Phần 1
Nắm giữ miền Bắc
Trung Quốc củng cố biên giới phía Nam và mở rộng vòng đai ảnh hưởng trên toàn miền Bắc Việt Nam
Lo âu trước sự áp đặt của Bắc Kinh về kinh tế và sự xuất hiện ngày càng đông đảo người Trung Quốc trên lãnh thổ Việt Nam, nhiều cán bộ cách mạng lão thành, sĩ quan quân đội và đảng viên kỳ cựu đã viết thư, viết kiến nghị gởi lên Ban lãnh đạo Đảng cộng sản yêu cầu bạch hóa những thỏa thuận đã ký trong Hội nghị Thành Đô. Theo suy nghĩ của những công thần cách mạng này, nguy cơ mất chủ quyền bắt nguồn từ Hội nghị Thành Đô tháng 9 năm 1990.
Kiến nghị của 20 cựu sĩ quan quân đội ngày 02/09/2014 và Hội nghị Thành Đô
Cho đến nay nội dung cũng như những thỏa thuận trong Hội nghị Thành Đô chưa được công bố. Phía Việt Nam hoàn toàn im lặng về hội nghị này. Cổng thông tin Đảng cộng sản Trung Quốc chỉ công bố tấm hình chụp chung những người tham dự hội nghị.
Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng (phía Trung Quốc) đã hội đàm với Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Thủ tướng Đỗ Mười (phía Việt Nam) về vấn đề bình thường hóa quan hệ hai đảng và các quốc gia từ ngày 3 đến ngày 4/9/1990. Ảnh được chụp sau cuộc hội đàm. Nguồn : www.idcpc.org.cn
Mặc dầu vậy, một phần tư liệu về Hội nghị bí mật Thành Đô 1990 đã được tiết lộ qua "Lý Bằng Nhật ký ngoại sự" (1) và "Hợp tác phát triển Hòa Bình".
Ngay khi hội nghị vừa kết thúc, nhật báo Tứ Xuyên loan tải một thông điệp của phái đoàn Việt Nam : "Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây… Phía Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên và cho Việt Nam thời gian 30 năm để Đảng cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc !" (2). Nội dung của tuyên bố này đã được tờ Thời báo Hoàn Cầu và Tân Hoa Xã cùng nhau công bố những chi tiết mà hai cơ quan này gọi là sự thật về "Kỷ Yếu Hội Nghị" trong những ngày vừa qua với những câu chữ như sau :
Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa cộng sản, Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam sẽ cố gắng hết sức mình để vun đắp tình hữu nghị vốn lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp trong quá khứ. Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh , như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…
Phía Trung Quốc đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.
Sự thật như thế nào ?
Theo RFA, số ra ngày 06/08/2014 "Đã đến lúc giải mật Hội Nghị Thành Đô ?", và BBC, số ra ngày 17/10/2014 "Đã đến lúc công bố mật ước Thành Đô ?" (3), rất nhiều người đã thấy nguy cơ mất độc lập và chủ quyền sau hội nghị này. Theo RFA, số ra ngày 06/06/2014, "Nỗi sợ hãi của Đảng và Nhà nước Việt Nam" (4), người đầu tiên báo động nguy cơ mất chủ quyền là cố ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch với câu nói bất hũ : "Một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã khởi sự".
Nhưng phản ứng một cách công khai và qui mô nhất là Kiến nghị của một số cựu sĩ quan Lực lượng vũ trang nhân dân (5) gửi Lãnh đạo Nhà nước và Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 2/9/2014 yêu cầu :
1. Chấm dứt ngay việc huy động quân đội vào những sự vụ mang tính đối kháng với nhân dân Việt Nam, như giải tỏa đất đai, ngăn chặn các cuộc biểu tình yêu nước ôn hòa… ;
2. Phải sớm khôi phục danh dự và quyền lợi đã bị lãng quên của các liệt sĩ và thương binh đã hy sinh xương máu trong chiến tranh biên giới phía Bắc và ngoài biển đảo… ;
3. Phải xác định rõ ràng và chính xác đối thủ là những thế lực có thể đe dọa chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ và Tổ quốc trong hiện tại và trong tương lai… ;
4. Phải báo cáo rõ ràng với nhân dân về thực trạng quan hệ Việt-Trung và về những ký kết liên quan đế lãnh thổ trên biên giới, biển đảo và các hợp đồng kinh tế ảnh hưởng lớn đến an ninh và chủ quyền của quốc gia.
Khi nhắc đến Hội nghị Thành Đô năm 1990, đoạn viết trích từ Tân Hoa Xã và Hoàn Cầu Thời Báo tháng 4 năm 2014 gây lo ngại : "…Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh , như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…".
Bản Kiến nghị yêu cầu Chủ tịch nước và Thủ tướng cho biết rõ hai bên đã thỏa thuận cụ thể cái gì chứ không phải là những câu sáo ngữ. Bản Kiến nghị còn yêu cầu lãnh đạo Đảng và Nhà nước có đối sách đúng đắn trước mưu đồ và hành vi xâm lược của thế lực bành trướng Trung Quốc, không thể chấp nhận thái độ thể hiện sự thần phục họ, và đòi hỏi phải công khai, minh bạch thực trạng quan hệ giữa hai bên.
Đây rõ ràng là những lời tâm huyết của những người lính đã hy sinh cả đời mình cho sự trường tồn của đất nước. Không có lời lẽ nào hơn là sự kính phục và lòng nễ trọng. Nhưng, như tất cả những kiến nghị, tâm thư của những cán bộ lão thành còn quan tâm đến tương lai đất nước, bản kiến nghị này sẽ không bao giờ được trả lời và chìm vào quên lãng. Không chừng những người ký tên và con cháu của họ có thể bị trù dập bởi chính guồng máy mà họ đã cống hiến cả cuộc đời để phục vụ nếu không mua chuộc được sự im lặng.
Cựu Đại tá Bùi Văn Bồng, một trong số 20 người ký tên, nói : "Trong tâm tư của các cựu chiến binh thì họ ủng hộ đông lắm nhưng khi lên tiếng ủng hộ thì họ sợ sệt thế này thế kia. Có khi bị cho là suy thoái tư tưởng" (BBC, 04/09/2014).
Về phía Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam, không ai dại gì đứng ra trả lời những chất vấn chính đáng này, một phần vì sợ bị lộ danh và mang tội với núi sông, một phần vì sợ bị mất quyền lợi cho chính mình và gia đình khi tiết lộ sự thật. Có bao giờ một nghi phạm tự viết cáo trạng tố cáo chính mình ? Hội nghị Thành Đô là một sai phạm lớn mà Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam muốn che giấu.
Nội dung những thỏa thuận Thành Đô có những gì mà những lãnh đạo cấp cao và cấp trung trong đảng và quân đội không dám công bố ?
Về Hội nghị Thành Đô, nội dung cốt lõi của Hội nghị đã được phổ biến trên Wikipedia một cách khá trung thực và có thể tin cậy được (6). Theo đó, cuộc họp cao cấp giữa hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc đã được tổ chức trong khách sạn Kim Ngưu (Kim Ngưu tân quán) tại Thành Đô (thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc) trong hai ngày 3 và 4/9/1990, nhằm bình thường hóa quan hệ giữa hai nước và hai đảng cộng sản. Mục tiêu trước mắt của Hội nghi Thành Đô là chấm dứt sự hiện diện của quân đội Việt Nam trên đất Campuchia, kế đến là bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc.
Từ sau khi bình thường hóa quan hệ giữa hai nước năm 1991, trên cơ sở những nguyên tắc được ghi nhận trong Hội nghị Thành Đô năm 1990, quan hệ hữu nghị giữa hai nước được cụ thể hóa qua những Thông cáo chung năm 1991, năm 1992, năm 1994, năm 1995. Trong suốt thời gian đó, phái đoàn chuyên viên hai bên Việt Nam và Trung Quốc đã ráo riết trao đổi, bàn bạc, thảo luận để hoàn tất hiệp ước biên giới trên đất liền.
Cuộc thảo luận về biên giới trên đất liền chắc hẵn đã rất gay go, vì kéo dài trong suốt gần 10 năm. Đảng cộng sản Việt Nam có lẽ là phía mong muốn ký kết hiệp ước biên giới trên đất liền trước hết, vì muốn có sự rõ ràng trong việc phân định làn ranh phân chia hai lãnh thổ sau cuộc chiến biên giới năm 1979. Mặc dù hai bên đều nói thắng lợi trong cuộc đụng độ này, nhưng phía Trung Quốc bị thiệt hại rất nặng về nhân mạng và phía Việt Nam bị chiếm rất nhiều cao điểm và vị trí chiến lược quan trọng dọc vùng biên giới các tỉnh biên giới phía Bắc. Chính vì thế, mặc dù Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được ký ngày 30/12/1999, nhưng phía Trung Quốc đã cố tình kéo dài sự hiện diện hay gây nhiều khó khăn trong việc di dời căn cứ quân sự và phải chờ đến 8 năm sau, ngày 31/12/2008 công tác cắm mốc mới hoàn tất. Tổng kết : hai bên đã phân giới khoảng 1.400 km biên giới, cắm 1.971 cột mốc, trong đó có 1.549 cột mốc chính và 422 cột mốc phụ. Toàn bộ 38 chốt quân sự trên đường biên giới đã được dỡ bỏ.
Cùng lúc đó, cái bất ngờ cho phía Việt Nam là "Hiệp định về phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong Vịnh Bắc Bộ" đã được ký một năm sau đó, ngày 25/12/2000. Trong những cuộc thảo luận gấp rút xác định đường phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong Vịnh Bắc Bộ, phía Việt Nam có lẽ gần như bị động vì thiếu chuẩn bị, thiếu dữ liệu và thiếu hiểu biết chuyên môn về luật biển. Trong những thỏa thuận hợp tác ký kết sau năm 2000, phía Trung Quốc tập trung mọi nổ lực để củng cố sự hiện diện của họ trong 7 tỉnh dọc biên giới và trong Vịnh Bắc bộ, một hình thức để vô hiệu hóa hai văn kiện về biên giới ký trong những năm 1999 và 2000.
Cũng nên lưu ý là văn bản những ký kết về biên giới trên đất liền và trong Vịnh Bắc bộ trong thời kỳ này mang hai tên khác nhau : Hiệp ước cho biên giới trên đất liền và Hiệp định cho lãnh hải trong Vịnh Bắc bộ. Theo định nghĩa, Hiệp ước (Treaty) là một thỏa thuận ký kết giữa hai hay nhiều nước ; ở đây hiệp ước có thể hiểu đó là văn bản được ký kết sau khi đã thảo luận giữa các bên (có thể sẽ có bên không thực hiện). Còn Hiệp định (Agreement) là bản giao ước ký kết giữa các nước ký để cùng nhau thỏa thuận về một vấn đề nào đó ; ở đây là đường phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong Vịnh Bắc Bộ, và có thể thay đổi theo từng giai đoạn. Trong vụ việc này, phía Trung Quốc đã không vô tư khi chọn cách đặt tên riêng cho từng văn kiện về biên giới.
Chỉ sau khi ký xong hai văn kiện cơ bản về phân đinh biên giới trên đất liền và trong vịnh Bắc bộ, từ sau năm 2000, quan hệ hữu nghị giữa hai Đảng cộng sản và hai Nhà nước trở nên thắm thiết hơn và bước sang giai đoạn hợp tác toàn diện : những Thông cáo chung trở thành những Tuyên bố chung.
Những Tuyên bố chung từ năm 2000 đến nay
Theo Thư viện Pháp luật tư vấn (7), "Tuyên bố chung là Văn kiện ghi nhận về sự thống nhất quan điểm, lập trường về các vấn đề quốc tế trong các cuộc đàm phán, gặp gỡ, viếng thăm giữa các đại diện của hai hoặc nhiều hơn quốc gia, thường là giữa những người đứng đầu quốc gia, những người đứng đầu chính phủ và được công bố rộng rãi trên thế giới. Tuyên bố chung được công bố tại nước ký kết hoặc được công bố cùng một thời điểm tại các nước tham gia đàm phán. Việc ra được tuyên bố chung chứng tỏ là các bên tham gia đàm phán đã có sự thống nhất về quan điểm, lập trường trong cách nhìn nhận và giải quyết các vấn đề có liên quan đến hai nước hoặc các vấn đề quốc tế, hoặc trước đây có sự khác biệt nay đã tìm được tiếng nói chung để đi đến hành động chung. Nó cũng chứng tỏ quan hệ của các quốc gia tham gia đàm phán là tốt đẹp hoặc đã được cải thiện. Ngược lại, các bên tham gia đàm phán không ra được tuyên bố chung là dấu hiệu chứng tỏ quan hệ của các bên tham gia đàm phán đã và đang nảy sinh những tranh chấp".
Ngày 25/12/2000, hai bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc và Việt Nam đã ra một Tuyên bố chung về Hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Ở đây cũng nên lưu ý về hai cụm từ "hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới" và "đối tác chiến lược toàn diện", Đảng cộng sản Việt Nam đã đặc biệt dành hai cụm từ này cho riêng Trung Quốc. Đối với các quốc gia khác, Bộ Ngoại giao Việt Nam chỉ sử dụng cụm từ "đối tác chiến lược toàn diện" với Nga và Ấn ; đối với các quốc gia phương Tây, Nhật Bản, Hàn Quốc và ASEAN, Việt Nam chỉ sử dụng cụm từ "đối tác chiến lược" ; và "đối tác toàn diện" với các quốc gia Châu Mỹ la-tinh, Châu Phi và một vài quốc gia Châu Âu còn lại.
Trở lại với Tuyên bố chung về Hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (2000), hai cấp lãnh đạo ngoại giao Trung Quốc và Việt Nam đã phác họa một khung thảo luận và hợp tác cấp Đảng và Nhà nước gồm 10 điểm như sau :
1. Duy trì gặp gỡ cấp cao thường xuyên, tạo thêm động lực mới thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển…
2. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục đối với thế hệ trẻ hai nước về truyền thống hữu nghị…
3. Tăng cường và mở rộng hợp tác của Ủy ban liên Chính phủ trong các lĩnh vực kinh tế thương mại và khoa học kỹ thuật giữa hai nước…
4. Hai bên tiếp tục tăng cường hợp tác, phối hợp giữa hai bên tại các diễn đàn đa phương quốc tế và khu vực…
5. Tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, thắt chặt hơn nữa mối quan hệ giữa các cơ quan quốc phòng và quân đội hai nước…
6. Tăng cường trao đổi và hợp tác về văn hóa, thể dục thể thao, và các phương tiện thông tin đại chúng…
7. Mở rộng hợp tác trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, bao gồm trao đổi lưu học sinh, cán bộ giảng dạy…
8. Tăng cường hợp tác trong các mặt phòng chống các loại tội phạm xuyên quốc gia…
9. Ký kết những Hiệp ước biên giới trên bộ Việt-Trung 1999, Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ 2000, Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ...
10. Việt Nam công nhận Chính phủ nước Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa là Chính phủ hợp pháp duy nhất đại diện cho toàn Trung Quốc ; Đài Loan là một bộ phận lãnh thổ không thể chia cắt của Trung Quốc…
Theo khung thảo luận và nội dung 10 điểm hợp tác cấp Đảng và Nhà nước này, ba điểm đầu thiết đặt nền tảng hợp tác : giữ gìn quan hệ giữa hai Đảng và Nhà nước (quá khứ), đào tạo thế hệ trẻ (tương lai) và thành lập Ủy ban liên chính phủ (hiện tại). Chính Ủy ban liên chính phủ này đặt khung cho sự lệ thuộc Việt Nam vào Trung Quốc trong đủ mọi lãnh vực : kinh tế thương mại và đầu tư, hợp tác khoa học và kỹ thuật, nông lâm ngư nghiệp, tài chính tiền tệ và kinh tế vĩ mô, giao thông vận tải đường bộ và đường sắt, viễn thông và tin học, du lịch và lữ hành, khai thác lưu vực sông Mekong, và sau cùng là xây dựng, phát triển đô thị. Bảy điểm còn lại phân chia khu vực hợp tác : quốc tế, quốc phòng, văn hóa, giáo dục, tư pháp, biên giới và ngoại giao. Nói chung đây là khung hợp tác chỉ dành riêng cho những lãnh đạo quốc gia.
Nhân sự được tuyển vào Ủy ban liên chính phủ này rất là chọn lọc. Phía Trung Quốc tuyển lựa rất kỹ nhân sự của họ để đưa vào Ủy ban này, đó là những chiến lược gia, những chuyên viên có trình độ học vấn và kiến thức cao trong từng lãnh vực chuyên môn để áp đặt sự khống chế của Bắc Kinh và mang về tối đa những quyền lợi cho Trung Quốc.
Từ Ủy ban này đẻ ra những Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc (Ủy ban hợp tác kinh tế-thương mại, Ủy ban liên hợp hợp tác khoa học kỹ thuật giữa Chính phủ hai nước, Ủy ban liên hợp hợp tác dầu khí, cửa khẩu biên giới…), Nhóm công tác (Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng và Nhóm công tác về hợp tác tiền tệ..), Tổ công tác… Chính những ủy ban và nhóm công tác này thiết kế lãnh vực hợp tác giữa hai nước và, tùy theo chỉ thị của trung ương, ấn định lộ trình thực hiện cho từng giai đoạn. Người của những Nhóm và Tổ công tác này được cài cắm trong khắp các đảng ủy, ban bí thư, ban tham mưu trực thuộc đảng cộng sản, chính phủ, quân đội, công an, an ninh và trong các bộ, ngành kinh tế, tài chính, tư pháp, văn hóa, xã hội, giáo dục…
Những Tổ công tác cho từng lãnh vực được thành lập để khai triển và theo dõi tiến độ thi hành và làm báo cáo gởi lên cấp trên. Sau khi đã bàn bạc, thảo luận và quyết định những lãnh vực hợp tác và phương tiện thực hiện, những tổ và nhóm công tác này đúc kết thành một hồ sơ chi tiết và trình lên những Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc xét duyệt. Mỗi câu, mỗi chữ đều được cân nhắc kỹ lưỡng để không thể bị hiểu sai hay hiểu lầm khi thực hiện. Sau khi được chấp thuận, những hồ sơ này sẽ được trình lên Ủy ban liên chính phủ để đúc kết thành những văn kiện chính thức : ngày và địa điểm ký kết sẽ do cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước hai nước quyết định.
Phía Trung Quốc, cơ quan đầu não chỉ đạo những Ủy ban và nhóm công tác này gồm hai nơi : ở Việt Nam là Tòa Đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội và Tổng lãnh sự quán ở Sài Gòn và những lãnh sự quán khác ; ở Trung Quốc, cơ quan chỉ đạo chính trị nằm ở Quảng Châu (tỉnh Quảng Đông), tài chính ở Phúc Kiến và công nghệ ở Chiết Giang, phối hợp quân sự, an ninh, giáo dục và văn hóa ở Quảng Tây và Vân Nam, hải quân ở Hải Nam.
Một vài thí dụ cụ thể về việc cài cắm người trong các cơ quan Đảng và Nhà nước : về giáo dục : cố vấn Trung Quốc đã góp phần đáng kể trong việc xóa bỏ hoặc viết lại lịch sử chống Trung Quốc trong sách giáo khoa, khuyến khích học tiếng quan thoại như sinh ngữ 1, in cờ Trung Quốc 5 sao nhỏ, ngăn cản không cho tưởng niệm những nạn nhân của Trung Quốc, ủng hộ những bản án nặng cho những ai chống Trung Quốc, ngăn chặn những trang mạng chống Trung Quốc, truy lùng và xử những án tù nặng cho những người xuống đường chống Trung Quốc…
Sự hiện diện đông đảo của những cố vấn này trong các cơ quan Đảng và Nhà nước đã khiến một số cán bộ nòng cốt trong Đảng lo âu, nhưng không ai biết phải làm gì hơn là cam chịu và cảnh giác. Không phải tình cờ bài nói chuyện của Giáo sư Tiến sĩ Thiếu tướng công an Trương Giang Long, Phó Tổng cục trưởng Tổng Cục chính trị Công an nhân dân, đồng thời là Giám đốc Học viện Chính trị Công an nhân dân về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc được phát tán rộng rãi trên mạng vào trung tuần tháng 3 năm 2017 vừa qua.
Giáo sư Tiến sĩ Thiếu tướng công an Trương Giang Long phát biểu trong một buổi học tập chính trị cao cấp tại Học viện Chính trị của Bộ Công an trung tuần tháng 3/2017.
Cho dầu biết rõ Trung Quốc cài cắm người trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước để khống chế mọi sinh hoạt của Việt Nam, toàn bộ cán bộ và đảng viên trong Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam vẫn chấp hành một cách triệt để những quyết định của Ban lãnh đạo Đảng, tức Bộ Chính trị và Trung ương đảng. Do đó chỉ cần nắm số cán bộ lãnh đạo chóp bu của hai cơ quan này là Bắc Kinh nắm toàn quyền lãnh đạo đất nước Việt Nam, bất chấp nguyện vọng của 97 triệu dân Việt và 4,5 triệu đảng viên.
Cuộc gặp mặt cấp lãnh đạo cao nhất giữa hai đảng cộng sản tại Thành Đô thang 3/1990 là một cơ hội "trời cho" mà Bắc Kinh không thể bỏ lỡ. Để củng cố mối quan hệ thâm tình giữa hai đảng cộng sản, từ sau năm 2000, Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc đã phát minh ra "phương châm 16 chữ" và "tinh thần 4 tốt" làm kim chỉ nam chỉ đạo mối quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai Đảng và Nhà nước.
Phương châm 16 chữ
Trong phiên họp cấp lãnh đạo hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc tại Bắc Kinh tháng 2 năm 1999, ông Giang Trạch Dân, Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc công bố phương châm phát triển quan hệ hai nước trong thế kỷ 21 gồm 16 chữ, đó là "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai". (Không hiểu vì lý do gì, phía Việt Nam sau đó lại lồng thêm chữ "vàng" sau 16 chữ này). Tổng bí thư (mãn nhiệm kỳ) Đảng cộng sản Việt Nam lúc đó là ông Lê Khả Phiêu đã hoàn toàn đồng ý và lấy đó làm kim chỉ nam chỉ đạo quan hệ giữa hai đảng và hai nước.
Không biết sau khi ký Hiệp định biên giới ngày 30/12/1999, Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá ngày 25/12/2000 và chấp nhận phương châm 16 chữ này, ông Lê Khả Phiêu đã được phía Trung Quốc hậu đãi như thế nào ? Dư luận chỉ biết vào cuối tháng 1/2009, nhân dịp Tết Kỷ Sửu, một loạt hình ảnh nhà riêng của ông Lê Khả Phiêu được phát tán trên Internet và đã gây xôn xao dư luận : xa hoa và tráng lệ vượt mức thường tình của một viên chức cao cấp (8).
Tháng 11/2000, ngay sau khi được đề cử vào chức vụ Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam thay ông Lê Khả Phiêu, ông Nông Đức Mạnh liền sang Trung Quốc để được Bắc Kinh công nhận. Trong lần gặp gỡ này, Tổng bí thư Giang Trạch Dân "nói rõ" 16 chữ này là phương châm quan trọng chỉ đạo sự phát triển quan hệ hai nước. Và, như để trấn an phía Việt Nam trong quan hệ hợp tác giữa hai Đảng và hai Nước, ông Giang Trạch Dân tô thêm "4 nguyên tắc" vào quan hệ giữa hai nước : độc lập tự chủ, hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Nhưng 4 nguyên tắc này không bao giờ được ghi vào nội dung những Tuyên bố chung và chỉ được nhắc tới trong những thông cáo cấp bộ và ngành mà thôi.
Là một người hiền lành và không có ý kiến, ông Nông Đức Mạnh có lẽ đã được Bắc Kinh chiếu cố đặc biệt để giữ chức Tổng bí thư liên tiếp trong hai nhiệm kỳ. Trong suốt thời gian 10 năm dưới thời Tổng bí thư Nông Đức Mạnh, từ 22/4/2001 đến 19/1/2011, quan hệ giữa hai Đảng cộng sản Trung Quốc và Việt Nam trở nên thắm thiết và nồng ấm hơn bao giờ hết : Trung Quốc đã tích cực giúp đỡ Việt Nam phát triển kinh tế, bù lại Việt Nam nhường cho Trung Quốc quyền chủ động mọi sinh hoạt trong Vịnh Bắc bộ. Cũng như Lê Khả Phiêu, dư luận chỉ biết sự giàu sang của ông Nông Đức Mạnh qua hình ảnh được lan truyền với tốc độ chóng mặt trên các trang mạng xã hội, nhân một cuộc phỏng vấn ngày 19/2/2015, tức mồng một Tết Ất Mùi (9).
Gần đây hơn, ngày 6/5/2018, ngay trước ngày khai mạc Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, trong một bức thư ký tên tập thể, 54 đảng viên đảng cộng sản kỳ cựu yêu cầu ông Nguyễn Phú Trọng hãy công khai tài sản của mình (10).
Điều này cho thấy Bắc Kinh ưu đãi rất hậu hĩnh những cấp lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam để mua sự trung thành và sự thần phục. Những cố gắng giải thích hay biện minh cho sự nhích lại với Mỹ hay phương Tây của một số lãnh đạo cấp cao trong Đảng cộng sản Việt Nam chỉ là hoang tưởng hay chỉ là suy diễn theo cảm nhận riêng tư của mỗi người.
Tinh thần 4 tốt và danh xưng "toàn cục", "đại cục"
Sang năm 2002, ngay khi vừa đắc cử Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc, ông Hồ Cẩm Đào, phát minh ra thêm một phương châm mới, gọi là tinh thần "4 tốt", đó là : "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt" để hướng dẫn phong cách thảo luận trong quan hệ giữa hai Đảng và hai Nhà nước về những va chạm trên Biển Đông và trong quan hệ thương mại giữa hai nước.
Danh xưng "toàn cục" và "đại cục" cũng chính thức xuất hiện trong giai đoạn này : Hai bên khẳng định, Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục kiên trì phương châm "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và tinh thần "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt", từ tầm cao chiến lược và tầm nhìn toàn cục (Tuyên bố chung 2005) ; không để các vấn đề tranh chấp trên biển ảnh hưởng đến đại cục quan hệ Việt-Trung (Tuyên bố chung 2013).
Toàn cục (sau này phía Việt Nam đổi thành đại cục) ở đây phải hiểu là tuy hai là một, nghĩa là duy trì sự thống nhất toàn diện trong quan hệ giữa hai Đảng và Nhà nước, cụ thể là thăm viếng lẫn nhau ở cấp cao, tăng cường giao lưu hữu nghị giữa hai nước, mở rộng hợp tác cùng có lợi trên các lĩnh vực, trân trọng, giữ gìn, phát triển tốt quan hệ hai Đảng, hai nước Việt-Trung, thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc phát triển một cách ổn định, lành mạnh, lâu dài trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, ngoại giao, quốc phòng, công an, an ninh, văn hóa, giáo dục, đặt biệt là tăng cường tuyên truyền và giáo dục thanh niên hai nước về truyền thống hữu nghị Việt-Trung để mở ra cục diện mới.
Về cách hành văn, nội dung những Tuyên bố chung và Thông cáo chung sử dụng rất nhiều ngôn từ tưởng là sáo ngữ nhưng thật ra đó là những ngôn từ chuyên chở một nội dung có chủ ý, tích cực và lạc quan để tạo cảm tưởng thống nhất về quyết tâm lẫn ý chí. Thí dụ như "phát huy vai trò", "tăng cường trao đổi", "mở rộng hợp tác", "hai bên hài lòng", "hai bên đánh giá cao", "hai bên nhất trí", "hai bên khẳng định"…
Khúc quanh mới trong quan hệ giữa hai Đảng và hai Nhà nước
Trở về với nội dung 16 chữ, phải hiểu như thế nào ? Thoạt nghe phương châm này, mọi người đều thấy bình thường vì nghĩ đó chỉ là những khẩu hiệu suông hô hào ca ngợi quan hệ giữa hai Đảng và hai Nhà nước : đã là láng giềng tốt thì sự hợp tác giữa hai nước phải phù hợp với nguyện vọng và lợi ích lâu dài của hai nước và hai dân tộc. Nhưng đối với Bắc Kinh, đó là một tôn chỉ phải nghe theo : nếu không tôn trong nội dung 16 chữ này, nhất là hợp tác toàn diện, thì Việt Nam sẽ bị chế tài (tài chính, kinh tế, thương mại, quân sự…).
Phương châm này làm nhớ lại "trụ đồng" thời Bắc thuộc (11). Sau khi khống chế được cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng, Mã Viện cho khắc 6 chữ trên một trụ đồng dựng ở vùng biên giới phía nam Giao Chỉ (Thanh Hóa ngày nay) : "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" (Cột đồng ngã xuống, Giao Chỉ không còn). Thông điệp 6 chữ này thật ra chỉ là lời nhắn nhũ cho các quan lại địa phương : muốn giữ yên đất Giao Chỉ phải ngăn chặn phiến quân từ phía nam (Chăm và Mường) tràn lên, nếu không đất Giao Chỉ sẽ mất. Quan lại địa phương ở đây là quan quân Lạc Việt hợp tác với nhà Hán (gọi chung là người Kinh, tức những nhóm người Việt định cư trên đồng bằng) cai trị đất Giao Chỉ. Đảng cộng sản Việt Nam ngày nay cư xử với dân chúng không khác gì quan quân Lạc Việt thần phục nhà Hán thời đó. Cái khác là 6 chữ ngày trước được thay bằng 16 chữ ngày nay.
Từ sau năm 2000, số phận của Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam bước sang một khúc quanh mới : lệ thuộc vào Trung Quốc để được giúp đỡ và tồn tại. Trong mỗi Tuyên bố chung, các cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh "Việt Nam mong muốn cùng Trung Quốc tăng cường tình hữu nghị truyền thống, đi sâu hợp tác thực chất, đưa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước phát triển ổn định, lành mạnh". Những vọng động mở cửa ra bên ngoài với thế giới phương Tây (Hoa Kỳ, Châu Âu và Nhật Bản) chỉ là giả hiệu nhằm trấn an dư luận trong nước và quốc tế để nhận tài trợ và giúp đỡ.
Sự lún sâu vào vòng lệ thuộc Trung Quốc của Đảng cộng sản và đất nước Việt Nam ngày càng lộ liễu và công khai để không còn che đậy được nữa. Gần như tất cả những công trình xây dựng hạ tầng cơ sở chiến lược và qui mô lớn ở Việt Nam đều được ghi trong những Tuyên bố chung với sự chỉ định những công ty nào của Trung Quốc sẽ đảm nhiệm, như bến cảng, xa lộ, đường cao tốc, đường sắt và những công trình kiến trúc đồ sộ.
Phải đọc kỹ nội dung những Tuyên bố chung này mới hiểu sự hiện diện của người Trung Quốc trên lãnh thổ Việt Nam càng ngày càng đông và nắm giữ gần như hầu hết mọi sinh hoạt kinh tế, tài chính, sản xuất và buôn bán qui mô lớn, đặc biệt là sở hữu những vi trí kinh tế chiến lược trong các trung tâm thành phố, trục giao thông đường bộ và đường sắt, hải cảng, giang cảng, phi trường, khu chế xuất, v.v.
Những hiện tượng tiêu cực như buôn lậu ma túy, mua bán thú quí hiếm, lường gạt nông dân là do những thành phần bất hảo chủ trương chứ không bởi Đảng và Nhà nước Trung Quốc chủ đạo.
Nguyễn Văn Huy
Chú thích :
(1) Lý Bằng, "Nhật ký Lý Bằng viết về Hội nghị Thành Đô", Nghiên Cứu Quốc tế, Nguyên Hải dịch, 17/11/2014
(2) Lý Bằng, "Hợp tác hòa bình và phát triển - Nhật ký đối ngoại Lý Bằng" ("Peace and Development Cooperation - Li Peng Foreign Affairs Diary" -"和平 发展 合作——李鹏外事日记"), Dân Làm Báo, Huỳnh Tâm dịch, 19/10/2014.
(3) Mặc Lâm,"Đã đến lúc giải mật Hội Nghị Thành Đô ?", RFA tiếng Việt, 06/08/2014
(4) Nam Nguyên, "Nỗi sợ hãi của Đảng và Nhà nước Việt Nam", RFA tiếng Việt, 06/06/2014
(5) "Kiến nghị của một số cựu sĩ quan Lực lượng vũ trang nhân dân gửi Lãnh đạo Nhà nước và Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam", boxitvn, 04/09/2014
(6) "Hội nghị Thành Đô", Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt
(7) Thư viện pháp luật, "Tuyên bố chung là gì ?", Ngân hàng pháp luật
(8) Thanh Quang, "Những hình ảnh của người được gọi là 'đầy tớ của nhân dân'", RFA tiếng Việt, 04/02/2009
(9) "Vì sao bức ảnh nhà ông Nông Đức Mạnh làm ‘dậy sóng’ dư luận?", VOA tiếng Việt, 23/02/2015
(10) "Thư yêu cầu công khai 'Bản kê khai tài sản'", Tiếng Dân, 06/05/2018
(11) Nguyễn Văn Huy, "Người Chăm 2 - Thời kỳ xác định bản thể", Thông Luận, 01/09/2017
---------------------------
Mục lục