Tạp chí Tuyên giáo hôm 4/6/2024 có bài nêu quan điểm và giải pháp để tăng cường đảm bảo an ninh văn hóa Việt Nam trong bối cảnh mới.
Ảnh minh họa chụp tại Nhà hát lớn Hà Nội năm 2023. AFP Photo
Theo bài viết này, phải coi an ninh văn hóa là phần quan trọng của an ninh quốc gia. Vì vậy, đảm bảo an ninh văn hóa cũng là đảm bảo an ninh của quốc gia ; mặt trận văn hóa cũng là một mặt trận trọng yếu của công tác an ninh…
Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng là một nhà khoa học sống tại Bỉ, người đã có 15 năm làm việc tại Việt Nam với mục đích giúp đất nước phát triển, hôm 5/6/2024 cho RFA biết ý kiến :
"Đây là một quan niệm xuất phát từ tinh thần toàn trị của chế độ, ở một nước mà văn hóa phải dựa trên quan điểm cực đoan và những sinh hoạt văn hóa chất chứa nhiều tuyên truyền chính trị. Họ vẫn coi văn hóa là một cái có thể liên quan đến sự sống còn của chế độ. Tôi nghĩ cái đó không làm tôi ngạc nhiên, đây là một hệ quả của một tính cách chung… Văn hóa bao gồm nhiều lĩnh vực lớn, có thể là văn chương, văn nghệ, lịch sử, ngay cả có thể là khoa học".
Cho nên chính cái quan điểm mà Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng cho là giáo điều này, theo ông đã ngăn cản sự phát triển về văn hóa của người Việt.
Bài viết trên Tạp chí Tuyên Giáo hôm 4/6/2024 còn cho rằng, phải đảm bảo khoa học, hài hòa, chủ động, tích cực và hiệu quả trong công tác lãnh đạo và quản lý văn hóa. Không thể quay lại thời kỳ "bế quan tỏa cảng", nhưng cũng không được phép buông lỏng, mất cảnh giác… Vì nếu buông lỏng sẽ dẫn đến sự chệch hướng, mở đường cho "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" từ bên trong...
Phó giáo sư - Tiến sĩ Hoàng Dũng, nhà nghiên cứu ngôn ngữ thuộc Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh nhận định với RFA hôm 5/6/2024 :
"Không quan trọng cái nhãn, mà quan trọng nội dung bên trong là cái gì ? Dán cái nhãn ‘phải bảo vệ di tích’ thì dễ dàng được người ta đồng ý, nhưng việc bảo vệ di tích lại bằng phá hoại di tích… thì cái đó là vấn đề. Nói là bảo vệ văn hóa cho nên có an ninh văn hóa, có những cái Cục ở Bộ Công an chuyên về văn hóa, gọi là an ninh văn hóa. Những người đó đi làm, thường thường dò xét, theo dõi văn nghệ sĩ… Có những trường hợp họ làm không phải là sai, nhưng có trường hợp là sai rõ ràng. Mà trong lịch sử Việt Nam thì biết bao nhiêu nhà văn, nhà thơ đã bị công an trừng trị, chúng ta biết cả".
Tóm lại theo Phó giáo sư - Tiến sĩ Hoàng Dũng, vấn đề không phải là cái nhãn an ninh văn hóa, hay bảo vệ di tích… cái nhãn không quan trọng lắm, quan trọng là đằng sau đó họ làm gì ?
Một Nhà báo ở Việt Nam không muốn nêu tên vì lý do an toàn hôm 5/6/2024 nhận định với RFA dưới một góc nhìn khác :
"Thứ nhất văn hóa Việt Nam hiện nay đã được nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam xác định là văn hóa xã hội chủ nghĩa, tức là dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin. Đây là một chủ nghĩa ngoại lai, như vậy văn hóa xã hội chủ nghĩa là một văn hóa ngoại lai. Tức là văn hóa không có nguồn cội của người Việt Nam, mà vay mượn ở nước ngoài. Vì vậy văn hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nó không học hỏi, mà nó chỉ là học đòi, vì vậy nó làm cho méo mó về nếp sống, nếp văn hóa của người Việt Nam. Đặc trưng dễ thấy nhất là hầu hết người dân đặt tiền tài và địa vị lên cao nhất. Chính nét văn hóa xã hội chủ nghĩa này đã hủy hoại cái quan trọng nhất, chính là nền tảng gia đình".
Thứ nhì, theo Nhà báo này, văn hóa Việt Nam hiện nay là một văn hóa không triết lý, chính vì vậy nó không có tính bảo tồn, mà chỉ là tính "ăn xài" cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng nền văn hóa của ông cha người Việt Nam để lại. Ông nói tiếp :
"Thứ ba là văn hóa Việt Nam hiện nay không tôn trọng lịch sử, mà chỉ ca ngợi một chiều. Do đó văn hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay không có tính trung thực. Cái thứ tư, văn hóa Việt Nam hiện nay gần như là mang nặng tính chính trị từ trong nước ra tới hải ngoại. Bằng chứng mới nhất là đôi vợ chồng nghệ sĩ xiếc Quốc Nghiệp và cô vợ là ca sĩ Ngọc Mai. Họ chỉ cần dính vô hình ảnh có cờ vàng ba sọc đỏ, là bị lên án chỉ chích, gia đình của đôi nghệ sĩ này ở Việt Nam hiện nay rất lao đao…".
Nhà báo này cho rằng, việc này mang động cơ chính trị quá nặng, xét về góc độ văn hóa. Thứ năm theo ông này văn hóa Việt Nam hiện nay không có tính thiện lương phản ánh qua vấn đề tôn giáo từ vụ việc mới nhất liên quan việc hàng trăm người dân kéo theo ông Thích Minh Tuệ. Nhà báo kết luận :
"Vì vậy nói tóm lại, văn hóa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay về vật thể bị tàn phá và hủy hoại quá nặng. Còn về phi vật thể thì nó không có tính bảo tồn, mà nó mang nặng tính lai căng, đua đòi. Vì một nền văn hóa vật thể và phi vật thể như vậy cho thấy hồn cốt của văn hóa Việt Nam hiện nay bị hủy hoại gần hết, đó là một nền văn hóa mất phương hướng, tức là một nền văn hóa bật gốc, chao đảo… Như vậy cho thấy không trông mong gì vào vấn đề an ninh cho văn hóa".
Và chính vì an ninh văn hóa của ban tuyên giáo đưa ra như vậy, theo Nhà báo này, lại càng cho thấy cơ hội của văn hóa ngoại lai xâm nhập, thôn tính vào Việt Nam một cách mãnh liệt, ít nhất hơn 25 năm qua. Thực trạng đó làm cho văn hóa của Việt Nam trở nên bê bối, bừa bãi và dân tộc tính của người Việt Nam bị xói mòn.
Nguồn : RFA, 05/06/2024
Ngôn ngữ của miền Nam Việt Nam đang tiếp tục bị xâm thực
Đỗ Thái Nhiên, 27/05/2024
Tin tức về đại họa ngôn ngữ địa phương bị xâm thực
Tháng 3/2022, Bến Bạch Đằng Sài Gòn bị đổi tên thành "Ga Tàu Thủy Bạch Đằng".
Sự kiện này đã dẫn đến những tranh luận trong dân gian chung quanh đề tài : Ngôn ngữ Hà Nội (ngôn ngữ miền Bắc) đang làm mờ dần sắc thái đặc biệt của ngôn ngữ miền Nam Việt Nam.
Diễn giả Đỗ Thái Nhiên
Ngày 4/3/2024, BBC News (tiếng Việt) đã phổ biến một bài viết có tựa đề : "Phương Ngữ Miền Nam Việt Nam đang tiếp tục bị xâm thực". Bài viết này ghi nhận rằng phương ngữ Hà Nội, phương ngữ đảng thì đúng hơn, đã tràn ngập các bảng chỉ đường, cách viết trên sách giáo khoa, trên báo chí. Sự kiện "xâm thực" kia xin được dẫn chứng bằng một số thí dụ điển hình như sau :
- Miền Nam gọi là bùng binh, Miền Bắc đổi thành vòng xuyến.
- Giao lộ, ngã 4, ngã 5 đổi thành nút giao
- Xe cộ : phương tiện giao thông
- Lái xe : điều khiển phương tiện giao thông
- Con rùa : cá thể rùa
- Đi dạo, đi lang thang : đi phượt
- Đi cổ vũ, đi hoan hô : đi bão
- Đương sự : đối tượng
- Nguyên đơn : bị hại
- Thực hiện nhiêm vụ : bám sát nhiệm vụ
- Có giá trị : chất lượng cao
- Thi hành hữu hiệu : làm rất tốt
Nhà báo Cù Mai Công, nguyên thư ký tòa soạn báo Tuổi Trẻ, một cây bút viết sách về Sài Gòn xưa, nói với BBC News tiếng Việt rằng : nếu kể về ngôn ngữ miền Bắc tràn vào miền Nam thì "nhiều lắm, kể không nổi đâu và cũng không cần kể vì ai cũng thấy, cũng nghe ra rả hàng ngày".
Vẫn theo bài viết của BBC News, sở dĩ ngôn ngữ Đảng cộng sản Việt Nam phủ sóng áp đảo trên toàn thể Việt Nam, đặc biệt là trên miền Nam Việt Nam là vì Hà Nội nắm lợi thế của truyền thông, lợi thế của bộ máy nhà nước. Sau đây là ba phương pháp chính yếu giúp Hà Nội thực hiện hành động xâm thực ngôn ngữ của địa phương miền Nam Việt Nam :
1. Nhà nước Hà Nội là chế độ toàn trị. Vì vậy Hà Nội nắm giữ độc quyền giảng dạy và độc quyền in sách giáo khoa cho sinh viên học sinh. Từ đó ngôn và lời của guồng máy giáo dục kia đều là ngôn ngữ đảng. Và cũng từ đó các thế hệ trẻ xuất thân từ hệ thống giáo dục của Hà Nội đều cảm thấy xa lạ mỗi khi nghe nói tới ngôn ngữ địa phương của Việt Nam, nhất là của miền Nam Việt Nam.
2. Nhà nước độc quyền xuất bản sách báo và độc quyền kiểm soát báo chí. Vì vậy muốn cho bài vỡ, sách báo đi qua cửa ải kiểm duyệt một cách êm ả, giới cầm bút tại Việt Nam thường phải viết theo cung cách của đảng, sử dụng ngôn ngữ đảng.
Đây là một quy định ngầm trong giới báo chí.
3. Đài VTV là đài truyền hình quốc gia duy nhất tại Việt Nam. VTV lại được vô số cơ quan truyền thông tiếp vận về địa phương. Điều này giải thích lý do tại sao hầu như toàn bộ truyền thông Viêt Nam đều tuyển dụng nhân viên truyền thanh, truyền hình nói giọng Bắc, viết kiểu đảng, dùng ngôn ngữ của đảng.
Sau cùng xin được nhấn mạnh : Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã long trọng minh định : "Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt.
Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, gìn giữ bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình". Rõ ràng Hà Nội thừa biết hành động bôi xóa ngôn ngữ địa phương của miền Nam Việt Nam là một việc làm trái với hiến pháp do chính chế độ Hà Nội viết ra ? Thế nhưng, tại sao Hà Nội vẫn quyết liệt hành động một cách có hệ thống ? Hà Nội trả lời câu hỏi này bằng cách nêu vấn đề "chuẩn hóa và thống nhất tiếng Việt" như một phương pháp mặc nhiên dẫn đến đoàn kết toàn dân, thống nhất nhân tâm. Lời lẽ biện minh kia của Hà Nội có thỏa đáng và nghiêm chỉnh hay không ? Người cầm bút xin được bình giải thắc mắc vừa kể ở phần nói về nhận thức đối với hiện tượng ngôn ngữ miền Nam Việt Nam bị xâm thực.
Nhận định về đại họa xâm thực ngôn ngữ địa phương
Nhận định về sự kiện ngôn ngữ miền Nam Việt Nam bị xâm thực, chúng ta không thể không khảo sát mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa.
Trái nghĩa với văn minh là dã man. Dã man là tình huống sống không có sự khác biệt giữa đời người và kiếp vật. Với đà tiến hóa của lịch sử, con người bắt đầu nhận ra đời người cần phải được tổ chức khác hẳn và cao cấp hơn kiếp vật. Từ đó ý niệm văn minh ra đời : văn minh là khoảng cách biệt trong sinh sống giữa đời người và kiếp vật. Và cũng từ đó mọi suy nghĩ và hành động nhằm làm cho xã hội loài người hóa thành văn minh hơn gọi là văn hóa.
Văn hóa qua sự truyền đạt của ngôn ngữ xác quyết rằng : điểm trội yếu của văn minh là sự đòi hỏi mọi người (cá nhân và pháp nhân tư nhân) sanh ra đều bình đẳng và rằng bình đẳng hàm ý bình đẳng về cơ hội sống : đời sống tinh thần và đời sống thể chất.
Xã hội loài người khởi đi từ bộ lạc, tiến lên làng xã rồi mới đến quốc gia. Nói rõ ra địa phương có trước quốc gia, đia phương là gốc rễ của quốc gia. Không có địa phương, không thể có quốc gia.
Mặt khác, Không có bất kỳ ngôn ngữ nào không xuất phát từ một địa phương cụ thể.
1. Ngôn ngữ là gạch nối giữa con người với con người.
2. Ngôn ngữ là phương tiện gói ghém phong tục tập quán, văn hóa địa phương và nhất là lòng yêu thương quê cha đất tổ.
3. Ngôn ngữ là chỉ dấu của tự do tư tưởng, tự do biểu tỏ trí thông minh và óc sáng tạo.
4. Ngôn ngữ là linh hồn của văn hóa địa phương.
Những điều vừa trình bày nói lên sự cách biệt giữa đời người và kiếp vật, đây là văn hóa. Ngôn ngữ đan quyện vào văn hóa, làm cho văn hóa được hiển lộ. Ngôn ngữ đích thực là linh hồn của văn hóa. Xâm thực ngôn ngữ địa phương chính là thủ tiêu sinh mệnh văn hóa của địa phương.
Nếu quốc gia là một guồng máy thì địa phương là những cơ phận của guồng máy kia. Trong trường hợp sinh hoạt của địa phương không tồn tại trên căn bản độc-lập-nhưng-liên-lập thì địa phương hiển nhiên là những gốc cây khô và quốc gia chỉ là quốc gia không gốc rễ, quốc gia do chế độ độc tài nhào nặn ra.
Từ mỗi địa phương lên đến quốc gia, tất cả đều được hình thành bởi hai yếu tố :
Linh hồn đia phương : lòng yêu thương dãy núi, bờ sông, hàng tre, ruộng lúa, yêu đồng quê, yêu tổ quốc, yêu đời sống tự chủ, yêu phong tục tập quán, yêu ngôn ngữ vùng miền, yêu cảnh quang quê cha, đất tổ, yêu "phép vua thua lệ làng"… Nói chung là yêu và sống quấn quyện trong văn hóa. Văn hóa thăng hoa sản sinh ra văn, thi, nhạc, họa.
1. Văn là ngôn ngữ của bút mực.
2. Thi là ngôn ngữ của vần điệu.
3. Nhạc là ngôn ngữ của âm thanh.
4. Họa là ngôn ngữ của màu sắc.
Ngôn ngữ thực sự là linh hồn của bốn viên ngọc quý, của văn hóa, là linh hồn của mỗi địa phương.
Hành chánh địa phương : (Cơ thể địa phương) cơ quan công quyền địa phương.
Hội đồng xã, xã trưởng, phó xã trưởng, các tiểu ban : y tế, giáo dục, an ninh, trật tự… tổ chức và điều động đời sống cho muôn dân.
Từ sau 30/04/1975, Đảng cộng sản Việt Nam nắm giữ toàn bộ guồng máy hành chánh Việt Nam từ trung ương tới địa phương. Riêng linh hồn của đia phương, nói theo kiểu Võ Văn Kiệt "bên cạnh một triệu người vui có một triệu người buồn". Lòng dân ly tán. Vì vậy, nhằm làm biến mất một triệu nỗi buồn kia Đảng cộng sản Việt Nam đã chiếm giữ linh hồn của địa phương bằng cách xâm thực phương ngữ, đặc biệt là phương ngữ miền Nam Việt Nam. Xin nhấn mạnh phương ngữ là linh hồn của văn hóa địa phương. Như vậy 30/4/1975 Đảng cộng sản Việt Nam chiếm giữ cơ thể (hành chánh) Việt Nam.
Ngày nay bằng hành động xâm thực phương ngữ Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam đang chiếm giữ linh hồn Việt Nam. Do đó, Đảng cộng sản Việt Nam đã thực hiện được tham vọng chiếm giữ cả cơ thể lẫn linh hồn Việt Nam.
Sự thể này dẫn đến hệ quả đời sống tình cảm của người Việt Nam : tình yêu con cái đối với cha mẹ , tình bằng hữu, tình yêu nam nữ, yêu quê hương, yêu bờ cây bụi cỏ, yêu địa phương, yêu tổ quốc đều bị triệt để bôi trắng… Sau một loạt bôi trắng kia cộng với giáo dục nhồi sọ, trong tâm khảm của mỗi người dân Việt Nam sống dưới chế độ cộng sảnn chỉ còn lại một loại tình yêu đơn độc đến lạ lùng : yêu tổ quốc tức yêu xã hội chủ nghĩa. Nói ngắn và gọn toàn dân chỉ có một nghĩa vụ duy nhất phải tuân hành : yêu đảng và trung với đảng.
Người Việt Nam nghĩ gì và làm gì trước đại họa xâm thực ngôn ngữ địa phương
Xin được nhắc lại : Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã long trọng minh định : "Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, gìn giữ bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình". Rõ ràng Hà Nội thừa biết hành động xâm thực ngôn ngữ địa phương của miền Nam Việt Nam là một việc làm trái với xu thế sống bình thường của loài người. Hành động vừa kể của chế độ Hà Nội đã thực sự chống lại điều 1 của Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền ngày 10/12/1948 : "Mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng". Mọi người bao hàm cá nhân và pháp nhân tư nhân (gia đình, làng xã, địa phương). Bình đẳng có nghĩa là mọi người đều được tôn trọng như nhau. Mỗi người là một nguyên. Nguyên là đầu, là trước tiên : nguyên thủ quốc gia, tết nguyên đán (ngày đầu năm), nguyên nguyệt (tháng giêng)… Mọi người đều là nguyên, đều có quyền bình đẳng. Dân số hàng triệu người là hàng triệu nguyên. Vì vậy xã hội ắt phải đa nguyên. Làm sao lý tưởng đa nguyên được thực thi ? Hãy tìm giải đáp cho câu hỏi vừa nêu bằng cách khảo sát đời sống của một gia đình. Gia đình phụ hệ : mọi quyết định về quyền lợi của gia đình đều nằm trong tay người cha. Nếu tổ chức gia đình được hình dung như một kim tự tháp thì người cha ngự trên đỉnh kim tự tháp, mẹ và con cái an phận nằm ở đáy kim tự tháp. Trong gia đình kim tự tháp, đời sống tự giác của mẹ và con cái của mẹ đều bị triệt tiêu.
Theo đà phát triển của nhân văn, gia đình kim tự tháp đang nhanh chóng chuyển đổi thành gia đình hạch tâm (nuclear family). Hạch tâm còn gọi là nguyên tử vật chất. Hạch tâm gồm các điện tử âm, điện tử dương và trung hòa tử xoay quanh nhân nguyên tử theo một trật tự bền bỉ, không lãnh tụ, mỗi điện tử di chuyển trên quỹ đạo riêng, không lấn át lẫn nhau. Tương tự như vậy, trong gia đình hạch tâm : Cha, mẹ, con cái mỗi người là một cơ phận của gia đình, mỗi người là một nguyên. Mọi quyết định của gia đình đều lấy quyền lợi chung của gia đình làm chuẩn mực duy nhất trong việc dẫn đạo gia đình. Điều này giải thích lý do tại sao gia đình hạch tâm không có gia trưởng nhưng vẫn bình ổn.
Bây giờ, chúng ta hãy phóng chiếu mô thức gia đình hạch tâm lên địa bàn quốc gia để có được sự chuyển đổi từ hành chánh kim tự tháp lên hành chánh hạch tâm.
Xã hội hạch tâm chính là môi trường thích nghi trong việc tạo điều kiện để mỗi địa phương là một nguyên của quốc gia đa nguyên. Trong quốc gia đa nguyên, tất cả văn hóa địa phương (ngôn ngữ địa phương là linh hồn) đều được tự do vận động và phát triển, không có vấn đề ngôn ngữ đảng xâm thực ngôn ngữ địa phương.
Câu hỏi kế tiếp : Tất cả ngôn ngữ địa phương đều được tư do vận động và phát triển, như vậy, đâu là con đường tiến đến thống nhất ngôn ngữ Việt Nam ? Thưa rằng Bạn hãy hình dung ngôn ngữ như một guồng máy, mỗi ngôn ngữ địa phương là một cơ phận của guồng máy ngôn ngữ kia. Những giao dịch trong guồng máy vừa kể đã đãi lọc các loại phương ngữ của quốc gia để cuối cùng sản sinh ra ngôn ngữ Việt Nam thống nhất. Cứ như vậy, phương ngữ tiếp tục giao thoa, tiếp tục đãi lọc lẫn nhau và tiếng Việt tiếp tục thống nhất trong sinh sinh hóa hóa. Đây chính là chân ý nghĩa của sinh ngữ trong ngôn ngữ.
Thống nhất ngôn ngữ phải là kết quả của quá trình đãi lọc các phương ngữ trên căn bản tôn trọng tính sinh ngữ của ngôn ngữ. Quan điểm này là sự phản kháng mạnh mẽ mọi hành động thống nhất ngôn ngữ bằng cách dùng "ngôn ngữ đảng" để xâm thực những phương ngữ khác trên toàn Việt Nam. Ngôn ngữ là linh hồn của văn hóa. Thống nhất ngôn ngữ nhưng vẫn bảo vệ được tính sinh ngữ của ngôn ngữ là phương pháp khoa học và thích nghi nhất trong công việc vừa xây dựng ngôn ngữ chung vừa giúp cho văn hóa liên tục phát triển trong phong phú, thông minh và sáng tạo.
Quần chúng sản sinh ra văn hóa. Văn hóa địa phương là cỗi gốc của văn hóa quốc gia. Văn hóa từ đảng ban bố xuống địa phương thông qua "đảng ngữ" là văn hóa phản xu thế sống, phản nhân văn.
Câu chuyện "đảng ngữ" xâm thực phương ngữ Việt Nam với hậu ý "đảng hóa văn hóa Viêt Nam" đã mở ra trong tâm trí người Việt hải ngoại nghĩa vụ phục hoạt văn hóa truyền thống của Tổ tiên Việt.
Phục hoạt văn hóa Việt theo chỉ hướng nào ? Thưa rằng : tất cả những gì phục vụ đời sống của con người, những gì thuận theo lòng người đều hàm chứa trong văn hóa Việt. Điều này đã giải thích tại sao nhạc vàng của miền Nam Việt Nam trước 1975 vẫn lừng lững phục sinh mặc cho mọi nỗ lực triệt để ngăn cấm của Đảng cộng sản Việt Nam.
Xin được nhấn mạnh : ngay sau 30/04/1975 người Việt hải ngoại trên bước đường ly hương đã mang theo văn hóa Việt, đặc biệt là mang theo nhạc vàng. Sau thời gian ổn định đời sống trên đất khách, người Việt hải ngoại không ngừng tiếp tục sáng tác và phổ biến nhạc vàng, xem nhạc vàng như những bài kinh nhật tụng gói ghém tấm lòng thương nhớ đồng bào, thương nhớ quê hương... Khi tâm tình của nhạc vàng lên tới đỉnh điểm, khi nhạc vàng lan tỏa về tới Việt Nam theo tâm lý "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu", nhạc vàng trở thành gạch nối lớn, gạch nối chặt chẽ giữa người Việt trong và ngoài nước. Từ đó nhạc vàng hiên ngang hồi sinh ngay trên quê Mẹ Việt Nam, bất chấp sự cấm cản nghiêm khắc của nhà cầm quyền Hà Nội.
Nương vào phương cách phục hoạt của nhạc vàng, người Việt hải ngoại hãy thân mến ngồi xuống bên nhau, cùng nhau thảo luận về văn hóa truyền thống Việt. Nền tảng của văn hóa truyền thống Việt là ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích dân gian... Trực tiếp ngắm nhìn dòng sống Việt, khảo cứu kho tàng văn chương bình dân, các tác giả Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Lý Đông A và nhiều nhà tư tưởng khác... đã hệ thống hóa, chi tiết hóa kho tàng văn chương kia để xây dựng thành tư tưởng truyền thống văn hóa Việt. Mang văn hóa này phổ vào bốn viên ngọc quý : văn, thi, nhạc, họa. Từ bốn viên ngọc vừa kể, văn hóa Việt Nam hải ngoại sẽ tràn về quê hương Việt một cách êm ái nhưng mạnh mẽ và rộng khắp.
Đi theo văn hóa truyền thống được phục hoạt, tự do dân chủ sẽ đến với Việt Nam chậm rãi nhưng vững vàng đúng như hình ảnh nhạc vàng đã bừng bừng sống lại trên toàn cõi Quê Hương Việt.
Đỗ Thái Nhiên
(27/05/2024)
***********************
Phương ngữ miền Nam Việt Nam đang tiếp tục bị 'xâm thực' ?
Nguyễn Thanh Lợi, Cù Mai Công, BBC, 04/03/2024
Từ cuộc tranh luận liên quan đến cách gọi ‘Ga tàu thủy Bạch Đằng’, nhiều câu hỏi đã được đặt ra xung quanh một vấn đề lớn hơn: sự áp đặt ngôn ngữ làm mờ dần đặc trưng phương ngữ miền Nam.
Ảnh chụp ngày 1/3 tại Sài Gòn.
Dù rằng "ga tàu thủy" không hẳn là một từ miền Bắc, nhưng vấn đề phương ngữ vẫn trở thành một chủ đề tranh luận sôi nổi. Trong đó, không ít ý kiến cho rằng phương ngữ Hà Nội, phương ngữ miền Bắc, với lợi thế của truyền thông, của bộ máy nhà nước, đang "phủ sóng" ngày một rộng tại miền Nam, lấn át cách dùng từ truyền thống của người miền Nam.
Biểu hiện rõ nhất của việc này là các bảng chỉ đường, các cách viết trên báo chí, sách giáo khoa.
Một người dùng Facebook có tên Han Phan bình luận trên trang cá nhân :
"Xúm nhau chửi vụ ‘Ga tàu thủy Bạch Đằng’, tôi nghĩ các bạn cũng nên thử suy xét sâu xa hơn một chút, tại sao họ muốn làm điều đó ? Như cách họ thay biển báo giao thông khắp miền Nam từ ‘bùng binh’, ‘vòng xoay’ thành ‘vòng xuyến’ ; ‘giao lộ’, ‘ngã 4 - ngã 5’ thành ‘nút giao’ kiểu ngoài Bắc. Mặc nhiên chọn tiếng Bắc thành ‘quốc ngữ’, mỗi ngày đều tìm cách triệt phá sự đa dạng của phương ngữ vùng khác, nhất là ngôn ngữ cũ của Miền Nam trên mọi phương diện đọc, viết, đặc biệt là sách giáo khoa".
Và người này đặt ra câu hỏi : "Trong khi nhiều tổ chức quốc tế người ta còn tìm cách cứu lấy ‘tử ngữ’, giữ gìn sự đa dạng ngôn ngữ của các quốc gia nhỏ, sắc tộc thiểu số... để giữ gìn đa dạng văn hóa, bản sắc, giữ gìn một thế giới phong phú... Thì tại sao giáo dục của ta, bộ máy tuyên truyền và kiểm duyệt của ta luôn nỗ lực hướng đến sự rập khuôn, đồng hóa ?".
Ví dụ nhiều đến mức 'không kể nổi đâu'
Nhà báo Cù Mai Công, nguyên thư ký tòa soạn báo Tuổi Trẻ, một cây bút viết sách về Sài Gòn xưa, nói với BBC News tiếng Việt rằng nếu kể về những ví dụ ngôn ngữ miền Bắc tràn vào miền Nam thì "nhiều lắm, kể không nổi đâu và cũng không cần kể vì ai cũng thấy, cũng nghe ra rả hằng ngày".
Ông nêu những ví dụ như 'sử dụng’ (dùng, xài), 'rẽ' (quẹo), 'ô tô' (xe hơi), ‘phố’ trên các bảng hiệu, bảng tên hiện nay cho đến chống dịch Covid chính thức của Việt Nam như 'đi từng ngõ, gõ từng nhà'.
Nhà báo Cù Mai Công đánh giá, "Ngôn ngữ văn bản hiện nay thì khỏi nói rồi, tràn ngập gốc Hán Việt như 'nỗ lực, đối tượng, phương tiện'… rất khó đọc".
"Vậy nên mới đẻ ra chuyện gọi 'phương tiện' thay 'xe cộ', 'đối tượng' (vốn chỉ một tập thể) thành 'đối tượng Nguyễn Văn A', 'điều khiển phương tiện giao thông' thay cho cầm lái, 'cá thể' (rùa chẳng hạn) thay cho con rùa…".
Có thể thấy ‘đối tượng’, ‘phương tiện’… là những từ vựng hiện được sử dụng rất thường xuyên trong các bản tin an toàn giao thông, an ninh trật tự trên nhiều báo đài ở Việt Nam hiện nay.
"Đó không phải là văn phong, cách viết báo chí," nhà báo Cù Mai Công đánh giá.
Chia sẻ những hình ảnh các bảng chỉ đường dùng các cách gọi 'nút giao', 'vòng xuyến' lạ lẫm với người Sài Gòn, nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Lợi nói rằng từ "bùng binh" là chính xác nhất và đã được dùng từ trước 1975.
Sau đó, những năm gần đây đã xuất hiện tranh cãi ở Việt Nam liên quan đến 'nút giao', 'vòng xoay', 'vòng xuyến' để thay cho từ 'bùng binh', ông cho rằng 'nút giao' là từ tạm chấp nhận được trong số những từ được đề xuất. Tuy nhiên, từ 'nút giao/vòng xoay công trường', theo ông là không hợp lý vì bản thân 'công trường' đã mang nội hàm là một tiểu đảo, xe cộ di chuyển xung quanh, thêm từ "nút giao" là thừa.
Về 'tàu bay', theo ông Lợi, đây là phương ngữ Bắc Bộ, ở miền Nam, người dân quen gọi là 'máy bay' hay 'phi cơ' hơn.
Nguyên nhân một phần từ giáo dục ?
Phụ huynh em Bảo Hân, một học sinh lớp bốn tại Đà Nẵng, chia sẻ cho BBC News tiếng Việt về sách giáo khoa Tiếng Việt.
Từ ngữ được xài thống nhất gồm nhiều từ gốc Bắc, như 'bố' thay cho 'ba' như trong bài tập đọc 'Người thầy đầu tiên của bố tôi'.
Vì gia đình là gốc Bắc nên vị phụ huynh này cũng không có ý kiến gì thêm.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định :
"Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình".
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 quy định : "Ngôn ngữ trong văn bản quy phạm pháp luật là tiếng Việt".
Luật Giáo dục 2019 quy định : "Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức dùng trong cơ sở giáo dục".
Từ Thành phố Hồ Chí Minh, nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Thanh Lợi, tác giả của một số sách về văn hóa Nam Bộ như 'Sài Gòn đất và người', 'Ghe bầu Nam Trung Bộ và ghe xuồng Nam Bộ'... cho rằng phương tiện truyền thông, giáo dục "đã gia tăng áp lực lên việc sử dụng ngôn ngữ toàn dân ở miền Bắc lên thói quen sử dụng ngôn ngữ ở miền Nam".
"Các nhà soạn sách giáo khoa thường dùng ngôn ngữ miền Bắc để gọi tên các sự vật, hiện tượng ở miền Nam như : mãng cầu (na), đậu phộng (lạc), đậu (đỗ), heo (lợn), kiếng (gương), chén (bát), ly (cốc), muỗng (thìa), dĩa (đĩa), tập (vở), giỏ (làn)… Trẻ học cấp một làm sao phân biệt được 'cọng' giá với 'giá đỗ', hay rất xa lạ với 'đỗ xanh' (đậu xanh)… Rồi sách giáo khoa thì viết là 'vâng' nhưng về đến nhà lại dùng từ 'dạ'".
"Nếu không chú trọng giáo dục ngôn ngữ địa phương, thì viễn cảnh đến ngày nào đó, học sinh không thể đọc hiểu các tác phẩm của những nhà văn giàu chất Nam Bộ như Hồ Biểu Chánh, Sơn Nam, Nguyễn Ngọc Tư… là không xa. Chúng sẽ trở nên 'xa lạ' ngay chính trên quê hương bản quán, trong không gian văn hóa của mình vì đã bị đánh mất ngôn ngữ bản địa", nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Thanh Lợi nói với BBC News tiếng Việt.
Có quy định 'ngầm' trong báo chí ?
Nhà báo Cù Mai Công cho BBC biết trong 40 năm làm báo ở Việt Nam thì không ai bị xử lý khi viết tin bài xài giọng Nam, quy định cũng không có
Là người gốc Bắc, nhà báo Cù Mai Công cho biết trong gần 40 năm làm báo chính thức, ông chưa đọc được một văn bản, quy định nào yêu cầu phải dùng từ này hay từ kia.
"Khi còn làm báo, nhiều lần tôi cũng nói điều này với anh em Tuổi Trẻ rằng : có ai xài giọng, phương ngữ miền Nam mà bị kỷ luật hay nhắc nhở đâu".
"Xin nói rõ : hồi làm tòa soạn báo Tuổi Trẻ, khi biên tập một số tin bài sự kiện ở miền Nam, tôi thay 'vào' thành 'vô', 'ô tô' thành 'xe hơi', 'điều khiển phương tiện giao thông' thành 'cầm lái'…, chưa bao giờ bị ai nói gì. Nhiều anh em còn ủng hộ. Nên nói áp đặt có lẽ không đúng. Chủ yếu là bắt chước, ảnh hưởng nhau, dần dà thành văn phong, thói quen".
"Đây mới là nguyên nhân tiềm ẩn, tế nhị và nhạy cảm: cứ copy - paste văn bản, nghị quyết, quy định… cho an toàn, không cần quan tâm người đọc có hiểu không, thậm chí tôi nghĩ có khi cả người viết lại văn bản đó có khi cũng không hiểu?"
Nhà báo Cù Mai Công cho biết không ai bị xử lý khi viết tin bài dùng giọng Nam, quy định cũng không có.
Hiện Đài Truyền hình Việt Nam (VTV) là đài truyền hình quốc gia duy nhất ở Việt Nam, với chủ yếu là biên tập viên, phát thanh viên là người miền Bắc, cũng có người miền Nam nhưng số lượng không nhiều.
Các đài địa phương cũng tiếp sóng các chương trình của VTV. Vấn đề này cũng đã được dư luận tranh luận mạnh mẽ vài năm trước đây liên quan đến việc cần có bản sắc, cụ thể là giọng nói miền Nam trên sóng truyền hình quốc gia.
Báo Sài Gòn Giải phóng cũng từng gây phản ứng với việc thay vì dùng 'ruột/vỏ xe' thì viết là 'xăm/lốp xe', hay 'ngàn năm' thì viết là 'nghìn năm'...
Nhà báo Cù Mai Công nhận định với BBC News tiếng Việt như sau :
"Tại sao giọng Bắc hiện nay vẫn từng bước trở thành giọng chính trên báo chí, truyền thông lẫn mạng xã hội - kể cả nhiều tác giả vốn là Nam rặt, ăn nói bình thường vẫn là giọng Nam, giọng Sài Gòn, nhưng khi viết lại toàn xổ giọng Bắc.
"Còn cái gọi là 'ngôn ngữ miền Bắc' hiện nay không hẳn là ngôn ngữ miền Bắc đâu. Nhiều người biết đó là 'ngôn ngữ văn bản' mà nhiều tin bài truyền thông đang copy - paste [sao chép] thành tin bài của mình".
"Giọng, ngôn ngữ Bắc trước đây, như đọc một bản tin, một bài báo của báo chí miền Bắc cách đây 20, 30, 40 năm vẫn đơn giản, dễ hiểu vì dùng nhiều tiếng Việt. Trước 1954 thì báo chí, văn chương miền Bắc cũng viết mộc mạc nhưng rất thu hút," nhà báo Cù Mai Công đánh giá.
Từng có ‘nhập gia tùy tục' từ Bắc vô Nam tử tế ?
Năm 1954 là năm Hiệp Ðịnh Genève được ký kết, chia lãnh thổ Việt Nam thành hai miền Nam, Bắc, mở đầu cho cuộc di cư của khoảng một triệu người từ Bắc vô Nam.
Trước 1975 và trước 1954, ngôn ngữ, giọng Bắc cũng đã xuất hiện ở miền Nam, nhất là khi trên dưới một triệu đồng bào Bắc di cư 1954 tràn vào miền Nam, vào Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn.
Nhà báo Cù Mai Công cho biết đã có sự nhập gia tùy tục "rất tử tế" từ năm 1954 của người miền Bắc khi họ di cư sang miền Nam.
"Nhiều văn nghệ sĩ gốc Bắc di cư hồi 1954 đã mang giọng điệu đó vào Nam, vào Sài Gòn… đã được người miền Nam, người Sài Gòn tiếp nhận rất ngọt".
"Nhiều danh ca như Thái Thanh, Khánh Ly… đã hát giọng Hà Nội 100%, âm "r" thành "gi", "tr" thành "ch", "ưu" thành "iu", "ươu" thành "iêu"… Có danh ca như Hà Thanh gốc Huế cũng hát giọng Hà Nội. Đọc truyện viết trước 1975 của nhà văn gốc Bến Tre là Từ Kế Tường đã thấy thấp thoáng giọng, từ, ngôn ngữ Bắc. Nhạc có "phố đêm, đèn mờ giăng giăng…" (Phố đêm), "Thằng bé âm thầm đi vào ngõ nhỏ"…
"Đó là chưa nói đến thái độ đàng hoàng, tử tế của việc 'nhập gia tùy tục'. Nhà thơ Tố Hữu xưa khi nói về Sài Gòn trong bài 'Ta đi tới' cũng viết : 'Ai vô thành phố Hồ Chí Minh...' chứ không dùng 'vào'. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng viết : 'Từ Bắc vô Nam nối liền nắm tay' (Nối vòng tay lớn)…".
Tuy nhiên, theo cây bút Cù Mai Công thì nếu so với ngày xưa, ngôn ngữ miền Bắc "không tràn ngập, áp đảo các giọng khác như gần đây và càng lúc càng phổ biến" như hiện nay.
Nên có luật Tiếng Việt ?
Hình ảnh cụm từ 'Ga tàu thủy Bạch Đằng' bị tháo dỡ hôm 29/2/2024, để thay bằng 'Bến tàu Bạch Đằng'
Tiếng Việt là một ngôn ngữ có ba phương ngữ chính gồm phương ngữ Bắc Bộ, phương ngữ Bắc Trung Bộ và phương ngữ Nam Bộ.
Qua vụ "Ga tàu thủy Bạch Đằng" chuyển thành "Bến tàu Bạch Đằng", có một luồng dư luận cho rằng cần có tính thống nhất trong đa dạng, thay vào việc "âm thầm" lấy phương ngữ Bắc Bộ làm chuẩn quốc gia.
Trăn trở về vấn đề này, nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Lợi nhận định phương ngữ (từ địa phương) tồn tại trong lời ăn, tiếng nói của quần chúng, là vốn ngôn ngữ văn hóa để biểu thị các sự vật, hiện tượng, con người ở địa phương, thể hiện bản sắc của vùng miền, đóng góp vào kho tàng ngôn ngữ chung của dân tộc.
"Giao thoa ngôn ngữ giữa các vùng miền là quy luật mang tính tất yếu, tạo ra sự phong phú, đa dạng hơn vốn từ ngữ cũng như việc sử dụng các lớp từ đó. Nhưng sự áp đảo của từ toàn dân đối với phương ngữ miền Nam là một thực trạng nhức nhối đang diễn ra theo chiều hướng mất kiểm soát, bất lợi bởi sự tùy tiện.
"Việc sử dụng ngôn ngữ mang tính chất tự giác, không thể có sự can thiệp 'thô bạo', nhân danh 'sự thống nhất' mà đánh mất đi 'tính đa dạng' của nó. Bảo tồn ngôn ngữ chính là bảo tồn văn hóa, vì đó là hồn cốt của dân tộc. 'Tiếng ta còn, nước ta còn' (Phạm Quỳnh). Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là đây," nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Lợi nói.
Ông cũng đồng thời đề cập đến khả năng nhà nước Việt Nam cần có một chính sách về ngôn ngữ nhất quán, như Luật Tiếng Việt, trong đó quy định một cách rõ ràng về việc sử dụng ngôn ngữ của các vùng miền, mối quan hệ giữa từ toàn dân và phương ngữ và phải được thực hiện một cách triệt để trên mọi bình diện, nhất là vai trò của giáo dục và truyền thông.
Đặc biệt theo ông, giới văn nghệ sĩ có vai trò quan trọng trong việc phổ biến kiến thức về phương ngữ thông qua các tác phẩm của mình.
Theo nhà báo Cù Mai Công thì, "Thống nhất, chuẩn hóa tiếng Việt không có nghĩa là phủ nhận, làm thui chột bất kỳ giọng nói, từ vựng Việt nào. Tự điển xưa khi giải nghĩa một từ chính, thường mở ngoặc ghi chú từ địa phương tương đương là vậy.
"Đây là một vấn đề rất lớn, nên có nhiều hội thảo cấp quốc gia có sự góp sức chung tay của các bậc trí giả, thưc giả, túc nho, nhà ngôn ngữ… trong và ngoài nước," ông chia sẻ.
Cây bút Cù Mai Công, người cũng đang ấp ủ một tác phẩm mới về ngôn ngữ Nam Bộ, nói : "Việt Nam vốn có nền văn hóa và ngôn ngữ đa dạng, đây là điều đáng quý, tạo nên sự đa dạng, phong phú của các vùng miền và tận dụng, làm giàu cho vốn từ vựng của ngôn ngữ Việt nói chung. Giọng nói, ngôn ngữ nơi nào ở Việt Nam cũng có nét đẹp riêng của mình, không thua kém nhau".
"Bất kỳ một giọng nói, ngôn ngữ, từ vựng… của nơi nào bị lãng quên đều là điều rất đáng buồn, thậm chí đau lòng", ông cho biết.
Nguồn : BBC, 04/03/2024
Mì ăn liền là một dạng mì sấy khô đóng gói, cho nước sôi vào vài phút là có thể ăn ngay. Ưu điểm của ‘mì ăn liền’ là rẻ, nhanh và tiện lợi dù chất lượng dinh dưỡng không cao. Việt Nam là một quốc gia luôn tự hào về truyền thống ẩm thực, nhất là ẩm thực đường phố, tuy vậy mỗi năm người dân Việt Nam đã tiêu thụ khoảng 5 tỉ gói mì ăn liền. Việt Nam đứng thứ 4 trên thế giới về lượng mì tôm tiêu thụ, với giá trị hơn 1 tỉ USD.
Mỗi năm người dân Việt Nam đã tiêu thụ khoảng 5 tỉ gói mì ăn liền. Ảnh Cafebiz
Cuộc sống càng bận rộn thì nhu cầu dùng mì ăn liền càng lớn, hơn nữa các loại mì ăn liền luôn được các nhà sản xuất thay đổi và nâng cấp cho phù hợp với mọi tầng lớp. Các chế biến bằng cách cho thêm thịt, hải sản vào mì ăn liền cũng khiến chất lượng và khẩu vị món ăn dân dã này ngày càng thêm hấp dẫn. Bản thân tôi thỉnh thoảng mới dùng mì ăn liền vì chỉ 3-4 tiếng sau là đã thấy đói và do bạn bè khuyên nên hạn chế món này vì mì bị sấy quá kỹ nên bị khét và mất hết chất, nếu ăn phải chần qua nước sôi, đổ nước đó đi rồi hãy ăn…
Tôi không phải là một chuyên gia dinh dưỡng và ăn uống nên chỉ biết về mì ăn liền đến thế. Sỡ dĩ phải nhắc đến ‘mì ăn liền’ vì thấy nó liên quan mật thiết đến văn hóa người Việt chúng ta. Ông bà ta có câu tục ngữ đồng nghĩa với mì ăn liền là : ‘Ăn xổi, ở thì’. ‘Ăn xổi’ ở đây có nghĩa là ăn ngay, ăn luôn. ‘Ở thì’ có nghĩa là chỉ biết sống theo từng giai đoạn (thời gian) ngắn (thì) mà không cần nghĩ đến tương lai. Câu này có nghĩa chung là ‘chỉ tính và nghĩ đến chuyện tạm bợ trước mắt mà không suy tính đến chuyện lâu dài’.
Thiển cận, hời hợt, chỉ tính cái lợi nhỏ trước mắt mà không tính đến hậu quả trong tương lai là những tính cách khá phổ biến của người Việt chúng ta. Ví dụ thì vô vàn, một ví dụ, khi đánh bắt cá người nước ngoài thường dùng những loại lưới có kích cỡ đúng với loại cá đủ cân để bắt, những con cá nhỏ chừa lại lần sau bắt, còn ở Việt Nam thì nhiều người sẵn sàng dùng thuốc nổ để đánh cá, làm thế không chỉ hủy hoại môi trường mà còn tiêu diệt tất cả các sinh vật khác dù nhỏ hay lớn. Những người này không cần biết sau này sẽ đánh bắt cái gì, vì cá đâu còn để bắt.
Không chỉ người dân mà cả trí thức xã hội chủ nghĩa lẫn chính quyền cộng sản hiện nay cũng vậy, tất cả chỉ thích ‘ăn ngay và ăn luôn’. Bằng cấp thì đi mua khỏi cần học cho mất thời gian. Để tiến thân nhanh thì không ít người sẵn sàng đi bằng đầu gối. Quan chức chưa làm đã tính chuyện tham ô, tham nhũng, sẵn sàng vì mối lợi một đồng cho bản thân mà làm mất đi hàng trăm, hàng nghìn đồng của chung.
Chính quyền Việt Nam vì tham nhũng và muốn cho đầu tư nước ngoài vào làm ăn mà sẵn sàng bỏ qua mọi qui định về bảo vệ môi trường khiến hàng triệu người dân bị ảnh hưởng nặng nề, Formosa là một ví dụ. Đảng cộng sản cũng thừa biết là chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Mác-Lê đã lỗi thời và lạc hậu nhưng vì quyền lợi của cá nhân mà họ sẵn sàng dùng bạo lực và nhà tù để khuất phục mọi tiếng nói trái chiều nhằm duy trì một thể chế chính trị lạc hậu nhất trên quả đất, còn tương lai đất nước và người dân Việt Nam mặc kệ…
Luồn lách cũng là một biểu hiện của văn hóa mì ăn liền của người Việt. Ai cũng muốn được việc mình mà sẵn sàng đạp lên đầu người khác để đi, có người chỉ vì một cuốc taxi hay xe ôm mà ra tay đoạt mạng người khác. Trong những ngày đầu năm thì hàng vạn người trên khắp đất nước đổ xô về các chùa chiền để xin lộc và cầu may trong đó không ít các quan chức và doanh nhân. Đây cũng là tâm lý ‘ăn xổi ở thì’, thay vì tin vào bản thân mình, vào công việc của mình thì họ muốn giàu nhanh, thành công ngay nên van vái cầu xin đủ các loại thánh thần. Những người thiếu hiểu biết và nghèo khổ thì chỉ biết trông mong vào các thế lực siêu nhiên vì bất an và tuyệt vọng còn những kẻ giàu có thì sẵn sàng bỏ ra một đống tiền để mua một xuất định cư ở nước ngoài, những kẻ có học thì sẵn sàng hùa với chính quyền để nói những điều dối trá, đổi trắng thay đen, bất chấp sự thật…
Tất cả đều "ở thì", sống ngày nào biết ngày ấy.
Không ai nghĩ đến chuyện làm thế nào để thay đổi hiện tại ngày hôm nay và chắc chắn càng không mấy ai nghĩ đến chuyện tương lai cho Việt Nam. Tất cả đều "ở thì", sống ngày nào biết ngày ấy.
Bây giờ tôi sẽ đề cập đến phong trào dân chủ Việt Nam, đây là những người được xem là dũng cảm và có trách nhiệm nhất của đất nước. Họ đã làm được gì trong 43 năm qua sau biến cố 30/4/1975 ? Thành công nổi bật nhất của họ là làm lố bịch tư tưởng cộng sản của chủ nghĩa Mác-Lê và làm xói mòn tính chính danh của đảng cộng sản. Nhiều người sẵn sàng thách thức và đương đầu với chính quyền dù phải chịu những bản án nặng nề… Tuy nhiên cái đích cuối cùng là thay đổi chế độ độc tài toàn trị tại Việt Nam thành một chế độ dân chủ vẫn còn rất xa vời.
Có thể nói rằng những sự hy sinh và dấn thân của anh chị em trong phong trào dân chủ Việt Nam thời gian qua đã làm thức tỉnh không ít người dân Việt Nam, ngày càng có nhiều người nhập cuộc và sẵn sàng thách thức chính quyền. Đa số trong số họ là dấn thân vì lương tâm và bị áp bức (như trường hợp bà Cấn Thị Thêu) chứ ít người trong họ tin là sẽ chiến thắng hay thay đổi được chế độ cộng sản. Chưa có ai trong số họ đưa ra được một lộ trình hay kịch bản để chiến thắng đảng cộng sản. Nhiều ‘ngôi sao dân chủ’, hay ‘ngôi sao FB’, sau một thời ‘oanh liệt’ đã bị hòa tan vào quần chúng hoặc quay về điểm xuất phát ban đầu. Họ không hiểu một điều căn bản rằng, đấu tranh chính trị luôn là giữa các tổ chức chính trị với nhau chứ không phải giữa các cá nhân. Thế giới gọi những người bị bỏ tù vì tranh đấu tại Việt Nam là ‘tù nhân lương tâm’ chứ không gọi ‘tù nhân chính trị’ là hoàn toàn đúng.
Thay đổi số phận của cả một dân tộc là một dự án vĩ đại và lớn lao vì dự án đó sai hay đúng sẽ ảnh hưởng lên gần 100 triệu con người. Dự án chính trị của đảng cộng sản Việt Nam khi cướp chính quyền hồi năm 1945 theo đường lối và tư tưởng Mác-Lênin đã không được giới trí thức Việt Nam lúc đó phân tích, bàn luận và định lượng để thấy cái sai, cái độc hại của nó nên Việt Nam mới tụt hậu và phải trả giá kinh khủng như ngày hôm nay.
Làm chính trị để thay đổi hoàn toàn thể chế chính trị và xây dựng lại một nước Việt Nam mới, khác hoàn toàn với chuyện đi săn bắt hay đánh bạc. Đây không phải là chuyện "chưa bắt được gấu đã đòi chia da", "thắng làm vua thua làm giặc" hay cứ đánh đổ cộng sản đi đã rồi tính tiếp…
Tâm lý mì ăn liền của người Việt tạo ra một đám đông cuồng nhiệt. Đám đông đó đã động viên, tung hô và kích thích cho các hành động ‘hy sinh’ hoặc gây được tiếng vang, dù nhất thời, của những người tranh đấu. Không ít người tranh đấu ‘hành động’ khi chưa có bất cứ một sự chuẩn bị nào hoặc biết chắc là sẽ thất bại. Họ, đôi lúc phải hành động vì bị đám đông cuồng nhiệt kêu gọi và chờ đợi hành động của họ. Khi họ thất bại, bị đi tù thì đám đông ‘mì ăn liền’ đó nhỏ vài giọt nước mắt, xong lại đi tìm một nhân vật mới… và tiếp tục tung hô người nọ, người kia lên tận mây xanh, rồi lại tiếp tục điệp khúc ‘Hành động đi ! Hành động đi’ !
Đám đông cuồng nhiệt này thời nào cũng có, quốc gia nào cũng có nhất là ở các nước kém phát triển. Đằng sau sự cuồng nhiệt và đôi lúc tỏ ra tử tế đó chính là sự giả dối, hèn nhát và trốn chạy. Tại sao không tự mình hành động mà cứ kêu gào người khác hành động ? Tại sao cứ muốn người khác phải hy sinh còn mình thì không ?... Càng nguy hiểm hơn khi trong đám đông này có sự tham gia cổ vũ của không ít người tự nhận mình là trí thức và tất nhiên là có cả bàn tay của chính quyền. Không gì khiến chế độ cộng sản thích bằng các hành động tự sát của các anh hùng thích ‘hành động’ hơn là ‘suy nghĩ’. Bạo lực và đàn áp là sở trường của chính quyền nên họ luôn muốn người dân đối đầu với họ bằng các hành động bạo lực để họ có thể trấn áp một cách nhanh chóng.
Trong quá khứ, văn hóa ‘mì ăn liền’ đã khiến người dân Việt Nam chọn Hồ Chí Minh và đảng cộng sản thay vì chọn con đường tranh đấu ôn hòa của Phan Chu Trinh. Bạo lực dù dã man và mất mát nhưng vẫn dễ được chọn hơn vì nó giải quyết bất đồng nhanh như… mì ăn liền. Trong khi đó thuyết phục một người thay đổi tư duy là cực kỳ khó khăn và mất nhiều thời gian nhất là những người mang nặng văn hóa Khổng giáo. Tư duy của những người này đã bị đóng khung vào một hệ tư tưởng độc hại đã bén rễ sâu trong tâm hồn, thế mới có câu ‘non sông dễ đổi, bản tính khó dời’.
Suốt 35 năm qua Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên (Tập Hợp) đã phải nghe không biết bao nhiêu lần câu : Hành động đi ! Hành động đi ! Câu này cũng có nghĩa là : Hy sinh đi ! Gần đây có người còn cho rằng Tập Hợp đã thất bại vì đã 35 năm mà vẫn chưa thành công ? ! Người thì lấy làm lạ là không thấy chúng tôi ‘hành động’ gì ngoài viết, nói và bàn luận về ‘Dự án chính trị’ Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai…
Tôi tin là rất nhiều người Việt Nam, kể cả những người vốn được xem là trí thức… chưa hề đọc dự án chính trị đó của Tập Hợp. Vì nếu đọc rồi thì ắt họ phải lên tiếng ủng hộ hoặc phê phán. Một sự im lặng đáng sợ. Chúng tôi và những người, dù vẫn đang còn là số ít tìm đến với Tập Hợp hiểu rõ tâm lí ‘mì ăn liền’ đó của người Việt Nam. Thực tế cũng đã chứng minh là suốt mấy ngàn năm lịch sử, người Việt chưa có một công trình hay bất cứ một tác phẩm nào mang tầm cỡ thế giới. Tuyệt phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng phải vay mượn ý tưởng chẳng có gì đặc sắc của một nhà văn cũng không có gì đặc sắc bên Trung Quốc.
Tập Hợp đang làm một cuộc ‘cách mạng ngược’ với văn hóa mì ăn liền của người Việt, thay vì ‘ăn ngay và luôn’ chúng tôi chú trọng xây dựng cho mình và đất nước một dự án chính trị đầy đủ về mọi mặt, trên mọi lĩnh vực, cho hiện tại và cả tương lai rồi kiên nhẫn thuyết phục người dân Việt Nam đồng thuận với dự án chính trị đó, cuối cùng, khi nào nhận được tín hiệu và sự ủng hộ của đa số người Việt Nam thì chúng tôi mới ‘hành động’. ‘Hành động’ bằng cách xuống đường biểu tình là giai đoạn thứ 5 của Tập Hợp, hiện tại chúng tôi mới đang ở giai đoạn 2, tức là ‘xây dựng một đội ngũ cán bộ nòng cốt’. Chúng tôi nói rõ điều này để những người đang chờ đợi và mong muốn chúng tôi ‘hành động’ khỏi thất vọng. Điều đó còn rất lâu và rất xa.
Dù chưa nhận được sự ủng hộ của đa số người dân Việt Nam nhưng chúng tôi không sốt ruột và vội vàng để rồi kêu gọi hay ‘hành động’ bất chấp hậu quả. Chúng tôi hiểu để thay đổi văn hóa và tư duy của cả dân tộc không phải là chuyện dễ dàng. 35 năm so với lịch sử mấy ngàn năm chỉ là một cơn gió thoảng. Chúng tôi không biết khi nào mới nhận được sự ủng hộ của người dân Việt Nam. Chúng tôi cũng không oán trách hay than vãn gì cả mà chúng tôi chỉ cố gắng làm thật tốt công việc của mình, bổn phận của mình, trách nhiệm của một tổ chức chính trị dân chủ đối lập, kiên nhẫn thuyết phục người dân về một giải pháp mới thay thế cho giải pháp cộng sản.
Thành bại là do thời cuộc và lòng người, không phải do chúng tôi. Gần 100 năm về trước nhà cách mạng Phan Chu Trinh đã ‘thất bại’, chúng tôi hy vọng và đặt niềm tin vào sự thức tỉnh của người dân Việt Nam ngày hôm nay.
Việt Hoàng
(12/3/2018)
Mai Khôi với tấm biểu ngữ "Piss on you, Trump" công khai giữa đường phố Hà Nội đã gây sóng, sóng cả từ hai phía trái và phải, xanh và đỏ, trắng và đen. Đó là phản ứng tự nhiên, người ta gọi là hợp quy luật. Nó chỉ đơn thuần phản ánh trung thực một tình trạng có thật là sự chia tách và phân hóa nền văn hóa xã hội của công chúng Việt thành hai lớp đặc trưng : một bộ phận người việt tiên tiến đang bộc lộ sự trưởng thành tiệm cận với nền văn minh của nhân loại tiến bộ, một bộ phận chưa thoát ra khỏi những quan niệm văn hóa và đạo đức từ ngàn năm phong kiến. Một mặt cũng phản ánh sản phẩm còn lại của một nền giáo dục hướng tới tước đoạt vai trò cá nhân và ý thức cá nhân của chế độ cộng sản.
Mai Khôi với tấm biểu ngữ "Piss on you, Trump" công khai giữa đường phố Hà Nội
Với câu "Piss on you, Trump", (đái vào ông, Trump) có tất cả những gì đang xảy ra ngược lại trên đất Việt Nam, ngược lại tất cả những gì người ta dạy dỗ, người ta đang muốn xóa hẳn ý thức tự do cá nhân hay bẻ gãy ý nguyện tự do một dân tộc. Một ông Tổng thống một quốc gia đứng đầu thế giới, một quốc gia mà nếu có thể coi Hành tinh là một quốc gia thống nhất thì ông ta chính là vị Hoàng đế toàn cầu, nhưng ông ta tên là Trump, bất kể người nào cũng có quyền chỉ gọi tên ông, không cần biết ông là vua hay hoàng đế, không biết ông có là Tổng thống, Tổng bí thư hay Thủ tướng một quốc gia. Và nếu ông "chẳng ra gì", nếu nhân cách của ông chẳng có gì xứng đáng được tôn trọng, thì ông có thể bị ném đá, bị ném cà chua, trứng thối mỗi khi ông xuất hiện công khai trước công chúng. Trong con mắt từng người, ông ta có thể phải bị ném mắm tôm, ném phân chó, và với Mai Khôi, ông ta đáng bị "đái lên" ! Ông là một tổng thống của quốc gia dân chủ lớn nhất thế giới, có trách nhiệm dẫn dắt nền dân chủ toàn cầu, nhưng ông đã phải chịu để bà Melania ở lại Trung Quốc chỉ vì không biết phải trả lời bức thư của con gái Nguyễn Ngọc Như Quỳnh như thế nào một khi có mặt tại Việt Nam và sẽ phải nâng cốc, cười nói, cám ơn với các thủ phạm gây nên tội ác vô nhân đạo với những đứa trẻ vô tội, và để ông có thể đọc một bài diễn văn chỉ gồm tiền và buôn bán thương mại. Đó là một sự hèn mạt, một sự thóa mạ công lý và đạo đức. Ông có thể xứng với cái gì ? Tất cả những ông Tổng thống có thể bị dân chúng chỉ trích, bôi bác, thóa mạ tùy thích mỗi khi bộc lộ khuyết tật. Bill Clinton, Nixon, Chirac, Hollande..
Quyền bộc lộ, biểu đạt tư tưởng và phán định cá nhân không bằng bạo lực là quyền chính đáng và bất khả xâm phạm của con người, nếu đó đúng được coi là con người. Quyền đó cùng một lúc chứng minh tư cách làm người của con người, vừa kiểm chứng tính chính danh của chế độ và mức độ giác ngộ văn minh, sự trưởng thành về văn hóa của dân chúng một quốc gia.
Nhưng luật pháp Mỹ, cũng như luật pháp các quốc gia văn minh khác không xử phạt Mai Khôi, vì luật pháp của các quốc gia này do chính người dân làm ra, có mục đích bảo vệ quyền con người chống lại mọi sự lạm dụng của chính quyền. Luật được làm thành công cụ của dân chúng để kiểm soát và khống chế chính quyền, không phải thứ luật do một thiểu số những kẻ cầm quyền áp đặt để kiểm soát tự do của dân chúng nhằm bảo vệ chế độ.
"Đái" lên người một ông Tổng thống, không chỉ đơn giản là bôi nhọ, nó còn tệ hơn bôi nhọ. Nhưng ở Việt Nam, nói sự thật về hình ảnh phản cảm, về hành vi, về sự cư xử thiếu lịch thiệp của một vị bí thư tỉnh uỷ, bị phạt 3 triệu. Kể ra thiếu sót của một vị Bộ tưởng bị phạt 5 triệu. Một vị nghị sĩ giữa diễn đàn Quốc hội đề nghị làm luật chống bôi nhọ lãnh đạo. Đây là não trạng tư duy Việt, là trình độ văn hóa của tầng lớp tinh hoa Việt, một thứ sản phẩm của chủ nghĩa phong kiến.
Mai Khôi đã thực chất muốn nói rằng "hãy piss (đái) vào luật pháp Việt Nam". Luật Việt Nam là luật đảng, luật của những người theo đảng cộng sản, không phải luật của toàn dân, luật chỉ để bảo vệ đảng, không bảo vệ dân và quyền của dân. Nếu hành vi của ông Trump có thể bị "đái lên", thì đó là thứ luật không đáng được đối xử lịch sự hơn. Mai Khôi đã biết sử dụng cơ hội Tổng thống Trump có mặt tại Việt Nam để vừa ca ngợi luật pháp Mỹ, ca ngợi nền dân chủ mà Mỹ cùng các nước văn minh đại diện, vừa phỉ báng nền dân chủ "đểu" của chế độ cộng sản, vừa tẩy não cho những cái đầu bệnh tật đáng thương của ngừơi Việt.
Hành vi của Mai Khôi, mặc dù "chẳng là gì" ở xứ sở dân chủ, phải được tôn xưng là một hành động anh hùng trên xứ sở độc đảng toàn trị tại Việt Nam. Nó có ý nghĩa khai sáng còn hơn hàng vạn trang sách dậy dân chủ của các lý thuyết gia chuyên nghiệp. Nó giống một tiếng bom nổ giữa không gian đang đầy ắp những đe doạ khủng bố. Hình ảnh Mai Khôi với tấm biểu ngữ sẽ có mặt trong từ điển những ngôn ngữ dân chủ Việt Nam và thế giới. Đó chính là một phát kiến và một cống hiến vô giá. Rồi người Việt sẽ nhận ra điều đó.
Paris, 16/11/2017
Bùi Quang Vơm