện ổn định, thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.’
Thông tấn xã Việt Nam loan tin sau cuộc hội đàm diễn ra ngay chiều nay tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh, hai ông Nguyễn Phú Trọng và Tập Cận Bình chứng kiến lễ ký kết 15 văn kiện hợp tác giữa hai nước. Trong đó có tuyên bố Tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng giữa hai Bộ Quốc phòng Việt Nam và Trung Quốc đến năm 2025.
Ngay trước khi ông Nguyễn Phú Trọng sang Trung Quốc lần này, tờ Hoàn Cầu Thời báo - cơ quan ngôn luận của đảng cộng sản ở Hoa Lục hôm qua có bài bình luận về thông tin Việt Nam và Ấn Độ đang bàn thảo việc New Dehli bán tên lửa địa không Akash cho Hà Nội.
Nội dung bài bình luận nêu quan ngại của Bắc Kinh đối với việc New Dehli muốn tăng cường quan hệ quân sự với Hà Nội, cho rằng bất cứ biện pháp nào của Ấn Độ đẩy mạnh hợp tác quân sự với Việt Nam để chống lại Trung Quốc đều gây ‘rối loạn’ cho khu vực và Bắc Kinh sẽ không khoanh tay ngồi yên.
Chiều nay, phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình khi được phóng viên hãng thông tấn Reuters hỏi về tin mua hỏa tiễn Akash của Ấn Độ, ông này nói sẽ chuyển câu hỏi đến cơ quan chức năng, đồng thời nhắc lại chính sách quốc phòng hòa bình, tự vệ của Hà Nội và việc mua sắm vũ khí là bình thường để bảo vệ đất nước.
RFA tiếng Việt
********************
Lãnh đạo Việt-Trung uống trà bàn 'định hướng lớn' (BBC, 12/01/2017)
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng uống trà tại Bắc Kinh cùng Chủ tịch Tập Cận Bình trong chuyến thăm đầu năm 2017
Lãnh đạo hai nước trao đổi các định hướng lớn về quan hệ hợp tác và phát triển 'lành mạnh, ổn định' và nhất trí duy trì tiếp xúc cấp cao thường xuyên giữa lãnh đạo hai đảng, hai nước, truyền thông Việt Nam loan tin về cuộc hội đàm giữa Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam và nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình.
Cuộc gặp diễn ra ngay trong ngày đầu tiên của chuyến thăm chính thức kéo dài bốn hôm, 12-15/1/2017, của ông Nguyễn Phú Trọng.
Hai vị đứng đầu đảng cộng sản hai nước "vui mừng về đà phát triển lành mạnh" giữa hai đảng, hai nước, và "sự phát triển ổn định và những thành tựu mà Việt Nam và Trung Quốc đạt được có ý nghĩa rất quan trọng đối với nhân dân hai nước" trong bối cảnh thế giới xảy ra nhiều cuộc khủng hoảng và bất ổn, báo Tin tức tường thuật.
Nội dung trao đổi giữa hai Tổng bí thư bao gồm việc bàn về "các định hướng lớn" trong nhiều lĩnh vực, bao gồm cả việc "duy trì hòa bình, ổn định trên biển", Thông tấn xã Việt Nam nói.
Tổng bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nói Trung Quốc 'sẽ làm hết sức mình' ủng hộ Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị cấp cao APEC 2017, trong khi phía Việt Nam bày tỏ ủng hộ Trung Quốc tổ chức thành công Diễn đàn thượng đỉnh hợp tác quốc tế về "Một vành đai, một con đường" trong năm 2017.
Kiểm soát bất đồng trên biển
Hai nhà lãnh đạo đảng Việt Nam và Trung Quốc nhấn mạnh việc 'tuân thủ nhận thức chung' giữa lãnh đạo cao cấp hai bên trong giải quyết tranh chấp ở Biển Đông
Các nhà phân tích trông đợi rằng chuyến đi của ông Trọng sẽ làm tốt đẹp trở lại quan hệ song phương vốn bị tác động bởi những tranh chấp ở Biển Đông vào thời điểm chính sách của Hoa Kỳ đối với khu vực trong thời gian tới đây chưa biết sẽ ra sao.
Căng thẳng đã leo thang tại vùng châu Á - Thái Bình Dương từ hai tháng nay, điều sẽ ảnh hưởng mạnh tới mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc với Hoa Kỳ cũng như các nước khác ở vùng Đông Nam Á, ông Trang Quốc Thổ, trưởng khoa Nghiên cứu Đông Nam Á thuộc Đại học Hạ Môn, Trung Quốc nói.
Hai Tổng bí thư cùng cho rằng chủ đề trên biển là vấn đề tồn tại chủ yếu của quan hệ Việt-Trung, không chỉ có tác động lớn tới quan hệ chính trị song phương mà còn ảnh hưởng tới cục diện và tình hình khu vực, thế giới.
"Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định lập trường nhất quán của Việt Nam kiên trì giải quyết tranh chấp Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, tôn trọng tiến trình ngoại giao và pháp lý ; thực hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), phấn đấu cùng ASEAN sớm hoàn tất Bộ Quy tắc ứng xử (COC)," VietnamNet đưa tin.
Cũng hôm thứ Năm, báo Điện tử của Đảng Cộng sản Việt Nam tường trình cuộc Hội đàm và dẫn nguồn Thông tấn xã Việt Nam cho biết trong buổi gặp mặt, ông Tập Cận Bình đã nhận lời mời sang thăm chính thức Việt Nam và dự Hội nghị Cấp cao APEC 2017.
Lễ tiếp đón ông Nguyễn Phú Trọng được tổ chức tại Sảnh Bắc của Đại Lễ Đường Nhân Dân ở Bắc Kinh, sau đó, buổi trao đổi diễn ra bên trong Đại Lễ Đường.
Kết thúc buộc trao đổi, hai nhà lãnh đạo đã cùng dự lễ ký kết một số văn bản hợp tác.
Tiếp đón ông Nguyễn Phú Trọng, phía Trung Quốc ngoài Chủ tịch Tập Cận Bình còn có các ủy viên Bộ Chính trị Vương Hỗ Ninh, Lưu Kỳ Bảo, Lật Chiến Thư, Bộ trưởng Quốc phòng Thường Vạn Toàn, Ngoại trưởng Dương Khiết Trì, và Bộ trưởng Công an Quách Thanh Côn.
Đây là chuyến thăm Trung Quốc lần đầu tiên của ông Nguyễn Phú Trọng kể sau khi tái đắc cử chức vụ Tổng bí thư đảng sau Đại hội lần thứ 12.