Ukraine tuyên bố đã đánh chìm một tàu chiến khác của Nga, Sergei Kotov, trên Biển Đen. Liên tục mất đi tàu Kotov và trước đó tàu Tsezar Kunikov vào tháng trước hiện đồng nghĩa với việc một phần ba hạm đội Biển Đen của Nga đã bị vô hiệu hóa. Kotov và Kunikov đã cùng với soái hạm Moskva nằm dưới đáy Biển Đen và củng cố thực tế rằng chiến trường hàng hải trong cuộc chiến tranh ở Ukraine là cuộc xung đột hải quân quan trọng nhất kể từ cuộc chiến Falklands hơn bốn thập kỷ trước.
Tàu ngầm tấn công hạt nhân Trường Chinh 15 ở phố cảng phía đông Thanh Đảo, ngày 23/4/2019. (Kyodo /Maxppp)
Những sự kiện có tính chất như David đối đầu với Goliath này đặt ra một câu hỏi quan trọng. Liệu thiết bị không người lái (drone) ngày càng tiên tiến có khiến các hạm đội hải quân trở nên lỗi thời ? Việc Ukraine giành chiến thắng trên biển dường như gợi ý điều đó. Tuy nhiên, việc vội vàng thừa nhận lập luận này đã bỏ qua hai điểm mấu chốt.
Thứ nhất, chiến tranh trên biển là chiến tranh tiêu hao. Như một nghiên cứu gần đây được thực hiện tại Học viện Chiến tranh Hải quân Mỹ đã chỉ ra, chiến tranh hải quân hiện đại phụ thuộc rất nhiều vào khái niệm số đông (mass). Số lượng vũ khí – tàu nổi, tàu ngầm và máy bay – cùng khả năng tái tạo chúng với quy mô lớn chính là yếu tố tạo nên sự khác biệt trong chiến tranh trên biển. Hải quân Mỹ trong Thế chiến thứ II là một ví dụ điển hình. Vào tháng 6 năm 1940, hạm đội Mỹ chỉ có 478 tàu chiến. Nhưng đến Ngày Chiến thắng Nhật Bản năm 1945, Hải quân Mỹ đã có 6.768 tàu chiến đang hoạt động, vượt xa bất kỳ cường quốc nào khác trên Trái đất.
Drone và tên lửa của Ukraine đang minh chứng cho một chân lý có từ lâu : khả năng vượt qua tổn thất là yếu tố tạo nên sự khác biệt trong chiến tranh trên biển. Trong một cuộc xung đột, tàu chiến chỉ an toàn khi nằm ngoài tầm pháo kích. Bất kỳ bên tham chiến nào, đặc biệt là bên yếu hơn về số lượng, đều sẽ tìm cách thu hẹp khoảng cách và đây là giả định mà các lực lượng hải quân cần giải quyết, nếu không họ sẽ mất cả hạm đội. Tuy nhiên, tổn thất không phải là lý do chính đáng để cho rằng hạm đội sắp lỗi thời.
Điều này dẫn đến điểm thứ hai. Các tổn thất của Nga không thể hiện được mức độ mà sức mạnh hải quân – và các hạm đội có khả năng hoạt động trong môi trường tranh chấp – đã trở lại như một yếu tố trung tâm trong các cuộc chiến giành quyền lực từ Biển Đen đến Biển Đỏ, Biển Đông và eo biển Đài Loan. Đây không chỉ đơn thuần là về giá trị chiến lược của các tàu chiến chủ lực (capital ships) trong việc thể hiện vị thế và tham vọng quốc tế của một quốc gia trong một hệ thống quốc tế vô chính phủ.
Sức mạnh hải quân ngày nay quan trọng hơn bao giờ hết bởi vì mối quan hệ giữa các xã hội hiện đại với biển cả đã phát triển một cách nhanh chóng. Ngày nay, chúng ta đang sống trong một thế kỷ của đại dương, nơi nền tảng của sự thịnh vượng thúc đẩy các nền kinh tế mở dựa vào kết nối vật lý và kỹ thuật số trên biển.
Các tuyến đường biển nuôi sống chúng ta, sưởi ấm cho chúng ta và vận chuyển đồ đạc thiết yếu hằng ngày. Khoảng 97% internet và một phần lớn năng lượng quốc tế phụ thuộc vào một mạng lưới cáp và đường ống ngầm dưới đáy biển, giống như một đĩa mì spaghetti, bám sát các tuyến vận chuyển thương mại. Mạng lưới kết nối vật lý và kỹ thuật số nhiều lớp này chỉ an toàn và đáng tin cậy cho đến khi nó không còn an toàn nữa.
Trong những năm gần đây, những nơi như Somalia, Tonga, Anh và Đài Loan đã phải chịu thiệt hại kinh tế do sự gián đoạn về cơ sở hạ tầng quan trọng dưới đáy biển. Vào đầu năm nay, năng lực tương đối tinh vi của phiến quân Houthi ở Yemen đã phơi bày sự mong manh của nguồn cung cấp ổn định các mặt hàng thiết yếu – từ túi trà được sử dụng các hộ gia đình trung lưu ở Anh, cho đến các thành phần cốt lõi của xe điện trên khắp Châu Âu.
Sự phụ thuộc chưa từng có vào kết nối hàng hải này đã biến các hoạt động trên biển thành mục tiêu chính của các chế độ độc tài và các nhóm phi nhà nước. Các hành động như phá hoại đường ống dẫn khí Nord Stream 2, đường ống dẫn khí nối Estonia, Phần Lan và Thụy Điển, hoặc việc gây gián đoạn các tuyến đường vận chuyển hang hải quốc tế do tên lửa và máy bay không người lái của Houthi gây ra đều có một điểm chung.
Những hành động này nhấn mạnh nhận thức của các nhà lãnh đạo ở Moscow, Bắc Kinh và Tehran rằng kết nối hàng hải là một điểm yếu có giá trị chính trị đáng kể. Đặc biệt, các quốc gia như Trung Quốc đang theo đuổi các phương tiện hải quân để nắm bắt các cơ hội xuất phát từ nhận thức trên. Cho dù trong lĩnh vực công nghệ thăm dò và khai thác đáy biển sâu, năng lực vận chuyển hàng hải, và trên hết là trong bối cảnh sức mạnh hải quân tuyệt đối, Trung Quốc đang thiết lập các kỷ lục mới về cả số lượng và chất lượng đầu tư. Chỉ trong thập kỷ vừa qua, Trung Quốc đã đóng thêm tàu cho hạm đội mặt nước của mình với số lượng gấp đôi tổng số tàu mà toàn bộ Hải quân Pháp sở hữu.
Chính quyền Trung Quốc hiểu rằng, trong kỷ nguyên biển, việc họ tiếp tục xây dựng lực lượng hải quân là khoản đặt cọc cho ưu thế hàng hải, thậm chí là sự thống trị trên biển trong một cuộc chiến tranh lớn tiềm tàng ở Biển Đông, eo biển Đài Loan hoặc xa hơn nữa. Việc Tập Cận Bình bổ nhiệm Hứa Trung Minh, một chỉ huy tàu ngầm dày dặn kinh nghiệm, đứng đầu hải quân Trung Quốc cho thấy một thế hệ sĩ quan chỉ huy mới được giao phó trọng trách đảm bảo sẵn sàng chiến đấu nếu cần thiết.
Đây là lý do tại sao hải quân lại quan trọng và tại sao Mỹ cùng các đồng minh ở Châu Âu và Châu Á đang tích cực tranh luận về việc đầu tư cho chúng. Các nhà lãnh đạo ở các quốc gia như Nhật Bản và Úc đang đầu tư vào hải quân của họ, từ khả năng phản công đến khả năng triển khai tàu nổi, tàu sân bay và tàu ngầm, để cùng nhau đối phó với thách thức ngày càng gia tăng từ các chế độ độc tài trên biển. Điều đó bao gồm việc Nhật Bản công bố ngân sách quốc phòng lớn nhất trong lịch sử hậu chiến vào tháng 12 năm 2023, và Australia, quốc gia đã mua tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân thông qua AUKUS, cũng tuyên bố kế hoạch tăng gấp đôi hạm đội tàu nổi của mình vào tháng trước.
Tuy nhiên, những quốc gia khác, như Mỹ và Anh, đang gặp khó khăn hơn trong việc đáp ứng các yêu cầu ngày càng tăng về hải quân. Tại Mỹ, Hải quân sẽ chỉ yêu cầu một tàu ngầm lớp Virginia cho ngân sách năm tài chính tới thay vì hai chiếc, do giới hạn năng lực sản xuất của ngành công nghiệp. Ở Anh, một báo cáo gần đây của Quốc hội lưu ý rằng các kế hoạch đưa vào sử dụng một số lớp tàu mới trước hết cần thêm các nhà máy đóng tàu.
Trong một thế kỷ biển đầy tranh chấp, chúng ta nên bắt đầu coi hải quân là chính sách bảo hiểm an ninh quốc gia tối thượng. Giống như bất kỳ loại bảo hiểm khác, chúng đòi hỏi đầu tư thường xuyên để phòng ngừa những rủi ro có thể không xảy ra nhưng hậu quả lại rất nghiêm trọng. Hải quân hoạt động tốt nhất để ngăn chặn các hành vi xâm lược tiềm ẩn, nhưng nền tảng công nghiệp để tạo ra năng lực cho hải quân lại chính là nền tảng bảo đảm cho uy tín quân sự. Quan trọng nhất, khi mọi nỗ lực khác đều thất bại, uy tín đó sẽ đảm bảo rằng trong thời điểm cần thiết, những thách thức khó khăn nhất sẽ được đáp ứng và vượt qua.
Alessio Patalano là giáo sư về chiến tranh và chiến lược ở Đông Á và đồng giám đốc Trung tâm Chiến lược lớn tại King’s College London, nơi ông chuyên về học thuyết và chiến lược hàng hải.
Alessio Patalano
Nguyên tác : "The New Age of Naval Power", The Times, 06/03/2024
Viên Đăng Huy biên dịch
Nguyễn Thế Phương hiệu đính
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 13/03/2024
Hàng không mẫu hạm Anh, Mỹ dẫn đầu cuộc phô trương sức mạnh hải quân ở Biển Đông
Ba hàng không mẫu hạm và hằng chục chiến hạm khác của các quốc gia đồng minh của Hoa Kỳ trong tuần này đi vào Biển Đông là một trong những pha phô diễn sức mạnh hàng hải lớn nhất của Phương Tây tại khu vực này suốt nhiều năm qua.
Nhóm tấn công tàu sân bay của Anh do tàu HMS Queen Elizabeth dẫn đầu và Lực lượng Phòng vệ Hàng hải Nhật Bản do tàu khu trục trực thăng lớp Hyuga JS Ise dẫn đầu tham gia diễn tập chung tại Biển Đông ngày 3/10/2021 cùng các nhóm tấn công tàu sân bay của Mỹ do tàu USS Ronald Reagan và USS Carl Vinson dẫn đầu. Ảnh : Hải quân Mỹ
Những cuộc diễn tập tại vùng biển Tây Philippines (mà Việt Nam gọi là Biển Đông) sẽ được tiếp tục với hai tuần tập trận qui mô lớn ngay ở Biển Đông. Điều này phát đi một thông điệp cho Bắc Kinh và khẳng định quyền tự do hàng hải tại khu vực Ấn Độ Dương- Thái Bình Dương ngày càng căng thẳng.
Chuyên gia cấp cao Richard Bitzinger tại Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam ở Singapore phát biểu rằng "Đây có thể là lần đầu tiên từ khi nổ ra cuộc khủng hoảng Eo Biển Đài. Loan hồi năm 1996, chúng ta chứng kiến những dạng hoạt động với hàng không mẫu hạm như thế".
Vào ngày 3/10, hàng không mẫu hạm hàng đầu của Hải quân Hoàng gia Anh HMS Queen Elizabeth cùng với hai hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ- USS Carl Vinson và USS Ronal Reagan- cùng với 14 chiến hạm khác của Mỹ, Nhật, Canada, New Zealand và Hòa Lan tiến hành những hoạt động diễn tập gọi là kết hợp tại Vùng biển Philippines.
Hình ảnh ghi nhận tại hiện trường cho thấy đoàn chiến hạm lướt sóng trong nắng với đội chiến đấu cơ bay theo đội hình mũi tên bên trên.
"Nửa triệu tấn sức mạnh biển từ sáu quốc gia cùng với sức mạnh bay tương đương đầy ấn tượng" là điều được mô tả bởi Phó Đề đốc Steve Moorhouse, chỉ huy Nhóm Tác chiến Anh CSG21 do Hàng không mẫu hạm HMS Queen Elizabeth dẫn đầu.
Một ngày sau đó, tổ chức Sáng kiến Theo dõi Chiến lược Nam Hải - một mạng lưới nghiên cứu của Trung Quốc, cảnh báo rằng hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson của Mỹ và HMS Quuen Elizabeth của Anh đã vượt Eo Bashi đi vào Biển Đông, và đây là lần thứ hai kể từ tháng 7, hai hàng không mẫu hạm này vào Biển Đông.
Một thông cáo của Bộ Quốc Phòng Anh vào ngày thứ ba cho biết trong vòng hai tuần tới Hàng không mẫu hạm Queen Elizabeth "sẽ hoạt động tại Biển Đông với chiến hạm và chiến đấu cơ của các nước Australia, Canada, Nhật Bản, New Zealand, Hoa Kỳ" và tham gia vào cuộc diễn tập hàng hải phối hợp qui mô lớn.
Chuyên gia Bitzinger so sánh hoạt động lần này với đợt phô diễn sức mạnh hồi tháng 3 năm 1996, khi mà Hoa Kỳ cho bố trí hai hàng không mẫu hạm nhằm đáp lại việc Trung Quốc cho thử phi đạn tại vùng biển gần Đài Loan trong thời gian chuẩn bị bầu cử. Thông điệp Bắc Kinh phát ra đối với đảo quốc tự trị là không được tuyên bố độc lập.
Lúc bấy giờ, giới quan sát cho rằng đó là màn phô diễn sức mạnh quân sự lớn nhất ở Châu Á kể từ cuộc chiến Việt Nam. Hoa Kỳ cho bố trí hai nhóm tác chiến dẫn đẫu là hàng không mẫu hạm USS Minitz và hàng không mẫu hạm nay đã loại biên là USS Independence.
Mục tiêu chính của việc phô diễn sức mạnh lúc bấy giờ, cũng như hiện nay, là phát đi một thông điệp cho Bắc Kinh- nhưng theo một số người thì đó là khiêu khích. Học giả cấp cao Mark J. Valencia tại Viện Nghiên cứu Nam Hải của Trung Quốc (NISCSS) cho rằng "Họ đang giúp Hoa Kỳ đe dọa Trung Quốc". Điều này phản ánh quan ngại của Bắc Kinh.
Máy bay từ nhóm tấn công tàu sân bay của Anh và Mỹ bay theo đội hình trong cuộc diễn tập chung nhiều bên trong khu vực Biển Đông ngày 3/10/2021. Ảnh : Hải quân Mỹ
Trong cùng ngày hai hàng không mẫu hạm của Hoa Kỳ và Anh Quốc đi vào Biển Đông, Trung Quốc cho chiến đấu cơ bay vào Vùng Nhận Diện Phòng Không (ADIZ) của Đài Loan với một con số kỷ lục là 52 chiếc. Trong khoảng thời gian bốn ngày kể từ thứ sáu tuần qua, Đài Loan báo cáo có gần 150 máy bay của Không quân Trung Quốc bay vào ADIZ của Đài Loan.
Bộ trưởng Quốc Phòng Đài Loan, Khâu Quốc Chinh, vào ngày thứ tư phát biểu với các nhà lập pháp rằng quan hệ qua Eo biển Đài Loan ‘nghiêm trọng nhất’ trong hơn 40 năm.
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vào ngày Chủ Nhật cáo buộc quân đội Trung Quốc tiến hành ‘những hoạt động quân sự khiêu khích phá hoại hòa bình và ổn định khu vực ; đồng thời nhắc lại cam kết vững như bàn thạch của Hoa Kỳ đối với Đài Loan.
Trung Quốc xem Đài Loan là một tỉnh ly khai và hứa sẽ thống nhất về lại với Đại Lục, cả bằng vũ lực nếu cần. Đài Loan lại cho mình là một Nhà nước có chủ quyền.
Chuyên gia Bitzinger nói về hoạt động diễn tập phối hợp của các hàng không mẫu hạm rằng "Nhiều quốc gia liên quan trong khu vực Châu Á lo ngại về sự hiếu chiến của Trung Quốc và đây là cách phát đi một thông điệp mạnh mẽ cho Bắc Kinh về quyền tự do hàng hải.
Ông nói thêm "Điều đó cũng cho thấy rằng Hoa Kỳ có được những đồng minh và thân hữu tham gia một cách tích cực và mật thiết với họ".
Tweet ngày 5/10/2021 của Chỉ huy Nhóm tấn công hàng không mẫu hạm Anh nói về cuộc diễn tập chung
Hàng không mẫu hạm tự đóng
Sự hiện diện của những hàng không mẫu hạ thường được nhận thức như là dấu chỉ thuyết phục về quyền tự do hàng hải mà Hoa Kỳ và các đồng minh cổ xúy. Điều đó cũng cho thấy một khuynh hướng thú vị về mặt một số nước tại khu vực Ấn Độ Dương- Thái Bình Dương phát tiển khả năng phòng thủ biển bằng việc tự đóng những hàng không mẫu hạm của nước họ.
Lực lượng Phòng Vệ Biển Nhật Bản (JMSDF hay Hải quân Nhật) vào ngày thứ Ba công bố họ đã thực hiện các chuyến cất và hạ cánh loại chiến đấu cơ F-35B tiên tiến trên Khu trục hạm JS Izumo ; như thế có thể biến nó thành một hàng không mẫu hạm.
JMSDF tiếp tục thực hiện một cách vững chắc những bổ sung cần thiết cho chiến hạm lớp Izumo để có thể đạt được khả năng vận hành chiến đấu cơ F-35B.
Theo ông Jeff Kingston, Giám đốc Viện Nghiên cứu Châu Á và là giáo sư Đại học Temple ở Tokyo, Chính phủ Nhật vào năm 2018 bật đèn xanh cho việc chuyển hai khu trục hạm lớp Izumo thành hàng không mẫu hạm hạng nhẹ có thể vận hành chiến đấu cơ F-35B. Điều này dựa vào một thay đổi chính sách lớn kể từ năm 2015 khi Nhật Bản—với hoạt động quân sự bị hạn chế bởi hiến pháp chủ hòa sau Thế Chiến Thứ hai – đã gia tăng cam kết với đồng minh an ninh Hoa Kỳ.
Ông phát biểu với RFA rằng "Nhật Bản đã tăng mạnh khả năng nâng cao sức mạnh biển và rũ bỏ những cấm kỵ lâu nay về chính sách an ninh khi thực hiện điều đó. Về mặt địa chính trị, đó là một sự ứng phó với nhận thức ngày càng tăng về mối nguy do chương trình hiện đại hóa quân đội và tham vọng bá quyền khu vực của Trung Quốc.
Ông Jeff Kingston giải thích thêm rằng "Nhật Bản gia nhập Nhóm Bộ Tứ (gồm Hoa Kỳ, Ấn Độ, Nhật và Australia) và trở thành một nước cổ xúy cho một khu cực Ấn Độ Dương- Thái Bình Dương tự do và rộng mở. Đây là quan điểm nhắm đến sự bành trướng ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực ; và liên quan đến hoạt động diễn tập hải quân chung, một trong những hoạt động khác nữa".
Trong khi đó chuyên gia Valencia của NISCSS lại đưa ra cảnh báo rằng hoạt động chế tạo hàng không mẫu hạm và ủng hộ Hoa Kỳ nhằm khống chế Trung Quốc có thể là một sai lầm của Nhật Bản. Ông nói : "Dĩ nhiên Nhật cần có khả năng để tự vệ nhưng đi vào lĩnh vực đóng hàng không mẫu hạm là một vấn đề hoàn toàn khác.
Còn theo chuyên gia Bitzinger, cả hai nước Hàn Quốc và Singapore cũng đang xem xét việc phát triển một số trong những tàu hải quân của họ thành những hàng không mẫu hạm thực sự.
Ông nói : "Cách đây hai mươi năm, mọi người đều có cái nhìn tiêu cực về chúng (hàng không mẫu hạm), gọi rằng chúng là những nam châm hút tên lửa hành trình do quá lớn. Thế nhưng nay, ai cũng muốn có chúng. Dường như họ đang cố đối lại với thực tế là Trung Quốc đang ngày càng có nhiều hàng không mẫu hạm. Đó là dạng cách nói chúng tôi sẽ bắt kịp quí vị thôi. Quả thực chúng tôi có thể vượt quí vị".
Trung Quốc với mục tiêu trở thành một siêu cường biển đã có hai hàng không mẫu hạm đang hoạt động- Liêu Ninh và Sơn Đông ; và hiện đang cho đóng chiết thứ ba. Trung Quốc đã có lực lượng hải quân lớn nhất thế giới nhưng chủ yếu là những lớp tàu nhỏ hơn. Siêu hàng không mẫu hạm sẽ tăng cường mạnh mẽ sức mạnh của họ.
Cuộc chạy đua phát triển những hàng không mẫu hạm lớn hơn, tốt hơn nêu bật tình hình đáng ngại ở Biển Đông mà các nhà quan sát cho rằng là một trong những khu vực xung đột tiềm năng giữa các siêu cường.
Điều đó ở một mức độ cao cũng sẽ buộc các nước nhỏ, nghèo hơn trong khu vực phải chọn phe".
Ông nói thêm : " Tất cả những nước ASEAN nhỏ hơn sẽ thích Trung Quốc và Hoa Kỳ thuận thảo với nhau ; thế nhưng điều này sẽ không xảy ra và họ cố giữ vị thế ngoài cuộc khi mà tình thế mỗi lúc một khó thêm hơn".
Nguồn : RFA, 08/10/2021
Căng thẳng tại Biển Đông với việc Trung Quốc không ngừng quân sự hóa các đảo nhân tạo tại Trường Sa không chỉ khiến các láng giềng Châu Á hay Hoa Kỳ lo ngại. Sức mạnh trên biển của Trung Quốc có tham vọng vượt khỏi các vùng nước bao quanh quốc gia này gây lo ngại cho cả Châu Âu.
Việc Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông, bất chấp luật pháp quốc tế gây lo ngại. Trong ảnh, tàu Trung Quốc bảo vệ giàn khoan 981, hoạt động hồi đầu năm 2014, trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Ảnh chụp màn hình thanhnien.com
Trong bài viết "Cần làm gì trước sức mạnh hải quân Trung Quốc ?" (Que faire de la puissance navale chinoise ?), đăng ngày 03/07/2017, nhà chính trị học Pháp Mathieu Duchatel (1), nhấn mạnh đến mối đe dọa lớn về dài hạn mà Châu Âu cần phải đối mặt. Đó là ỷ vào sức mạnh hải quân và hàng hải, Trung Quốc có thể "trực tiếp thách thức hơn nữa" hệ thống luật pháp quốc tế về biển. Tăng cường hợp tác hải quân với Trung Quốc, đồng thời nỗ lực cách tân công nghệ hàng hải, được tác giả đề xuất như các biện pháp để hóa giải mối đe dọa này. RFI giới thiệu góc nhìn của nhà nghiên cứu Mathieu Duchatel.
Ỷ sức mạnh, thách thức luật pháp quốc tế
Nhà chính trị học Mathieu Duchatel nhấn mạnh "kịch bản tồi tệ nhất đối với Châu Âu" là một nước Trung Hoa ngày càng dựa vào sức mạnh hải quân bất chấp luật pháp quốc tế về biển, không cần chú ý đến hợp tác quốc tế. Điều này đặc biệt thấy rõ với phán quyết của một tòa án quốc tế trong vụ Philippines kiện Trung Quốc về Biển Đông, đưa ra hồi tháng 7/2016. Vụ kiện được coi là một thắng lợi của Manila được đông đảo các nước trên thế giới ủng hộ.
Tuy nhiên, nhà nghiên cứu của European Council on Foreign Relations lưu ý, thay vì coi phán quyết này là "một yếu tố quan trọng" bảo đảm sự ổn định quốc tế, thì Bắc Kinh lại ngày càng có xu hướng coi luật pháp quốc tế về biển như là "một công cụ thống trị của phương Tây". "Việc Trung Quốc quyết định không công nhận phán quyết của tòa để lại một tình thế nguyên trạng gây khó xử cho tất cả các bên".
Nhà chính trị học giải thích : Thái độ của Trung Quốc phơi bày sự "rạn nứt quốc tế" (clivage international) trong việc giải thích công ước Montego Bay, tức Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, gọi tắt là UNCLOS (United Nations Convention on the Law of the Seas). Tác giả khẳng định là lờ đi mối rạn nứt này không phải là giải pháp, bởi vấn đề không những sẽ trở lại, mà có thể còn trở nên "nghiêm trọng hơn", với "những thách thức trực tiếp hơn của Bắc Kinh đối với luật pháp quốc tế về biển".
Châu Âu đã chứng kiến các đảo nhân tạo mà Trung Quốc bồi đắp và quân sự hóa tại Trường Sa, Biển Đông, kể từ năm 2015, nguy cơ đụng độ giữa quân đội Trung Quốc và liên quân Mỹ-Nhật. Trong tình hình này, nhận xét có thể rút ra là trong hiện tại Châu Âu rất khó mang lại "một ảnh hưởng tích cực đối với vấn đề an ninh hàng hải Châu Á".
Tàu sân bay – bề nổi của tham vọng Trung Quốc
Hậu thuẫn cho thái độ bất chấp luật pháp quốc tế của Trung Quốc là sức mạnh hải quân mà nước này đang có kế hoạch phát triển, trước hết là các tàu sân bay. Theo nhà chính trị học Pháp, Châu Âu không nên "giả đò ngạc nhiên", trong năm năm nữa, khi một trong các tàu sân bay của quân đội Trung Quốc thả neo tại Djibouti (Đông Phi), nơi Bắc Kinh đang xây dựng một căn cứ quân sự đầu tiên ở nước ngoài.
Trong hiện tại, rất ít có khả năng Trung Quốc tiến hành một cuộc không kích tại vùng Vịnh hay miền đông Châu Phi. Tuy nhiên, điều này không phải là không thể, nếu một quốc gia yêu cầu Trung Quốc can thiệp để giành lại một phần lãnh thổ, như kiểu chính quyền Syria cầu viện Nga, hay việc tham gia vào một chiến dịch của liên quân quốc tế, được Liên Hiệp Quốc ủy nhiệm. Việc sở hữu tàu sân bay cho phép Trung Quốc dễ dàng thực hiện mục tiêu này.
Tàu sân bay vừa được dùng để giành ưu thế trong chiến tranh trên biển, cũng như là điểm tựa cho sức mạnh không quân, nhưng đồng thời cũng là một vũ khí răn đe, và phương tiện gây áp lực về ngoại giao. Một chuyên gia quân sự Trung Quốc coi tàu sân bay là "phương tiện gần nhất với binh pháp của Tôn Tử (Sun Tzu), cho phép khuất phục đối phương mà không cần chiến tranh". Cụ thể là, Bắc Kinh có thể tổ chức rầm rộ một cuộc sơ tán thường dân Trung Quốc khỏi một khu vực nguy hiểm tại một quốc gia khác, với sự hỗ trợ của một nhóm tàu chiến, với tàu sân bay làm trụ cột.
Theo nhà nghiên cứu Mathieu Duchatel, kể từ năm 2012, Bắc Kinh đã công khai nói đến "các chiến dịch quân sự không phải là chiến tranh", nhằm phục vụ cho "các lợi ích ở nước ngoài" của Trung Quốc, trong đó có việc bảo vệ kiều dân và đầu tư Trung Quốc.
Hải quân : Trọng tâm trong chiến lược toàn cầu
Ông Mathieu Duchatel nhấn mạnh là các tàu sân bay chỉ là bề nổi của sức mạnh hải quân mà Trung Quốc đang phát triển. Truyền thông Trung Quốc coi đây là biểu tượng của uy lực. Tuy nhiên, đây chỉ một phần "không đáng kể" trong các khoản đầu tư khổng lồ của Trung Quốc cho ngành đóng tàu và các khoa học và công nghệ về biển.
Năm 2012, tại Đại hội 18 của đảng Cộng Sản, Bắc Kinh chính thức đưa việc phát triển "sức mạnh hải quân qui mô lớn" vào hàng các mục tiêu chiến lược quốc gia. Trong Đại hội thứ 19, mùa thu năm nay, chắc chắn mục tiêu này sẽ được tái khẳng định. Hải quân sẽ tiếp tục được coi như một "phương tiện chính" để bảo đảm an ninh cho "giai đoạn toàn cầu kinh tế mới" của Trung Quốc, với đặc điểm là đầu tư mạnh ra nước ngoài.
Chiến lược quân sự chính thức của Trung Quốc được công bố năm 2015 coi các đại dương như lĩnh vực trọng yếu về an ninh, cũng như không gian và tin học. Chiến lược này đưa ra khái niệm "bảo vệ các vùng biển xa" (open seas protection), phối hợp với "phòng ngự biển gần" (offshore defense), vốn là trục chính trong chiến lược quân sự của Bắc Kinh cho đến lúc đó.
Nhà chính trị học Pháp đặt ra một loạt câu hỏi về chiến lược quân sự của Trung Quốc trong tương lai, mà Châu Âu cần hiểu rõ. Bắc Kinh sẽ ưu tiên phát triển sức mạnh quân sự trên biển hay trên bộ ? Chiến lược "biển xa" liệu có trở thành "chủ trương chính" của hải quân Trung Quốc ? Liệu Trung Quốc sẽ ưu tiên tàu ngầm nguyên tử trong hệ thống răn đe hạt nhân nói chung ? Phải chăng mục tiêu bảo vệ Con đường Tơ lựa trên biển sẽ quyết định đường hướng phát triển của hải quân Trung Quốc ? Và đặc biệt là vấn đề mối liên hệ giữa chiến lược Con đường Tơ lụa trên biển của Trung Quốc và các căng thẳng tại Biển Đông và Biển Hoa Đông hiện nay.
***
Để hóa giải những thách thức của Trung Quốc, nhà chính trị học Mathieu Duchatel ủng hộ việc Liên Hiệp Châu Âu gia tăng các hợp tác về hải quân với Bắc Kinh. Hiện tại các hợp tác mới chỉ giới hạn trong một số cuộc diễn tập chống hải tặc quy mô nhỏ tại vùng vịnh Aden, hay việc hộ tống các đoàn tàu biển của Chương Trình Lương Thực Liên Hiệp Quốc tới Somalia. Theo tác giả, Bruxelles hiện đã có kế hoạch nâng cấp các hợp tác.
Bên cạnh việc hợp tác hải quân, công nghệ đóng tàu và hàng hải nói chung của Trung Quốc cũng là "một thách thức kinh tế" đối với Châu Âu. Công nghệ hàng hải là một trong 10 lĩnh vực ưu tiên của chương trình "Made in China 2025", nhằm đưa Trung Quốc vươn lên dẫn đầu thế giới trong một số lĩnh vực then chốt.
Tác giả cảnh báo là trong hiện tại, nhiều người vẫn còn "khinh rẻ" trình độ công nghệ của Trung Quốc, nhưng về dài hạn Châu Âu rất có thể sẽ phải cạnh tranh với Bắc Kinh trong hàng loạt lĩnh vực như xuất khẩu tàu chiến, tàu du lịch hạng sang, công nghệ thăm dò, khai thác đáy biển. Các tiến bộ của Trung Quốc trong lĩnh vực này buộc Châu Âu phải có các chính sách hỗ trợ "cạnh tranh công nghiệp" một cách thích đáng.
Trọng Thành
Nguồn : RFI, 05/07/2017