Với người dân Thủ Thiêm, Sài Gòn, tên Tất Thành Cang là tên gọi của cái ác, của tội phạm, là tên cướp ngày đã cướp nhà, cướp đất, cướp nguồn sống, cướp cuộc sống bình yên của hàng ngàn gia đình, hàng chục ngàn người dân.
Với người dân Sài Gòn, người dân cả nước, tên Tất Thành Cang là tên gọi của một loại sâu dân mọt nước và người dân đã phiên cái tên riêng Tất Thành Cang thành tên chung của một hiện tượng tự nhiên, một quá trình đào thải, tống tháo nặng mùi : Tan Thành C., tan thành bã thải của quá trình tiêu hóa.
Tất Thành Cang (trái) đã cùng anh "Hai Nhựt" Lê Thanh Hải cướp hàng trăm hecta đất Thủ Thiêm của hàng ngàn gia đình - Ảnh minh họa
Khi là bí thư kiêm chủ tịch quận Hai, Sài Gòn, Tất Thành Cang làm lên kỉ lục địa ngục về sự nhẫn tâm, tàn ác, táng tận lương tâm với dân. Đứng đầu băng cướp đất cấp quận, Cang cùng băng cướp đất cấp thành phố do bí thư Lê Thanh Hải đứng đầu đã cướp hàng trăm hecta đất Thủ Thiêm của hàng ngàn gia đình, đẩy hàng chục ngàn người dân vào cảnh không còn nguồn sống, không chốn dung thân, màn trời chiếu đất năm này qua năm khác suốt hơn chục năm trời. Có người dân phẫn uất phải thắt cổ chết. Nhiều người bị đẩy đến khốn cùng mang bệnh thể xác không tiền chữa chạy và mang bệnh nặng hơn về tinh thần, đau đớn, uất hận, tuyệt vọng mà chết khi tuổi đời đang độ phát tiết tinh hoa
Khi là giám đốc sở Giao thông Vận tải, Cang thông đồng với nhà đầu tư làm lên kỉ lục thế giới về chi phí làm đường cao đến vô lí, đến không tưởng, đến rùng rợn. Làm một kilomet đường tốn 1000 tỉ đồng. Cang kí mua của nhà đầu tư Đại Quang Minh 12 kilomet đường Thủ Thiêm với giá 12. 000 tỉ đồng. Trong khi cao tốc Hà Nội – Hải Phòng hiện đại nhất Việt Nam, rộng gấp đôi đường Thủ Thiêm một kilomet đường chỉ 250 tỉ đồng. Cao tốc Sài Gòn – Trung Lương rộng hơn đường Thủ Thiêm lại phải qua nhiều vùng đất yếu hơn đất Thủ Thiêm vì đất ngập nước, đất sình lầy kênh rạch mà một kilomet đường cũng chỉ 220 tỉ đồng.
Theo luật "cưa đôi" đang là luật hiện hành phân chia đồng tiền bẩn trong thế giới ngầm tội phạm thì số tiền chênh lệch dôi ra giữa tiền thu được do hợp đồng mang lại và tiền thực phải chi làm công trình sẽ được cưa đôi cho hai bên kí hợp đồng. Như ông cò cảnh sát giao thông ăn chia với người vi phạm giao thông. Đáng ra lỗi vi phạm phải phạt 2 triệu đồng, ông cò cảnh sát chỉ ghi giấy phạt 1 triệu đồng. 1 triệu đồng được ông cò ra ơn giảm phạt được "cưa đôi". Ông cò cảnh sát có 500 000 đồng đút túi và người vi phạm giao thông cũng giảm nhẹ thiệt hại được 500 000 đồng tiền phạt. Giám đốc sở Giao thông vận tải Sài Gòn Tất Thành Cang phóng tay kí chi ra mười hai ngàn tỉ đồng tiền thuế mồ hôi nước mắt của dân mua 12 kilomet đường Thủ Thiêm do Đại Quang Minh làm thì tiền "cưa đôi" Đại Quang Minh phải lại quả cho Cang cũng phải ở con số ngàn tỉ đồng.
Ông quan đảng Tất Thành Cang chẳng làm được tích sự gì cho dân cho nước chỉ ăn tàn phá hại nhưng bóng cả Lê Thanh Hải còn rậm rạp xanh tốt che chở, đàn anh Lê Thanh Hải còn quyền uy bao bọc thì đàn em Tất Thành Cang sâu dân mọt nước cứ nhảy cóc trên bậc thang công danh với tốc độ thần kì. Bí thư thành đoàn. Bí thư kiêm chủ tịch quận. Giám đốc sở Giao thông Vân tải. Phó chủ tịch thành phố. Phó bí thư thành ủy. Chặng đường vạn dặm đó, dưới trướng lãnh chúa Lê Thanh Hải, Tất Thành Cang chỉ mất có 12 năm, 2004 – 2016. Nhảy tót vào ban chấp hành trung ương đảng cộng sản cai trị. Chễm chệ trên ghế phó bí thư thường trực thành ủy đầy quyền uy. Cang càng ăn bạo, ăn đậm.
Bằng thực tế cuộc đời, bằng kinh nghiệm sống, dân gian đã đúc kết và chỉ ra rằng : Lắm sãi bỏ ngỏ cửa chùa. Và : Cha chung không ai khóc. Cái gì thuộc về sở hữu của nhiều người đều là vô chủ. Học dân gian, nhà nước cộng sản liền làm ra luật vô chủ của đất đai : Đất đai là sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lí. Đảng cộng sản cai trị vốn đã coi đất nước Việt Nam là của riêng đảng. Nay có luật đất đai vô chủ đã cho các tổ chức đảng từ đảng ủy phường, xã trở lên có sơ sở pháp lí để biến đất của dân, của nước thành đất của tổ chức đảng. Hơn 32 ha đất công của nước, đất hương hỏa ngàn đời của người dân Phước Kiển, Nhà Bè, Sài Gòn bỗng trở thành đất của doanh nghiệp đảng trực thuộc thành ủy Sài Gòn.
Liền sát khu quí tộc Phú Mỹ Hưng, hơn 32 ha đất vàng Phước Kiển xây building, xây villa bán cho đại gia, xây office cho nước ngoài thuê sẽ có nguồn thu vô cùng lớn và ổn định lâu dài. Chỉ cắt ra vài ha đất bán đi là đủ tiền xây cất trên phần đất còn lại. Nhưng thời gian xây cất phải mất vài năm. Vài năm sau lại thuộc triều đại khác, lãnh chúa khác rồi. Dại gì lại chịu cốc mò cò xơi. Hơn 32 ha đất vàng đâu phải ít tiền. Tiền "cưa đôi" cũng không nhỏ. Thôi bán béng đi, biến đất của doanh nghiệp đảng thành tiền riêng trong tài khoản cá nhân cho chắc ăn.
Hơn 32 ha đất Phước Kiển là miếng đậm không kém gì miếng đậm 12 kilomet đường Thủ Thiêm. Phải làm lẹ và không thể để nhiều người biết. Nhiều người dính vào, lắm thầy nhiều ma, lắm cha con khó lấy chồng, lại thêm rách việc và miếng đậm lại phải chia cho nhiều người thì đâu còn đậm nữa. Dù biết rằng hơn 32 ha đất là tài sản lớn. Quyền quyết định với tài sản lớn đó phải là thành ủy. Nhưng ham thứ gì cũng thành con nghiện của thứ đó. Những chục tỉ, trăm tỉ tiền đất, tiền đường Thủ Thiêm đã làm ông quan cộng sản Tất Thành Cang "tự diễn biến" thành con nghiện tối tăm, mê mẩn của đồng tiền rồi. Nghiện tiền cũng như nghiện heroin thôi. Đã nghiện heroin làm sao cưỡng lại được sự cám dỗ ma mị, ngất ngây, vật vã của nó. Trong cơn say tiền, đồng chí phó bí thư thường trực thành ủy Tất Thành Cang đã mau lẹ chấp thuận cho doanh nghiệp đảng thuộc thành ủy bán hơn 32 ha đất vàng Phước Kiển chỉ với giá 419 tỉ đồng trong khi bán đúng giá thị trường lúc đó, tháng sáu năm 2017 phải thu về hơn 2.000 tỉ đồng.
Để lại dấu chân tội ác, dấu chân nhớp nhúa máu dân ở Thủ Thiêm, Tất Thành Cang thay đôi giầy đế sắt dẫm đạp lên đầu dân của quan địa phương bằng đôi giầy bóng lộn của chính khách quốc gia, ung dung bước vào nhà đỏ ban chấp hành trung ương đảng cộng sản, nhảy tót lên ghế phó bí thư thường trực thành ủy Sài Gòn. Với chức bự, quyền lớn, Tất Thành Cang tiếp tục để lại dấu chân tham nhũng ở Phước Kiển.
Thấy rõ dấu chân tội phạm của ông quan cộng sản Tất Thành Cang, pháp luật nhà nước cộng sản cũng chỉ biết giương mắt ếch nhìn và chờ đảng xử lí ông quan đảng tội phạm, chờ đảng cho phép mới được vào cuộc. Điều 16 Hiến pháp nhà nước cộng sản : Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật là vậy đó.
Ông Tất Thành Cang từng có khoảnh khắc thân mật với Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng. (Hình : Zing)
Với đảng cai trị bằng tham nhũng quyền dân thì quan đảng Tất Thành Cang, tội phạm Tất Thành Cang cũng chỉ là sai phạm, dù là sai phạm rất nghiêm trọng cũng chỉ là sai phạm, không phải là tội phạm.
Mấy ông tướng công an, dù là tướng cũng chỉ trên mặt bằng xã hội thông thường, chưa bước lên được thềm cao ùy viên trung ương đảng lại mắc tội tày trời, là tội phạm cỡ bự, lôi kéo, xô đẩy hàng chục ngàn người dân cả nước vào vòng tội phạm đỏ đen cờ bạc. Mỗi ông tướng đều đút túi cả chục tỉ tiền bẩn mà mỗi ông tướng tội phạm cũng chỉ bảy, tám năm tù, thấp hơn cả án tù của mấy ông nông dân ít học bị ma men xui khiến đã bắt trộm con vịt về làm mồi nhậu. Quan đảng Tất Thành Cang, trên thềm cao nhà đỏ chỉ sai phạm, đâu phải tội phạm.
Không phải tội phạm, quan đảng Tất Thành Cang vẫn bình chân trên ghế phó bí thư thường trực thành ủy, vẫn ngồi ô tô Toyota Camry biển xanh tiền tỉ đi ăn nhậu cùng những đàn em thân tín : Tăng Hữu Phong vốn cũng từ bệ phóng thành đoàn, nhà trẻ của thành ủy, Lê Trương Hải Hiếu, quí tử của lãnh chúa Lê Thanh Hải. Ăn nhậu khuya khoắt với quan đảng Tất Thành Cang còn có cả người đẹp tổng biên tập tờ báo Đàn Bà miền đất Bến Thành mới thấy thế lực của quan đảng Tất Thành Cang còn tỏa rộng và mạnh mẽ như thế nào.
Một phần dự án khu dân cư Phước Kiển do Quốc Cường Gia Lai đầu tư
Không phải là tội phạm, quan đảng Tất Thành Cang vẫn tươi cười lên diễn đàn hội trường thành ủy tặng hoa cho những nhân sự mới được cất nhắc, thăng tiến ở Hội Đồng Nhân Dân thành phố.
Tội phạm ở Thủ Thiêm, ở Phước Kiển. Gây tội ác tày trời với người dân Thủ Thiêm rồi bình thản trước nỗi khổ đau, lầm than, rên xiết của người dân Thủ Thiêm. Vẫn vô tư bám ghì chiếc ghế quyền lực chính khách nhà đỏ, phó đảng thành phố. Vẫn nhơn nhơn kéo cả đám đàn em đi ăn nhậu. Vẫn hớn hở lên diễn đàn Hội Đồng Nhân dân thành phố. Đó là sự vô liêm sỉ của quan đảng Tất Thành Cang
Đảng cai trị dung dưỡng cho quan đảng Tất Thành Cang, một tội phạm với dân với nước nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Đảng cai trị đang thách thức người dân, thách thức lương tâm con người, thách thức đạo lí xã hội. Với sự cai trị đó, làm sao văn hóa, đạo lí xã hội không suy đồi !
Phạm Đình Trọng
(01/12/2018)
1. Lương tâm và trí tuệ không có chỗ trong Nhà nước tham nhũng
Thể chế cộng sản đã biến đội ngũ quan chức nhà nước cộng sản thành những băng cướp mạnh, những băng cướp cấp nhà nước.
Quan chức quản lí của cải, tài nguyên của nước thì cướp của nước như những vụ cướp diễn ra ở Vinashin thời Phạm Thanh Bình, Nguyễn Tấn Dũng, ở Vinalines thời Dương Chí Dũng, Nguyễn Tấn Dũng, ở Petrovietnam thời Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh, Nguyễn Tấn Dũng. Như băng nhóm Vũ Nhôm, Út Trọc. Như băng nhóm tướng lĩnh cướp đất sân bay Gia Lâm, sân bay Tân Sơn Nhất...
Quan chức quản lí lãnh thổ dân cư thì cướp của dân như ở Cống Rộc, Tiên Lãng (Hải Phòng), ở Văn Giang (Hưng Yên), ở Dương Nội, ở Đồng Tâm (Hà Nội), ở Thủ Thiêm (Sài Gòn)...
Quan chức quản lí của cải, tài nguyên của nước thì cướp của nước, như băng nhóm tướng lĩnh cướp đất sân bay Gia Lâm, sân bay Tân Sơn Nhất...
Hối hả ăn cướp, những băng nhóm cướp cộng sản đã đánh sập lòng tin của dân vào nhà nước cộng sản. Công khai ăn cướp, những băng nhóm cướp cộng sản còn đào ruỗng chân móng tòa nhà cộng sản. Cướp đã thành bệnh dịch hạ gục hàng loạt quan chức cộng sản từ cấp xã, phường lên tới cấp Bộ trưởng, Thủ tướng Chính phủ. Pháp luật chưa soi đến những vụ đại án tham nhũng tài sản của ông Thủ tướng Ba Dũng và gia đình nhưng việc ông tham nhũng quyền lực cho con cái ông thì đã quá rõ. Cướp đã thành trận lũ quét cuốn trôi của cải vật chất của đất nước, cuốn trôi cả những giá trị đạo đức, văn hóa của con người. Lúc này không diệt đám cướp ngày là đội ngũ quan chức nhà nước cộng sản tham nhũng, thể chế cộng sản sẽ mất người, mất lòng dân, đi vào suy tàn không thể đảo ngược. Nhưng quyền lực đảng tham nhũng cầm quyền còn sai khiến cả pháp luật, một kẻ đứng đầu những băng nhóm đầu trộm đuôi cướp cấp nhà nước như Nguyễn Tấn Dũng còn vênh váo là người tử tế thì làm sao có thể chống tham nhũng !
Mấy năm qua, Ủy ban Kiểm tra trung ương, cơ quan cảnh sát điều tra tội phạm trong nội bộ tổ chức cộng sản đã làm việc ráo riết và liên tiếp điểm mặt những băng cướp nổi cộm, đầy tai tiếng không còn giấu giếm được nữa. Nhưng ra đời bằng cướp chính quyền, tồn tại bằng cướp dân quyền, đặc tính cướp đã được cài đặt trong bản thể cộng sản, đã là bản chất của thể chế cộng sản. Chính thể chế cộng sản đã sản sinh ra những băng cướp cấp nhà nước được gọi bằng từ ngữ nhẹ nhàng, lịch sự, mĩ miều là tham nhũng. Chính thể chế cộng sản đã nuôi dưỡng, chăm bẵm những mầm mống tham nhũng để những mầm mống đó nảy nở thành những băng cướp lộng hành tàn bạo như những băng cướp đất ở Văn Giang, Hưng Yên, ở Dương Nội, ở Đồng Tâm, Hà Nội, ở Thủ Thiêm, Sài Gòn.
Tham nhũng được thể chế cộng sản nuôi dưỡng vì vậy không phải cứ tham nhũng là bị nhà nước cộng sản diệt. Diệt tham nhũng để cứu thể chế cộng sản, nhưng diệt tham nhũng còn là trận chiến ác liệt một mất một còn trong cuộc đấu đá nội bộ ở cấp chóp bu cộng sản. Diệt tham nhũng còn là chiếc đầu dê treo trên bảng hiệu trước cửa tiệm, để trong bếp núc nhà hàng cộng sản chế biến món củng cố thế lực phe phái nắm quyền. Và cơ quan cảnh sát điều tra tội phạm trong nội bộ tổ chức cộng sản, Ủy ban Kiểm tra trung ương, đã quyết liệt truy diệt đến cùng những băng nhóm tham nhũng lớn nhỏ thuộc triều đại tham nhũng Nguyễn Tấn Dũng đã thất thế. Những đàn em trong đường dây băng nhóm tham nhũng Nguyễn Tấn Dũng dù xa chạy cao bay như Trịnh Xuân Thanh trốn sang tận trời Âu, nhà nước cộng sản vẫn chấp nhận đổ vỡ về ngoại giao với cả Liên Hiệp Châu Âu, xuất cả tướng bộ trưởng công an cùng đội đặc nhiệm cấp cao và đông đúc do tướng tình báo chỉ huy sang tận trời Âu công khai chà đạp lên pháp luật nhiều nước Châu Âu, tóm cổ Trịnh Xuân Thanh lôi về nước trị tội, diệt đàn em, diệt vây cánh của thế lực Nguyễn Tấn Dũng thù địch còn cài cắm trong bộ máy đương quyền.
Cho dù chắp tay cầu Phật, liệu Nguyễn Tấn Dũng và đàn em liệu có qua con trăng này không ?
Trong khi Võ Kim Cự rước đại họa Formosa về giết sự sống biển Việt Nam, giết chết cả nền kinh tế biển Việt Nam, gây bất ổn nghiêm trong về an ninh chính trị, an toàn xã hội. Số tiền Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh gây thất thoát tính bằng ngàn tỉ đồng thì số tiền Formosa – Võ Kim Cự gây thiệt hại cho nền kinh tế Việt Nam, gây thiệt hại cho cuộc sống người dân Việt Nam phải tính tới hàng triệu tỉ đồng, hàng tỉ tỉ đồng. Võ Kim Cự kí vượt thẩm quyền cho Formosa thuê 3.300 ha đất tới 70 năm với giá rẻ như cho không. 5.000 đồng chỉ mua được li trà đá nhưng thuê được tới 1.450 m2 đất Vũng Áng trong một tháng. Biếu không Formosa 3.300 ha đất trong 70 năm thì số tiền Formosa lại quả cho Cự cũng phải tính tới cả ngàn tỉ đồng.
Thiệt hại về tiền bạc, về kinh tế, về lòng tin do những băng cướp Phạm Thanh Bình, Dương Chí Dũng, Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh gây ra, cộng lại cũng không lớn bằng thiệt hại về kinh tế cho nhà nước cộng sản và thiệt hại về lòng tin cho Đảng cộng sản do Võ Kim Cự gây ra. Formosa – Võ Kim Cự tạo ra sự phẫn nộ sôi sục, bền bỉ không bao giờ chấm dứt của người dân với nhà nước cộng sản. Formosa – Võ Kim Cự đã phơi bày ra nhân cách nhếch nhác, nhem nhuốc, bỉ ổi của hàng loạt quan chức nhà nước cộng sản khi đám quan chức ở cấp bộ trưởng, bộ Thông tin và truyền thông, bộ Y tế, bộ Tài nguyên và môi trường bày trò tắm biển Formosa, ăn cá biển Formosa để lừa bịp, ru ngủ, đầu độc dân.
Võ Kim Cự chụp chung với đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng. Đó là hình ảnh đàn em về kêu cầu đại ca, núp bóng đại ca. Đôi mắt trố của Cự thành kính, khẩn khoản, van lơn, chờ đợi và đầy lòng biết ơn nhìn đảng trưởng Trọng.
Tội tham nhũng của Võ Kim Cự lồ lộ như vậy, lớn như vậy, nguy hại như vậy nhưng hãy nhìn tấm ảnh tràn lan trên truyền thông Võ Kim Cự chụp chung với đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng. Đó là hình ảnh đàn em về kêu cầu đại ca, núp bóng đại ca. Đôi mắt trố của Cự thành kính, khẩn khoản, van lơn, chờ đợi và đầy lòng biết ơn nhìn đảng trưởng Trọng. Cái nhìn của em út biết thân biết phận với đàn anh cánh hẩu. Cái nhìn của bề tôi có lỗi với thủ lĩnh quyền uy. Chưa khi nào, chưa có tấm ảnh nào đảng trưởng Trọng có khuôn mặt dịu dàng, hiền từ, thư thái như trong tấm ảnh đảng trưởng Trọng thân thiện, bao dung đứng bên Cự. Sự bao dung của đấng bề trên với đàn em thân tín. Sự bao dung của ông bố với thằng con đáng thương.
Với sự bao dung đó, dù tội tày trời, Cự vẫn ung dung rời Hà Tĩnh về Ba Đình, nghiễm nhiên làm Bí thư đảng đoàn, chủ tịch Liên minh hợp tác xã Việt Nam. Cự vẫn được đảng bảo lãnh nguyên vẹn tư thế chính trị và danh dự khi giới thiệu Cự ra ứng cử để trở thành đại biểu Quốc hội, ngồi ghế phó chủ nhiệm ủy ban kinh tế rồi bình yên về hưu, mang tiền bạc có được từ Formosa sang mua đất đai, lâu đài ở Canada sống vương giả suốt quãng đời còn lại của Cự và bảo đảm cuộc sống phè phỡn cho nhiều đời con cháu Cự.
Rồi Phí Thái Bình đứng đầu Vinaconex làm đường ống dẫn nước sông Đà – Hà Nội bằng đường ống hàng mã và độc hại của Trung Quốc. Đường ống hàng mã đương nhiên giá cực rẻ nhưng vẫn được phù phép có đủ thông số kĩ thuật và được khai vống lên theo giá hàng xịn để có chênh lệch lớn. Đường ống hàng mã 18 lần vỡ gây điêu đứng cho đời sống người dân Hà Nội, gây thiệt hại hàng trăm tỉ đồng tiền thuế của dân nhưng Phí Thái Bình vẫn thản nhiên đứng ngoài vòng pháp luật. Rồi Trương Minh Tuấn, Bộ trưởng Thông tin và truyền thông bày trò mua bán công ty truyền thông AVG đút túi hàng ngàn tỉ tiền chênh lệch vẫn trên ghế ủy viên trung ương đảng, khinh bỉ pháp luật nhà nước cộng sản, vẫn nhâng nháo với chức phó ban Tuyên giáo trung ương, quản lí, dạy dỗ, ban phát chuẩn mực về văn hóa, đạo đức, về lí tưởng thẩm mĩ cho tất cả những hoạt động văn hóa, tinh thần của đất nước..
Những Võ Kim Cự, Phí Thái Bình, Trương Minh Tuấn và còn nhiều những đảng viên cộng sản cấp cao khác đang là những con sâu tham nhũng bự vẫn bình yên ngoài vòng ngắm của Ủy ban Kiểm tra trung ương, vẫn ung dung ngoài vòng pháp luật là minh chứng cho vở diễn chống tham những của nhà nước cộng sản mang bản chất tham nhũng.
Tham nhũng là cái bóng lồng lộng của nhà nước cộng sản độc tài. Đảng cộng sản cầm quyền tồn tại bằng tham nhũng và tài sản lớn nhất, quí nhất, tài sản vô giá của nhân dân mà đảng tham nhũng để tồn tại là quyền dân, quyền làm chủ đất nước của người dân. Viết ra Hiến pháp để tham nhũng quyền dân, Đảng cộng sản đưa vào Hiến pháp điều 4 : Đảng cộng sản là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Nước độc lập, người dân làm chủ đất nước bằng quyền bầu chọn ra lực lượng chính trị lãnh đạo nhà nước và xã hội. Với điều 4, nước độc lập trở thành nước bị Đảng cộng sản chiếm đoạt, dân từ tư thế làm chủ đất nước thành dân mất nước, cam chịu thân phân dân nô lệ cộng sản.
Người dân lấy trộm, cướp giật của người khác là phường đầu trộm đuôi cướp. Quan chức nhà nước ăn cắp, ăn cướp của dân của nước là tham nhũng. Đảng tham nhũng cũng chỉ là đảng đầu trộm đuôi cướp, đảng mafia mà thôi. Trộm cướp là hành vi bất lương đen tối. Trí tuệ là ánh sáng. Một tổ chức đã phơi bầy đầy đủ bản chất bất lương, đen tối như Đảng cộng sản Việt Nam hôm nay đương nhiên không thể dung hòa, thu nạp được những lương tâm và trí tuệ như nhà khoa học Chu Hảo và hàng ngàn hiền tài, trí thức chân chính mà đảng đã hãm hại, loại bỏ trong suốt quá trình lịch sử tồn tại của đảng.
Vai diễn chống tham nhũng của đảng trưởng và của Ủy ban Kiểm tra trung ương chỉ để ra uy với những đảng viên có chức có quyền, những tiềm năng tham nhũng và chỉ để mị dân. Còn nỗi lo thực sự, nỗi lo mất ăn mất ngủ của ông đảng trưởng có học vị tiến sĩ bảo vệ đảng là ánh sáng tự do dân chủ, là sự thức tỉnh của người dân về quyền con người, quyền công dân đã bị Đảng cộng sản cướp đoạt. Tham nhũng làm cho Đảng cộng sản cầm quyền lo sợ một thì ánh sáng chân lí, ánh sáng lẽ phải, ánh sáng dân chủ, tự do, dân trí được khai sáng, dân khí được đánh thức làm cho Đảng cộng sản và nhà nước cộng sản run sợ gấp trăm lần, ngàn lần. Như cú cáo sợ mặt trời. Như kẻ gian sợ công lí. Chống tham nhũng, Ủy ban Kiểm tra trung ương chỉ là một vai diễn nhưng chống ánh sáng của trí tuệ, ánh sáng của tự do dân chủ, của khai dân trí, chấn dân khí, Ủy ban Kiểm tra trung ương đã thực sự là một mũi xung kích, một đội "cải cách tư tưởng" trong trí thức như đội cải cách ruộng đất ở nông thôn miền Bắc Việt Nam giữa thế kỉ hai mươi.
2. Thiếu trí tuệ, tự trở thành nô lệ của ý thức hệ cộng sản
Thời nước mất dân nô lệ, dân hai mươi lăm triệu, những người cộng sản chỉ có vài ngàn là những thợ thuyền cùng khổ, những nông dân mù chữ và những học trò đang học dở năm đầu trung học. Nhờ quả cảm phất ngọn cờ yêu nước, ngọn cờ độc lập dân tộc, họ đã tập hợp được sức mạnh của người dân cả nước, mau lẹ cướp được chính quyền. Nhưng khi cướp được chính quyền rồi, những thợ thuyền cùng khổ, những nông dân mù chữ và những học trò chữ nghĩa dở dang liền phản bội lí tưởng độc lập của đất nước, phản bội lí tưởng tự do của hai mươi lăm triệu dân, phản bội Tổ quốc khi vất bỏ lá cờ độc lập dân tộc để giương lên lá cờ giai cấp vô sản, giương lên lá cờ xã hội chủ nghia. Khát vọng cháy bỏng độc lập dân tộc của hai mươi lăm triệu dân Việt đã bị vài ngàn người cộng sản đánh cắp và đánh tráo. Lí tưởng độc lập bị đánh tráo thành lí tưởng cộng sản. Dân tộc bị đánh tráo thành giai cấp. Độc lập dân tộc chỉ còn là phương tiện giúp những người cộng sản cướp chính quyền để họ thực hiện mục đích xã hội chủ nghĩa viển vông, mục đích cộng sản chủ nghĩa ảo ảnh của họ.
Những bộ não ù lì không tiếp nhận được tri thức loài người, không tiếp nhận được ánh sáng của tri thức và kiến thức, bằng cấp chỉ cho họ mớ lí luận chết khô, mớ giáo điều mòn cũ.
Ngày nay những người lãnh đạo cộng sản đều có học hàm, học vị rất cao. Quyền trong tay, họ muốn có bằng cấp nào đều được bằng cấp đó. Nhưng trí tuệ thực sự của họ thì vẫn tăm tối như thời "sáng ra bờ suối, tối vào hang", như thời cách mạng bầy đàn, như thời kháng chiến ở rừng. Như chiếc bình vôi lăn lóc ở gầm giường, những bộ não ù lì không tiếp nhận được tri thức loài người, không tiếp nhận được triết học ánh sáng, bằng cấp chỉ cho họ mớ lí luận chết khô, mớ giáo điều mòn cũ. Trí tuệ thấp kém, đầu óc cuồng tín giáo điều, họ đã đi từ sai lầm này đến sai lầm khác. Sai lầm sau nguy hại gấp nhiều lần sai lầm trước. Đi từ cướp nước, cướp đoạt lòng yêu nước của người dân đến bán nước. Đi từ lừa bịp người dân đến chống lại người dân, coi người dân như kẻ thù, như thế lực thù địch.
Từ sai lầm của đại hội đảng lần thứ hai, năm 1951 trong rừng sâu Việt Bắc, lấy tư tưởng Mao Trạch Đông, lấy đường đi, nước bước của đảng Trung Quốc làm tư tưởng, đường đi nước bước của đảng Việt Cộng, đến sai lầm ở Thành Đô trên đất Trung Quốc năm 1990, kí giao kèo cột số phận giống nòi Việt Nam vào số phận Trung Quốc là sự trượt dài trong tội bán nước, tội phản bội dân tộc Việt Nam.
Từ tội ác cải cách ruộng đất giữa thế kỉ hai mươi đẩy hơn chục triệu nông dân miền Bắc vào cuộc đấu tranh giai cấp man rợ, vào cuộc tự sát đạo lí, sự sát tính người và cuộc đấu tố, bắn giết đẫm máu, giết chết gần hai trăm ngàn nông dân ưu tú, phá tan nền văn minh làng xã cội nguồn sức mạnh Việt Nam, làm tha hóa, lưu manh hóa cả tầng lớp nông dân hiền lành chân chất. Đến tội ác sau tháng tư năm 1975 lùa gần triệu người Việt Nam yêu nước không chấp nhận ý thức hệ cộng sản vào những nhà tù trung cổ mang tên trại tập trung, đã phơi bầy bản chất nhà nước cộng sản độc tài, tước đoạt cả quyền yêu nước của người dân. Đó là sự trượt dài trong tội ác chống nhân dân, hủy diệt giống nòi của những người cộng sản Việt Nam.
Thiếu trí tuệ, tăm tối trong cuồng tín giáo điều, những người cộng sản cầm quyền đã dùng sức mạnh tổ chức và sức mạnh bạo lực nhà nước tước đoạt quyền con người, quyền công dân của người dân, thiết lập một nhà nước độc tài tàn bạo.
Phát động cuộc chiến tranh người Việt bắn giết người Việt núi xương sông máu để thâu tóm quyền lực, áp đặt ách thống trị cộng sản trên cả nước. Thực hiện chính sách ngu dân và chia rẽ dân tộc trong hận thù giai cấp để duy trì, củng cố quyền lực. Dìm đất nước vào những cuộc đấu tranh giai cấp đẫm máu, vào những cuộc đấu tố, truy bức triền miên.
Đấu tố người giầu của cải. Đấu tố người giầu tri thức. Đấu tố lẽ phải. Đấu tố lương tâm. Đấu tố ánh sáng. Đấu tố bằng bạo lực, bằng máu như trong Xô Viết Nghệ Tĩnh, năm 1930, như trong cải cách ruộng đất những năm năm mươi thế kì hai mươi. Đấu tố bằng khủng bố tinh thần, bằng đánh hội đồng trên truyền thông kết hợp với đày đọa bằng nhà tù và các chính sánh xã hội như vụ Nhân Văn Giai Phẩm những nâm năm mươi, vụ Xét lại chống đảng những năm sáu mươi thế kỉ hai mươi, như với người dân sử dụng quyền tự do ngôn luận bày tỏ chính kiến khác với luận điệu của nhà nước cộng sản những ngày này.
Thiếu trí tuệ trở thành nô lệ của những tín điều cộng sản mất tính người, giữa nền văn minh tin học, Đảng cộng sản cầm quyền đang duy trì một hình thái nô lệ hiện đại với dân tộc Việt Nam, nô lệ cộng sản.
Thiếu trí tuệ, tăm tối trong cuồng tín giáo điều, từ nô lệ ý thức hệ cộng sản chỉ có giai cấp, không có dân tộc đến bán nước chỉ còn là vấn đề thời gian. Và lịch sử Việt Nam đã phải ghi dấu mốc bán nước ô nhục của Đảng cộng sản Việt Nam, nỗi ô nhục lớn nhất trong lịch sử Việt Nam. Chỉ khi đã thất thế, không còn quyền lực, chỉ là một cá thể trên đường trốn chạy, Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống mới rước giặc về cướp nước.
Đảng cộng sản Việt Nam đương cầm quyền đã kéo cả bầy đàn chóp bu đứng đầu đảng sang tận đất giặc kí giao kèo bán nước ở Thành Đô 3/9/1990. Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống chỉ là những cá thể lẻ loi bán nước. Cả một đảng cầm quyền bán nước, nỗi ô nhục lớn đó chỉ đến thời cộng sản, thời giai cấp thống trị dân tộc mới có trong lịch sử Việt Nam.
Những dấu mốc ghi nhận Đảng cộng sản Việt Nam cướp nước và bán nước là :
- 9/1945, cướp được chính quyền.
- 10/1954, chiếm được nửa lãnh thổ, cướp dân quyền của dân cư ở phía Bắc Việt Nam.
- 4/1975, chiếm được cả lãnh thổ Việt Nam, cướp dân quyền của dân cư cả nước.
Chỉ 15 năm sau khi có được cả nước, Đảng cộng sản Việt Nam liền kí giao kèo Thành Đô 9/1990 bán nước.
3. Ủy ban Kiểm tra Trung ương của Đảng cộng sản và Tòa án dị giáo của Giáo hội
Trượt dài trong sai lầm về lí luận, thực chất là trí tuệ thấp kém và lí tưởng thẩm mĩ tồi tệ, méo mó, bệnh hoạn, Đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền đã dấn sâu vào con đường tội ác chống lại nhân dân, chống lại đất nước, chống lại dòng chảy tiến hóa của loài người, đưa dân tộc Việt Nam vào đêm tối độc tài trung cổ. Để áp đặt và duy trì được sự thống trị độc tài đầy tội ác với dân, Đảng cộng sản đã triệt để thực hiện chính sách ngu dân.
Giáo dục ngu dân. Học sinh và tuổi trẻ phải mất quá nhiều thời gian học thứ "khoa học" đã bị loài người văn minh vất vào sọt rác là chủ nghĩa xã hội "khoa học", càng học càng mụ mị, tăm tối rồi trở thành những tín đồ cuồng tín, ngu trung của một thứ tôn giáo của tội ác : tôn giáo Mác Lê.
Tín đồ cấp thấp trở thành công cụ bạo lực của nhà nước cộng sản như những công an còn đảng còn mình xông vào đoàn dân biểu tình chống Trung Quốc xâm lược, đánh hộc máu phụ nữ, đánh chấn thương sọ não thanh niên. Như những dư luận viên mặc áo màu máu, màu cờ đảng, xông vào phá buổi lễ linh thiêng người dân Hà Nội, người dân Sài Gòn tưởng niệm chiến sĩ và đồng bào đã hi sinh trong cuộc chiến giữ đất biên giới phía Bắc năm 1979, giữ quần đảo Hoàng Sa năm 1974, giữ đảo Gac Ma năm 1988. Như những hội viên hội Cờ Đỏ ở Nghệ An xông vào nhà giáo dân đã tham gia biểu tình phản đối Formosa đầu độc biển Việt Nam, đập phá tài sản của dân, xông vào nhà thờ đập phá tượng Chúa. Tín đồ cấp cao thì thành công cụ tư tưởng, thành những giáo sĩ đi rao giảng, truyền đạo Mác Lê, thành những Sơn Đông mãi võ đi bán dạo món thuốc cao đơn hoàn tán gia truyền chủ nghĩa xã hội khoa học và thành những ông từ coi giữ ngôi đền lịch sử đảng như giáo sĩ Hoàng Chí Bảo, giáo sĩ Nguyễn Trọng Phúc, những chiếc bình vôi cóc cáy, lăn lóc ở hội đồng Lí luận trung ương, ở viện Lịch sử đảng.
Các tôn giáo chân chính đều gieo mầm yêu thương, hướng con người tới yêu thương, bao dung, vị tha, kiến tạo một thế giới hòa bình, trước hết là sự bình an, thư thái ở trong tâm hồn. Chỉ có yêu thương tính nhân đạo, giá trị nhân văn trong mỗi con người mới được nhân lên. Chỉ có hòa bình, trí tuệ con người, sức sáng tạo của con người mới được khai thác, phát huy cao nhất. Coi đấu tranh giai cấp là động lực phát triển xã hội, tôn giáo Mác Lê nuôi dưỡng, kích động hận thù giai cấp trong từng con người, biến con người thành những ác thú.
Coi hận thù là lập trường giai cấp, là phẩm chất cộng sản, các Đảng cộng sản đều chọn con đường cách mạng bạo lực đẫm máu để đi tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa ảo ảnh mà cả trăm năm sau cũng không biết có hay không. Chọn con đường cách mạng bạo lực, các Đảng cộng sản Mác xít Lê nin nít đều dìm đất nước mình, giống nòi của mình vào cuộc nội chiến thanh toán giai cấp đẫm máu và đều xuất khẩu cách mạng bạo lực, xuất khẩu súng đạn, dìm cả thế giới vào chiến tranh, đói nghèo, lạc hậu và tăm tối.
Truyên truyền ngu dân. Tuyên truyền lừa bịp, dối trá, bưng bít sự thật. Cả ngàn cơ quan truyền thông nhà nước cộng sản câm miệng hến, không có một dòng tin khách quan trung thực về những đợt sóng dân cả nước sôi sục biểu tình phản đối dự luật đặc khu, dự luật An Ninh Mạng. Nhưng nhiều tờ báo lớn, đài truyền hình quốc gia của đảng cầm quyền lại đăng bài, phát phóng sự tầm thường hóa lòng yêu nước của người dân khi vu khống người dân nhận tiền của nước ngoài đi biểu tình thuê cho các thế lực chính trị thù địch của Đảng cộng sản.
Luật pháp ngu dân. Nhà nước cộng sản xây dựng hàng loạt đạo luật ngu dân, tước đoạt quyền con người, quyền công dân của người dân. Điển hình của luật pháp ngu dân là điều 4 Hiến pháp và luật An Ninh Mạng.
Ngu dân, trói tay, bịt mắt người dân để Đảng cộng sản tròng thêm vào cổ người dân Việt Nam ách nô lệ Bắc thuộc. Từ 1/4/1960, Liên Hợp Quốc đã ra nghị quyết 1514, đòi hỏi các nước có thuộc địa phải trả độc lập cho thuộc địa. Ngược dòng tiến hóa của loài người, ba mươi năm sau nghị quyết 1514 của Liên hợp Quốc, ngày 3/9/1990 ở Thành Đô trên đất Trung Quốc, nhóm lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền đã kí giao kèo với nhóm lãnh đạo đảng Trung Quốc đưa giống nòi Việt Nam vào thân phận thuộc địa kiểu mới của Trung Quốc.
Trong đêm tối của hai lần nô lệ, nô lệ cộng sản và nô lệ Bắc thuộc, trong thể chế độc tài cai trị bằng lừa dối, bạo lực và ngu dân mà lại có một tâm hồn thơm thảo với dân với nước, một trí sáng tiếp nhận được triết học khai sáng và một khí phách "thà làm ma nước Nam, quyết không làm vương hầu cho phương Bắc" dám hiên ngang lập một nhà xuất bản và liên tiếp đưa vào đời sống văn hóa đất nước những cuốn sách kinh điển mang trí tuệ nhân loại, mang ánh sáng dân chủ, tự do, mang sứ mệnh khai dân trí, chấn dân khí, mang đòi hỏi của thời đại giải phóng sức sáng tạo của con người, thời đại đưa những con người bình thường trở thành những người khổng lồ Goliath.
Cũng như thời trung cổ Châu Âu dưới sự thống trị về tinh thần và tư tưởng của giáo hội Thiên Chúa, giáo lí nhà thờ dạy giáo dân niềm tin trái đất là trung tâm vũ trụ, mặt trời quay quanh trái đất thì nhà khoa học Galileo, chiên lành của Chúa người Italia nhưng với tư duy khoa học, với thiên tài sáng tạo ra ống kính thiên văn quan sát vũ trụ đã khẳng định ngược lại với nhà thờ rằng mặt trời là trung tâm của một vũ trụ nhỏ trong thiên hà và trái đất quay quanh mặt trời. Phát hiện ra chân lí khoa học trái với giáo lí nhà thờ, Galileo bị tòa án Giáo hội kết tội dị giáo, bị quản thúc tại nhà và sách công bố công trình khám phá khoa học của ông bị cấm xuất bản.
Nhà khoa học Chu Hảo, tín đồ cộng sản, giám đốc kiêm tổng biên tập nhà xuất bản Tri Thức đã tổ chức biên dịch và xuất bản những cuốn cách tinh hoa của tri thức nhân loại mang ánh sáng tự do, dân chủ thức tỉnh người dân nô lệ Việt Nam. Với tâm đẹp và trí sáng đó, nhà khoa học Chu Hảo và là tín đồ cộng sản đã bị Ủy ban Kiểm tra trung ương đảng của ông nghị tội là suy thoái tư tưởng. Nhà khoa học Chu Hảo suy thoái tư tưởng cũng như nhà thiên văn học Galileo dị giáo vậy. Thiếu trí tuệ, Đảng cộng sản Việt Nam ở thế kỉ 21 của văn minh tin học mà vẫn như giáo hội La Mã thế kỉ 17 thời trung cổ và ủy ban Kiểm tra trung ương ra uy luận tội Chu Hảo cũng chỉ là tòa án dị giáo của Giáo hội mang thần quyền ra phán xét Galileo mà thôi.
Nhờ phát hiện khoa học vĩ đại của Galileo, khám phá ra bản thể của vũ trụ, của trái đất nơi con người sinh sống mà loài người đã tiến một bước dài từ bóng tối thần quyền, bóng tối trung cổ ra ánh sáng khoa học để bước vào thời công nghiệp với liên tiếp những cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật mà cuộc cách mạng mới nhất, kì diệu nhất là cuộc cách mạng tin học, đưa con người vào nền văn minh tin học, mỗi con người bình thường đều có sức mạnh và phép màu thần thánh. Những cuốn sách của nhà xuất bản Tri Thức do nhà khoa học Chu Hảo chủ trương xuất bản như : Triết Học Của Tự Do, Dân Chủ Và Giáo Dục, Khảo Luận Thứ Hai Về Chính Quyền, Đường Về Nô Lệ, Nền Dân Trị Mỹ... đã thức tỉnh người dân nô lệ Việt Nam về quyền con người, quyền sống, quyền làm chủ đất nước, làm chủ xã hội và trách nhiệm công dân của mình. Sự thức tỉnh đó chính là khai dân trí, chấn dân khí, trả lại cho người dân sức mạnh làm nên lịch sử, sức mạnh để giành lại quyền làm chủ vận mệnh đất nước.
4. Lịch sử Đảng cộng sản là lịch sử loại bỏ tinh hoa, tiêu diệt trí tuệ, nô lệ hóa trí thức văn nghệ sĩ thành những trí nô và văn nô
Thời phong kiến, kinh tế Việt Nam hoàn toàn là kinh tế nông nghiệp. Công và thương chỉ có vài phường dệt vải với những khung cửi thủ công. Ở những vùng có núi đá vôi, lác đác vài lò vôi gia đình, nung đá lấy vôi xây nhà. Buôn bán là những gánh hàng xén, vài con thuyền nan chở nông sản của đồng bằng, chở lâm sản của miền núi, chở cá, mắm của miền biển đến phiên chợ quê, đến chốn kẻ chợ. 99% dân số sống bẳng nghề nông và nông nghiệp nuôi sống cả nước. Nông nghiệp ở vị trí hàng đầu trong đời sống kinh tế của xã hội phong kiến nhưng bảng giá trị xã hội lúc đó vẫn đưa kẻ sĩ, đưa trí thức lên cao nhất : Sĩ – Nông – Công – Thương.
Bảng giá trị này bất di bất dịch trong hàng ngàn năm. Mấy ông đồ, mấy thầy giáo làng, vì có chữ cũng được dân hết mực trọng vọng, tôn kính. Dẫn con đến nhà thầy xin học, người dân nói với thầy : Cháu xin đến ăn mày chữ thầy để cháu thành người. Phải có chữ, có trí tuệ mới thành người. Bảng giá trị của xã hội nào trước cộng sản cũng đưa kẻ sĩ lên cao nhất. Chỉ đến thời cộng sản, bảng giá trị này mới bị đảo lộn thành : Công – Nông – Binh – Trí. Trí tuệ đứng sau cùng, đứng sau cả khẩu súng của người lính công cụ bạo lực. Còn thương nghiệp bị coi là kinh tế tư bản, chỉ chạy theo lợi nhuận, bị xóa sổ, loại khỏi đời sống xã hội !
Đảng cộng sản Đông Dương ra đời tháng 2 năm 1930. Chỉ bảy tháng sau, tháng chín, năm 1930 những người cộng sản đã làm cuộc bạo loạn Xô Viết Nghệ Tĩnh đẫm máu để xóa sổ bảng giá trị Sĩ – Nông – Công – Thương khi những người cộng sản kích động, tập hợp những người nông dân, tay cầm gậy gộc giáo mác, miệng gào thét : Trí, phú, địa, hào đào tận gốc, trốc tận rễ, tràn vào huyện đường, tỉnh đường, tràn vào nhà giầu, xông cả vào nhà thầy giáo, đập phá tài sản, lùng bắt trí, phú, địa, hào lôi ra giết. Quân bạo loạn kéo đến huyện đường Nghi Lộc, Nghệ An. Trong huyện đường có một đội lính lệ hơn ba mươi quân bảo vệ an ninh trong huyện nhưng tri huyện Tôn Thất Hoàn không đưa quân ra đối đầu với những người nổi dậy sẽ gây đổ máu. Ông cùng một viên lục sự tay không ra gặp những người nông dân. Quan huyện Nghi Lộc Tôn Thất Hoàn cùng viên lục sự liền bị những mũi giáo, những lưỡi mác của lòng hận thù mù quáng phanh thây, chặt đầu.
Trong cách mạng tháng tám năm 1945 nhiều trí thức hàng đầu của đất nước như Phạm Quỳnh đã bị những người sôi sục hận thù giai cấp, một phẩm chất cộng sản hàng đầu, thủ tiêu vô cùng hèn hạ. Gần hai trăm ngàn người dân miền Bắc Việt Nam bị xử bắn trong cải cách ruộng đất giữa thế kỉ hai mươi, phần lớn là những người ưu tú nhất, tài năng nhất trong sản xuất kinh doanh, làm ra của cải cho xã hội. Nhiều người đã có những đóng góp vô cùng to lớn, đóng góp sức người, đóng góp xương máu, đóng góp tiền bạc và tài sản cho cuộc kháng chiến chống Pháp của Đảng cộng sản như bà Nguyễn Thị Năm đã bị xử bắn ngay khi mở đầu cuộc cải cách ruộng đất, cuộc nhảy múa của bóng đêm, của ác quỉ.
Những người bị nạn trong những vụ án ngụy tạo, vụ Xét lại chống đảng, vụ Nhân Văn – Giai Phẩm đều là những nhân cách kẻ sĩ, những đảng viên trung thực hiếm hoi của Đảng cộng sản như Vũ Đình Huỳnh, Hoàng Minh Chính, Đặng Kim Giang, Nguyễn Văn Vịnh... Đều là những trí thức lớn không phải chỉ của Việt Nam mà còn của cả loài người như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường. Là những nghệ sĩ tài năng, những tinh hoa quí hiếm của nền Văn hiến Việt Nam như Trương Tửu, Đặng Đình Hưng, Hoàng Cầm, Trần Dần, Văn Cao,...
Hung thần Sáu Búa Lê Đức Thọ ngụy tạo ra vụ án Xét lại chống đảng. Nhà cách mạng chuyên nghiệp Trường Chinh cùng nhà thơ tên Lành mà lòng dạ độc ác cộng sản dàn dựng ra vụ Nhân Văn – Giai Phẩm đều là những lãnh đạo hàng đầu của Đảng cộng sản. Tội ác của họ không phải chỉ loại bỏ, đày đọa hàng trăm trí thức uyên bác, văn nghệ sĩ có tài đến chết rũ xương trong tù, đến thân tàn ma dại trong đời mà còn giết chết tư duy sáng tạo của cả đội ngũ những người có mặt trong cuộc đời chỉ với sứ mệnh duy nhất là sáng tạo. Đảng cộng sản đã biến những người có sứ mệnh sáng tạo chỉ còn là những trí nô, văn nô, những thư lại nịnh thần, vô liêm sỉ.
Hơn 100 hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam ở Sài Gòn mỗi kì ra Hà Nội họp đại hội đều được thành ủy miền đất Bến Nghé giầu có cho tiền vé máy bay đi về, lại cho mỗi nhà văn thêm một triệu tiền tiêu vặt. Trước khi các nhà văn bay ra Hà Nội, thành ủy gặp gỡ, chúc tụng và đãi bữa tiệc tiễn lên đường lai kinh. Trong lần phó bí thư thành ủy Nguyễn Văn Đua gặp gỡ, tiễn các nhà văn ra Hà Nội dự đại hội Nhà Văn Việt Nam lần thứ 8, năm 2010, một ông nhà văn già, nhỏ thó, hom hem và nhợt nhạt như một mẩu củi mục, vốn là giáo sư dạy văn ở trường Đại học Sư phạm, cũng là người lớn tuổi nhất trong cuộc gặp, đứng lên giọng run run xúc động :
"Sự lãnh đạo của đảng chính là sự định hướng của thành ủy. Chúng tôi rất cần có sự định hướng kịp thời, đúng lúc của đảng. Mong thành ủy dành thời gian để mỗi năm cho chúng tôi được gặp thành ủy đôi lần, lắng nghe thành ủy" !
Nhà văn đích thực là văn hóa, là kẻ sĩ. Kẻ sĩ là tâm hồn và khí phách của một dân tộc. Khí phách nhà văn Việt Nam sau trận đòn Nhân Văn – Giai Phẩm là như vậy đó, năn nỉ xin được gặp đảng để được đảng dạy bảo. Sau kì đại hội Nhà Văn Việt Nam lần đó, tôi đã từ bỏ mọi sinh hoạt, mọi tiếp xúc với hội nhà văn nài nỉ xin sự dạy bảo của Đảng cộng sản.
Độc quyền lòng yêu nước của người dân. Độc quyền cả chân lí của cuộc sống, Đảng cộng sản tự coi nghị quyết xơ cứng, giáo điều của đảng là tuyệt đối đúng. Coi cuộc sống phong phú, sinh động diễn ra không đúng với nghị quyết xơ cứng của đảng là cuộc sống sai trái, vi phạm, tự diễn biến, tự chuyển hóa. Trong khi sự sống là tự diễn biến, tự phát triển không ngừng. Chỉ những vật trưng bày trong viện bảo tàng không còn sự sống mới không tự diễn biến. Hiền tài và trí tuệ hiếm hoi của đảng không chịu bó mình trong nghị quyết xơ cứng cũng bị đảng trừng trị. Bảy mươi ba năm cầm quyền, ngoài những chiến dịch rầm rộ đấu tố, hãm hại, loại bỏ hàng loạt trí tuệ, tài năng của đất nước như vụ Xét Lại, vụ Nhân Văn còn có hai lần Đảng cộng sản ra tay trừng trị, loại bỏ hiền tài của đảng muốn cứu đảng ra khỏi sai lầm về kinh tế, muốn cứu đảng ra khỏi tăm tối về tư tưởng triết học. Hai lần cách nhau 52 năm, năm 1966 và năm 2018 nhưng sự loại bỏ hiền tài thì vẫn độc đoán và hèn hạ như nhau.
Cung cách làm ăn tập thể, làm ăn bầy đàn của hợp tác xã nông nghiệp đã giết chết sự cần cù, sáng tạo, những phẩm chất quí báu nhất làm ra hạt lúa của người nông dân. Thâu tóm tư liệu sản xuất của nông dân, hợp tác xã nông nghiệp biến người nông dân từ người chủ đồng ruộng, thức khuya dậy sớm, một nắng hai sương với cây lúa thành những viên chức hành chính làm thuê cho hợp tác xã, ngày hai buổi nghe tiếng kẻng cắp nón ra đồng nhởn nhơ đợi tiếng kẻng báo hết giờ làm việc lại cắp nón về. Mặc cây lúa loi thoi, xơ xác giữa đám cỏ xanh tốt bời bời. Cung cách làm ăn đó cũng giết chết luôn cả nền nông nghiệp miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Nạn đói khủng khiếp của năm 1945 đã thập thò ló mặt trên khắp nông thôn miền Bắc. Năm đó 1966, cuộc chiến tranh mà Đảng cộng sản phát động ở miền Nam đang tới đỉnh điểm, quyết định thắng thua. Nạn đói xảy ra. Hậu phương rối loạn. Người lính ngoài mặt trận cũng không còn sức chiến đấu.
Đúng lúc đó, bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phú Kim Ngọc sáng tạo ra hình thức quản lí sản xuất nông nghiệp mới : Khoán hộ. Giao ruộng và khoán sản phẩm cho từng hộ nông dân. Nhà nước vẫn quản lí được con người, tư liệu sản xuất và sản phẩm nông nghiệp mà sức sản xuất được giải phóng. Người nông dân lại được làm chủ mảnh ruộng nuôi sống mình, lại thức khuya dậy sớm, lại một nắng hai sương, vắt mồ hôi, dồn tình cảm, chắt chiu sự cần cù và trí sáng tạo vào mảnh ruộng khoán. Cả tỉnh Vĩnh Phú năng suất lúa tăng vọt. Nhà nhà ấm no. Không cần đôn đốc, người dân vui sướng, mau lẹ nộp đủ thóc nghĩa vụ. Cung cách làm ăn mới mang lại sức sống cho cây lúa Vĩnh Phú làm nhiều nơi khác trên miền Bắc như Hải Phòng cũng học theo và cánh đồng lúa Hải Phòng đã bội thu.
Nhưng giao ruộng cho người nông dân là giao tư liệu sản xuất cho tư nhân, là trái với học thuyết Mác, trái với chủ nghĩa xã hội, trái với nghị quyết của đảng. Những cái đầu giáo điều đứng đầu Đảng cộng sản coi chủ nghĩa Mác phản tự nhiên, phản con người còn quan trọng hơn, cần thiết hơn sự ấm no của người dân và sự giầu mạnh của đất nước. Với lí luận Mác Lê nin sắt máu, với lập trường giai cấp rạch ròi, nhà cách mạng chuyên nghiệp Trường Chinh đã đánh tan tác đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Nay nhà cách mạng chuyên nghiệp Trường Chinh lẫm liệt trong giáp sắt lí luận Mác Lê, tay cầm lá cờ lệnh đó chói đấu tranh giai cấp lại xuất trận chặn đứng khoán hộ ở Vĩnh Phú. Bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phú Kim Ngọc phải làm kiểm điểm và tự nhận "có sai lầm nghiêm trọng trong khoán hộ". Đồng đất Vĩnh Phú lại thuộc sở hữu của hợp tác xã. Cây lúa Vĩnh Phú lại xác xơ cùng cây lúa cả miền Bắc. Người dân Vĩnh Phú lại đói deo đói dắt cùng người dân cả miền Bắc.
Mãi đến năm 1988, khi Đảng cộng sản phải chấp nhận kinh tế thị trường, chấp nhận kinh tế tư nhân để cứu vãn nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ thảm hại, khoán hộ trong nông nghiệp của bí thư tỉnh ủy Kim Ngọc mới lại được thực hiện ở hình thức triệt để hơn trên cả nước. Từ cảnh phải nhập hạt bo bo, thứ hạt nuôi heo ở xứ người về nuôi dân Việt Nam, khi người nông dân lại được làm chủ mảnh ruộng của mình, Việt Nam lập tức trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới. Nhưng khi đó hiền tài Kim Ngọc đã chết trong đau buồn 18 năm rồi !
Chủ thể của nông nghiệp là người nông dân. Người nông dân phải được làm chủ mảnh ruộng của mình, nông nghiệp mới khấm khá. Chủ thể của đất nước Việt Nam là người dân Việt Nam. Người dân phải làm chủ đất nước của mình, đất nước mới giầu mạnh. Độc quyền chính trị, coi đất nước là của riêng đảng, coi dân chỉ là bầy nô lệ, giáo điều và sắt máu, Đảng cộng sản đang đưa đất nước đến những thảm họa như thảm họa nông nghiệp thời hợp tác xã lụn bại 1966.
Trên con đường chạy đua kinh tế, Việt Nam đang bị các nước bỏ lại phía sau ngày càng xa. Đất nước đang ngày càng tan hoang bởi sự xâu xé, vơ vét, tàn phá của các nhóm lợi ích được sự thao túng của Đảng cộng sản. Khi Đảng cộng sản đã đặt đảng lên trên đất nước, đặt lợi ích của đảng lên trên lợi ích dân tộc, coi sự sống còn của đảng còn cần thiết hơn sự sống còn của giống nòi thì đảng đã trở thành nhóm lợi ích lớn nhất, nguy hại nhất, mờ ám nhất, quyền uy nhất nên cũng khốn nạn nhất : Nhóm lợi ích làm ra pháp luật, đứng trên pháp luật vơ vét của cải, tài nguyên của nước, mồ hôi, xương máu của dân cho một nhóm người nhân danh đảng. Đất nước đang ngày càng chìm sâu vào đêm tối của bất công, bạo lực và tham nhũng. Người dân ngày càng bị áp bức về tinh thần, bóc lột về vật chất và thân phận nô lệ ngày càng bị trói chặt bởi chằng chịt những bộ luật tước đoạt quyền con người, quyền công dân của người dân mà bộ luật cướp đoạt man rợ nhất quyền con người của người dân là luật An Ninh Mạng.
Như bí thư tỉnh ủy Kim Ngọc nhận ra làng quê Vĩnh Phú của ông xác xơ nghèo đói là do người nông dân không được làm chủ mảnh ruộng của mình. Trái tim con người Chu Hảo cũng đau thắt khi con mắt nhà khoa học Chu Hảo nhận ra đất nước Việt Nam thân yêu đang tan hoang, đang bị xâm lăng đe dọa, người dân Việt Nam đang chịu bao cay đắng cơ cực, bất công vì người dân không được làm chủ đất nước.
Lập nhà xuất bản Tri Thức, xuất bản những cuốn sách mang ánh sáng dân chủ, dân quyền, nhà khoa học Chu Hảo không phải chỉ nhằm thức tỉnh người dân về quyền con người, về trách nhiệm công dân trước vận mệnh, thịnh suy của nước. Là đảng viên cộng sản, nhà khoa học Chu Hảo chủ trương cho Tri Thức xuất bản tủ sách Tinh Hoa còn hướng tới đảng của ông về trách nhiệm lịch sử với dân với nước. Muốn đi tới nền văn minh công nghiệp, nước nào cũng phải đón nhận triết học khai sáng, giải phóng cá nhân, nhìn nhận quyền con người, quyền công dân của người dân, trả lại quyền làm chủ đất nước cho người dân. Triết học ánh sáng ở Châu Âu thời phục hưng thế kỉ 17, giải phóng con người, tách cá nhân khỏi bầy đàn dẫn đến cách mạng tư sản dân quyền thế kỉ 18, long trọng khẳng định quyền con người, quyền công dân, quyền tư hữu tài sản, đưa Châu Âu vào thời công nghiệp phát triển rực rỡ suốt mấy trăm năm cho đến tận hôm nay.
Đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền đang làm điều ngược lại. Đầu thế kỉ 20, nước mất, dân nô lệ nhưng Tự Lực Văn Đoàn và Thơ mới đã ghi nhận một dấu mốc lịch sử : cái Tôi cá nhân không còn lẫn trong đám đông. Cái Tôi cá nhân đã tách ra khỏi bầy đàn, đã có mặt trong cuộc đời và được xã hội nhìn nhận. Một thế kỉ sau, đầu thế kỉ 21, nước độc lập nhưng trong nhà nước cộng sản độc tài với những điều 109, điều 116, điều 331 của bộ luật hình sự và luật An Ninh Mạng, cái Tôi cá nhân đã bị xóa bỏ ! Không có cái Tôi cá nhân, cũng không có quyền con người, không có quyền công dân, không có quyền tư hữu. Đó là bước thụt lùi thảm hại, đau đớn, nhục nhã của dân tộc, của lịch sử Việt Nam và Đảng cộng sản Việt Nam phải chịu trách nhiệm.
Xuất bản tủ sách Tinh Hoa, nhà khoa học là đảng viên cộng sản Chu Hảo trước hết đã mang triết học khai sáng đến giúp những người lãnh đạo đảng của ông nhận ra ánh sáng tư tưởng mà dân tộc nào, đất nước nào muốn đi tới văn minh công nghiệp đều phải tiếp nhận. Xuất bản tủ sách Tinh Hoa, nhà khoa học Chu Hảo đã mang ánh sáng văn minh nhân loại cứu đảng của ông đang lạc lõng trong tăm tối triết học Mác Lê nin sai lầm và tội ác. Như hiền tài Kim Ngọc cứu đảng về kinh tế nông nghiệp thời hợp tác xã nông nghiệp lụn bại năm 1966.
Với "Khoán hộ", hiền tài Kim Ngọc đã cứu Đảng cộng sản về kinh tế nhưng Kim Ngọc đã bị đảng kiểm điểm. Phải nhận "có sai lầm nghiêm trọng trong khoán hộ" với đảng và xin rút khỏi chức bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú nhưng với những người thân cận chí cốt bên ông, người cộng sản hiếm hoi thực sự vì dân Kim Ngọc vẫn tha thiết nhắc nhở : Phải để nông dân làm chủ mảnh đất của mình. Không thể bỏ khoán hộ. Bỏ khoán hộ là đói. Phải tìm mọi cách duy trì dưới mọi hình thức khác nhau. Nhà khoa học Chu Hảo xuất bản tủ sách Tinh Hoa đã cứu đảng của ông về tư tưởng. Nhưng ủy ban Kiểm tra trung ương đảng đã luận tội và đề nghị cấp có thẩm quyền kỉ luật ông. Không thể để những rô bốt không tim, không óc xúc phạm danh dự con người, nhà khoa học Chu Hảo tuyên bố từ bỏ Đảng cộng sản. Hai tuần sau khi nhà khoa học Chu Hảo đã ra khỏi đảng, Đảng cộng sản vẫn cố làm việc hèn hạ là khai trừ ông và dùng truyền thông, dùng những rô bốt.đấu tố ông.
Từ nửa sau thế kỉ 20, loài người đang liên tiếp tiến những bước thần kì trong những cuộc cách mạng của trí tuệ. Bắt bí thư tỉnh ủy Kim Ngọc phải nhận "sai lầm nghiêm trọng trong khoán hộ" cũng như kỉ luật khai trừ đảng nhà khoa học Chu Hảo vì xuất bản những cuốn sách mang trí tuệ khai sáng, Đảng cộng sản đang dấn sâu vào tội ác với nhân dân, với lịch sử Việt Nam, tội ác chống lại văn minh nhân loại.
Bền bỉ và quyết liệt loại bỏ hiền tài và trí tuệ trong đảng, Đảng cộng sản đang tự diệt vong trước khi bị nhân dân và thời đại ném vào sọt rác lịch sử.
Phạm Đình Trọng
(23/11/2018)
Nhà thơ gieo những vần thơ năm từ mang âm hưởng ví dặm dân gian phường vải Nghệ Tĩnh Thái Bá Tân có một ý tưởng bất ngờ, độc đáo và rất hay là mảnh đất dành xây nhà hát giao hưởng ở Thủ Thiêm thôi đừng xây nhà hát nữa rồi lại phải tốn tiền mua chiếu đắp. Lại phải thuê người hàng ngày dọn cứt chó đến ỉa. Lại tạo ra những góc hoang vắng cho đám con nghiện tụ tập phê thuốc, tạo thêm tệ nạn xã hội.
Nhà tù Thủ Thiêm sẽ có hai khu : Khu Bóng Tối giam những quan tham của nhà nước cộng sản và khu Ánh Sáng giam những trí tuệ và khí phách Việt Nam - Ảnh minh họa
Giai điệu khúc sonata Ánh Trăng của Beethoven chỉ có thể thánh thót vang lên trong tâm hồn những con người đã được giải thoát khỏi những ức chế, những vướng bận bởi đói nghèo, áp bức, bất công của cường quyền, con người chỉ còn khao khát hướng tới cái đẹp, cái cao cả. Thủ Thiêm, Sài Gòn, cũng như Văn Giang, Hưng Yên, Dương Nội và Đồng Tâm, Hà Nội và khắp nơi trên đất nước Việt Nam thân yêu trong thể chế cộng sản đang là mảnh đất của áp bức, bất công, của bạo lực cường quyền, của cay đắng đói nghèo, ăn bữa sáng lo bữa tối.
Xây dựng nhà hát giao hưởng ở Thủ Thiêm, Sài Gòn, ở Dương Nội, Hà Nội là sự giễu cợt với những số phận thua thiệt, hẩm hiu, bị bạo quyền cướp nhà, cướp đất, cướp cuộc sống bình yên. Xây dựng nhà hát giao hưởng ở Thủ Thiêm , Sài Gòn, ở Dương Nội, Hà Nội là sức mạnh đồng tiền và sức mạnh chính quyền ngạo ngược thách thức người dân Thủ Thiêm, người dân Dương Nội. Xây dựng nhà hát giao hưởng ở Thủ Thiêm Sài Gòn, ở Dương Nội Hà Nội là xây dựng trên sự bất lương, vô cảm, trên sự chiến thắng của cái ác sẽ bị tất cả những người lương thiện, tất cả những tâm hồn muốn hướng tới cái đẹp, cái cao cả tẩy chay và nhà hát sẽ chìm trong đìu hiu, hoang tàn.
Chỉ có chút an ủi cho người dân mất nhà mất đất ở Thủ Thiêm là xây nhà tù thật bự trên mảnh đất nhà hát giao hưởng viển vông kia để giam những quan tham chà đạp lên pháp luật, dối Trời lừa dân, cướp cuộc sống bình yên của người dân, đẩy người dân vào khốn cùng.
Nhà tù Thủ Thiêm sẽ có hai khu : Khu Bóng Tối giam những quan tham của nhà nước cộng sản và khu Ánh Sáng giam những trí tuệ và khí phách Việt Nam như Trần Huỳnh Duy Thức, Trần Thúy Nga, Trần Anh Kim, Lê Thanh Tùng, Nguyễn Văn Hóa, Lê Đình Lượng, Lưu Văn Vịnh, Nguyễn Quốc Hoàn, Nguyễn Văn Đức Độ, Từ Công Nghĩa, Phan Trung…, những người dấn thân vào cuộc đấu tranh cho đất nước Việt Nam dân chủ, tư cường và hùng mạnh bị nhà nước cộng sản Việt Nam kết án tù.
Có nhà tù Thủ Thiêm, những người tù bất khuất Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Luật sư Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Thu Hà, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải… sẽ không còn bị dẫn từ nhà tù lên thẳng máy bay buộc ra định cư nước ngoài.
Vài ngày nữa luật An ninh mạng có hiệu lực. Rồi sẽ còn nhiều luật an ninh nữa. Luật An ninh đảng cộng sản. Luật An ninh quan chức nhà nước cộng sản . . . sẽ tạo ra dòng người tù cuồn cuộn và bất tận dồn đến nhà tù Thủ Thiêm.
Cho đến khi vận nước thay đổi, người dân thoát khỏi thân phận nô lệ cộng sản, lại được làm chủ đất nước, người dân sẽ tống cổ những tên tội phạm với dân với nước vào nhà tù Thủ Thiêm. Những kẻ tước quyền dân, nô dịch dân, những kẻ dâng hồn thác Bản Giốc, dâng cổng nước ở Lạng Sơn, dâng điểm cao 1509, dâng Gạc Ma cho giặc phương Bắc phải vào sống cuộc đời người tù trong nhà tù Thủ Thiêm mà ngẫm cuộc đời hại dân phản nước.
Khoan đặt tên
Trời, Sài Gòn nghe nói
Định xây quảng trường to.
Loại khủng, lớn nhất nước,
Sẽ mang tên Bác Hồ.
Sẽ có nhà tưởng niệm,
Tượng người, tượng búa liềm.
Nhà sàn và ao cá...
Ở đâu? Lại Thủ Thiêm.
Đền bù cho dân đấy,
Giúp xóa đói, giảm nghèo.
Dân cứ đến mà ngắm,
Sẽ hết đói, hết nghèo.
Đảng đã quyết thì chịu.
Đố ai dám xen vào.
Người dân lại mất đất.
Ngẫm mà thương đồng bào.
Chỉ mong quảng trường ấy
Khoan khoan hẵng đặt tên.
Chờ năm mươi năm nữa,
Đỡ thay đổi, đỡ phiền.
Nhân tiện, thằng nhà hát,
Nên thôi, xây làm gì.
Xây một nhà tù khủng,
Hiện đại và tiện nghi.
Tạm thời giam bác Thức,
Mẹ Nấm và Mẹ Nga
Cùng nhiều tù nhân khác
Tạm gọi là "phe ta".
Sau, thời thế thay đổi,
Nó sẽ là nơi giam
Các quan lớn cộng sản
Và quan tham Việt Nam.
Là vì, các quan lớn,
Vĩ đại và quang vinh,
Thì nhà tù phải khủng
Cho tương xứng với mình.
Lúc ấy tôi chắc chắn
Thường xuyên đến Thủ Thiêm,
Ngắm nhà tù cho sướng.
Cả ngày và cả đêm.
Thái Bá Tân
Phạm Đình Trọng
1. Ngôi mộ nhỏ góc vườn quê của nhà vua hiển hách và nấm mồ đất giữa rừng vắng của vị tướng lẫm liệt
Ngô Quyền dựng cọc Bạch Đằng đánh tan quân Nam Hán năm 938 chấm dứt gần ngàn năm ách nô lệ phương Bắc đè lên thân phận người Việt, trói vào số phận nước Việt. Chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938 đã dựng lên nền độc lập bền vững cho nhà nước Nam Việt.
Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938
Ngô Quyền trị vì trên ngôi Vua tuy ngắn ngủi, chỉ có 6 năm nhưng nhà Ngô đã mở ra những triều đại huy hoàng Lý, Trần, Lê, Nguyễn, mỗi triều đại kéo dài hàng trăm năm. Từ đó, cương vực lãnh thổ nước Việt từ Châu Hoan, Châu Ái, từ lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Chu được mở rộng trải dài từ Hà Giang tới Hà Tiên, ra tận Phú Quốc, Thổ Chu về phía Nam và Hoàng Sa, Trường Sa về phía Đông. Vì vậy sử sách Việt Nam gọi Ngô Quyền là "Vua đứng đầu các vua" của người Việt.
Ngô Quyền có công với dân với nước Việt lớn như vậy, có vị trí vẻ vang trong trang sử Việt oanh liệt như vậy nhưng khi làm xong sứ mệnh lịch sử lớn lao, khi thanh thản từ giã cuộc đời, vị Vua đứng đầu các vua Việt Nam lại về yên nghỉ dưới nấm mồ bình dị trong mảnh vườn nhỏ của ông cha trên vùng đất trung du lúp xúp gò đồi xứ Đoài quê nhà. Không chiếm một mẩu đất sống của dân của nước, không xây lăng tẩm bề thế, không bia mộ tầng tầng lớp lớp.
Sau này dân làng Đường Lâm xứ Đoài quê vua mới góp công, góp của lâp đền thờ vị Vua đứng đầu các vua ngay trên nền ngôi nhà vua sinh ra. Ngôi đền nhỏ bé, khiêm nhường hơn rất nhiều so với những tòa nhà lầu của người nông dân bình thường hôm nay. Không tượng đồng bia đá, không lộng lẫy vàng son, vật quí giá nhất trong đền thờ Ngô Quyền là cọc nhọn Bạch Đằng đã đâm thủng thuyền giặc Nam Hán từ hơn ngàn năm trước, đã đâm gục nền Bắc thuộc kéo dài gần ngàn năm.
Lăng Ngô Quyền trong quần thể di tích Đền - Lăng Ngô Quyền tại xã Đường Lâm. Ảnh : VTK.
Phía trước đền, cách vài trăm mét trên sườn dốc gò đồi là ngôi mộ Vua Ngô Quyền, bé nhỏ, đơn sơ, dung dị như một ngôi miếu dân dã cũng do dân làng quê Vua lập. Đền thờ Vua liền kề ngõ xóm nhà dân. Mái ngói đền Vua còn thấp hơn mái bằng tòa nhà lầu của người nông dân trong xóm. Mộ Vua kế bên vườn rau, vạt ngô, ruộng lúa của dân. Diện tích cả đền và mộ vị Vua đứng đầu các vua của người Việt chỉ xấp xỉ một sào Bắc Bộ, ba trăm sáu mươi mét vuông. Ba trăm sáu mươi mét vuông của mái ngói nền nã màu đất trung du, của sân gạch Bát Tràng rêu phong, của đoạn đường lát đá ong vô cùng thân thuộc với đời sống hàng ngày của người dân. Ba trăm sáu mươi mét vuông của màu xanh cỏ cây hòa trong màu xanh mênh mang vô tận của làng quê Việt Nam. Không có gì khác biệt, không có gì ngăn cách với cảnh sắc, với không gian làng quê Việt Nam.
Không tốn một xu tiền thuế của dân cho việc trông coi đền nhưng suốt hơn ngàn năm qua hương khói không ngày nào tắt trong đền Vua, trước mộ Vua. Suốt hơn ngàn năm qua hồn thiêng Ngô Quyền, khí phách Ngô Quyền vẫn luôn hiện hữu giữa làng quê trung du yên ả.
Chấm dứt kiếp nô lệ cho dân, kết thúc ngàn năm Bắc thuộc cho nước, để lại cho nước trang sử vàng độc lập, lập lên triều đại phong kiến nhà Ngô rồi vua Ngô Quyền thanh thản trở về gửi xác trong mảnh vườn đồi bình dị quê nhà và gửi hồn trong màu xanh cỏ cây đất nước.
Không phải chỉ có một ông vua phong kiến Ngô Quyền biết kết thúc cuộc đời của bậc đế vương như một dân thường. Chỉ số chính xác nhất, rõ rệt nhất, ứng nghiệm nhất về sự thịnh suy của một triều đại chính là chỉ số về sự gần dân của bậc cai trị. Bậc cai trị nào cũng từ dân mà ra. Có chức quyền thì thành bậc cai trị nắm vận nước, lo phận dân. Khi sống chăm lo sức dân làm kế sâu rễ, bền gốc, dân giầu nước mạnh. Cuộc đời gần gũi thân thiết với từng số phận người dân. Khi chết, chức quyền giao lại cho người khác, lại về làm dân, kết thúc đời người lặng lẽ, bình dị như mọi người dân. Những bậc cai trị đó đã tạo ra những thời huy hoàng của đất nước, triều thịnh, nước mạnh, dân an vui.
Trong lịch sử Việt Nam từ thời Hùng Vương đến hôm nay chưa có vị tướng cầm quân nào có chiến công lừng lẫy như Trần Hưng Đạo. Đạo quân Nguyên Mông hùng mạnh đã chinh phạt, khuất phục cả dải lục địa từ Á sang Âu.
Suốt 30 năm 1258 – 1288, ba lần Nguyên Mông cất quân đông tướng tài tràn vào đánh Đại Viêt. Ba lần Trần Hưng Đạo thống lĩnh ba quân nhà Trần đánh giặc Nguyên Mông tan tác, giữ vững nền độc lập của Đại Việt. Vị tướng lẫm liệt, kiệt xuất để lại công lớn cho dân cho nước, viết lên trang sử Việt chói lọi như vậy, khi chết cũng chỉ có nấm mồ nhỏ âm thầm trong cánh rừng làng Vạn Kiếp, bên dòng sông Bạch Đằng lịch sử nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
Đền Trần Thương ở Hà Nam. Ảnh : Internet.
Ngược lại kẻ cai trị khi sống đã xa dân vời vợi bằng cuộc sống ăn tàn phá hại, cuộc sống giầu sang có được trên sự kiệt quệ của nước, trên sự khốn cùng của dân. Khi sống, bòn rút của nước, cướp bóc của dân. Cả cái chết vẫn còn làm hại nước khi chiếm đất sống của dân xây mả lớn, đền to ở một cõi riêng, tạo ra cả một không gian thần thánh cho cái chết của kẻ cai trị đầy tội ác với dân với nước.
2. Lăng mộ hoành tráng của ông Cò cảnh sát cộng sản
Cách hôm nay hơn ngàn năm, thời Ngô Quyền, xã hội Việt Nam còn là thời phong kiến sơ khai. Nhà nước cộng sản ngày nay thực chất cũng chỉ là nhà nước phong kiến, chỉ khác là : nhà nước cộng sản không những học đòi tất cả những cái xấu xa, tệ hại của nhà nước phong kiến mà cái tệ hại phong kiến còn được cô đặc, nâng lên rất cao. Còn những nề nếp tốt đẹp của phong kiến thì người cộng sản không thể học được. Tuy có học hàm học vị cao chót vót, giáo sư, tiến sĩ nhưng văn hóa thực sự chỉ là văn hóa bổ túc công nông, đại học chuyên tu, đại học tại chức, nền tảng văn hóa đó không thể thấy và không thể học những giá trị, những khuôn mẫu tốt đẹp của xã hội phong kiến, những người cộng sản cầm quyền mở miệng ra là lên án xã hội phong kiến thối nát, bất công, nguyền rủa giai cấp phong kiến tội lỗi và những người cộng sản luôn vỗ ngực tự nhận là đảng cộng sản của họ không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân.
Trả lời cho tuyên truyền lừa bịp cộng sản không có gì xác đáng, thuyết phục hơn là hiện thực cuộc sống. Từ cuộc đời hiển hách công trạng để lại cho dân cho nước và cõi trở về trong lòng dân của ông vua phong kiến Ngô Quyền, của vị tướng phong kiến Trần Hưng Đạo đối chiếu với cuộc đời mang nặng nợ máu với dân, cuộc đời chiếm đoạt quá nhiều của dân và cõi trở về ngàn trùng xa cách với dân của ông cộng sản vừa lìa đời, ông cò cảnh sát cộng sản Trần Đại Quang, để thấy sự giả dối ghê tởm của tuyên truyền cộng sản và bản chất phản dân hại nước của người cộng sản.
Nơi an táng ông Trần Đại Quang, được công an và quân đội canh gác suốt ngày đêm.
Chưa cần xét đến mức độ kệch cỡm về thẩm mĩ, sự vung phí nguồn lực của đất nước, sự lạc lõng với thời đại của lăng mộ lạnh toát màu đá và ngạo nghễ đúng thói kiêu ngạo cộng sản, sừng sững trên cả trăm ngàn mét vuông đất kim cương giữa kinh kì của ông Vua cộng sản số một Hồ Chí Minh. Chỉ riêng tiền bảo quản xác ướp ông Hồ mà dân gian gọi là ông Minh Râu và duy trì hoạt động của cả một Bộ tư lệnh lăng, mỗi tháng đã ngốn hàng trăm tỉ tiền thuế của dân. Chỉ lăng mộ của một ông cò cảnh sát cộng sản chiếm hơn sáu mươi ngàn mét vuông đất bờ xôi ruộng mật của người nông dân đồng bằng Bắc Bộ ngàn đời đói đất cũng thấy sự giả dối, nhẫn tâm và bất lương cộng sản.
Tuy có hai năm cuối đời ông cò cảnh sát leo lên đến tột đỉnh quyền lực, Chủ tịch nhà nước cộng sản, nhưng quãng đời hai năm ngắn ngủi đó ông Chủ tịch nhà nước cộng sản đã dành phần lớn thời gian cho những đợt nằm chữa bệnh trong bệnh viện và những chuyến đi tìm kiếm sự cứu rỗi nơi cửa Phật. Sáu lần nằm bệnh viện tận bên Nhật Bản, mỗi lần kéo dài cả tháng. Những lần vào điều trị bệnh viện trong nước còn nhiều hơn. Rồi thời gian tìm đến cửa Phật trong nước, ngoài nước. Đến tận thủ đô Phật giáo thế giới ở Gaya, bang Bihar, heo hút Tây Bắc Ấn Độ, nơi Đức Phật sống những ngày cuối cùng của kiếp người hữu hạn, nơi bắt đầu cuộc sống vĩnh hằng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Tìm đến để gục đầu vào bức tường đá ngôi đền Mahabodhi, nơi Phật đi vào bất tử, mong Đức Phật đoái thương. Vì vậy dù có hai năm danh nghĩa là Chủ tịch nhà nước cộng sản nhưng cuộc đời thật sự của ông cộng sản Trần Đại Quang là cuộc đời ông cò cảnh sát cộng sản. Và hơn sáu mươi ngàn mét vuông đất ruộng màu mỡ của dân cho năng suất lúa cao đã về tay ông từ thời ông còn làm cò cảnh sát.
Ngàn đời đói đất, với người nông dân đồng bằng Bắc Bộ đất là vàng ròng, được tính từng tấc, từng li chứ không thể hào phóng, xa xỉ tính bằng thước, bằng mét và câu cửa miệng của người dân mang nỗi đói đất truyền kiếp là : bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu. Không có đất cày cấy, bố ông cò cảnh sát cộng sản phải mưa nắng lặn sông, lội đầm đơm đó, đánh dậm kiếm con cua con cá, mẹ ông phải buôn thúng bán bưng, đòn gánh đè xuống vai, gánh vã nải chuối, thúng khoai, sản phẩm của đất quê đi chợ xa chợ gần. Vậy mà ngay từ khi còn sống, biết rõ nỗi nghèo khó vì thiếu đất sống của người dân Kim Sơn, Ninh Bình quê ông, ông cò cảnh sát cộng sản Trần Đại Quang cũng nỡ chiếm 6,2 hecta, sáu mươi hai ngàn mét vuông đất ruộng màu mỡ, đất sống của người nông dân đói đất quê ông làm đất chết cho ông, làm khu lăng mộ kì vĩ cho ông về với tổ tiên của ông.
Khu vực an táng cố Chủ tịch nước Trần Đại Quang chiếm 62.000 m2 đất ruộng màu mỡ, đất sống của người nông dân.
Thời nhà Nguyễn, dân số cả nước ta chỉ có mười triệu người. Đất rộng, người thưa, các vua nhà Nguyễn thời phong kiến xấu xa, tồi tệ nhưng khi xây lăng mộ cho Vua còn biết nghĩ đến dân, dành đất sống cho dân.
Ngày nay, nhà nước cộng sản Việt Nam đã cắt mười lăm ngàn cây số vuông đất biên giới phía Bắc, bằng diện tích tỉnh Thái Bình, dâng cho Trung Quốc. Rồi những vùng đất rộng lớn đã trở thành đất sang nhượng cho Trung Quốc như đất bô xít Tây Nguyên, đất Formosa Vũng Áng, Hà Tĩnh. Những vùng đất đã trở thành đất chết như đất phủ bùn đỏ ở Tân Rai, Lâm Đồng, đất bụi than Vĩnh Tân, Bình Thuận. Diện tích đất sống đang mất đi, đang co lại ngày càng lớn. Trong khi dân số cứ phình ra, đến nay dân số nước ta đã lên tới gần trăm triệu người. Dân số tăng gấp hơn chín lần so với thời triều Nguyễn. Đất sống của người dân vô cùng ít ỏi. Vậy mà một ông cộng sản từ khi chỉ là ông cò cảnh sát đã chiếm sáu mươi hai ngàn mét vuông đất màu của người nông dân đói đất quê ông làm lăng mộ cho mình.
Khu lăng mộ Vua Khải Định nhà Nguyễn trên núi giữa thiên nhiên hoang sơ cũng chỉ rộng 5.674 mét vuông. Lăng mộ của ông cò cảnh sát cộng sản Trần Đại Quang chiếm 62.000 mét vuông ruộng lúa của dân, rộng gấp 11 lần lăng Khải Định.
Thuê thầy địa lí vạch kênh tạo dòng chảy, tạo long mạch. Khoanh hồ hứng nước mưa tụ lộc trời. Chỉ riêng việc đào kênh, kè bờ, vét ao, trồng cây cổ thụ, tạo cảnh quan phong thủy cho khu lăng mộ và làm con đường nhựa thênh thang dẫn đến lăng của ông cò cảnh sát cộng sản đã phải đổ ra cả núi tiền, phải tính tới hàng trăm, hàng ngàn tỉ đồng. Nhìn núi tiền đổ ra dựng lên lăng mả ông cò cảnh sát cộng sản Trần Đại Quang lại phải nhớ đến lời khai của ông quan tham nhũng Dương Chí Dũng đã phải chi ra cả triệu đô la tìm kiếm sự che chở của những ông tướng cảnh sát điều tra vụ án Dương Chí Dũng. Lại phải nhớ đến tên tội phạm Phan Văn Anh Vũ núp danh nghĩa công an đã chiếm đoạt của nhà nước hàng ngàn tỉ đồng và bóng dáng tên tội phạm Anh Vũ luôn thấp thoáng, cặp kè phía sau ông cò cảnh sát Trần Đại Quang.
Hàng ngàn tỉ tiền đổ ra cho lăng mộ ông cò cảnh sát cộng sản trong khi người dân nghèo chỉ mắc bệnh thông thường, dễ chữa như lao phổi. Ngày nay được chữa kịp thời bệnh lao cũng chỉ như bệnh cảm cúm. Biết là bệnh lao nhưng không có tiền mua thuốc, không có tiền viện phí không dám vào bệnh viện. Đến lúc hấp hối đành đánh liều vào bệnh viện thì đã quá muộn vì lá phổi đã bị vi trùng lao khoét ruỗng rồi, không còn thuốc nào cứu được nữa. Chết rồi, không có tiền thuê ô tô đưa xác người chết từ bệnh viện về nhà, người thân đành bó xác chết trong mảnh chiếu rách, buộc xác chết sau xe máy. Manh chiếu hẹp, hai chân xác chết người nghèo thòi ra ngoài chiếu cứ lắt lẻo trên suốt chặng đường dài như đôi chân đó đang cuống cuồng chạy trốn số phận người dân đen trong nhà nước cộng sản.
Nhà nước cộng sản mua sự trung thành của khẩu súng, của sức mạnh bạo lực bằng ân sủng, bằng biệt đãi, bằng lon tướng ban phát tràn lan cho công an. Thời lạm phát tướng công an thì ông tướng Trần Đại Quang cũng chỉ sàn sàn cá mè một lứa giữa hàng trăm ông tướng công an khác. Vụ nhà nước Dega nổ ra, người dân Ê Đê, Ba Na, Gia Rai Tây Nguyên nổi dậy đòi quyền sống, đòi quyền làm chủ núi rừng ngàn đời của họ là dịp để ông tướng công an Trần Đại Quang lấy máu người dân Ê Đê, Ba Na ghi công với nhà nước cộng sản và bộc lộ lòng trung thành với đảng cộng sản của ông.
Cả cuộc đời làm cò cảnh sát, làm công cụ bạo lực của nhà nước chuyên chính vô sản, ông cò cảnh sát Trần Đại Quang đã có công rất lớn với nhà nước cộng sản trong việc duy trì nền độc tài cộng sản nhưng lại có tội rất lớn với dân, tước đoạt những giá trị làm người của người dân, trói buộc kìm hãm người dân trong tăm tối nô lệ cộng sản mà nô lệ cộng sản còn độc ác, man rợ hơn cả nô lệ Bắc thuộc và nô lệ Pháp thuộc. Máu dân và thân phận nô lệ của người dân đã đưa ông cò cảnh sát Trần Đại Quang lên tới chức bộ trưởng bộ Công an và lên tới hàm đại tướng.
Thời ông cò cảnh sát Trần Đại Quang là Bộ trưởng bộ Công an đã mở ra thời kiêu binh của công an. Công an lạm quyền. Bạo lực công an tràn lan. Hàng trăm người dân lương thiện bị công an đánh chết diễn ra khắp nơi, trên đường phố bình yên, giữa làng quê thanh bình, trong trụ sở công an, trong trại tạm giam. Dân oan bị quan tham cướp đất biểu tình ôn hòa đòi đất, người dân yêu nước biểu tình hợp pháp phản đối giặc Trung Quốc xâm lược biển đảo đều bị công an vu cho người biểu tình tội gây rối trật tự công cộng, bị đàn áp dã man, bị bắt giam phi pháp. Phụ nữ bị đánh chan hòa máu mặt ngay trên đường phố. Đàn ông bị đánh chấn thương sọ não trong nhà giam.
Tồn tại bằng công cụ bạo lực nhà nước, nhà nước cộng sản dung túng bao che cho những tội ác tày trời mà đám quân của ông cò cảnh sát cộng sản Trần Đại Quang đã gây nợ máu với dân và những tội ác đó đã đưa ông cò cảnh sát Trần Đại Quang lên tới vị trí người đứng đầu nhà nước cộng sản. Tội ác của ông cò cảnh sát cộng sản Trần Đại Quang đã gây ra cho dân đã được nhà nước cộng sản dung túng bao che nhưng nhân dân dù bao dung vẫn đòi hỏi công bằng. Còn lịch sử luôn sòng phẳng và nghiêm khắc sẽ phán xét đảng cộng sản Việt Nam cùng những lãnh đạo hàng đầu của đảng trong đó có ông cò cảnh sát Trần Đại Quang tội chống lại nhân dân, chống lại dòng chảy tiến hóa của lịch sử, tội giam cầm, tù đày nhân dân trong nô lệ cộng sản.
Tượng đồng, tượng đá của Lê nin, ông trùm cộng sản thế giới đang bị giật đổ, đập nát ở khắp nơi trên những đất nước đã phải trải qua những năm dài tăm tối cộng sản. Ông cò cảnh sát Trần Đại Quang chồng chất nợ tự do, nợ máu với dân, một tội đồ của lịch sử Việt Nam thì lăng mộ hoành tráng của một tội ác như vậy sẽ tồn tại được bao lâu ?
3. Thần thánh hóa tội ác
Triều đại nào đến hồi suy vi cũng nảy nòi ra nhiều trò hại dân, hại nước. Chỉ đến triều nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng mới có lệ dồn của cải tài nguyên của nước, vắt mồ hôi nước mắt của dân xây lăng tẩm cho Vua. Dồn dập, hối hả xây lăng tẩm nhưng bảy lăng tẩm bề thế, trùng trùng lớp lớp đền đài của các vua nhà Nguyễn cũng không chiếm một tấc đất ruộng của dân. Không để dân mất đất sống, các vua nhà Nguyễn đều chọn những triền núi hoang, không có vườn ruộng của dân, xây lăng mộ.
Là lăng tẩm vua nhà Nguyễn nhưng không thấy nhà mồ, chỉ thấy những đền đài mang vẻ đẹp của kiến trúc Phật giáo Việt Nam, mang thẩm mĩ tinh tế và tài hoa sáng tạo của dân gian Việt Nam đã tạo ra công trình hài hòa cùng thiên nhiên Việt Nam. Mái ngói rêu phong cổ kính đền đài thấp thoáng trong màu xanh thiên nhiên, như là một phần tư nhiên của thiên nhiên vĩnh hằng. Không gian trầm tư của lăng tẩm sâu hút trong tiếng rì rầm bất tận của rừng cây. Vẻ đẹp kiến trúc lăng tẩm của các vua triều Nguyễn tô điểm thêm vẻ đẹp mĩ lệ, huyền ảo cho thiên nhiên đất nước đã trở thành công trình nghệ thuật của muôn đời, trở thành tài sản văn hóa của nhân dân. Đó là sự đền bù cho tài nguyên của nước, cho công sức của dân đã đổ ra để có lăng tẩm các vua nhà Nguyễn.
Thời cộng sản, lăng mộ Hồ Chí Minh, một nhà mồ đơn độc khổng lồ ngạo nghễ giữa không gian mênh mông kinh kì đã nghĩa trang hóa, tha ma hóa cả kinh đô ngàn năm văn hiến. Trần trụi, bê tông hóa cả vùng đất bảng lảng sương khói huyền thoại với chùa Một Cột nhỏ nhắn như một đóa sen, với núi Nùng chỉ là gò đất giữa ngàn xanh bách thảo nhưng lãng đãng hơi sương Hồ Tây như thực, như ảo.
Nhà mồ Hồ Chí Minh xám xịt, lạnh ngắt màu đá lạc lõng giữa sắc màu đô thị, lạc lõng giữa thời đại liên tiếp những cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đưa con người tới nền văn minh tin học, giải phóng con người khỏi những thế lực thần quyền, con người đã trở thành những siêu nhân làm chủ cả vũ trụ. Lăng Hồ Chí Minh làm sống lại thế lực thần quyền, thần thánh hóa một thế lực chính trị phàm tục, đẫm máu dân và đã hết vai trò lịch sử. Lăng Hồ Chí Minh đưa Hồ Chí Minh lên thành vị thánh của cả nước, dìm cả một dân tộc đau thương thành thần dân của một thế lực thần quyền, thành nô lệ của một ông thánh do tuyên truyền cộng sản thêu dệt lên.
Cũng như lăng mả Hồ Chí Minh, lăng mả Trần Đại Quang cùng lăng mả, nhà bảo tàng, nhà tưởng niệm những nhân vật cộng sản hàng đầu khác như Trần Phú, Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh... đều nhằm thần thánh hóa con người cộng sản và tổ chức cộng sản đã gây quá nhiều đau khổ cho dân, đã gây quá nhiều mất mát, nguy hại cho nước. Lăng mộ Hồ Chí Minh đưa Hồ Chí Minh lên hàng thánh của cả nước thì lăng mộ Trần Đại Quang sẽ đưa ông cò cảnh sát Trần Đại Quang hai tay ròng ròng máu dân lên hàng thánh của một vùng quê đồng bằng Bắc Bộ. Rồi lăng mộ Đỗ Mười, lăng mộ Nguyễn Đức Bình và lăng mộ nhiều ông thủ lĩnh cộng sản kế tiếp sẽ đưa các ông đó lên hàng thánh ở vùng quê các ông. Từ nay, bầu trời tâm linh của người dân Việt Nam chỉ có các ông thánh cộng sản và đất sống của người dân Việt Nam trở thành đất sa mạc chết với trùng điệp, san sát, hiu hắt những lăng mộ cộng sản.
Lí tưởng sống của người cộng sản được tô vẽ vô cùng cao đẹp : Người cộng sản không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân ! Nhưng con người cộng sản trong cuộc đời thực từ lúc sống đến cả cái chết lại vô cùng thấp hèn. Những người cộng sản đã lấy máu của hàng chục triệu người dân Việt Nam, đã dìm cả dân tộc Việt Nam vào cuộc chém giết suốt gần nửa thế kỉ để làm cuộc cách mạng trừ phong phản đế, diệt trừ phong kiến, đánh đuổi đế quốc giành chính quyền cho người cộng sản. Khi có chính quyền trong tay, những người cộng sản đã thiết lập một nhà nước vừa là thế quyền độc ác, tàn bạo hơn cả chính quyền đế quốc xâm lược, vừa là thần quyền mê muội, tăm tối, ngột ngạt hơn cả thời phong kiến cổ hủ. Cuộc đời và lăng mộ những người lãnh đạo cộng sản đã chứng minh và ghi nhận về một thời bất hạnh của giống nòi Việt Nam và một thời đen tối của lịch sử Việt Nam, thời cộng sản.
Phạm Đình Trọng
(06/10/2018)
Đọc tin ông lớn Trần Đại Quang, Chủ tịch nước chết vì căn bệnh hiểm sáng 21/09/2018, tôi cứ nghĩ đến những cái chết tức tưởi, đau đớn của hàng trăm người dân trên đường phố, trong trụ sở công an, trong trại tạm giam bởi những cú ra đòn tàn độc của công an thời ông Trần Đại Quang làm Bộ trưởng Bộ Công an.
Kết quả điều tra vụ công an bị tố đánh chết người ở Bình Định
Vài dẫn chứng về những người dân bị công an đánh chết thời ông Trần Đại Quang đang đứng đầu Bộ Công an, đang đứng đầu trách nhiệm về những họa phúc do công an mang lại cho dân cho nước :
- Ông Nguyễn Mậu Thuận, 56 tuổi, bị đánh chết trong trụ sở công an xã Kim Nỗ, huyện Đông Anh, Hà Nội.
- Anh Ngô Thanh Kiều, 30 tuổi, bị công an đánh chết trong nhà tạm giam ở thành phố Tuy Hòa, Phú Yên.
- Em Tu Ngọc Thạch, 14 tuổi, bị công an xã Vạn Long, Vạn Ninh, Khánh Hòa đánh chết ngay trên đường cái quan số 1.
Hàng trăm người dân bị công an đánh chết vô cùng man rợ mà ông Bộ trưởng Công an vẫn dửng dưng rũ bỏ trách nhiệm, vẫn ham hố công danh, miệt mài leo lên tới chức Chủ tịch nước, tột đỉnh quyền lực. Hành xử đó là sự thách thức lương tâm con người của kẻ không còn liêm sỉ, không còn tính người. Đó là cái ác.
Trước cái chết của một con người, ai cũng ngậm ngùi, xót thương. Bảy dân thường bị chết vì sốc ma túy trong đêm hội nhạc ở công viên nước Hồ Tây, Hà Nội đêm 16/09/2018 cũng làm tôi lặng đi trong bùi ngùi xúc động. Nhưng tôi không chút xúc động khi hay tin về cái chết của ông lớn Chủ tịch nước Trần Đại Quang, nguyên là Bộ trưởng Công an, người đã trốn tránh trách nhiệm trước cái chết của hàng trăm người dân lương thiện bị công an, quân của ông Quang tước đoạt mạng sống. Dù người yếu lòng cũng không ai dành sự xót thương cho cái ác mà chỉ có sự căm giận. Dù cái ác vẫn còn nhưng bớt đi một cái ác, cuộc sống cũng nhẹ nhõm, an lành hơn.
Kế nhiệm ông Trần Đại Quang đứng đầu Bộ Công an là ông Tô Lâm. Số người dân bị công an đánh chết thời ông Bộ trưởng Tô Lâm còn dồn dập và man rợ hơn vì không có ai phải chịu trách nhiệm về cái ác của công cụ bạo lực nhà nước hoành hành mặc sức tước đoạt mạng sống của người dân.
Sự vô cảm của người dân, có người còn thở phào nhẹ nhõm trước cái chết khi còn khá trẻ của ông lớn nguyên Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang là sự nhìn nhận của lòng dân, là sự phán xét của cuộc đời, là sự cảnh tỉnh cho những người đang và sẽ kế nhiệm quyền lực và trách nhiệm của ông lớn Trần Đại Quang ở Bộ Công an.
Lòng dân là ngôi đền thiêng với những người có công với dân với nước nhưng cũng là pháp trường của cái ác, của những kẻ hại dân, phản nước. Chết trong lòng dân là cái chết đau đớn, nhục nhã nhất của một kiếp người.
Phạm Đình Trọng
22/09/2018
Người dân lương thiện nặng lòng với vận nước hưng vong, chỉ đơn độc, lặng thầm và ôn hòa bộc lộ chính kiến trên Facebook và tham gia biểu tình đòi giữ gìn môi trường trong lành của đất nước thì bị tòa án nhà nước cộng sản kết tội lật đổ chính quyền nhân dân và bị kết án 14 năm tù dù không có bất cứ bằng chứng nào về tội lật đổ.
Cả một đám thanh niên hư hỏng xài ma túy bị ngất xỉu phải đưa vào bệnh viện cấp cứu thì lập tức phó chủ tịch Hà Nội kéo cả bộ sậu một đám giám đốc sở, giám đốc Y tế, giám đốc Lao động thương binh và xã hội vội vã đến bệnh viện, vồ vập, ân cần, trìu mến thăm hỏi.
Ông Ngô Văn Quý, Phó Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội (đứng giữa) trong buổi thăm các nạn bị sốc thuốc tại đêm hội âm nhạc tối ngày 16/09/2018.
Đứng trước tuổi trẻ bệnh hoạn ma túy, đám quan chức cộng sản khép nép cung kính như đứng trước những anh hùng thời đại Hồ Chí Minh rực rỡ rồi tay nâng phong bì, thân thiết kính tặng tiền, khuyến khích lớp trẻ cứ ném tuổi trẻ huy hoàng vào ma túy.
Phó Chủ tịch Ngô Văn Quý và lãnh đạo Thành phố Hà Nội thăm thăm bệnh nhân sốc ma túy trong đêm nhạc "Du hành tới mặt trăng". Nguồn : internet
Cứ ma túy đi, đừng đòi dân chủ, nhân quyền.
Cứ ma túy đi, đừng quan tâm đến biển Đông của tổ tiên ta đang bị giặc Tầu chiếm đoạt, đang hàng ngày bắn giết dân ta đánh cá trên biển của ta.
Cứ ma túy đi, đừng bận tậm đến tâm hồn Tàu, tư tưởng nô lệ Tàu đang sai khiến quan chức nhà nước cộng sản.
Cứ ma túy đi, đừng lo ngại hàng hóa Tàu đang giết chết nền kinh tế Việt Nam, đang đầu độc con người Việt Nam.
Cứ ma túy đi, đừng băn khoăn gì về lũ giặc Tàu đang ồ ạt đổ vào nước ta, đang làm chủ nhiểu vùng lãnh thổ đất nước ta, đang nghênh ngang mặc áo in hình lưỡi bò đi trên đường phố ta.
Cứ ma túy đi hỡi tuổi trẻ anh hùng của thời đại Hồ Chí Minh rực rỡ.
Tuổi trẻ cứ say ma túy đi để nhà nước cộng sản rảnh tay đưa cả giống nòi Việt Nam vào nô lệ Trung Quốc.
Một chính quyền quái gở của lịch sử Việt Nam.
Phạm Đình Trọng
(19/09/2018)
*********************
Hậu sự cố âm nhạc 16/09
Trương Duy Nhất, RFA, 19/09/2018
1. Lạ. Cả xã hội nhao lên chửi việc ông Phó Chủ tịch Hà Nội vào viện thăm nạn nhân (*).
Phó Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội Ngô Văn Quý thăm các bệnh nhân sốc ma tuý trong Lễ hội âm nhạc điện tử tối 16/09 đang điều trị tại viện E. ...
Chưa biết đúng sai sao, nhưng cứ cho họ là "bọn nghiện ngập" đi, thì vẫn những con người trước ngưỡng sinh tử. Thăm "bọn nghiện ngập", thậm chí thăm tội phạm khi họ gặp nạn, có gì sai ? Có gì mất nhân cách ?
Ngược lại, mới là bất nhân.
2. Chỉ bởi sự cố ở một điểm diễn, dừng cấm tất cả các lễ hội âm nhạc khác. Một quyết định cực kỳ thô bạo, phản văn hóa.
Văn minh, là biết tổ chức, khơi gợi thêm nhiều các loại lễ hội âm nhạc và hoạt động văn hoá cởi mở khác, chứ không phải cấm cản, hạn chế. Không chỉ chỗ nào cũng "áo xanh tình nguyện" với "như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng"...
Một sự kiện, hai thái độ quan - dân thế, sao văn minh nổi ?
Trương Duy Nhất
Nguồn : RFA, 19/09/2018 (truongduynhat's blog)
(*) 7 người chết, 5 người hôn mê (trong tình trạng dương tính với ma túy) tại một lễ hội âm nhạc diễn ra ở công viên nước Hồ Tây, Hà Nội, đêm 16/09/2018.
Ngày 2 tháng chín, 2018, công an bủa vây bịt bùng trước nhà nhiều người dân trên khắp mọi miền đất nước. Hai trung tâm chính trị văn hóa, xã hội, hai không gian tiêu biểu cho đời sống dân sự đất nước, tiêu biểu cho bộ mặt xã hội Việt Nam là Hà Nội và Sài Gòn không những là hai nơi số người dân bị công an nhà nước cộng sản bủa vây, ngăn chặn không cho ra khỏi nhà nhiều nhất mà trên khắp đường phố Hà Nội, Sài Gòn còn rải đầy sắc áo công an, dân phòng trang bị roi điện, dùi cui, trang bị cả bộ mặt thú săn hầm hầm sát khí. Khắp các ngả đường trung tâm hai thành phố lớn nhất nước giăng trùng trùng lớp lớp rào sắt, kẽm gai.
Khắp các ngả đường trung tâm hai thành phố lớn nhất nước giăng trùng trùng lớp lớp rào sắt, kẽm gai.
Ngày 2 tháng chín, 2018, Hà Nội, Sài Gòn như hai thành phố bị chiếm đóng, hai thành phố bị bạo lực nhà nước cộng sản phong tỏa. Vậy mà dịp này bộ máy tuyên truyền nhà nước cộng sản Sài Gòn đã lấy hàng tỉ tiền thuế của dân in hàng triệu tài liệu tô vẽ về ngày quốc khánh 2.9 mang đến phát cho từng nhà dân: “Đã trở thành truyền thống, ngày Quốc khánh mùng 2 tháng 9 là dịp cả đất nước, cả dân tộc hân hoan, náo nức mừng Tết Độc lập, cũng là dịp nghỉ lễ dài ngày để người dân nghỉ ngơi, đoàn tụ, vui chơi, giải trí cùng gia đình và bạn bè”
Đúng là lươn lẹo tuyên huấn, nắm đấm công an. Hai đặc trưng nổi bật nhất của nhà nước cộng sản. Hai công cụ, hai sức mạnh bảo đảm lớn nhất cho sự tồn tại của nhà nước cộng sản. Tồn tại bằng lừa bịp tuyên truyền và bạo lực chuyên chính và dịp 2/9 hàng năm là dịp nhà nước cộng sản Việt Nam phô trương, thi thố hai sức mạnh này rầm rộ nhất, hợm hĩnh nhất.
Nhưng ngày 2 tháng chín có đúng là ngày Quốc khánh, ngày Độc lập không?
Trước ngày 2/9/1945 sáu tháng, ngày 11/03/1945, tại kinh kì Huế, vua Bảo Đại tuyên bố trước quốc dân Việt Nam và thế giới rằng: Chính phủ Việt Nam tuyên bố từ ngày này điều ước bảo hộ với nước Pháp bãi bỏ và nước Việt Nam khôi phục quyền độc lập.
Tuyên bố một nước độc lập là điều hệ trọng, lớn lao của một giống nòi, một đất nước trước lịch sử. Không phải ai cũng có thể tuyên bố. Người đứng đầu một triều đình, một nhà nước đã được lịch sử công nhận mới được quyền tuyên bố và tuyên bố đó mới hợp pháp và có giá trị lịch sử.
Triều nhà Nguyễn có công thống nhất đất nước từ mỏm cực Bắc Lũng Cú, Hà Giang đến đảo Thổ Chu, Kiên Giang chót cùng cực Nam, từ Trường Sơn đến Trường Sa. Triều nhà Nguyễn cũng có công kế tục triều nhà Lê đưa đội binh ra trấn giữ quần đảo Hoàng Sa. Triều nhà Nguyễn có công rất lớn mở mang bờ cõi về phía Nam và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ ở biên cương phía Bắc, giữ nguyên vẹn toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Bảo Đại là vị vua hợp pháp của một triều đình đã trị vì Việt Nam gần 200 năm, triều đình nhà Nguyễn, là người có đầy đủ tư cách với người dân Việt Nam, với thế giới và với lịch sử tuyên bố Việt Nam độc lập và ngày Độc lập thực sự của Việt Nam là ngày 11/03/1945.
Sự cai trị, đô hộ của thực dân Pháp xâm lược đã cướp mất nền độc lập của dân tộc Việt Nam. Có đầy đủ tư cách tuyện bố độc lập cho Việt Nam, người đứng đầu triều đình chính danh nhà Nguyễn chỉ tuyên bố ngắn gọn hai điều: Bác bỏ sự bảo hộ của nước Pháp và khôi phục nền độc lập cho Việt Nam. Đó là tuyên bố của giống nòi Việt Nam, tuyên bố của lịch sử Việt Nam.
Chính những người cộng sản Việt Nam đã ghi vào lịch sử nhà nước cộng sản Việt Nam rằng cách mạng tháng tám năm 1945 là cuộc cách mạng cướp chính quyền. Chính quyền có được bằng ăn cướp, không được người dân chấp thuận bằng lá phiếu, không được bất kì nước nào trên thế giới công nhận. Hồ Chí Minh, người đứng đầu chính quyền ăn cướp bất hợp pháp không có bất kì tư cách nào để tuyên bố Việt Nam độc lập. Ngày 2/9/1945 chỉ là ngày những người cộng sản Việt Nam kết thúc việc cướp chính quyền trên toàn cõi Việt Nam mà thôi.
Chính quyền cướp được mà có nên 73 năm đã qua, vẫn một không khí bạo lực, cướp bóc rình rập bao trùm xã hội. Công cụ bạo lực rình rập trước cửa từng nhà người dân. Sức mạnh bạo lực rầm rộ triển khai giữa bình minh thành phố, giữa cuộc sống người dân. Độc lập chi mà khốn khổ vậy !
Phạm Đình Trọng
02/09/2018
Thể thao không phải chỉ là sức khỏe, là thể lực của một con người, của một cộng đồng. Thể thao cũng không phải chỉ là giải trí. Nền thể thao của một đất nước trên đấu trường quốc tế là màu cờ sắc áo của một quốc hiệu, là danh dự của một quốc gia, là sĩ khí của một dân tộc, là vị thế, là tên tuổi của một đất nước trong trái tim những công dân thế giới.
Đài truyền hình phải coi phát sóng những cuộc đua tranh cao cả đó là nhiệm vụ chính trị hàng đầu của đài.
Hầu như rất it người dân trên thế giới biết đến sự có mặt của đất nước Croatia bé nhỏ ở góc khuất Nam Trung Âu. Nhưng ở Word Cup 2018, đội bóng đá của đất nước Croatia nhỏ bé đã thắng những đội bóng lừng lẫy của những đất nước rộng lớn và hùng mạnh. Thắng Nigeria nước lớn ở Châu Phi. Thắng Argentina nước lớn ở Nam Mỹ. Thắng England nước lớn ở Châu Âu. Vượt qua những tên tuổi sừng sững, đội bóng đá Croatia đi tới trận chung kết và giành cúp bạc thế giới thì người dân trên khắp hành tinh phải ngả mũ kính chào đất nước Croatia và ghi nhớ tên dân tộc Croatia trong gia đình nhân loại.
Vì màu cờ sắc áo, vì vị thế, danh dự, sĩ khí của đất nước chính là vì lòng yêu nước. Nhưng thể thao không chỉ là lòng yêu nước. Thể thao có sức thu hút rất lớn, có năng lực tập hợp lực lượng dân chúng khổng lồ. Thu hút, tập hợp người dân, kích thích lòng yêu nước của người dân tạo lên sức mạnh tinh thần to lớn, đó là chính trị. Về mặt này, thể thao đã làm cả chức năng tuyên giáo của các cơ quan thông tấn báo chí.
Để thể thao làm được như vậy, nhà nước đã phải đầu tư mỗi năm hàng ngàn tỉ tiền thuế của dân cho thể thao để thu về danh dự, sĩ khí cho đất nước, thu về niềm hưng phấn, lòng tự hào dân tộc cho người dân. Cũng như hàng năm, nhà nước đã đầu tư hàng ngàn tỉ tiền thuế của dân cho các cơ quan truyền thông nhà nước như Thông Tấn Xã, Đài Phát Thanh Tiếng Nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, VTV, để thu về cho nhà nước, cho thể chế khoản lãi vô giá về chính trị.
Nhắc đến điều này để nhớ rằng đài truyền hình quốc gia không phải là đơn vị kinh doanh, hạch toán lỗ lãi bằng giá trị đồng tiền.mà phải hạch toán bằng giá trị văn hóa, giá trị tinh thần, giá trị chính trị. Người dân xem các chương trình thể thao không phải chỉ để giải trí và đài truyền hình phát sóng chương trình thi đấu của đội tuyển thể thao quốc gia không được phép tính toán lỗ lãi bằng đồng tiền.
Các đội tuyển thể thao của đất nước đổ mồ hôi sôi nước mắt đua tranh ở đấu trường quốc tế vì lòng yêu nước, vì danh dự tổ quốc. Vì vậy đài truyền hình phải coi phát sóng những cuộc đua tranh cao cả đó là nhiệm vụ chính trị hàng đầu của đài.
Vận động viên thể thao ra đấu trường quốc tể đổ mồ hôi sôi nước mắt vì danh dự quốc gia như người lính ra trận. Họ rất cần có tấm lòng của hậu phương, của gia đình quê hương luôn đồng hành cùng họ. Đó là liều đô pinh tinh thần vô cùng to lớn. Hành trình thi đấu của họ được truyền hình trực tiếp về quê nhà là sự đồng hành vô cùng cần thiết và quí giá đó.
Người đứng đầu đài truyền hình quốc gia tính toán rằng gói truyền hình Asiad 2018 phải mua với giá X tỉ đồng. Thu quảng cáo chỉ được Y tỉ đồng. Còn lỗ đến Z tỉ đồng. Từ đó cho rằng mua gói truyền hình Asiad 2018 là xa xỉ thì đó là tính toán của người chỉ quen buôn bán cò con, buôn đầu chợ, bán cuối chợ của một tư duy quá nhỏ nhen, thiển cận, lạc lõng, không xứng phương diện quốc gia của người đứng đầu VTV, nơi mỗi năm nhận hàng trăm tỉ tiền thuế của dân để làm công tác chính trị, văn hóa, tinh thần cho nhân dân, cho đất nước.
Thưa lại với ông tướng công binh Hoàng Kiên về lệnh “không được nổ súng” hay “không được nổ súng trước” trong sự kiện đau thương Gạc Ma 14/03/1988
Từ phải : Tư lệnh Hải quân Giáp Văn Cương hàng ngồi, thứ hai. Phạm Đình Trọng đứng sau Giáp Văn Cương. Trần Đăng Khoa đứng hàng trên ngoài cùng bên trái
1. Bốn ngàn năm chí bền dựng nước, phải liên tục đương đầu với giặc phương Bắc xâm lược đông và mạnh gấp nhiều lần. Bốn ngàn năm quả cảm mở cõi chỉ có chiếc thuyền gỗ kiền và lá buồm cánh dơi mỏng manh phải đi vào tâm bão của Biển Đông để mở cõi, mở biển.
Mỗi nắm đất biên cương phía Bắc đều thấm đẫm máu ông cha ta đã đổ ra hết thế hệ này đến thế hệ khác trong những trận chiến giữ đất kéo dài trong lịch sử chống giặc phương Bắc xâm lược. Mỗi doi cát ngoài biển đông đều là nấm mồ lớn ông cha ta gửi xác lại trong những chuyến đi vào bão táp Biển Đông cùng những đoàn thuyền lưới, thuyền câu người Việt đi khai thác biển bạc.
Bốn ngàn năm dựng nước và mở cõi, ông cha ta đã không để mất một tấc đất ở biên cương, không để mất một núm cát ở Biển Đông và đã để lại cho chúng ta hôm nay dải non sông gấm vóc từ Lũng Cú, Hà Giang đến đảo Thổ Chu, Kiên Giang, từ Trường Sơn đến Trường Sa.
Nhưng chỉ mấy chục năm qua thế hệ chúng ta đã để mất hàng ngàn kilomet vuông đất biên cương thấm đẫm máu cha ông ở phía Bắc. Đã để mất những doi cát vàng nơi ông cha đã gửi xác gửi hồn ở Biển Đông.
Mất đất do hiệp định nhà nước cộng sản Việt Nam kí kết sang nhượng. Mất điểm cao 1509 ở Vị Xuyên, Hà Giang, mảnh đất thấm đẫm máu và chôn vùi xác hàng ngàn người lính Việt Nam trong những trận chiến ác liệt giữ đất năm 1984. Mất phần tráng lệ nhất của thác Bản Giốc ở Đàm Thủy, Trùng Khánh, Cao Bằng, thác nước kì vĩ đã đi vào trang sách, đi vào hồn người Việt Nam. Mất cổng nước cổ kính và bi tráng của lịch sử ở Đồng Đăng, Lạng Sơn, nơi giặc hùng hổ rầm rập kéo vào rồi tả tơi thân tàn tháo chạy ra. Nơi chứng kiến giọt nước mắt của Nguyễn Trãi trong thời khắc chia li người cha bị giặc bắt đưa sang phương Bắc. Giọt nước mắt còn hoen trong trang sử Việt Nam giữ nước.
Mất đảo do lệnh oái oăm ngang trái, lệnh trói tay người lính, người lính đành bất lực nhìn giặc tràn lên cướp đảo, có súng trong tay mà không được nổ súng, phải chờ giặc nổ súng giết mình trước, có may mắn sống sót mới được nổ súng chống trả yếu ớt trong thương vong mất mát, trong thế bị động, trong thế thua đã nắm chắc. Đảo Gạc Ma trong quần đảo Trường Sa đã mất trong đau thương, tức tưởi như vậy.
Những mảnh đất thiêng liêng của tổ tiên ở biên cương mất đi theo hiệp định biên giới Việt Trung kí kết cuối năm 1999 là những vết thương mãi mãi nhức nhối trên cơ thể Tổ Quốc Việt Nam, là nỗi đau muôn đời của lịch sử, của giống nòi Việt Nam.
Lệnh trói tay người lính, không cho người lính nổ súng khi giặc tràn lên cướp đảo. Lệnh buộc người lính giữ đảo phải trao cho giặc quyền làm chủ tình thế, trao cho giặc quyền của người làm chủ đảo, trao cho giặc quyền được nổ súng trước. Đó là lệnh bắt người lính giữ đảo, giữ biển của tổ tiên phải nhận thương vong mất mát về minh và phải nhận thất bại lịch sử cho đất nước. Mất Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa năm 1988 trong tình thế đó, ngoài nỗi đau còn là nỗi nhục. Những ngày đau mất Gạc Ma, tháng ba, năm 1988 chúng ta còn mất cả đá Chữ Thập, đá Châu Viên, đá Ga Ven... Mất những chiếc cọc giậu trọng yếu trong hàng cọc giậu ngoài thềm Biển Đông. Một mảng phòng thủ trong thế trận giữ nước đã bị xé toang. Ngày nay Trung Quốc, kẻ chiếm bãi Gạc Ma, đá Chữ Thập của ta năm 1988 đã bồi đắp bãi Gạc Ma và đá Chữ Thập thành đảo nhân tạo và xây dựng sân bay có đường băng dài hơn 3.000 mét cho máy bay ném bom hạng nặng cất, hạ cánh ở đảo Gạc Ma và đảo Chữ Thập;
Trung Quốc chiếm đảo Gạc Ma của ta thế nào? (VTC, 15/032016)
2. Sự kiện mất Gạc Ma lớn như vậy, đau như vậy mà 30 năm sau mới có được tập sách nhỏ Gạc Ma Vòng Tròn Bất Tử. Tập sách nhỏ nhưng vô cùng quí bởi đã ghi chép một sự kiện lịch sử, dù đau thương, mất mát nhưng rất cần phải khắc ghi vào thời gian, vào lịch sử, khắc ghi vào tâm trí người Việt những mảnh đất, những núm cát mang hồn tổ tiên bị giặc chiếm phải nhớ lấy mà giành lại, không thể để mai một quên lãng, không thể để sự kiện Gạc Ma bị thời gian và những cách nhìn cảm tính, hẹp hòi bóp méo đi không còn trung thực nữa. Tập sách càng đáng quí bởi sách có được không do kế hoạch xuất bản của nhà nước mà sách là thành quả của doanh nghiệp tư nhân, là tâm huyết, nỗ lực của vài cá nhân đau đáu với vận nước, với trang sử giống nòi.
Trường Sa 1988 : Bộ trưởng bộ Quốc phòng Lê Đức Anh, hàng trên, đứng giữa) ; Tư lệnh Hải quân Giáp Văn Cương, hàng trên, ngoài cùng, bên trái
Nhưng tập sách quí vừa trình làng trong cuộc họp báo khá hạn hẹp ở Sài Gòn, liền có tiếng nói phản bác, kết tội tập sách. Không nhiều ý kiến phản bác tập sách, phản bác thiện chí người làm sách nhưng khá nặng lời, gay gắt như mạt sát, sỉ vả và phát ngôn cho những ý kiến phản bác lại là một ông tướng, thiếu tướng Hoàng Kiền, nguyên tư lệnh binh chủng công binh.
Tập sách bị kết tội nặng nề “một sự vu cáo xấu xa trắng trợn”, chỉ vì một chi tiết nhỏ : “việc nói về có lệnh của cấp trên “không được nổ súng” chèn vào trong cuốn sách là một ý đồ xấu, xuyên tạc sự thật lịch sử, làm cho nhân dân ta nhất là thế hệ trẻ mất niềm tin về nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc”.
Sách viết rằng trong sự kiện Gạc Ma 14/03/1988, những người lính quân đội Nhân Dân Việt Nam phải chấp hành lệnh “Không được nổ súng”. Còn tướng cuốc, sẻng, đất, đá công binh Hoàng Kiền không có vốn liếng, nghiệp vụ lính biển nhưng nhìn những người làm sách chỉ bằng nửa con mắt : “Những người viết bài hầu hết chưa trải qua Hải quân, chỉ mới hiểu tác chiến trên bộ, chưa hiểu tác chiến trên biển, chưa hiểu tương quan lực lượng Hải quân Việt Nam và Trung Quốc khi ấy... Nếu nghe như những phát biểu của mấy vị ảo tưởng là một sai lầm nghiêm trọng, chúng ta sẽ mất hết. Chính họ mới âm mưu tiếp tay cho Trung Quốc chiếm hết Trường Sa, chúng ta không mắc mưu họ”.
Ông tướng công binh cao giọng giảng giải về sự kiện Gạc Ma : “Họ gọi sự kiện Gạc Ma là cuộc chiến tranh trên biển (bài viết trên mạng có ảnh của Thiếu tướng Lê Mã Lương) là hoàn toàn sai. Gọi là cuộc chiến Gạc Ma cũng chưa đúng hoàn toàn. Gọi là cuộc xung đột vũ trang trên biển cũng là chưa chính xác. Phải nói là : Sự kiện Gạc Ma, Trung Quốc dùng vũ lực đơn phương sát hại 64 cán bộ chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam, bắn chìm hai tàu vận tải HQ 604, HQ 605, bắn cháy tầu đổ bộ HQ 505, chiếm đóng trái phép đảo Gạc Ma của Việt Nam. Không có trận chiến, cuộc chiến nào cả.” Dồn dập trấn áp bằng ngôn từ rồi vị tướng công binh hùng hồn khẳng định sự kiện Gac Ma 14/03/1988 chỉ có lệnh “Không được nổ súng trước” mà thôi.
Kết tội sách Gac Ma Vòng Tròn Bất Tử, kết tội thiếu tướng Anh hùng Lê Mã Lương, ngưởi chủ biên tập sách khi sách viết rằng mất Gạc Ma vì có lệnh không được nổ súng, thiếu tướng Anh hùng Hoàng Kiền còn dẫn lời một loạt tướng lĩnh : Phó Đô đốc Mai Xuân Vĩnh, Phó Đô đốc Nguyễn Văn Công, Trung tướng Trần Qung Khuê, Trung tướng Phạm Đức Lĩnh, đại tá Trần Đình Dần phê phán Lê Mã Lương nói bậy, Lê Mã Lương nói láo. “Lê Mã Lương nói bậy, ông ấy biết gì về Hải quân, về sự kiện Gạc Ma mà nói” (Lời Phó Đô đốc Mai Xuân Vĩnh). Dồn dập ngôn từ, dồn dập tiếng nói bác bỏ lệnh “Không được nổ súng” để tướng công binh Hoàng Kiền khẳng định “Chỉ có lệnh “không được nổ súng trước” là hoàn toàn đúng đắn. Thể hiện đối sách của Đảng và nhà nước ta giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, coi trọng mối quan hệ Viêt Nam – Trung Quốc, không mắc mưu khiêu khích của đối phương, sẽ là cái cớ cho họ lấn tới”.
3. C ả vú lấp miệng em, chủ quan, cao ngạo áp đặt chính kiến, chiếm đoạt lẽ phải, tướng công binh Hoàng Kiền khăng khăng rằng chỉ có lệnh “Không được nổ súng trước”. Nhưng diễn biến sự việc và chính từ lời tướng Hoàng Kiền lại chứng minh rằng những người lính Việt Nam giữ Trường Sa trong sự kiện ngày 14/03/1988, từ người chỉ huy đến người lính cắm cờ chủ quyền trên Gạc Ma đã chấp hành nghiêm ngặt lệnh không được nổ súng và lệnh không được nổ súng đã bao trùm lên toàn bộ sự kiện Gạc Ma 14.0.1988. Vài dẫn chứng.
MỘT. Ngoài đảo Ba Bình lớn nhất Trường Sa do Đài Loan chiếm đóng từ 1945, đến cuối năm 1987 Trung Quốc lục địa chưa có một điểm đứng chân ở Trường Sa. Nhưng nhiều năm qua lính Trung Quốc trên những con tàu vũ trang giả dạng tàu đánh cá vẫn ngày đêm xục xạo khắp quần đảo Trường Sa. Đổ bộ lên những bãi san hô ta đã đặt khối bê tông bia chủ quyền nhưng chưa đưa quân ra giữ, lính Trung Quốc mặc đồ dân sự kéo bia chủ quyền của ta xuống biển rồi rút đi. Bước vào năm 1988, Trung Quốc bỗng đột biến leo thang chiếm những bãi san hô còn lập lờ trên mặt nước biển trong quần đảo Trường Sa của ta. Ngày 31.1.1988 họ chiếm bãi Chữ Thập. Ngày 18.2.1988, họ chiếm bãi Châu Viên. Ngày 26.2.1988 họ chiếm bãi Ga Ven. Ngày 28.2.1988, họ chiếm bãi Huy Gơ. . .
Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam phải tăng tốc thực hiện chiếnn dịch CQ88, đưa quân ra giữ những bãi san hô chưa nổi hẳn lên khỏi mặt biển có nguy cơ bị Trung Quốc chiếm. Tết Mậu Thìn, 1988 đến. Tư lệnh Giáp Văn Cương tuyên bố : Không có Tết. Báo động toàn quân chủng. Chuyển sở chỉ huy chiến dịch CQ88 từ bộ Tư lệnh Hải quân ở Hải Phòng vào Cam Ranh. Sáng mồng một Tết Mậu Thìn, Tư lệnh Giáp Văn Cương lên chiếc máy bay quân sự AN26 từ sân bay Gia Lâm bay vào Cam Ranh.
Khi Hải quân Việt Nam đưa quân ra cụm bãi Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao là khi Trung Quốc đã có một lực lượng chiến đấu hùng mạnh ở Trường Sa với 19 tàu uy lực nhất của Trung Quốc lúc đó gồm : Một khu trục lên lửa. Ba tàu khu trục trang bị pháo 100 mm có tầm bắn xa trên 10 km và pháo 37 mm có tầm bắn gần 10 km. Bảy tàu hộ vệ tên lửa, Hai tàu hộ vệ pháo. Hai tàu đổ bộ. Ba tàu vận tải. Một tàu hậu cần kéo theo một pông tông (cầu cảng nổi) lớn. Hạm đội hỗn hợp lớn với cả chục chiến hạm tấn công, hỏa lực mạnh rình rập ở Trường Sa sẵn sàng xối đạn vào lực lượng Hải quân Việt Nam, đánh chiếm đảo của Việt Nam.
Trước những họng súng tua tủa như vậy, ở điểm nóng Gạc Ma – Cô Lin – Len Đao chỉ có tàu đổ bộ cổ lỗ HQ 505. Tối 11/03/1988, Tư lệnh Giáp Văn Cương điều hai tàu vận tải nhỏ 500 tấn HQ 604 và HQ 605 đến Gạc Ma. Trên hai con tàu chỉ có chức năng chở hàng và chở quân, không có chức năng tác chiến là những người lính tay không, không có vũ khí chiến đấu : 70 lính công binh của trung đoàn công binh hải quân 83 chỉ có cuốc, sảng, xà beng, 4 cán bộ đo đạc thuộc cục bản đồ bộ Tổng Tham mưu và một đơn vị tác chiến nhỏ nhoi, 22 lính chiến đấu thuộc lữ đoàn 146 chỉ có súng cá nhân AK và cơ số đạn cơ bản do lữ đoàn phó, thiếu tá Trần Đức Thông chỉ huy. (Sau khi hi sinh cùng con tàu HQ 604, thiếu tá Trần Đức Thông được truy tặng danh hiệu Anh hùng và được truy phong trung tá).
Sẩm tối ngày 13/03/1988 tàu HQ604 đến Gạc Ma. Cùng với lính công binh vận chuyển vật liệu xây dựng lên bãi Gac Ma còn có ba người lính lữ đoàn 146 với hai khẩu AK lên cắm cờ chủ quyền. Sáng ngày 14/03/1988, gần trăm lính Trung Quốc tràn lên Gạc Ma, những người lính Hải quân Việt Nam trên Gạc Ma chỉ có hai khẩu AK với vài chục viên đạn. Nếu được chiến đấu chống trả, chỉ không được nổ súng trước thôi thì không khi nào người chỉ huy lại đưa đến điểm đối đầu Gạc Ma – Cô Lin – Len Đao ba con tàu không có chức năng chiến đấu và những người lính tay không như vậy. Điều động lực lượng phi vũ trang ra Gạc Ma ở thời điểm bùng nổ quyết định sự còn mất của Gạc Ma cho thấy lệnh không được nổ súng đã nhất quán từ người chỉ huy cao nhất chiến dịch HQ88.
HAI. Sự việc diễn biến ở Gạc Ma sáng ngày 14/03/1988 càng khẳng định lệnh không được nổ súng đã được quán triệt và đã thấm vào ý thức, đã chi phối hành động của người lính giữ Gạc Ma, dẫn đến mất mạng oan ức của người lính, dẫn đến mất nhanh chóng núm cát Gạc Ma của tổ tiên và dẫn đến nỗi đau của hôm nay, nỗi nhục với mai sau.
Lính Trung Quốc tràn lên Gạc Ma, xô đến cướp lá cờ chủ quyền của Việt Nam. Không giật được lá cờ trong tay trung úy Trần Văn Phương, tên chỉ huy lính Trung Quốc nổ súng ngắn bắn chết trung úy Phương. Giặc đã nổ súng trước giết chết sĩ quan lữ đoàn 146. Hai chiến sĩ 146 bảo vệ cờ có súng AK trong tay vì sao không nổ súng chống trả để bảo vệ cờ ? Đó là vì lệnh không được nổ súng ? Nhìn máu đồng đội đã đổ, căm thù sôi sục, quyết liệt hành động, binh nhất công binh Nguyễn Văn Lanh cũng chỉ có thể vung xà beng vụt bay khấu súng trong tay tên chỉ huy Trung Quốc.
Nếu chỉ là lệnh “Không được nổ súng trước”, tước đi thế chủ động của ta thì khi tên chỉ huy giặc đã nổ súng và đã bị cú xà beng đánh bay mất súng chính là thời cơ để ta giành lại thế chủ động với tiếng súng tự vệ của hai người lính nắm AK trong tay bảo vệ lá cờ. Nhưng không một tiếng súng tự vệ chống trả giặc. Hành động chiến đấu duy nhất của người lính Việt Nam bảo vệ Gạc Ma chỉ là một cú vung xà beng đánh vào bàn tay giặc cầm súng để rồi người lính công binh chiến đấu bằng xà beng phải lãnh mũi lê và đạn giặc găm vào người gục xuống cùng với lá cờ đổ xuống, trùm lên người !
Vì không được nổ súng nên người lính ra trận đã không được trang bị vũ khí tương xứng với nhiệm vụ. Người lính tay không trên Gạc Ma và con tàu vận tải không vũ trang neo cạnh Gạc Ma trở thành những tấm bia sống hứng đạn từ những khẩu pháo 100 mm, 37 mm trên ba tàu khu trục Trung Quốc xối xả bắn tới cho đến khi những tấm bia sống bị xóa sạch trên biển Trường Sa. Nếu chỉ là lệnh “Không được nổ súng trước” thì phải đáp trả khi bên kia đã khai súng. Để có thể đáp trả phải có hỏa lực dù không tương đương cũng phải đủ sức sát thương đối phương. Chống trả đám giặc tràn lên cướp đảo bằng chiến thuật biển người, lấy thịt đè người mà chỉ có hai khẩu súng cá nhân với vài chục viên đạn thì rõ ra người chỉ huy chiến dịch CQ88 trong điều động lực lượng đã phải chấp nhận, đã phải thực hiện chỉ lệnh không được nổ súng.
BA. Dù “Không được nổ súng trước” nhưng giặc đã nổ súng, đã khai chiến thì trách nhiệm và danh dự người lính giữ nước phải lên tiếng, phải nổ súng chống trả. Có tiếng súng chống trả, dù yếu ớt thì Gạc Ma sáng 14/03/1988 đã thực sự là một cuộc chiến đấu tự vệ, một trận chiến giáp lá cà ác liệt. Hai người lính của lữ đoàn 146 bảo vệ Trường Sa có AK trong tay nhưng tiếng súng trách nhiệm và danh dự của người lính bảo vệ lá cờ chủ quyền không vang lên. Chỉ có tiếng súng từ một phía của giặc Trung Quốc xâm lược. Vì sao vậy ? Chỉ có thể hiểu rằng lệnh không được nổ súng đã tước đoạt trách nhiệm và danh dự người lính của họ, biến họ thành tấm bia sống hứng đạn của lũ giặc cướp nước. Cuộc đụng độ chỉ có tiếng súng của một phía mới thành đơn phương. Chính tướng công binh Hoàng Kiền đã thú nhận chỉ có tiếng súng đơn phương của quân cướp nước khi ông viết : “Sự kiện Gạc Ma, Trung Quốc dùng vũ lực đơn phương sát hại 64 cán bộ chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam, bắn chìm hai tàu vận tải HQ 604, HQ 605, bắn cháy tầu đổ bộ HQ 505, chiếm đóng trái phép đảo Gạc Ma của Việt Nam. Không có trận chiến, cuộc chiến nào cả.”
BỐN. Những hình ảnh trong video clip do chính Trung Quốc tung lên mạng toàn cầu để khoe chiến công của hải quân Trung Quốc đánh chiếm Gac Ma của Việt Nam ngày 14/03/1988 cũng nghi nhận sự câm lặng, không nổ súng của phía mục tiêu mà lửa đạn Trung Quốc trút xuống. Camera lia từ những họng súng trên chiến hạm Trung Quốc xuống vệt cát Gạc Ma. Trên chiến hạm, những tiếng hô Tả ! Tả ! dồn dập. Những lưỡi lửa nhoáng nhoàng chớp lên. Dưới vệt cát Gạc Ma, đạn tới tấp vãi xuống, nước biển bắn tóe lên. Lá cờ quằn quại trên ngọn sóng. Những cột nước dựng lên quanh những người lính đầu trần, tay không. Chỉ có bóng những người lính trần trụi và những cột nước dựng lên. Không một chớp lửa của viên đạn thoát ra khỏi nòng súng. Dù chỉ là một chớp lửa nhỏ nhoi cũng không có. Nhìn bóng những người lính trần trụi trên vệt cát Gạc Ma lần lượt biến mất trên ngọn sóng Trường Sa, nước mắt tôi lặng lẽ ứa ra. Những tấm bia sống trên vệt cát Gạc Ma đang thưa dần là những người lính lữ đoàn 146 Hải quân Việt Nam, là những người lính trung đoàn 83 công binh Hải quân Việt Nam.
Bốn dẫn chứng, từ toàn cảnh rộng điều động, sử dụng lực lượng cho đến chi tiết nhỏ diễn biến sự việc trên Gạc Ma đủ cho thấy điều áp đặt của tướng công binh Hoàng Kiền “Chỉ có lệnh không được nổ súng trước” là không có cơ sở.
Không được nổ súng ! Trong sự kiện Trường Sa 14/03/1988 không một tiếng súng của những lính Việt Nam bắn trả bọn xâm lược, chỉ có tiếng súng các loại, các cỡ xối xả bắn giết người lính Việt Nam giữ Trường Sa, cướp núm cát Gạc Ma mang hồn tổ tiên người Việt Nam trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
4. T rong nỗi đau Gạc Ma ngày 14/03/1988, lệnh “Không được nổ súng” là lệnh bắt người lính giữ Gạc Ma phải đầu hàng kẻ xâm lược. Lệnh “Không được nổ súng trước” là lệnh trói tay người lính giữ núm cát Gạc Ma, giao quyền chủ động, quyền quyết định mạng sống của người lính giữ Gạc Ma, quyền quyết định số phận núm cát Gạc Ma cho kẻ cướp Gạc Ma. Mức độ khác nhau nhưng những lệnh đó đều nguy hại cho đất nước, đều là tội đồ của giống nòi Việt Nam. Với người lính, cả hai lệnh đó đều là sự sỉ nhục người lính, xúc phạm danh dự người lính, mang người lính ra làm vật hi sinh. Với nhân dân, với đất nước, cả hai lệnh đó đều là tội phản bội giống nòi Việt Nam, phản bội lịch sử Việt Nam, phản bội Tổ quốc Việt Nam.
Tên cướp xông vào nhà cướp tài sản nhưng chủ nhà “giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hoà bình” đợi cho tên cướp vung dao chém chủ nhà rồi chủ nhà mới dám chém lại ! Ứng xử dại dột, ngu xuẩn như vậy liệu sau nhũng cú vung dao của tên cướp chuyên nghiệp tới tấp xả xuống, ông chủ nhà hèn nhát có còn sống sót để mà chém lại tên cướp ! Dù có sống sót thì chủ nhà cũng đã giao thế chủ động cho tên cướp rồi, cũng đã phơi bầy, thú nhận với kẻ cướp sự nhu nhược, hèn nhát và tự nhận lấy phần thất thế, phần thua về mình rồi, làm sao còn giữ được tài sản !
Nỗi đau Gạc Ma ngày 14/03/1988 còn tệ hơn nữa. Những người lính giữ Gạc Ma chỉ có hai khẩu AK cũng không được bắn bọn giặc tràn lên đảo cướp lá cờ chủ quyền. Những người lính giữ Gạc Ma đành phơi thân hứng đạn pháo của giặc. Đành để núm cát hương hỏa của ông bà rơi vào tay giặc. Đành chấp nhận cái chết tức tưởi. Vậy mà người ta vẫn còn liến thoắng, lem lẻm, trí trá : “Không được nổ súng trước” là hoàn toàn đúng đắn. Thể hiện đối sách của Đảng và nhà nước ta giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, coi trọng mối quan hệ Viêt Nam – Trung Quốc, không mắc mưu khiêu khích của đối phương, sẽ là cái cớ cho họ lấn tới”.
Ỷ thế nước lớn, bất chấp luật pháp và dư luận, Trung Quốc muốn đánh Việt Nam lúc nào thì đánh, họ đâu cần phải khiêu khích để Việt Nam nổ súng trước rồi họ mới nổ súng. Vực dậy đất nước Trung Hoa sau cách mạng văn hóa làm cho đất nước Trung Hoa tan hoang, lòng dân li tán, kinh tế kiệt quệ, ngày 17.2.1979, Đặng Tiểu Bình liền cất quân đánh Việt Nam với tính toán : Đối nội, kích động tinh thần Đại Hán, tập hợp lại lòng dân, tạo khí thế bừng bừng cho người dân Trung Hoa bước vào thời kì khôi phục lại đất nước. Đối ngoại, ve vãn nước Mỹ giầu có để khai thác nguồn vốn và công nghệ. Và Đặng Tiểu Bình đã chấn hưng được đất nước Trung Hoa bằng máu của hàng chục ngàn người Việt Nam.
Lịch sử giữ nước của cha ông đã dạy chúng ta đối sách với Trung Quốc. Dù Trung Quốc xấu đến đâu chúng ta cũng phải coi trọng mối bang giao với Trung Quốc. Nhưng coi trọng mối bang giao với Trung Quốc để bảo vệ chủ quyền chứ quyết không thí bỏ một tấc đất chủ quyền lãnh thổ để giữ mối bang giao với Trung Quốc. Nhà nước cộng sản Việt Nam đã cắt hàng ngàn kilomet đất của tổ tiên người Việt ở Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn để làm đẹp lòng Trung Quốc. Đó là tội lớn với lịch sử, với cha ông, với muôn đời con cháu mai sau. Nay trong sự kiện Gạc Ma ngày 14/03/1988, dù là lệnh “Không được nổ súng” hay lệnh “Không được nổ súng trước” cũng là lệnh đầu hàng, dâng Gạc Ma, dâng máu của 64 người lính Việt Nam cho tham vọng bành trướng Trung Quốc. Lại thêm một tội tày trời !
Đất đai lãnh thổ là hương hỏa thiêng liêng của cha ông để lại, là di sản của lịch sử, là tài sản của hôm nay và mai sau, là thế đứng hiên ngang của một đất nước, một dân tộc dưới mặt trời, trước nhân loại. Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh. Khi đội quân nước ngoài đặt bước chân xâm lược lên mảnh đất hương hỏa thiêng liêng thì từ em thiếu niên, đến người đàn bà thường dân cũng phải cầm vũ khí đánh giặc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Lệnh buộc người lính đầu hàng, lệnh trói tay người lính khi giặc tràn lên cướp đảo Gạc Ma là lệnh ô nhục chưa từng có trong lịch sử bốn ngàn năm giữ nước và mở cõi của dân tộc Việt Nam.
5. T ôi càng vô cùng ngạc nhiên khi thiếu tướng công binh Hoàng Kiền viết :
“Hải quân nhân dân Việt Nam cùng lực lượng QK5 giải phóng 5 đảo thuộc quần đảo Trường Sa do quân đội Sài Gòn đóng giữ trước 30/4/1975 gồm Trường Sa, Song Tử Tây, Nam Yết, Sinh Tồn, Sơn Ca.
Đến năm 1978 đóng hết 4 đảo nổi còn lại là : Trường Sa Đông, Sinh Tồn Đông, An Bang, Phan Vinh.
Cho đến thời điểm này Trung Quốc chưa hề nghĩ đến Trường Sa”.
Hóa ra “Với gần mười sáu năm công tác ở Hải quân, gần mười năm gắn bó với Trường Sa”, vị sĩ quan công binh Hoàng Kiền chẳng hiểu gì về Trường Sa, chẳng hiểu gì về những con sóng, những mây đen vần vũ, những ngột ngạt ở Biển Đông trước những cơn bão dữ.
Không phải cho đến năm 1978 Trung Quốc chưa hề nghĩ đến Trường Sa. Trường Sa là Biển Đông. Trung Quốc nghĩ đến Trường Sa, tìm cách đứng chân ở Biển Đông từ ngay sau khi Mao Trạch Đông thiết lập nhà nước cộng sản Trung Hoa ở Bắc Kinh, năm 1949. Trung Quốc thèm khát Biển Đông, nhòm ngó Biển Đông trước cả khi Trung Quốc hướng khát vọng bành trướng về phía Tây, trước cả khi Trung Quốc đánh chiếm Tây Tạng năm 1959.
Trước năm 1955 Pháp cai trị Đông Dương cũng thiết lập sự quản trị với Trường Sa, Hoàng Sa. Hiệp định Genève 1954 buộc Pháp chấm dứt cai trị Đông Dương và chia cắt Vệt Nam thành hai miền với hai nhà nước. Hoàng Sa, Trường Sa thuộc quyền quản trị của nhà nước Việt Nam Cộng Hòa ở phía Nam. Năm 1955, người lính Pháp cuối cùng rút khỏi Đông Dương và chính quyền Sài Gòn chưa kịp đưa quân ra giữ Hoàng Sa. Lập tức Bắc Kinh đưa quân giả dạng dân đánh cá lên chiếm hai đảo lớn nhất trong quần đảo Hoàng Sa là đảo Phú Lâm và đảo Linh Côn. Từ đó, tàu vũ trang của Trung Quốc giả dạng tàu đánh cá ráo riết rình rập, xục xạo khắp Biển Đông, từ Hoàng Sa tới Trường Sa. Sau khi đánh chiếm được toàn bộ quần đảo Hoàng Sa ngày 19.1.1974, Trung Quốc càng tập trung nhòm ngó Trường Sa.
Trong chuyến đi thực tế ở Hải quân, tháng năm, 1978, tôi và nhà thơ quân đội Trần Đăng Khoa đã có mặt trong đoàn của Bộ Tư lệnh Hải quân do Thiếu tướng Giáp Văn Cương, Tư lệnh và Thiếu tướng Hoàng Trà, chính ủy quân chủng Hải quân chỉ huy đi kiểm tra tất cả các điểm nổi trong quần đảo Trường Sa. Một buổi chiều chúng tôi vừa bước chân lên đảo Sinh Tồn thì thấy chim biển từng đàn bay từ phía tây nam đến, táp xuống Sinh Tồn. Ngửa mặt nhìn đàn chim, đảo trưởng Sinh Tồn nói : Quân Trung Quốc lại đang xục xạo ở Gạc Ma đó. Thượng tá, phó tham mưu trưởng quân chủng Hải quân Bùi Ủy ngạc nhiên hỏi : Sao cậu biết ? Đảo trưởng Sinh Tồn giải thích rằng cứ mỗi lần có tàu Trung Quốc ngang qua đây đi về hướng Gạc Ma thì chỉ hơn tiếng sau từ hướng Gạc Ma chim xao xác bay về đây. Lính Sinh Tồn xác định rằng Tàu Trung Quốc đã đổ quân lên Gạc Ma xục xạo, đập bắt chim, chim phải kéo về Sinh Tồn. Nghe vậy, thượng tá Bùi Ủy liền cùng mấy sĩ quan trinh sát, tác chiến xuống ngay tàu, sang Gạc Ma. Khi trở về, thượng tá Bùi Ủy khen lính Sinh Tồn giỏi, phán đoán đúng.
Trung Quốc nung nấu đánh chiếm những núm cát Trường Sa từ trước năm 1988, từ trước năm 1978. Tháng năm, 1978 chúng tôi phải chứng kiến những đàn chim từ Gạc Ma xao xác bay về Sinh Tồn. Nhưng những con tàu chiến Trung Quốc giả dạng tàu đánh cá rình rập ở Trường Sa, đổ người lên Gạc Ma xục xạo đã diễn ra từ nhiều năm trước.
Lịch sử chủ quyền của Trung Quốc ở phía Nam chỉ đến đảo Hải Nam. Lịch sử chủ quyền Việt Nam với Hoàng Sa, Trường Sa đã có từ thời nhà Lê. Nhà nước Việt Nam đã quản lí hành chính lãnh thổ Hoàng Sa, Trường Sa từ thời nhà Lê, nhà Nguyễn. Cai trị Việt Nam, nhà nước Pháp tiếp tục quản lí hành chính Hoàng Sa, Trường Sa từ thế kỉ 19 trong sự thừa nhận của Chính phủ tất cả các nước trên thế giới.
Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ đích thực của Việt Nam từ trong chiều sâu lịch sử, không phải là lãnh thổ tranh chấp với Trung Quốc. Ngày nay, những người quản lí nhà nước về lãnh thổ Việt Nam đặt giai cấp lên trên dân tộc, hồn giai cấp lấn át hồn dân tộc đã coi Biển Đông, coi Hoàng Sa, Trường Sa là điểm tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc và “nhà nước ta giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hoà bình”. Đã là tranh chấp thì kẻ có sức mạnh bạo lực lớn hơn sẽ thắng. Sức mạnh bạo lực của kẻ cướp Gạc Ma càng tăng lên gấp bội khi những người lính Việt Nam giữ Gạc Ma chỉ có tay không phải đối đầu với những họng súng, những nòng pháo, những dàn tên lửa của Trung Quốc xâm lược. Và chúng ta đã mất Gạc Ma.
Phạm Đình Trọng
(25/07/2018)
Người dân đã thấy rõ cách giải bài toán của các ông khi dân nổi can qua là : Cùng với những máy bay lên thẳng có gắn đại liên, rốc két túc trực ở sân trước sân sau trụ sở công an huyện, cùng với những ống phóng tên lửa trên vai đội quân công an huyện đông như kiến, đội quân thực dân Đại Hán mặc dân sự ém sẵn ở Bô xít Tây Nguyên, ở Formosa Vũng Áng, ở Vân Đồn, ở Bắc Vân Phong, ở Phú Quốc sẽ bảo đảm cho các ông không phải chui ống cống, bảo đảm cho nhà nước cai trị đầy tội ác của các ông chưa bị ném vào sọt rác lịch sử khi 90 triệu người dân Việt Nam thức tỉnh và can qua nổi lên. Với đạo quân khát máu tanh lòng có mặt thường trực trên đất nước Việt Nam, với trực thăng vũ trang, tên lửa vác vai trang bị tới tận công an cấp huyện, nhà nước cai trị của các ông sẽ tồn tại trên máu dân đổ ra lênh láng khắp đất nước. Các ông đã lấy máu dân giải bài toán về sự tồn tại của nhà nước cộng sản cai trị.
Những máy bay lên thẳng có gắn đại liên, rốc két túc trực ở sân trước sân sau trụ sở công an huyện
Theo chiều dọc thời gian, lịch sử loài người đã có nhà nước nô lệ, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản... Theo chiều ngang không gian trong thời đương đại chúng ta đang sống lại có hai loại hình nhà nước là nhà nước phục vụ và nhà nước cai trị.
Nhà nước phục vụ là nhà nước từ dân, của dân, do dân. Bằng tài trí của mình, người dân tự do ứng cử để được bầu chọn vào vị trí quản lí nhà nước. Bằng lá phiếu thực sự tư do, người dân bầu chọn hiền tài trong dân, tìm ra người tài trí lãnh đạo nhà nước. Nhà nước từ dân, nhà nước lại hướng về dân, phục vụ mọi nhu cầu chính đáng của dân và bảo đảm mọi nhu cầu cho sự hoạt động lành mạnh của một xã hội dân sự. Lợi ích của dân là lí do tồn tại của nhà nước phục vụ. Những lợi ích mang lại cho dân, cho nước là chỉ số về năng lực, hiệu quả của nhà nước phục vụ và người dân căn cứ vào chỉ số đó để tỏ thái độ với nhà nước bằng lá phiếu tín nhiệm, bằng biểu tình, bằng phán quyết của cơ quan dân cử để duy trì hay phế truất nhà nước.
Từ lập pháp, hành pháp đến tư pháp của nhà nước phục vụ đều tập trung vào việc bảo vệ và nâng cao phẩm giá con người của người dân. Người dân được đưa lên vị trí chủ thể, chủ thể của nhà nước và chủ thể của xã hội. Quan chức nhà nước chỉ là công bộc, là người làm thuê của chủ thể nhân dân. Là hiền tài của dân, nhà nước đó là tinh hoa, là tầm vóc, là khí phách của giống nòi, là đại diện xứng đáng của một giống nòi trước nhân loại. Đó là những nhà nước dân chủ.
Nhà nước cai trị là nhà nước hình thành từ bên ngoài dân áp đặt cho dân. Bằng lừa dối và bạo lực, nhà nước cai trị buộc người dân phải cam chịu sự áp đặt đó. Một thế lực từ bên ngoài dân đã sắp đặt, phân chia cho nhau các vị trí quyền lực nhà nước rồi biến dân thành những rô bốt cầm lá phiếu đi bầu cử theo lập trình, theo cài đặt sẫn của thế lực cầm quyền để hợp thức hóa cho sự cai trị áp đặt. Các chế độ độc tài đều phải thiết lập, duy trì một nhà nước cai trị và nhà nước cai trị ở chế độ độc tài cộng sản là tinh vi nhất, khắc nghiệt nhất, chà đạp lên phẩm giá con người, cả thể xác lẫn tâm hồn, độc ác nhất, man rợ nhất.
Những năm tháng này trong dân gian ta có câu thành ngữ mới khái quát về một đặc tính, một lối hành xử của nhà nước cộng sản cai trị Việt Nam là "hèn với giặc, ác với dân". Những gì đã diễn ra ở Hoàng Sa năm 1974, ở biên giới phía Bắc từ năm 1979, ở Trường Sa năm 1988, ở biển Đông những năm tháng qua đủ để người dân nhận ra tên giặc truyền kiếp của giống nòi Việt Nam, của lịch sử Việt Nam lại đang hiển hiện, lại đang thách thức dân tộc Việt Nam.
Nhưng với nhà nước cộng sản cai trị Việt Nam, một nhà nước của giai cấp vô sản thế giới chứ không phải nhà nước của dân tộc Việt Nam thì tên giặc truyền kiếp đó lại là bạn vàng ý thức hệ của nhà nước cộng sản. Chỉ riêng điều này đã là minh chứng vững chắc, hiển nhiên, đanh thép rằng nhà nước cộng sản từ cốt lõi đến hình hài hoàn toàn không phải nhà nước của giống nòi Việt Nam, đó chỉ là nhà nước cai trị áp đặt cho dân Việt Nam ở một thời đau đớn, tủi nhục nhất của lịch sử Việt Nam mà thôi.
Nhà nước cộng sản chỉ là một nhà nước chiếm đóng, một nhà nước cai trị, như nhà Nam Hán ở thế kỉ thứ nhất, nhà Đông Hán thế kỉ 10, nhà Minh thế kỉ 15 cai trị nước ta. Không phải nhà nước của dân tộc Việt Nam, lợi ích của nhà nước cộng sản cai trị hoàn toàn khác với lợi ích của người dân Việt Nam bị trị.
Vì lợi ích của nhà nước cộng sản, nhà nước cộng sản cai trị Việt Nam đã gây cho dân tộc Việt Nam hết tội ác này đến tội ác khác.
- Tội ác Cải cách ruộng đất.
- Tội ác Nhân Văn – Giai Phẩm.
- Tội ác cắt đôi đất nước, cắt đôi giống nòi rồi đẩy hai nửa giống nòi cùng mang dòng máu Việt của Mẹ Âu Cơ vào cuộc nội chiến đẫm máu.
- Tội ác lùa hàng triệu trí tuệ, tậm hồn Việt Nam không cùng ý thức hệ cộng sản vào tù mút mùa không bản án.
- Tội ác tiêu diệt một nền văn minh công nghiệp, văn minh đô thị, tiêu diệt nền sản xuất công nghiệp hiện đại mang khát vọng dân tộc để rước về một nền công nghiệp lạc hậu với công nghệ phế thải của Trung Quốc, biến đất nước Việt Nam thành bãi rác công nghệ của Trung Quốc.
- Tội ác đầy đọa, chia rẽ, li tán dân tộc Việt Nam, biến đất nước Việt Nam, đất đầy hoa và trời đầy chim thành một nhà tù khổng lồ, tạo nên dòng người phải trốn bỏ ngục tù cộng sản đi tìm tự do, gây nên thảm họa gần nửa triệu người phải vùi xác đáy biển.
- Tội ác coi dân như kẻ thù, coi mạng sống của dân chỉ như sự sống của con ong, cái kiến, tùy tiện đánh giết dân. Mỗi năm có hàng trăm người dân lương thiện đã bị đánh chết trong đồn công an, trong trại giam.
- Tội ác hủy hoại giá trị đạo đức, văn hóa Việt Nam, làm tha hóa con người Việt Nam, biến đổi con người Việt Nam sáng tạo, trung thực và yêu thương thành con người công cụ, tàn ác và giả dối.
- Tội ác cắt nửa thác Bản Giốc kì vĩ ở Cao Bằng, cắt cả bức tường thành cổng nước sừng sững của lịch sử ở Lạng Sơn dâng cho Trung Quốc.
- Tội ác mang lợi ích của đất nước, của giống nòi đánh đổi lấy lợi ích của đảng cộng sản.
- Tội ác kí những cam kết ràng buộc dân tộc Việt Nam vào thân phận chư hầu của Trung Quốc. Kí những cam kết mở cửa đón Trung Quốc vào ém quân ở những vùng đất chiến lược như dải rừng đầu nguồn rộng lớn ở Tây Bắc, nóc nhà Tây Nguyên, cảng nước sâu Vũng Áng, dải đất ven biển miền Trung.
- Tội ác đưa nền kinh tế Việt Nam ngày càng phụ thuộc vào Trung Quốc, ngày càng ngập trong bẫy nợ của Trung Quốc...
Không sao kể xiết tội ác của nhà nước cộng sản cai trị suốt hơn nửa thế kỉ qua.
Với những tội ác "Trúc Lam Sơn không ghi hết tội" nhưng nhà nước cộng sản cai trị vẫn ngạo ngược tồn tại vì nhà nước cộng sản cai trị vừa vô pháp, vô luân, cai trị bằng bạo lực chà đạp lên pháp luật. Ngang nhiên tước đoạt quyền con người và quyền công dân của người dân. Cho an ninh đến bao vây chặn cửa nhà dân, không cho người dân ra khỏi nhà tham gia những hoạt động bình thường, chính đáng và hợp pháp của công dân. Tùy tiện bắt dân, đánh dân. Trong cuộc biểu tình ôn hòa hợp pháp ngày 10/06/2018 phản đối luật Đặc khu kinh tế và luật An ninh mạng diễn ra rầm rộ từ Bắc đến Nam, hàng ngàn người dân bị bắt giam phi pháp, bị công an nhà nước cộng sản cai trị đánh đòn thù. Công dân trẻ Nguyễn Minh Kha vừa bước vào tuổi 18 ở Phan Rí, Bình Thuận bị đánh đến cận kề cái chết đang phải cấp cứu ở bệnh viện Chợ Rẫy, Sài Gòn. Công dân Trịnh Văn Toàn, 32 tuổi bị đánh chấn thương sọ não ở nhà giam dã chiến dựng lên trong sân Tao Đàn, quận Một, Sài Gòn. Vừa cai trị bằng bạo lực vô pháp, vô luân, vừa cai trị bằng tự tạo ra thứ luật pháp phản con người, phản tiến hóa và vô cùng nghiệt ngã với dân.
Nhà nước cộng sản cai trị dành tối đa công sức xây dựng luật pháp tước đoạt những giá trị làm người của người dân, tước đoạt sức mạnh của nhân dân. Tài sản của dân, tài nguyên của nước bị luật hóa thành tài sản riêng của nhóm quyền lực cai trị.
Luật pháp nhà nước cai trị chỉ tập trung vào hai điều :
- Một là, tước đoạt giá trị làm người của người dân mà luật an ninh mạng là dẫn chứng mới nhất, rõ nhất. Tôi sẽ có bài viết riêng về bộ luật mang tên An ninh mạng nhưng thực chất chỉ là bộ luật An ninh đảng. Ở đây chỉ nêu ngay một ý nhỏ là.
Cách mạng công nghiệp và cách mạng tư sản dân quyền thế kỉ 18 đã đánh thức ý thức cá nhân trong mỗi con người thức dậy. Với ý thức cá nhân, con người có mặt trong cuộc đời là những cá thể riêng biệt không còn lẫn lộn trong bầy đàn nữa, là những cái Tôi nhỏ bé nhưng lấp lánh. Cái Tôi có mặt ở hạ tầng xã hội thì ở thượng tầng kiến trúc, pháp luật liền ghi nhận quyền của những cái Tôi cá nhân làm chủ cuộc đời mình và quyền của những cái Tôi công dân làm chủ đất nước mình. Đó là điều đã diễn ra ở những nhà nước phục vụ từ thế kỉ 18. Đến cách mạng công nghệ thông tin cuối thế kỉ 20 đã nâng những cá nhân lên thành những người khổng lồ mang tầm vóc vũ trụ và pháp luật nhà nước phục vụ một lần nữa lại mở rộng quyền của những cá nhân trong không gian vũ trụ mà nền văn minh tin học mở ra.
Đã bước sang thế kỉ 21 nhưng Luật an ninh đảng núp dưới cái tên Luật an ninh mạng của nhà nước cộng sản cai trị Việt Nam vẫn không nhìn nhận những quyền cơ bản của con người, như: Quyền có đời sống riêng, có thế giới riêng của cái Tôi, quyền riêng tư. Quyền tiếp nhận thông tin. Quyền tự do ngôn luận. Quyền có tư tưởng, chính kiến riêng. Quyền tự do công khai bộc lộ tư tưởng chính kiến đó. Quyền làm chủ đất nước. Quyền hạch tội, lên án và phế truất những công bộc được dân trao cho quyền lực nhà nước, được nhận lương cao của dân, được hưởng ơn dày của nước nhưng chỉ làm những việc hại dân, hại nước. Bộ luật hình sự với những điều 79, 88, 258 đã dán băng keo bịt mồm, bưng mắt, dán tai người dân thì nay Luật an ninh đảng núp dưới tên An ninh mạng với những điều 2, 8, 15 lại dán thêm một lớp băng keo đen lên mồm, mắt, tai người dân.
- Hai là, làm luật biến quyền lực của dân thành quyền lực của nhà nước cai trị, biến tài sản của dân, tài nguyên của nước thành tài sản của nhà nước cai trị. Nhà nước cai trị thực chất chỉ là một nhóm lợi ích lớn nhất trong những nhóm lợi ích đối lập với lợi ích nhân dân do nhà nước cai trị tạo ra. Luật pháp nhà nước cai trị không những dành cho nhóm lợi ích cai trị nhiều đặc quyền, đặc lợi mà còn tước đoạt quyền lực của dân, tước đoạt tài nguyên của nước giao cho nhóm lợi ích cai trị.
Hiến pháp 2013 với Điều 4 : Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội đã tước đoạt quyền lực của dân là tự do bầu chọn lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội, giao quyền lực đó cho đảng cộng sản, nhóm lợi ích lớn nhất trong nhà nước cai trị. Điều 53 : Đất đai là sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lí đã tước đoạt quyền sở hữu tài sản đất đai của người dân, giao tài sản lớn nhất của người dân là đất đai cho nhóm lợi ích cai trị.
Luật đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt Vân Đồn – Bắc Vân Phong – Phú Quốc cho thấy nhà nước cai trị đã xây dựng cả những bộ luật mang tài nguyên đất đai lãnh thổ của nước ra đánh đổi lấy sự bảo đảm từ nhà nước thực dân chủ nợ Đại Hán cho sự tồn tại của nhà nước cộng sản cai trị Việt Nam.
Cách mạng công nghệ liên tiếp diễn ra với nhịp độ ngày càng gấp gáp, dồn dập. Hoạt động sản xuất kinh doanh cũng biến động không ngừng đòi hỏi sự nhạy bén, thích ứng không ngừng của nhà sản xuất kinh doanh. Trong sự biến đổi đó, những nhà đầu tư công nghiệp thực sự, chỉ nhằm lợi nhuận kinh tế không cần thời gian thuê đất 70 năm, 99 năm.
Chỉ kinh doanh bất động sản hoặc núp bóng kinh doanh nhằm mưu đồ đất đai lãnh thổ mới cần thời gian thuê đất lâu dài để thay sắc tộc, thay dòng máu, thay màu cờ mảnh đất thuê. Chỉ có khát vọng đất đai, lãnh thổ mới cần đến quyền chuyển nhượng, quyền kế thừa mảnh đất thuê. Chỉ có đầu óc thực dân mới cần mảnh đất thuê 99 năm cùng với quyền chuyển nhượng, kế thừa. Đáp ứng mọi đòi hỏi về mưu đồ đất đai, lãnh thổ của thực dân chủ nợ Đại Hán, Luật đặc khu kinh tế Vân Đồn, Bắc Vân phong, Phú Quốc thực chất chỉ là văn bản hợp thức hóa việc cắt đất dâng nhượng cho thực dân chủ nợ Đại Hán mà thôi.
Chủ nghĩa thực dân cũ và thực dân mới đã vĩnh viễn lùi vào quá khứ lịch sử từ giữa thế kỉ trước. Ngày nay với sự trổi dậy của nhà nước Đại Hán, trong túi đã rủng rỉnh đồng tiền, trong dạ luôn thèm khát đất đai, lãnh thổ và trong đầu luôn thôi thúc ý chí cai trị thiên hạ thì cũng là lúc trỗi dậy một nhà nước thực dân kiểu mới, nhà nước thực dân chủ nợ Đại Hán.
Không những là con nợ kinh tế mà với cam kết Thành Đô 1990, Nhà nước cộng sản cai trị Việt Nam còn là con nợ chính trị của nhà nước thực dân chủ nợ Đại Hán. Làm ra cả một bộ luật mở đặc khu kinh tế ở ba vùng đất đẹp, ba vùng đất hiểm Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc không phải từ đòi hỏi của nền kinh tế Việt Nam mà chỉ là sự vâng lời trước đòi hỏi của nhà nước chủ nợ thực dân Đại Hán, là văn bản thế chấp của con nợ với chủ nợ mà thôi.
Vân Đồn (Quảng Ninh) nhìn từ trên cao (Ảnh Lã Nghĩa Hiếu)
Những nhà đầu tư thực sự vì mục đích kinh tế cũng không chọn chốn tù túng Vân Đồn, không chọn nơi đã quá chen chúc, quá chật chội và quá đắt đỏ là Bắc Vân Phong, Phú Quốc.
Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc chỉ có hai giá trị nổi trội là :
- Giá trị nổi trội dễ thấy của Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc là kinh tế du lịch. Đó là nơi rừng thẳm, núi biếc soi bóng xuống biển cả hùng vĩ. Nơi lung linh thơ mộng của núi non gặp hùng tráng, kì vĩ của biển cả.
Đang là thời của du lịch. Thời của những dòng người bất tận đi khám phá vẻ đẹp tư nhiên của thế giới và khám phá vẻ đẹp dân dã ở những nền văn hóa của loài người. Ngành du lịch đang là thời thượng và biết khai thác du lịch bền vững thì Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc sẽ là sản phẩm du lịch hấp dẫn, độc đáo siêu hạng. Chỉ làm kinh tế du lịch thì không cần đặc khu kinh tế, càng không cần thời gian thuê đất 70 năm, 99 năm. Nhưng mượn cớ đầu tư kinh doanh để làm chủ mảnh đất chiến lược mới cần đặc khu. Mượn cớ du lịch để di dân chiếm đất mới cần được quyền chuyển nhượng, quyền kế thừa mảnh đất thuê, mới cần thời gian thuê đất 70 năm, 99 năm. Càng lâu càng tốt. Càng lâu càng nhiều cứt trâu hóa bùn.
- Nhưng giá trị lớn nhất, đặc biệt nhất ở Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc là giá trị quân sự, giá trị quốc phòng. Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc thực sự là những yếu huyệt trong phòng thủ đất nước với Việt Nam. Nhưng cũng là những đầu cầu đổ bộ của quân xâm lược thôn tính Việt Nam. Khi đó Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc sẽ là những cứ điểm quân sự liên kêt với Tây Nguyên, với Vũng Áng, Hà Tĩnh mà Trung Quốc đã làm chủ, liên kết với căn cứ tàu ngầm hat nhân Du Lâm trên đảo Hải Nam, liên kết với hạm đội Nam Hải ngoài biển Đông, liên kết với căn cứ quân sự trên bãi Chữ Thập trong quần đảo Trường Sa, liên kết với căn cứ quân sự trên đảo Phú Lâm trong quần đảo Hoàng Sa thì cả dải đất Việt Nam đã nằm gọn trong bàn tay thép Trung Quốc.
Trước mắt, đó là chỗ dựa, là điểm tựa cho nhà nước cộng sản cai trị Việt Nam đang đi sâu vào con đường chống lại giống nòi Việt Nam. Đó là sức mạnh bạo lực nhà nước Trung Quốc đàn anh có mặt thường trực tại chỗ bảo đảm cho sự tồn tại của nhà nước cộng sản cai trị Việt Nam trước sức mạnh bão táp của người dân đang cuồn cuộn nổi lên chống bè lũ bán nước và cướp mước, giành lại sự toàn vẹn lãnh thổ cho nước, giành lại giá trị làm người cho người dân. Đến lúc nhà nước cộng sản cai trị Việt Nam phải run rảy và công khai núp dưới họng súng Trung Quốc để tồn tại thì nhà nước đó cũng chỉ còn là chính quyền quận, huyện của nhà nước Đại Hán mà thôi.
Có ý thức dân tộc và lòng yêu nước thì không khi nào mang giá trị quân sự, mang thế hiểm về phòng thủ đất nước ra kinh doanh. Mượn cớ làm kinh tế mở toang những yếu huyệt trong thế trận phòng thủ đất nước cho nước ngoài vào chiếm đóng lâu dài 70 năm, 99 năm, như cách nói của một ngài đương nhiệm Phó Chủ tịch Quốc hội là: đón phượng hoàng vào làm tổ! Vâng, phượng hoàng vào làm tổ ở đó, có mặt ở đó để bảo lãnh cho lũ chim sẻ, chim ri tại chỗ phá nát dải đất hình chữ S.
"Xin khẳng định với cô bác, các anh chị cử tri là không bao giờ có chuyện bán đất cho nước ngoài". Ông đại biểu quốc hội của tỉnh Đồng Nai và là trưởng ban tuyên giáo của đảng cộng sản, Võ Văn Thưởng véo von với người dân Biên Hòa sáng ngày 20/06/2018 như vậy. Cũng như ông bộ trưởng bộ Kế hoạch Đầu tư Nguyễn Chí Dũng chủ trì soạn thảo Dự luật đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc trợn mắt, gân cổ cãi trước quốc hội khóa 13 kì họp thứ năm rằng trong luật không có một từ Trung Quốc nào mà bảo luật mở cửa đón Trung Quốc chỉ là suy diễn. Trong luật cũng không có từ bán đất nào, và ông trưởng ban tuyên giáo cứ mạnh miệng : "không bao giờ có chuyện bán đất cho nước ngoài".
Vâng, các ông không bán đất. Các ông chỉ đón sự có mặt của sức mạnh Trung Quốc vào đất nước Việt Nam bảo lãnh cho sự sống còn của đảng các ông, bảo lãnh cho nhà nước cai trị của các ông mãi mãi nô dịch người dân Việt Nam mà thôi. Nhưng khi nhà nước cai trị của các ông làm xong nhiệm vụ là đàn áp, tù đày, bắn giết, đánh phá tan tác sức mạnh đoàn kết của dân tộc Việt Nam thì lúc đó nhà nước cai trị của các ông cũng hết vai trò lịch sử. Nhà nước Đại Hán sẽ loại các ông khỏi vị trí nhà nước, đưa các ông về thân phận bù nhìn tay sai cấp khu, cấp vùng và nhà nước Đại Hán sẽ trực tiếp cai trị giống nòi Việt Nam như họ đang cai trị Tây Tạng, Tân Cương.
Khi đó các ông sẽ phải kí giao kèo bán sỉ cả đất nước Việt Nam gấm hoa cho Trung Quốc chứ các ông không bán lẻ từng mảnh đất. Thời kì cắt từng mảnh đất, nửa thác Bản Giốc, cả bức tường thành cổng nước ở Lạng Sơn, bãi đá Gạc Ma ở biển Đông ra bán lẻ đã qua lâu rồi. Bán như vậy vừa lộ liễu, bị nguyền rủa đời đời kiếp kiếp, vừa không thành tấm thành món. Buôn bán cò con quá, không xứng với thế hệ cai trị đều có bằng giáo sư, tiến sĩ như các ông. Hơn nữa kẻ mua đất đã là thực dân chủ nợ của thế giới rồi, kẻ mua đã nắm trọn đất nước Việt Nam và đã là chủ nợ cả về kinh tế và chính trị nhà nước cai trị của các ông rồi, chủ nợ thực dân Đại Hán cũng không cần mua bán cò con với các ông nữa.
Vì sự tồn tại của một đảng chính trị, một nhà nước cai trị đã gây quá nhiều nợ máu với dân, đã là rác thải của lịch sử, vì ý chí quyết duy trì một nhà nước cai trị trung cổ với hơn 90 triệu dân Lạc Việt và vì run sợ trước sự cựa quậy thức tỉnh của người dân, các ông đã cả gan lấy tiền thuế nghèo của dân mua máy bay lên thẳng vũ trang, mua tên lửa vác vai trang bị cho công an cấp huyện chống lại sự nổi dậy giành quyền làm chủ đất nước của người dân thì việc các ông đón đội quân thực dân Đại Hán mặc thường phục vào ém sẵn ở Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc cũng là tất yếu.
Người dân đã thấy rõ cách giải bài toán của các ông khi dân nổi can qua là: Cùng với những máy bay lên thẳng có gắn đại liên, rốc két túc trực ở sân trước sân sau trụ sở công an huyện, cùng với những ống phóng tên lửa trên vai đội quân công an huyện đông như kiến, đội quân thực dân Đại Hán mặc dân sự ém sẵn ở Bô xít Tây Nguyên, ở Formosa Vũng Áng, ở Vân Đồn, ở Bắc Vân Phong, ở Phú Quốc sẽ bảo đảm cho các ông không phải chui ống cống, bảo đảm cho nhà nước cai trị đầy tội ác của các ông chưa bị ném vào sọt rác lịch sử khi 90 triệu người dân Việt Nam thức tỉnh và can qua nổi lên. Với đạo quân khác máu tanh lòng có mặt thường trực trên đất nước Việt Nam, với trực thăng vũ trang, tên lửa vác vai trang bị tới tận công an cấp huyện, nhà nước cai trị của các ông sẽ tồn tại trên máu dân đổ ra lênh láng khắp đất nước. Các ông đã lấy máu dân giải bài toán về sự tồn tại của nhà nước cộng sản cai trị.
Cam kết Thành Đô 1990 cũng không mang từng mảnh đất Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc ra bán lẻ mà mang cả đất nước Việt Nam, cả giống nòi Việt Nam ra thế thấp để nhận sự bảo lãnh của sức mạnh bạo lực nhà nước Trung Quốc cho sự tồn tại của đảng cộng sản Việt Nm, cho sự tồn tại của nhà nước cộng sản cai trị Việt Nam. Luật mở cửa đón Trung Quốc vào Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc cũng chỉ là một bước đi theo lộ trình mà cam kết Thành Đô 1990 đã vạch từ gần 30 năm trước mà thôi.
Dù lịch sử chọn lối đi bất ngờ đến đâu, dù nhà nước cộng sản cai trị Việt Nam có chống lại nhân dân, chống lại qui luật của lịch sử hung hãn điên cuồng đến đâu cũng không tránh được cái kết thúc tất yếu : Hơn 90 triệu người dân Việt Nam thức tỉnh đứng lên giành lại quyền làm chủ đất nước Việt Nam thân yêu của mình.
Người dân không thể cam chịu mãi. Những gì diễn ra trong hai ngày chủ nhật 10/06/2018 và 17/06/2018 ở Hà Nội, Sài Gòn, Bình Thuận cho người dân nhận ra rõ ràng rằng nhà nước cộng sản cai trị đã coi 90 triệu người dân Việt Nam như kẻ thù, như tội phạm. Công an nhà nước cộng sản cai trị rải đầy trung tâm thành phố Sài Gòn, nơi thường diễn ra những cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm lược, biểu tình phản đối nhà nước cộng sản hèn với giặc, ác với dân. Biểu tình là quyền hợp pháp của công dân nhưng công an cộng sản đã tùy tiện bắt bất cứ người dân nào đi trên đường, ngồi trong quán cà phê. Bắt giữ thô bạo như bắt con vật xổng chuồng đưa về nơi giam giữ, xét hỏi, tra tấn dã man, vu cho tội tham gia biểu tình phản đối luật đặc khu kinh tế, luật an ninh mạng. Nhà nước cộng sản đã hiện nguyên hình chỉ là một lực lượng chiếm đóng tàn bạo.
Càng gây tội ác với dân là càng gần đến ngày tàn ô nhục của một nhà nước cai trị chống lại nhân dân, càng gần đến ngày người dân điểm mặt, tính số tội ác của từng tên tội đồ với nhân dân, với lịch sử Việt Nam : Những tên đã rước thảm họa cộng sản về tàn sát giống nòi Việt Nam. Những tên áp đặt và duy trì học thuyết cộng sản quái thai, học thuyết tiêu diệt tầng lớp thượng lưu, tiêu diệt những người giầu có của cải, giầu có trí tuệ, đưa những người kém cỏi không tự nuôi nổi mình phải cam phận nghèo đói từ đời này sang đời khác lên địa vị thống trị xã hội.
Nhờ có cộng sản, những kẻ tầm thường leo tót lên vị trí vai vế trong nhà nước cộng sản cai trị. Vì vậy họ đã không từ một tội ác nào để duy trì nhà nước cộng sản cai trị. Cả tội ác bán nước, rước giặc về, dâng đất nước cho giặc để giữ được chiếc ghế cai trị của họ, họ cũng không từ.
Phạm Đình Trọng
(24/06/2018)