Sáng tác lý
Từ lý tới luận, đây là chặng đường muôn thửa của học thuật, nhưng tại sao phải thấy sáng tác lý để thấu sáng tác luận ? Ngữ pháp sáng tác đặt sáng tác lý luận trong khoa học như sáng tác trong nghệ thuật, chỉ có cái khác lại là cái khó của sáng tác lý là sáng tác này phải đi tự hợp lý tới chỉnh lý, và phải tiếp tục sáng tác luận và đi tiếp tới nhận định toàn lý.
Luận thuyết sự thật dựng chủ thể
Sự thật là chân trời của chân lý, từ nghiên cứu qua điều tra, từ điền dã qua kiểm tra, từ so sánh qua tổng kết, nơi mà mỗi khám phá, mỗi phát minh, mỗi kết quả đều có cái giá của nó, và sự thật chỉnh chu trong chân lý : "có thực mới vực được đạo", không phải là thực phẩm, mà là sự thực (sự thật) thực của hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức). Chính sự thực là gốc, rễ, cội, nguồn của khoa học, luôn chứng thực để chứng minh, và sự thực là nền, cột, trụ, móng cho chân lý được ra đời và được công nhận.
Sự thật vô điều kiện trước ánh sáng của chân lý, sự thật với sự thành thật học để hiểu, hi ta có thiện chí để học, có công cụ của tri thức đúng để tìm ra kiến thức mới và đúng về sự thật, thì sẽ hiểu mọi điều kiện cần thiết để nhìn, để thấy, để nhận và để hiểu ra sự thật. Cụ thể là ta phải biết tách chủ thể đi tìm sự thật và đối tượng đang ẩn chứa sự thật, thì từ đó chủ thể có thể tái tạo từ đầu tới cuối sự hình thành của đối tượng để thấy được sự thật, và sự thật sẽ luôn được mở ra cho ta nhận ra sự thật, và sự thật trao tặng cuộc sống sức mạnh của nó qua sự xuất hiện hiển nhiên của sự thật. Nhưng sự thật của con người là biết vụ lợi để bảo vệ tư lợi của mình, nên sự thật trong xã hội xuất hiện với sự xung đột về quyền lợi, nơi mà mỗi tư lợi bám vào chỗ đứng của nó, cùng lúc muốn lớn ra và đe dọa các tư lợi khác. Chính sự xuất hiện của sự thật sẽ nói rõ sự xung đột đã có và sẽ tiếp diễn ngay trong sinh hoạt xã hội, nó đe dọa và nó thúc đẩy các lực lượng tốt trong xã hội liên kết để cùng nhau liên minh chống lại các lực lượng xấu chỉ biết bám vào tư lợi của mình mà "thí mạng" các lực lượng khác.
Sự thật có hành trình ngay trên lộ trình chân lý, chúng ta phải biết là lẽ phải không nằm trong ý thức hệ luôn lấy ý đồ để vo tròn bóp méo sự thật. Con người còn phải có đầy đủ ý thức để biết là lẽ phải tới cùng với chân lý qua sự thật của sự kiện, khi sự kiện đã trở thành sự cố với tất cả tin tức, dữ kiện, chứng từ để từ đó dựng lên chân lý. Chính sự cố làm lộ ra sự thật và không hề tùy thuộc vào nhận xét chủ quan là chuyện này không thể có, chuyện kia không khả thi, chuyện nọ mang tính không thực tế, để làm thay đổi tình hình ; tất cả đều là một loại ngụy biện trá hình trước sự bất lực. Vì trong khoa học cũng như trong chính trị, trong xã hội cũng như trong kinh tế… sự cố mang đến sự thật không kinh qua chuyện không thể có, không đi ngang qua chuyện không khả thi, không quá bộ qua chuyện không thực tế. Tính ngụy biện tạo ra tính bao biện để kẻ có ý đồ tồi muốn chặn phương trình sự thật-chân lý-lẽ phải, thì luôn luôn sử dụng gian lý để ngoa luận : không thể có vì không khả thi và không thực tế. Lịch sử con người thì dạy cho chúng ta rất rõ là : sự cố xuất hiện để nói rõ là sự thật là sự có ; và biến cố hiện lên để nói lớn là chân lý rất khả thi, và biến động sẽ tới để nói mạnh lên lẽ phải rất thực tế !
Sự thật mở cửa mời lẽ phải, từ đạo lý qua đạo đức, từ luân lý qua giáo dục, từ kinh nghiệm qua trải nghiệm, nhưng kẻ đòi tự do cho lẽ phải phải trả giá cho sự liêm chính của mình, mỗi hành vi liêm sỉ, mỗi hành động liêm minh, mỗi hành tác đều có cái giá của nó, và tự do chân chính luôn chu đáo trong chuyện : được mắt ta ra mắt người, trong đó tư lợi cá nhân không được thủ tiêu công lợi của tập thể. Chính lẽ phải đưa công bằng vào công lý, giao pháp lý cho pháp luật. Chính phương trình công bằng-công lý-pháp lý-pháp luật là phương pháp luận hỗ trợ cho định nghĩa về tự do để tự do này không được đập, phá, thiêu, hủy các tự do khác !
Sự thật biết đứng về phía nước mắt ! Sự thật trong mạng xã hội qua internet, trong đó các tin tức, các truyền thông, các sự cố ngoài vòng kiểm soát của chế độ độc đảng, của thể chế độc quyền, trước bị xem là ngoài lề, nhưng giờ đã trở thành chính thống, vì sự thật ngược lại với bưng bít, với tuyên truyền, với tráo luận, với giả dối. Trên mạng xã hội qua internet, lại còn đi xa hơn tin tức và truyền thông về sự thật của sự cố, mà nó còn là nơi hội tụ các đòi hỏi, các phong trào, các đấu tranh vì tự do, muốn tự do. Chính quyền độc đảng ngăn chặn nó, cấm đoán nó, truy hãm internet vì nó đứng chung không những phía sự thật, mà còn biết đúng về phía lẽ phải để bảo vệ các nạn nhân của bạo quyền : sự thật biết đứng về phía nước mắt !
Sự thật xuất hiện ngay trong hiện tượng, nơi mà cái thật được nhận ra qua trực quan, chính trực quan khi tổ chức lại lý trí, đã bắt đầu trao truyền cho ta một trí tuệ mới để ta tiếp cận ngày càng sát với sự thật. Sự thật là sự liên đới của các chủ quan để cùng công nhận là cái biết đã mở cửa cho cái thật xuất hiện, để sự thật tới như một chân lý có rễ sâu, gốc chắc mà không ai bứng được. Sự thật đã có từ lâu, đã có sẵn, đã có trước câu hỏi sự thật là gì ? Chính cái biết là chìa khóa để mở ra không gian của sự thật để cái thật được nhập nội vào cái biết. Khi chủ thể muốn tìm ra sự thật, thì chủ thể phải là chủ thể mở : mở để sống, mở để nhận, mở để biết, mở để đón sự thật, để được sống thật, sống đúng. Sự thật mang bản thể có trong cái thật, và cái thật không ở trong cái giới thiệu, cái tuyên truyền, nơi mà sự thật của bản thể chính là sự vận hành mà ta thấy-nhận-hiểu qua hiện tượng.
Sự thật có trong lý luận khách quan qua tổng hợp các chứng từ để xây dựng lên tri thức khách quan để đặt sự thật vào kiến thức khách quan để chân lý được khai sáng. Trong sinh hoạt xã hội, văn hóa, giáo dục, chính trị, kinh tế… kiến thức khách quan không như trong khoa học chính xác (toán), không như trong khoa học thực nghiệm (lý, hóa, sinh). Vì kiến thức khách quan trong sinh hoạt xã hội, văn hóa, giáo dục, chính trị, kinh tế… được giải thích qua ngôn ngữ bình thường hàng ngày, mà không qua công thức toán, không qua thí nghiệm làm nên kinh nghiệm cho kiến thức ; mà sự thật trong đời sống con người chỉ được giải thích bằng ngôn ngữ chính xác nhất : nói thật để nói đúng. Khi ta đi tìm sự thật thì đừng quên tính hỗ tương, như là lực bổ sung của hai loại người có hai vị trí rất khác nhau, đối diện nhau để bổ túc cho nhau trên lộ trình nhận ra sự thật.
Sự thật xuất hiện trong sự ngẫu nhiên, nhưng khi sự thật ra đời thì chính sự thật sẽ loại đi sự ngẫu nhiên, để trở thành sự thật của phổ quát, của vĩnh hằng, được chấp nhận mọi nơi, mọi hướng. Sự thật thường tới sau một sự cố, chính sự cố làm sự thật xuất hiện. Sự thật cần kiến thức khách quan để xây dựng lại quá trình làm nó xuất hiện. Sự thật hiện hình như sự tái tạo lại cái thật để chúng ta kiểm chứng được tính trung thực của nó. Sự thật khi thì cần các kiến thức qua thực nghiệm của khoa học, có khi thì nó cần đạo diễn, cần kịch bản để tổ chức lớp lang thứ tự các dữ kiện, các chứng từ làm nên nó, để xã hội, để truyền thông, để tòa án, để pháp luận kiểm tra mọi phần tử, mọi chi tiết đã làm nên sự thật. Sự thật thường xuất hiện như là một sự cố ngoại lệ đã trở thành phổ quát qua quá trình sau đây mà con người sống lần lượt qua bốn kinh nghiệm ngay trong tư duy của con người. Sự thật tới từ sự ngẫu nhiên nhưng là sự có thể, nó đang xẩy ra, nó tới để xóa đi sự chủ quan tạm thời của con người, nó xuất hiện dẹp hẳn sự chủ quan để dựng lên sự khách quan. Sự thật mang thực chất đặc thù, ngược với thói quen, trái với phản xạ. Sự thật khi được công nhận sẽ trở thành phổ biến với kết quả tất nhiên của nó.
Sự thật của sự vận hành vừa ngầm vừa nhanh, nửa hữu hình nửa vô dạng của thân phận Việt hiện nay. Với Tàu tặc đã chiếm đất, đảo, biển của ta ; với Tàu họa đang ô nhiễm môi trường, đang hủy diệt môi sinh của ta ; với Tàu hoạn đang ngày ngày đầu độc dân tộc ta qua thực phẩm bẩn, hóa chất độc, kể cả đang tổ chức dày đặc trên quê hương ta một mạng lưới buôn ma túy để truy diệt các thế hệ trẻ của Việt tộc ; với Tàu nạn đang toàn bộ tự giật dây chính trị qua lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, thao túng qua kinh tế, biển lận qua thương mại, tha hóa qua giáo dục… Tất cả song hành cùng với các làn sóng di dân Tàu ào ạt vào đất Việt để định cư lâu dài, trong quỹ thuật trai Tàu lấy vợ Việt, sinh con lai Tàu theo cha, tạo ra một lực lượng lai đang lan tỏa sâu rộng ngay trong giống nòi Việt. Sự thật này đã cho ta nhìn thấy là số phận Việt đã là đang lâm vào tử lộ của diệt vong !
Sự thật khi nhận diện được thủ phạm trong bạo quyền qua độc tài, tham nhũng qua tham quan, nhận diện chân lý để chứng minh các phong trào dân oan là hậu quả của chuyện trộm, cắp, cướp, giật của bọn bạo quyền thông đồng với bọn thầu đất. Chính nạn nhân giờ đã trở thành chủ thể tự do dầy cá tính bảo vệ sự thật để bảo toàn chân lý, bảo hành lẽ phải. Phương trình sự thật-chân lý-lẽ phải là rễ của đạo lý, gốc của luân lý, cội của đạo đức, giờ đã đứng về phía nạn nhân, đã đứng về phía nước mắt, đã đứng về phía nhân quyền !
Sự thật lột mặt nạ sự xảo trá, chẳng hạn như chuyện chống tham nhũng, được mệnh danh là chiến dịch đốt lò của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng của Đảng cộng sản Việt Nam, nhưng thực chất chỉ là chuyện tranh giành quyền lực để thu tóm quyền lợi giữa các nhóm lợi ích, mà thực chất chỉ là những mafia, sống theo phản xạ đám, đàng, bầy như âm binh, chọn lãnh địa đảng để thao túng toàn xã hội, bòn rút tới cạn kiệt tài lực của quốc gia, nguyên khí của Việt tộc. Chúng cướp quyền lực trước để cướp của dân sau, thanh trừng nhau trước trong nội bộ để dễ dàng thanh toán chuyện trộm, cắp, cướp, giật tài nguyên đất nước, tiền tài dân tộc, vốn liếng xã hội sau đó. Sự thật có mặt trong phân tích, trong giải thích, trong chứng minh là độc tài dựa độc đảng để có độc quyền, để tiếp tục được lạm quyền, tức là còn độc trị thì không sao diệt được tham nhũng.
Sự thật vạch mặt nạ các thỏa thuận ngầm, các thỏa hiệp lén, các thông đồng đi đêm bất-chính-vì-bất-lương của các mafia đang chia chác quyền lực để chia phần quyền lợi, để trục lợi, để nạo ruột các công trình của chính phủ. Với chính sách cướp đất giữa ban ngày qua đạo luật quái thai : "đất là sỡ hữu của toàn dân", "do chính phủ quản lý" và tất nhiên là "do đảng lãnh đạo", trong đó người dân chỉ có quyền "sử dụng đất", "theo thời hạn", và đất giờ thành các miếng mồi để các dã thú với thú tính của mafia cấu kết với nhau để cướp đất của dân. Sự thật vạch mặt bọn dã thú thứ nhất là các lãnh đạo dùng chiêu đểu "đổi đất lấy hạ tầng" để trao các miếng mồi đất qua tham nhũng, cho loại dã thú thứ hai là các chủ thầu trách nhiệm làm hạ tầng trong dối trá và xây dựng cao ốc trong man trá với giá nhiều hàng trăm lần so với giá đến bù cho dân. Sự thật vạch mặt chỉ tên các lãnh đạo bộ công an, bộ quốc phòng, bộ tài nguyên và môi trường chính là các dã thú chúa : có quyền lực trong chính sách lẫn trong quy hoạch, có quyền lợi trong xóa nhà dân đen lẫn trong xóa sổ dân oan, để được giành phần rồi chia lời. Sự thật biết lột trần sự man trá.
Luận thuyết tri thức của sự thật
Sự thật là nền của tri thức, chế tác ý thức trong nhân tính vì nhân phẩm, đó là tự do của kiến thức liêm chính đi tìm nhận thức đúng về cuộc sống có chọn lựa trong sạch. Nhưng quá trình minh bạch này đang bị tha hóa nặng nệ về các lãnh đạo giáo dục bất tài có quyền lực qua độc tài dựa trên độc đảng của Đảng cộng sản Việt Nam. Nếu họ sáng suốt thì họ sẽ phải hiểu : phản biện của ngu dân chính là tự do. Sự thật là gốc để xây dựng lý tưởng được lý trí quản lý, vì kiến thức khi trở thành ý thức mang giá trị của lý tưởng dùng kiến thức phục vụ nhân sinh, chính giá trị lý tưởng lấy kiến thức phục vụ đồng loại, thăng hoa nhân loại đang bị thối nát hóa đến cùng cực trong một nền giáo dục đã rơi xuống vực sâu của bóng tối tráo, lừa, lận, gian với hệ giả : học giả, thi giả, điểm giả, bằng giả.
Sự thật giáo dục tính tự chủ để nhận kiến thức, đưa đạo lý kiến thức tầm sư học đạo tới đạo đức tôn sư trọng đạo mà Việt tộc đã đúc kết thành luân lý bền vững : công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy cũng đang xa vào bùn lầy. Với bao tệ nạn giáo dục : trò uy hiếp, bạo hành thầy cô, và thầy cô cũng tra tấn học sinh, tất cả chỉ vì giáo dục bị lãnh đạo bởi một đảng rất sợ, rất ngại một nền giáo dục vì sự thật chân chính của nó có gốc, rễ, cội, nguồn của : sự thực của nhân tính, chân lý của nhân phẩm, lẽ phải của nhân đạo mà không ngu dân được qua tuyền truyền sống sượng của tuyên giáo man trá. Tất cả cái giả tạo phản sự thật sẽ tạo ra một nền cảnh giáo dục quái thai : vừa tha hóa kiến thức, vừa đồi trụy hóa tri thức, mà lỗi lẫn tội tới từ các lãnh đạo giáo dục độc tài nhưng bất tài nên bất tín và sẵn sàng bất chính ngay trong trách nhiệm trao truyền kiến thức trong sứ mạng giáo dục vì sự thật. Sự thật được sống và lao động bằng kiến thức và tri thức của mình, được làm trí thức qua ý thức của chủ thể có trách nhiệm với giáo dục, có bổn phận với các thế hệ của mai sau, trong nhận thức của giáo dục là chỉ có sự thật mới là kiến thức chân chính. Và bọn quen thói tiền gian bạc lận qua học giả, thi giả, điểm giả, bằng giả không bao giờ có chỗ đứng để đối diện rồi trực diện với sự thật, vì sự thật là khoa học của học lực, tức là phải học thật để có học vị thật, học hàm thật. Sự thật đến để vạch mặt chỉ tên bọn gian lận mua bằng bán cấp, để làm chuyện mua chức bán quyền qua bằng cấp giả, có học vị lẫn học hàm mà không có học lực !
Sự thật chống kiểm duyệt của bạo quyền, bằng lòng quả cảm của mình chống lại hành vi tự kiểm duyệt do nỗi lo sợ bị trừng phạt bởi tà quyền. Chống đối để bảo vệ sự thật, đề kháng để bảo trì chân lý, đấu tranh để bảo quản lẽ phải, tự do thông tin trong tự do truyền thông không sợ kiểm duyệt, kiểm tra. Sự thật có cùng một giòng sinh mệnh với đạo lý truyền thông : đối thoại cho sự thật, đối lý vì chân lý, đối luận vì lẽ phải. Sự thật đòi hỏi minh bạch trong đối thoại về dữ kiện, minh chứng trong điều tra, minh luận trong chứng từ. Sự thật trong truyền thông chống lại quy trình truyền lệnh-tuân lệnh-hành lệnh của bồi bút, của văn nô, vì chúng xum xoe chống sự thật để cúi đầu nhận bổng lộc của bạo quyền, nhai nuốt đặc lợi để ngấu nghiến đặc ân vung vãi của tà quyền. Từ vong thân tới vong nghiệp, nên bọn ký nô, văn nô viết để tha hóa thông tin, để gian lận tin tức, để đánh tráo chứng từ ; trong bọn chúng có kẻ còn dùng nghề làm báo, nghề viết lách của mình để đâm thuê chém mướn qua bôi nhọ, chụp mũ, vu khống những ai lương thiện khi chúng nhận được nhiều tiền của các kẻ bất lương. Làm tay sai vì tư lợi, đi ngược lại lương tâm nhà báo khi chúng lội ngược giòng của sự thật, thì chúng chỉ là loại phản phúc chống lại chân lý, vì bọn này đã đánh mất đi một nghiệp vụ học quý nhất là : tự do trao tin vì sự thật, truyền tin vì chân lý, đưa tin vì lẽ phải ! Vì chúng đã rơi vào tà lộ của điếm nghiệp.
Sự thật sẽ làm nền sự sống, giúp sử học viết đúng, viết trúng, tức là viết thật. Viết thật hay nói thật có khi bị trù dập, bị vu cáo, bị hãm hại, bị ám sát, bị tử hình… Nhưng sự thật là sự thật phải được nói tới nơi, tới chốn, cụ thể nếu con người sống thật bằng sự thật thì phải biết chấp nhận cái chết cũng vì sự thật, như vậy sự thật là gốc của lòng tin biết dựa vào sự thật để nhận ra chân lý, vận dụng sự thật để nền cho lẽ phải. Lương tâm của trí thức là đây, lương tri của khoa học là đây, cả hai là hùng lực lương thiện của kẻ đi tìm sự thật. Sự thật dạy ta sự khiêm tốn, Socrate khuyên con người khi đi tìm sự thật, phải đi tìm với chính nhân phẩm của mình, đi tìm là đi học, khiếm tốn để khiêm nhường với tâm thức : "Tôi biết là tôi không biết gì cả !". Khiêm tốn rồi khiêm nhường để có thái độ khiêm cẩn trước con đường tìm đến sự thật, sẽ có chướng ngại vật vì sẽ có rào cản, sẽ có thử thách rồi sẽ có thăng trầm ; có quá trình của "lửa thử vàng, gian nan thử sức".
Sự thật là sự định hình của chân lý, rồi nó trở thành bất di bất dịch, nó sẽ không thay đổi, sẽ không chuyển hóa, để được mọi người nhận như môt giá trị vừa hiển nhiên, vừa vĩnh hằng. Đó là định nghĩa của Platon, môn sinh của Socrate lại là sư tổ của triết học. Platon đưa ra hai chỉ báo để "đánh dấu" trên sự thật : sự thật là tri thức, tới từ kiến thức của con người về một chuyện thật, mà chuyện thật này đã tách rời được sự tưởng tượng, tức là đã ra khỏi ý tưởng tới từ cảm xúc chủ quan của cá nhân ; và sự thật đã hiện hữu với bằng logos : sự thông đạt của lý.
Sự thật có quan hệ với lòng tin, cái thứ nhất thì mang lại chân lý, cái thứ hai có khi dẫn con người tới cuồng đạo, vào mê lộ của mê tín lại lấy sự mù quáng để nhấn chìm sự thật, triết gia này đề nghị các nội chất sau đây để ta nhận ra sự thật. Sự thật xuất hiện như sự vén màn mà bóng tối không còn giúp gì được cho sự giả dối đang che lấp sự thật. Khi sự thật tới như ánh sáng vừa lan tỏa, vừa xóa đi bóng tối, thì sự thật vén màn tới đâu là nhân gian khám phá cái thật tới đó, tại đây có quá trình của vén-lật-nhìn-thấy-hiểu, các đồng từ này chính là các chỉ báo khách quan để định nghĩa thế nào là khám phá sự thật. Sự thật không những đứng giữa ánh sáng lại còn lan tỏa để nhập nội vào nhân thế, để đổi nhân sinh quan của nhân tình, mà còn đổi luôn thế giới quan của nhân loại, đưa con người tới nguyên nhân của sự thật. Nguyên nhân có khi nằm trong động cơ của kẻ nuôi dưỡng chuyện phản sự thật. Sự thật tới có thể làm chúng ta sững sờ khi nó xuất hiện, nhưng khi sự thật đã tới như chân lý hiển nhiên, thì sự thật trao cho chúng ta những chìa khóa để mở cửa mọi nhà tù đang giam hãm ta, để giúp ta khám phá ra sự thật này.
Sự thật xuất hiện để tách người ra khỏi sự mê tín không có cơ sở vì không được kiểm chứng qua một quy trình khách quan của tri thức ; như vậy sự kiểm chứng là cặp mắt của sự thật, làm nên quy luật vô trương bất tín (không thấy thì không tin). Và xa hơn nữa là khi ta nếu thấy rồi, tin rồi, thì phải để kẻ khác kiểm chứng để chuyện thấy và tin, để sự thật trở thành chuyện không chối cãi được. Sự thật không đến thản nhiên rồi ra đi trong hồn nhiên, sự thật không chỉ bay lướt trên mặt đất mà nó yêu cầu ta phải đào thật sâu, bới thật rộng, cào thật xa để biết tại sao gốc, rễ, cội, nguồn của sự thật lại bị che lấp, và nó thường bị che lấp với các ý đồ của lòng tham không đáy. Sư thật đưa ra phân tích sâu và rộng để giải thích cao và xa, nên sự thật không bị giới hạn bằng biên giới của không gian, không bị định hạn bởi thời gian, cụ thể là nó không sợ hãi và không tuân thủ bất cứ vùng cấm nào cả. Nên sự thật khách quan yêu cầu ta tiếp tục điều tra, khảo sát, nghiên cứu chỉ như vậy sự thật mới là sự thật trọn vẹn chớ không phải là loại sự thật chột, què, ngọng, điếc đã bị tà quyền vo tròn bóp méo.
Sự thật đến như một sự kiện của sự cố để giải thích các biến cố đã, đang, sẽ xẩy ra khi sự thật xuất hiện với nguyên vẹn hình hài của nó. Và khi chủ thể khám phá ra sự thật nguyên vẹn này, thì chính chủ thể thường có nhận định là mình đã đi sau tới trễ đối với sự thật, chính cảm nhận này sẽ hướng dẫn chủ thể thực hiện thêm hai việc : thứ nhất là kiểm nghiệm lại mọi quá trình thực nghiệm (thật sự của sự thật) ; thứ hai là luôn đi thêm một bước hay nhiều bước nữa để được tiếp nhận sự thật đầy đủ mà không bị thiếu sót, để tiếp nhận sự thật được toàn diện, không bị phiến diện, như một sự thật tật nguyền.
Sự thật được khai sáng nhờ kiến thức, nhưng trước đó sự thật có thể bị vô thức của người trần mắt thịt vì đã quá cả tin vào chế độ đang quản lý sự thật, vào chính quyền đang quản trị sự thật ; tệ hơn nữa sự thật còn có thể bị vùi lấp bởi mê thức, tới từ hậu quả của tuyên truyền, từ hậu nạn của kiểu lưỡi gỗ chỉ biết nghĩ, biết nói một chiều làm ra đêm giữa ngày, để ma quyền dễ gạt đi mọi phản biện. Chính vô thức khi song hành cùng mê thức thì sự thật bị coi như một hiểm họa vì sự thật có thể đặt lại toàn bộ vấn đề về tổ chức xã hội, trong đó có tư lợi của kẻ đang là nạn nhân của vô thức hoặc mê thức. Cụ thể là quan hệ xung đột giữa kiến thức, vô thức và mê thức là quan hệ trong đó quyền lợi đặt chủ thể của nhận thức vào sự tỉnh thức trước sự thật ; hoặc ngược lại loại bỏ ý thức tới từ kiến thức để bảo vệ tư lợi trong vô ý thức.
Sự thật đưa kiến thức ra ánh sáng, mà ngay trong kiến thức cũng có loại kiến thức bị giấu giếm, để chỉ được chia sẻ kín đáo trong bè đảng như trường hợp của ba lực lượng độc hại cho số phận Việt tộc hiện nay : bạo quyền lãnh đạo trong độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham đất, tất cả đều tham tiền ; và chính chúng là giặc nội xâm, trực tiếp hay gián tiếp mở cửa cho ngoại xâm Tàu tặc, vì chúng chỉ biết sống bất lương để làm giàu bất chính, loại này luôn "mất ăn, mất ngủ" vì sự thật sẽ tới để lột mặt nạ của chúng.
Nên sự thật không bao giờ được chính thức hóa qua hệ độc (độc đảng, độc tài, độc trị, độc quyền, độc tôn). Sự thật xuất hiện trong xã hội không đơn thuần như sự chứng minh một định đề toán, không thuần chất như giải nghiệm sự thật qua thí nghiệm của các ngành khoa học thực nghiệm hóa, lý, sinh… Sự thật xã hội là một mạng lưới có dây dưa rễ má trong sinh hoạt xã hội, có gốc, rễ, cội, nguồn trong đời sống xã hội, nơi mà quan hệ xã hội bị thao túng bởi những tư lợi ; người ta giấu một sự thật vì người ta có quyền lợi trong sự che giấu đó, là nền cho sự dối trá của kẻ muốn bảo vệ tư lợi của mình.
Sự thật đối nghịch với sự mù lòa, khi người ta có thấy một con voi to lớn giữa nhà, mà người ta còn giả vờ như không thấy nó, thì đó là kết quả của vô thức đã cộng nghiệp cùng mê thức để sinh ra hậu quả của vô ý thức, tức là không tỉnh thức trước kiến thức. Tại đây, tri thức của khoa học xã hội và nhân văn sẽ làm nên được ý thức để giúp quần chúng có được nhận thức về chính số phận của mình : chỉ có sự thật Việt mới nói rõ được số phận Việt, không có một mê tín, mê lộ, mê cung, mê chấp nào thay thế được sự thật. Sự thật được tìm ra bởi thiện ý như là một ý chí muốn nhập nội vào sự thật để hiểu tới nơi tới chốn sự thật.
Tại đây, khi ý chí dựa vào thiện ý đã trở thành ý lực thì ý lực này chính là thể lực của niềm tin, và cái tin này cũng là bước đầu của trí tuệ, giúp ta khởi hành trên lộ trình đi tìm ra cái lý để hiểu cái thật. Cả hai cái tin, cái lý sẽ tìm ra cái thật, nơi mà cái tin chọn cái lý để tạo nền tảng để đón cái thật được tới.
Sự thật có thượng nguồn là chỉnh lý, để đi tìm cái đang ẩn sâu trong cái lý, khi ông xem sự thật khi được tung ra như một loại ánh sáng có sức sáng vô song tới để khai phá ý chí của con người muốn biết tận gốc rễ của cái thật. Chính độ sáng mãnh liệt này làm ngời cái thật được hiện hữu tròn đầy rồi hiện hình trọn vẹn giữa nhân sinh. Mà cũng chính nó có lực tập hợp rất lớn, nó đưa cá nhân tới tập thể, đưa các cộng đồng riêng rẽ tới cùng, tới chung một số phận của một dân tộc sống để bảo vệ sự thật sáng rực này. Và khi ánh sáng sự thật càng lớn thì nó tạo ra được sự thỏa thuận, làm nên sự đồng lòng của mọi người thì sức vận hành rất mạnh của nó trong xã hội con người. Sự thật xuất hiện để xóa đi sự ngờ vực, và sự thật đứng vững với chân lý của nó, vừa bằng lý thuyết luận, vừa bằng phương pháp luận của nó, làm nên khoa học luận về sự thật, sẻ mang một giá trị tuyệt đối.
Sự thật được phân tích như một nghệ thuật sống mà con người biết tự thuyết phục mình trước cái hiển nhiên vì nó rõ ràng trong tuyệt đối, đó chính là sự thật. Mà muốn tới sự thật này thì phải biết yêu cái thật để thấu cái thật. Ông chắc chắn một điều là cái yêu đi tìm cái thật làm nên cái biết, cái hiểu về cái thật. Nhưng sự thật đi giữa tri thức và quyền lực. Sự thật luôn bị chi phối bởi hai cực này, ông tin là sự thật không vô tư và không vô điều kiện, vì cả hai tri thức và quyền lực đều không vô điều kiện. Rồi ông chống lại quá trình của niềm tin khi nó đi tìm sự thật, và ông giải thích là khi sự thật nằm giữa kiến thức và lòng tin, thì kẻ có lòng cả tin luôn có ảo tưởng đã là người nắm trọn được sự thật, nhưng thật ra là người đó đang nhốt sự thật vào lồng của niềm tin.
Sự thật tuân thủ các nguyên tắc khách quan thì niềm tin phải theo sự thật, chớ không phải ngược lại là sự thật phải theo niềm tin. Có ít nhất ba yếu tố cấu tạo ra sự thật : cơ cấu lý lẽ của sự kiện tại sao nó có và xuất hiện trong cuộc sống ; sau đó là tính biến đổi của nó qua thời gian, đây chính là sử tính của nó ; và cuối cùng là sự sống còn của nó qua các không gian khác nhau của xã hội con người. Ngay trong sinh hoạt xã hội, quyền lực luôn tìm cách chi phối các tổ chức của xã hội, trong điều kiện đi tìm sự thật Việt để hiểu số phận Việt, thì ai cũng biết là gần hàng ngàn cơ quan truyền thông, dưới độc quyền của tuyên giáo qua độc tài trong độc trị của Đảng cộng sản Việt Nam, thì có chục ngàn bút nô, ký nô, văn nô được trả lương tháng để phục vụ cho một hệ thống truyền thông được tồn tại chỉ để viết những chuyện phản sự thật.
Cái phản sự thật độc hại do độc đảng gây ra, từ nghèo nàn trong lạc hậu của xã hội Việt, tới các cuộc đấu tranh vì nhân quyền trong nhân phẩm qua dân chủ, thì đều bị vu cáo, vu khống, vu họa. Bọn bút nô, ký nô, văn nô hùa sủa với sự hỗ trợ vô điều kiện của bộ máy đồ sộ của tuyên giáo vanh danh nhờ man trá.
Luận thuyết sự thật dựng lòng tin
Sự thật có cội là vốn liếng của gia đình đó trong quan hệ xã hội của gia đình đó có nguồn là vốn kinh tế làm nên vốn quen biết, rồi lấy vốn quan hệ xã hội để lợi dụng ngay trên vốn chung của xã hội, lợi dụng rồi lạm dụng là động cơ chính để bảo vệ tư lợi ; cụ thể là tìm quyền để có quyền, và khi có quyền thì lạm quyền. Nên nguồn cội là quyền lợi qua tiền tệ-hậu duệ-quan hệ của một nhóm có thể làm giàu cá nhân đó, đó là chuyện hằng ngày ta thấy rất rõ là con ông cháu cha dễ thành đại gia ; và ngược lại thì chuyện dân chúng lại nghèo đi, chật vật trong nheo nhóc, dễ thành dân đen, và chỉ một sớm một chiều bị cướp đất, cướp nhà là thành dân oan.
Sự thật của xã hội Việt Nam hiện nay có thể nhìn qua các nạn nhân của quyền lực bạo động trực tiếp bằng đàn áp do công an trị ; lại được trợ lực bằng bạo động truyền thông qua các hệ thống tuyên truyền, truyền thông, báo chí phục vụ ý đồ của tuyên giáo. Ta lại càng không quên : bạo động truyền thông với giọng điệu của chính quyền bắt buộc dân tộc phải nghe sự dối trá như là chân lý ; để từ đó chôn vùi thực chất của sự thật, tạo nên tảng để chính quyền này dễ vu khống để vu cáo, dễ điêu ngoa để chụp mũ sự xuất hiện của mọi lẽ phải. Sự dối trá bằng phản xạ điêu ngoa luôn vùng vẩy trong bùn nhơ phản sự thật.
Sự thật mở cửa cho lương tri, vì chủ thể có lương tâm trong hành động, làm nên tính lương thiện trong lý luận đưa chủ thể đó về hướng : phải nói thật để phải thật khi nói, mặc dù có thể bị xử tử bởi bạo quyền lãnh đạo, bị ám hại bởi tà quyền tham quan, bị trừng phạt bởi ma quyền tham tiền. Khi nói thật để bảo vệ sự thật như chân lý để đi tìm lẽ phải, thì sự thật chính là tiền đề của đạo lý biết sống bằng hay, đẹp, tốt, lành trong mọi sinh hoạt xã hội, của luân lý làm nên điều hay lẽ phải trong trách nhiệm và bổn phận của một công dân đối với xã hội mà mình đang sống.
Sự thật của xã hội không thoát được sự xếp hạng theo thứ tự ưu tiên mà xã hội đó tôn vinh, và chính sự xếp hạng này cho phép hoặc không cho phép một sự thật xuất hiện, tại đây có khen thưởng hoặc có trừng phạt khi có một sự thật xuất hiện. Sự thật chỉ được thuyết phục bởi cái lý, nhưng chính ông cũng khuyên ta hãy cẩn trọng khi sự thật bị chính cái lý thông thường, phổ quát mà thực chất là phản sự thật, đang có sẵn trong tín ngưỡng đến vây bủa cái thật, rồi vây hãm để bóp chết sự thật ngay trong trứng nước trong bằng cái lý độc tôn đang có độc quyền trong tín ngưỡng để chống lại sự thật đó.
Sự thật tác động vào lòng tin, nơi mà lòng tin có kiến thức riêng của nó, có cái lý riêng để định vị, cụ thể là con người không muốn tin những sự thật mới tới để làm phiền rồi lật đổ các niềm tin đã có trong con người. Nên sự thật có thể nằm im lìm trong quên lãng, trong những gì mà người ta không muốn hiểu, và sự thật cũng có thể không nằm trong những gì mà người ta muốn biết. Vì sự thật đụng chạm tới tư lợi, đây chuyện thường tình của nhân gian, nên trong khoa học cũng có chuyện tranh giành quyền lực như trong chính trị, trong tôn giáo cũng có chuyện tranh giành quyền lợi như trong kinh tế… Nếu ta muốn bảo vệ sự thật khách quan, để tới với chân lý của sự việc, chúng ta không bảo vệ sự thật một cách chung chung, mà bảo vệ trước hết là bảo vệ lý trí của sự thật làm nên chân lý cho lẽ phải.
Sự thật trước quyền lực và quyền lợi, nơi mà sinh hoạt xã hội được tạo ra từ hai loại người kẻ thống trị và kẻ bị trị. Kẻ thống trị nắm không những quyền lực, mà còn thao túng luôn cả tri thức, bằng thủ đoạn của mình, qua chính quyền thuộc về mình, mà mục đích là kéo dài chế độ thống trị, nơi mà sân chơi, trò chơi, luật chơi được tổ chức rồi giật dây để khống chế rồi áp bức kẻ bị trị. Tại đây, có kẻ ăn trên ngồi trốc làm giàu qua sự bóc lột những người cày sâu cuốc bẩm ; kẻ thống trị thì ngồi mát ăn bát vàng sống trên lưng những người lưng đội trời, mặt áp đất ; kẻ thống trị này đi trên vai những người một nắng hai sương bằng thói ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau ; kẻ thống trị này lại tự cho phép mình nằm chờ sung rụng lại còn dẫm lên đầu những người thức khuya dậy sớm qua siêu cao thuế nặng, đây chính là họa nạn của Việt tộc hiện nay. Sự thật của xã hội Việt hiện nay là kẻ thống trị vừa lạm dụng mọi sinh khí xã hội, vừa bóc lột tới tận cùng xương tủy kẻ bị trị.
Sự thật vạch mặt chỉ tên bạo quyền, nơi mà đời sống Việt hiện nay là kẻ thống trị vừa bòn rút, vừa trấn lột kẻ bị trị. Kẻ thống trị quây quần với nhau để lập ra những tập đoàn quyền lực, tạo ra bất công tuyệt đối kẻ ăn ốc, người đổ vỏ như ta thấy qua thảm kịch của dân đen hiện nay lợi tức tàn mạt, ngày ngày sống với lạm pháp phi mã. Lực lượng thống trị chung quanh Đảng cộng sản Việt Nam sống bằng bạo quyền độc tài trung ương, bằng tà quyền tham quan địa phương, và ma quyền chung quanh các nhóm lợi ích, có sân sau, có ô dù, được chống lưng, hít vào bằng biển thủ, thở ra bằng gian lận… tồn tại như các ký sinh trùng bòn rút tài nguyên của đất nước, tiền tài của dân tộc. Các ký sinh trùng này được "tẩm bổ" để trở thành một tập đoàn tội phạm trong hệ độc : độc đảng để độc tài, độc trị để độc quyền, độc tôn để độc quyết, bất chấp mọi độc hại tới với đồng bào, đất nước.
Sự thật có ngay trong sự bất bình đẳng của xã hội ; có ngay trong sự bất công xã hội đó ; có ngay trong sự bất nhân xã hội đó, có ngay trong sự vô luân của kẻ thống trị bấp chấp đạo lý hay, đẹp, tốt, lành của tổ tiên, đã làm nên luân lý của cộng đồng Việt biết sống có trách nhiệm với đất nước, làm nên đạo đức của dân tộc Việt biết sống có bổn phận với đồng bào. Sự thật là vũ khí để chống độc tài luôn tìm cách che lấp sự thật ! Sự thật cũng là vũ khí chống mỵ dân của độc tài, chống đạo đức giả của độc đảng. Sự thật tới để lật mặt nạ của bạo quyền trong bất bình đẳng, của tà quyền trong bất côn, sự thật giải thích dựa trên các công cụ phân tích về số kiếp của kẻ bị trị, để kẻ này thấy rõ số phận mình qua các bẫy của kẻ thống trị, khi kẻ thống trị xem kẻ bị trị như công cụ để lợi dụng rồi bóc lột.
Sự thật có mặt trong sự bất công, chính cái bất tín làm nên sự bất công cũng chính là cái phản sự thật đang xiết cổ sự thật, để bất công được tồn tại, để bất nhân được che giấu. Và con người sẽ tìm ra sự thật của số phận mình ngay trong sự nổi dậy chống bất công, đây là một mệnh đề mới của học thuật đương đại, vì sự nổi dậy để lật đổ độc tài chính là gốc, rễ, cội, nguồn của bất công, và bất nhân, đưa ta tới con đường của sự thật. Sự nổi dậy luôn dùng tự do của mình để tái tạo lại công bằng rồi bác ái làm nên nội chất của cộng hòa, tạo ra thực chất của dân chủ, đây chính là chân trời của sự thật. Không phải chỗ nào có bất công là chỗ đó có nổi dậy, nhưng chỗ nào nổi dậy rồi chỗ đó chắc chắn có bất công ! Đây cũng là thử thách để kiểm chứng Việt tộc có phải là một minh tộc hay không trước cuộc sống hiện tại của chính mình ? Đây chính là thử nghiệm để xác chứng Việt tộc có phải là một dũng tộc hay không trước tiền đồ của tổ tiên, trước vận mạng của đất nước, trước tương lai của giống nòi ?
Sự thật thường xuyên bị ngăn chặn bởi bạo quyền, mà khi nó lại vừa là tà quyền thì nó lại đổi trắng thay đen sự thật chính là phản xạ điêu ngoa của nó. Chưa hết, qua bộ máy tuyên truyền nhập nội cùng hệ thống công an trị của nó, nó còn biết dựng lên mọi ý đồ để chặn ngăn sự thật không được thành như sự cố. Khi chặn được sự cố rồi, chúng còn chặn luôn sự kiện hiển nhiên để sự kiện không vào được quỹ đạo của biến cố để biến thành sự thật. Từ đây, bạo quyền độc đảng luôn ngăn sự phát triển của chủ thể là dùng tự do của mình để khám phá sự thật, tà quyền ngăn luôn kiến thức đi tìm sự thật, để kiến thức được trở thành tri thức, là nơi bảo vệ và giữ gìn sự thật qua thời gian.
Sự thật có mặt trong nạn nhân oan để giải thích hiện tượng bạo động, đó là kiểu giết người của bạo quyền giữa thanh thiên bạch nhật, buộc tội oan một người, một tập thể nhỏ, một cộng đồng yếu để quy chụp những tội mà họ không gây ra. Hoặc biến một lỗi nhỏ của một cá nhân, một nhóm thành tội đồ được phình to ra để hành quyết các nạn nhân oan, như để làm vật tế thần, khi một cộng đồng dùng nạn nhân oan không có tội nhưng bị buộc tội oan để giải tỏa những ấm ức, những dồn nén, những bức xúc, tới từ các xung đột nội bộ trong một chế độ, trong một xã hội đang mất niềm tin, đang bị tha hóa.
Cụ thể là chính các nạn nhân oan, không đáng tội chết nhưng bị xử oan để phải chết oan, sẽ giải tỏa sự tù hãm của một tập thể, của một cộng đồng, của một xã hội đang mất phương hướng. Một xã hội cho phép đòn thù để tra tấn cho tới chết, mà lại được một độc đảng bạo quyền che lấp tội ác để che giấu tội phạm là một xã hội đang bị nạn nhân hóa. Một vài côn đồ, du đảng được công an sử dụng, được bọn ma quyền buôn đất trả tiền, có thể bắt cóc và tra tấn cho tới chết một dân oan đang bảo vệ mảnh đất của mình
Sự thật có mặt trong thi thể của nạn nhân, của sự thật Việt làm nên số phận Việt hiện nay đang diễn ra hằng ngày trước mắt chúng ta là một vài công an có thể đưa một người vô tội vào đồn công an và đánh đòn thù cho tới chết, để hôm sau báo với gia đình của nạn nhân này là nạn nhân đã tự tử, và không một tên công an sát nhân nào bị điều tra để sau đó được phân xử công minh trước tòa án… Gia đình của nạn nhân oan này không dựa được vào pháp luật, vì tư pháp hiện nay không hề liêm chính, vì bọn xã hội đen này lại được công an bảo kê, được bọn ma đất trả lương, thì đây chính là độc lộ của dân chúng trong xã hội ngập bất công mà một công dân có thể đã bị ép vào tử lộ để đi thẳng từ dân oan tới nạn nhân oan, vô tội đã trở thành tử tội.
Một nhóm lợi ích tham nhũng đang lũng đoạn xã hội, đang bị điều tra có thể thủ tiêu một đàn em có vài triệu chứng phản bội chúng, để vừa trả thù, vừa để trút giận vào kẻ sẽ là chứng nhân đang tính chuyện bỏ bè rời đảng trong một tập đoàn tội phạm. Và, bè đảng này có thể thủ tiêu chứng nhân này, để trút xả mọi cuồng bạo của nó mà bất chấp pháp luật hiện hành, một xã hội có mức độ bạo động cao, có cường độ bạo động thường trực như xã hội Việt hiện nay, thì chuyện "thí mạng" nạn nhân oan là một chỉ báo để nói lên sự thật : khi bạo quyền trở thành tà quyền mà sẵn sàng giết người, thì nó rất dễ dàng giết luôn đạo lý lẫn luân lý, diệt luôn giáo dục lẫn văn hóa...
Sự thật có trong cái bạo lực của bạo quyền, có trong định nghĩa sự bạo động, thì phải qua đường đi nẻo về của nó là sự giết hại từ tính mạng tới nhân phẩm của nạn nhân của nó. Khi ta nhìn về sự bạo động, thì ta thường nghĩ là ta không phải là thủ phạm, mà kẻ khác mới là thủ phạm, nhưng trên đạo lý làm ra đạo đức khi ta nhắm mắt để bỏ qua các tội phạm, thì ta đã đồng lõa với tội ác, và cứ để tội ác tiếp diễn và lan tràn, thì luân lý học gọi tên nó là : đồng phạm !
Hãy tách rời chuyện đi tìm sự thật bằng chính hành động của mỗi cá nhân thiết tha sống vì sự thật, ông gọi tên hành động đó là hành động truyền thông liên kết có lực kết hợp các hiểu biết khác nhau chung quanh một sự thật mà chúng ta đang đi tìm, được kết tụ lại để rồi cùng nhau chung sức dựng lại hay dựng lên một sự thật đang bị vùi lấp. Sự kết hợp các quan điểm qua các tri thức khác nhau, các kinh nghiệm khác nhau, nhưng khi nhập lại làm một tổng hợp đủ lực tạo ra một viễn ảnh ngày càng sáng, một chân trời ngày càng tỏ, giúp chúng ta cùng nhau đi tới mà nhận diện ra sự thật đó.
Sự thật trao quyền sống đúng, không là nạn nhân của bất công, trong một xã hội mà bóc lột là vô nhân, mà tham nhũng là vô luân, trên nguyên tắc của nhân quyền, con người được quyền sống trong một xã hội đáng sống, không ai là dân đen, dân oan của ai cả ; và khi con người nhận ra sự thật này tức là con người đã biến nhận thức thành tỉnh thức. Sự thật dặn dò ta phải cẩn trọng ngay trong tin tức, dữ kiện, chứng từ, vì sự thật luôn bị đánh tráo, đổi trắng thay đen, bị biến dạng khi ta đi tìm sự thật. Bạo quyền không thể chụp mũ, vu cáo một kiến thức toán trong một định đề toán và tà quyền không thể chính trị hóa toán học được ; nhưng bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham nhũng có thể vu khống một sự thật của khoa học xã hội nhân văn, bằng cách chính trị hóa để lũng đoạn hóa các tri thức của khoa học xã hội nhân văn. Và khi khoa học xã hội nhân văn không bị bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham nhũng khai thác, thì nó lại bị các ma quyền truyền thông này giật dây, vu cáo, chụp mũ... Nên từ đây, xã hội học hiện đại đã là môt kiến thức biết tự phòng vệ để chống lại bạo ngôn của bạo quyền lãnh đạo, xảo ngôn của tà quyền tuyên giáo, lộn ngôn của ma quyền truyền thông. Nên một sự thật muốn vững trong không gian để bền với thời gian là một sự thật biết tự phòng vệ !
Sự thật về nhân phẩm nơi mà con người là một cá nhân trong một môi trường xã hội có quan hệ xã hội làm nên đời sống xã hội của cá nhân đó, và tiếp theo là quan niệm xã hội và thực hành xã hội của cá nhân này trước quyền lợi của nó trong tổ chức xã hội nơi mà cá nhân đó đang sống. Từ đây, ta thấy được những mâu thuẫn, rồi những xung đột hoặc hợp tác của cá nhân đó trong sự vận hành của các cơ cấu xã hội mà quyền lực hiện hành vừa lãnh đạo cả xã hội, vừa chủ mưu tạo ra đặc quyền, đặc lợi làm nên đặc khu cho riêng cho quyền lực đó.
Chính tự lợi là rào cản ngăn chặn không cho cá nhân và tập thể thấy hết được sự thật ; và chính đấu tranh ngay trong xã hội sẽ làm sáng ra sự thật, để mọi người thấy rõ bạo quyền dính tới tham nhũng, tà quyền tham quan dính tới ma quyền trọc phú, tất cả bọn này đều buôn gian bán lận trong những không gian âm binh của chúng, và chúng biết lách luật để né luật, thậm chí tráo luật để xé luật, như để thủ tiêu sự thật ngay trên thượng nguồn của nó.
Nhân quyền luận
Các chọn lựa chính sách độc đoán phản dân chủ của Đảng cộng sản Việt Nam đều là đại nạn cho Việt tộc, từ khi lập đảng những năm 1930 cho tới ngày chia cắt đất nước với 1954, các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam luôn lệ thuộc vào phong trào quốc tế cộng sản, trong đó phản xạ khoanh tay nhận lịnh hai đàn anh Liên Xô và Trung Quốc của Hồ Chí Minh, luôn bắt buộc dân tộc ta phải trả những cái giá rất đắt. Trong giai đoạn 1954 tới 1975, với cuộc chiến huynh đệ tương tàn cùng bao hậu quả từ cải cách ruộng đất tới các trại cải tạo sau 1975, dẫn tới các dòng người bỏ đất nước ra đi tìm tự do, cái giá còn đắt hơn nữa với loại lãnh đạo kiểu Lê Duẩn, là dân Việt sẵn sàng : đánh Mỹ cho Liên Xô và Trung Quốc. Một sự lệ thuộc từ tư duy tới hành động, từ phản xạ tới quyết sách, luôn coi thường xương máu đồng bào, lấy chiến tranh để củng cố bạo quyền, xem thường mọi mưu cầu hạnh phúc của nhân dân, gạt bỏ mọi cơ hội để nước ta có tầm phát triển ngang hàng với các láng giềng cùng tam giáo đồng nguyên với ta (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc).
Nếu tri thức dân chủ có mặt trong đa nguyên hoặc có trong minh trí của các minh chủ, minh chúa, minh vương, thì cả dân tộc có thể tránh được bao hậu quả và hậu nạn tới từ độc đảng lấy độc tài để có độc quyền qua độc trị, đang đưa Việt tộc vào tử lộ Tàu nạn hiện nay. Tại đây, tri thức dân chủ của phương Tây bó buộc kẻ lãnh đạo phải có năng lực chuyên môn (compétence) dựa trên học hàm và học vị được minh chứng qua học lực (qualification), nếu không đạt được điều kiện này, thì dân tộc đó thật vô phúc ! Khi nghiên cứu về dân chủ, Tocqueville cẩn thận đề nghị là nếu muốn dân chủ bảo vệ quyền lợi của công dân, thì các thể chế dân chủ phải bảo vệ ngay trên thượng nguồn các điều kiện bình đẳng để mỗi cá thể được hưởng công bằng từ ngay từ sơ sinh tới lúc trưởng thành. Cụ thể là công bằng xã hội phải được tổ chức ngay trong các điều kiện ban đầu của đời người, từ vật chất tới giáo dục, từ kinh tế tới văn hoá… chính điều kiện bình đẳng thượng nguồn, tạo ra thành công về công bằng trong xã hội.
Từ đây, ta thấy nội chất bất công mà Đảng cộng sản Việt Nam đã tạo ra chống dân chúng, phản quần chúng trong sân chơi-luật chơi về bình đẳng, vì họ đã dùng lý lịch để loại các công dân không đồng ý với họ, họ đã dùng thẻ đảng để chọn, tuyển, lựa, lọc người vào nguồn máy của họ, mà trong đó muốn thăng quan tiến chức thì phải là đảng viên. Đảng cộng sản Việt Nam lại còn cơ chế hóa một cách quái thai nhất là cho hệ thống đảng (chính uỷ, đảng uỷ…) "song hành" cùng hệ thống chính quyền để điều khiển, để thao thúng, để áp chế chính phủ, từ đó tạo ra bao bất bình đẳng mà hậu nạn là bất công trong mọi định chế vĩ mô, trong mọi cơ chế vi mô. Khi nhận định về các điều kiện bình đẳng để có công bằng tự trên xuống dưới, từ khi ra đời tới khi trưởng thành, Tocqueville lấy cá thể giờ là công dân trong thể chế dân chủ để làm gốc rễ cho tri thức dân chủ, và sau hai thế kỷ con người đã có những bước tiến rõ rệt về tổ chức các nguyên tắc công bằng ngày càng phong phú.
Sau các cuộc cách mạng về khoa học, kỹ thuật, thông tin, truyền thông, văn hóa, giờ đây là mạng xã hội qua internet nơi mà tin tức, dữ kiện, chứng từ xuất hiện để phản biện, công dân trong phản luận dân chủ, từ đó vai trò đấu tranh dân chủ vì công bằng và tự do luôn được thay đổi theo hướng đi lên ; mà các chuyên gia về các thể chế dân chủ gọi tên nó là sự khủng hoảng tăng trưởng (crise de croissance). Tại đây xuất hiện hai dữ kiện mới của dân chủ. Xã hội dân sự đối diện để đối chất với chính quyền dân chủ do dân bầu ra, tức là bầu rồi, thắng cử rồi nhưng vẫn phải chịu hệ kiểm (kiểm soát, kiểm tra, kiểm toán…) trong mọi công trình, trong mọi chính sách, trong mọi phương án từ hiện tại tới tương lai.
Dân chủ của những bản sắc trực diện để trực tiếp đòi hỏi quyền bảo vệ bản sắc trong bối cảnh toàn cầu hóa, nơi mà bản sắc của thiểu số luôn bị đe doạ bởi các áp lực kinh tế, thương mại, văn hóa, khoa học, kỹ thuật của các cường quốc. Sự khủng hoảng tăng trưởng là sự khủng hoảng để trưởng thành, để vững mạnh trong phát triển và vững vàng trong các thử thách khi đối diện với các lực lượng quá khích hoặc cực đoan luôn muốn phá hoại sinh hoạt dân chủ để đưa độc tài vào xóa dân chủ, lấy độc trị để diệt nhân quyền, đưa độc đảng vào triệt tự do.
Dân chủ luôn có các địch thủ muốn thủ tiêu nó, luôn có các đối phương muốn xóa bỏ nó, để áp đặt độc tài mà mục đích là chỉ phục vụ cho một người, một đảng, mà quên tiền đồ của tổ tiên, quên quyền lợi của dân tộc, tại đây một thể chế dân chủ muốn sống còn nó phải tự hiện đại hóa nó qua hai phương hướng sau : dân chủ phải luôn đào sâu nội chất đạo lý công bằng-tự do-bác ái của nó, là phục vụ mọi người, tuân thủ đa số mà không quên thiểu số, đạo lý của nó không được bỏ sót ai, không được phân biệt đối xử với bất cứ ai, không được kỳ thị với bất cứ đoàn thể, sắc tộc, tầng lớp xã hội nào.
Dân chủ phải luôn mở cửa để tiếp nhận mọi tiến bộ của nhân loại từ khoa học tới kỹ thuật, từ thông tin tới truyền thông, từ hợp tác quốc tế tới toàn cầu hoá… tất cả dựa trên nhân quyền để củng cố nhân đạo, tăng cường nhân từ, bảo vệ nhân phẩm. Chính nội lực dân chủ này làm nên sung lực dân chủ trong hành động của mỗi công dân !
Thể chế dân chủ tạo nên chế độ dân chủ để bảo trì xã hội dân chủ, không phải là một thể chế thuần giống hay thuần chủng, vì nó vượt trên phạm trù thuần hóa để thống trị, chính nghĩa của dân chủ luôn tìm tới sự hợp nhất dựa trên Lưỡng nguyên có đối kháng để phát triển xã hội, để bảo vệ tự do cho công dân, cụ thể là có ít nhất hai đảng, hoặc hai tập thể tạo ra hai cực đối kháng nhau, qua các dự án phát triển đất nước, qua các lộ trình phát huy sức mạnh của một dân tộc. Hai đảng này trực diện để đối diện thường xuyên bằng sức đối kháng của họ, nơi mà họ phải tích cực để tiến bộ qua các chương trình ứng cử, sẽ trở thành quốc sách khi họ thắng cử để nắm chính quyền. Lưỡng nguyên chấp nhận đối kháng mang bản chất của tự do cạnh tranh trên chính trường rất sòng phẳng, nơi luật rừng mạnh được yếu thua được thế bằng luật đúng của đa số thắng thiểu số qua tranh cử.
Sinh hoạt dân chủ dụa trên đa nguyên dựa đa tài, nơi mà đa nguyên dựa trên đa đảng, vì có sung lực tạo ra đa tàitrong quản lý, đa năng trong sản xuất, đa trí trong cơ chế, đa hiệu trong kinh tế… Đa nguyên chọn đa dạng để chống độc tài, chọn đa chiều để loại độc trị, chọn đa phương để khử độc đảng. Chính hệ đa này sẽ mở ra nhiều cửa, đưa tới nhiều chân trời làm mới tự do, làm rộng công bằng, làm giầu bác ái. Cũng chính đa nguyên tạo ra nhiều nhận định trong lập pháp, tạo ra nhiều phân tích trong tư pháp, tạo tiền đề cho nhiều phương án trong hành pháp.
Đa nguyên là sung lực của dân chủ, vì nhờ có đa tài nên chống lại được với thảm hoạ quá nhiều bất tài hiện nay trong lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, đa nguyên dùng đa trí để gạt luôn quá nhiều bất lực, và cũng chính đa nguyên dụng đa hiệu để trừ mọi hậu quả của độc đoán tới từ độc đảng, độc tôn, độc trị, độc quyền. Đa nguyên nói thẳng với sung lực : vắng mợ chợ vẫn đông ! Không có lãnh tụ nào, không có đảng phái nào là tối cần, chính họ tự nghĩ là : không có họ thì nhân loại phải gục ! Dân tộc phải chết ! Sự thật chính trị là không ai là tối cần cả trong một thể chế thật sự dân chủ. Chỉ vì dân tộc cần mọi công dân, vì đất nước cần mọi nguyên khí, vì giống nòi cần mọi tiềm năng. Vì sung lực dân chủ là hợp nhất trong đa nguyên, nó không tính chuyện đơn lẻ để xé lẻ, để xài lẻ.
Quá trình hợp nhất qua lưỡng nguyên thì hai đảng có thể thay nhau mà lãnh đạo, mà nắm chính quyền qua tranh cử, có lúc cùng nhau tổ chức một chính phủ, các quốc gia Âu châu có nhiều kinh nghiệm về hệ chia quyền này, nước Đức là quốc gia có nhiều kinh nghiệm phong phú về quá trình này. Có quá trình hợp nhất qua đa nguyên, nhiều đảng phải, nhiều tập hợp chính trị có thể nắm chính quyền, tổ chức chính phủ cũng qua đầu phiếu, tạo ra một sung lực dân chủ đó là sự thông minh hỗ tương (l’intelligence de la complémentarité), đảng này bổ khuyết cho đảng kia, tập thể này hữu ít cho tập thể kia, hiện nay nước Pháp đang sống kinh nghiệm này để vượt qua lưỡng nguyên (phái tả, phái hữu) với thói quen của các phản xạ kình chống nhau qua biên giới tả-hữu.
Sự thông minh hỗ tương, tận dụng đa tài, đa năng, đa trí, đa hiệu tạo ra một sinh hoạt văn minh trong chính trường, cho phép ra đời sự thông minh tôn trọng lẫn nhau (l’intelligence du respect mutuel). Họ văn minh qua hỗ tương, qua tôn trọng lẫn nhau, nên họ tránh được các cuộc thảm sát của Đảng cộng sản Việt Nam đã làm, đã truy diệt các đảng đối lập, từ các đảng phái quốc gia tới các đảng thuộc phong trào đệ tứ cộng sản trong những năm 1940-1960. Và cho đến giờ này với độc đảng, Đảng cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục truy diệt mọi chồi non dân chủ, mọi mầm móng đa nguyên. Đây là thảm hoạ cho Việt tộc mà thủ phạm chính là Đảng cộng sản Việt Nam đang ám sát mọi thông minh có trong giống nòi Việt, họ diệt đa tài để giữ độc đảng, đây là một tội lớn của Đảng cộng sản Việt Nam trong lịch sử cận đại và hiện đại của Việt Nam.
Sung lực dân chủ có tầm vóc chính trị, có bản lĩnh định chế, có gân cốt nhân lý được thấy rõ qua ba thực thể pháp lý sau đây của mọi chế độ thực sự có dân chủ : phân ranh giữa chính trị và luật pháp, trong đó chính trị được nắm chính quyền, được lập chính phủ, nhưng chính trị qua chính giới và chính khách cùng với đảng phái của họ không được đứng trên, đứng ngoài, đứng xa pháp luật, mà họ phải ở trong khung pháp luật như mọi công dân, và nếu cần phải chịu bị xử như mọi công dân.
Hợp nhất giữa chính quyền và quốc gia, trong đó chính quyền đại diện cho quốc gia, từ chính trị tới ngoại giao, từ xã hội tới văn hóa, từ an ninh tới quốc phòng… mà cùng lúc phải bảo vệ một cách tuyết đối không những quyền lợi của quốc gia, mà nhất là sự sinh tồn của dân tộc đã bầu ra chính quyền đó. Ưu tiên nhân quyền trong đó dân chủ tận dụng mọi quyền hạn của mình để bảo vệ tự do, công bằng, bác ái vì nhân quyền, với nội dung ngày càng cao về nhân phẩm, nhân đạo ; ngày càng rộng về nhân bản, nhân văn ; ngày càng sâu về nhân từ, nhân nghĩa, ngày càng xa về nhân tri, nhân trí.
Không có ba sung lực : phân ranh giữa chính trị và luật pháp, hợp nhất giữa chính quyền và quốc gia, ưu tiên nhân quyền thì không có thể chế dân chủ nào bền vững. Chính dân chủ đã dùng tất cả sung lực này của mình để tổ chức ra một không gian chính trị dân chủ, trong đó mê tín, dị đoan, thần linh, kể cả thượng đế không còn có mặt trong sân chơi-trò chơi-luật chơi này. Và bản thân sân chơi-trò chơi-luật chơi này phải luôn được hiện đại hóa từ xã hội tới pháp luật, từ văn hóa tới giáo dục, để mở rộng tự do cho công dân, để thăng hoa nhân quyền ; từ đây xuất hiện phạm trù : tự do dân chủ (liberté démocratique) cao hơn tự do của cá nhân, nó còn tìm cách đi xa hơn tự do của tập thể, của cộng đồng.
Tự do dân chủ dùng ba tự do : tự do đầu phiếu, tự do ứng cử, tự do tranh cử để thay đổi các tự do đã cố hữu như thành lũy trong sinh hoạt văn hóa và xã hội. Cụ thể là khi con người muốn có tự do hôn nhân, thì phải ra luật để bảo đảm quyền hủy hôn nhân, tức là lập ra một quyền mới là được ly hôn, được quyền ly dị. Vì hôn nhân là một thực thể của tự do, thì ly hôn cũng phải là một thực thể ngược lại để cùng song hành với hôn nhân để bảo vệ tự do của mỗi cá nhân, khi thỏa hiệp hôn nhân không còn được một trong hai người hoặc cả hai không đồng ý với thỏa hiệp hôn nhân này nữa. Xa hơn : giữa hôn nhân và ly hôn, còn có người muốn sống chung mà không qua đám cưới, muốn sống thử mà không màng gì tới hôn nhân, thì đây cũng là một tự do mà một xã hội văn minh phải công nhận. Xa hơn nữa, xã hội dân chủ chấp nhận hôn nhân giữa các cá nhân đồng tính, và công nhận quyền có con của các cặp hôn nhân này qua luật pháp.
Chính các thể chế dân chủ hiện nay đang trên đà nghiên cứu các đạo luật mới công nhận quyền tự do dân chủ của tự chủ hóa (liberté démocratique de l’autonomisation) để đi đến nguyên tắc cá tính hóa (principe de l’individualité) trong sinh hoạt dân chủ. Tại đây, công dân không những phải được công nhận như một cá thể với tất cả quyền lợi được hiến pháp công nhận, mà công dân này phải được công nhận như một cá nhân có đặc điểm riêng, với ý muốn riêng, mang mong cầu riêng, cao hơn nữa chính công dân này với cá tính sáng tạo của mình muốn thực hiện các hoài bão chính đáng của mình, và yêu cầu xã hội và pháp luật phải tôn trọng những sáng tác, như là những tác phẩm đặc thù, có mang đặc tính của họ.
Chính thể chế dân chủ đã đi đầu trong quá trình luật hóa bảo vệ quyền sở hữu các phát minh cá nhân, không những là một vốn của trí tuệ của cá nhân đó, mà cụ thể là bảo vệ thành quả tới từ cá tính của cá nhân qua sáng tạo làm nên biệt tài của cá nhân đó. Các cao trào cá nhân hóa có mặt rộng rãi trên các mạng xã hội qua internet hiện nay, ngày ngày làm rõ nét uy lực sáng tạo của các cá nhân để khẳng định quy luật tự do nhân trí được cá nhân hóa. Đây là chuyện hiện thực, có trong sinh hoạt truyền thông dân chủ hiện nay, có những cá nhân sáng tạo đã có ảnh hưởng rộng rãi qua các mạng xã hội trên internet, và ảnh hưởng của họ nhiều, sâu, rộng, cao hơn hẳn các báo đài của độc đảng đang kiệt lực, cạn hơi tuyên truyền những tin tức trái sự thật, những tin đồn phản chân lý, những tin bẩn ngược lẽ phải. Các quốc gia chậm trễ (như Việt Nam hiện nay) trong quá trình tri thức dân chủ này, sẽ chậm trễ trong quá trình tri thức nhân quyền, về cá nhân tính trong đó cá tính của mỗi công dân biết sáng tạo sẽ là sung lực để thăng hoa dân tộc của công dân đó.
Nhân chủ luận
Hùng lực trong một không gian dân chủ phải dựa trên các nội dung pháp quyền được dân chủ hướng dẫn từ đầu đến cuối, trong đó dân chủ không chỉ là phương pháp và kỹ thuật bầu ra các lãnh đạo có khả năng để quản lý đất nước, bảo vệ dân tộc, mà hùng lực dân chủ còn dựa trên một hệ thống lý luận đi xa hơn phương pháp và kỹ thuật ứng cử và bầu cử. Trong không gian dân chủ, ta sẽ thấy xuất hiện ba nền móng, có chiều sâu lẫn chiều rộng để xây dựng một thể chế dân chủ, vì ba nền móng này sẽ làm rõ các giá trị mà con người tin.
Và một thể chế thật sự dân chủ phải thể hiện niềm tin của quần chúng ngay trong đời sống, sinh hoạt của một xã hội dân chủ : Giá trị nhân phẩm muốn-và-biết làm người theo hướng hay, đẹp, tốt, lành có trong đạo lý của một dân tộc, trong một quốc gia, trong trong một xã hội, nơi mà nhân bản, nhân văn, nhân đạo làm rường cột không những trong giáo dục mà cả trong chính trị ; qua đó mọi công dân đều được quyền đòi hỏi từ phòng thân tới lập thân cho tới tiến thân, là phải được định chế dân chủ bảo đảm và pháp luật dân chủ bảo vệ. Ở đây, không hề có chuyện "mang con bỏ chợ", không hề có chuyện "ai chết mặc ai", như hàng triệu thảm kịch của dân oan, dân đen mà chúng ta thấy đầy ngập trong xã hội độc tài qua độc đảng hiện nay.
Giá trị lập luận pháp quyền nơi mà không những lập luận về quyền lợi của dân tộc và quốc gia phải được bảo vệ hằng ngày ; mà các tập thể, các cộng đồng cũng phải được bảo vệ từ hiến pháp tới pháp luật. Tại đây, cá nhân là công dân trong không gian dân chủ, không đứng ngoài các lập luận pháp quyền, vì chính các lập luận này làm ra công luật, sinh ra các đạo luật mà không có thực thể nào được đứng trên nó. Vì chính nó đại diện cho quyền lợi của quần chúng hiện tại, mà cả cho giống nòi mai sau ; và với sức thuyết phục chỉnh lý của nó, nơi mà mọi công dân phải tôn trọng các quyền lợi tối cao của dân tộc và quốc gia được bảo vệ bằng pháp luận qua hiến pháp và luật pháp. Các lập luận pháp quyền luôn bị thay, tráo, lừa, gian trong các chế độ độc tài phản dân chủ, nơi mà các bọn lãnh đạo tự cho phép chúng xé luật, lách luật, tránh luật. Vì chúng rất hiểu tầm vóc của lập luận pháp quyền chính là thượng nguồn của mọi diễn luận và giải luận về dân chủ, nên các chế độ độc tài, độc trị, độc tôn qua độc đảng luôn luôn tránh phát triển các trung tâm nghiên cứu về lập luận pháp quyền trong đó công luật phải bảo vệ bởi pháp luật. Đừng mong các chế độ độc đảng phản dân chủ lấy tự sáng kiến để tổ chức và thực hiện các hội thảo, hội nghị, hội luận về các lập luận pháp quyền để xây dựng một hùng lực cho dân chủ, vì chúng ngày ngày "mất ăn, mất ngủ" vì các lập luận pháp quyền này.
Giá trị quan hệ xã hội chính là quan hệ giữa người với người, qua sinh hoạt xã hội, qua đời sống xã hội, từ kinh tế tới thương mại, từ văn hóa tới giáo dục, từ tôn giáo tới tâm linh… Đây là một phạm trù ngày càng có tầm thiết yếu trong các nghiên cứu, điều tra về các kinh nghiệm nhân sinh trong không gian dân chủ. Giá trị quan hệ xã hội cao hơn quyền lợi của một tập thể, sâu hơn quyền lực văn hóa của một cộng đồng, và chắc chắn là rộng hơn tư lợi của một công dân. Vì không thể có nhân phẩm, tức là phẩm chất làm người, nếu không có những giá trị quan hệ xã hội có phẩm chất hay, đẹp, tốt, lành, ngày ngày nuôi dưỡng nhân phẩm qua các quan hệ cụ thể đã có trong xã hội.
Giá trị quan hệ xã hội giữa người với người là gốc của quá trình tạo dựng nhân sinh quan cho một công dân ; là rễ của quá trình chế tác ra thế giới quan của một tập thể ; là nguồn của quá trình phát triển vũ trụ quan của một cộng đồng trước đà tiến hóa của nhân loại. Chính giá trị quan hệ xã hội giữa người với người trực tiếp điều kiện hóa tầm nhìn-sức hiểu, tức là từ kiến thức tới tri thức của mọi chủ thể trong sinh hoạt dân chủ. Nhân phẩm của một người, của một tập thể, của một cộng đồng được kiểm tra và kiểm chứng qua phẩm chất của quan hệ xã hội của các nhân tố này.
Thảm kịch của xã hội Việt hiện nay với hiện tượng vô cảm (ai chết mặc ai) đang đi ngược lại với ba giá trị trên (giá trị nhân phẩm, giá trị lập luận pháp quyền, giá trị quan hệ xã hội)từ đó nói lên rất rõ : ba cái thiếu, ba cái vắng, ba cái trống một xã hội bị bưng bít tin tức và truyền thông tức là bị thui chột về nhân phẩm, mất niềm tin về pháp quyền tức là què cụt về thế giới quan trước công bằng xã hội, bị công an trị tức là bị cầm tù ngay trong tự do quan hệ xã hội.
Một thảm kịch ngoại giới luôn có nguyên nhân từ một thảm kịch nội giới, trong đó mọi bi kịch của Đảng cộng sản Việt Nam đều chóng chày trở thành thảm kịch cho Việt tộc hiện nay. Hãy nhìn lại lý lịch cá nhân của chủ tịch nước Trần Đại Quang vừa qua đời ngày 21/09/2018 (mà giả thuyết chính đáng là bị truy diệt qua thanh trừng nội bộ kiểu độc đảng phản dân chủ), là một chỉ báo rõ nét về số phận của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, thảm hại hơn là trình độ tri thức và mức độ luân lý của chính giới được nhào nặn bởi độc đảng : một tên trùm công an với tay vấy máu hàng ngàn nạn nhân trong các cuộc đàn áp đồng bào Tây Nguyên tới các cuộc đàn áp khốc liệt chống các chủ thể đấu tranh vì dân chủ, nhân quyền. Thảm kịch thành thảm hoạ cho đất nước, đây cũng là tên đầu sỏ các tổ chức trộm, cắp, cướp, giựt được tổ chức bởi tay chân bộ công an của hắn, từ cướp đất của dân oan để bán cho các tập đoàn địa ốc bất chính, tới các chuyện lén lút đưa du đảng, côn đồ để phá hoại, chụp mũ, vu khống các cuộc biểu tình yêu nước.
Với một hệ thống tham ô, tham nhũng ở mọi cấp, cùng lúc cũng là tên đầu nậu này cấu kết với bọn lưu manh, xã hội đen khủng bố những người yêu nước đấu tranh chống xâm lược Tàu, khi hắn là Bộ trưởng Bộ Công an. Một tên buôn máu để tranh quyền, cũng là loại mua bằng bán cấp để mua chức bán quyền với chủ đề tiến sĩ là "khoa học an ninh", mà chỉ có bọn gian lận học giả-thi giả-bằng giả mới dám dùng một cách vô liêm sỉ, trong khi báo đài tuyên huấn thì lại rao tin là một học trò giỏi, chăm học, phải "bắt đom đóm bỏ vào vỏ trứng để học bài", ai còn tin chuyện này ở thế kỷ XXI này ?
Và cái gốc của vấn đề là : an ninh có thể là một phạm trù nghiên cứu nếu nó có lãnh vực kiến thức chuyên môn cần khảo sát, nó không hề là một khoa học với lý thuyết luận, phương pháp luận, khoa học luận, thí dụ như của khoa học chính trị. Mà thật lạ ! Chủ tịch nước thì có bằng tiến sĩ về "khoa học an ninh", và tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng (là nhân vật trung tâm bị nghi vấn là tác giả sát hại chủ tịch nước này) thì có bằng tiến sĩ về "xây dựng đảng", nếu họ là chính khách thật, trong một chính giới thật, tại sao họ không nghiên cứu về chính trị học, tức là khoa học chính trị ?
Chuyện học giả-thi giả-bằng giả khó có thể xảy ra trong một môi trường dân chủ có tri thức rõ, vững, chắc, bền, mà dân chủ tây phương Tây gọi là : clarté (sáng (để) soi), tại đây cái giả không có chỗ đứng, ghế ngồi, như các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đang đánh lận con đen, biến cái "giả học" thành cái tự vỗ ngực là "có học". Cái sáng (để) soi của dân chủ vừa là lý thuyết, vừa là thực hành, vì nó vừa là lý luận, vừa là phương pháp, nó luôn đứng về phía sự thật để lột mặt nạ cái giả, vì nó luôn đứng về phía chân lý để lột trần cái gian, và nó luôn đứng về phía lẽ phải để tuột trần thân cái đểu.
Mảnh lực dân chủ có chỗ dựa là tri lực, mang bản lĩnh của nội lực, có vai vóc của sung lực, đã thành sức mạnh dân chủ trong trí tuệ của nhân loại, nơi mà thể chế dân chủ đã đưa ra ngoài sinh hoạt chính trị không những mê tín, dị đoan, mà cả các luận điểm giáo điều về thần linh, về tôn giáo không đủ lý luận toàn lý để tổ chức được các xã hội văn minh có phân công và phân bố chỉnh lý để phát triển, không những về kinh tế, thương mại, mà về cả khoa học và kỹ thuật lẫn văn hóa và giáo dục. Đẩy lùi ra các thể chế độc tài qua các lý luận không những từ dân chủ tới nhân quyền, mà cụ thể là trên hiệu quả của sáng tạo các cá nhân, nhờ có không gian dân chủ mới phát huy toàn diện tiềm năng và khả năng sáng tạo của mình.
Trong thế kỷ XX, nhân loại cũng thấy rất rõ là các thể chế dân chủ không xóa hẳn được chiến tranh, chỉ vì bọn sát nhân như Hitler tại Đức, Mussolini tại Ý, chúng sẵn sàng mỵ dân, để nắm chính quyền qua bầu cử. Như vậy trong sinh hoạt dân chủ luôn có bọn dùng đạo đức giả để lấy chính quyền qua tuyển cử, và đa số đương thời (cũng là đa số tạm thời) đã bầu cho chúng : phải mở mắt ra khi thấy chúng chính là sát thủ đang ám sát chính dân tộc của mình qua thế chiến ! Nhờ các kinh nghiệm dân chủ này, mà các dân tộc, các quốc gia Âu châu đã lại gần nhau sau hai thế chiến, để cùng nhau xây dựng một liên minh dân chủ, là hiện thân của Liên minh châu Âu hiện nay.
Trong quá trình này, các chuyên gia nghiên cứu về dân chủ đưa ra hai nhận định : một chế độ được xây dựng qua đầu phiếu dân chủ, có thể quay lại độc tài, nếu chính quyền của nó "thông đồng" với các tên có bản chất độc đoán, với các đảng chỉ muốn độc trị sau khi thắng cử, mà đệ nhị thế chiến gây ra bởi Đức Quốc xã là một minh chứng. Một thể chế gầy dựng qua bầu cử dân chủ, không thể thiếu vai trò chủ yếu của chính quyền, tức là chức năng vượt trội của hành pháp trong quản lý lẫn trong ngoại giao, trong chủ trì hệ thống hành chính mà cả trong vai trò điều chế kinh tế quốc gia, nhưng luôn được kiểm tra bởi lập pháp, kiểm soát bởi tư pháp.
Trên hai thực tế này, các thể chế dân chủ đã đi những bước sáng tạo khi sử dụng sức mạnh dân chủ để lấy sáng kiến về nội dung luật cá nhân trong định hướng ngày càng mở rộng tự do cá nhân mà quyền lực của các đảng phái chính trị và uy lực của các tôn giáo không ngăn chặn được, khi cá nhân đã thành công dân, thì công dân sẽ tự phát huy vị thế công dân bằng thông minh của chính mình, được pháp luật bảo vệ để trở thành chủ thể dân chủ : có vai trò trong nhiều hội đoàn và có chức năng trong nhiều tập thể được trợ lực bởi dân chủ qua nhân quyền.
Tổ chức xã hội dân sự qua đòi hỏi chính đáng về điều kiện lao động, văn hóa, giáo dục, lấy nhân quyền làm kim chỉ nam, để kích hoạt các phong trào trực tiếp đấu tranh cho công bằng xã hội không qua chính quyền, hoặc mang quy mô nhân đạo, thiện nguyện cũng không cần qua chính phủ. Bảo hiểm xã hội, trực tiếp đòi hỏi phải có luật xã hội song hành cùng các luật về lao động, về kinh tế… trong đó người bị thất nghiệp phải được tu nghiệp với nhiều chính sách khác nhau, và người nghèo phải được bảo hiểm y tế để sức khoẻ được chăm sóc một cách công tâm và chính quyền phải tích cực tham gia vào quá trình nhân đạo hóa các hệ thống bảo hiểm này để biến chúng thành những công trình bảo trợ người nghèo, kẻ yếu trong xã hội.
Luận thuyết đề kháng đảng trị
Khi tổng kết ba phân tích về nội dung của dân chủ : nội dung luật cá nhân, tổ chức xã hội dân sự, bảo hiểm xã hội để biến thành các công trình bảo trợ, ta thấy rõ chính các thể chế dân chủ đã sáng lập ra phạm trù an sinh xã hội, và chỉnh lý hóa để nó thành luật xã hội mà tam quyền phân lập phải công nhận và phải hỗ trợ nó. Ở đây, phải thấy là kết quả của một thể chế dân chủ luôn là một sự phối hợp tổng thể của ba kinh nghiệm, của ba vốn liếng, giờ đã thành ba cột trụ, ba nền móng để xây dựng dân chủ : chính trị, từ điều hành tới quản lý, từ quyết định quốc gia tới tổ chức xã hội. Luật pháp, có luật sư và có tòa án, để bảo vệ công dân và để ngăn cấm các hành vi phạm pháp. Lịch sử, tránh sai lầm của quá khứ để tránh sai phạm trong hiện tại và tương lai.
Chính ba vốn liếng này cho phép mỗi công dân trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, được phép so sánh thể chế dân chủ này với thể chế dân chủ kia, để cân, đo, đong, đếm xã hội dân chủ này với xã hội dân chủ kia, để tìm đường ngày một tiến bộ hơn. Vì nếu dân thực sự làm chủ thì chính dân sẽ làm cho đời sống của mình ngày càng khá hơn, bằng cách làm cho thể chế dân chủ của mình ngày càng tốt hơn, xã hội dân chủ của mình ngày càng lành hơn. Cho nên một xã hội thật sự dân chủ hiếm có chính quyền do dân bầu ra lại đẩy công an và quân đội giết dân khi dân chúng biểu tình đòi công bằng, đòi tự do. Một xã hội phản dân chủ tới từ độc tài của một độc đảng luôn dễ dàng có phản xạ đàn áp dân, nếu không xong nó sẽ bỏ tù dân, và nếu chưa xong nó có thể bắn giết dân, thảm sát dân, như ta đã thấy bọn lãnh đạo của Đảng cộng sản Trung Quốc ra lịnh giết tuổi trẻ đòi dân chủ tại Thiên An Môn.
Trông người rồi nghĩ tới ta ! Hãy nhớ lại mọi thảm hoạ phản dân chủ của Đảng cộng sản Việt Nam đều là bi nạn của Việt tộc trong thế kỷ XX qua và thế kỷ XXI này, từ bưng bít tin tức về các sự thật trong nội bộ đảng, tới các cuộc thanh trừng nội bộ của họ trong hậu đài, về quyền bính, luôn đi kèm với sự dối trá như phản xạ nội bộ đảng, luôn đi cặp kè với sự gian lận như phản xạ nội cung đảng. Danh sách các đồng chí nạn nhân của cặp bài trùng Lê Duẩn-Lê Đức Thọ thì dày sâu và đặc kín qua quá trình thanh trừng nội bộ, từ Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Đinh Đức Thiện… cho tới ngày nay với các nhân vật quyền lực tưởng là cao nhưng số phận thật bọt bèo, như Nguyễn Bá Thanh, tướng Phạm Quang Ngọ, giờ thì chủ tịch nước Trần Đại Quang.
Thảm hoạ của Đảng cộng sản Việt Nam trong quá khứ chính là thảm trạng chính trị hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam, các giả thuyết trung thực đều quay về phía lãnh đạo Tàu, chung quanh đám đầu sỏ Tập Cận Bình, với bộ máy nội gián là bọn tình báo Hoa Nam đang thao túng, áp đặt, giựt dây, và chúng bắt lãnh đạo nào của Đảng cộng sản Việt Nam phải chết : thì chết, chúng giết theo văn bản "virus hiếm và độc".
Một chuyện không thể xẩy ra nếu giới lãnh đạo có bản lĩnh độc lập quốc gia, nếu một chính giới có tự chủ dân tộc, trong một môi trường được bảo vệ bằng tri thức dân chủ, mọi chuyện "đột tử" đều phải được giải thích rõ ràng trong minh bạch, mà dân chủ Âu châu đặt tên là : trong để sáng (transparence). Cái thảm kịch thầm lặng hiện nay giữa những đảng viên nồng cốt của Đảng cộng sản Việt Nam là chính là sự công nhận của họ : Đảng cộng sản Việt Nam chỉ còn là một cái vỏ ! Không còn cái hồn cách mạng, không còn cái tâm trong luân lý đổi đời, không còn cái lõi dấn thân biết hy sinh vì giống nòi. Tức là không còn một nội dung lý luận nào dựa vào một ý thức hệ để tạo niềm tin cho tập thể, tức là không còn một nội hàm đạo lý nào để dẫn dắt dân tộc, để hướng dẫn đất nước trên con đường phát triển theo hướng văn minh.
Họ chỉ còn cái vỏ ! Đã rỗng toét vì bị chính họ nạo khoét từ năm 1930 tới nay, cùng lúc họ đã vơ vét tiền tài của dân tộc, tài nguyên của đất nước, một cái vỏ không tương lai, một cái vỏ chỉ tồn tại vài năm nữa để vơ vét cho hết, rồi các chóp bu sẽ bỏ chạy, trước khi bọn Tàu tặc xâm chiếm đất nước này. Cái vỏ của họ được bao bọc ngày ngày bởi công an trị, một công cụ của bạo quyền độc tài vì độc đảng, trấn áp đồng bào, đàn áp dân tộc, hãm hại các công dân yêu nước vì yêu dân chủ, quần chúng yêu tự do vì yêu nhân quyền. Cái vỏ này được che bọc bởi một quân đội vẫn còn làm tay sai cho Đảng cộng sản Việt Nam (cho tới bao giờ ?), trong khi Tàu tặc đã đột nhập vào đất nước Việt, đang nhan nhản trên đường phố, thao túng không những chính trị, ngoại giao mà cả về quân sự với một lực lượng quân đội đang "hèn với giặc", đang nhắm mắt để công an ngày ngày "ác với dân".
Nhưng cái vỏ là cái vỏ ! Không có nội dung chính trị thì không có tương lai chính trị ; không có nội chất luân lý thì không có nội hàm dân tộc ; không có nội công phát triển đất nước theo hướng văn minh thì không có nội lực của đồng bào. Tương lai của cái vỏ là sự khô cằn đã báo ngày tận thế của một chế độ chỉ biết nuôi cái ngu để cai trị ; vì chính các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là những người không khôn, không thông minh, chỉ biết tuyên truyền ngu dân để cai trị, họ nuôi cái ngu để tránh phải "vận não" để thành người khôn, họ chỉ muốn dễ bề vơ vét qua tham ô, tham nhũng, mà không cần tri thức về chính trị, không cần kiến thức về quản lý.
Tương lai của cái vỏ là ngày nó rơi, rồi nó tan rữa trên mặt đất, để từ từ về cõi chết của nó, như một ý thức hệ bạo tàn, lấy cái ác để đối xử với đồng bào, lấy cái độc để xử thế với dân tộc, vì chính các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là những người không tốt nên họ mở cửa cho Tàu tặc chiếm đất, biển, đảo. Họ cũng không phải là người hay khi họ bỏ mặc đồng bào phải chịu cảnh thực phẩm độc đi cùng với ô nhiễm môi trường do Tàu hoạ gây ra. Họ cũng không phải là người lành khi biến dân chúng thành dân oan không đất, không nhà, dân đen trong khốn cùng, khổ ải qua tham quyền và tham tiền của họ trong bối cảnh Tàu hoạn đang trùm phủ lên số phận của Việt tộc.
Chắc chắn là phẩm chất các lãnh đạo này không đẹp vì họ đã vơ vét rồi đưa tiền của bằng tham ô, tham nhũng của họ qua phương Tây, bỏ mặc tiền đồ tổ tiên, vận mệnh đất nước, sinh mạng đồng bào trong quy trình Tàu nạn. Họ không có cái hay, đẹp, tốt, lành của các chính khách yêu đất nước vì yêu dân chủ, thương đồng bào vì quý nhân quyền. Họ sẽ cắm cổ bỏ chạy với tiền của có được qua vơ vét trong đời tham quan của họ, khi phương trình Tàu tặc-Tàu hoạ-Tàu hoạn-Tàu nạn được khai triển và áp đặt trên đất nước của Việt tộc trong những ngày tháng tới.
Việt tộc phải thấy trong cái vỏ này : yêu, ma, tà, quỷ đang đục mòn tài nguyên đất nước, đang bòn rút tới kiệt quệ mọi sinh lực của Việt tộc : đừng tiếp tục chấp nhận cái vỏ này ! Vì nó là nơi ẩn chứa bọn tham quan xấu, tồi, tục, dở ; và cũng đừng để cái vỏ là nơi ẩn nấp của bọn buôn dân bán nước, làm tay sai cho phương trình Tàu tặc-Tàu hoạ-Tàu hoạn-Tàu nạn, vô cùng thâm, độc, ác, hiểm của Tàu tà, đang gây bao hiểm nạn cho đất nước Việt, dân tộc Việt, nhân phẩm Việt !
Các chế độ độc tài, độc đảng rất sợ phương trình : dân chủ = dân tự làm chủ, chúng càng "lo ra" hơn nữa khi thấy mọi tiến bộ : từ nhân quyền tới nhân phẩm, từ khoa học tới kỹ thuật, từ thông tin tới truyền thông, từ y tế tới giáo dục… luôn đưa văn hóa vào quỹ đạo của văn minh để giữ vững văn hiến, đều được các thể chế dân chủ khởi xướng, kích hoạt, thăng hoa, đó chính là tiến bộ của dân chủ, vì chúng biết hơn ai hết phản dân chủ là phản tiến bộ, chống lại tiến hóa của sự thông minh đã sẵn có trong nhân tri dân chủ !
Lê Hữu Khóa
(09/09/2020)
---------------------
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.