Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Published in

Tư liệu

25/09/2023

Ba bài toán khó từ thời cổ Hy Lạp đã tìm được giải đáp…

Đan Tâm

Ba bài toán từ thời cổ Hy Lạp thách đố nhân loại hơn 2500 đã có được giải đáp chính xác năm 2023 nầy do một người Việt tại Vương quốc Anh tìm ra

toan1

Cách đây hơn 2500 năm, Toán học bắt đầu phát triển mạnh về Hình học với các nhà toán học lừng danh như Euclide, Hypocrates, Pythagoras, Archimedes và Thales…

Nhân đôi khối vuông, chia ba một góc và làm vuông hình tròn là những bài toán hình học được đề xuất lần đầu tiên bằng tiếng Hy Lạp cách đây hơn 2500 năm, vốn có ảnh hưởng cực kỳ lớn đến sự phát triển của Hình học. Xưa kia Hy Lạp là quê hương của muôn ngàn những triết gia và nhà khoa học lừng danh. Cách đây hơn 2500 năm, Toán học bắt đầu phát triển mạnh về Hình học với các nhà toán học lừng danh như Euclide, Hypocrates, Pythagoras, Archimedes và Thales…

Toán học Hy Lạp bắt đầu lớn mạnh từ rất sớm, khoảng 700 năm trước Công nguyên, bởi vì triết học Hy Lạp khá phát triển vào thời cổ đại nên mới sản sinh ra Toán học – một môn học vốn phát xuất từ người mẹ đẻ là Triết học. Những nhà toán học Hy Lạp cổ đại thường sống ở các tỉnh thành ven hải phận phía đông Địa Trung Hải. Họ đã để lại nhiều thành quả vĩ đại không thể thay thế cho kho tàng tri thức toán của nhân loại.

Những cống hiến của Hy Lạp cổ đại với toán học, nhìn chung được coi là một trong những cống hiến quan trọng nhất, làm phát triển nhiều phương pháp Toán học và những chủ đề mới của Toán học. Trong số những chủ đề nầy có 3 vấn nạn toán học do Toán học cổ đại Hy Lạp đưa ra thách thức (challenge) nhân loại cách đây hơn 2500 năm và mãi cho đến năm 2022 vẫn chưa có nhà toán học nào phát minh được lời giải đúng. Đó là 3 thách thức Hình học cổ điển rất đơn giản và rất dễ hiểu như sau :

1. Làm vuông hình tròn" (Squaring the Circle),

2. Chia ba một góc (Trisecting an Angle) và

3. Nhân đôi khối vuông (Double the Cube)

với điều kiện giới hạn là "chỉ được dùng thước thẳng (straight edge) và com-pa (compass) để kiến tạo đáp số (construct the answer).

Bất cứ ai học xong Hình học (Geometry) ở bậc trung học đều có thể hiểu 3 đầu đề nói trên, nhưng vì điều kiện giới hạn của 3 bài toán thách thức nầy mà chưa ai giải được nó trong suốt hơn 2 thiên kỷ rưỡi vừa qua.

toan1

Mãi cho đến năm nay 2023, một nhà toán học Việt Nam, Trần Đình Sơn, tỵ nạn tại Vương quốc Anh từ năm 1984 đã tìm ra được giải đáp đúng 100% (chứ không phải giải đáp gần đúng) cho 3 thách thức Toán học thiên niên kỷ (millennium challenge) nầy. Ba phát minh vĩ đại nầy đã được các viện quốc tế về Toán công nhận và xuất bản trên Tạp chí Quốc tế về Xu hướng và Công nghệ Toán học (The International Journal of Mathematics Trends and Technology, viết tắt là IJMTT) vào tháng 6, tháng 6 & tháng 8/2023 nầy.

Mặc dù 3 bài toán này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau nhưng nhà toán học Việt Nam nói trên đã chọn giải bài toán "Chia ba một góc" (Trisecting an Angle) trước nhất sau khi tình cờ đọc được một ý tưởng (idea) trong Đạo Đức Kinh của triết gia Lão Tử (1) :

"Đại Đạo rất là đơn giản, rất giản dị" !

1. Phát minh thứ nhất (1st Invention) : Chia ba một góc (Tạp chí Toán học Quốc tế/IJMTT số ra ngày 22/5/2023)

Phép chia ba một góc thành 3 phần bằng nhau là một bài toán cổ điển với yêu cầu chỉ sử dụng hai công cụ : thước thẳng (straightedge không chia độ) và compa. Thật khó để đưa ra ngày tháng chính xác về thời điểm bài toán chia ba góc xuất hiện lần đầu tiên. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng Hippocrates, cũng đã nghiên cứu bài toán chia ba một góc, nhưng đã sử dụng một dấu trên thước thẳng để làm cho cây thước không còn là một thước thẳng nữa. Hầu hết các nhà sử học Toán học tin rằng nhiều kết quả đưa ra trong sách Bổ Đề thực sự là do Archimedes và kết quả trên đường xoắn ốc đưa ra về việc chia ba một góc rất phù hợp với tinh thần của tác phẩm. Tuy nhiên, phép chia ba này của Archimedes không phải là một phương pháp chính xác và không sử dụng thước thẳng như đề toán nầy yêu cầu. Phương pháp khác do Nicomedes đưa ra sử dụng đường cong conchoid, nhưng đường cong này không thể vẽ chính xác và mang tính lý thuyết hơn là thực tế. Rõ ràng, cách chia ba góc của Hippocrates, Archimedes hoặc sử dụng conchoid của Nicomedes (khoảng năm 200 trước Công nguyên) là đúng nhưng không tuân theo "luật chơi" tức là sử dụng thước thẳng và compa. Có thể họ đã nghĩ ra đủ mọi cách nhưng không làm được nên phải tự nghĩ ra cách riêng để giải quyết vấn đề này. Về sau, có rất nhiều nỗ lực của các thế hệ nhà Toán học nối tiếp nhau đều không làm được nên họ đã nghĩ ra nhiều cách khác nhau và nhờ đó Toán học có cơ hội phát triển.

toan2

Chứng minh cho định lý chia ba một góc

Pierre Wantzel đã chứng minh vào năm 1837 rằng bài toán, như đã nêu, không thể giải được với các góc tùy ý. Năm 1837, Wantzel công bố bằng chứng trên Tạp chí Liouville về "các phương pháp xác định xem một bài toán hình học có thể giải được bằng thước thẳng và compa hay không", và ông là người đầu tiên chứng minh việc chia ba một góc không thể giải được bằng thước thẳng và compa. Nhưng nhà toàn học Việt Nam nầy đã sử dụng thước thẳng và compa để xây dựng đáp số và chứng minh có thể chia ba một góc tùy ý một cách đơn giản mà không cần sử dụng bất kỳ đường cong nào, với công cụ toán học là một số định đề & định lý hình học ở cấp Trung học. Kết quả nầy là một phản chứng (counter-proof) cho phương pháp của Wantzel. Kết quả của phát minh nầy là lời giải chính xác cho thử thách hàng ngàn năm "Chia ba một góc" (Trisecting an Angle) chỉ dùng một thước thẳng, một compa và các định đề & định lý Hình học ờ cấp Trung học Phổ Thông, chứ không hề dùng các phương pháp Toán phức tạp & khó khăn từ cấp Đại học trở lên. Do đó, bất cứ người nào đã học xong Toán Hình học ờ bậc Trung học cũng có thể đọc và hiểu được phát minh nầy.

2. Phát minh thứ hai (2nd Invention) : Làm vuông hình tròn (Tạp chí Toán học Quốc tế/IJMTT số ra ngày 17/06/2023)

Đáp án toán học cho bài toán "Làm vuông hình tròn" (Squaring the Circle) là phát minh thành công thứ hai của nhà toán học Việt Nam nói trên. Lịch sử của bài toán "Làm vuông hình tròn" bằng thước thẳng và compa đã có từ hàng thiên niên kỷ - trước 450 trước Công nguyên (gần 2.500 năm), theo Quanta, một tạp chí khoa học và toán học. Từ xưa cho đến nay, các bài toán liên quan đến số π đã thu hút sự quan tâm của cả giới chuyên môn toán và các nhà toán học không chuyên nghiệp.

toan3

"Làm vuông hình tròn" là bài toán tạo dựng một hình vuông có diện tích bằng một hình tròn cho trước bằng cách chỉ sử dụng một số bước hữu hạn với compa và thước thẳng. Trong hình học, kiến tạo (construction) hình bằng "thước thẳng và compa" còn được gọi là kiến tạo Euclide hoặc kiến tạo cổ điển. Nếu hình tròn cho trước có diện tích A thì hình vuông tạo dựng ra phải có cạnh "căn bậc hai" của A & có diện tích bằng A. Nhưng làm sao kiến tạo được hình vuông có cạnh "căn bậc hai" của A một cách chính xác 100% bằng thước thẳng và compa là vấn nạn chưa giải quyết trước năm 2023.

Hippocrates là người đầu tiên sử dụng cách dựng mặt phẳng để tìm một hình vuông có diện tích bằng một hình tròn, nhưng đã thất bại.

Năm 1882, nhà toán học người Đức Ferdinand von Lindemann đã chứng minh rằng Pi (p) là một số vô tỷ (irrational number), nghĩa là không thể dựng được một hình vuông cho bài toán "Làm vuông hình tròn" đã được đề cập bởi Hippocrates. Ông Lindemann đã chứng minh rằng việc "Làm vuông hình tròn" là không thể bằng các công cụ cổ điển !

Bất chấp những chứng minh "không thể" nêu trên bài toán nầy vẫn tiếp tục thu hút trí tưởng tượng của các nhà toán học cũng như công chúng nói chung và nó vẫn là một chủ đề quan trọng trong lịch sử và triết học toán học.

Năm 2023 nhà toán học Việt Nam, Trần Đình Sơn,đã dùng Hình học cấp Trung học giải được bài toán nầy bằng thước thẳng và compa và đã được công nhận và xuất bản trên tạp chí toán quốc tế IJMTT vào tháng 6/2023 (xem trong đường Link/URL nói trên).

3. Phát minh thứ ba (3rd Invention) : Gấp đôi khối vuông  (Tạp chí Toán học Quốc tế/IJMTT số ra ngày 29/08/2023

"Gấp đôi khối vuông" (Double the Cube) là bài toán được mô tả chi tiết như sau : Cho khối vuông có cạnh a và thể tích a³ rồi dùng thước thẳng và compa để tạo dựng một khối vuông có thể tích 2a³.

Trong hình học Euclide cổ điển, người ta đã chứng minh rằng việc "Nhân đôi khối vuông" bằng hai công cụ "thước thẳng & compa" là không thể. Điều không thể xảy ra này bắt nguồn từ thực tế là căn bậc ba của số 2 (cần thiết để nhân đôi khối vuông) không thể tạo dựng (construct) được chỉ bằng thước thẳng và compa. Việc xây dựng yêu cầu tìm độ dài bằng căn bậc ba của số 2, là một số siêu việt. Nhiều nỗ lực khác nhau đã được thực hiện trong suốt lịch sử để giải quyết vấn đề, nhưng chúng liên quan đến các kỹ thuật toán học tiên tiến hơn ngoài các công trình cổ điển. Những phương pháp này thường liên quan đến các khái niệm đại số hoặc hình học vượt ra ngoài phạm vi của cách tạo dựng (construction) hình học bằng thước thẳng và compa truyền thống.

Cho đến năm 2022, không có giải pháp chính xác nào cho thách thức "Nhân đôi khối vuông" chỉ bằng thước thẳng và compa, dựa trên hình học Euclide cổ điển. Công bằng mà nói thì mặc dù bài toán "Làm vuông hình tròn" đã trở nên nổi tiếng nhất ở thời hiện đại, nhưng chắc chắn bài toán "Nhân đôi khối vuông" còn nổi tiếng hơn vào thời Hy Lạp cổ đại.

Thử thách "Nhân đôi khối vuông" yêu cầu một phương pháp xây dựng một khối vuông có thể tích gấp đôi khối vuông đã cho. Điều đó có nghĩa là nếu thể tích khối vuông đã cho là 1 đơn vị thể tích 1 mét khối thì chúng ta phải tạo dựng một khối vuông có cạnh 2 từ khối vuông đơn vị đã cho này, chỉ sử dụng compa và thước thẳng. Việc tạo dựng khối vuông có cạnh 2 đã từng được cho là không thể thực hiện được theo những hạn chế đã nêu của hình học Euclide.

toan5

Lưu ý : Trong hình trên, khối vuông bên trái là khối vuông đã cho đơn vị thể tích là 1 & cạnh đơn vị là 1 ; và khối bên phải là khối vuông nhân đôi có thể tích 2 nhân 13 - 2 & cạnh là căn bậc ba của 2

Bất chấp nỗ lực của nhiều nhà toán học, bài toán này vẫn chưa được giải quyết trong hơn hai nghìn năm và nó trở thành một trong những bài toán chưa giải nổi tiếng và hấp dẫn nhất trong lịch sử toán học. Nó vẫn được nghiên cứu trong các khóa học toán học như một vấn đề mang tính lịch sử và đầy thách thức, đồng thời lời giải của nó tiếp tục truyền cảm hứng và ảnh hưởng đến các nhà toán học cũng như sinh viên.

Nhà toán học người Pháp Pierre Wantzel, 1837, đã chứng minh rằng không thể nhân đôi một khối vuông chỉ bằng thước thẳng và compa. Trong phát minh thứ 3 nầy của nhà toán học Việt Nam nói trên về việc kiến tạo một khối vuông có thể tích gấp đôi một khối vuông cho sẵn, với một độ chính xác 100% đã được chứng minh cũng bằng Hình học ở cấp Trung học và đã được quốc tế thừa nhận và xuất bản cho toàn cầu vào tháng 8/2023 vừa qua. Các kết quả thu được có thể kết luận rằng tuyên bố về tính không thể của Wantzel không có giá trị về mặt hình học, vì nó không đưa ra mối quan hệ hình học giữa bậc hai và phần mở rộng bậc ba. Nhà toán học Việt Nam nầy đã tuân thủ nghiêm ngặt các ràng buộc trong việc sử dụng thước thẳng và compa để phát triển một phương pháp giải chính xác bài toán "Nhân đôi khối vuông" bằng hình học theo một kỹ thuật đặc biệt.

Tóm lại, những bài toán thách thức cổ điển này cực kỳ quan trọng trong sự phát triển của hình học. Ba bài toán như vậy đã thu hút rất nhiều sự quan tâm của các nhà hình học sau này đến nỗi chúng được gọi là những "bài toán cổ điển" vĩ đại : "Chia ba một góc" (Trisecting an Angle), "Làm vuông hình tròn" (Squaring the Circle) và "Nhân đôi khối vuông" (Double the Cube". Giờ đây vào năm 2023 nầy chúng đã được giải quyết chính xác bời một người Việt tỵ nạn thuộc thế hệ thứ nhất tại Vương quốc Anh và phát minh nầy đã được quốc tế thừa nhận & xuất bản như một phát minh Toán rất vĩ đại của thế kỷ 21.

Đan Tâm

(25/09/2023)

(1) Lao Tzu (Author of Tao Te Ching) : "The great Tao is very simple, very simple !" (Lão Tử -tác giả của Đạo Đức Kinh : "Đại Đạo rất là đơn giản, rất giản dị")

Quay lại trang chủ

Additional Info

  • Author: Trần Đình Sơn, Đan Tâm
Read 2280 times

39 comments

  • Comment Link Hoàng Trường Sa mercredi, 06 décembre 2023 05:24 posted by Hoàng Trường Sa

    Hệ quả của 3 công thức (1), (2), (3):

    Trước hết, sử dụng (1) và (2), lấy đạo hàm của a và b theo h, dễ thấy là:

    da/dh 0 và db/dh 0.

    Vậy, a và b là những hàm nghịch biến theo h. Khi h tăng từ 0 tới +vô cực, thì cả a lẫn b giảm từ 60 độ xuống tới 0 độ, do đó bêta = a + 2b sẽ giảm từ 180 độ xuống tới 0 độ.

    Một hệ quả của (3) là:

    a b khi 0 h b khi h > 1

    (nghĩa là với những góc bêta nhỏ hơn 90 độ thì góc a ở giữa lớn hơn hai góc b hai bên).

    Để thấy điều này, ta viết lại công thức (3) như sau:

    D = a – b = arccot(E)

    Trong đó:

    E = (2h^4 + 3h^3căn(3) + 6h^2 + 3hcăn(3) + 2)/(h^3 – h) (*)

    Vì h > 0 nên tử số của E luôn luôn > 0, dấu của E sẽ là dấu của mẫu số h^3 – h. Thế nhưng biểu thức này 0 khi h 0 khi h > 1.

    Vậy E 0 khi 0 h 0 khi h > 1. Suy ra D 0 khi 0 h 0 khi h > 1. Ta được những kết quả nói trên.

    Bây giờ để xem D biến thiên ra sao khi h biến thiên từ 0 tới +vô cực, ta tính đạo hàm của D theo h, sử dụng (*), ta được:

    dD/dh = - [1/(1+E^2](dE/dh) =

    -[2/((1+E^2)(h^3 – h)^2)](h^6 – 6h^4 – 6h^3căn(3) – 6h^2 + 1),

    Trong đó biểu thức trong hai dấu ngoặc vuông là một số dương khi h > 0.

    Suy ra dấu của dD/dh, khi h > 0, sẽ nghịch lại với dấu của đa thức h^6 – 6h^4 – 6h^3căn(3) – 6h^2 + 1. Viết đa thức này dưới dạng:

    (h^6 + 1) – 6[h^4 + h^3căn(3) + h^2] = f(h) – g(h) (**)

    Trong đó: f(h) = h^6 + 1, và g(h) = 6[h^4 + h^3căn(3) + h^2].

    Bằng cách so sánh f(0) với g(0), f(1) với g(1), f(2) với g(2), f(3) với g(3), f(4) với g(4), sẽ nhận ra là f(h) sẽ cắt g(h) tại hai điểm có hoành độ h = u (với 0 u 1) và h = v (với 3 v 0. Đây là những nghiệm duy nhất của phương trình này vì ta biết nó chỉ có tối đa là 2 nghiệm do dấu của các số hạng của đa thức h^6 – 6h^4 – 6h^3căn(3) – 6h^2 + 1 đổi 2 lần từ + qua -, -, -, và (từ -) trở về +.

    Từ đó suy ra D = a – b biến thiên như sau: Sau khi khởi đầu bằng 0 (tại h = 0), D có trị âm và giảm dần từ 0 xuống trị cực tiểu (âm) tại h = u và tăng dần (qua các trị âm) tới 0 khi h = 1, sau đó tiếp tục tăng (bằng các trị dương) tới trị cực đại (dương) tại h = v, và từ đó giảm dần (qua các trị dương) tới 0 (khi h tiến về +vô cực). Điều này phù hợp với kết quả a b khi 0 h b khi h > 1 ta thấy trên đây.

    Các bạn nào có software nhờ giải giùm phương trình f(h) – g(h) = 0 để có u và v cùng các trị cực tiểu và cực đại của D = a – b. Tôi thử dùng (free) scientific calculator online và giải bằng tay thì được u = 0.317391 tương ứng với trị cực tiểu của D là -1.18858 độ, và v = 3.146289 tương ứng với trị cực đại của D là 3.678051 độ.

  • Comment Link Hoàng Trường Sa lundi, 20 novembre 2023 10:08 posted by Hoàng Trường Sa

    Để chứng minh các công thức (1), (2), và (3), xin quý vị xem lại Hình 5, trang 13, trong bài báo của tác giả Trần Đình Sơn. Trong hình này, ta chọn AM = MB = 1 (tam giác AOB là một tam giác cân). Thước tam phân ABCD là một nửa của hình lục giác đều với AC = CD = DB = 1, và các tam giác AMC, CMD, DMB là những tam giác đều có cạnh bằng 1. Đường thẳng OM thẳng góc với AB tại trung điểm M của AB. Nó là phân giác chung của hai góc UOV (tức AOB) và góc SOT (tức COD). Đường thẳng OM cắt CD tại trung điểm ta gọi là N. Vì CD // AB nên OM cũng thẳng góc với CD. Do tính đối xứng của hình vẽ, góc ở giữa SOT (tức COD) ta gọi là góc a, hai góc hai bên UOS (tức AOC) và TOV (tức DOB) bằng nhau và được gọi là b. Ta sẽ tính các góc a và b theo chiều cao h = OM của tam giác cân AOB.

    Ta có: AM = MB = 1; CN = ND = ½ ; MN = căn(3)/2 (vì tam giác CMD là tam giác đều cạnh bằng 1). Do đó ON = OM + MN = h + căn(3)/2 = [(2h + căn(3)]/2.

    Tam giác CON vuông góc tại N và có góc CON = a/2, nên:

    cot(a/2) = ON/CN = [(2h + căn(3))/2]/(1/2) = 2h + căn(3). (4)

    Áp dụng công thức cot(2x) = [cot^2(x) – 1]/[2cot(x)] cho x = a/2, ta được (sau khi dùng (4)):

    cot(a) = cot[2(a/2)] = [cot^2(a/2) – 1]/[2cot(a/2)]

    = [(2h + căn(3))^2 – 1]/[2(2h + căn(3)] = [(2h^2 + 1 + 2hcăn(3))/(2h + căn(3))]

    Vậy ta được (1).

    Để chứng minh (2), xét tam giác vuông AMO với AM = 1 và OM = h và góc AOM = a/2 + b, ta được:

    cot[(a/2) + b] = OM/AM = h/1 = h.

    Sử dụng công thức cot(a + b) = [cot(a)cot(b) – 1]/[cot(a) + cot(b)], ta được:

    h = cot[(a/2) + b] = [cot(a/2)cot(b) – 1]/[cot(a/2) + cot(b)].

    Do đó:

    cot(a/2)cot(b) – 1 = h[cot(a/2) + cot(b)] = hcot(a/2) + hcot(b).

    Vậy:

    cot(b)[cot(a/2) – h] = 1 + hcot(a/2).

    cot(b) = [1 + hcot(a/2)]/[ cot(a/2) – h].

    Thế cot(a/2) = 2h + căn(3) (theo (4)) và khai triển, ta được:

    cot(b) = [2h^2 + 1 + hcăn(3)]/[h + căn(3)]

    Và (2) đã được chứng minh.

    Cuối cùng, để chứng minh (3), đặt:

    A = (2h^2 + 1 + 2hcăn(3))/(2h + căn(3)) và B = (2h^2 + 1 + hcăn(3))/(h + căn(3)) (5)

    Thì công thức (1) và (2) sẽ trở thành:

    a = arccot(A) và b = arccot(B).

    Vậy, theo một công thức lượng giác quen thuộc:

    a – b = arccot(A) – arccot(B) = arccot[(AB + 1)/(B – A)] (5)

    Nhưng, thế A và B bằng các biểu thức theo h trong (5) và khai triển, dễ thấy:

    B – A = [2h(h^2 – 1)]/[(h + căn(3)][2h + căn(3)]



    AB + 1 = [4h^4 + 6h^3căn(3) + 12h^2 + 6hcăn(3) + 4]/[(h + căn(3))(2h + căn(3))]

    Do đó, thế vào (5) và giản lược, ta được:

    a – b = arccot{[4h^4 + 6h^3căn(3) + 12h^2 + 6hcăn(3) + 4]/[2h(h^2 – 1)]}

    = arccot[(2h^4 + 3h^3căn(3) + 6h^2 + 3hcăn(3) + 2)/(h^3 – h)].

    Vậy (3) được chứng minh.

  • Comment Link Hoàng Trường Sa dimanche, 19 novembre 2023 12:19 posted by Hoàng Trường Sa

    Cách chia 3 một góc bằng compa và thước kẻ của tác giả Trần Đình Sơn, như ta thấy, chia góc đã cho ra ba góc, trong đó góc chính giữa (ta gọi là a) nói chung không bằng với hai góc hai bên. Hai góc này, theo tính đối xứng của hình trong cách vẽ thước tam phân, luôn luôn bằng nhau. Gọi b là số đo chung của hai góc này. Sau đây tôi sẽ trình bày các công thức để tính góc a và góc b theo chiều cao h= OM của tam giác cân AOB trong Hình 5 nói trước đây.

    Trước hết vì ta chọn r = AM = MC = 1 (nghĩa là cạnh đáy AB của tam giác cân AOB luôn luôn bằng 2), ta dễ thấy tương quan dưới đây giữa chiều cao h và số đo bêta của góc UOV (tức là góc AOB):

    h = cot(bêta/2), và ngược lại bêta = 2arccot(h).

    Ta cho h biến thiên từ 0 tới +vô cực, thì bêta biến thiên từ 180 độ tới 0 độ.

    Sau đây là công thức để tính góc chính giữa a và hai góc b ở hai bên:

    a = arccot[(2h^2 + 1 + 2hcăn(3))/(2h + căn(3))] (1)

    b = arccot[(2h^2 + 1 + hcăn(3))/(h + căn(3))] (2)

    Từ đó suy ra hiệu số (tức là sự khác biệt giữa a và b) của hai góc là:

    D = a – b = arccot[(2h^4 + 3h^3căn(3) + 6h^2 + 3hcăn(3) + 2)/(h^3 – h))] (3)

    Thí dụ, với góc bêta = 180 độ, thì h = 0. Thế h = 0 vào (1), (2), (3) ta có:

    a = arccot(1/căn(3)) = 60 độ;
    b = arccot(1/căn(3)) = 60 độ;
    D = arccot(2/0) = arccot(vô cực) = 0 độ (nghĩa là a = b).

    Thí dụ khác, với góc bêta = 90 độ, thì h = cot(90/2) = cot (45) = 1, ta được theo (1), (2), (3):

    a = arccot[(2 + 1 + 2căn(3))/(2 + căn(3))] = arccot(căn(3)) = 30 độ;
    b = arccot[(2 + 1 + căn(3))/(1 + căn(3))] = arccot(căn(3)) = 30 độ;
    D = arccot[(2 + 3căn(3) + 6 + 3căn(3) + 2)/0] = arccot[(10 + 6căn(3))/0]
    = arccot(vô cực) = 0 độ. (Nghĩa là a = b).

    Tôi sẽ chứng minh các công thức trên sau. Rất dễ. Chỉ sử dụng các công thức lượng giác quen thuộc.

    Các bạn nào có sofware thí dụ như Excel chẳng hạn, có thể vẽ đồ thị của a và b trên cùng một hình (khi h biến thiên từ 0 tới +vô cực) và xem sự khác biệt (difference) giữa hai góc a và b.

  • Comment Link Hoàng Trường Sa mardi, 14 novembre 2023 21:25 posted by Hoàng Trường Sa

    Câu hỏi còn lại là ngoài 3 nghiệm trên, phương trình bậc 8 trên còn có nghiệm số nào khác không. Câu trả lời là không.

    Để thấy điều này gọi P(x) là đa thức bên vế trái của (3):

    P(x) = 9x^8 – 132x^7 + 40x^6 + 700x^5 + 466x^4 – 236x^3 – 128x^2 + 52x – 3 = 0.

    Vì x = 3, x = 7 + 4căn(3), x = 7 – 4căn(3) là nghiệm số của P(x) = 0,

    (x – 3)[x – (7 + 4căn(3)][x – (7 – 4căn(3)] = x^3 – 17x^2 + 43x - 3 chia đúng cho P(x).

    Đem chia P(x) cho x^3 – 17x^2 + 43x - 3 ta được:

    P(x) = (x^3 – 17x^2 + 43x – 3)(9x^5 + 21x^4 + 10x^3 – 6x^2 – 3x + 1).

    Vậy những nghiệm khác, nếu có, sẽ là nghiệm của phương trình:

    Q(x) = 9x^5 + 21x^4 + 10x^3 – 6x^2 – 3x + 1 = 0. (4)

    Trong đó x lớn hơn hay bằng 3. Nhưng, phương trình này có dạng:

    Q(x) = f(x) – g(x),

    Trong đó f(x) = 9x^5 + 21x^4 + 10x^3 và g(x) = 6x^2 + 3x – 1.

    Nghiệm số của Q(x) = 0 sẽ là những hoành độ x của giao điểm của hai đường cong y = f(x) và y = g(x), khi x lớn hơn hay bằng 3. Để ý là f(0) = 0, g(0) = -1, f(3) = 6426, g(3) = 62. Ngoài ra, các đạo hàm bậc nhất và bậc 2 của f(x) và g(x) đều lớn hơn 0 khi x>0. Hai đường này đều lõm (concave up) và đồng biến (increasing). Đường y = f(x) luôn nằm trên đường y = g(x) và tiến về vô cực nhanh hơn, “gắt” hơn (more sharply), do độ dốc (gradient) của f(x) lớn hơn độ dốc của g(x). Do đó hai đường này không bao giờ cắt nhau khi x>0, a fortiori, khi x>3.

    Kết luận là phương trình P(x) = 0 để tìm góc UOV mà ta có thể vẽ thước tam phân của Trần Đình Sơn chỉ có hai nghiệm số là x = 3 (tức là b = căn(3)) ứng với góc UOV = 90 độ, và x = 7 + 4căn(3) (tức là b = 2 + căn(3)) ứng với góc UOV = 180 độ như ta đã thấy trước đây. “Nghiệm số” thứ ba, x = 7 – 4căn(3) (tức là b = -2 + căn(3)) đã bị loại ra thì ứng với góc UOV = 270 độ mà cách chia 3 bằng compa và thước kẻ là hiển nhiên.

  • Comment Link Hoàng Trường Sa lundi, 13 novembre 2023 11:45 posted by Hoàng Trường Sa

    Trở lại cách giải bài toán tìm xem những góc UOV nào cho ta CM = 1 trước đây khi dùng điều kiện u^2 + v^2 = 1, tôi đã check các công thức (1) và (2) của u và v và thấy đúng.

    u = - [ b^4 – 1 + căn(5b^6 – 5b^4 – 9b^2 + 1) ] / [(1+b^2)(3b^2 – 1)] (1)
    v = - [2b^3 + 2b + b căn(5b^6 – 5b^4 – 9b^2 + 1)]/ [(1+b^2)(3b^2 – 1)] (2)

    Khi cho b = 2 + căn(3) thì ta được u = -1/2 và v = - căn(3)/2 nhưng mong đợi.

    Riêng các phương trình để tính b trước đây, xin lỗi tôi đã tính sai.
    Phương trình đúng là như sau:

    9b^16 – 132b^14 + 40 b^12 + 700b^10 + 466b^8 – 236b^6 – 128b^4 + 52b^2 – 3 = 0

    Trong đó trước đây ta đòi b lớn hơn căn(3), vì ta chỉ xét những góc UOV nhỏ hơn 180 độ. Bây giờ ta có thể nới lên là b lớn hơn hay bằng căn(3) để chấp nhận cả góc 180 độ.

    Nếu đặt x = b^2 thì phương trình trở thành:

    9x^8 – 132x^7 + 40x^6 + 700x^5 + 466x^4 – 236x^3 – 128x^2 + 52x – 3 = 0. (3)

    Trong đó x lớn hơn hay bằng 3.

    Phương trình (3) này có 2 nghiệm số: x = 3 và x = 7 + 4căn(3) (tức là (2+căn(3))^2). Nó cũng có nghiệm số x = 7 – 4căn(3) (tức là (-2+căn(3))^2), nhưng nhỏ hơn 0 (ta không chấp nhận). Ba nghiệm này tương ứng với b = căn(3) (góc UOV = 90 độ), b = 2+căn(3) (góc UOV = 180 độ), và b = -2+căn(3) (góc UOV = 270 độ).

    Tóm lại, phương pháp này cũng cho ta lại kết quả trong ý kiến trước. Để kiểm chứng. các bạn cho x=3 vào đa thức bên trái của (3) sẽ thấy kết quả là 0.

    Để check trường hợp x = 2 + căn (3) thì khó hơn, trừ trường hợp bạn có software tốt. Để check bằng scientific calculator, tôi đã làm bằng tay như sau. Viết vế trái của (3) thành dạng A-B, trong đó:

    A = 9x^8 + 40x^6 + 700x^5 + 466x^4 + 52x (nghĩa là những số hạng có dấu + đứng trước)
    B = 132x^7 + 236x^3 + 128x^2 + 3 = 0. (nghĩa là những số hạng có dấu - đứng trước).

    Bây giờ bình phương b = 2 + căn(3) ta được:

    x = 7 + 4căn(3)
    x^2 = 97 + 56căn(3)
    x^3 = 1351 + 780căn(3)
    x^4 = 18817 + 10864căn(3)
    x^5 = 262087 + 151316căn(3)
    x^6 = 3650401 + 2107560căn(3)
    x^7 = 50843527 + 29354524căn(3)
    x^8 = 708158977 + 408855776căn(3).

    Thế vào A ta được:
    A = 6711676819 + 3874988416căn(3).

    Thế vào B ta được:
    B = 6711676819 + 3874988416căn(3).

    Vậy A – B = 0.

    Đối với nghiệm x = 7 – 4căn(3), cũng tương tự. Các con số giống hệt chỉ đổi dấu + trước căn(3) thành dấu -.

  • Comment Link Hoàng Trường Sa vendredi, 10 novembre 2023 12:10 posted by Hoàng Trường Sa

    Thay vì cho chiều dài CM bằng 1 và đi tới việc giải một phương trình bậc 7, tôi mới nghĩ ra cách đơn giản hơn nhiều để tìm góc UOV mà ta có thể chia 3 bằng thước tam phân của Trần Đình Sơn. Chỉ cần đòi góc CMA trong Hình 5 bằng 60 độ, xong lý luận dựa vào tính đối xứng của hình vẽ như ông TĐS để thấy tam giác CMD cũng là một tam giác đều. Gọi N là trung điểm của cạnh CD như trước, và sử dụng góc a với cot(a) = b như trước. Gọi h = OM, chiều cao của tam giác cân AOB, thì h = [b^3 – 3b]/[3b^2 – 1] như trước.

    Bây giờ, chọn r=1 như trước, thì tam giác đều CMD, cạnh là 1, có chiều cao là căn(3)/2. Nên ON = OM + MN = h + căn(3)/2.

    Tam giác vuông CNO với góc CON = a, cạnh CN = ½, và cạnh ON = [2h + căn(3)]/2 sẽ cho ta b = cot(a) = ON/CN = 2h + căn(3).

    Vậy ta có phương trình: b = 2[b^3 – 3b]/[3b^2 – 1] + căn(3), mà sau khi khai triển sẽ thành:

    b^3 - 3căn(3)b^2 + 5b + căn(3) = 0 (1)

    Đổi biến số b = x + căn(3), thì:

    b^2 = x^2 + 2căn(3)x + 3 (2)

    b^3 = x^3 + 3căn(3)x^2 + 9x + 3căn(3) (3)

    Thế (2) và (3) vào (1) và đơn giản, ta được:

    x^3 – 4x = 0 (4)

    Phương trình (4) có 3 nghiệm số là x = 0 , x = 2, và x = -2.

    Nghiệm x = 0 cho ta b = căn(3)= cot(a), suy ra a = 30 độ, suy ra UOV = 6a = 180 độ.

    Nghiệm x = 2 cho ta b = 2 + căn(3), suy ra a = 15 độ, và UOV = 90 độ.

    Nghiệm x = -2 cho ta b= -2 + căn(3), suy ra a = -75 độ, tức là góc tù a = 285 độ. Góc này không nằm trong cách vẽ của TĐS nên ta có thể loại bỏ.

    Tóm lại, chỉ có hai góc mà phương pháp chia 3 bằng compa và thước kẻ dùng thước tam phân của Trần Đình Sơn có thể sử dụng được là góc vuông (90 độ) và góc bẹt (180 độ).

  • Comment Link Hoàng Trường Sa jeudi, 09 novembre 2023 12:25 posted by Hoàng Trường Sa

    Tôi đã thế tất cả các biểu thức của h, D’ theo b vào trong các kết quả trước và được như sau:

    Tọa độ (u,v) của điểm C trong Hình 5, trang 13 trong bài báo của tác giả Trần Đình Sơn) là:

    u = - [ b^4 – 1 + căn(5b^6 – 5b^4 – 9b^2 + 1) ] / [(1+b^2)(3b^2 – 1)] (1)

    v = - [2b^3 + 2b + b căn(5b^6 – 5b^4 – 9b^2 + 1)]/ [(1+b^2)(3b^2 – 1)] (2)

    Trong đó b > căn(3). Xin lưu ý là điều này sẽ làm cho biểu thức 5b^6 – 5b^4 – 9b^2 nằm trong dấu căn luôn luôn dương. (Xét dấu của 5x^2 – 5x – 9 và sử dụng luật “trong trái ngoài cùng” của dấu biểu thức).

    Điều kiện u^2 + v^2 =1 sẽ dẫn tới phương trình đa thức (polynimial equation) bậc 16 sau đây:

    9b^16 – 132b^14 + 40 b^12 + 700b^10 + 460b^8 – 252b^6 – 140b^4 + 52b^2 = 0.

    Vì b^2 luôn luôn lớn hơn 3, ta có thể khử bớt b^2 trong phương trình trên để có một phương trình bậc 14 theo b > căn(3):

    9b^14 – 132b^12 + 40 b^10 + 700b^8 + 460b^6 – 252b^4 – 140b^2 + 52 = 0 (3)

    Đây là phương trình chính phải giải để tìm những góc có thể dùng thước tam phân của Trần Đình Sơn. Nghiệm số phải lớn hơn căn(3) vì góc UOV nhỏ hơn 180 độ.

    Đặt x = b^2, phương trình (3) sẽ trở thành một phương trình bậc 7 theo biến số x > 3:

    9x^7 – 132x^6 + 40 x^5 + 700x^4 + 460x^3 – 252x^2 – 140x + 52 = 0 (4)

    Bạn nào có software giải được phương trình (4) xin giải giùm và cho biết kết quả. Xin cám ơn nhiều.

    Trước khi giải xin check lại xem nếu cho b = 2 + căn(3) vào công thức (1) và (2) ta có được u = -1/2 và v= - căn(3)/2 không. Đây tọa độ của điểm C cho trường hợp góc UOV bằng 90 độ. Và ta biết góc a sẽ là 15 độ nên cot(a) là 2 + căn(3).

    Tương tự, thế x = 7+ 4căn(3) = (2+căn(3))^2 vào (4) xem có đúng hay không để check xem tôi có tính sai u^2 + v^2 = 1 không, trước khi giải phương trình (4).

  • Comment Link Hoàng Trường Sa lundi, 06 novembre 2023 10:10 posted by Hoàng Trường Sa

    Xin lỗi quý vị. Trong ý kiến truớc, câu “Giả thiết góc bêta căn(3),…”, tôi gõ sót mấy chữ nên hoàn toàn vô nghĩa. Xin sửa lại như sau: “Giả thiết góc bêta căn(3), điều này sẽ được dùng khi tìm tọa độ (u,v) của điểm C trong Hình 5”. Xin cám ơn quý vị.

    Đường thẳng OS đi qua điểm O = (0, h) và có độ nghiêng (gradient) là tan (90 – a) = cot (a) = b, nên phương trình của OS là: (y – h)/(x – 0) = b, tức là:

    y = h + bx, (1)

    trong đó h = (b^3 – 3b)/(3b^2 -1). (2)

    Phương trình của vòng tròn tâm A = (-1, 0) và bán kính 1 là:

    (x + 1)^2 + y^2 = 1. (3).

    Hai đường này cắt nhau tại điểm (x, y) thỏa hai phương trình (1) và (3), Thế y trong (1) vào (3) ta có:

    (x + 1)^2 + (h + bx)^2 = 1.

    Khai triển và đơn giản phương trình, ta được:

    (1 + b^2)x^2 + 2(1 + hb)x + h^2 = 0 .

    Đây là phương trình bậc 2 với định thức D’ như sau (khi thế h bằng (2), khai triển, và giản lược):

    D’ = (1 + hb)^2 – (1 +b^2)(h^2) = 1 + [b^2(b^2 - 3) (5b^2 + 1)]/[(3b^2 – 1)^2] > 0 (4)

    vì b > căn(3) (do giả thiết góc UOV 180 độ, như đã nói trước đây).

    Hai nghiệm số là: x = [ -(1+hb) +/- căn(D’)]/(1+b^2). Ta chọn dấu - cho hoành độ u của điểm C trong Hình 5, vì nó có trị số nhỏ hơn hoành độ của giao điểm (không tên) kia (xem Hình 5). Vậy tọa độ (u,v) của C là:

    u = - [(1+hb) + căn(D’)]/(1+b^2) và

    v = h + bu = h - b[(1+hb) + căn(D’)]/(1+b^2).

    Do đó CM = căn (u^2 + v^2) sẽ bằng với AM và AC khi u^2 + v^2 = 1. Vậy, điều kiện để tam giác ACM là một tam giác đều là u^2 + v^2 = 1, tức là:

    {[(1+hb) + căn(D’)]/(1+b^2)}^2 + {h - b[(1+hb) + căn(D’)]/(1+b^2)}^2 = 1. (*)

    Trong đó h = (b^3 – 3b)/(3b^2 -1) và D’ được cho bởi (4).

    Phương trình (*) là điều kiện mà cot(a) phải thỏa để ta có thể vẽ thước tam phân TĐS với OS và OT là hai đường tam phân. Nghiệm số b của (*) cho ta cot(a), từ đó sẽ có a và 6a (tức là góc bêta = UOV ban đầu).

    Lợi dụng dạng v = h + bu, ta viết lại:

    u^2 + v^2 = u^2 + (h + bu)^2 = (1 + b^2)u^2 + 2bhu + h^2
    = (1 + b^2)u^2 + [2b^2(b^2 – 3)]/(3b^2 – 1)]u + [(b^3 – 3b)/(3b^2 – 1)]^2.

    Từ đó (*) sẽ trở thành:

    (1 + b^2)u^2 + [2b^2(b^2 – 3)]/(3b^2 – 1)]u + [(b^3 – 3b)/(3b^2 – 1)]^2 = 1. (**)

    Trong đó u = - [(1+hb) + căn(D’)]/(1+b^2), h và D’ được cho bởi (2) v à (4).

    Sau khi khai triển và chuyển các số hạng có chứa căn(D’) qua một vế, và bình phương cả hai vế để khử dấu căn, tôi nghĩ (**) sẽ là một phương trình đa thức có dạng P(b) = 0 với P(b) là một đa thức bậc n (hiện tôi chưa biết bằng mấy vì tôi chưa thực hiện) và giải nó để tìm các nghiệm b (sau khi loại bỏ những nghiệm lạ xuất hiện do việc bình phương hai vế).

  • Comment Link Hoàng Trường Sa samedi, 04 novembre 2023 10:45 posted by Hoàng Trường Sa

    Như độc giả NTT chỉ ra, chứng minh của ông Trần Đình Sơn (TĐS) cho Core Theorem là không đúng vì tam giác ACM trong Hình 5, trang 13 trong bài báo của TĐS không phải là tam giác đều, điều kiện để TĐS tiếp tục chứng minh ABCD là một “thước tam phân” (Trisecting Ruler). Lý do của cái “flaw” trong chứng minh là TĐS đã không sử dụng hết giả thiết rằng 3 góc UOS, SOT và TOV (trong Hình 5) bằng nhau.

    Bây giờ ta vẽ lại Hình 5 của TĐS. Vẽ đường thẳng đứng OM, phân giác chung của hai góc UOV và SOT, và gọi a là nửa góc SOT, a = SOM = MOT, thì ta có: UOS = 2a, UOM = 3a. Và góc bêta muốn chia 3 là UOV = 6a.

    Gọi h là chiều cao của tam giác cân AOB, nghĩa là h = OM. Để dễ tính toán, ta có thể chọn r = 1, bằng cách chọn chiều dài của AM làm đơn vị chiều dài. Xin lưu ý là cách chia ba một góc bằng thước tam phân của TĐS không tùy thuộc vào trị số của r, nghĩa là chọn r bằng bao nhiêu thì vị trí của hai đường tam phân OS và OT vẫn không đổi. Vì đoạn AB = 2, độ dài của chiều cao h lệ thuộc vào đỉnh O, và do đó lệ thuộc vào a. Để ý là khi O dời cao lên cùng tận (vô cực) trên đường thẳng OM, a sẽ nhỏ dần (tiến về 0), và khi O thụt xuống gần M thì a tiến dần tới 30 độ (180 chia 6) vì góc AOM tiến dần về góc bẹt AMB = 180 độ. Tam giác AMO vuông góc ở M và có góc AOM = 3a, AM = 1 và OM = h, ta có theo một công thức lượng giác quen thuộc: h = cot(3a) = [cot^3(a) – 3cot(a)]/[3cot^2(a) – 1] trong đó cot^3(a) là lũy thừa 3 của cot(a), cot^2(a) là bình phương của cot(a). Gọi b = cot(a) thì h = (b^3 – 3b)/(3b^2 – 1). Giả thiết góc bêta căn(3), điều này sẽ được dùng khi tìm tọa độ (u,v) của điểm C trong Hình 5.

    Tôi sẽ dùng hình học giải tích để tính chiều dài của đoạn thẳng CM theo cot(a) = b, sau đó sẽ tìm điều kiện để cho tam giác ACM là tam giác đều như TĐS mong muốn. Nói cách khác, tôi sẽ tìm giải đáp cho câu hỏi là những góc UOV nào thì ta có thể vẽ được thước tam phân của TĐS. Phương pháp này không được elegant vì quá nhiều tính toán phức tạp do phải giải một phương trình bậc 2, nên có căn thức dính theo. Tuy nhiên ý sẽ rất giản dị. Chọn trục tọa độ có gốc là điểm M, trục x là đường nằm ngang AMB, trục y là đường thẳng đứng MO (chiều dương hướng lên), thì có các tọa độ sau: A = (-1, 0), M = (0. 0), B = (0,1), O = (0, h). Sau khi viết phương trình cho đường thẳng SO, vòng tròn (A, 1) tâm A bán kính 1, ta tìm giao điểm C = (u,v). Sau đó điều kiện để ACM là tam giác đều sẽ là u^2 + v^2 = 1, trong đó u và v là những hàm số theo b, (b > căn(3). Các nghiệm số của b sẽ cho ta góc a và từ đó là góc 6a (tức góc bêta) mà ta có thể vẽ thước tam phân ABCD theo định nghĩa của TĐS, nghĩa là có thể vẽ các đường tam phân OS và OT. Hiển nhiên là ta chỉ có một số nghiệm thôi, tức là không phải lúc nào cũng chia 3 góc được (ngoại trừ những góc có b thỏa điều kiện trên).

  • Comment Link NTT jeudi, 02 novembre 2023 17:48 posted by NTT

    Tôi sẽ làm một bài toán để kiểm chứng bài “Exact Squaring the Cỉcle…” của tác giả Trần Đình Sơn đăng trong International Journal of Mathematics Trends and Technology (Vol 69, Issue 6, June 2023).
    Tôi dựa vào Squaring Ruler (trang 44) để “squaring” một hình vuông (gọi là ABCD) cho vòng tròn (O, 1).
    Vòng tròn này có diện tích là pi x 1**2 = pi, cho nên nếu phương pháp dùng Squaring Riler là đúng, thì diện tích ABCD cũng sẽ phải bằng pi.
    Squaring Ruler là một hình bát giác đều. Gọi EFO là một trong 8 tam giác cân tạo thành Squaring Ruler này, với góc ở đỉnh ^EOF = 2pi/8 = pi/4. Gọi OH là đường cao của EFO vẽ từ O, và như thế ^EOH = (pi/4)/2 = pi/8.
    Ta có OH = OE x cos(^EOH) = 1 x cos(pi/8) = cos(pi/8) = căn(2+căn(2))/2.
    Cạnh AB của ABCD = 2 x OH = căn(2+căn(2)).
    Vì thế diện tích ABCD = AB ** 2 = (căn(2+căn(2))**2 = 2+căn(2), khác với diện tích (O,1) = pi.
    Do đó Squaring Ruler nói ở trang 45 không thể dùng để squaring một vòng tròn.

Viết bình luận

Phải xác tín nội dung bài viết đáp ứng tất cả những yêu cầu của thông tin được đánh dấu bằng ký hiệu (*)