Đất nước bị tàn phá, đào bới, bị các nhóm lợi ích xâu xé tan hoang. Người dân bị áp bức, bóc lột bởi quá nhiều sắc thuế cao, phí nặng, từ phí hít thở không khí : phí môi trường, đến phí đi lại : phí BOT. Người dân bị tước đoạt từ mảnh đất hương hỏa đến những giá trị làm người. Một nền chính trị chỉ để nô dịch dân, chỉ biết thao túng, dung dưỡng cho đảng cộng sản cầm quyền và bảo kê cho các nhóm lợi ích làm cho xã hội nhốn nháo, hỗn loạn, bất an. Quyền lực lộng hành. Công cụ bạo lực nhà nước trở thành kiêu binh nhũng nhiễu, ức hiếp dân. Hiện thực đó đang diễn ra trên cả nước gần nửa thế kỉ qua chính vì những người đứng đầu nhà nước cộng sản hầu hết đều không tử tế.
Cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng muốn làm người tử tế sau khi rời quyền lực !
Một ông Thủ tướng hết tuổi làm quan phải rời quyền lực, rời chính trường về quê nhà tiếp tục cuộc sống vương giả trên đống của chìm của nổi ngồn ngộn vơ vét được khi làm quan, lúc đó mới lớn giọng tuyên bố về làm người tử tế. Nhưng kẻ tham lam tàn bạo đó không bao giờ có thể là người tử tế vì trước khi phải rời quyền lực ông đã trắng trợn ăn cướp quyền lực của dân, ăn cướp chức danh, cương vực lãnh thổ của nước cho đứa con trai lớn của ông chẳng có tài cán, công trạng gì cũng sỗ sàng nhảy tót lên ghế quan đầu tỉnh một vùng chiến lược trọng yếu cũng là một vùng tài nguyên trù phú nhất nước. Chưa thỏa lòng tham, ông còn cướp chức danh quyền lực của dân của nước cho đứa con trai út vắt mũi chưa sạch cũng tót lên ghế quan chức hàng tỉnh, cũng sỗ sàng vênh váo ngồi ghế tỉnh ủy viên, cưỡi cổ thiên hạ.
Một nhà nước ngang nhiên chiếm đoạt hàng trăm ha đất tài nguyên của nước, thản nhiên ném hàng ngàn tỉ tiền thuế nghèo của dân để xây mả hoành tráng, dựng bia nghênh ngang cho quan chức nhà nước cộng sản khi chết thì những quan chức nhà nước cộng sản đó cả đến khi chết cũng không thể là người tử tế.
Là công bộc của dân, hưởng quá nhiều ơn mưa móc của nước, nhận lương cao, bổng hậu của dân để phục vụ dân, nhưng cả cuộc đời công bộc, các quan chức nhà nươc cộng sản đã không làm được gì có lợi cho dân cho nước lại chỉ làm những việc hại dân, hại nước. Du nhập một học thuyết mất tính người, đẩy người dân vào hận thù. Cả chục triệu dân lành bỏ xác trong những cuộc chiến tranh hận thù liên miên để mang lại sự thống trị xã hội cho đảng cộng sản.
Nắm quyền thống trị xã hội, quan chức nhà nước cộng sản coi dân chỉ là bầy nô lệ, mặc sức bóc lột, hà hiếp dân, gây bao đau khổ cho dân. Coi nước chỉ là của riêng của đám quan chức cấp cao, tùy tiện cắt xén, sang nhượng, cống nạp cho nước khác. Tham lam vơ vét của công, dốt nát trong quản trị đất nước làm cho đất nước ngày càng tụt lại sau trên con đường đi tới của xã hội loài người. Tội trạng lớn như vậy mà khi chết đi còn nghênh ngang mả to bia lớn thì những kẻ đó làm sao có thể là người tử tế.
Trong một nhà nước, một xã hội mà sự tử tế của quan chức hiếm hoi như sao ban ngày thì ông Thủ tướng Phan Văn Khải là một ngôi sao ban ngày lẻ loi, hiếm hoi, một sự tử tế lạc lõng.
Khi làm quan, ngôi sao ban ngày Phan Văn Khải le lói sáng mấy khoảnh khắc.
Trong khi đảng cộng sản cầm quyền giáo điều, xơ cứng trước cuộc sống của nhân dân, của đất nước, cứ khăng khăng đòi kinh tế nhà nước là chủ đạo, là nền tảng thì ông Thủ tướng Phan Văn Khải tiếp cận được cuộc sống chân thực và sôi động của đất nước đã nhận thức được "kinh tế nhà nước không có hiệu quả thì làm nền tảng cái gì ! Cứ kiểu đó mà nền tảng thì chết, làm sao dân giàu nước mạnh được". Kinh tế là đồng tiền có được từ mồ hôi nước mắt và dân gian đã đúc kết : Đồng tiền liền khúc ruột. Mà kinh tế nhà nước là vô chủ, là cha chung không ai khóc. Đầu tư vốn vào kinh tế nhà nước thực chất chỉ là ném tài nguyên của nước, ném tiền thuế mồ hôi nước mắt của dân vào túi mấy ông quan nhà nước cộng sản vừa dốt vừa tham được đảng cử ra đứng đầu doanh nghiệp nhà nước.
Với nhận thức rằng hiệu quả kinh doanh của kinh tế nhà nước thua xa hiệu quả kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phan Văn Khải đã chỉ đạo sát sao sửa đổi luật Doanh nhiệp tư nhân và luật Công ty ban hành trước đó sáu năm thành một luật chung là Luật Doanh nghiệp, với nguyên tắc mọi tổ chức và công dân có quyền tự do kinh doanh theo pháp luật. Luật Doanh nghiệp sửa đổi đã tháo bớt những sợi dây nhằng nhịt trói buộc kinh tế tư nhân, đưa kinh tế tư nhân từ thân phận là đối tượng phải cải tạo, phải xóa bỏ, đã trở thành một chủ thể chính danh đường hoàng, chững chạc trong nền kinh tế đất nước, trở thành một chủ thể để nhà nước cộng sản phải nhìn nhận và đối thoại. Quan hệ giữa cơ quan Nhà nước và doanh nghiệp trở thành quan hệ hợp tác, cộng đồng trách nhiệm trước yêu cầu chung của sự phát triển đất nước, không có hàng rào ngăn cách giữa cơ quan nhà nước với doanh nghiệp theo kiểu kẻ trên người dưới, người cầu xin và kẻ ban phát.
Những chủ thể, những thành phần kinh tế đang dần dần trở về đúng vị trí giá trị của nó. Tỉ trong kinh tế nhà nước đang giảm dần và tỉ lệ nghịch với tỉ trọng kinh tế tư nhân ngày càng tăng. Nhưng bất lực trước căn bệnh mãn tính của một nhà nước độc tài đảng trị, Thủ tướng Phan Văn Khải đã thắng thắn nhìn nhận : "Tôi hết sức day dứt trước tệ quan liêu, lãng phí, tham nhũng, tiêu cực, đục khoét của công diễn ra có phần tệ hại hơn mấy năm qua. Trước những việc như vậy, có phần trách nhiệm của các bộ, của Chính phủ, của cá nhân tôi là người đứng đầu. Tôi xin nhận lỗi, nhận trách nhiệm trước nhân dân".
Cố Thủ tướng Phan Văn Khải, ngôi sao ban ngày le lói sáng mấy khoảnh khắc ?
Nhận trách nhiệm về mình, ông xin từ chức trước khi kết thúc nhiệm kì cả một năm trời. Đó là tiếng nói của một lương tâm, một nhân cách có liêm sỉ. Ngược hẳn với ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kế nhiệm.
Những gì ông Thủ tướng Phan Văn Khải tâm niệm theo đuổi thì ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kế nhiệm làm ngược lại. Để rồi nền móng vững vàng của nền kinh tế đất nước mà Thủ tướng Phan Văn Khải tạo dựng được đã bị ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kế nhiệm phá tan nát. Những Tổng công ty 91, những tập đoàn kinh tế nhà nước đã có từ năm 1994. Vốn biết những doanh nghiệp nhà nước chỉ là những quái vật ngốn tiền ngân sách như rồng hút nước để tạo ra những quan tham nhũng, ông Phan Văn Khải, đảm trách Thủ tướng từ năm 1997 không đánh động đến những quái vật đó để nó ngủ yên. Và nền kinh tế Việt Nam thời Thủ tướng Phan Văn Khải đã bình yên vượt qua được cơn bão táp khủng hoảng tài chính Châu Á nổi lên từ năm 1997.
Kế tiếp ông Khải, trở thành người đứng đầu Chính phủ, ông Dũng lập tức dựng những con quái vật 91 dậy, dồn của, dồn tiền của dân của nước cho những con quái 91, những tập đoàn kinh tế nhà nước khổng lồ. Khổng lồ không phải ở sức mạnh kinh tế. Khổng lồ chỉ ở nguồn tiền, nguồn của mà những quái vật này ngốn. Khổng lồ ở số tiền thất thoát. Khổng lồ ở sức tàn phá nền kinh tế của những con quái vật 91. Khổng lồ ở mức độ tham nhũng của những người điều hành những con quái vật. Quái vật Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam, Vinashin, thất thoát 1100 tỉ đồng. Quái vật Tổng công ty Hàng Hải Việt Nam để lại số nợ hơn 23.000 tỉ đồng không thể thu hồi. Những con quái vật đó thực chất chỉ là trạm trung chuyển, chuyển tiền của dân của nước thành tiền riêng của đám bộ sậu làm kinh tế của ông Thủ tướng Dũng.
Một trong những cách "làm kinh tế" của thầy trò ông Thủ tướng Dũng ở Vinashin, Vinalines là mua đồ phế thải của nước ngoài với giá ve chai. Vinashin mua tàu biển Hoa Sen đã bục đáy. Vinalines mua khối sắt rỉ nát có tên ụ nổi 83M. Đưa đồ ve chai về khai khống lên theo giá của sản phẩm còn xài tốt, tăng gấp hàng chục lần, lấy tiền chênh lệch chia nhau.
Duy trì được sự ổn định và phát triển của nền kinh tế đất nước, vượt qua cơn khủng hoảng tài chính đang làm lao đao nhiều nước Châu Á nhưng tự nhận có trách nhiệm trước những tiêu cực xã hội, ông Thủ tướng Phan Văn Khải đã xin từ chức.
Những tập đoàn kinh tế nhà nước của ông Thủ tướng Dũng làm thất thoát hết chục ngàn tỉ đồng này đến chục ngàn tỉ đồng khác làm cho ngân khố quốc gia trống rỗng, phải đi vay nợ khắp thế giới. Mỗi người dân từ đứa trẻ vừa ra đời đã phải gánh cả ngàn đô la tiền nợ của Chính phủ Thủ tướng Dũng. Kinh tế đất nước suy sụp. Nhưng khi Quốc hội đòi hỏi ông Thủ tướng Dũng phải chịu trách nhiệm bằng từ chức thì ông Thủ tướng Dũng đẩy trách nhiệm cho đảng của ông : Tôi làm Thủ tướng là do đảng phân công và ông lì lợm, cù nhầy không từ chức !
Nhắc lại hai sự việc của hai Chính phủ nối tiếp nhau, Chính phủ Phan Văn Khải và Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng để thấy sự tử tế và không tử tế.
Cần kể thêm một sự tử tế, một khoảnh khắc le lói sáng của ngôi sao ban ngày Phan Văn Khải. Đèn sách ở trường bổ túc văn hóa Công Nông, Hà Nội rồi Phan Văn Khải sang Nga theo học kinh tế ở trường đại học Kinh tế Quốc dân Plekhanov. Có học, Phan Văn Khải biết trọng dụng trí tuệ, kiến thức. Kế nhiệm Thủ tướng Võ Văn Kiệt, ông Phan Văn Khải đã nâng Tổ Nghiên cứu của Thủ tướng Võ Văn Kiệt lên thành Ban Nghiên cứu của mình. Chính Ban Nghiên cứu này là nòng cốt viết lại Luật Doanh nghiệp giải phóng sức sản xuất hùng hậu trong dân. Mọi quyết sách về kinh tế của Thủ tướng Phan Văn Khải đều có dấu ấn, có trí tuệ của Ban Nghiên cứu với những trí lực Lê Đăng Doanh, Phạm Chi Lan, Trần Đức Nguyên, Trần Việt Phương...
Ban Nghiên cứu với những trí tuệ sáng láng của đất nước, của thời đại lập tức bị đuổi cổ khi ông Nguyễn Tấn Dũng ngồi vào ghế Thủ tướng. Những triết học của cuộc sống, những giá trị nhân văn, những qui luật kinh tế ở tầm quá cao, làm sao ông Thủ tướng được đào tạo nghề y tá ở trong rừng thời chiến tranh có thể hiểu nổi. Con người của bạo lực cách mạng, Thủ tướng Dũng chỉ tin ở sức mạnh bạo lực. Kinh tế cũng chỉ là một hình thái của bạo lực đấu tranh giai cấp. Và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã mời một viên tướng công an về hưu thay thế trí lực Ban Nghiên cứu thời Thủ tướng Phan Văn Khải.
Nhưng điều tử tế nhất, khoảnh khắc le lói sáng đáng kể nhất của ngôi sao ban ngày Phan Văn Khải là khi rời chốn quan trường, ông Khải về ngay với mảnh đất quê kiểng nơi ông sinh ra, về với mái đình làng mỗi sớm uống li trà với ông già trồng rau, mỗi chiều đón bà con lối xóm đến thăm viếng, chuyện trò.
Như Nguyễn Khuyến ngày nào rũ áo từ quan :
Chú đáo làng bên lên với tớ
Ông từ xóm chợ lại cùng ta.
Về sống tuổi già với làng quê, ông Thủ tướng hồi hưu Phan Văn Khải đã chuẩn bị cho mình khi nằm xuống lại về với lòng đất quê, một nấm mồ bình dị, một tấm bia nhỏ bé, bên ông bà, tổ tiên. Không chiếm đất của nước, không lấy tiền thuế của dân xây mồ to, dựng bia lớn. Sự ra đi của người tử tế.
Phạm Đình Trọng
(19/03/2018)
Trả lời bài viết "Trường Sa 1988 : không nổ súng trước nhưng phải nổ súng", Báo Tiếng Dân 15/03/2018 (1)
Tháng ba về lại nhớ Gạc Ma. Mỗi trái tim Việt Nam lại đau nỗi đau tháng ba 1988 Trung Quốc cướp Gạc Ma của tổ tiên ta. Mỗi trái tim Việt Nam lại đau nỗi đau 64 người lính Việt Nam trở thành 64 tấm bia thịt cho lính Trung Quốc đâm lê, kề súng AK tận ngực bóp cò. Tháng ba năm nay cùng nỗi đau mất đảo, mất 64 người con yêu của Mẹ Việt Nam lại thêm sự phẫn nộ vì giọng lưỡi trí trá, lấp liếm sự thật lịch sử và sự đánh đồng người chủ đích thực của Trường Sa với kẻ cướp Trường Sa.
Nỗi đau 64 người lính Việt Nam trở thành 64 tấm bia thịt cho lính Trung Quốc đâm lê, kề súng AK tận ngực bóp cò.
Ông Lê Mạnh Hà, người viết "Trường Sa 1988 : không nổ súng trước nhưng phải nổ súng" cần nhớ rằng trước năm 1956, trước khi Trung Quốc đưa tàu quân sự giả dạng tàu đánh cá đổ người lên chiếm đảo Phú Lâm và một số đảo trong quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam thì điểm cực Nam của lãnh thổ Trung Quốc là đảo Hải Nam. Trước năm 1974, trước khi Trung Quốc đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa thì tàu quân sự của Trung Quốc đi vào Biển Đông đều phải lén lút, lấm lét, láo liên của kẻ cắp. Nay chiếm được toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, chiếm được 8 bãi đá trong Trường Sa, chúng hối hả xây sân bay, xây quân cảng, quân sự hóa Trường Sa rồi trừng mắt vỗ ngực tuyên bố với thế giới rằng cả Biển Đông là của chúng.
Trong khi từ thế kỉ thứ 17, từ thời nhà Lê, nhà Nguyễn, Hoàng Sa, Trường Sa đã là cương vực lãnh thổ, là đơn vị hành chính của nhà nước Việt Nam. Khi Pháp đô hộ Việt Nam, Pháp kế tiếp nhà Nguyễn trong việc quản lí hành chính đó với Hoàng Sa, Trường Sa. Pháp đã xây đèn biển (hải đăng) ở Hoàng Sa, xây trạm khí tượng ỏ Trường Sa. Tại Hội nghị Liên Hợp Quốc họp ở San Francisco, tháng 9/1951, Thủ tướng Trần Văn Hữu của Việt Nam đã tuyên bố chủ quyền với Hoàng Sa, Trường Sa trước sự có mặt 49 Chính phủ các nước, không có nước nào có ý kiến khác.
Vậy mà ông Lê Mạnh Hà viết rằng ngày nay Việt Nam kiểm soát 21 đảo, Trung Quốc kiểm soát 7 đảo trong quần đảo Trường Sa là thắng lợi rồi ! Đánh đồng người chủ đích thực của Trường Sa, với kẻ cướp Trường Sa và coi Trường Sa như quần đảo hoang, vô chủ thì mới coi Việt Nam kiểm soát 21 đảo trong quần đảo Trường Sa và Trung Quốc chỉ kiểm loát được 7 đảo là thắng lợi !
Còn lệnh không nổ súng. Bộ trưởng Bộ quốc phòng không lệnh cho từng đại đội, không lệnh cho từng người lính không được nổ súng mà lệnh cho Bộ tư lệnh hải quân. Chính vì cái lệnh quái gở, tự trói tay mình, tự bắt mình buông súng đó mà trong tình thế nóng bỏng, trong khi Trung Quốc đưa hơn chục tàu khu trục, tàu tên lửa, mỗi tàu khu trục 4 khẩu pháo 100mm, 4 khẩu pháo 37 mm, tàu tên lửa 12 dàn phóng ra cướp Trường Sa của Việt Nam thì Hải quân Việt Nam đưa quân ra giữ Trường Sa chỉ dám đưa hai tàu vận tải nhỏ bé 500 tấn và một tàu đổ bộ cũ nát, cổ lỗ của Mỹ xuất xưởng từ 1945. Cả ba con tàu già lão này đều là tàu không vũ trang, chỉ chở lương thực, vật liệu xây dựng với 70 lính công binh chỉ có cuốc sẻng, 20 lính lữ đoàn 146 mang cờ chủ quyền ra cắm trên đảo cũng chỉ có mấy khẩu AK và chỉ có một băng đạn kèm theo súng.
Con tàu già lão HQ-604 nhận lệnh ra Gạc Ma. Ảnh tư liệu Lữ đoàn
Không phải Hải quân Việt Nam không có tàu chiến đấu. Ngay từ tháng tám, năm 1964, khi tàu khu trục Maddox, Mỹ mới lảng vảng ngoài khơi vịnh Bắc Bộ, Hải quân Việt Nam đã đưa một phân đội ba tàu phóng lôi xé sóng ra tấn công tàu khu trục Maddox Mỹ. Tàu khu trục Maddox lớn, hiện đại và hỏa lực mạnh gấp nhiều lần những tàu khu trục của Trung Quốc ở Trường Sa 1988. Lệnh không nổ súng làm cho hình ảnh Hải quân Việt Nam chỉ còn là hình ảnh ba con tàu nhỏ bé, già nua, chậm chạp, không có sức chiến đấu, chỉ biết chịu trận.
Không được nổ súng. Giặc đổ bộ tràn lên đảo, xâm phạm chủ quyền thiêng liêng của tổ quốc nhưng người lính giữ đảo chỉ biết đứng nhìn và người lính giữ lá cờ chủ quyền chỉ biết lấy sức người giành giật lá cờ với giặc rồi giơ ngực ra hứng trọn mũi lê phóng tới, hứng trọn cả loạt đạn AK của giặc dí sát người bóp cò.
Không được nổ súng. Không được chiến đấu giữ đảo đành nhận cái chết trong đau đớn rồi phó mặc đảo cho giặc làm chủ. Vi vậy Thiếu tướng Hoàng Kiền, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 83 công binh hải quân ngày đó đã phải đau đớn thốt lên : 14.3.1988 là ngày Trung quốc đưa quân xâm chiếm Trường Sa của ta chứ không có trận chiến nào ở đây !
Phạm Đình Trọng
(15/03/2018)
*********************
Trường Sa 1988 : không nổ súng trước nhưng phải nổ súng
Lê Mạnh Hà, Tiếng Dân, 15/03/2018
1. Quá trình đóng giữ của các bên tại Trường Sa
Đây là một quá trình dài, phức tạp, tôi chỉ nêu một số điểm chính. Hiện nay các bên đóng giữ 47 thực thể địa lý (gọi tắt là đảo). Không phải ngay từ đầu Việt Nam có 21 đảo (33 điểm đảo) như hiện nay. Trước 30/4/1975 và cho đến 1986 Việt Nam chỉ đóng giữ 7 đảo. Nhưng đến năm 1988 Việt Nam đóng quân trên 21 đảo, nhiều gấp 3 lần trước đó. 1971-1973 Philippines đóng giữ 5 đảo, đến nay họ giữ 10 đảo. Năm 1946, quân đội Trung Hoa dân quốc đóng giữ đảo Ba Bình. Năm 1956 quân đội Đài Loan tái chiếm đảo này.
1981-1983 Maylaysia đóng giữ 3 đảo, đến nay là 7 đảo. Năm 1988 Trung Quốc đóng giữ 6 đảo (cũng trong năm này Việt Nam đóng giữ thêm 13 đảo, 1 đảo vào năm 1987). Các bên đóng giữ các đảo phần lớn là không tiếng súng. Chỉ duy nhất có nổ súng khi tranh chấp đóng giữ tại Gạc Ma và Colin.
Ảnh cắt từ clip trên báo Tuổi Trẻ
2. Được và mất tại Trường Sa
Hiện nay các bên đóng giữ 47 đảo. Việt Nam tuyên bố chủ quyền toàn bộ Trường Sa, hiện nay đóng giữ 21 đảo, 26 đảo bị các bên khác đóng giữ. Theo quan điểm về chủ quyền thì VN đã mất 26 đảo.
Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền toàn bộ Trường Sa và chỉ đóng giữ 7 đảo, như vậy, Trung Quốc thấy rằng họ mất 40.
Tương tự, Philipines mất 37 đảo về tay các bên khác.
Lời giải cho vấn đề Trường Sa hoàn toàn không dễ dàng. Để có lời giải này, trước hết cần có thông tin đầy đủ và chân thực nhất về Trường Sa, về những khó khăn chúng ta gặp phải khi mà các nước khác cũng đưa ra luận cứ của họ về Trường Sa. Cần phải biết đầy đủ điểm mạnh của ta và của họ, điểm yếu cũng thế, cần phải biết một cách chi tiết.
Không chỉ là giải quyết các đảo do các bên đang đóng giữ. Trường Sa có 134 đảo, bãi đá, bãi ngầm vậy xử lý vấn đề này như thế nào trong khi mới chỉ có 47 điểm được đóng giữ. Rất cần một câu trả lời thỏa đáng.
3. Gạc Ma: không nổ súng trước nhưng phải nổ súng
Muốn khẳng định việc gì thì phải có nhân chứng và bằng chứng. Nhân chứng là người trực tiếp tham gia trận Gạc Ma là trung sĩ Lê Hữu Thảo khẳng định không có lệnh cấm nổ súng.
Có một sự thật nữa là chúng ta đã nổ súng, mặc dù không nổ súng trước. Trong trận Gạc Ma, phía Trung Quốc thương vong 22 người, trong đó có 6 người chết. Bộ đội Việt Nam đã đánh trả và gây thương vong cho đối phương.
Trước đó, để phòng xung đột quân sự nhỏ trên khu vực Trường Sa có thể bùng nổ thành một cuộc chiến tranh lớn trên biển, Tư lệnh quân chủng Hải quân là đô đốc Giáp Văn Cương ra lệnh: hết sức kiềm chế, tự vệ là chính, không nổ súng trước, nhưng kiên quyết táo bạo, với phương châm "có người, có đảo; còn người, còn đảo".
Như vậy, mệnh lệnh không nổ súng trước đã được ban hành để tránh khiêu khích đối phương, làm bùng nổ các xung đột gây bất lợi lâu dài.
Bối cảnh lúc đó, Việt Nam vẫn đang có xung đột ở biên giới phía Bắc và tại Campuchia. Lúc này, lực lượng của chúng ta rất mỏng, phải bố trí quân đội ở cả biên giới phía bắc, Campuchia và biển đảo. Có thể nói, đây là giai đoạn mà Tổ quốc gặp khó khăn nhất. Ngoài việc biên giới hai đầu không yên ổn, Việt Nam còn bị bao vây, cấm vận về kinh tế.
Nếu manh động nổ súng trước mà để xảy ra một cuộc chiến lớn trên biển thì hậu quả rất khôn lường. Do đó, kiềm chế để không nổ súng trước, không để cho đối phương tạo cớ gây xung đột lớn là mệnh lệnh đúng đắn. Lịch sử đã chứng kiến nhiều cuộc chiến tranh do một bên tạo cớ để gây ra như chiến tranh thế giới lần thứ 2, sự kiện vịnh Bắc bộ 1964 do Mỹ tạo cớ để ném bom phá hoại miền Bắc.
Nhưng tất nhiên, trong chiến tranh thì không thể có lệnh cấm nổ súng, dù ở bất cứ mặt trận nào. Bộ đội đã trấn giữ Trường Sa phải nổ súng khi bị tấn công để bảo vệ đảo.
Vì thế, chúng ta không nổ súng trước nhưng phải nổ súng. Khi đã được giao súng tức là được bắn, đấy là nguyên tắc, chỉ có điều phải xác định bắn lúc nào. Nổ súng lúc nào do người chỉ huy tại chỗ quyết định, không phải cấp cao hơn, càng không phải lãnh đạo Bộ Quốc phòng.
Thực tế trong trận Gạc Ma, bộ đội ta đã nổ súng đáp trả và đối phương bị thương vong 22 người.
Không nổ súng trước không có nghĩa là không được nổ súng chống lại khi bị tấn công. Không một đô đốc hải quân nào ra lệnh cho bộ đội của mình làm thế. Không một Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra lệnh cho quân đội của mình như thế.
Quân đội Việt Nam đã đối đầu với hai kẻ thù mạnh là Pháp và Mỹ và giành chiến thắng. Quân đội Việt Nam cũng đã đối đầu với Trung Quốc ở phía Bắc và quân Khmer Đỏ ở biên giới Tây Nam. Cả hai cuộc chiến tranh biên giới đều không phải do Việt Nam bắt đầu. Nhưng Việt Nam cũng không ngại ngần đáp trả. Thế thì không có lý do gì, chúng ta lại sợ hãi nổ súng nếu bị tấn công ở Trường Sa.
Xin nhắc lại, nổ súng lúc nào do người chỉ huy tại chỗ quyết định, không phải cấp cao hơn, càng không phải lãnh đạo Bộ Quốc phòng.
Không biết có nước nào khi có chiến tranh mà lãnh đạo Bộ Quốc phòng chỉ huy từng trận đánh cấp đại đội không? Tôi chắc là không. Đơn vị của một ông sỹ quan nào đó hồi đánh Mỹ chắc chắn không bao giờ nhận được lệnh trực tiếp từ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Không có cơ chế đó và nếu có đi chăng nữa thì phương tiện thông tin thời kỳ đó không thể gọi trong vòng mấy chục giây đến cấp trung đoàn, cấp tiểu đoàn được, càng không tới tàu hoặc trên đảo xa xôi.
Hơn nữa, lúc đó quân đội hàng triệu người của ta đóng ở biên giới đang có chiến tranh và Campuchia, không có lãnh đạo Bộ quốc phòng nào ra lệnh cấm nổ súng cho toàn quân, càng vô lý nếu ông có thể ra lệnh và kiểm soát việc nổ súng của từng đơn vị từ cấp đại đội.
Trong xung đột Colin, Len Đao, Gạc Ma, Việt Nam đóng giữ 2 đảo là Colin và Len Đao, Trung Quốc đóng giữ 1 đảo Gạc Ma. Trên quan điểm của Việt Nam thì chúng ta mất một đảo. Quan điểm của Trung Quốc thì họ mất 2 đảo.
Từ năm 1987, Việt Nam kiểm soát thêm 14 đảo, Trung Quốc đóng giữ 7 đảo.
Có những người rất muốn cho rằng Việt Nam thất bại trong vấn đề Trường Sa và Biển Đông. Thực tế là trái ngược với những điều họ nghĩ: Việt Nam mở rộng kiểm soát lãnh thổ, khai thác dầu khí, xây dựng các nhà giàn, chúng ta đã làm được nhờ có tầm nhìn chiến lược, cách làm khôn khéo và sáng tạo. Đó là những kỳ tích. Không một nước nào khác làm được điều này. Ngay cả chúng ta, muốn làm điểm tương tự vào thời điểm này là không thể. Thời kỳ 1987-1989 chúng ta làm được là một chiến công. Chiến công này là của đất nước chúng ta, của quân đội và hải quân Việt Nam.
64 chiến sỹ Gạc Ma và hàng triệu người đã ngã xuống trong 4 cuộc chiến tranh để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, để chúng ta được sống trong hòa bình. Chúng ta tưởng nhớ những người ngã xuống và hành động để không bao giờ nữa lặp lại các cuộc chiến tranh, để giữ mãi hoà bình, hoà hợp dân tộc.
Lê Mạnh Hà
Nguồn : Tiếng Dân, 14/03/2018
Tròn 30 năm, Trung Quốc chiếm dải cát Gạc Ma, trong quần đảo Trường Sa. Tròn 30 năm, 64 chiếm sĩ hải quân Việt Nam giữ Gạc Ma, tay nắm cán lá cờ Tổ quốc cắm trên cát đảo, tay ghì súng AK nhưng lệnh không cho nổ súng đã phải đưa thân ra hứng đạn của giặc.
Lễ tưởng nhớ 64 liệt sĩ đã hy sinh trong trận hải chiến Gạc Ma ngày14/03/1988
Hằng năm nhắc lại sự kiện đau thương này để mỗi người Việt Nam đinh ninh trong dạ món nợ đòi lại Gạc Ma.
Hằng năm nhắc lại sự kiện đau thương này để Tổ quốc và người dân Việt Nam mãi mãi ghi ơn và tưởng nhớ 64 hồn thiêng Việt Nam còn mãi với Gạc Ma, còn mãi với non nước Việt Nam.
Trường Sa 14/3/1988
Sau khi đánh chiếm được toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, ngày 19/1/1974, thuộc chủ quyền Việt Nam do nhà nước Việt Nam Cộng Hòa quản lí, Trung Quốc càng ráo riết đưa tàu chiến, tàu quân sự giả dạng tàu đánh cá lùng sục, nhòm ngó quần đảo Trường Sa đã thuộc sự quản lí của nhà nước cộng sản Việt Nam. Từ cuối năm 1987, đầu năm 1988 hoạt động quân sự của Trung Quốc ở Trường Sa bỗng tăng đột biến.
Chiến hạm Trung Quốc khiêu khích tàu chiến hải quân Việt Nam
Tết Canh Ngọ đã cận kề. Thành phố Hải Phòng, nơi Bộ Tư lệnh Hải quân đặt bản doanh, không khí tết đã chộn rộn trên đường phố. Nhưng trong cuộc họp của Bộ Tư lệnh Hải quân đánh giá Chiến dịch CQ88 đang triển khai, Tư lệnh quân chủng Hải quân kiêm Tư lệnh vùng 4 Hải quân, Đô đốc Giáp Văn Cương nhắc đi nhắc lại phải huy động toàn bộ lực lượng ra giữ đảo rồi ông tuyên bố : Không có Tết ! Báo động toàn quân chủng ! Toàn bộ cơ quan tác chiến vào Cam Ranh.
Sáng mồng một Tết Canh Ngọ, 1988, Tư lệnh Giáp Văn Cương cùng ban tham mưu của ông lên ô tô lao vun vút trên đường số 5 ngày tết khá vắng vẻ, vào thẳng sân bay Gia Lâm, lên máy bay quân sự AN 26 vào Cam Ranh.
CHIẾN DỊCH CQ88, chủ quyền 88, là chiến dịch gấp gáp đưa quân lên giữ một số bãi cát san hô chưa nổi hẳn khỏi mặt nước biển nhưng giữ vị trí chiến lược quan trọng. CQ88 chạy đua với thời gian và chạy đua với mưu đồ của Trung Quốc ăn cướp Trường Sa.
Ngày 26 tháng một, 1988, Việt Nam đưa quân lên giữ bãi cát Tiên Nữ.
Lập tức ngày 31 tháng một, 1988, Trung Quốc đổ quân lên chiếm bãi cát Chữ Thập của Việt Nam..
Liên tiếp các ngày 5 tháng hai, ngày 6 tháng hai và ngày 18 tháng hai, Việt Nam lần lượt đưa quân lên giữ các bãi đá Lát, đá Lớn, đá Đông. Tức thì ngày 18 tháng hai, Trung Quốc liền đổ quân chiếm bãi Châu Viên và ngày 26 tháng hai, Trung Quốc chiếm bãi Ga Ven của Việt Nam.
Ngày 27 tháng hai, hải quân Việt Nam lên giữ bãi cát Tốc Tan thì ngày 28 tháng hai Trung Quốc đổ quân cướp bãi Huy Gơ của Việt Nam.
Đầu tháng ba năm 1988, Trung Quốc đưa hạm đội mạnh với 19 tàu uy lực nhất của Trung Quốc lúc đó đến Trường Sa gồm : Một khu trục lên lửa. Ba tàu khu trục trang bị pháo 100 mm có tầm bắn xa trên 10 km và pháo 37 mm có tầm bắn gần 10 km. Bảy tàu hộ vệ tên lửa, Hai tàu hộ vệ pháo. Hai tàu đổ bộ. Ba tàu vận tải. Một tàu hậu cần kéo theo một pông tông (cầu cảng nổi) lớn. Đó là một hạm đội hỗn hợp với cả chục chiến hạm tấn công có hỏa lực mạnh, với ba tàu chở quân cùng tàu đổ bộ và cầu cảng. Trung Quốc đang ngang nhiên triển khai chiến dịch lớn ăn cướp các đảo trong quần đảo Trường Sa Việt Nam. Và cụm cát san hô đang nổi lên Gac Ma, Cô Lin, Len Đao ở chính giữa quần đảo Trường Sa sẽ là mục tiêu của họ.
Chiếm được cụm Gac Ma, Cô Lin, Len Đao họ sẽ tạo được sự liên kết liền mạch với các đảo đã chiếm được từ trước, tạo thế đứng chân vững chắc ở Trường Sa, uy hiếp cả quần đảo và khống chế, kiểm soát cả biển Đông rộng lớn của ta
Tình thế diễn biến quá nhanh. Tư lệnh Giáp Văn Cương liền tung hai tàu vận tải HQ 604, HQ 605 và tàu đổ bộ cổ lỗ HQ 505 ra trấn giữ cụm đảo Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao. Chọn hai tàu vận tải và một tàu độ bộ không vũ trang vì có lệnh từ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng : Không được nổ súng. Ba con tàu chỉ chở hàng hậu cần, vật liệu xây dựng hầm hào, lương thực, thực phẩm cùng một lực lượng chủ yếu là lính công binh và lính kĩ thuật, gồm : 70 lính công binh của trung đoàn công binh hải quân 83, 4 cán bộ đo đạc thuộc cục bản đồ bộ Tổng Tham mưu và một đơn vị tác chiến nhỏ nhoi, 22 lính chiến đấu thuộc lữ đoàn 146 chỉ có súng cá nhân AK và cơ số đạn cơ bản do lữ đoàn phó, thiếu tá Trần Đức Thông chỉ huy.
Ngày 13 tháng ba,
Tàu đổ bộ HQ 505 do thuyền trưởng Vũ Huy Lễ chỉ huy đến đảo Cô Lin.
Tàu vận tải loại nhỏ 500 tấn HQ 604 với thuyền trưởng Vũ Phi Trừ đến đảo Gac Ma.
Riêng tàu vận tải loại nhỏ 500 tấn HQ 605 do thuyền trưởng Lê Lệnh Sơn chỉ huy đến 6 giờ sáng ngày 14 tháng ba mới tới đảo Len Đao.
Chiều ngày 13 tháng ba, tàu HQ 604 vừa thả neo cạnh Gac Ma thì hai tàu hộ vệ của Trung Quốc áp sát gọi loa đòi Việt Nam rút quân khỏi Gạc Ma rồi hai tàu giặc nối nhau chạy vòng quanh doi cát san hô Gac Ma mong manh như dúm bọt sóng trên biển.
Trong đêm 13 tháng ba, tốp lính công binh thuộc trung đoàn 83 lặng lẽ và gấp gáp chuyển vật liệu xây dựng lên Gạc Ma. Hai chiến sĩ của lữ đoàn 146 cũng ôm cờ chủ quyền theo chiến sĩ công binh lên đảo.
Sáng sớm, từ trên đài chỉ huy tàu HQ 604, thiếu tá Trần Đức Thông qua ống nhòm phát hiện bốn tàu lớn của Trung Quốc đang hiện rõ dần trong lớp sương mù trên mặt biển. Thiếu tá Thông liền lệnh cho thiếu úy Trần Văn Phương lấy thêm hai chiến sĩ nữa vào đảo tăng cường cho tổ giữ cờ. Thiếu úy Phương gọi tên hai chiến sĩ Nguyễn Văn Tư và Nguyễn Văn Lanh xách AK xuống bo bo bơi vào đảo.
Khi năm chiến sĩ tổ chủ quyền đang bên lá cờ giữa đảo và hơn hai mươi chiến sĩ công binh tay sẻng, tay xà beng đang hối hả tạo mặt bằng cho xây dựng công trình trú quân thì một tàu khu trục, hai tàu hộ vệ tên lửa và một tàu đổ bộ Trung Quốc đến gần Gac Ma. Tàu khu trục lớn trang bị 4 khấu pháo 100 mm và 8 khẩu 37 mm dừng lại ở xa, ba tàu còn lại áp sát Gạc Ma. Từ trên tàu đổ bộ, bốn chiếc xuồng máy đổ bộ được thả xuống biển. Xuồng chở đầy lính Trung Quốc chạy vào đảo. Đến chỗ thềm san hô nông, đáy xuồng chạm san hô không chạy được nữa, lính Trung Quốc nhảy ào xuống, xông đến chỗ chiến sĩ ta. Và một cuộc thảm sát bi thảm, đau thương chưa từng có trong lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam diễn ra.
Lính Trung Quốc xô lại cướp lá cờ Việt Nam. Cán cờ đang trong tay thiếu úy Trần Văn Phương. Cả tổ giữ cờ năm người chỉ có hai khấu AK. Vì lệnh không cho nổ súng, hai người lính ôm AK cũng một tay kẹp súng, một tay ghì lá cờ. Lính Trung Quốc cũng chỉ có súng AK. Nhưng 50 lính Trung Quốc lên đảo thì 48 tên mang AK với băng đạn đầy mình. Một tên mang súng ngắn và một tên mang máy thông tin. Lá cờ bị giằng đi, giật lại, thiếu úy Trần Văn Phương liền quấn lá cờ quanh người. Không cướp được lá cờ Việt Nam, tên sĩ quan Trung Quốc cầm súng ngắn liền nổ súng lên trời như một mệnh lệnh chiến đấu. Lấp tức lũ lính Trung Quốc chồm lên, phóng lưỡi lê, xả đạn vào năm người lính giữ cờ Việt Nam. Thiếu úy Trần Văn Phương bị cả một loạt đạn bắn gần, gục xuống. Binh nhất Nguyễn Văn Lanh bị lê đâm xuyên qua người.
33333333333333333
Vòng tròn bất tử ở Gạc Ma
Trên hòn đảo trống trải chỉ có cát san hô dưới chân. Những người lính công binh trong tay chỉ có xà beng, cuốc sẻng cũng phải nhận những mũi lê xuyên thấu ngực và những loạt đạn AK bắn gần vỡ toác trán.
Thảm sát xong những người lính Việt Nam tay không trên đảo Gạc Ma, lính Trung Quốc rút về tàu để cho uy lực của những dàn tên lửa và những khẩu pháo 100 mm trên chiến hạm của chúng giải quyết nốt ba con tàu nhỏ bé, cũ nát, không vũ trang và dội lửa xuống núm cát Gạc Ma để không con người lính Việt Nam nào sống sót.
Những loạt đạn pháo 100 mm, pháo 76,2 mm, pháo 37 mm, trọng liên 12,7 mm và cả những dàn tên lửa 12 nòng từ trên những tàu khu trục, tàu hộ vệ tên lửa hiện đại của Trung Quốc xối xả dập xuống HQ 604 và núm cát Gạc Ma. Tàu HQ 604 chìm cùng với sự hi sinh của lữ đoàn phó, thiếu tá Trần Đức Thông, thuyền trưởng, đại úy Vũ Phi Trừ cùng nhiều thủy thủ của tàu và bốn cán bộ cục bản đồ.
Nhấn chìm HQ 604 và chà xát Gạc Ma xong, pháo và tên lửa Trung Quốc chuyển làn sang đánh HQ 505 ở Cô Lin và HQ 605 ở Len Đao.
Cũng sáng 14. 3. 1988, trên tàu HQ 505 ở đảo Cô Lin cách Gạc Ma hơn ba hải lí. Từ đài chỉ huy thuyền trưởng Vũ Huy Lễ theo dõi ba tàu hộ vệ tên lửa đang tiến lại Cô Lin. Rồi ba tàu giặc tản ra thành ba mũi lao đến HQ 505.
Thuyền trưởng Vũ Huy Lễ vừa lệnh tàu chạy hết công suất lao lên đảo thì tàu rung lắc đùng đùng và lửa từ khắp con tàu ngùn ngụt bốc lên. Tàu đã bị trúng đạn từ ba tàu giặc bắn tới. Hai vị trí quan trọng của tàu là máy trưởng Nguyễn Đại Thắng và tiểu đội trưởng thông tin Nguyễn Duy Hòa đều bị trúng đạn. Hệ thống điện mất. Máy tàu chết. Liên lạc với sở chỉ huy cũng mất. Từ những vết đạn vỡ toác xé vỏ tàu, nước biển đang ồng ộc xối vào hầm máy. Bịt lỗ thủng để cứu tàu khỏi chìm và sửa chữa để máy tàu hoạt động trở lại là hai việc gấp gáp. Tàu giặc vẫn đang lao tới và bắn xối xả vào tàu. Trong tình thế ngặt nghèo đó, những người lính tàu HQ 505 đã kịp làm sống lại máy tàu, cho con tàu vỡ toác chồm lên lao vào đảo. Và nửa con tàu thương tích HQ 505 đã nằm vật xuống, ôm ghì lấy núm cát Cô Lin. Không đánh chìm được HQ 505 nhỏ nhoi, cổ lỗ, ba tàu hộ vệ tên lửa hiện đại của Trung Quốc càng cay cú tới tấp quất đạn vào HQ 505 nhưng HQ 505 đã trở thành chiến hạm không bao giờ đắm.
Tàu HQ 605 giữ núm cát Len Đao cũng bị quân Trung Quốc bắn cháy và chìm rạng sáng 15 tháng ba. Nhưng dường như Trung Quốc chỉ tập trung đánh chiếm Gạc Ma nên không đổ quân lên Cô Lin và Len Đao.
Dải cát Gạc Ma mau lẹ rơi vào tay Trung Quốc vì Trung Quốc tràn lên cướp đảo, những người lính Việt Nam giữ đảo chỉ có hai khẩu AK với số đạn ít ỏi trong tay cũng không được bắn, họ chỉ còn cách lấy sức người giành giật lá cờ chủ quyền với giặc rồi giơ ngực hứng đạn của giặc, nhận lấy cái chết tan xác, bỏ lại đảo cho giặc làm chủ. Quân chết, đảo mất vì cái lệnh không cho người lính giữ đảo nổ súng vào kẻ xâm lược cướp đảo. Đó chính là cái lệnh dâng Gạc Ma cho Trung Quốc. Những người lính lấy mạng sống của mình để giữ Gạc Ma nhưng quyền lực nào trước đó đã dâng Gạc Ma cho Trung Quốc ?
Kẻ dâng Gac Ma cho Trung Quốc dù là quyền lực nào cũng không thoát được sự phán xét của lịch sử.
Ngày nay người dân nói tiếng nói của lịch sử Việt Nam, nói tiếng nói của trái tim Việt Nam yêu nước : "Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam", người dân xuống đường lên án Trung Quốc xâm lược, người dân tập hợp tưởng niệm, ghi ơn những người lính đã chết trong cuộc chiến đấu giữ Gac Ma, bảo vệ Hoàng Sa, Trường Sa đều bị công an nhà nước cộng sản Việt Nam bắt bớ, tù đày. Cuộc xuống đường lên án Trung Quốc cướp Hoàng Sa, Gạc Ma, lễ tưởng niệm Hoàng Sa, Gạc Ma đều bị ngăn cản, phá đám. Người dân đi tưởng niệm Gac Ma đều bị công an nhà nước cộng sản Việt Nam chặn cửa không cho ra khỏi nhà !
Một nhà nước đã phản bội giống nòi, chống lại nhân dân, chống lại lịch sử Việt Nam. Nhà nước đó và những kẻ đang hung hăng chống lại lòng yêu nước của nhân dân cũng không thoát khỏi sự phán xét của lịch sử !
Phạm Đình Trọng
(14/03/2018)
1. Đoan Trang đã nói thẳng lí tưởng sống của mình, đã viết ra cái slogan cuộc đời mình : Tôi đấu tranh để chống độc tài, và nhà nước cộng sản ở Việt Nam hiện nay là nhà nước độc tài nên tôi đấu tranh để xóa bỏ nó.
Phạm Đoan Trang : "Tôi đấu tranh để chống độc tài, và nhà nước cộng sản ở Việt Nam hiện nay là nhà nước độc tài nên tôi đấu tranh để xóa bỏ nó".
Lí tưởng sống của Đoan Trang cũng chả khác gì với lí tưởng sống của Karl Marx, người khai sinh ra chủ nghĩa cộng sản. Fredrick Engels, người học trò, người bạn cùng lí tưởng đã khái quát, tổng kết cuộc đời K. Marx như sau : Chủ đích chính trong cuộc đời của ông là lật đổ xã hội tư bản cùng các định chế do chế độ này lập nên.
Giữa thế kỉ 19, sau cuộc cách mạng dân chủ tư sản long trời lở đất ở thế kỉ 18, một giai cấp mới đầy hoài bão và đầy sức mạnh nhảy lên vũ đài chính trị, lập lên một thể chế mới, một nhà nước mới, nhà nước tư bản hoang dã. Hoang dã vì nhà nước này không từ một thủ đoạn tàn ác, man rợ nào, hối hả tích lũy tư bản, tàn bạo bóc lột sức lao động làm thuê của thợ thuyền và hăm hở đi xâm lược các nước đang còn chìm đắm trong chế độ phong kiến và nông nô, biến các nước chưa có sức mạnh công nghiệp thành thuộc địa để vơ vét, cướp đoạt tài nguyên. Nhà nước tư bản đã đi từ hoang dã tới văn minh,Ngày nay mọi hoạt động của nhà nước tư bản văn minh đều hướng tới con ngươi, vì con người, nâng phẩm giá con người lên.
Sống trong lòng xã hội tư bản đi đầu công nghiệp hóa, khi ở Đức, khi ở Anh, K. Marx viết tác phẩm mang tên Tư Bản kể tội nhà tư bản chạy đua lợi nhuận bất chấp đạo lí, bất chấp tính mạng, xương máu con người. Kể tội sự bóc lột tư bản làm tha hóa con người, biến con người chủ thể xã hội thành con người công cụ, con người nô lệ, con người hư vô. Bộ Tư Bản đồ sộ hàng ngàn trang công khai xuất bản, công khai phát hành khắp Châu Âu.
Nhà nước tư bản vừa ra đời sau cuộc cách mạng tư sản dân quyền, vừa bước vào thể chế dân chủ sơ khai nhưng ra đời trong bầu cử dân chủ, công khai, nhà nước tư bản đương nhiên phải mang linh hồn dân chủ và nhà nước tư bản đã coi bộ sách Tư Bản kể tội minh và tổ chức những người vô sản thành lực lượng chính tri lật đổ nhà nước tư bản chỉ là một công trình khoa học về xã hội và triết học. K. Marx cùng vợ và hai con gái tuy sống đam bạc túng thiếu trong xã hội tư bản đang rầm rộ công nghiệp hóa nhưng ông cùng gia đình hoàn toàn yên ổn, tư do, nhà nước tư bản không hề động đến ông, làm phiền ông.
Giống như K. Marx, thức tỉnh người dân về chế độ độc tài cộng sản, Đoan Trang viết sách Chính Trị Bình Dân chỉ đơn thuần cung cấp kiến thức pháp luật cho người đọc về quyền con người, quyền công dân, về một nhà nước pháp quyền đích thực, khác xa với nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chỉ nhằm nô dịch người dân, tước đoạt quyền con người của người dân đang diễn ra ở nhà nước cộng sản Việt Nam.
Nhưng số phận Đoan Trang trong nhà nước độc tài cộng sản Việt Nam khác K. Marx ở chỗ quyển sách bình dị, hiền lành của Đoan Trang phải in trong bí mật tuyệt đối. Nhưng khi sách vừa đến với công chúng, công an nhà nước cộng sản liền lồng lộn săn đuổi, truy bức người viết sách, bất chấp quyền tư do ngôn luận, tự do bộc lộ chính kiến dưới mọi hình thức được bảo đảm trong hiến pháp. Công an nhà nước cộng sản kéo đến đông như kiến bao vây cả tòa chung cư Đoan Trang ở rồi xông vào nhà hành xử như xã hội đen, dùng sức mạnh cơ bắp bắt cóc Đoan Trang.
2. Lí tưởng sống của Đoan Trang, slogan cuộc đời Đoan Trang cũng là lí tưởng sống, là slogan cuộc đời của tất cả những người dấn thân vào cuộc đấu tranh đầy cam go, đầy bất trắc nhằm loại bỏ nhà nước độc tài sắt máu cộng sản Việt Nam.
Lực lượng đấu tranh giành lại những giá trị làm người, xây dựng xã hội tự do, dân chủ ngày càng đông đảo, ngày càng trẻ hóa, và ngay từ đầu lực lượng này đã hình thành hai hướng, hai mũi tấn công ngày càng mạnh mẽ vào chế độ độc tài cộng sản.
Mũi tấn công bằng lí luận vào học thuyết máu cộng sản. Mũi tấn công bằng ánh sáng chân lí vào mớ lí luận giáo điều, tăm tối của nhà nước cộng sản Việt Nam. Những bài viết sắc sảo, đầy trí tuệ, đầy thuyết phục của Hà Sĩ Phu, Nguyên Ngọc, Nguyễn Thanh Giang, Hoàng Xuân Phú, Nguyễn Đình Cống, Nguyễn Khắc Mai, Lê Phú Khải… đã chỉ ra những sai trái và tội ác của học thuyết máu Mác Lê Mao, đã chỉ ra nhà nước cộng sản Việt Nam đang dấn sâu vào con đường phản dân tộc, chống nhân dân. Những bài viết đó như những tia sáng chiếu vào xã hội Việt Nam đang tăm tối trong tà quyền cộng sản có tác dụng rất lớn trong việc thức tỉnh người dân.
Mũi tấn công bằng hành động, trực tiếp đối mặt với bạo quyền cộng sản. Xuống đường biểu tình phản đối Tàu Cộng xâm lấn biển Việt Nam. Phản đối Formosa đầu độc biển Việt Nam. Nhà nước cộng sản Việt Nam đã huy động lực lượng lớn công an, quyết liệt đàn áp những cuộc biểu tình của lòng yêu nước. Sự đàn áp tàn bạo, man rợ đó đã bộc lộ đầy đủ bản chất phản nước hại dân của nhà nước độc tài công sản và đã sáng chói lên rất nhiều những khí phách lẫm liệt trước bạo quyền cộng sản, đã xuất hiện rất nhiều những nữ kiệt quả cảm, bất khuất. Bùi Thị Minh Hằng. Trần Thúy Nga. Nguyễn Ngọc Như Quỳnh. Hồ Thị Bích Khương. Trần Ngọc Anh...
Một hình hài bé nhỏ nhưng với trí tuệ mẫn tiệp, với tư duy sắc sảo và với ý chí quyết không chấp nhận sự tồn tại của nhà nước độc tài cộng sản đầy tội ác trên đất nước Việt Nam thương yêu, quyết loại bỏ nhà nước tồn tại bằng máu dân đó ra khỏi đời sống chính trị đất nước, ra khỏi cuộc sống bình yên của nhân dân, Đoan Trang đã có mặt ở hàng đầu trên cả hai mặt trận, trên cả hai mũi tiến công ngày càng mạnh mẽ vào nhà nước độc tài cộng sản.
Ngày Phụ nữ 8 tháng ba năm nay tất cả chúng ta cùng hướng về những nữ kiệt Bùi Thị Minh Hằng, Trần Thúy Nga, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Hồ thị Bích Khương, Trần Ngọc Anh. . . Mà tiêu biểu cho những nữ kiệt đó chính là khí phách Đoan Trang. Và chúng ta sẽ gọi ngày phụ nữ 8 tháng ba năm nay là ngày Đoan Trang, ngày của những tâm hồn đẹp phụ nữ VIệt Nam
Phạm Đình Trọng
(07/03/2018)
30 năm, ba lần đánh tan quân Nguyên Mông hùng mạnh xâm lược, giữ vững biên cương phía Bắc, dẹp yên sự quấy rối của Chiêm Thành, mở mang bờ cõi về phía Nam, triều Trần là triều viết lên trang chói lọi nhất trong lịch sử Việt Nam dựng nước. Triều Trần cũng là triều thịnh trị, kinh tế sung túc, văn hóa rực rỡ, xã hội thanh bình, dân ấm no, yên vui lâu bền nhất trong các triều đại phong kiến Việt Nam. Triều Trần cũng là triều gần dân nhất, trong dân nhất. Thời chiến, vua Trần mời trí lự của dân đến điện Diên Hồng trong Hoàng thành Thăng Long, hỏi dân, nghe dân đối sách với giặc. Thời bình, buổi tối vua Trần thường ngồi thuyền ra khỏi Hoàng Thành. Ngày đó Thăng Long còn lênh láng nước. Thuyền vua dạt vào quán nước, ghé vào chiếu hát ca trù. Sống gần dân, khi chết các vua Trần cũng về nằm chung nghĩa trang làng với dân.
Triều Trần là triều viết lên trang chói lọi nhất trong lịch sử Việt Nam dựng nước
Có công lớn với dân, với nước như vậy nhưng các vua nhà Trần khi rời ngôi đều về với lũy tre xanh ở quê nhà Tức Mặc, Thiên Trường, Nam Định. Khi về với tổ tiên đều lặng lẽ và thanh thản gửi xác vào mảnh đất quê Tức Mặc, gửi hồn vào ngọn cỏ lá cây Thiên Trường. Không xây bia mộ bề thế, không đúc tượng đồng uy nghi, không tạc tượng đá sừng sững, các vua Trần chỉ lo xây chùa, đúc chuông, tô tượng Phật cho dân có nơi gửi đức tin. Vị tướng lẫm liệt có công trạng lớn nhất của triều Trần huy hoàng, cũng là vị tướng tài võ công hiển hách nhất trong lịch sử Đại Việt, được cả sử sách thế giới ghi nhận là Trần Hưng Đạo cũng chọn nơi về với tổ tiên là mảnh đất bình dị, thiên nhiên hoang sơ giữa cánh rừng Kiếp Bạc, Chí Linh, Hải Dương, nơi ông đặt bản doanh chỉ huy cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông, cách kinh kì Thăng Long hơn 80 cây số.
Ngày nay lí luận cộng sản, sử sách cộng sản vẫn nhìn nhận, phê phán xã hội phong kiến là xã hội phân biệt giai cấp nặng nề, sâu sắc. Nhưng các quan lớn, nhỏ triều Trần cũng như tất cả các triều đại phong kiến khác khi rũ áo từ quan đều trở về với làng xóm, khi chết đều gửi xác vào mảnh đất quê. Tang lễ đều do con cháu họ mạc tự lo, ngân khố quốc gia không phải chi một xu, một hào. Ân huệ của nước, của vua chỉ là mấy cờ lọng, sắc phong vua ban cho khi làm quan :
Cờ biển vua ban cho ngày trước
Khi đưa thầy con rước đầu tiên
(Nguyễn Khuyến)
Chế độ cộng sản lên án chế độ phong kiến bất công, thối nát, quyết đào mồ chôn chế độ tư bản bóc lột và những người cộng sản cầm quyền đã lùa cả dân tộc vào cuộc đấu tranh giai cấp, cải cách xã hội, chiến tranh ý thức hệ. Cả chục triệu dân lành phải bỏ xác trong những cuộc đấu tranh giai cấp man rợ, hủy hoại tính người và trong những cuộc chiến tranh ý thức hệ liên miên, đẫm máu để xóa bỏ giai cấp, xóa bỏ bất công, xây dựng xã hội theo tiêu chí bình đẳng, công bằng, không còn áp bức, bóc lột, bất công, không còn giai cấp.
Nhưng hiện thực đang diễn ra ở xã hội cộng sản Việt Nam lại là xã hội phân biệt giai tầng, phân chia đẳng cấp quái gở nhất, lố bịch nhất, trơ trẽn nhất. Cách mạng vô sản đưa tầng lớp khốn cùng trở thành giai cấp thống trị. Ngàn đời khốn cùng, thua kém mọi người, nay có vị trí thống trị xã hội, cái mà họ khao khát không phải là cống hiến, thể hiện mình, đóng góp cho đời vì họ chẳng có gì để thể hiện, đóng góp. Họ chỉ khao khát mọi hưởng thụ, mọi quyền lợi phải vượt trội hơn mọi người. Và xã hội cộng sản đã nảy nòi ra tầng lớp thống trị mặc sức dùng tiền thuế mồ hôi nước mắt của dân chăm lo cho giai cấp thống trị kĩ càng, chi li, tốn kém hơn cả thời phong kiến suy tàn, thối nát.
Ăn có đặc sản. Đi xa có chuyên cơ. Đi gần có xe hộ tống, tiền hô hậu ủng. Ở có phố quan, có biệt điện kín cổng cao tường. Hắt hơi sổ mũi có ban chăm sóc bảo vệ sức khỏe trung ương chăm lo. Chết có nghĩa trang riêng, có mộ phần thênh thang, có nhà tưởng niệm tô vẽ công lênh, có tượng đồng, tượng đá nhiều hơn tượng Chúa, tượng Phật. Nhiều ông quan cộng sản khi sống ngập ngụa trong thói hư trần tục và tội lỗi ma quỉ, đã hưởng quá nhiều đặc quyền, đặc lợi, khi chết lại được nhà nước cộng sản lấy tài nguyên của nước, lấy tiền thuế của dân một cách vô tội vạ, vô trách nhiệm để thần thánh hóa những ông quan trần tục và tội lỗi có vai vế trong triều cộng sản, qua đó thần thánh hóa cả một thời cộng sản, thời dựng lên và tồn tại bằng máu và nước mắt dân lành.
Sau thắng lợi không trọn vẹn của cuộc kháng chiến chống Pháp. Không trọn vẹn vì cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc bằng hiệp định Genève cắt đôi đất nước Việt Nam thành hai trận tuyến đối kháng, chia đôi dân tộc Việt Nam thành hai thế lực thù địch, tất yếu tạo ra thảm họa không thể tránh khỏi là cuộc nội chiến Nam - Bắc đẫm máu kéo dài suốt 20 năm. Thắng lợi không trọn vẹn, mới làm chủ nửa dải đất Việt Nam, những người cộng sản Việt Nam về thủ đô Hà Nội liền ban hành ngay những sắc luật, những chính sách để tách biệt quan với dân, để phân hạng quan to, quan nhỏ, quan càng to càng nhiều đặc quyền, đặc lợi. Thói đặc lợi cộng sản giành phần hơn từ miếng ăn với dân đã được bia miệng dân gian khắc ghi :
Tôn Đản là chợ vua quan
Nhà Thờ là chợ trung gian nịnh thần
Bắc Qua là chợ thương nhân
Vỉa hè là chợ nhân dân anh hùng.
Lương cao nhưng quan chức cấp cao cộng sản lại ít phải dùng đồng lương lo cho cuộc sống hàng ngày. Mọi nhu cầu của đời sống đều được nhà nước cộng sản đáp ứng miễn phí, lại có phiếu mua hàng trong cửa hàng cung cấp riêng ở phố Tôn Đản dành cho quan cấp bự. Giá rẻ như cho không. Từ túi kẹo sữa của Nga cho cậu ấm, cô chiêu đến chai rượu Mao Đài, bao thuốc lá Thiên An Môn của Tàu Cộng cho các quan ông. Từ lọ nước hoa Bulgari cho các quan bà đến chiếc tủ lạnh Saratov của Nga cho gia đình quan.
Trăm năm bia đá thì mòn
Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.
Bia miệng về chợ vua quan Tôn Đản thời cộng sản sẽ còn mãi cùng với bia miệng về một triều đại hại dân đã sụp đổ trong lòng dân nhưng vẫn cố xây thành cao, đào hào sâu bằng xương máu dân để cố kéo dài triều đại thối nát, kéo dài nỗi thống khổ của dân :
Vạn niên là vạn niên nào
Thành xây xương lính, hào đào máu dân.
Xã hội cộng sản chỉ có một bảng giá trị là thang bậc quan chức và con người muốn tiến thân chỉ có con đường bon chen vào con đường quan chức. Thị trường mua quan bán chức trở thành thị trường ngày càng phát đạt, rầm rộ, nhộn nhịp nhưng cũng ngày càng khốc liệt. Chốn quan trường chỉ còn là chốn đua chen của những nhân cách thấp hèn. Những nhân cách xôi thịt, hối hả bòn rút, vơ vét của công, cướp bóc của dân và tàn độc sát phạt nhau để giành ghế chốn công đường mà tiếng súng thanh toán nhau, máu chảy lênh láng ở tỉnh đường Yên Bái năm 2016 là một thí dụ.
Thôi, khỏi nói sự phân cấp về miếng ăn, chỗ ở, về tiêu chuẩn chữa bệnh, tiêu chuẩn thư kí, vệ sĩ, công vụ, tiêu chuẩn ô tô riêng từ ngót nghét tỉ đồng đến vài tỉ đồng đưa đón các quan cộng sản. Chỉ nhìn cách nhà nước cộng sản thoải mái lấy tài nguyên của nước, phóng tay ném tiền thuế của dân lo cho cái chết của quan cộng sản cũng thấy sự thấp kém trong tầm văn hóa, tầm nhân văn, sự vô liêm sỉ trong nhân cách, sự méo mó, nhố nhăng trong lí tưởng sống, sự khinh miệt, bất nhẫn với người dân của nhà nước cộng sản.
Kí hiệp định Genève cắt đôi đất nước thành hai trận tuyến, cắt đôi dân tộc thành hai thế lực thù địch. Gieo rắc hận thù giữa hai nửa giống nòi Việt Nam rổi đẩy hai nửa hận thù đó vào cuộc nội chiến tương tàn một mất một còn. Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết làm chiếm tranh xóa sổ một nửa giống nòi Việt Nam, quyết dành độc quyền thống trị cả nước. Đó là một tội ác lịch sử. Cùng với tội ác cải cách ruộng đất phá tan đạo lí thương yêu đùm bọc "thương người như thể thương thân" làm nên sức mạnh trường tồn Việt Nam là hai tội ác lớn nhất của nhà nước cộng sản thời kì đó. Gây ra hai tội ác lớn với lịch sử, với nhân dân rồi những người cộng sản rời bóng tối rừng sâu về ánh sáng kinh kì.
Vừa về làm chủ Phủ Toàn quyền Đông Dương, làm chủ Hoàng thành Thăng Long, những người cộng sản liền tự ban cho mình nhiều đặc lợi mà các nhà nước phong kiến và nhà nước bù nhìn tay sai thực dân trước đó dù tham lam, thối nát đến đâu cũng không thể làm, không nỡ làm. Trong đó có hai đặc lợi chướng tai gai mắt nhất là ăn Tôn Đản, chết Mai Dịch. Đặc lợi ăn Tôn Đản đã được dân gian khắc vào bia miệng. Đặc lợi chết Mai Dịch rồi cũng sẽ có bia miệng dân gian, tiếu lâm dân gian.
Khi mới làm chủ nửa nước, còn đang phải diễn màn dập đầu tạ tội với dân về hàng trăm ngàn dân lành bị đấu tố, hành hình chết oan trong cải cách ruộng đất, nhà nước cộng sản đã chiếm hơn 5 ha đất nghĩa trang Mai Dịch của những liệt sĩ Hà Nội làm nghĩa trang riêng cho quan chức cộng sản cấp cao, xây mả lớn cho những người cộng sản tự nhận là có công với nước.
Lịch sử luôn công bằng và người dân luôn biết ứng xử bằng đạo lí. Với những ai thực sự có công với dân với nước, dân tự lập đền thờ, chẳng cần tiêu chuẩn cấp bậc. Chỉ những kẻ công ít, tội nhiều mới phải vơ công để giấu tội. Tự cho mình phải có nghĩa trang riêng, có mả lớn là tự kể công với dân, với nước, đòi đất nước mãi mãi ghi công, bắt nhân dân đời đời thờ phụng.
Làm chủ nửa nước, mới làm hai việc lớn : Kí hiệp định Genève cắt đôi đất nước, chia đôi giống nòi Việt Nam và làm cuộc cải cách máu trên ruộng đất, nhà nước cộng sản liền chiếm hơn 5 ha đất vàng kinh kì xây mả lớn cho những quan chức cộng sản cao cấp được nhà nước cộng sản tự cho là có công với nước. Làm chủ cả nước, nhà nước cộng sản đã làm thêm nhiều việc vô cùng lớn nhằm vô sản hóa, bần cùng hóa, nô lệ hóa người dân, thâu tóm toàn bộ quyền lực của nhân dân vào tay nhà nước cộng sản và cắt đất, dâng biển cho Tàu Cộng, đưa giống nòi Việt Nam ngày càng chìm sâu vào thân phân chư hầu Tàu Cộng :
Cho ra đời những bản Hiến pháp tước đoạt quyền làm chủ đất nước của người dân. Người dân làm chủ đất nước bằng tự do ứng cử và tự do bầu chọn lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Điều 4 Hiến pháp cộng sản đã cho những người cộng sản quyền đương nhiên lãnh đạo nhà nước và xã hội, không cần đến sự bầu chọn của người dân. Hiến pháp cộng sản mới nhất còn cho nhà nước cộng sản quyền thâu tóm toàn bộ tài nguyên đất nước, thâu tóm cả quyền sở hữu đất đai từ ngàn đời của người dân. Điều 4 Hiến pháp 2013 tước đoạt quyền làm chủ đất nước của người dân thì điều 53 của Hiến pháp đó tước đoạt luôn quyền làm chủ mảnh đất riêng của mỗi gia đình do cha ông họ để lại.
Nô dịch người dân, tước đoạt những giá trị làm người của người dân. Lùa hơn triệu người dân không cùng ý thức hệ cộng sản vào những nhà tù khắc nghiệt núp dưới cái tên trại tập trung cải tạo. Sự đày đọa trong thống khổ, thiếu thốn cả vật chất, tinh thần và tình cảm đã đem đến cái chết thê thảm cho hàng chục ngàn người tù tập trung cải tạo. Miệng nói hòa giải, hòa hợp dân tộc nhưng lại lùa chính những người cần hòa giải, hòa hợp dân tộc vào tù đầy mút mùa, những người cộng sản đã khoét sâu mãi mãi sự chia rẽ, li tán, hận thù dân tộc. Một dân tộc bị chia rẽ, li tán và không nguôi thù hận nhau tất yếu sẽ suy yếu, không thể hùng mạnh, không thể giữ được độc lập, chủ quyền trước tham vọng bành trướng của Đại Hán phương Bắc và hiện thực đất nước những ngày này là minh chứng hùng hồn, hiển nhiên.
Xóa sổ đội ngũ tư sản dân tộc giầu lòng yêu nước, giầu tài năng sáng tao. Phá nát nền công nghiệp non trẻ nhưng đầy nội lực và đang công nghiệp hóa mạnh mẽ hòa nhập vào xã hội công nghiệp thế giới, đẩy người dân vào thời kì nghèo đói cùng cực. Đói rách cơm ăn áo mặc. Đói rách cả niềm tin.
Đất nước gấm vóc của cha ông để lại, Tổ quốc thiêng liêng của mọi trái tim Việt Nam đã là sở hữu riêng của những người cộng sản. Dù yêu nước cháy lòng, người dân cũng phải vượt biển bỏ nước ra đi. Dù chỉ có một phần ngàn tia hi vọng sống sót giữa cái chết của bão biển, cướp biển, của đói khát, bệnh tật bủa vây và gần nửa triệu người đã vùi xác dưới đáy biển nhưng người dân đi tìm giá trị làm người, tìm ý nghĩa đích thực của cuộc đời ngắn ngủi, vẫn cuồn cuộn bỏ nước ra đi, tìm sự sống trong cái chết. Dòng người phải bỏ nhà cửa, bỏ mồ mả ông bà, bỏ nước, gạt nước mắt ra đi khi bùng phát, khi âm thầm kéo dài từ năm 1975 đến tận hôm nay, gần nửa thế kỉ.
Tạo ra một cường quốc tham nhũng hàng đầu thế giới, tạo ra một bộ máy nhà nước khổng lồ, kềnh càng, trì trệ, quá kém cỏi trong quản trị quốc gia làm cho đất nước ngày càng tan hoang, lụn bại nhưng lại quá giỏi bòn rút của cải, tài nguyên của nước, cướp đoạt nguồn sống của dân, tạo ra một cường quốc dân oan, cường quốc xuất khẩu nô lệ tình dục và xuất khẩu lao động làm thuê. Đưa đất nước vào con đường lạc lõng, tủi nhục với loài người. Kinh tế, văn hóa đất nước ngày càng tụt xa ở phía sau trong tiến trình đi tới văn minh, phát triển của loài người.
Để mất cụm đảo Gạc Ma trong quần đảo Trường Sa vì khi Tàu Cộng đánh chiếm Gạc Ma, lãnh đạo cấp cao của nhà nước cộng sản Việt Nam cấm người lính Việt Nam giữ Gạc Ma không được nổ súng. Không cho người lính Việt Nam được nổ súng chiến đấu giữ chùm đảo Gạc Ma trong quần đảo Trường Sa thực chất là lệnh dâng chùm đảo Gạc Ma cho Tàu Cộng. Dâng cả chùm đảo Gạc Ma cho Tàu Cộng rồi lại kí hiệp định biên giới cắt hàng trăm cây số vuông đất biên cương, nhượng hàng ngàn hải lí biển của lịch sử, của tổ tiên người Việt cho bạn vàng ý thức hệ Tàu Cộng. Đó là tội lớn nhất trong những tội của một nhà nước phản dân, hại nước, tội bán nước đớn hèn và nhục nhã.
Đất nước của nền văn minh sông Hồng tuy không rực rỡ huy hoàng ở tầm nhân loại nhưng lung linh bản sắc riêng. Gần ngàn năm Bắc thuộc, Đại Hán mang nền văn minh Trung Nguyên rực rỡ, huy hoàng đồng hóa dân tộc Việt nhưng người Việt vẫn là người Việt vì văn minh sông Hồng đậm đà bản sắc riêng vẫn bền bỉ trong hồn người Việt. Nền văn minh sông Hồng đã tạo ra một dân tộc văn hiến, một đạo lí thương yêu để tồn tại, để sống còn, một nguyên tắc ứng xử hòa hiếu là nhường nhịn, thương yêu, đùm bọc. Một câu nhịn là chín câu lành.
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Nhưng chỉ mấy chục năm trong thể chế cộng sản, chỉ mấy chục năm dưới sự cai trị bằng bạo lực và dối trá của nhà nước cộng sản Việt Nam, đất nước của nền văn minh sông Hồng, của ngàn năm văn hiến, của thương yêu, đùm bọc, thương người như thể thương thân, trở thành đất nước của bạo lực man rợ, đất nước của máu và nước mắt.
Nhà nước ứng xử với dân bằng bạo lực. Để duy trì một thể chế chính trị lạc hậu cả trăm năm so với thế giới, nhà nước cộng sản không có lẽ phải chỉ còn biết ứng xử với những tiếng nói khẩn thiết và chính đáng đòi dân chủ, đòi quyền làm người của người dân bằng dùi cui công an, bằng những điều luật độc tài 79 ; 88 ; 258, bằng tòa án áp đặt và bằng ngục tù trung cổ. Người dân đang khỏe mạnh bị công mời đến trụ sở làm việc buổi sáng thì buổi chiều đã thành cái xác với những vết bầm dập, thâm tím, phù nề khắp người. Mỗi năm có hàng chục cái chết như vậy diễn ra từ năm này sang năm khác và đã trở thành điều bình thường, thành chuyệ thường ngày trong nhà nước cộng sản Việt Nam.
Dân giải quyết mâu thuẫn, bất hòa nhỏ xíu với nhau cũng bằng nắm đấm, dao găm, thuốc nổ và cả bằng súng tự chế. Chồng giết vợ, vợ giết chồng phanh thây từng mảnh không còn là chuyện hiếm. Bạo lực cả ở nơi của lễ nghĩa. Trường học nào cũng có hàng chữ son suy tôn lễ nghĩa : Tiên học lễ, hậu học văn. Như công sở nào cũng có hàng chữ vàng suy tôn đảng cộng sản : Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm. Nhưng trò đánh thầy, học trò nói chuyện với nhau bằng đao búa, học trò tước đoạt mạng sống của nhau diễn ra ở khắp nơi. Những clip nữ sinh yểu điệu thục nữ đánh nhau, lột quần áo của nhau giữa lớp học, trên đường làng nhan nhản trên mạng xã hội.
Thể chế chính trị lạc hậu cả trăm năm vì ngay từ đầu thế kỉ 20, những trí tuệ sáng láng và thức thời đã nhận ra xã hội chủ nghĩa của Mác là độc tài, sắt máu, phản con người, phản tiến bộ, họ đã tách ra khỏi phong trào cộng sản, lặng lẽ theo đuổi lí tưởng xã hội dân chủ, tạo ra những xã hội ổn định, bình yên, kinh tế và văn hóa phát triển rực rỡ vì con người ở những nước Bắc Âu, Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch... Trong khi đó, những người cực đoan, cuồng tín giáo điều cộng sản kiên trì học thuyết bạo lực đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản đã tập hợp lại trong quốc tế ba và lập lên đảng cộng sản ở các nước, sắt máu thực hiện bạo lực chuyên chính vô sản, tạo ra cao trào cách mạng vô sản từ cách mạng Tháng Mười Nga 1917 đến cách mạng văn hóa Trung Hoa những năm sáu mươi thế kỉ 20, dìm thế giới vào biển lửa chiến tranh ý thức hệ, dìm loài người vào biển máu bạo lực đấu tranh giai cấp suốt hơn nửa thế kỉ, giết chết cả trăm triệu sinh linh con người, biến những đất nước tươi đẹp thành những nhà tù khổng lồ đầy đọa và công khai tàn sát hàng loạt mạng người, âm thầm thủ tiêu những con người ưu tú ở Liên Bang Xô Viết, ở Trung Hoa, ở Đông Âu, ở Việt Nam, ở Cuba.
Đã bước sang thế kỉ 21, thế kỉ của văn minh tin học, những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam vẫn chìm đắm trong giáo điều của máu ở đầu thế kỉ 20, vẫn cố duy trì chủ nghĩa xã hội của máu và nước mắt, phản con người, phản tiến bộ mà những trí tuệ sáng láng và thức thời đã xa lánh, vất bỏ từ đầu thế kỉ trước.
Loài người đã bước sang kỉ nguyên văn minh tin học. Với văn minh tin học, với internet, mỗi con người đều có trí tuệ của cả loài người, mỗi con người đều có sức mạnh của cả loài người. Được tự do, được giải phóng sức sáng tạo, mỗi con người bình thường đều có thể trở thành người khổng lồ như Bill Gates, như Steve Jobs. Nhưng trong nhà nước cộng sản Việt Nam, người dân vẫn không được nhìn nhận là những cá thể Người, mãi mãi chỉ là bầy đàn chuột bạch để nhà nước cộng sản làm cuộc thí nghiệm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ai đòi dân chủ, đòi quyền con người, ai bộc lộ chính kiến của lương tâm con người và trách nhiệm công dân đều là "thế lực thù địch" với nhà nươc cộng sản, đều bị trừng trị bởi bạo lực của công an, bạo lực của những điều luật phản dân chủ, phản con người 79 ; 88 ; 258, bạo lực của tòa án độc tài, bạo lực của nhà tù cộng sản. Văn minh tin học đã nâng con người lên thành những người khổng lồ thì con người trong nhà nước cộng sản Việt Nam vẫn là con người nô lệ trung cổ, vẫn chưa có được những quyền con người cơ bản, vẫn chỉ là bầy đàn công cụ, là quần chúng cách mạng của đảng cộng sản. Duy trì học thuyết máu Mác - Lê - Mao thực chất là duy trì chế độ phong kiến cộng sản còn tồi tệ hơn chế độ phong kiến trung cổ giữa kỉ nguyên văn minh tin học.
Những việc làm kể trên của nhà nước cộng sản Việt Nam với nhân dân, với đất nước, với lịch sử đều là những tội lớn, tội phản nước hại dân. Trong đó tội dâng đất đai biển đảo của cha ông để lại cho Tàu Cộng là tội nhục nhã, nhơ bẩn nhất của xã hội loài người và tội duy trì, áp đặt cho xã hội Việt Nam một thể chế chính trị lạc hậu cả trăm năm nhằm nô dịch người dân, biến 90 triệu dân thành bầy nô lệ của nhúm người lãnh đạo đảng cộng sản là tội ác man rợ nhất trong lịch sử loài người.
Với thể chế dân chủ, người dân nắm quyền làm chủ đất nước, nắm quyền quyết định số phận nhà nước thì những quan chức cấp cao của nhà nước cộng sản, những người phải chịu trách nhiệm chính trong những tội ác trên phải bị truy tố trước pháp luật, trước nhân dân, trước lịch sử và vị trí xứng đáng dành cho họ sau đó là nhà tù và những nấm mộ ô nhục của kẻ phản dân hại nước.
Nhưng nhà nước độc tài có hai nét đặc trưng tiêu biểu : Một là tước đoạt quyền làm chủ đất nước, làm chủ xã hội của người dân, quyết buộc người dân trắng tay, không còn một chút quyền lực chính trị, cả đến quyền công dân, quyền cơ bản của con người, người dân cũng không còn. Hai là dành đặc quyền đặc lợi cho những kẻ độc tài đương quyền. Nhà nước độc tài cộng sản còn độc tài hơn hẳn những nhà nước độc tài khác ở chỗ dành đặc quyền đặc lợi cả cho những nhà độc tài khi đã chết.
Hơn 5 ha đất đặc quyền đặc lợi dành cho những nhà độc tài cộng sản ở Mai Dịch đã bị những người độc tài cộng sản lớp trước chiếm hết rồi. Những nhà độc tài cộng sản đương quyền liền đẻ ra ngay dự án dành 1.400 tỉ tiền thuế của dân và 120 ha đất lành của nước, ở ngay chân núi thiêng Ba Vì, dưới bóng cả thần Tản Viên để làm Mai Dịch mới hoành tráng, xa xỉ gấp nhiều lần Mai Dịch cũ cho những nhà độc tài đương chức hôm nay và ngày mai. Cả khi chết, những người cộng sản cũng dành bằng được đặc quyền đặc lợi với dân với nước.
Tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ. Trần Hưng Đạo là người có công lớn với sự vững bền của đất nước, có công lớn với cuộc sống bình yên của nhân dân, được nhân dân cả nước tôn làm người cha của trăm họ. Dù khi chết Trần Hưng Đạo chỉ có nấm mồ bình dị trong cánh rừng hoang sơ Kiếp Bạc, Chí Linh nhưng muôn đời sau, tháng tám, tháng Đức Trần Hưng Đạo về cát bụi, lòng dân cả nước đều thành kính làm giỗ tưởng niệm trong tâm tưởng người cha của trăm họ.
Một dân tộc đã biết đời đời thờ phụng một hồn thiêng có công với dân với nước dù hồn thiêng đó chẳng để lại mồ to mả lớn thì dân tộc đó cũng biết cách ứng xử đích đáng với những kẻ chỉ để lại họa cho dân, cho nước. Dù kẻ để lại họa cho dân cho nước có mồ to mả lớn thì đó cũng chỉ là những mồ to mả lớn của tội ác to, của sự ô nhục lớn. Tội ác thì không thể ngạo nghễ tồn tại trong không gian mà chỉ tồn tại trong bia miệng dân gian mà thôi.
Vạn niên là vạn niên nào
Mồ xây tội ác, mả đào hờn căm.
Phạm Đình Trọng
(23/02/2018)
Từ 44 năm nay, ngày 19 tháng Giêng đã đi vào lịch sử là ngày đau đớn của giống nòi Việt Nam, ngày đen tối của lịch sử Việt Nam. 19/01/1974 Trung Quốc mang hạm đội lớn với số quân và hỏa lực áp đảo đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam do nhà nước Việt Nam Cộng Hòa quản lí, giết chết 75 người lính Việt Nam Cộng Hòa giữ đảo.
Ngày 19/01/1974, Trung Quốc mang hạm đội lớn với số quân và hỏa lực áp đảo đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa
44 năm nay người dân Việt Nam nặng lòng với nước đều mang một vết thương rỉ máu trong tim. Từ nhiều năm nay, đến ngày 19/01, những trái tim đau đó ở Sài Gòn đều tự tìm đến Đức Trần Hưng Đạo uy nghiêm trên đài cao ở bến Bạch Đằng mắt dõi ra sông Sài Gòn, dõi ra biển Đông.
Những trái tim đau thành kính thưa với anh linh người anh hùng đã viết lên trang chói lọi nhất trong pho sử vàng chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, thưa về nỗi niềm đinh ninh của những thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau rằng Hoàng Sa, Trường Sa mãi mãi trong trái tim người dân Việt Nam, mãi mãi trong lòng Tổ quốc Việt Nam và giành lại Hoàng Sa, Trường Sa là trách nhiệm công dân, trách nhiệm lịch sử của mọi người dân mang trong tim dòng máu Đại Việt. Thưa với hương hồn những người con yêu của dân tộc Việt Nam đã vùi xác ở Hoàng Sa trong cuộc chiến đấu giữ quần đảo ngày 19/01/1974 rằng những anh linh Việt Nam để lại thân xác ở Hoàng Sa, Trường Sa đã là hồn thiêng của Hoàng Sa, Trường Sa, hồn thiêng của núi sông Việt Nam, những anh linh đó sẽ sống mãi cùng non nước Việt Nam.
Lễ tưởng niệm các tử sĩ Hoàng Sa tại Sài Gòn
Năm nào công an nhà nước cộng sản cũng hung hãn, quyết liệt phá lễ tưởng niệm Hoàng Sa của người dân Sài Gòn. Chặn cửa không cho người dân ra khỏi nhà đến với lễ tưởng niệm. Bắt những người dự lễ về giam giữ trong đồn công an. Lăn xả vào cướp giật và phá nát vòng hoa, băng chữ ngay bên chân tượng đài Trần Hưng Đạo. Chỉ những kẻ vô loài, không quê hương, cội nguồn, không lương tâm con người mới làm được những việc đó. Những kẻ vô loài đó lại trong biên chế công an nhà nước cộng sản Việt Nam.
Năm nay nhà nước cộng sản Việt Nam còn làm những điều ô nhục hơn, tội lỗi hơn những năm trước. Đúng ngày đau lần thứ 44 Trung Quốc cướp Hoàng Sa của tổ tiên, của lịch sử Việt Nam, 19/01/2018, nhà nước cộng sản Việt Nam đã làm hai việc công khai bán nước, thú nhận việc dâng Hoàng Sa cho Trung Quốc, xóa tên Hoàng Sa trong trái tim người Việt Nam, công khai chấp nhận là chư hầu, là phiên thuộc của Trung Quốc.
Sáng 19/01/2018 ở Sài Gòn, cũng như nhiều năm trước, an ninh nhà nước cộng sản Việt Nam bủa vây chặn cửa trước nhà tất cả những người ngày này những năm trước đã tìm về tượng đài Trần Hưng Đạo bến Bạch Đằng, tìm về với lịch sử, khắc ghi món nợ lịch sử Hoàng Sa và làm giỗ 75 hương hồn Hoàng Sa. Trước cửa nhà mỗi người dân mang nỗi đau Hoàng Sa đều có hơn chục an ninh trẻ khỏe, lì lợm và nhâng nháo bủa vây, hung hăng làm cái việc phi pháp với pháp luật, thất đức với tổ tiên và tội đồ với lịch sử, xấc xược với nhân dân, ngăn không cho những trái tim mang nỗi đau Hoàng Sa đến với anh linh Trần Hưng Đạo nhận trách nhiệm với lịch sử, với tổ tiên về món nợ Hoàng Sa. Dùng công cụ bạo lực, nhà nước cộng sản Việt Nam quyết xóa bỏ cái tên Hoàng Sa trong trái tim người dân Việt Nam.
Tối 19/01/2018 ở Hà Nội, bộ Văn hóa, bộ Lễ của một nhà nước, tổ chức linh đình đêm hát xướng, nhảy múa của đoàn nghệ thuật Nội Mông Trung Quốc !
Đưa đoàn nghệ thuật Nội Mông Trung Quốc sang Viêt Nam với cớ kỉ niệm 68 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Trung Quốc. Ngày 18/1/1950, Trung Quốc công nhận nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và ngày đó được lấy làm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước Nhưng đoàn nghệ thuật Nội Mông không khai diễn vào ngày 68 năm thiết lập quan hệ ngoại giao mà lại chọn ngày Hoàng Sa, 19/01, ngày Trung Quốc cướp được Hoàng Sa của Việt Nam để khai diễn đêm nhạc hội. Đây là một đòn chính trị thâm độc, nham hiểm, một đòn chính trị chí tử đánh vào lòng tự trọng và ý thức dân tộc của đám lãnh đạo nhà nước cộng sản Việt Nam.
Bè lũ Tập Cận Bình lấy cớ kỉ niệm sự kiện chính trị của hai nước, ngày thiết lập quan hệ ngoại giao chỉ để buộc những kẻ tai to mặt lớn, những chính khách của triều đình cộng sản Việt Nam phải có mặt trong đêm chúng tưng bừng nhảy múa ca hát ngay giữa kinh kì Thăng Long – Hà Nội mừng sự kiện chúng cướp được toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Tên binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã tử trận trong trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19/01/1974
Ngày 19/01 là ngày đen tối của lịch sử Việt Nam, ngày mất Hoàng Sa của Tổ quốc Việt, ngày quốc tang của giống nòi Việt Nam, ngày đau buồn 75 người con yêu của Mẹ Việt Nam bỏ xác ở Hoàng Sa. Vậy mà những khuôn mặt chóp bu của triều đình cộng sản Việt Nam lại không hề có nỗi đau của nhân dân, của đất nước, vẫn nhơn nhơn tươi cười xem đám nghệ sĩ Nội Mông Trung Quốc nhảy múa ca hát mừng ngày vui của bọn cướp 19/01, ngày cướp được trọn vẹn quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Không biết đau nỗi đau mất đất đai của tổ tiên mà người dân đang đau, đám tai to mặt lớn của nhà nước cộng sản Việt Nam lại công khai đồng cảm với nỗi hoan hỉ của lũ cướp nước. Đó là sự bán nước trong tâm hồn.
Hoan hỉ cùng Trung Quốc trong ngày chúng cướp được Hoàng Sa của Việt Nam, đám quan chức cấp cao được cho là đại diện của người dân Việt Nam đã chấp nhận sự ăn cướp đó, đã đứng về phía kẻ cướp, bán linh hồn cho kẻ dùng súng đạn phi pháp cướp dải cát vàng Hoàng Sa của tổ tiên người Việt
Nhưng những lãnh đạo cao cấp của nhà nước cộng sản Việt Nam cũng chỉ được vui vầy hoan hỉ với đám nghệ sĩ Nội Mông mà thôi. Mượn cớ kỉ niệm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Trung Quốc, lễ kỉ niệm cấp quốc gia giữa hai nhà nước nhưng Trung Quốc không đưa đoàn nghệ thuật quốc gia tham gia lễ kỉ niệm cấp nhà nước đó mà chỉ đưa đoàn nghệ thuật Nội Mông, một tộc người bị Đại Hán đô hộ, đồng hóa. Vì với Đại Hán Trung Quốc, thân phận Việt Nam cũng chỉ là thân phận chư hầu như Mãn, Tạng, Hồi, Mông và quan hệ ngoại giao Việt Nam – Trung Quốc cũng giống như quan hệ giữa Mãn, Tạng, Hồi, Mông với Đại Hán mà thôi. Bị hạ nhục, bị nói thẳng vào mặt thân phận chư hầu như vậy, những kẻ tai to mặt lớn của nhà nước cộng sản Việt Nam vẫn hớn hở chấp nhận vì họ đã bán linh hồn cho Trung Quốc rồi, đã cam phận chư hầu như Mãn, Tạng, Hồi, Mông !
Những kẻ đàm phán kí kết hiệp định biên giới phía Bắc năm 1999 dâng hàng trăm kilomet vuông đất biên cương cho Trung Quốc là những kẻ bán nước. Bán mảnh đất hương hỏa của cha ông để lại, bán nước trong không gian.
Những kẻ đàn áp người dân tổ chức lễ tưởng niệm Hoàng Sa ở Sài Gòn sáng 19/01/2018, và những kẻ đón rước đoàn nghệ thuật Nội Mông Trung Quốc vào Hà Nội hát múa đêm 19/01/2018, ăn mừng ngày chúng cướp được Hoàng Sa của tổ tiên người Việt cũng là những kẻ bán nước. Bán nước trong tâm hồn.
Những thứ trưởng bộ ngoại giao Lê Công Phụng, Vũ Dũng đàm phán với Trung Quốc dâng đất Việt Nam ở biên cương cho Trung Quốc. Bộ trưởng bộ Công an Tô Lâm, bộ trưởng bộ Lễ Nguyễn Ngọc Thiện, bán nước trong tâm hồn cho Trung Quốc. Đó là những cái tên mãi mãi ô nhục trong lịch sử Việt Nam như những cái tên Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống.
Phạm Văn Đồng kí công hàm 14/9/1958 công nhận Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Quốc. Nguyễn Văn Linh kí biên bản cuộc gặp Thành Đô 4/9/1990 cột Việt Nam vào thân phận chư hầu của Trung Quốc. Bốn ngàn năm mở nước và giữ nước, lịch sử Việt Nam chỉ có hai kẻ bán nước cho Đại Hán là Trần ích Tắc và Lê Chiêu Thống. Chỉ mấy chục năm dưới chế độ cộng sản đã có quá nhiều kẻ bán đất đai của tổ tiên và bán linh hồn con người cho lòng tham của bành trướng Trung Quốc.
Phạm Đình Trọng
(19/01/2018)
Ông Trịnh Xuân Thanh phó chủ tịch một tỉnh miệt vườn Châu thổ sông Cửu Long ngông nghênh cưỡi ô tô tiền tỉ mang biển số xanh của cơ quan chóp bu nhà nước cộng sản lượn lờ trước dân tỉnh lẻ Hậu Giang chỉ là thói trưởng giả học làm sang của những kẻ quyền cao, chức trọng, tiền nhiều mà văn hóa thấp kém, đức độ thiếu vẳng, những kẻ chỉ biết có sức mạnh của quyền lực và sức mạnh của đồng tiền, không biết đến sức mạnh của văn hóa, không biết đến giá trị của nhân văn.
Những con voi tham nhũng : Vũ Huy Hoàng, Đinh La Thăng, Trinh Xuân Thanh vui vẻ quây quần quanh ông Thủ tướng đã tạo ra một Chính phủ tham nhũng kinh hoàng nhất, tàn phá đất nước khủng khiếp nhất từ trước đến nay, Chính phủ Nguyễn Tán Dũng !
Triều đại nào đến thời suy tàn cũng đều là thời của đám quan chức cơ hội, lòng tham ngự trị trong con người họ, nhân cách đã bỏ họ ra đi từ lâu. Lí tưởng sống thấp hèn, lí tưởng thẩm mĩ méo mó, những trưởng giả học làm sang nhan nhản trong đám quan chức của triều đại suy tàn như nấm tua tủa ngóc lên trên bãi cỏ mục sau cơn mưa. Đó là những ông quan đầu tỉnh, đầu huyện, đầu sở, đầu ngành đua nhau xây biệt phủ nghênh ngang, diêm dúa và kệch cỡm trên khắp đất nước còn quá nhiều người dân đang phải sống trong nghèo khổ, thiếu thốn.
Dù dát vàng hay dát bạc lấp lánh thì dưới mắt người dân những biệt phủ của đám quan chức vô lại đó chỉ dát bằng sự lố lăng, vô liêm sỉ. So với những biệt phủ đó thì chiếc ô tô vài tỉ đồng mang biển số xanh của ông Trịnh Xuân Thanh chỉ là con muỗi so với con voi. Vậy mà con muỗi Trịnh Xuân Thanh đã làm ông đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng nổi lôi đình hét các cơ quan pháp luật từ đảng đến nhà nước phải vào cuộc truy xét ông Thanh trong khi ông đảng trưởng lại bình thản bỏ qua những con voi khổng lồ của sự sa đọa, lố lăng, vô liêm sỉ.
Truy xét ông Trịnh Xuân Thanh vì Trịnh Xuân Thanh là vây cánh, là đầu mối của đường dây dẫn đến đối thủ chính trị Ba Dũng đã làm ông đảng trưởng phải nghẹn ngào nuốt mối hờn căm suốt bao năm, nuốt nỗi cay đắng từ nhiệm kì đảng trưởng khóa trước của ông.
Chiếc ô tô vài tỉ đồng của phó chủ tịch tỉnh Hậu Giang Trịnh Xuân Thanh là con muỗi tham nhũng.
Những biệt phủ diêm dúa trải rộng trên hàng ngàn mét vuông đất thênh thang của ông Trần Văn Truyền vốn là Tổng thanh tra Chính phủ, của ông Phạm Sỹ Qúy đương nhiệm giám đốc sở Tài nguyên Môi trường Yên Bái, của ông Nguyễn Sỹ Kỳ, đương chức phó ban Nội chính tỉnh ủy Đắk Lak, của ông Nguyễn Đức Vượng đang là bí thư huyện ủy Duy Tiên, Hà Nam, của ông Phạm Thanh Hà đang ngồi ghế trưởng ban quản lí khu kinh tế Kon Tum, của ông Bùi Thanh Tùng chỉ giữ chức nhỏ trưởng phòng thuộc sở Lao động Thương binh Xã hội nhưng là quí tử của ông quan to Bùi Thanh Quyến bí thư tỉnh ủy Hải Dương... Đó là những con voi tham nhũng.
Hàng trăm hecta đất sân bay Tân Sơn Nhất, sân bay Gia Lâm bị các tướng quân đội núp dưới cành lá ngụy trang quân đội làm kinh tế chiếm đoạt làm sân golf, làm nhà hàng, khách sạn kinh doanh kiếm lời cho nhóm lợi ích nhà binh, mặc cho sân bay Tân Sơn Nhất kẹt cứng dưới đất, kẹt cứng trên không, mặc cho ngành hàng không của đất nước bế tắc không thể mở thêm bãi đỗ để tăng chuyến, tăng lượng máy bay cất, hạ cánh, không thể có thêm đường băng để phát triển ngành hàng không, ngành kinh tế đang phát đạt, đang là thời thượng, mặc cho nhiều hãng hàng không nước ngoài phải rời bỏ sân bay Tân Sơn Nhất kẹt cứng để tìm đến sân bay các nước lân cận mở văn phòng, mở điểm trung chuyển, làm cho đất nước và ngành hàng không Việt Nam mất đi một nguồn thu hàng ngàn tỉ đồng mỗi năm. Chiếm cứ hàng trăm hecta đất sân bay khai thác kiếm lời riêng của một nhóm lợi ích, đó là con khủng long tham nhũng.
Đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng hét các cơ quan pháp luật phải truy xét con muỗi tham nhũng Trịnh Xuân Thanh nhưng lại không dám một lần hé răng đụng đến con khủng long tham nhũng biến hàng trăm hecta đất vàng sân bay của dân của nước thành đất sinh lời của riêng một nhóm lợi ích.
Nhiệm kì trước đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng đã lèo lái được Bộ Chính trị nhất trí kỉ luật đối thủ chính trị của ông là ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Tấn Dũng. Nhưng khi đưa ra Ban Chấp hành trung ương biểu quyết việc kỉ luật đó thì lá phiếu của trên năm mươi phần trăm ủy viên trung ương đã bác bỏ. Không kỉ luật được ông Ba Dũng vì ở cương vị Thủ tướng ông Ba Dũng đã ban phát mưa móc, ban phát ân sủng, ban phát bổng lộc cho đám quan chức trong bộ máy hành pháp của ông. Mà những ông Bộ trưởng, tỉnh trưởng trong bộ máy hành pháp đó đều là những trung ương ủy viên, những người có quyền biểu quyết những vấn đề ông đảng trưởng đưa ra. Đây là bài học cay đắng nhớ đời với đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng về quyền năng của Ban Chấp hành trung ương. Trong 180 ủy viên trung ương chính thức có quyền biểu quyết của khóa XII đương nhiệm có tới 37 ủy viên trung ương mang hàm tướng, tá nhà binh. Bài học nhớ đời của khóa trước làm cho đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng không dám ho he làm mất lòng 37 lá phiếu, 37 cánh tay có quyền biểu quyết. Và con khủng long tham nhũng nuốt chửng hàng trăm hecta đất vàng sân bay Tân Sơn Nhất, sân bay Gia Lâm cứ lừng lững tồn tại.
Ông Đinh La Thăng, ông Trịnh Xuân Thanh làm thất thoát hàng ngàn tỉ đồng đều xảy ở nhiệm kì đại hội đảng khóa XI, khi ông Dũng đang đầy quyền lực và trong cái ô quyền lực ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ của ông Dũng, ông Vũ Huy Hoàng đang mặc sức thao túng bộ lớn Công thương, ngang nhiên đưa con trai mới ngoài 20 tuổi vừa kết thúc cuộc đời du học vi vu, chưa làm được tích sự gì lên làm sếp lớn của công ty lớn rủng rỉnh tiền bạc nằm trong bộ của ông. Ông Thăng, ông Thanh cũng đang mặc sức thao túng, tùy tiện tung hoành ở tập đoàn dầu khí.
Quyền lực bảo kê của ông Dũng còn đó, ông Thăng, ông Thanh có làm thất thoát hàng ngàn tỉ đồng hay thất thoát hàng triệu tỉ đồng của dân của nước thì những kẻ tội phạm đó vẫn bình an và ung dung thăng tiến trên con đường công danh. Và ông Thăng đã hiên ngang bước vào Bộ Chính trị, rồi trở thành lãnh chúa của mảnh đất giầu có nhất nước, thanh thế nhất nước. Còn ông Thanh thì đầy hả hê, thỏa mãn trên bệ phóng phó chủ tịch tỉnh trù phú, vựa lúa, vựa cây trái Hậu Giang để rồi bệ phóng đó còn phóng ông lên cao nữa.
Nhưng đại hội đảng đưa ông Thăng vào Bộ Chính trị cũng là đại hội chấm dứt quyền lực của ông Ba Dũng, đại hội hoan hỉ tiễn ông Ba Dũng rời ghế quan chức không tử tế để về làm người dân tử tế.
Ông Dũng rời quyền lực tháng một, năm 2016, thì chỉ năm tháng sau, tháng sáu, năm 2016 ông đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng nổi lôi đình đòi truy xét chiếc ô tô tiền tỉ mang biển số xanh của ông Trịnh Xuân Thanh. Từ đó lòi ra việc thất thoát, thua lỗ hơn ba ngàn tỉ đồng của Tổng công ty xây lắp dầu khi do ông Thanh đứng đầu. Lòi tiếp ra những thất thoát trăm tỉ, ngàn tỉ đồng của tập đoàn dầu khí do ông Đinh La Thăng thống lĩnh. Lúc này con voi tham nhũng mới lộ ra và ông Thăng, ông Thanh trở thành bị cáo đầu vụ trong vụ đại án tham nhũng đang diễn ra ở pháp đình gây xôn xao cả nước.
Dông dải điểm lại vài sự việc để thấy cuộc sát phạt mang tên chống tham nhũng chỉ là vở diễn về vay trả nợ nần ân oán của triều cộng sản thời suy tàn. Và phiên tòa đang xử tội của ông Đinh La Thăng, ông Trịnh Xuân Thanh chỉ là một màn trong vở diễn do ông đảng trưởng đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng tổng đạo diễn mà thôi.
Những con muỗi, con voi tham nhũng đã đủ làm kiệt quệ đất nước, làm khốn đốn, cùng quẫn người dân thì những con khủng long tham nhũng còn khủng khiếp như thế nào. Nhưng cuộc chiến chống tham nhũng chỉ truy xét con muỗi, con voi tham nhũng mà không đụng đến con khủng long tham nhũng thì đó là một vở diễn dở. Để người dân nhận ra hệ thống quyền lực đang diễn vở chống tham nhũng chứ không thực sự chống tham nhũng là cái dở nhỏ. Diễn để lấy lại lòng tin của người dân. Nhưng diễn dở, người dân càng mất lòng tin hơn là cái dở quá lớn !
Phạm Đình Trọng
(16/01/2018)
1. Đàn áp người dân yêu nước biểu tình lên án Tàu Cộng xâm lược cướp biển cướp đảo của ta, chống phá người dân làm lễ tưởng niệm những anh hùng, liệt sĩ đã hi sinh trong cuộc chiến đấu chống giặc Tàu Cộng xâm lược, nhà nước cộng sản Việt Nam còn tập hợp những người trẻ tuổi ngộ độc ảo thuyết cộng sản, trang bị cho họ chiếc áo đỏ lòm màu máu và lá cờ lênh láng màu máu, đẩy họ ra đối mặt với người dân, gây sự, xung đột với tình cảm yêu nước thương nòi thiêng liêng của người dân, biến họ thành những kẻ vô loài hung hăng điên cuồng khiêu khích, ngăn cản, chống phá cuộc biểu tình, lễ tưởng niệm của lòng yêu nước, chống phá chính giống nòi của họ, bôi bẩn lên trang sử vàng oanh liệt của cha ông mà họ vừa học ở nhà trường.
Nhà nước cộng sản Việt Nam tập hợp những người trẻ tuổi ngộ độc ảo thuyết cộng sản, trang bị cho họ chiếc áo đỏ lòm màu máu và lá cờ lênh láng màu máu, đẩy họ ra đối mặt với người dân…
Nhà nước cộng sản Việt Nam đã nướng nhiều thế hệ trẻ Việt Nam trên ngọn lửa chiến tranh Nam – Bắc điêu tàn, nay lại biến nhiều người trẻ thành những kẻ lạc loài, những đứa con hoang của giống nòi Việt Nam. Biên chế những kẻ lạc loài đó trong tổ chức có tên là Dư Luận Viên, những người cộng sản cầm quyền đã rút ruột tiền thuế nghèo của dân trợ cấp cho những hoạt động gây rối của đám dư luận viên khá đông đúc và hôn mê sâu học thuyết máu đấu tranh giai cấp.
Đội ngũ dư luận viên hôn mê học thuyết máu đấu tranh giai cấp như những kẻ ngáo đá điên cuồng chống phá cuộc xuống đường, chống phá lễ tưởng niệm của lòng yêu nước thì mọi người đều dễ dàng nhận ra và nhiều người còn biết rõ mặt, rõ tên những dư luận viên đầu trò. Những Trần Nhật Quang, Hoàng Nhật Lệ, Đỗ Anh Minh..., toàn những cái tên đẹp như ánh sáng và những gương mặt trẻ ngời ngời như tia nắng ban mai mà tâm hồn bị đầu độc, bị bưng bít trở nên tối tăm như đêm dài nô lệ.
Nhưng còn có những dư luận viên không xuất trận bầy đàn, không xuất hiện ở quảng trường, đường phố, không mang áo máu, cờ máu thì không phải ai cũng nhận ra.
2. Chức bự, quyền to nhưng não bé, nghĩ cạn, lại muốn phô trương quyền uy với thiên hạ, ông cục trưởng cục nghệ thuật biểu diễn của bộ lớn mang tên Văn hóa liền ban lệnh cấm năm nhạc phẩm ra đời ở miền Nam trước năm 1975 đã được người tiền nhiệm của ông cho phép sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội.
Ông cục trưởng Cục nghệ thuật biểu diễn Nguyễn Đăng Chương cấm năm nhạc phẩm ra đời ở miền Nam trước năm 1975. Ảnh Dân việt.
Bài hát là sản phẩm của tâm hồn, tình cảm, là sáng tạo nghệ thuật. Sức sống, sức lan tỏa của tác phẩm nghệ thuật chỉ phụ thuộc vào chất lượng nghệ thuật của nó và sự cảm thụ, đồng cảm của công chúng. Câu ca dao về con cò, con vạc, bài dân ca bèo dạt mây trôi chẳng cần quyền uy nào cho phép, chẳng cần quyền lực nào bảo lãnh vẫn sống bền bỉ trong hồn người Việt từ thế hệ này sang thế hệ khác và nó sẽ tồn tại mãi mãi cùng sự tồn tại của dân tộc Việt Nam. Một bạo chúa, một quyền lực độc tài nào muốn giết chết câu ca dao về con cò, con vạc trong tâm hồn người Việt Nam, muốn cấm bài dân ca về những thân phận, những cuộc tình bèo dạt mây trôi cũng không thể giết được, không thể cấm được.
Dùng quyền lực hành chính cho phép sự tồn tại của một bài hát đã là sự vô lối. Càng vô lối hơn khi dùng quyền lực hành chính cấm đoán một sản phẩm của tâm hồn, tình cảm.
Sự vô lối, vô văn hóa của ông cục trưởng ở bộ mang tên Văn hóa gây kinh ngạc và phẫn nộ cho đông đảo người dân. Cả những người không hề biết những bài hát bị cấm giai điệu như thế nào, lời ca ra sao cũng bất bình. Vì hát hay không hát những bài hát đó là lí tưởng thẩm mĩ của họ, là quyền của trái tim họ, quyền của tâm hồn họ chứ không phải quyền của ông cục trưởng, ông bộ trưởng.
Dù vô lối nhưng lệnh cấm năm bài hát của ông cục trưởng là quyền uy của nhà nước cộng sản. Bảo vệ lệnh cấm vô lối của ông cục trưởng là bảo vệ quyền uy nhà nước cộng sản. Cả bộ máy truyền thông nhà nước cộng sản vội vã vào cuộc và những cái tên vẫn thường xuất hiện trên mặt báo lề đảng, những khuôn mặt vẫn thường xuất hiện trên truyền hình nhà nước cộng sản với danh xưng nhà báo, nhà thơ, nhạc sĩ, nhà lí luận phê bình âm nhạc như nhà báo Nguyễn L, nhà thơ, nhạc sĩ, "nhà lí luận phê bình âm nhạc" Nguyễn T. K. lại có bài trên báo lề đảng, lại có mặt trên truyền hình nhà nước cộng sản.
Trước đây họ xuất hiện trên mặt báo, trên màn hình television, mỗi người một giọng tạo thành dàn hợp xướng tụng ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tụng ca cuộc chiến tranh Nam – Bắc điêu tàn, tụng ca con người mang lí tưởng cộng sản và tụng ca thành tựu rực rỡ của nền văn hóa nghệ thuật xã hội chủ nghĩa. Nay họ đồng loạt ỉ ôi phê phán, gay gắt lên án năm bài hát vừa bị cấm.
Không mặc áo máu, không mang cờ máu nhưng những người như nhà báo Nguyễn L, nhà thơ, nhạc sĩ, nhà "lí luận phê bình âm nhạc" Nguyễn T. K. chính là những dư luận viên của nhà nước cộng sản ở lãnh địa văn hóa tư tưởng.
3. Mấy hôm nay người dân quan tâm đến đời sống văn hóa đất nước lại xôn xao bất bình về một sự việc do một cụ già 83 tuổi có khuôn mặt rất lão nông gây ra. Khuôn mặt lão nông vốn xuất thân trong gia đình có người tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp. Cuối cuộc kháng chiến chống Pháp là thời trai trẻ của khuôn mặt lão nông hôm nay. Tuổi trẻ đó được tổ chức đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chín năm đưa sang nước Tàu cộng sản học tiếng Tàu, học văn hóa Tàu.
Cụ phó giáo sư Bùi Hiền, 83 tuổi, đề xuất việc "cải tiến" chữ viết đương đại của người Việt.
Cùng với việc viện trợ súng đạn cho những người cộng sản Việt Nam đánh Pháp ở Điện Biên Phủ, viện trợ cho hiện tại, nước Tàu cộng sản còn viện trợ cả văn hóa Tàu Cộng, cả chữ nghĩa Tàu Cộng cho con em những người cầm súng Tàu Cộng chiến đấu chống Pháp nữa, viện trợ cả cho tương lai. Ngày nay với học hàm phó giáo sư, với vốn liếng chữ nghĩa có được trên chặng đường ngàn dặm xa nước đi nhận viện trợ văn hóa, cụ phó giáo sư 83 tuổi đề xuất việc "cải tiến" chữ viết đương đại của người Việt. Làm cho chữ Việt "cải tiến" xa lạ với chính người Việt. Làm cho thế hệ người Việt của tương lai học thứ chữ Việt "cải tiến" phải đoạn tuyệt với chữ viết của thế hệ cha anh, đoạn tuyệt với kho tàng văn hóa đồ sộ của của chữ Việt truyền thống để lại. Làm cho ngữ âm của thứ chữ viết "cải tiến" đơn điệu, thô thiển và xa lạ với ngữ âm tiếng Việt vốn vô cùng phong phú, uyển chuyển, tinh tế và có sức bao dung chấp nhận, nâng niu ngữ âm của mọi miền đất nước. Ngữ âm của thứ chữ Việt "cải tiến" xa lạ với ngữ âm tiếng Việt nhưng lại khá gần gũi, đồng điệu với ngữ âm tiếng Tàu!
Bài dân ca Bèo Dạt Mây Trôi không phải chỉ là khúc cảm thán của con người về thiên nhiên, về cuộc đời trôi nổi vô định. Bèo Dạt Mây Trôi là nỗi niềm, là thân phận những thảo dân vô danh nhỏ bé, mỏng manh trước thiên tai, giặc giã, trước bạo quyền hà khắc, trước biến thiên lịch sử. Bèo Dạt Mây Trôi tuy buồn man mác nhưng có sức sống mãnh liệt vì đó là hồn dân dã Việt Nam. Không thể vì nỗi buồn man mác đó mà phải cải biên, cải tiến, cải tổ, cải táng để bài dân ca Bèo Dạt Mây Trôi cũng có giai điệu hùng tráng như bài Quốc Tế Ca vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian.
Chữ Việt truyền thống tồn tại mấy trăm năm đã mang hồn vía của người Việt, là tài sản của mọi người Việt. Đó là tài sản của những nhà khoa học ở những tháp ngà chữ nghĩa. Nhưng đó cũng là tài sản của bác xe ôm ngồi chờ khách trong nắng bụi vỉa hè mở tờ báo ra đọc. Không thể vì chi tiết nhỏ chưa thật toàn bích, chưa thật hoàn thiện của chữ Việt mà đè ngửa nó ra giải phẫu thẩm mĩ, cắt bỏ chỗ nọ, thêm thắt chỗ kia, biến chữ Việt truyền thống đã mang hồn vía người Việt thành thứ chữ Việt dao kéo, lai căng, đầu Ngô, mình Sở, vô hồn.
Chữ viết đã mang hồn của người Việt bị "cải tiến" thành thứ chữ Việt vô hồn làm sao những người mang hồn Việt có thể thờ ơ, bình thản im lặng. Những đợt sóng lừng của sự bất bình ào ạt dâng lên chặn đứng bàn tay cầm dao bầu chọc tiết heo lăm le muốn giải phẫu thẩm mĩ chữ Việt, biến chữ Việt thấm đẫm hồn Việt thành thứ chữ Việt chết khô, vô hồn.
4. Nhưng cần bình tĩnh để nhận ra người đề xuất "cải tiến" chữ Việt có phải chỉ là một kẻ đốt đền hay là một người lính lĩnh ấn tiên phong đi mở một mũi xung kích mới đánh vào tâm linh, hồn cốt người Việt, đánh vào đời sống văn hóa tinh thần đất Việt, sau lần nổ phát súng thăm dò : Đưa chương trình giáo dục chữ Tàu và văn hóa Tàu vào bậc tiểu học.
Bà tiến sĩ dư luận viên Đoàn Hương hằn học nã đạn ngôn từ vào facebooker : Năm mươi phần trăm facebooker là những kẻ vô công rồi nghề !
Trước sự bất bình, phẫn nộ của người dân về ý đồ giết chết hồn Việt Nam trong chữ viết của người Việt Nam, kênh truyền hình chính thống của nhà nước cộng sản Việt Nam liền mau mắn cho xuất trận một dư luận viên quen thuộc có học vị tiến sĩ văn chương ra chống trả làn sóng phẫn nộ, bảo vệ người lĩnh ấn tiên phong đi mở mũi xung kích mới đánh vào một mảng hồn Việt.
Dư luận viên quen thuộc vì dù là nữ dư luận viên mà cả thanh và sắc đều là dấu trừ, lại đã luống tuổi, là tiến sĩ văn chương, tiến sĩ của văn hay chữ tốt mà nói năng cũng thiếu vắng ý đẹp lời hay nhưng lại xuất hiện khá thường xuyên trên kênh văn hóa nghệ thuật truyền hình nhà nước.
Nữ chiến binh dư luận viên này thường bắn thẳng những loạt đạn ngôn từ chát chúa như người lính trên chốt tiền tiêu quất những loạt AK quyết liệt. Mới cách đây chưa lâu, với giọng khàn khàn, rè rè, nữ chiến binh dư luận viên luống tuổi này đã quất loạt đạn ngôn từ thẳng căng vào những facebooker khi bà cay nghiệt và hồ đồ kết tội : Năm mươi phần trăm facebooker là những kẻ vô công rồi nghề !
Vì sao bà tiến sĩ dư luận viên lại hằn học nã đạn ngôn từ vào facebooker như vậy ? Trước đây công việc cứu trợ những thân phận hẩm hiu, thiệt thòi đều do các tổ chức nhà nước đảm nhiệm. Dân ta vốn giàu lòng yêu nước thương nòi. Trong những tai họa của đất nước, người dân mở lòng đổ của ra cứu trợ rất lớn. Nhưng chiến dịch cứu trợ chỉ rầm rộ, ồn ào, thừa thãi ngôn từ về sự đùm bọc chia sẻ trên hệ thống truyền thông nhà nước. Còn của cải vất chất của những tấm lòng từ thiện đến với những người khổ hạnh là một ẩn số không thể nào biết được. Đồng tiền xóa đói giảm nghèo từ ngân sách quốc gia, có sự giám sát của cả bộ máy nhà nước còn đổ thẳng vào nhà quan tham. Đồng tiền cứu trợ của dân đi theo con đường nhà nước làm sao thoát được những quan tham đó. Những tấm lòng trắc ẩn trong dân đành phải trực tiếp tự đứng ra làm từ thiện.
Một tiến sĩ truyền thông hết năm này sang năm khác lặng lẽ, bền bỉ mang quần áo, sách bút, gạo tiền đến những bản làng xơ xác trên núi cao heo hút để những đứa trẻ quần áo tả tơi phong phanh trong gió rét, bữa cơm hàng ngày chỉ có lỏng chỏng vài hạt ngô chưa ăn đã hết từ nay có được manh áo ấm và có được bữa "cơm có thịt". Tin tưởng ở những nhân cách, những con người cụ thể, người dân đã hồ hởi giao cho một nhà báo trẻ hàng chục ngàn tỉ đồng để anh trực tiếp mang đồng tiền thơm thảo tình người đó đến trao tận tay người dân vùng bão lũ miền Trung.
Nhưng việc làm từ thiện cao cả, kịp thời, hiệu quả và vô tư đó đã bị một chương trình truyền hình 60 phút của đài truyền hình nhà nước cộng sản cật vấn, nghi ngờ, dè bỉu "làm từ thiện với động cơ gì". Trả lời sự cật vấn, dè bỉu xấc xược đó, facebookers đã lên tiếng. Lập tức, nữ chiến binh dư luận viên thiện chiến, có ý chí chiến đấu cao liền được kênh truyền hình kia đưa ra nghênh chiến và nữ chiến binh dư luận viên đã nghiến răng xả băng đạn ngôn từ vào facebooker : hạng vô công rồi nghề !
Lần này nữ chiến binh dư luận viên lạnh lùng ngạo mạn : Việc cải tiếng chữ viết là việc của các nhà khoa học, không phải việc của đám quần chúng không biết gì !
5. Đài truyền hình nhà nước cộng sản Việt Nam mau mắn đưa dư luận viên gạo cội ra bênh vực người đề xuất "cải tiến" chữ Việt đã xác nhận rằng ý đồ "cải tiến" chữ Việt nhằm làm cho chữ Việt xa lạ với người Việt, xa lạ với cội nguồn văn hóa Việt Nam không phải chỉ là ý đồ riêng của cụ phó giáo sư 83 tuổi.
Điểm mặt vài dư luận viên để xót xa nhận ra rằng với nhà nước cộng sản Việt Nam, tiến sĩ, nhà báo, nhà thơ, nhạc sĩ cũng chỉ là những dư luận viên, công cụ tuyên truyền, công cụ đàn áp dân của nhà nước cộng sản. Nhà nước như vậy không thể có những trí thức, những nghệ sĩ đích thực, chân chính.
Từ hơn nửa năm nay, người Việt trên cả nước và người Việt trên khắp thế giới đều biết sự thật vụ việc ở xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội.
Cụ Lê Đình Kình, 82 tuổi, ra cánh đồng Sênh chỉ mốc giới đất.
Sáng ngày 15/4/2017, hai sĩ quan quân đội và viên trung tá phó trưởng công an huyện Mỹ Đức nhờ cụ Lê Đình Kình, 82 tuổi, dẫn ra cánh đồng Sênh chỉ mốc giới đất của dân Mỹ Đức. Ra đến cánh đồng, theo yêu cầu của viên sĩ quan quân đội, cụ Kình quay lại bảo mấy người dân đi theo quay về.
Chỉ còn đám võ biền và mấy cụ già đều ở tuổi ngoài 70 đi đến chỗ chiếc ô tô nhà binh đỗ đợi. Lập tức kịch bản triệt hạ thủ lĩnh, triệt hạ ý chí, linh hồn dân Đồng Tâm được triển khai. Một tên mặc đồ dân sự ôm súng từ trong ô tô nhảy ra xả loạt đạn chát chúa thị uy. Mấy ông già nông dân giật mình, sững sờ, còn đang ngơ ngác chưa biết chuyện gì xảy ra thì viên trung tá công an lao đến cụ Kình, tung cú đá làm cụ già mình hạc bay như chiếc lá khô. Thân già da cóc bị ném lên ô tô, tống giẻ vào mồm.
Ô tô rồ máy lao hơn 50 cây số từ cánh đồng Mỹ Đức đến thẳng cơ quan cảnh sát điều tra phố Thiền Quang, Hà Nội, mặc cho sự đau đớn của cụ già 82 tuổi lãnh trọn cú đá trời giáng của kẻ đã dày công luyện võ thuật trong trường công an. Cú đá làm cho hình hài còm cõi vỡ xương hông, gãy xương đùi.
Vậy mà giữa hội trường Diên Hồng của Quốc hội nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, ông nghị Đào Thanh Hải, hàm cao đại tá, chức lớn phó giám đốc công an kinh kì lại ráo hoảnh đổi trắng thay đen rằng Cụ Kình bị gãy xương là do người nhà giằng co, lôi kéo!
Đại tá Đào Thanh Hải nói xạo : Công an Hà Nội không đánh ông Lê Đình Kình gãy chân. Ảnh : VnExpress
Người dân muốn đi theo bảo vệ cụ Kình đã bị viên sĩ quan quân đội yêu cầu cụ Kình đuổi họ về. Dù họ có mặt ở đó để giằng kéo giữ lại cụ Kình vì thương yêu, bảo vệ cụ thì cũng không thể giằng kéo thô bạo gây tổn thương cho cụ được.
Vỡ xương hông, gãy xương đùi phải do lực lớn giáng vào chứ không thể do lực kéo ra. Lực kéo ra chỉ có thể làm trật khớp xương. Lực kéo mà làm vỡ xương hông, gãy xương đùi thì phải xé rách cả da thịt. Nói rằng cụ Kình bị vỡ xương hông, gãy xương đùi là do người nhà giằng kéo cụ khỏi tay những kẻ bắt giữ là nói lấy được của một nhân cách, đê tiện, vô liêm sỉ.
Thật mỉa mai, thật hài hước, nhân cách vô liêm sỉ đó lại là một Đại biểu quốc hội của nhà nước cộng sản Việt Nam!
Quốc hội của nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã có người đàn bà sảo quyệt kinh doanh lòng tin, bỏ ra 30 tỉ đồng mua danh Đại biểu quốc hội để tạo lòng tin cho khách hàng. Nay lại lòi thêm ra ông nghị Đào Thanh Hải đổi trắng thay đen, lừa dối Quốc hội giữa hội trường mang tên Diên Hồng lịch sử ! Đó là thời đen tối nhất, nhem nhuốc nhất của chính trường Việt Nam và cũng là thời đen tối nhất, nhem nhuốc nhất của lịch sử Việt Nam.
Bạo lực với dân, nhục hình với người dân nằm trong tay công an và lừa dối dư luận đã trở thành ngón nghề nghiệp vụ mà công an nhà nước cộng sản Việt Nam thường xuyên thi thố đã gây bao oan khuất cho người dân, đã dẫn đến hàng trăm cái chết thảm thương trong đồn công an như những cái chết của những dân lành Nguyễn Công Nhựt ở Bến Cát, Bình Dương, Ngô Thanh Kiều ở Phú Yên, Nguyễn Mậu Thuận ở Đông Anh, Hà Nội, Nguyễn Hồng Đê ở Phan Rang, Phạm Ngọc Nhung ở Sài Gòn… đã dẫn đến nhiều bản án tử hình oan khiên cho người dân lương thiên, như bản án tử hình cho những công dân vô tội Hàn Đức Long, Nguyễn Thanh Chấn…
Bạo lực và nhục hình của công an nhà nước cộng sản Việt Nam mặc sức lộng hành làm cho mạng sống của người dân Việt Nam những ngày này mong manh như thân phận con giun, cái kiến.
Người đàn ông đang trẻ khỏe, trưởng phòng quản lí sản phẩm của một doanh nghiệp nước ngoài ở khu công nghiệp Bến Cát, Bình Dương, bị công an Bến Cát đưa về trụ sở làm việc rồi chết trong đồn công an với những thương tích bầm dập khắp cơ thể. Cổ tay, lòng bàn tay và ngón tay bầm đen, từ bụng trở xuống nhiều chỗ bầm tím. Hai bên háng bị bầm xanh. Dương vật và hai tinh hoàn đều bị dập nát và chảy máu.
Cái chết mang dấu tích của những trận đòn thù gây đau đớn tột cùng đó được công an Bình Dương giải thích là do người đàn ông tự tử bằng cách lấy sợi dây sạc pin điện thoại di động treo cổ lên cửa sổ trụ sở công an ! Nói rằng người đàn ông có công việc ổn định, lương khá, có vợ trẻ và gia đình hạnh phúc lại mau lẹ từ bỏ cuộc sống đầy đủ đáng mơ ước tìm đến cái chết treo cổ bằng sợi dây không chịu nổi sức căng mười kilogam lực là lời trí trá của kẻ vô liêm sỉ.
Nhóm công an Đông Anh, Hà Nội đánh phóng viên của báo Tuổi Trẻ
Mạng xã hội tràn ngập clip một nhóm người cao to, cơ bắp chắc nịch hung hãn dồn đánh một thanh niên mảnh mai ngay giữa đường cái quan. Người thanh niên dáng nhỏ nhắn tay khư khư ôm chiếc túi đeo bên sườn trở thành hình nộm trong phòng tập võ hứng chịu những cú đá, những nắm đấm từ những thân hình cao to uốn cong như cánh cung trong thế võ tấn công đầy uy lực phóng tới.
Hình nộm sống phải nhận những cú đá, những nắm đấm thôi sơn kể : "Họ chỉ tay, chửi thề quát tháo tôi và hai đồng nghiệp khác rồi đấm đá túi bụi vào mặt và người khiến tôi không kịp đỡ, bị chảy máu miệng, bị thương vùng đầu. Họ tiếp tục dồn tôi ra giữa đường hành hung trong khi xung quanh có rất nhiều ô tô lưu thông tốc độ cao. Ngoài đồng nghiệp và người dân, còn có nhiều công an viên chứng kiến".
Cảnh hành hung man rợ của nhóm người cao to quây đánh anh thanh niên mảnh mai được nhiều nhà báo ghi hình và xác nhận là nhóm công an Đông Anh, Hà Nội đánh phóng viên của báo Tuổi Trẻ. Vậy mà công an Hà Nội vẫn trí trá giải thích với công luận rằng nhóm công an kia chỉ vung tay khi nói chuyện nhưng không may trúng má nhà báo mà thôi !
Bao che cho thói côn đồ của nhóm công an Đông Anh, lãnh đạo công an Hà Nội vừa dung dưỡng sự lộng hành bạo lực, dung dưỡng lối hành xử với dân bằng bạo lực ở thủ đô văn hiến, vừa bộc lộ nhân cách thấp kém, gian dối, trí trá của những người đứng đầu lực lượng công an thủ đô.
Đã quen trí trá đến vô liêm sỉ như vậy thì vụ việc viên trung tá công an Mỹ Đức, Hà Nội đá gãy xương đùi cụ Kình, làm cụ tàn phế suốt đời được viên phó giám độc công an Hà Nội trí trá biến báo thành xương đùi cụ Kình gãy là do người người nhà cụ Kình giằng co cũng là điều bình thường.
Nhưng không thể bình thường khi sự trí trá đó diễn ra giữa nghị trường Quốc hội. Không thể bình thường khi một nghị sĩ, đại biểu của nhân dân Thủ đô đã trí trá lừa dối cả Quốc hội.
Cũng không còn là Quốc hội bình thường khi chấp nhận sự trí trá, lừa dối đó. Không còn xứng đáng là đại diện cho ý chí nguyện vọng của người dân khi Quốc hội dung nạp kẻ trí trá, lừa dối đó, khi kẻ trí trá lừa dối đó vẫn ung dung, ngạo mạn là Đại biểu quốc hội, là đại biểu của nhân dân thủ đô.
Phạm Đình Trọng
(11/11/2017)
Tướng là lá bài có vị trí lớn nhất trong cỗ tam cúc. Nhưng lá bài tướng chưa kịp vật ra để bắt sĩ, tượng, xe... của đối thủ thì ván bài đã tàn, tướng phải chui, úp bài, phí hoài một lá bài mạnh. Dân gian gọi lá bài tướng thối đó là tướng đi ỉa.
Chính trường nhà nước cộng sản Việt Nam vừa qua cũng có hai tướng đi ỉa như vậy.
Tướng bốn sao quân đội
Từ những trận chiến đẫm máu suốt 10 năm, 1979–1989, ở biên giới phía Bắc trong cuộc chiến chống quân Trung Quốc xâm lược trở về vào học các trường quân sự, từ trường sĩ quan tới các học viện quân sự cấp cao, con đường binh nghiệp đó đã đưa chàng trai chân quê Đỗ Bá Tỵ từ anh lính binh nhì lên tới đại tướng Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đỗ Bá Tỵ, từ anh lính binh nhì lên tới đại tướng Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Con đường thành danh, thành tướng cầm quân của người lính Đỗ Bá Tỵ gắn liền với cuộc chiến 10 năm đằng đẵng của những người lính dùng máu mình giành đi, giật lại với bọn Trung Quốc xâm lược từng điểm cao, từng mỏn đá ở biên cương phía Bắc. Đó là người lính chiến đấu vì Tổ quốc, vì nhân dân, người lính của Tổ quốc, của nhân dân.
Khác với con đường binh nghiệp của tướng Bộ trưởng Bộ quốc phòng Phùng Quang Thanh. Con đường thành tướng của người lính Phùng Quang Thanh gắn liền với sách lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của người Mỹ. Quân Mỹ rút ra khỏi cuộc chiến, giao lại chiến trường Việt Nam cho người Việt Nam. Con đường thành tướng của người lính Phùng Quang Thanh cũng gắn liền với cơ mưu của kẻ "tọa sơn quan hổ đấu". Kẻ cấp súng đạn cho người Việt Nam đánh Mỹ, lại càng cấp nhiều súng đạn hơn cho người Việt Nam giết người Việt Nam. Thế giới càng đại loạn, kẻ lao vào cuộc chiến càng đổ nhiều máu, nội bộ càng xâu xé, chia rẽ, kinh tế càng kiệt quệ thì kẻ ngồi trên núi nhìn thế giới đại loạn sẽ thừa cơ thâu tóm thế giới.
Chiến dịch lớn Lam Sơn 719 đầu năm 1971 ở đường 9, Nam Lào, trận đánh lớn đầu tiên của "Việt Nam hóa chiến tranh" chỉ có người Việt bắn giết người Việt, Những mỏn núi, những dòng suối heo hút chưa có tên ở biên giới Việt Lào bỗng trở thành núi xác, suối máu người Việt. Trong chiến dịch tương tàn đẫm máu về mức độ ác liệt và có ý nghĩa to lớn trong lịch sử cuộc chiến đó, thượng sĩ, trung đội trưởng Phùng Quang Thanh đã trở thành anh hùng, đã viết lên tên mình bằng máu của những người Việt ở bên kia trận tuyến.
Người Việt giết nhiều người Việt mà trở thành anh hùng thì đó là thứ anh hùng không tim, thứ người hùng của cái đảng mang hận thù giai cấp vô lại về li tán dân tộc, tàn phá đất nước, thứ người hùng của nghị quyết 15, nghị quyết xác định ý chí của đảng hận thù giai cấp, quyết đánh chiếm miền Nam bằng bạo lực cách mạng. Đó cũng là thứ người hùng của những kẻ "tọa sơn quan hổ đấu", những kẻ cấp súng đạn cho người Việt giết người Việt, người Việt tự làm li tán người Việt, người Việt tự làm suy yếu dân tộc Việt.
Đại tướng Bộ trưởng Bộ quốc phòng Phùng Quang Thanh
Là người anh hùng của những kẻ "tọa sơn quan hổ đấu" nên đại tướng, Bộ trưởng Bộ quốc phòng Phùng Quang Thanh luôn cao giọng : "Việt Nam mãi mãi biết ơn sự giúp đỡ quý báu của Trung Quốc đối với nhân dân Việt Nam trong những năm qua... Việt Nam luôn coi trọng quan hệ đoàn kết, hữu nghị với Trung Quốc trên cơ sở 16 chữ vàng : láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai".
Và ông tướng thống lĩnh sức mạnh quân sự Việt Nam để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam lại luôn lo lắng trước tinh thần yêu nước chống Trung Quốc xâm lược của người dân Việt Nam : "Tôi thấy lo lắm, không biết tuyên truyền thế nào, chứ từ trẻ con đến người già có xu thế ghét Trung Quốc. Ai nói tích cực đến Trung Quốc là ngại. Tôi cho rằng cái đó là nguy hiểm cho dân tộc". Chỉ có bán linh hồn cho Trung Quốc xâm lược mới lo lắng trước ý chí chống quân xâm lược của người dân Việt Nam. Và kẻ bán linh hồn cho Trung Quốc đã được ngồi trên chiếc ghế Bộ trưởng Bộ Quốc phòng liền hai nhiệm kì.
Còn người lính cả cuộc đời chiến đấu ở mặt trận giữ đất biên cương chống giặc Trung Quốc xâm lược và khi là Tổng Tham mưu trưởng, Thứ trưởng Bộ quốc phòng, vị tướng trên mặt trận giữ nước chống Trung Quốc xâm lược đã chỉ ra mưu đồ của kẻ thù mà cả cuộc đời binh nghiệp của ông phải đối đầu : "Dù Trung Quốc đã rút giàn khoan nhưng âm mưu hiện thực hóa đường lưỡi bò, độc chiếm Biển Đông là không thay đổi. Chỉ có điều cuộc đấu tranh này sẽ chuyển sang giai đoạn khác, thậm chí quyết liệt hơn, phức tạp hơn".
Đó là vị tướng mà lịch sử giữ nước của dân tộc Việt Nam đương đại đã thử thách và lựa chọn để trao trọng trách đứng đầu bộ binh, nắm giữ sức mạnh quân sự Việt Nam, thống lĩnh ba quân, bảo vệ Tổ quốc. Nhưng cũng vì những năm tháng bền bỉ, vững vàng chống giặc Trung Quốc xâm lược giữ đất biên cương và cũng vì thẳng thắn chỉ ra mưu đồ của Trung Quốc "hiện thực hóa đường lưỡi bò, độc chiếm Biển Đông là không thay đổi" mà vị tướng thao lược được nhân dân và Tổ quốc tin cậy và trông chờ bỗng phải rời quân ngũ, chuyển ra dân sự, làm ông nghị gật, dù được mang chức danh là Phó Chủ tịch quốc hội. Quốc hội đã cam phận chỉ là công cụ của đảng cộng sản cầm quyền, cam phận thực hiện những màn diễn hao tốn hàng ngàn tỉ tiền thuế của dân chỉ để hợp thức hóa các quyết định của đảng. Đảng đã quyết ắt Quốc hội phải gật thì đến Chủ tịch quốc hội cũng chỉ là nghị gật, cũng chỉ là rô bốt, chỉ là con rối dưới bàn tay giật dây của đảng !
Vị tướng mang ý chí của nhân dân quyết bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, vị tướng là hiện thân của những nhà cầm quân thao lược trong lịch sử ngàn năm giữ nước của dân tộc Việt Nam đã bị nhà nước cộng sản Việt Nam biến thành lá bài thối, thành lá bài tướng đi ỉa.
Tướng một sao công an
Ông là thiếu tướng công an Trương Giang Long, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Chính trị công an, Giám đốc Học viện Chính trị công an. Ở phương diện quốc gia đó, ông Long quá hiểu thực chất mối quan hệ giữa hai nhà nước cộng sản Việt Nam – Trung Quốc, ông quá hiểu chiếc bóng của Đảng cộng sản Trung Quốc trùm lên Đảng cộng sản Việt Nam, phủ bóng đen xuống xã hội Việt Nam từ sau giao kèo kí kết giữa ông Nguyễn Văn Linh và ông Giang Trạch Dân ở Thành Đô năm 1990, về việc Đảng cộng sản Việt Nam bán linh hồn cho Đảng cộng sản Trung Quốc để Trung Quốc bảo kê cho sự độc tôn tồn tại của Đảng cộng sản Việt Nam trước bão táp của nhân dân, trước xu thế của thời đại loại bỏ độc tài cộng sản giành quyền con người cho người dân, giành dân chủ cho xã hội.
Thiếu tướng công an Trương Giang Long, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Chính trị công an, Giám đốc Học viện Chính trị công an
Là tướng công an, ông Long càng biết rõ rằng ngay sau khi trở thành người đứng đầu Đảng cộng sản Việt Nam, ông tiến sĩ bảo vệ đảng Nguyễn Phú Trọng liền kí kết với người đứng đầu Đảng cộng sản Trung Quốc Hồ Cẩm Đào cụ thể hóa sự bảo kê đó : "Đi sâu hơn nữa hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực thi hành pháp luật và an ninh... ; tăng cường giao lưu và hợp tác giữa các cơ quan như tòa án, viện kiểm sát, công an, hành chính tư pháp...; tăng cường phối hợp và ủng hộ lẫn nhau trong việc giữ gìn ổn định trong nước của mình". (Tuyên bố chung 15/10/2011)
"Giữ gìn ổn định trong nước của mình" tức là giữ vững sự độc tôn thống trị xã hội của đảng cộng sản Việt Nam. Với Tuyên bố chung Nguyễn Phú Trọng – Hồ Cẩm Đào ngày 15/10/2011, giữ vững sự thống trị xã hội của Đảng cộng sản Việt Nam không phải chỉ có sức mạnh bạo lực của công an Việt Nam mà còn có sức mạnh bạo lực của công an Trung Quốc.
Đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền đã giao cả sự sống còn của đảng cho Trung Quốc thì sự sống còn của đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam cũng nằm trong tay Trung Quốc là đương nhiên. Cam kết Thành Đô 1990, Tuyên bố chung Nguyễn Phú Trọng – Hồ Cẩm Đào 2011 đã biến Việt Nam thành chư hầu của Trung Quốc thì Trung Quốc hành xử với Việt Nam thế nào chả được. Vậy mà cơn cớ gì ông tướng công an Trương Giang Long lại dám đăng đàn mạnh miệng rằng Trung Quốc không bao giờ từ bỏ dã tâm chiếm Biển Đông của chúng ta. Rằng Trung Quốc có gien tốt thấp, gien không tốt vượt trội. Rằng có tới hàng trăm đặc tình Trung Quốc cài cắm vào các cơ quan nhà nước Việt Nam. Rằng Trung Quốc xấu, xấu nữa, thì chúng ta cũng vẫn tìm cách phải chung sống, chỉ làm sao để họ đừng xấu hơn.
Đứng trên bục cao, mắt gườm gườm nhìn người nghe, giọng bộc bạch như để thổ lộ những điều mới mẻ, cơ mật nhưng thật ra những điều ông tướng công an Trương Giang Long nói cũng chẳng có gì mới mẻ ghê gớm. Những điều tướng Long nói, người dân nặng lòng với nước đều đã biết từ lâu và còn biết nhiều hơn thế nữa. Nhưng dù sao những điều ông tướng công an Trương Giang Long nói ra cũng tỏ ra dù là con người công cụ "còn đảng còn mình" ông tướng Long cũng đã thấy được phần nào cái họa Bắc thuộc mà đảng của ông đã rước về cho dân tộc Việt Nam, ông cũng đã có được nỗi lo gần với nỗi lo của dân về vận mệnh đất nước.
Cái clip ông tướng công an đăng đàn mạnh miệng động chạm đến thiên triều cộng sản Trung Hoa nếu chỉ là tài liệu học tập ngoại khóa trong nội bộ công an thì mọi chuyện rồi cũng bình lặng qua đi. Nhưng cái clip ông tướng công an nói về cái gien xấu của Trung Quốc, nói về dã tâm Trung Quốc cướp Biển Đông của Việt Nam lại tràn lan trên mạng xã hội lề dân, gây xôn xao dân chúng thì sự việc không dừng lại ở đó.
Ngay sau khi mạng xã hội lề dân tràn ngập clip tướng công an Trương Giang Long đăng đàn liền đến sự việc cả hệ thống báo chí lề đảng đăng tin và ảnh ông thượng tướng Thứ trưởng bộ Công an trao quyết định nghỉ hưu cho ông thiếu tướng đã đăng đàn nói về gien xấu của Trung Quốc.
Sinh năm 1955, ở tuổi 62, với học vị tiến sĩ, học hàm giáo sư, theo qui định của nhà nước, ông thiếu tướng Trương Giang Long cứ yên tâm làm việc ở cơ quan nhà nước với tư cách nhà khoa học ít nhất ba năm nữa. Vì sau thời gian dài nạp trí tuệ của loài người, trèo lên vai những người khổng lồ, từ tuổi sáu mươi mới đến độ chín của những nhân cách khoa học, mới là thời gian của những trí tuệ riêng tỏa sáng, đứng thẳng lên thành những cá nhân khoa học. Nhận quyết định phong hàm thiếu tướng từ ba năm trước, năm 2014. Thời hạn để ông thiếu tướng công an Trương Giang Long đón nhận hàm trung tướng cũng đã cận kề. Nhưng giữa đường đứt gánh. Tất cả đã chấm dứt.
Từ bao lâu nay, tướng lĩnh quân đội, công an đến tuổi nghỉ hưu cứ lặng lẽ nhận quyết định mà về. Dù là đại tướng Bộ trưởng về vườn, báo chí cũng không đưa tin. Báo chí lề đảng của nhà nước cộng sản Việt Nam đồng loạt đưa tin ông thiếu tướng công an Trương Giang Long nhận quyết định về hưu là để bằng con đường truyền thông nhà nước, Việt Nam bẩm báo với thiên triều Bắc Kinh rằng chiếu chỉ của thiên triều đã được chư hầu Việt Nam chấp hành nghiêm chỉnh. Ông tướng công an Việt Nam làm phiền lòng thiên triều Bắc Kinh thì con đường công danh, sự nghiệp chính trị của ông đã chấm dứt.
Vết nhơ của trang sử vàng
Chính trường cộng sản Việt Nam không phải chỉ có hai ông tướng như hai lá bài tam cúc tướng đi ỉa. So với hàng chục tướng tá quân đội, hàng chục công thần của đảng cấp Bộ trưởng, hàng chục trí thức lớn trí tuệ uyên bác của dân bị vu cho tội xét lại chống đảng, bị tù đầy, hãm hại cho đến chết để làm đẹp lòng thiên triều Bắc Kinh, thì ông đại tướng quân đội bị gạt ra khỏi quân ngũ ra dân sự làm nghị ông gật, ông thiếu tướng công an phải về hưu đột ngột, tức tưởi chỉ là chuyện nhỏ. Nhưng đó là nỗi cay đắng lớn cho nền độc lập của nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, là nỗi đau lớn cho dân tộc Việt Nam và là vết nhơ lớn cho trang sử vàng oai hùng Việt Nam.