Sáng tạo luận
Sáng tạo luận phải đi trọn mọi con đường như các sáng tạo nghệ thuật phải qua, nhưng sáng tạo luận có thượng nguồn mang tính phổ quát của luận, nói có sách mách có chứng, từ dữ kiện tới chúng từ. Sáng tạo luận phải đi xa thêm bước nữa, so ra mới biết ngắn dài từ chứng tích tới chứng nhân, từ minh chứng tới xác chứng. Sáng tạo luận phải đi sâu thêm bước nữa để thể nghiệm rồi chứng nghiệm -hư hay thực- khi sáng tạo luận trực diện với câu hỏi đạo lý : sống lâu mới biết lòng người có nhân ?
Hiện tượng luận vô gia cư
Là giải luận đôi : điền dã, khảo sát, điều tra, nghiên cứu của khoa học xã hội nhân văn song hành trên cùng một định hướng với hình ảnh ngay trên thực địa, trong đó câu chuyện "mắt thấy của hình ảnh" song đôi với "tai nghe của phỏng vấn", nơi mà dữ kiện và chứng từ của hiện tượng luận trực quan đã hội tụ kết thành hiện tượng học lý trí, nơi mà luận chứng làm nên lý luận, lập luận cho một lý thuyết luận về hiện tượng "không nhà", tức là "không chốn nương thân" của Việt tộc hiện nay [1]. Hiện tượng luận trực quan có cảm xúc, nơi mà kẻ điều tra thực địa, người nghiên cứu về chủ đề này chính là tác giả của tiểu luận đã bị hoặc được nhận những cảm xúc bao cảnh thương tâm của đồng bào đang chịu cảnh "màn trời chiếu đất", "đầu đường xó chợ".
Giữa các cảm xúc trực tiếp tới tự trực quan, tác giả còn có một cảm xúc ngầm, có thế gọi là cảm xúc kín, đó là những hành động thiện nguyện của các hội đoàn nhân đạo, các cá nhân tự tâm, nơi mà hành tác "thương người như thể thương thân" là chuyện có thật trong nhân thế hằng ngày, trong nhân gian hằng đêm, tới tận nơi các đồng bào vô gia cư trao từng phần cơm, miếng bánh. Hiện tượng học lý trí có cảm động, được xây dựng từ hiện tượng luận cảm xúc, không có cảm xúc thì không phân tích sâu, không giải thích cao, không nhận định xa, không diễn luận rộng được. Cụ thể là không bị cảm xúc ngay trên thượng nguồn của thực địa trong điền dã và điều tra thì không sao có được phân tích và giải thích sâu, cao, xa, rộng trong hạ nguồn của khảo sát và nghiên cứu, như lời dặn của Nguyễn Du : Phải lần cho tới tận nguồn, lạch sông.
Sự liên đới giữa hiện tượng luận cảm xúc-hiện tượng học cảm động có gốc, rễ, cội, nguồn từ sự liên đới giữa hiện tượng luận trực quan-hiện tượng học lý trí, tại đây chính trực quan tác động vào lý trí, để cảm xúc làm nên cảm động. Đây là những chặn đường mà hiện tượng học đã đóng góp cho triết học, sau đó lây lan rồi trùm phủ ảnh hưởng của nó lên các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn khác. Chặn đường mà tiểu luận này chọn lựa là : thực cảnh dẫn trực quan ; thực trạng dắt khảo sát ; thực tế tạo tri thức, chính ba thực (thực cảnh, thực trạng, thực tế) này là nền, móng, trụ, cột để xây dựng hệ thức, nơi mà kiến thức về xã hội sẽ làm thay đổi xã hội đó theo hướng tích cực. Nơi mà tri thức về đời sống xã hội sẽ cấu trúc trí thức của công dân đang sống trong xã hội đó ; chưa hết : chính liên minh giữa kiến thức-tri thức-trí thức sẽ chế tác ra ý thức, rồi tạo ra nhận thức về quan hệ xã hội đang vô cùng xấu trong tổ chức xã hội Việt hiện nay, tất cả sẽ làm nên tỉnh thức trong sinh hoạt xã hội của công dân còn có nhân tính trong một dân tộc biết giữ nhân phẩm.
Trong các xã hội tiên tiến nhất, có dân chủ lẫn nhân quyền, vì có kinh tế và định chế để bảo quản an sinh xã hội, chúng ta vẫn thấy hiện tượng "vô gia cư", vẫn có thực tế những người phải sống ngoài đường, không mái ấm che thân. Nhưng xã hội học có thể phân tích rõ về thực trạng này, tới từ những biến động trong đời sống cá nhân sau khi bị thất nghiệp, bị ly hôn mà không còn được phép tiếp tục cư ngụ nơi mình đã sống… Cũng có các nguyên nhân khác là chọn lựa chính của cá nhân đó để bảo vệ cá nhân của mình trước sự hà khắc của gia đình, của thân tộc, của hàng xóm, trong đó thanh thiếu niên cũng một sớm một chiều trở thành : SDF (sans domicile fixe) : kẻ không có chỗ cư trú nhất định. Xã hội học cùng nhân khẩu học cũng không quên các thành phần ngoại quốc di dân rồi nhập cư vào các xã hội phương Tây, Tây Âu, Bắc Mỹ, Úc châu, trong những làn sóng ào ạo và chính phủ các quốc gia sở tại không lo kịp, không lo đủ nơi ăn chốn ở cho các các đợt sóng người này. Trong các quốc gia dân chủ khi vấn đề nơi ăn chốn ở trở thành vấn đề xã hội, thì chính các công dân sẽ vận dụng công bằng qua công lý để tận dụng nhân quyền mà đấu tranh với chính quyền.
Đưa vào giải luận của điền dã, khảo sát, điều tra, nghiên cứu của khoa học xã hội nhân văn về hiện tượng vô gia cư không phải của một cá nhân với các lý do riêng rẽ, mà của một tầng lớp mới, đông đảo trong các thành phố, đô thị của của cả nước Việt Nam hiện nay [2]. Về mặt lịch sử, họ có mặt từ những năm sau 1975, sau ngày thống nhất đất nước, họ là những nạn nhân bị xua đi kinh tế mới các vùng hẻo lánh và nguy hiểm. Họ đã không sống được và đã trở lại thành phố, mất nhà, không nơi ăn chốn ở, nên họ là nhiều nghìn người sống lang thang ban ngày trên đường phố, tối đến ngủ bờ, ngủ bụi, đây đã là một hiện tượng xã hội với một tập thể nạn nhân của bạo quyền đảng trị, họ không phải là những cá nhân đơn lẻ. Về mặt chế độ, hiện nay nhiều nghìn người trong mỗi thành phố phải "ăn bờ, ngủ bụi" trong cảnh "đầu đường xó chợ" vì họ là thành phần cột trụ làm nên một thành phần mới của xã hội Việt Nam ngày nay : dân oan !
Nạn nhân bị phá-nhà-để-cướp-đất của bạo quyền lãnh đạo, của tà quan tham ô, của ma quyền tham đất… tất cả bọn âm binh này đều vì : tham tiền ! Đây không phải là chuyện của cá nhân mà là chuyện gây ra bởi độc tài của độc đảng, càng không phải là chuyện tự do chọn lựa của cá nhân mà là chuyện của những nạn nhân đã bị cướp trắng và bị đánh văng ra khỏi nơi ăn chốn ở của họ. Lại càng không phải chuyện tạm thời, chốc lát mà là hằng số của một chế độ sống nhờ, sống bám, sống dựa hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền…). Cụ thể là Việt Nam hiện nay đã được các hội đoàn từ thiện, các chuyên gia quốc tế và các cơ chế chung quanh Liên Hiệp Quốc đặt tên là : cường quốc về dân oan, cường quốc về bụi đời, cường quốc về vô gia cư… cường quốc về nhân sinh màn trời chiếu đất !
Hiện tượng luận vô gia cư chọn những nền, móng, cột, trụ của phương pháp luận sau đây : Phương pháp điền dã từ nơi thấp nhất của đời sống xã hội, nơi mà các đồng bào Việt này nơi mà ngày thì đầu đường xó chợ, đêm thì màn trời chiếu đất. Phương pháp điều tra từ nơi tồi nhất của sinh hoạt xã hội, nơi mà các đồng bào Việt này sinh hoạt trong tầng thấp của tứ cố vô thân, với cơm thừa canh cặn. Phương pháp khảo sát từ nơi mạt nhất của quan hệ xã hội, nơi mà các đồng bào Việt này nơi mà sống như bụi đời, dở chết dở sống ngay trong cõi người, như oan hồn. Phương pháp nghiên cứu từ nơi nhục nhất của tổ chức xã hội, nơi mà các đồng bào Việt này, bị nghi oan là "bất tài vô tướng", "ăn nhờ ở đậu", dễ dàng bị sỉ nhục một cách bất công nhất.
Khốn cùng sinh khổ nhục ! Khổ nhục tạo thấp hèn ! Mà không được từ chính quyền tới chính phủ nào ngó ngàng tới, thấp thỏm với bạo quyền lãnh đạo của một chế độ công an trị, với công an đánh đập họ một cách rất vô cớ, vì quen thói giết người không gớm tay của chúng. Nạn nhân của tà quyền tham quan, dùng tham ô để tham nhũng, phá nhà để cướp đất họ, đánh bật họ ra khỏi đất đai của họ ở nông thôn, giờ họ phải chịu cảnh đầu đường xó chợ trong các đô thị. Nạn nhân của ma quyền tham đất vì tham tiền, được "chống lưng" bởi bạo quyền lãnh đạo, bởi tà quyền tham quan, đã được nuôi bằng "thâm tham" (lòng tham không đáy) của bọn ma quyền "sân sau" này [3]. Liên minh giữa bạo quyền lãnh đạo-tà quyền tham quan-ma quyền tham đất làm nên các nạn nhân này trong nỗi khổ sinh ra nỗi nhục, mang theo nỗi oan trong khốn cùng của những đồng bào không mái ấm che thân đã dẫn, dắt, đưa, nhập phương pháp luận mang tên : nơi thấp nhất-nơi tồi nhất-nơi mạt nhất-nơi nhục nhất.
Trên dặm đường điền dã, khảo sát, điều tra, nghiên cứu về chủ đề Khổ Luận, phải bảo đảm khoa học tính của nó với ba phạm trù : nội lực của sự thật qua chứng từ khổ nạn của đầu đường xó chợ, sung lực của chân lý, qua chứng tích khốn cùng của màn trời chiếu đất, hùng lực của lẽ phải bằng phương trình tự do-công bằng-bác ái. Liên minh giữa sự thật-chân lý-lẽ phải là thượng nguồn của mọi phương trình tự do-công bằng-bác ái, mà cũng là hạ nguồn quyết định mọi đòi hỏi, mọi đấu tranh để dẹp, xóa, khử, hủy Liên minh giữa bạo quyền lãnh đạo-tà quyền tham quan-ma quyền tham đất !
Khi hành tác chính trị biết đặt công bằng trên tự do, thì ý thức của công bằng đã chế tác ra nhận thức là nếu chúng ta để tự do cá nhân vào trung tâm của xã hội, vào lõi của cộng đồng, thì chính tự do cá nhân sẽ tạo ra tự do cạnh tranh, mà kết quả là có kẻ thắng người bại, làm nên hệ lụy của của bất công là kẻ thắng đi trên lưng, trên vai, trên đầu người bại, từ đây sẽ sinh ra hằng số của bất bình đẳng !
Vì thế, chúng ta phải đẩy lý luận của chúng ta đi xa hơn nữa để cẩn trọng hơn khi chúng ta "đánh đồng một khối" theo kiểu "cá mè một lứa" là tự do-công bằng-bác ái là những thể loại ngang hàng nhau, vì trong thực tế thì ba hệ luận này có thể kình chống nhau, đối chọi nhau, xung đột nhau để bất bình đẳng làm tăng thêm sự màu mỡ cho mảnh đất của bất công. Tự do của một cá nhân không phải là tự do của một xã hội. Nhất là trong xã hội Việt Nam hiện nay, ta thấy có những cá nhân đã thành công trong nghề nghiệp, thành đạt trong kinh tế, thành tựu trong xã hội bằng con đường tự do kinh doanh của họ. Nếu một thiểu số quá ít thành công nhờ tự do hành nghề của mình trong một xã hội công an trị, cùng nơi với nạn nhân của bất công là hàng triệu triệu dân đen, dân oan, dân lành sống trong khốn cùng cơ cực thì xã hội đó không có tự do.
Đạo lý (hay, đẹp, tốt, lành) xác nhận luân lý (trách nhiệm với đồng bào, bổn phận với đất nước) xác chứng đạo đức của tổ tiên của Việt tộc là : thương người như thể thương thân, bầu ơi thương lấy bí cùng, một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ… Nên giữa tự do của một thiểu số quá nhỏ lấn lướt để lấn át tự do của toàn xã hội, thì tôi xin đứng về phía tự do của toàn xã hội. Cụ thể là tôi xin phạm trù hóa nó bằng hiện tượng học lý trí là : Tôi xin đứng về phía nước mắt ! Nước mắt của các nạn nhân đang vô cùng đa số, so với một thiểu số quá nhỏ, quá ít đang lặng lẽ để làm thinh trước các bất công của bao đồng bào đang vô gia cư. Tôi càng không đứng cùng, đứng chung với những kẻ đã than trách rồi miệt thị, đã chê bai rồi khinh bỉ, đã hà khắc rồi loại bỏ.
Các đồng bào hiện nay vô gia cư ngày càng nhiều, ngày càng đông trên khắp các nẻo đường đất nước Việt. Họ có kiểu nói của những kẻ không có nhân tâm, vì công tâm vắng biệt trong tư duy họ : vô gia cư vì không "chịu khó làm ăn" ; không nhà, không cửa vì "lười biếng không chịu lao động"… Những kẻ vô tâm vì công tâm biệt tăm, nhân tâm biệt tích đừng quên là cuộc đời này có thực cảnh là nắng sớm mưa chiều, trong hoạt cảnh vật đổi sao dời, mang tới bao thảm cảnh lên voi xuống chó… Vì bất cứ ai sống trong xã hội công an trị hiện nay, đều có thể một sớm một chiều trở thành những người vô gia cư, cụ thể là nạn nhân của bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền chỉ biết luật rừng của bản năng trộm, cắp, cướp, giật để sinh nhai, rồi sinh tồn bằng "sinh sự" !
Nhận thức luận chống bất công
Khi nghiên cứu và khảo sát về hiện tượng trẻ bụi đời (bụi giữa đời, bụi trong đời, bụi ngoài đời…) chỉ những ai vô gia đình, không nhà, không nơi sống cố định, không nơi ở yên ổn, sống như bụi trôi dạt, lất phất giữa đời. Sống trên đường phố, đi lại qua các phố phường, rồi bị xếp loại một cách vô phúc nhất bởi những kẻ có gia đình, có nhà, có nơi nương tựa là loại đầu đường xó chợ ; đây là loại bất công mà khoa học xã hội và nhân văn chưa đặt tên. Luận về hiện tượng xã hội bụi đời này, thì tên gọi rất khác nhau, qua từng quốc gia, qua từng xã hội ; nên có những quốc gia văn minh, có những xã hội có nhân văn, tên gọi những ai tứ cố vô thân một cách êm đềm hơn. Thí dụ như người Pháp gọi họ lả : kẻ không nơi cư trú cố định (sans domicile fixe). Êm tên để nhẹ kiếp ! Vì họ còn là người, họ chỉ không có nhà để ở, không còn gia đình để nương, họ không hề là : bụi ! Ngữ pháp bụi luận làm tựa cho tiểu luận này, đi từng giai đoạn, từ điều tra qua điền dã, từ nghiên cứu qua khảo sát, từ phân tích qua giải thích, để xây dựng nên một quy trình cho luận về hiện trạng đau thương này của Việt tộc.
Trong đó, lý luận về một cá nhân bụi đời, không nên quy chụp vào số phận hay phần kiếp của cá nhân đó ; mà đây là một hiện trạng xã hội, nơi mà nhân học nhận thức phải song hành cùng xã hội học giáo dục để nhận diện được trách nhiệm của toàn bộ xã hội đối với với tất cả cá nhân này, nhất là chính quyền quản lý xã hội đó phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về bi nạn bụi đời. Tại đây, lập luận về thực thể bụi đời, không những nói lên hậu quả gia đình tạo ra hậu nạn xã hội bui đời, mà nhân học nhận thức phải song hành cùng xã hội học tri thức để nhận ra những bất bình đẳng luôn song đôi với bất công trong một xã hội, từ đó cướp đi tất cả điều kiện sống bình thường cùng cơ may được sống yên, được sống lành trong một mái ấm. Vì có mái ấm thì sẽ không có bụi đời !
Từ đây, giải luận về bi nạn bụi đời, phải tìm từ gốc tới ngọn, tại sao là dân chúng mà một sớm một chiều lại trở thành dân oan, từ những người có mái ấm dung thân, giờ lại lâm vào cảnh tứ cố vô thân, rồi màn trời chiếu đất, rồi đầu đường xó chợ. Vậy nên nhân học nhận thức phải sẽ chung đôi cùng xã hội học chính trị để nhận ra đường đi nước bước của bạo quyền lãnh đạo độc tài, có chung chia với tà quyền tham quan sống nhờ tham nhũng từ trung ương tới địa phương, rồi chia chác với đám ma quyền tham tiền qua buôn đất, không những biến dân chúng thành dân oan, mà còn biến họ thành tro bụi ngay trong cuộc sống, xô đẩy họ vào kiếp bụi đời ! Sau đó, diễn luận từ lỗi cơ chế tới tội lãnh đạo nơi mà những kẻ bụi đời không còn là những cá nhân riêng rẽ, mà là một thành phần xã hội ngày càng đông, sống trong nheo nhóc của cùng cực đói nghèo, mất trắng an sinh xã hội, mất trọn nhân quyền, quyền dược sống bình thường của những công dân trong một xã hội pháp quyền.
Kết cục là đẩy ra, vất ra, quăng ra đường phố, chợ búa, những đứa trẻ không nhà, những thiếu nhi mất nhà, xa cha mẹ, nên nhân học nhận thức phải sánh đôi cùng tội phạm học phân tích để kết luận trong tỉnh táo và sáng suốt là biến trẻ thơ, biến thiếu nhi thành bụi đời là một tội ác ! Thân phận không phải là số phận, thân phận mang không gian của hiện tại, số phận phải đèo số kiếp dài theo thời gian ; nhưng thân phận hiện tại nói lên số phận tương lai ; vì thân phận là chỉ báo (vì là điềm báo) cho số phận, vì cả hai vừa là nhân và vừa là quả, gắn liền với nhau trong nhân kiếp.
Thân phận bụi đời không nhất thiết là thân phận mồ côi, vì có kẻ có cha mẹ có nhà nhưng thành bụi đời, có người mồ côi nhưng suốt kiếp không thành bụi đời ; nhưng mồ côi cha lẫn mẹ, rồi không người bao bọc, chở che, và hoàn cảnh mồ côi không nơi nương tựa rất dễ rơi vào bi nạn bụi đời. Thân phận bụi đời bụi đời làm nên số phận bụi đời, không phải là một đường thẳng từ đầu tới cuối kiếp người, mà thân phận bụi đời là những đoạn đường rất khác nhau, tùy cá nhân, tùy hoàn cảnh, nhất là tùy thuộc vào các chính sách an sinh xã hội, trong đó chính quyền phải chịu trách nhiệm, chính phủ phải nhận trọng trách trước thực trạng xã hội này. Thân phận bụi đời có thể bắt đầu rất sớm từ lúc còn là thiếu nhi, đây là trung tâm nghiên cứu và ngã tư khảo sát của tiểu luận này, có khi kéo dài cả đời, rồi để lại rơi vào chuyện tái sản suất hiện trạng thân bụi, mà xã hội học gia đình và giáo dục gọi tên là : tái sản suất xuyên thế hệ.
Thân phận bụi đời cũng có thể là những đoạn đường của một cá nhân, một gia đình, phải chịu nhiều lần thảm cảnh thân bụi ; đã thoát ra được hoạ cảnh bụi đời, nhưng họ luôn là con mồi trước mọi áp bức, bất công, bạo lực… đẩy đưa họ lại con đường cũ : bụi đời. Đây là hệ lụy của các nạn nhân ngắn cổ bé họng, trong một hệ thống hàng dọc của bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền tham đất vì tham tiền, biến dân lành thành dân oan, rồi thành dân bụi, mà không có một cơ chế công lý nào bảo vệ các nạn nhận này. Thân phận bụi đời nói lên thảm kịch của bất công trong xã hội, tại đây các nạn nhân bụi đời bị xem như sống ngoài lề của đời sống xã hội hiện tại, bị loại ra khỏi trong sinh hoạt xã hội hằng ngày, bị bứng gốc khỏi quan hệ xã hội bình thường. Họ vô hình trong cách tính của chính quyền, họ vô dạng trong thống kê của chính phủ. Nhưng họ là kết quả tất yếu làm ra hậu quả tức thời tới từ bạo quyền lãnh đạo vô luân, tà quyền tham quan vô cảm, ma quyền tham tiền vô giác. Chính ba cấu trúc : đời sống xã hội, sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội là nội công của xã hội học nạn nhân hóa, làm nên nội lực cho nhân học nhận thức về các nạn nhân trong một xã hội, trong một dân tộc, trong một đất nước.
Họa nghiệp bụi đời có thể chỉ là một thời gian ngắn, có khi lại là cả kiếp người, nơi mà xã hội học góc độ (sociologie des trajectoires) đề nghị xét nghiệm một đời người như một hành khách đi những chặng đường của cuộc sống, qua hình tượng của phương tiện lưu thông công cộng : có trạm, có đi, có ngừng, có đổi, có tới... Trong đó có đoạn đường (trajet), nhiều người lên cùng một chuyến xe cùng khởi hành một trạm xe, nhưng họ xuống các trạm khác nhau, và có khi tới trạm cuối thì không còn ai. Một ngày kia, xã hội Việt không còn trẻ em Việt bụi đời, ngày ấy là ngày xã hội Việt thật sự bước vào đoạn đường văn minh. Trong đó có những đoạn đường di chuyển chấp nối (correspondance) nhau, qua các thời điểm khác nhau, qua các không gian không giống nhau. Khi còn là thiếu nhi thì đã là bụi đời tại Hà Nội, miền Bắc ; khi thiếu niên thì cũng là bụi đời nhưng tại Huế, miền Trung ; khi thanh niên thì vẫn là bụi đời nhưng sinh tồn tại Thành Hồ, miền Nam.
Tổng thể của mọi sự chấp nối là hình ảnh trung thực của hoạn trạng bụi đời. Trong đó có dừng chân (pause), giữa những đoạn đường khác nơi, khác vùng, và một cá nhân có thể sống liên tục kiếp bụi đời (ngựa quen đường cũ) ; mà cũng có các cá nhân khác tạm thời tìm ra việc làm, có thể nhất thời có hội ngộ với một quý nhân, có hạnh ngộ với một ân nhân, và được chăm sóc được sống vài tháng, vài năm… có nơi nương thân ổn định, với một gia đình trong một mái ấm, dù là tạm bợ (nhờ duyên ta biết quê người nơi đây). Và có trạm cuối (terminus) của một cá nhân, một gia đình, sống mà không có lối ra về kinh tế, không có lối thoát về nghề nghiệp, không còn con đường sống bình yên trong một cuộc sống bình thường, vì bị mất tất cả vốn xã hội. Mà xã hội học về vốn xã hội (sociologie des capitaux) khi phối hợp với nhân học chính trị (anthropologie politique) đề nghị nghiên cứu các nạn nhân bụi đời bị lâm vào môi trường nghiện ngập và tội phạm, vì cuộc sống hàng ngày đã đưa đẩy họ vào đường cùng, mà chính họ cũng là các con mồi, là các nạn nhân bị giật dây vào các hành động phạm pháp. Có khi là trạm thoát, nơi đây là trạm đến (arrrivée) mang nhân tố tích cực, khi một cá nhận bụi đời, hoặc một tập thể bụi đời được hỗ trợ từ học hành tới huấn nghiệp, từ kinh tế tới xã hội, từ giáo dục tới văn hóa… để thoát kiếp bụi đời. Tại đây, khoa học giáo dục và xã hội học chính trị lập được một liên minh trong phân tích để nhận ra các thành công của các chương trình cứu trẻ bụi đời ; trong đó có sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa chính quyền và các hội đoàn từ thiện, giữa chính phủ và các chủ thể thiện nguyện ; nơi mà ý nguyện của hội lành, người tốt, cùng đồng tâm, đồng cảm, đồng giao với ý lực của chính quyền, chính phủ, tất cả cùng nhau tâm nguyện phải cứu cho bằng được các trẻ bụi đời !
Lọan kiếp là không có được nghĩ ngơi trong bình thường của trong ấm ngoài êm, trong thực cảnh không nơi nương náu. Nhưng nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã… về trẻ mồ côi của Việt Nam có không gian đặc thù của nó, có thời gian đặc biệt của nó, có thời điểm mang đặc tính của nó. Nó không giống như tác phẩm văn chương hiện thực Những kẻ khốn cùng (Les Misérables) của V.Hugo, thực trạng của các trẻ bụi đời Việt hiện nay mang cường độ và mức độ bạo động tới từ bạo quyền của một chế dộ công an trị. Bạo lực lãnh đạo sinh ra bạo động trong một xã hội Việt đã mất phương hướng về giáo dục và đạo đức, với một chính quyền độc đảng chọn độc tài nhưng bất tài trong quản lý, chọn độc trị nhưng lại không biết quản trị, chọn độc tôn nhưng không tôn vinh được một đạo lý nào cho dân tộc, một luân lý nào cho đồng bào.
Lọan kiếp là không có mái ấm gia đình, mất đi mọi quy luật từ cha mẹ sinh thành tới tổ ấm có gia phong, trong đời sống bình thường có gia giáo : con cái ở đâu, ông bà ở đó. Tại Âu châu, có sắc dân Tzigan (Gitan), là cộng đồng du mục nới mà tập thể chọn : ăn xin, ăn mày… để sinh nhai hằng ngày, để sinh sống hằng năm, trong một thời gian dài qua nhiều thế hệ, nhưng họ không tự nhận là bụi đời. Hiện trạng trẻ bụi đời tại Việt Nam có dây mơ rễ má của một đất nước bị loạn tâm bởi chiến tranh trong thế kỷ qua, bị loạn thần qua nghèo đói, lại vô phúc song hành cùng bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham nhũng, ma quyền tham tiền, với túi tham không đáy, tạo ra vô cảm "ai chết mặc ai", làm ra vô nhân "bây chết mặc bây".
Loạn kiếp có ngay trong văn hóa thân tộc, nơi mà thống tộc trong quy luật "cùng máu mũ", khinh kẻ ngoại nhà, ngoại họ : "người dưng nước lã", rồi đặt tên ác để vinh danh bạo quy luật khép kín này : khác máu tanh lòng. Chính vòng kín này đã loại đi các cơ may, các cơ duyên để kẻ lạ được chấp nhận vào nhà, vào xóm, vào làng… Tại Việt Nam, hiện nay có các nhà, các xóm, có khi có cả làng chọn : ăn xin, ăn mày… như một nghề, dính tới một nghiệp, đã có từ bao đời. Nhưng chính các kẻ cùng nhà, cùng xóm, cùng làng này làm nghề này, họ không hề tự xem họ là : bụi đời ; vì họ có nhà, có họ, có thân tộc… và họ vẫn hãnh diện về họ hàng của họ : chim có tổ, người có tông, nhưng họ không hề có tình tương trợ, cụ thể là nơi nương tựa của những nạn nhân bụi đời mà không có quan hệ thân tộc với họ.
Văn hóa của cộng đồng song hành cùng giáo dục của gia phong, Việt tộc vinh danh lòng đoàn kết, thăng hoa tình tương trợ : máu chảy ruột mềm, lại cùng lúc siết kín lối vào cửa ra của các cá nhân cùng thân tộc : trâu đồng nào ăn cỏ đồng nấy. Đây là thực tế của văn hóa, nó như con dao hai lưỡi, nó biết củng cố quan hệ gia đình họ hàng, nhưng lại đóng cửa với : người dưng nước lã ; rất tương trợ trong thân quyến, nhưng hững hờ, lạnh nhạt với đồng loại. Thậm chí họ lại dễ dàng dùng luân lý gia tộc để buộc tội tha nhân trong hoạn nạn : đem con bỏ chợ. Tiểu luận này đề nghị xem lại để xét lại văn hóa cộng đồng, giáo dục gia tộc, trên các chỉ báo của khoa học xã hội và nhân văn, trong đó nhân học đóng vai trò chủ đạo để lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận về thực trạng bụi đời Việt.
Có thực mới vực được đạo, tại đây phương pháp luận thực nghiệm nhận diện ngữ văn : thực, phải làm nên hai ngữ pháp : thực (phẩm) và (sự) thực, dùng điền dã, điều tra, khảo sát, nghiên cứu hiện tượng bụi đời với thượng nguồn là hệ : thực (phẩm), tại đây trẻ bụi đời thiếu ăn, thiếu uống, tức là thiếu thực (phẩm), không có cơm ăn, áo mặc tức là không có các điều kiện vật chất bình thường. Nhưng từ phân tích tới giải thích, chủ đề bụi luận đi xa và đào sâu để hiểu hệ : (sự) thực qua các chặng đường của các nạn nhân bụi đời trước bạo quyền tham nhũng, trước tà quyền tham quan, trước ma quyền tham tiền, nguồn gốc của bất bình đẳng, có cha sinh mẹ đẻ là bất công. Từ đây, hai hệ : thực (phẩm) và (sự) thực, đã nhập một để giải luận rõ là bất công luôn trá hình dưới ngữ thuật : bất hạnh để chỉ kẻ bụi đời, một kẻ đã mất tất cả. Mất gia đình lẫn họ hàng, vì đã mất trọn (chú như cha, dì như mẹ). Mất thân quyến lẫn thân tộc, vì đã mất trắng (sẩy cha còn chú, sẩy mẹ ấp vú dì). Mất đạo lý lẫn luân lý lẫn thân tộc, vì đã mất luôn gia giáo (Thà đui mà giữ đạo nhà. Còn hơn có mẹ có cha không thờ).
Nhất con nhì cháu, thứ sáu người dưng đẩy xuống hạng thấp nhất người dưng, rồi đạp xuống tận cùng kẻ mồ côi cha lẫn mẹ, đã rơi vào họa bụi đời : sống bờ chết bụi, với cách xếp hạng để xếp loại : cháu mười đời hơn còn hơn người dưng ; không cho kẻ gặp nạn mồ côi cớ cơ may : ngẩng cổ ngóc đầu. Khoa học luận phản chứng dùng phản biện để lập ra phản diện, bằng xác chứng là : ngựa chạy có bầy, chim bay có bạn chỉ dùng những ai có cha mẹ, gia đình, mái ấm có đủ tâm lực, trí lực, lý lực để thực thi được đạo đức : một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ, trong khung khép kín giữa với ông bà, cha mẹ, anh em, con cháu trong cùng gia đình ; kiểu tứ đại đồng đường ; hay có thể dùng rộng hơn vì có đủ ý nguyện, ý chí, ý lực phá vỡ khung khép kín của gia tộc, để thực hiện trí khoan dung, tâm dung thứ, lòng vị tha với đồng bào, đồng loại hay không ?
Triết luận giáo dục
Tiểu luận này đề nghị nghiên cứu giáo dục học qua trường hợp của Việt Nam, với hậu quả phá sản hoàn toàn của ngành giáo dục hiện nay, qua kinh nghiệm quản lý giáo dục (nhưng phản giáo dục) của Đảng cộng sản Việt Nam, độc đảng trong độc tài nhưng bất tài về tổ chức giáo dục. Giáo dục học giao luận, tức là trao luận qua lý luận, lập luận, giải luận và diễn luận, nơi mà giáo luận có sức thuyết phục phải hợp lý trong hệ thống giáo dục, phải chỉnh lý trong tổ chức giáo dục, từ giáo khoa tới giáo trình, giáo án. Tôi đề nghị chọn ba chuyên ngành vừa có các đóng góp tích cực trong nhiều năm qua tại các quốc gia văn minh đã thành công về giáo dục, mà cũng vì ba chuyên ngành này đã rất sắc nhọn trong lý luận giáo dục. Vì không có giáo luận thì sẽ không có nền tảng cho giáo dục, không có phương pháp cho giáo khoa, không có định hướng cho giáo trình, không có mô thức cho giáo án. Nên, giáo chọn luận vì biết "chọn mặt gởi vàng" :
Khoa học giáo dục, khách quan hóa các kinh nghiệm của giáo dục để chế tác ra một hệ thống giáo dục hợp lý với hiệu quả cao từ đó quản lý quá trình trao truyền kiến thức, tri thức, trí thức… Tại đây chỗ đứng của đạo lý, đạo đức, luân lý cũng được truyền đạt như một quá trình của tri thức nơi mà chân, thiện, mỹ, được trao nhận song đôi với các kiến thức khoa học. Từ đó, cả hai song hành với nhau, không những để đào tạo chuyên môn, mà để hình thành vai trò của công dân trong một xã hội, có giáo dục sáng suốt cùng khoa học, được giáo dưỡng tỉnh táo cùng đạo lý.
Triết chính trị giáo dục, mang nội lực tổng kết của triết học vì có khả năng lý luận và lập luận trước các vấn đề cốt lõi của nhân sinh, biết sánh đôi cùng chính trị học để hiểu giáo dục phải có hệ thống hoàn chỉnh qua chính sách của chính phủ dưới vai trò chủ đạo của chính quyền. Và giáo dục học là kết quả hạ nguồn được định hướng bởi thượng nguồn của lý luận chính trị : Dân tộc muốn đào tạo đạo đức gì cho các thế hệ tương lai ? Quốc gia muốn công dân có vai trò gì trong việc bảo vệ và phát triển đất nước ? Nếu không rõ ràng về lý luận, không mạch lạc về lập luận trong chính trị giáo dục thì sẽ thất bại thảm hại trong giáo dục như Việt Nam hiện nay. Biến hệ thống giáo dục là nơi mà bọn đầu nậu giáo dục đột nhập vào các tổ chức giáo dục để mua bằng bán cấp, để chúng lũng đoạn bằng tà quyền của mua chức bán quyền, và khi bọn đầu nậu đã thành bọn đầu cơ trong giáo dục thì chúng sẽ buôn dân, bán nước như trò đùa của chúng !
Xã hội học giáo dục, nghiên cứu tác động của giáo dục vào đời sống xã hội, khảo sát các kết quả của giáo dục vào sinh hoạt xã hội, điều tra về các hậu quả của giáo dục qua các quan hệ xã hội. Nơi đây, giáo dục không những đào tạo ra các công dân có bổn phận với dân tộc, có trách nhiệm với đất nước, từ đấy công dân này không còn là một cá thể riêng biệt, mà đã trở thành chủ thể biết sống chung với cộng đồng qua hợp tác ; biết lao động chung với tập thể qua các phương án xã hội, nhất là chủ thể này có sáng kiến để có sáng tạo ra các đề nghị, các quyết định, các hành động… trợ lực cho xã hội được thăng hoa.
Quá trình giáo dục chính là quy trình sư phạm của học-biết-trao-truyền ; trong đó học để biết, biết là sự hiểu của trí năng, biết xếp đặt kiến thức theo quy mô chỉnh lý của tri thức, và tri thức này được trao từ người giảng tới kẻ học, rồi được truyền theo cấu trúc giáo khoa, theo định hướng giáo trình, theo tổ chức giáo án. Không gian giáo dục có quy định của nó, môi trường học đường được có quy luật của nó, trong đó học-biết-trao-truyền được định vị theo hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức). Khoa học giáo dục hiện đại đã đi xa, đi rất xa qua các nghiên cứu, điều tra, khảo sát để phân tích và giải thích : quy định của không gian giáo dục, quy luật của môi trường học đường có những đặc tính, đặc thù, đặc điểm riêng của nó :
Không gian giáo dục là không gian xã hội với các thành phần xã hội, tại đây các thành phần xã hội này có cùng một điểm hội tụ : dụng đạo lý (chân, thiện, mỹ) để dựng ý thức về luân lý (bổn phận và trách nhiệm) cho công dân.Môi trường học đường là môi trường xã hội với các thành phần xã hội, tại đây các thành phần xã hội này có cùng một chân trời : dụng kiến thức để dựng tri thức. Mê tín và dị đoan của cuồng giáo, cực đoan và quá khích của ý thức hệ độc tôn không đường đi nẻo về trong môi trường này. Sự liên minh giữa sự hội tụ dụng đạo lý (chân, thiện, mỹ) để dựng ý thức về luân lý (bổn phận và trách nhiệm) của công dân, và chân trời dụng kiến thức để dựng tri thức làm nên : một không gian sáng, một môi trường sạch. Tại đây, mọi thành phần xã hội được làm thành viên của không gian sáng này, mọi thành viên khi được vào, được học tập trong môi trường sạch này, biết tôn vinh cái sáng của tri thức, biết vinh danh cái sạch của đạo lý.
Xã hội học giáo dục khi phân tích về nhận thức : tôn vinh cái sáng của tri thức, và vinh danh cái sạch của đạo lý, luôn tìm cách đi sâu thêm để phân tích không gian giáo dục và môi trường học đường. Xã hội học đường là xã hội hiện đại nhất, tại đây các khám phá khoa học, các khai phá kiến thức, các phương pháp khai trí mới nhất được giảng-dạy-tiếp-nhận sớm hơn sinh hoạt xã hội bên ngoài, nhanh hơn quan hệ xã hội bên ngoài. Xã hội học đường là xã hội khách quan nhất, tại đây tin tức phải được chiêm nghiệm như dữ kiện, để tìm ra chứng từ, mà mọi chứng từ đều phải được chứng minh qua thí nghiệm hoặc thể nghiệm để được phân tích khách quan, được giải thích khoa học, nơi đây mê tín không có chỗ đứng, nơi đây cuồng ý thức hệ không có ghế ngồi. Xã hội học đường là xã hội chỉnh lý nhất, tại đây lý luận phải sát lý, lập luận phải toàn lý, giải luận phải minh lý, nơi đây tin đồn không kiểm chứng được, định kiến không minh chứng được đều không có chỗ nương thân, nếu không có phương pháp giải lý khách quan minh bạch.
Triết học chính trị giáo dục khi nghiên cứu về các chính sách giáo dục, thì sử dụng cấu trúc luận để đưa vào giáo khoa, khi sử dụng tri thức luận để đưa vào cho giáo trình, khi sử dụng chức năng luận để đưa vào giáo án [4], thì nhận định không gian giáo dục trước hết là không gian của nhân tính, nó thẳng tay loại bỏ thú tính có trong bản năng đói ăn khát uống đưa tới ăn tươi nuốt sống dẫn tới ăn giựt uống trộm. Trong không gian này, từ học sinh tới sinh viên biết trên kính dưới nhường, biết bầu ơi thương lấy bí cùng, biết một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ.
Không gian giáo dục trước hết là không gian của tri thức, nó xếp đặt chỉnh lý kiến thức để tạo ra cấu trúc hợp lý cho tri thức, xa hơn nữa nó nhận diện một cách toàn lý về thứ tự của các kiến thức, và dùng giáo khoa qua thời gian để đào tạo, để huấn nghiệp, để gầy dựng sự trưởng thành của tri thức, luôn song hành với sự trưởng thành của một công dân có trách nhiệm với dân tộc, có bổn phận với đất nước. Không gian giáo dục trước hết là không gian của phương pháp, nó dạy cách học, nó hướng dẫn cách biết, nó định hướng cách trao, nó quy định cách truyền, tất cả quy trình học-biết-trao-truyền toàn lý qua phương pháp : biết được thì hiểu được, qua phương pháp luận hiểu được thì giải thích được, mà giải thích được thì xem như đã hiểu rồi. Chính phương pháp cho phép sự qua lại toàn diện giữa hiểu biết và giải thích, ranh giới của hiểu biết và giải thích sẽ được "xóa" đi, bằng vai trò và chức năng của phương pháp.
Khi chúng ta kết hợp : khoa học giáo dục, xã hội học giáo dục, triết học chính trị giáo dục, chúng ta sẽ nhận ra được các luận kết sau đây cho không gian giáo dục, cho môi trường học đường. Hệ thống giáo dục là một định chế nhận nhiệm vụ đôi tổ chức có phương pháp từ giáo dục tới giáo khoa, từ giáo trình tới giáo án, nhiệm vụ đôi này là cặp bài trùng của mọi giáo luận : tri thức tuyền thống của tổ tiên song hành cùng tri thức khoa học đương đại và hiện đại. Hệ thống giáo dục là một định chế nhận đối thoại có đối trọng không những giữa các trường phái giáo khoa khác nhau trên giáo lộ đi tìm giáo khoa đa hiệu nhất, giáo trình hiệu quả nhất, giáo án hiệu năng nhất ; mà đây là nơi mà các phái bảo vệ truyền thống có thể đối thoại bằng lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận với các phái tôn vinh hiện đại hóa giáo dục dựa trên hiện đại hóa khoa học kỹ thuật đang hằng ngày làm thay đổi xã hội và nhân sinh. Hệ thống giáo dục là một định chế nhận nhân lý đúng (chỉnh lý, hợp lý, toàn lý) để chế tác ra nhân sinh quan đúng trong quan hệ giữa cá nhân, tập thể, cộng đồng và xã hội. Môt nhân sinh quan đúng sẽ tạo dựng lên một thế giới quan đúng trong quan hệ quốc tế giữa các quốc gia, các sắc tộc, các văn hóa, và một thế giới quan đúng sẽ gầy dựng được một vũ trụ quan đúng trong đó môi trường là môi sinh, mà con người phải sống chung trong sự tôn trọng các sinh vật khác, trong đó không những có động vật, có thực vật mà có sự sống của cả một hệ sinh thái luôn cần sự tôn trọng và che chở của con người.
Xã luận giáo dục
Khi đi sâu vào các hệ thống giáo dục mà nhân loại đã trải nghiệm, chúng ta sẽ nhận ra các hằng số giáo dục sau đây, các hằng số này quyết định sự tồn tại và sau đó là sự phát triển của một nền giáo dục, luôn là chỗ dựa vững chắc cho đời sống xã hội, cho sinh hoạt xã hội, cho quan hệ xã hội của một quốc gia, của một dân tộc. Lý tính của giáo dục, lấy lý luận để lập luận, lấy cái lý để thắng vô minh, lấy cái lý để làm nên cái trí, trong đó lý trí vừa là não bộ, vừa là cột xương sống của trí tuệ. Lý tin của giáo dục, nơi mà đi học là đi để nhận các kiến thức trực tiếp mắt thấy tai nghe, để biết vô trương bất tín (không thấy không tin), thấy rồi mới tin, tức là tin có cơ sở qua thí nghiệm để xác chứng bằng minh chứng. Lý tín của giáo dục, nơi mà đi học là đi để nhận các kiến thức gián tiếp qua lịch sử, qua hồi ký, qua văn học, qua tư tưởng… đó là khi học sinh, sinh viên tiếp cận các chứng tích của tổ tiên, các tác phẩm văn học, triết học… của các tác giả có giá trị cho giáo khoa, giáo trình, giáo án.
Chúng ta phải đi xa hơn nữa để thấy rõ các thử thách lớn của ba chuyên ngành này : khoa học giáo dục, xã hội học giáo dục, triết học chính trị giáo dục, với các tác giả chủ yếu, nơi mà phân tích của họ luôn là định hướng cho các hệ thống giáo dục, nếu các lãnh đạo giáo dục từ trung ương đến địa phương, từ cấp bộ tới cấp trường còn có lương tri (tri thức của lương tâm). Descartes : lý trí của kiến thức phải luôn là hải đăng của mọi hành động trong giáo dục. Kant : trí tuệ của giáo dục phải luôn là cơ chế của tri thức biết phục vụ cho sự thật. Durkheim : lương tri của giáo dục có cơ chế dựa trên sự trưởng thành về nhân lý và nhân tính của thế hệ trước biết trao truyền để giáo dưỡng thế hệ sau.
Khi giáo dục đưa quy trình học-biết-trao-truyền để định hướng giáo khoa, lập khung giáo trình, cấu trúc giáo án, thì trung tâm của giáo dục vẫn là giáo lý : lấy lý luận của đạo lý hay, đẹp, tốt, lành để định vị luân lý làm kim chỉ nam cho bổn phận và trách nhiệm của một công dân đối với dân tộc, đất nước, và ngày càng rộng hơn : đối với nhân loại, môi trường. Giáo lý là một tâm điểm của giáo dục khi giáo lý đề nghị rồi hướng dẫn học sinh trên các lãnh vực của giá trị luân lý làm nên cho thường thức công dân, trong đó tha nhân được tôn trọng trong đời sống xã hội, sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội. Quyền công dân, trong đó có quyền lợi được hưởng các công sản, trong đó có quyền được giáo dục và thành công nghề nghiệp, kinh tế, xã hội qua một hệ thống giáo dục.
Khi giá trị luân lý tạo dựng được sự hình thành của một công dân, có quyền công dân trong việc sử dụng mọi công sản, trong đó được hưởng một hệ thống giáo dục, trực tiếp giúp công dân đó trong việc tiến thân, thì hai phạm trù khác phải xuất hiện trong sự trưởng thành của một công dân qua hai đòi hỏi : đòi hỏi nhân quyền, cụ thể là tận hưởng một hệ thống giáo dục, trong một nhân sinh có nhân tính, nhân lý, nhân tri, nhân trí ; trong một nhân loại có nhân vị, nhân bản, nhân văn, nhân phẩm. Đòi hỏi dân chủ, khi dân chủ trực tiếp chống được bất bình đẳng trong xã hội, chống được bất công trong giáo dục, để tạo ra những điều kiện thuận lợi, những cơ may cần có để mọi người đều có thể hưởng bốn giai đoạn của một đời người : thành công học đường-thành tài nghề nghiệp-thành đạt kinh tế-thành tựu xã hội.
Đây là lúc phải trở lại hiện trạng giáo dục Việt Nam hiện nay : Học giả-thi giả-bằng giả trong mua điểm-bán trường để mua bằng bán chức trong thực trạng mua chức bán quyền là thực tế của một hệ thống giáo dục bị ung thư toàn bộ, từ trí thức tới đạo lý, từ học tới biết, từ trao tới truyền. Buôn học vị để lận học hàm tức là gian trong học lực, cụ thể là hủy diệt từ thượng tầng giáo dục, giáo khoa tới hạ tầng giáo trình, giáo án ; trong khi nhiệm vụ của giáo dục là bảo đảm sự thật của kiến thức, chân lý của tri thức và lẽ phải của ý thức.
Tại đây, lý do làm ra thảm họa giáo dục hiện nay chính là nguyên nhân tạo ra hoạn bịnh giáo dục trong một chế độ độc đảng công an trị, trá hình dưới ý thức hệ cộng sản nhưng luôn bị lũng đoạn bởi các nhóm lợi ích, mà thực chất là một tập đoàn tội phạm, có sinh hoạt bầy đàn như các nhóm mafia, lấy tham quan để tham ô, lấy tham chức vì tham nhũng, trong đó độc tài do độc đảng nhưng bất tài từ kinh tế tới văn hóa, từ quốc phòng tới giáo dục… lấy độc tôn để độc trị không ngần ngại diệt nhân tài, hủy nguyên khí của quốc gia ngay trong trứng nước của hệ thống giáo dục. Trong khi đó thực chất của giáo dục có kiến thức giáo dục tới từ đa tài, có tri thức giáo dục tới từ đa năng, có ý thức giáo dục tới tự đa trí.
Ngược lại, giáo dục tôn vinh hệ đa (đa tài, đa năng, đa trí, đa hiệu…), nên hệ độc (độc đảng, độc tài, độc tôn, độc trị) chỉ là quái thai sinh ra quái dạng đang sinh sôi nẩy nở trong hệ thống giáo dục, trong đó không gian giáo dục phải là môi trường sáng của trí tuệ, phải là môi trường lành của đạo lý. Một ngày kia, khi tà lộ giáo dục hiện nay bị xóa đi, thì nhiệm vụ đầu tiên của các lãnh đạo giáo dục có lương tri (tri thức của lương tâm) phải đưa giáo dục nước nhà trở lại minh lộ của trí tuệ và đạo lý, để nhận ra học để hiểu nhưng muốn hiểu phải biết nhận, biết tiếp nhận kiến thức có giáo khoa nghiêm minh, có giáo trình nghiêm chỉnh, có giáo án nghiêm túc, cụ thể là học-tiếp-nhận-hiểu có phương pháp, có phân tích, có giải thích, có phê bình… Trao để truyền, mà thượng nguồn là mọi người đều phải học, vị học thật chính là học lực, nó quyết định học vị qua bằng cấp, học hàm qua định vị giáo dục, chính học lực làm rõ hai chuyện : chuyện thứ nhất, học lực là gốc của học vị, cội của học hàm ; và chuyện thứ hai, học lực không giả mạo được, vì nó có gốc, rễ, cội, nguồn từ kiến thức tới tri thức, nên nó không cho phép học giả, học tắt, học lóm, học vờ, học phớt… học mà không phải là học.
Hãy nhận diện rõ nhiệm vụ của giáo dục qua tổ chức của giáo khoa là cùng hiểu để chung hiểu. Giáo dục có nhiệm vụ rõ ràng trong tổ chức giáo khoa, đó là sự tổ chức qua thời gian của giáo trình, qua diễn biến của giáo án về các kiến thức chung phải có của thầy cô khi truyền dạy tới học sinh, sinh viên, và các kiến thức này tới từ trải nghiệm, tức là tới từ : quá khứ, kinh nghiệm, lịch sử… Các kiến thức chung được sự cùng hiểu như nhau bởi thầy cô khi truyền đạt tới học trò, và sau khi truyền đạt để trao truyền kiến thức thì sẽ có : sự chung hiểu, cả ba (kiến thức chung, sự cùng hiểu, sự chung hiểu) làm nên sự liên kết và liên minh giữa giáo dục, giáo khoa, giáo trình, giáo án.
Chính tại đây, một khoa học giáo dục đóng kín để nghiên cứu sẽ không đủ lý luận đầy đủ về các diễn biến của trí thức, không những tới tự khoa học, mà còn tới tự xã hội, tự truyền thông… nên liên kết rồi liên minh với xã hội học giáo dục là cần thiết. Giáo dục được tổ chức qua giáo khoa, giáo trình, giáo án đòi hỏi sự ổn định, tức là thời gian tính của đường dài trong thời gian để một học trò mẫu giáo, tiểu học trở thành học sinh của trung học rồi sinh viên của đại học. Nếu mỗi trường giáo dục rất nhanh vì nhạy với các khám phá khoa học, kỹ thuật hiện đại, nhưng cùng lúc nó cần thời gian tính của trường kỳ để đào tạo có bài bản, chính vì lý do này mà nó sẽ không theo kịp của chuyến biến văn hóa qua các thế hệ ; và thế hệ các thiếu nhi, thiếu niên, thành niên của thế kỷ này khác khá nhiều với các thế kỷ trước.
Chính các chuyến biến văn hóa của một sắc tộc, một quốc gia, một cộng đồng, một địa phương… lại luôn chậm hơn các chuyến biến xã hội, nơi mà đời sống xã hội luôn được truyền thông hiện đại hỗ trợ hay can thiệp ; nơi mà sinh hoạt xã hội luôn áp dụng các khoa học kỹ thuật hiện đại nhất để tăng hiệu quả, tăng năng suất ; nơi mà quan hệ xã hội giữa các thành phần xã hội luôn được định hướng bởi các phương án mới, hoặc bị điều khiển bởi sự xuất hiện của các lợi nhuận mới.
Các hệ thống giáo dục chuyển biến chậm hơn các chuyển biến văn hóa, mà chuyển biến văn hóa lại chuyển biến chậm hơn các chuyển biến xã hội, và chính các chuyển biến xã hội trong quá trình chuyển biến của nó, thì nó nhận ra là nó chuyển biến chậm hơn các phong trào xã hội mới. Và, các phong trào xã hội này có hùng lực để chế tác ra các lực lượng xã hội mới không những biết đòi hỏi tự do, công bằng, bác ái ; mà còn biết cổ vũ cho nhân quyền, dân chủ, đa nguyên, lại còn biết thực hiện các tổ chức nhân đạo, từ thiện rất mới về thông tin và truyền thông, lại còn biết cổ súy cho nhân loại và nhân sinh phải bảo vệ môi trường để gìn giữ môi sinh.
Các nhận định trên giúp ta trở lại không gian giáo dục, môi trường học đường hiện nay của Việt Nam, với lãnh tụ độc đảng tại trung ương vô tri trước các diễn biến này có mặt trong các quốc gia văn minh, tiên tiến ; với các lãnh đạo của Bộ Giáo dục rất vô minh về các kinh nghiệm hay, đẹp, tốt, lành của giáo lý, luôn biết kết hợp rồi liên kết làm nên phương trình thông minh cho giáo khoa : hệ thống giáo dục-chuyển biến văn hóa-chuyển biến xã hội-chuyển biến qua các phong trào xã hội mới, các lực lượng xã hội mới. Nên hậu quả rất tai hại hiện nay của nền giáo dục Việt Nam hiện nay của độc đảng rất độc tài nhưng lại bất tài về giáo dục ; với các lãnh đạo của Bộ Giáo dục thích độc trị nhưng không biết quản trị phương trình này.
Cả hai loại lãnh đạo này đã và đang sinh ra một loại quái thai tà tướng trong giáo khoa (bỏ nhiều kinh phí để xuất bản sách giáo khoa, sau đó lại thu hồi và thiêu hủy chỉ vì các sách giáo khoa này vừa sai phạm, vừa lỗi thời) ; đã và đang đẻ ra một loại ung thư vĩ mô trong giáo trình (với một lực lượng giáo viên, giảng viên được tuyển chọn với điểm thấp nhất để vào các trường Sư phạm, để khi ra trường thì nhận một mức lương loại thấp nhất so với các thành phần xã hội khác) ; đã và đang đẻ ra một loại âm binh gian giáo trong giáo án (nơi mà thầy cô khuyên răn rồi bó buộc học sinh phải tới nhà riêng của thầy cô để học thêm, để khi thi thì có được điểm cao). Tất cả các loại : quái thai tà tướng trong giáo khoa ; ung thư vĩ mô trong giáo trình ; âm binh xảo giáo trong giáo án không bao giờ được chấp nhận để : có chỗ đứng ghế ngồi trong các quốc gia có văn minh của dân chủ, có văn hiến của nhân quyền.
Loại câu hỏi này mang nội lực, mang cả bản lĩnh của tầm vóc : tự học ! Mà tự học ở đây không phải là học mò, học cương, học liều, học lóm, học tùy tiện… mà tự học với tính tự chủ đi tìm thêm kiến thức khi đã được thầy cô trao truyền các kiến thức căn bản ; với trí tự lực để học thêm nhiều thầy qua nhiều tác giả, qua nhiều tác phẩm ; với lực tự tin là vượt lên chuyện đi tìm điểm trung bình để được yên tâm trong học trình, để có bằng cấp, mà là để đi tới các quá trình khám phá của học thuật, khoa học, nghệ thuật… có trong giáo lý làm nên giáo dục, đây chính là sự thông minh của lòng tự trọng của quá trình phải biết "tới nơi tới chốn" để "nhìn xa trông rộng".
Câu chuyện tự học gầy dựng lên qua : tính tự chủ, trí tự lực, lực tự tin, lòng tự trọng biết kết nối giáo dục với khám phá, kết nối giáo khoa với sáng kiến, kết nối giáo trình với sáng tạo, kết nối giáo án với học thuật ; tất cả làm nên giáo lý ngay trong đại học, nhất là ở cấp sau cao học là tiến sĩ. Tại đây, giáo khoa trường lớp chỉ đóng vai trò làm chất xúc tác về lý thuyết luận, phương pháp luận, khoa học luận, để kẻ học tiến sĩ, người đang làm luận án, phải nhập nội bằng tự do, tự chủ, tự tin, tự trọng vào quy trình : nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã, nơi mà kiến thức khoa học tới từ thực địa, để sáng tạo làm nên được khám phá. Tại đây, tự học là biết tự tổ chức chuyện học, tự sử dụng thời gian để : tự học-tự làm, tức là tự có sáng kiến-sáng chế-sáng tạo.
Chính luận giáo dục
Tự học vun đắp cho học lực, học lực xác chứng cho học vị, minh chứng cho học hàm, chính học lực là nhân vị đang đứng trên đỉnh núi để nhận ánh sáng của kiến thức, với không khí trong lành của giáo lý ; nó hoàn toàn khác với chuyện học giả-thi giả-bằng giả của đánh lận con đen trong hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay : xảo trong học vị để gian trong học hàm mà thật ra là không hề có học lực. Nhân vị trên đỉnh núi của kiến thức sáng, của giáo lý lành, hoàn toàn xa lạ với chuyện mua điểm bán trường, để mua bằng bán chức, rồi sau đó là mua chức bán quyền của đám bạo quyền tham chức, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền. Chúng học giả nên khi gặp học thật là chúng luồn lách trong bóng tối như âm binh tránh ánh sáng của học thuật, của khoa học, của giáo tri… Chúng có học vị với chuyên môn, có học hàm với chuyên ngành, nhưng khi quốc tế tổ chức các hội thảo, hội nghị, hội luận về chuyên nghiệp mà chúng tự "vỗ ngực" là chuyên gia, thì chúng "độn thổ" như tà quỷ sợ ánh sáng của trí thức đốt thiêu thân cháy tướng của chúng !
Hãy ngừng lại đây trong sự sáng suốt để phân tích, với sự tỉnh táo trong giải thích các "thói quen tật thường", nhưng thực chất là các "thói hư tật xấu" có trong một loại giáo dục bắt "học thuộc lòng" một cách máy móc, một cách ép uổng, chính cách học-mà-không-hiểu nhưng lại đọc, viết, kể như : vẹt ! Tác hại này làm ra bao "bạo bịnh" trong giáo dục của các quốc gia có chính quyền độc đảng nên tự cho mình quyền độc đoán bằng ý thức hệ của mình. Từ đó, áp chế để áp đặc ý thức hệ này lên bao thế hệ qua học đường được tổ chức không phải vì giáo dục mà để tuyên truyền ; từ đó tạo ra ngu dân, tức là tật nguyền hóa từ tư duy tới kiến thức, từ tự do tới sáng kiến, tự chủ tới sáng tạo của học sinh.
Mà trong hệ thống giáo dục hiện nay của độc đảng qua độc trị mà không biết quản trị thì không hề có hệ đa (đa tài, đa trí, đa năng, đa hiệu, đa dạng…) của giáo lý làm nên giáo dục, mà chỉ biết tái sản xuất ngu dân qua tuyên truyền, lấy tuyên giáo để thay thế giáo dục, từ đây sinh vô vàn quái chứng : quái thai giáo khoa : bắt học sinh phải học tư tưởng của Hồ Chí Minh, mà Hồ Chí Minh thì không hề có tư tưởng, nếu ta định nghĩa tư tưởng là một cấu trúc của hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức) để tỉnh thức vì biết dựa vào hệ lý (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) làm nên giáo luận cho giáo lý của giáo dục.
Thì kết cuộc là không hề có tư tưởng của Hồ Chí Minh, chỉ vì Hồ Chí Minh không có hệ thức, lẫn hệ luận. Quái lộ giáo trình : bắt học sinh phải học kiến thức chính trị của độc dảng lãnh đạo bằng hệ độc (độc tôn, độc quyền, độc trị, độc tài) được tổ chức bởi độc đảng. Thì đây, chính là quy trình phản giáo dục, ngược giáo khoa làm nên loạn giáo trình, vì nội chất của giáo dục luôn dựa vào hệ đa (đa trí, đa tài, đa năng, đa hiệu) làm nên đa diện, đa dạng từ tri thức tới trí thức.
Nếu chỉ có độc thức bằng ý thức hệ của tuyên giáo qua tuyên truyền, thì như : tự chọc vào mắt cho mình bị đui, tự chặt chân cho mình bị què cụt, tự thọc vào tai mình cho bị lảng điếc, tự khóa miệng để tự bị triệt khẩu. Quái tướng giáo án : câu chuyện hồng (ý thức hệ) hơn chuyên (chuyên môn) là sự tráo lận giá trị giáo dục, nó gian trá trong giáo khoa, nó man trá trong giáo trình, nó dối trá trong giáo án. Vì hệ thống giáo dục qua môi trường học đường là nơi làm ra hệ chuyên (chuyên cần làm nên chuyên môn, nơi mà chuyên khoa định vị cho chuyên ngành, để đào tạo ra chuyên gia bằng chuyên nghiệp).
Mà hậu quả của nền giáo dục Việt Nam hiện nay, là một nền giáo dục không có sáng kiến nên không có sáng chế ; không có sáng tạo nên không có khám phá ; mà chỉ là một nền giáo dục tạo ra phần lớn các con dân phải đi làm : nô tỳ, nô bộc trong lao nô cho các nước láng giềng. Một nền giáo dục đã thui chột hóa trí lực, đã nhơ nhớp hóa tâm lực, đã bần cùng hóa thể lực của Việt tộc. Tất cả các quốc gia có giáo lý trong văn hóa, có dân chủ trong văn minh, có nhân quyền trong văn hiến đang đại diện không những cho nhân lý, nhân tri, nhân trí vì nhân loại ; mà đại diện luôn cho nhân vị, nhân bản, nhân văn vị nhân sinh ; xa hơn nữa họ đại diện cho nhân đạo, nhân nghĩa, nhân tâm làm nên nhân phẩm : họ không hề cần hồng của ý thức hệ, mà họ mài dũa cho thật sắc nhọn hệ chuyên, bằng hệ lương (lương tâm của giáo dục, lương thiện của giáo án, lương tri của giáo trình).
Sự liên minh giữa khoa học giáo dục, xã hội học giáo dục và triết học chính trị giáo dục trong các hệ thống tổ chức giáo dục hiện đại, lại đi ngày càng xa qua các khảo sát, để được ra các nhận định mới, từ đó yêu cầu các chủ thể giáo dục (có trách nhiệm với học đường, có bổn phận với học sinh, lại có sáng kiến để có sáng tạo qua giáo khoa, giáo trình, giáo án). Khi khoa học kỹ thuật đưa tiến bộ vào xã hội, nó trực tiếp hay gián tiếp tạo ra tiện nghi vật chất, chính các tiện nghi này ngày càng nhiều sinh ra một loại xã hội tiêu thụ, trong đó có tâm lý hưởng thụ có thể lấn lướt việc học hành luôn đòi hỏi sự chăm chỉ, chuyên cần, kiên định (có công mài sắt có ngày nên kim), ngược lại với chuyện tận hưởng các tiện nghi (chờ sung rụng).
Khi thời gian bị trùm phủ bởi tiện nghi vật chất, được kích thích bởi tâm lý tiêu thụ dễ dãi và chớp nhoáng, thì chính các tiện nghi vật chất này vừa không khuyến khích chuyện chăm học, lại giới hạn quyết tâm tự học. Khi có thái độ tiêu thụ ngay trong các tiện nghi, với các thói quen chỉ biết tận hưởng các tiện nghi này, tại đây sẽ tạo ra bản năng "đói ăn, khát uống" sinh ra phản xạ "ăn ngay, uống liền", với thái độ thụ động của "ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau". Trong khi đó, đi học là "lội suối trèo đèo" để có kiến thức, "vượt rừng, thắng núi" dựng tri thức. Khi mang bản năng loại "ăn tươi nuốt sống" thì sẽ không có trí tuệ "nói uốn lưởi bảy lần", nếu chỉ biết "hưởng ngay, xài liền" thì sẽ mất cẩn trọng "bút sa gà chết", quên đi đi học là để thành người khôn : "Người khôn chưa đắn đã đo, chưa ra tới biển đã dò nông sâu".
Ivan Illich khi khảo sát về các diễn biến không hay, không đẹp, không tốt, không lành này trong các hệ thống giáo dục đương đại và hiện đại, có nêu lên quá trình xấu, tồi, tục, dở của nó ; vì nó biến một xã hội tiêu thụ chiếm học đường trở thành một xã hội tiêu thụ mất học đường ! Chính tại đây, sinh ra một hiểm nạn cho giáo dục, là biến chúng ta ngày càng nghiêm khắc hóa giáo dục, để o ép hóa giáo trình, bằng cách cứng ngắc hóa sự phát triển của một đứa trẻ đang trưởng thành qua cuộc sống, đây là chuyện phản lại sự thông minh của học sinh đang đi tìm kiến thức.
Chúng ta chế ra để áp chế cách nghĩ là : trẻ con phải học (học sớm, học đầy, học nhiều, học hoài) cùng lúc đó chúng ta không cho phép chúng được sống chung để sống chia với thế giới người lớn những kinh nghiệm hay, đẹp, tốt, lành của các thế hệ đã trưởng thành, vì đây cũng là học và tại đây hiệu quả giáo dục sẽ rất cao qua đối thoại giữa các thế hệ, mà không hề có chuyện cả vú lấp miệng em. Chúng ta đặt thầy cô trên cao bằng quyền lực của giảng dạy, chúng ta để học sinh dưới quyền lực của giảng dạy một chiều, thầy cô nói một mình trong độc thoại, mà không có đối thoại để đối luận, phản biện để phản luận, để giúp cho kẻ ở trên cao là thầy cô, kẻ ở tận dưới là học sinh gần nhau hơn, qua đối thoại để trực luận, trực luận đúng để trao luận trúng.Chúng ta được học sinh tới trường là để chỉ có học, cùng lúc chúng ta cô lập hóa học sinh, ra khỏi môi trường xã hội, mà trong sinh hoạt xã hội cũng có khoa học (các viện nghiên cứu), cũng có nghệ thuật (các bảo tàng viện), cũng có học thuật (các tác phẩm trong thư viện. Hãy mở (cửa) hệ thống giáo dục để mở (trí) các chủ thể giáo dục.
Sự liên minh ở thế liên hoàn bằng chính sách giáo dục cụ thể giữa khoa học giáo dục, xã hội học giáo dục và triết học chính trị giáo dục, đề nghị : Giáo dục mở là đưa kiến thức học đường gặp giáo lý xã hội, tri thức khoa học, cả hai có hùng lực ngay trong sinh hoạt xã hội, đời sống xã hội, quan hệ xã hội. Giáo dục đóng cửa sẽ đưa học đường vào ngõ cụt.Giáo dục rộng luôn biết chuyển biến phản xạ khép, lấy hệ thông (sự thông thái của giáo khoa để làm nên sự thông suốt của giáo trình, dựng lên sự thông minh của giáo án). Giáo dục thông luôn biết áp dụng hệ thông (thông thái, thông suốt, thông minh) để chế tác ra hệ sáng (sáng kiến mở đường cho sáng tạo làm ra khám phá trong sáng chế).
Nếu lấy ba phân tích trên : giáo dục mở, giáo dục rộng, giáo dục thông để đi tìm mô thức tổ chức thích hợp cho một hệ thống giáo dục, thì phải biết thực hiện ít nhất các chuyện sau : học sinh dù ở bất cứ tuổi nào đều là một cá thể, mà học đường là nơi giáo dưỡng trí tự chủ, tâm tự tin, quyền tự do biết học để tự học. Học sinh lớn lên trong môi trường học đường, là lớn theo quá trình tự cá thể thành chủ thể : có bổn phận với đồng bào, đồng loại ; có trách nhiệm với quê hương, đất nước, lại có sáng tạo để nâng đạo lý hay, đẹp, tốt, lành cho nhân sinh, nhân thế. Học sinh trưởng thành trong môi trường học đường, trở thành sinh viên để trưởng thành trong xã hội, với vai trò của một công dân theo quá trình của chủ thể trí tuệ, có lý trí trong đề nghị, có chính tri trong quyết định, có tuệ giác trong hành động. Học đường không bao giờ cách biệt với xã hội, cũng như giáo dục không bao giờ xa biệt với giáo lý !
Nhân học môi sinh luận
Khi một chính quyền cho xuất hiện một chính sách về một môi trường, thì phương pháp luận về môi trường làm nên khoa học luận về môi sinh, bó buộc chính quyền đó phải có tầm nhìn toàn bộ trên rất nhiều môi trường, phải có các đánh giá tổng thể trên rất nhiều môi sinh để chính sách đó có tính chỉnh lý khi thuyết phục các đối tác, có tính toàn lý qua không gian và thời gian. Cụ thể là không có một chính sách nào về môi trường mà cục bộ, không có một chính sách nào về môi sinh mà đơn lẻ ; chính phương trình toàn bộ môi trường-tổng thể môi sinh làm nên hiệu quả của chính sách, làm ra hiệu năng của các quá trình đầu tư tới từ chính sách đó. Hãy lấy các thí dụ thiết thực để nhận diện rõ ràng về phương trình toàn bộ môi trường-tổng thể môi sinh.
Không thể có một chính sách trồng rừng hiệu quả, nếu không có kiến thức và tri thức về địa chất, về khí hậu, về thiên nhiên… trong bối cảnh biến đổi khí hậu trên trái đất, trong thực cảnh ô nhiễm trên nhiều mức độ khác nhau mà nhân loại đang phải hứng chịu, nên tổng thể và toàn bộ vừa là hàm số, vừa là hằng số cho mọi chính sách trên một vùng đất, trên một địa phương, trên một quốc gia… Không thể có một chính sách thủy lợi trên đồng bằng sông Cửu Long chỉnh lý, nếu không có các dữ kiện và dữ liệu chính xác về các chính sách của Trung quốc, của Lào… ngay trên thượng nguồn sông Mê Kông, tại đây nhận định toàn lý về tổng thể và toàn bộ từ thượng nguồn tới hạ nguồn chính là phương pháp luận về đầu tư trên các quốc sách về môi trường và môi sinh của đồng bằng sông Cửu Long. Không thể có một chính sách chống ô nhiễm trong một thành phố, nếu không có các phân tích toàn bộ, các giải thích toàn thể về quan hệ giữa đô thị và nông thôn trên phương trình toàn bộ môi trường-tổng thể môi sinh về phương pháp xử lý nước thải, rác rưởi, khói công nghiệp, ô nhiễm giao thông…
Nếu tiếp nhận lý luận : một chính sách về một môi trường là một chính sách trên toàn bộ môi trường song hành cùng phương trình toàn bộ môi trường-tổng thể môi sinh, trong đó nhận định toàn lý về tổng thể và toàn bộ làm nên tầm nhìn, tạo nên tầm vóc của mọi chính sách về môi trường và môi sinh, thì các chuyên gia về xã hội học môi trường và chính trị học môi sinh có thể đưa ra các nhận xét và kết luận sau đây : Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo chính quyền, điều hành chính phủ chưa hề có một hệ thống các chính sách bảo vệ môi trường và môi sinh trên đất nước Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam với chính quyền độc tài, với tổ chức chính phủ độc trị chưa hề có một chính sách bảo vệ môi trường và môi sinh có lý luận toàn bộ, có lập luận tổng thể từ khi nó nắm quyền lực trên đất nước Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam với chính quyền độc tôn, với tổ chức chính phủ độc đoán đã chọn hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc trị, độc tôn) song hành cùng hệ tham (tham quyền, tham quan, tham nhũng, tham ô) đã chọn độc đoán để đi trên con đường độc hại là ô nhiễm môi trường, hủy diệt môi sinh.
Đây là các định luận giúp các chuyên gia về môi trường thấy rõ mọi thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam về môi trường và môi sinh. Cũng tại đây, ẩn số môi trường yêu cầu các chuyên gia phải thay đổi : nhân sinh quan để thay đổi phân tích và giải thích : vấn đề môi trường không còn khung trong lãnh thổ, biên giới, chủ quyền của một quốc gia theo định nghĩa của cớ chế và hành chính, mà môi trường là một tổng thể có tầm cỡ của thế giới, có tầm vóc của trái đất. Thế giới quan để thay đổi giải luận và diễn luận : một chính sách về môi trường thật sự hiệu quả khi có liên minh của nhiều quốc gia láng giềng với tầm nhìn của hợp tác quốc tế vĩ mô, có tầm vóc của toàn cầu hóa với các thỏa thuận, ký kết nên chính sách làm nên quyết sách trong đó sinh mạng của một môi trường là sinh linh của toàn thể môi sinh. Vũ trụ quan để thay đổi lý luận và lập luận : một chính sách về môi trường thật sự hiệu quả khi có các chính sách quốc tế và toàn cầu hỗ trợ nó trong các giai đoạn đầu tư và kiểm tra qua thời gian dài, qua không gian rộng.
Hãy đi xa hơn nữa để thấy và thấu : một chính sách về một môi trường là một chính sách trên toàn bộ môi trường song hành cùng phương trình toàn bộ môi trường-tổng thể môi sinh, trong đó nhận định toàn lý về tổng thể và toàn bộ làm nên tầm nhìn, tạo nên tầm vóc của mọi chính sách về môi trường và môi sinh. Môi trường và môi sinh không chỉ tùy thuộc vào các nhận định của sinh học mà của toàn bộ các ngành khoa học thực nghiệm (sinh, lý, hóa…). Môi trường và môi sinh không chỉ tùy thuộc vào các nhận định của các ngành khoa học thực nghiệm mà của rất nhiều ngành khoa học công nghiệp, truyền thông… Môi trường và môi sinh không chỉ tùy thuộc vào các nhận định của các ngành khoa học thực nghiệm, công nghiệp, truyền thông… mà có quan hệ trực tiếp và gián tiếp tới các ngành khoa học xã hội và nhân văn.
Khi địa chất học nghiên cứu sâu xa về ô nhiễm môi trường, trong đó môi sinh bị đe dọa rồi bị hủy diệt, thì chuyên ngành này cho xuất hiện một phạm trù phân tích về tổng thể môi trường trên toàn địa cầu để có các giải thích chỉnh lý, trong đó môi sinh phải được lý giải qua hai thay đổi song song. Thay đổi địa chất trên quy mô địa cầu tới từ các thay đổi của mỗi địa tầng làm nên cấu trúc của trái đất, tại đây các dữ kiện vi mô về mỗi địa tầng trực tiếp phục vụ cho kiến thức và tri thức về dữ kiện vĩ mô của cả trái đất, mà ta không quên sự tác động qua lại của địa tầng này lên các địa tầng khác. Quan hệ giữa nước và đất chính là quan hệ giữa dòng chảy và bờ đất, xa hơn nữa là quan hệ giữa các địa tầng có phản ứng làm nên phản xạ rất khác nhau giữa chất lỏng và chất rắng, tại đây sự thăng bằng giữa các quan hệ này không hề vĩnh viễn mà rất tạm thời, rất mong manh trước các biển đổi khí hậu mà nhân loại đang trực tiếp hứng chịu. Thay đổi địa chất trên quy mô địa cầu tới từ các sinh hoạt của con người trên từng địa tầng và trên toàn trái đất, tại đây các dữ kiện vi mô về sinh hoạt nông nghiệp cũng như công nghiệp trên các địa tầng trực tiếp phục vụ cho kiến thức và tri thức về dữ kiện vĩ mô sinh hoạt của con người trên cả trái đất, tự nông nghiệp tới công nghiệp, từ giao thông tới vận tải tự đường bộ tới đường thủy và đường hành không, trong đó quá trình vận chuyển hàng hóa cũng như quy trình phát triển du lịch đều có ảnh hưởng tới môi trường, tác động trực tiếp tới môi sinh.
Khi phân tích đôi này : thay đổi địa chất trên quy mô địa cầu tới từ các thay đổi của mỗi địa tầng, song cặp cùng thay đổi địa chất trên quy mô địa cầu tới từ các sinh hoạt của con người, thì các hậu quả từ cạn nguồn nước tới sạt lở các bờ sông phải được phân tích cùng lực với sinh hoạt của con người đã khai thác quá mức nguồn nước cùng lúc khai thác quá độ các lòng sông. Chính sinh hoạt con người làm nên các thay đổi triệt để về các địa tầng, và gây ra các tác động tai hại trực tiếp lên sự liên kết tự nhiên của các địa tầng. Hãy lấy thí dụ cách khai thác thủy điện vô tội vạ của Trung Quốc ngay trên thượng nguồn sông Mê Kông đang gây những hiểm họa hiện nay trầm trọng trên đồng bằng sông Cửu Long. Xử lý vấn đề này không còn ở cấp quốc gia riêng rẽ đối với Việt Nam mà chính quyền Việt Nam phải tạo được đồ-hình-đấu-tranh-quốc-tế, vì đấu tranh cho môi trường hiện nay chính là đấu tranh trực diện trên ba mặt trận : khoa học, chính trị, ngoại giao.
Chính ba mặt trận này sẽ làm nền cho ba mặt trận khác : giáo dục, xã hội, truyền thông, rồi chính sáu mặt trận này (khoa học, chính trị, ngoại giao, giáo dục, xã hội, truyền thông) làm nên gốc, rễ, cội, nguồn của mọi chính nghĩa để tạo được các nội dung vững, các ý nghĩa lớn, giá trị cao cho các chính sách của chính quyền về môi trường và môi sinh trên đất nước Việt Nam. Phân tích đôi này sẽ biến hóa thành định đề đôi : thay đổi địa chất trên quy mô địa cầu tới từ các thay đổi của mỗi địa tầng, song cặp cùng thay đổi địa chất trên quy mô địa cầu tới từ các sinh hoạt của con người, để làm rõ các chính sách liêm chính của một chính quyền liêm khiết về môi trường, thì các tòa án quốc tế sẽ đứng về phía các giá trị liêm sỉ của chính quyền này.
Chính trị học môi sinh
Hệ liêm (liêm chính, liêm khiết, liêm sỉ) trong đấu tranh chính trị và ngoại giao là chất trong của môi trường, là chất sạch của môi sinh, chính nội chất trong sạch này làm nên chính nghĩa của chính quyền bảo vệ môi trường, chính phủ bảo quản môi sinh. Nên khi Việt Nam kiện Trung Quốc về các hậu quả trên dòng chảy của sông Mê Kông thì sẽ tạo ra tính toàn lý đôi song hành cùng phương pháp dùng-kiện-tụng-để-tố-cáo các hậu quả qua ý đồ quân sự hóa biển Đông, cùng lúc khai thác triệt để các vùng đang có trữ liệu năng lượng cao và rộng. Vì cả thế giới đều biết Trung Quốc là tác giả của nhiều nguồn ô nhiễm môi trường mà hàng chục quốc gia láng giềng của Trung Quốc đang phải nhận các hậu quả.
Khi chúng ta có phân tích đôi sánh vai cùng định đề đôi này, thì chúng ta phải giải luận rộng hơn để giải thích sâu hơn là : Đảng cộng sản Việt Nam có độc tài chính quyền nhưng hoàn toàn bất tài, có độc trị chính phủ nhưng không hề biết quản trị phương trình phân tích đôi- định đề đôi này, chúng ta không hề thấy, nghe, đọc, biết về : các văn bản chính thức, các chính sách chính thống, các quốc sách ngoại giao dựa trên phương trình phân tích đôi- định đề đôi để bảo vệ môi trường Việt và môi sinh Việt, mà chúng ta chỉ thấy ngược lại là Đảng cộng sản Việt Nam đã mở cửa cho các công nghệ ô nhiễm nhất, từ gang thép Formosa tới khai thác Boxite tây nguyên, từ công nghệ nhiệt điện bằng than đá tới các công trình thủy điện... Nơi mà ô nhiễm đã thực sự tạo ra ung thư đại chúng, từng vùng, từng làng ung thư, nơi mà ô nhiễm đã và đang giết dần mòn Việt tộc, trước thái độ và hành vi của Đảng cộng sản Việt Nam nhắm mắt-cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối trước các tội ác môi trường trong ý đồ của Tàu tặc-Tàu nạn-Tàu họa-Tàu hoạn, tại đây số phận của môi trường và số mạng của Việt tộc đang nằm chung một dòng sinh mệnh : từ xám-của-bịnh tới đen-của-chết !
Lý thuyết luận là vận dụng lý thuyết này để bổ sung cho lý thuyết kia, là tận dụng học thuyết này để củng cố cho học thuyết kia, là sử dụng luận thuyết này để bồi đắp cho luận thuyết kia, mà không quên sự kình chống, sự xung đột, sự mâu thuẫn giữa các lý thuyết, học thuyết, luận thuyết. Trong nghiên cứu về môi trường, trong khảo sát về môi sinh, thì các chuyên gia cần mọi kiến thức, mọi tri thức của tất cả các khoa học có liên quan tới môi trường, có quan hệ tới môi sinh tự khoa học thực nghiệm tới khoa học chính xác, từ khoa học xã hội tới khoa học nhân văn. Tại đây, liên minh của các khoa học, liên kết của các chuyên ngành không dễ dàng ngay từ những bước đầu của sự hợp tác giữa các khoa học khác nhau qua các chuyên ngành chuyên môn khác nhau. Tại các hội thảo, hội nghị, hội luận giữa các khoa học khác nhau, qua các chuyên ngành khác nhau, chúng ta đều có thể cảm nhận được sự thiếu thông cảm giữa các khoa học khác nhau, mặc dù ý muốn chia sẻ kiến thức cho nhau đều có cùng một động cơ, có cùng một cơ sở là bảo vệ môi trường.
Khi địa chất học đại diện cho khoa học thực nghiệm để phân tích các thay đổi về địa tầng qua hậu quả ô nhiễm, thì ngay trên phương pháp định niên đại của địa chất học đã không có sự chia sẻ đúng mật độ-trúng mức độ của các chuyên gia trong khoa học xã hội và nhân văn. Khi nhân học, xã hội học, kinh tế học… phân tích văn trò của văn hóa trong quan hệ giữa con người và sử dụng thiên nhiên, giữa truyền thống và khai thác tài nguyên, giữa tôn giáo, tín ngưỡng và động vật, thực vật… thì không có sự thông cảm tức khắc của các ngành khoa học chính xác và thực nghiệm. Có những nhận định đưa tới những chiến lược rất khác nhau về chính sách bảo vệ môi trường. Chiến lược và chính sách tái tạo lại thiên nhiên ban đầu, mà các chuyên gia đặt tên là thiên nhiên hóa môi trường, nơi mà trường phái muốn tái tạo thiên nhiên ban đầu khó chấp nhận phát triển kinh tế song hành cùng công nghiệp hóa không gian trong đó thiên nhiên phải trả một giá nhất định cho tăng trưởng công nghệ và kinh tế. Chiến lược và chính sách quan niệm trái đất không chỉ là một thực thể, mà là một hệ thống, trong đó các phần tử tác động qua lại phải được nghiên cứu như một hệ thống có cấu trúc tác động hỗ tương. Tại đây, hệ thực vật có thể thay đổi định chất và định lượng của hệ động vật, cũng như các sinh vật từ vi khuẩn tới vi trùng cũng có thể làm thay đổi sâu xa môi trường. Trong đó hệ thống địa cầu được tạo nên bởi quan hệ giữa trái đất và khí hậu, có tương quan giữa trái đất và vũ trụ chung, nơi mà trái đất chỉ là một phần tử nhỏ trong đại thể vũ trụ.
Các định lý của khoa học cũng có quan hệ với nhân sinh quan, thế giới quan, vũ trụ quan của chính các chuyên gia khoa học, họ bi quan hay lạc quan về môi trường, họ có chính trị hóa hay không chính trị hóa các giá trị về môi trường trong bối cảnh đấu tranh vì môi trường hay không ? Thí dụ không thiếu, tại đây có hai loại trí thức khoa học : trí thức khoa học "hữu cơ", trực tiếp là chuyên gia đang là "cố vấn" hay "làm công" cho các công nghệ, doanh nghiệp lấy sản suất làm ưu tiên, và "xem thường" hoặc "bỏ qua" thực tế, nội dung, ý nghĩa, giá trị của môi trường. Trí thức khoa học "phê bình", vừa là chuyên gia khoa học, vừa là chủ thể của các phong trào, các tập thể, các cộng đồng của xã hội dân sự bảo vệ môi trường, họ "coi trọng" và đấu tranh vì môi trường như là ưu tiên hàng đầu của nhân sinh. Xuất hiện trong lý thuyết luận về môi trường hai nhận định mới, và hai nhận định mới này đã trở thành hai định đề mới cho các nghiên cứu, khảo sát, điều tra về môi trường với vận tốc tột độ về thay đổi môi trường trên bình diện của cả trái đất, thì thiên nhiên và con người mới sẽ được sinh ra không phải là thiên nhiên và con người nguyên thủy thủa sơ khai, nên từ đây phải nới ra, phải mở rộng và phải xem xét lại các định nghĩa về thiên nhiên và con người. Với các hậu quả về thay đổi môi trường trên bình diện của cả trái đất, thì chính các khoa học, và nhất là khoa học xã hội phải tự luyện tập cho mình những phản xạ (phản xạ nghiên cứu tức khắc, phản xạ khảo sát nhanh chóng, phản xạ điều tra kịp thời…).
Từ đó nhận diện đúng lúc, kịp thời các thay đổi, từ hậu quả ô nhiễm tới hiệu quả chống ô nhiễm, phản xạ này quan hệ chặt chẽ với các khám phá mới của khoa học về môi trường, từ đó tạo ra phản xạ thông tin và truyền thông để nhanh chóng chuyển tới xã hội, giáo dục, chính trị… Cũng chính tại đây, các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn phải biết tiếp nhận và xử lý không những số liệu, dữ kiện, khám phá tới từ các chuyên ngành khoa học chính xác và thực nghiệm, mà cùng lúc phải sử dụng và vận dụng những số liệu, dữ kiện, khám phá tới từ các chuyên ngành khoa học chính xác và thực nghiệm để định vị và củng cố chính lịch sử của chuyên ngành của mình. Các chuyên gia không nên quên là địa chất học xuất hiện rồi phát triển cùng lúc với khảo cổ học trong thế kỷ thứ XVIII, tại đây không chỉ có vấn đề môi trường và con người, mà có cả lịch sử phát triển công nghiệp nặng mang tới những hậu quả xấu về môi trường của tư bản chủ nghĩa tại phương Tây (Tây Âu và Bắc Mỹ).
Khi các khoa học khác nhau nghiên cứu về môi trường, họ sẽ gặp ít nhất 3 loại lịch sử về môi trường rất khác nhau : Lịch sử hình thành trái đất có đơn vị tính toán hằng triệu năm. Lịch sử con người trên trái đất có đơn vị tính toán ngàn triệu năm lịch sử của công nghệ hóa tác động trên môi trường có đơn vị tính toán ngàn trăm năm. Khi các chuyên gia khoa học khác nhau khảo sát về môi sinh, họ sẽ gặp ít nhất 3 loại địa lý môi sinh khác nhau : địa lý môi sinh không có con người, ở dạng nguyên thủy ; địa lý môi sinh có mặt con người ; sống chung với thiên nhiên ; địa lý môi sinh có con người là yếu tố quyết định sự sống còn của môi sinh.
Khi các công trình khoa học khác nhau đi sâu vào điều tra về môi trường và môi sinh, thì các công trình này gặp ít nhất 3 loại nhận định làm nên định đề nghiên cứu môi trường và môi sinh. Trái đất là một thực thể sống, trong môi trường có môi sinh, trong môi sinh có đa sinh vật cùng chung sống trên không gian chúng là trái đất. Thực thể sống này đa đạng chung sống trong một tổ chức phức tạp, tính đa dạng này làm nên sự phong phú của môi trường, sự phong phú này tạo ra sức mạnh tự sinh sôi nảy nở của các sinh vật sống cùng một không gian kín là trái đất. Trái đất là một hệ thống liên kết, từ môi trường tới môi sinh, từ sinh vật này tới sinh kia, có sự liên kết dựa trên tính hỗ tương, bổ sung cho nhau để sống còn, chính sự liên kết này làm nên liên minh giữa các sinh vật biết chung để chia, và biết chia để chung làm nên một hệ thống liên kết sống dựa vào nhau. Trái đất là một tổng thế, vừa là thực thể sống, vừa là hệ thống liên kết trong đó con người là một phần tử trong một tổng hợp phức tạp, đa dạng, phong phú. Nhưng phần tử con người này đã đi những chặng đường từ cá thể tùy thuộc vào thiên nhiên tới chủ thể chế ngự, quản lý, khai thác, tiêu xài các môi trường và môi sinh trong thiên nhiên. Chính chủ thể này, vừa sử dụng vừa khám phá môi trường ; vừa tận dụng vừa có ý thức qua quá trình tiêu xài rồi tiêu hủy thiên nhiên, để từ đó có nhận thức là số phận của con người hoàn toàn tùy thuộc vào số kiếp của thiên nhiên, trong đó môi trường và môi sinh phải được bảo vệ bởi chính con người đang sống trên đó.
Trên chủ đề môi trường và môi sinh trước thảm trạng ô nhiễm là sự thất bại toàn bộ của Đảng cộng sản Việt Nam khi nó chiếm độc quyền lãnh đạo đất nước qua bạo quyền lãnh đạo, qua tà quyền tham quan, qua ma quyền tham nhũng vì tham tiền. Chính Đảng cộng sản Việt Nam đã gây ra bao hậu quả, rồi bao hệ lụy khi để tình trạng hiện nay đất nước là môt môi trường mà môi sinh bị hủy diệt từ vi mô tới vĩ mô, một đất nước bị bẫy bởi công nghiệp bẩn từ luyện kim tới khai thác tài nguyên, từ thủy điện tới nhiệt điện… Mà thảm nạn là đã ung thư hóa không những môi trường và môi sinh mà cả con người, trong đó các thế hệ mai hậu phải trả những giá vô cùng đắt về bi nạn của quy luật lấy quyền-tiền để truy hủy môi trường, truy diệt môi sinh. Sự vắng mặt tuyệt đối và toàn diện về một quốc sách sáng suốt về môi trường, tỉnh táo về môi sinh, để từ đó chế tác ra sức thông minh trong lãnh đạo, biết cứu không những thiên nhiên và tài nguyên, mà cả con người cùng đạo lý làm người là quý môi trường, trọng môi sinh, đã có trong giáo lý của tổ tiên Việt. Đối với môi trường thì phải biết uống nước nhớ nguồn, đối với môi sinh thì không được ăn tươi nuốt sống, và đối với cả hai (môi trường và môi sinh) thì phải biết bảo vệ nguồn cội như bảo vệ chính sinh mạng của mình : cây có cội, nước có nguồn. Đối với môi trường thì phải biết ăn cây nào rào cây nấy, đối với môi sinh thì không được ăn tàn diệt tận, và đối với cả hai (môi trường và môi sinh) thì phải ăn ở có hậu, nếu muốn ăn đời ở kiếp trên quê hương, trên đất nước của mình.
Sự vắng mặt tuyệt đối và toàn diện về một quốc sách sáng suốt về môi trường, tỉnh táo về môi sinh để từ đó chế tác ra sức thông minh trong lãnh đạo (mà ta có thể so sánh với sự thành công hiện nay của Costa Rica) đã nói lên sự thảm bại bi đát của Đảng cộng sản Việt Nam không có kiến thức và tri thức sâu rộng nên không có ý thức và nhận thức sâu xa về môi trường và môi sinh. Không có đạo lý và đạo đức hay đẹp nên không có giáo lý và giáo dục tốt lành về môi trường và môi sinh. Không có kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức lại không có đạo lý, đạo đức, giáo lý, giáo dục, nên không có hệ thông (thông minh, thông thái, thông thạo) để có hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) cho các quốc sách về môi trường và môi sinh. Khi lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam đã biến đất nước Việt từ quê hương gấm vóc thành một bãi rác mênh mông với môi trường bẩn, với môi sinh độc, nơi mà Tàu họa từ thủy điện tới nhiệt điện đã ô nhiễm nguồn nước lẫn không khí ; Tàu nạn với công nghiệp luyện thép mà Formosa đã nhiễm ô cả một vùng rộng lớn của miền Trung, song song với Tàu tặc thì chiếm đất, biển, đảo ; song đôi cùng Tàu tà với thực phẩm bẩn, với hóa chất độc đang giết dần mòn từ đất nước Việt tới con người Việt. Nơi mà quê hương Việt đã là nơi sống được, giờ thành nơi khó sống được, để nay mai sẽ thành nơi không sống được. Hãy cẩn trọng : đừng để hai hàm số của hiện tại (nơi khó sống được, nơi không sống được) thành hằng số của tương lai !
Các lý luận về thực trạng của môi trường nên khởi nguồn bằng quan hệ giữa liêm chính và bất chính. Hãy bắt đầu bằng nhân sinh hóa môi trường (anthropologisation) nơi mà sinh hoạt của con người qua thời gian là sự chiếm hữu và sử dụng môi trường như một không gian sống để con người sinh sống. Trong đó có hai lịch sử : lịch sử của trái đất và lịch sử của con người, với thời gian con người đã chế ngự, đã quản lý, đã khai thác, đã tận dụng môi trường cho chính sự sinh tồn của mình. Nên lịch sử đôi của trái đất và của con người giờ đây đã trở thành lịch sử đơn của con người quản lý, quản trị, quản chế trái đất. Nhân quản hóa môi trường (anthropocène), nơi mà sức mạnh của con người trong quá trình chinh phục thiên nhiên cùng lúc tiêu xài môi trường làm nên thế lực ngày càng mạnh của con người trong thiên nhiên. Từ đây, con người đã trở thành một yếu tố quyết định cho sự tồn tại của môi trường, cho sự sinh tồn của môi sinh, yếu tố quyết định này quyết định cả hai số phận của con người và của môi trường.
Khi nhận ra hai nhân tố trong lịch sử của môi trường : nhân sinh hóa môi trường và nhân quản hóa môi trường, thì các lý luận về môi trường, các lập luận về môi sinh phải nhận định ra ba thực tế khác qua sinh hoạt con người trên môi trường. Sinh hoạt canh nông, có phá rừng để trồng trọt, lấy trồng trọt để nuôi con người, cùng lúc lấn áp thiên nhiên, làm thay đổi môi trường một cách triệt để, tại đây phát triển canh tác song hành cùng lúc với phát triển chăn nuôi. Nơi mà môi trường được khai thác hay bị hủy diệt, được biến đổi hay bị biến chất theo nhu cầu canh tác của con người ; nơi mà con người luôn đóng vai trò tiên quyết trên số phận của thiên nhiên. Sinh hoạt hiệu xuất, có sự tham gia trực tiếp của kỹ thuật, biết áp dụng tối đa các khám phá khoa học để tăng năng suất trồng trọt, để tăng hiệu quả canh tác, để tăng hiệu năng ngay trên quy trình sản xuất thực phẩm, lấy số lượng làm chỉ tiêu, làm hao mòn môi trường, làm quỵ gục môi sinh. Các thuốc chống rầy, trừ sâu là các độc dược mang các độc tố hủy hại rồi hủy diệt nhiều thực vật, động vật, làm xơ xác, làm nghèo nàn hệ đa sinh vật trong thiên nhiên. Sinh hoạt biến thực, làm biến chất nội chất một thực thể sinh vật, để tạo ra các thực thể mới có công dụng, có tiềm năng, có hiệu quả cho chính quy luật cung cầu về thực phẩm của con người. Cụ thể là cho lai giống, trong canh nông, để thu ngắn quá trình canh tác với các giống mới với năng xuất cao hơn các giống cũ, nơi mà thay đổi từ chất lẫn lượng có tác động trực tiếp, sâu rộng, lâu dài trên môi trường và môi sinh.
Khoa học luận môi trường
Nên khi phân tích và giải thích các thực tế khác nhau của sinh hoạt con người trên môi trường, thì khoa học luận môi trường phải thấy rõ ba nguồn gốc như là ba nguyên nhân làm biến đổi môi trường nguyên thủy, làm biến chất môi sinh ban đầu trong thiên nhiên. Biến đổi môi trường do con người tạo ra, trong đó khoa học kỹ thuật được học bị công cụ hóa bởi các nhu cầu vừa là thực phẩm, vừa là công nghiệp, tới từ quyền lợi của một quốc gia, một tập thể, một cộng đồng, trong đó quá trình (hỗn loạn) từ quyền lợi của một quần chúng, một xã hội tới tư lợi của một tập đoàn, một cá nhân có tác động tàn phá môi trường, hủy diệt môi sinh mà chính con người cũng không sao lường hết được. Biến đổi môi trường do sinh vật tạo ra, các sinh vật này không phải con người, không những từ thực vật tới động vật, mà cả sự xuất hiện các vi trùng mới, các vi khuẩn mới có những tác động lên môi trường và tác hại lên môi sinh.
Từ hậu quả tới từ các dịch bịnh tới sự biến đổi khí hậu (có sự tham gia của của con người hay không) đều mang tới các hệ lụy trên môi trường, ngay trên các không gian không có sinh hoạt trực tiếp của con người. Biến đổi môi trường do biến chất sinh vật tạo ra, nơi mà con người cho lai giống tạo ra các thực vật mới, động vật mới, nhưng không chủ động trên các quá trình sinh sôi nẩy nở của chúng. Từ đây, xảy ra xung đột, cạnh tranh rồi hủy diệt lẫn nhau giữa các sinh vật cũ có trước và các sinh vật mới có sau, làm thay đổi triệt để từ gốc, rễ, cội, nguồn của không gian sinh hóa trong thiên nhiên.
Khi tổng kết hai nhân tố trong lịch sử của môi trường (nhân sinh hóa môi trường và nhân quản hóa môi trường), để nhận ra ba sinh hoạt nhân sinh (sinh hoạt canh nông, sinh hoạt hiệu suất, sinh hoạt biến thực), để thấy và thấu ba hậu quả (biến đổi môi trường do con người tạo ra, biến đổi môi trường do sinh vật tạo ra, biến đổi môi trường do biến chất từ sinh vật tạo ra), thì ta đã có sự phân biệt rành mạch giữa một xã hội, một dân tộc có lãnh đạo chính trị liêm chính cùng các chính sách liêm sỉ với môi trường ; ngược lại với một dân tộc có lãnh đạo chính trị bất chính cùng các chính sách vô liêm sỉ với môi trường.
Và trước thảm họa môi trường hiện nay trên đất nước Việt, với Đảng cộng sản Việt Nam được điều hành bởi bạo quyền độc đảng, song hành cùng tà quyền tham quan và ma quyền tham tiền, thì Việt tộc đang gánh chịu một lực lượng lãnh đạo chính trị bất chính cùng các chính sách vô liêm sỉ với môi trường. Khi chúng ta nhận ra có hai yếu tố làm thay đổi thiên nhiên, biến đổi môi trường : các sinh vật không phải con người, cần thiên nhiên để sinh sống, cần môi trường để sinh tồn, trong có động vật và thực vật. Các sinh vật chính là con người, cần thiên nhiên để sinh sống nhưng cùng lúc chế ngự thiên nhiên để làm chủ thiên nhiên, cần môi trường để sinh tồn, vừa tiêu thụ, vừa sử dụng động vật và thực vật.
Tại đây, khi nguyên cứu về thiên nhiên, về môi trường, thì chính nhân học (anthropologie) sẽ giúp chúng ta nhận ra trong sự phân biệt con người và không con người khi cả hai sử dụng thiên nhiên để sinh sống, môi trường để sinh tồn. Tri thức thực dụng, nơi mà con người khác các sinh vật khác là động vật và thực vật, vì con người dùng kiến thức để sử dụng rồi tận dụng thiên nhiên không những qua canh tác nông nghiệp rồi phát triển công nghiệp, vì biết vận dụng tri thức để xếp hạng, tuyển chọn các sinh vật hữu dụng cho con người.
Chính thực dụng chủ nghĩa của nhân sinh dựa trên kiến thức và tri thức với vai trò chủ đạo của khoa học và kỹ thuật đã đặt con người vào vị thế của một chủ thể tuyết đối có thực chất và tiềm năng kiểm soát để tận hưởng thiên nhiên và môi trường. Tận hưởng theo nghĩa đẹp của nhân trí biết thăng hoa thiên nhiên, cũng theo nghĩa xấu của nhân sinh khai thác và tàn hủy vô tội vạ thiên nhiên và môi trường. Luân lý nhân tri, nơi mà con người khác các sinh vật khác là động vật và thực vật, vì con người có đạo lý để có ý thức về những gì hay, đẹp, tốt, lành, từ đó có luân lý qua bổn phận đối với môi trường sống của mình, và có trách nhiệm với ác sinh vật có mặt trong môi sinh cùng chung sống với mình. Chính cả hai nhận thức của đạo lý và luân lý làm nên đạo đức biết bảo vệ môi trường như chính bảo vệ mạng sống của mình, bảo trì môi sinh như chính bảo hành tương lai của mình.
Khi ta kết hợp hai phân tích : tận hưởng theo nghĩa xấu của nhân sinh khai thác và tàn hủy vô tội và thiên nhiên và môi trường, mâu thuẫn sâu xa với nhận thức của đạo lý và luân lý làm nên đạo đức biết bảo vệ môi trường như chính bảo vệ mạng sống của mình, bảo trì môi sinh như chính bảo hành tương lai của mình. Tại đây, ta sẽ nhận ra một định đề cốt lõi của môi trường trong đó môi sinh là không gian của đa dạng sinh vật, vô cùng phong phú, nhưng chính sự của đa dạng sinh vật phong phú này không hề vô tận về lượng, vô biên về chất, mà nó hữu hạn, ngày càng giới hạn.
Và thực tế hữu hạn này, thực trạng giới hạn này của môi trường ngày ngày tùy thuộc cách sử dụng, tận dụng, vận dụng môi trường của con người biết hay không biết tôn trọng thiên nhiên, tôn kính môi trường. Cũng từ đây, chúng ta cần phải thận trọng hơn khi chúng ta tạo ra ranh giới (thiển cận hoặc giả tạo) giữa con người và thiên nhiên, trong đó các ngành khoa học xã hội và nhân văn có những nhược điểm về kiến thức mà nếu không biết khắc phục sẽ thành khuyết tật về tri thức :
Khi khoa học xã hội nhân văn phân biệt con người có văn hóa và thiên nhiên không có văn hóa, mà chính ngữ pháp văn hóa, cho ta hiểu là chỉ có con người mới có văn minh và văn hiến. Khi khoa học xã hội nhân văn phân biệt con người có văn hóa cùng văn minh và văn hiến và thiên nhiên ở dạng vô tri, vô minh, vô giác, tức là không có kiến thức lẫn tri thức, không có ngôn ngữ để truyền thông và tư tưởng để lý luận, lập lập. Nhưng trong thực tế, thì con người chưa hề sống biệt lập với thiên nhiên, tách biệt với môi trường.
Khi Nhân học môi sinh song hành cùng nhân học chính trị thì nhân học môi sinh không rời nhân học chính trị, tại đây các kết luận đôi giữa hai chuyên ngành này, giúp ta nhận ra. Các thể chế trọng dân chủ, quý nhân quyền là những thể chế biết bảo vệ môi trường. Các định chế trọng văn hóa, yêu văn minh là những định chế biết bảo quản môi sinh. Các chế độ đa nguyên, sử dụng đa tài, vận dùng đa trí, tận dụng đa năng, là những chế độ biết bảo trì thiên nhiên. Ngược lại, cũng chính nhân học môi sinh khi chung sức với nhân học chính trị đã phân tích và giải thích được : một bạo quyền độc tài nhưng bất tài trong bảo vệ môi trường, trước sau rồi cũng gây ra những thảm họa môi trường. Một hệ thống tham quan, nơi mà tham quyền song lứa với tham tiền, không chóng thì chầy, cũng truy diệt, truy hủy môi sinh, vì lòng tham của nó. Một cơ cấu tà quyền, nơi tham tiền song cặp cùng tham đất, tham rừng, tham tài nguyên, thì hậu quả và hệ lụy thiêu hủy thiên nhiên sẽ tới.
Nhân học môi sinh cũng phải biết tiến tới những hệ luận để chuẩn đoán các hệ lụy sẽ đe dọa rồi truy diệt môi trường lẫn con người, hãy liệt kê ra khoảng 8 hệ luận được xem như là nhân và quả để thấu hậu quả mà môi sinh và nhân sinh phải tiên đoán được : biến đổi khí hậu, khi khí hậu nóng lên, thì hệ thống môi sinh bị thay đổi triệt để. Tầng khí quyển kín, không tiêu và không thải được các ô nhiễm do chính con người tạo ra. Hệ đa sinh thái, bị biến dạng rồi biến chất, với giảm sút, với mất mát các sinh vật đã có mặt từ lâu trên trái đất.
Nguồn nước ngọt bị ô nhiễm, bị hủy diệt, kéo theo sự hủy diệt của mọi sinh vật là sống bằng nước, sống nhờ nước, sống với nước. Mặn hóa đại dương, nơi mà nồng độ muối xâm lấn rồi xâm chiếm cả đất liền, ngay trên các khu vực mà con người đang canh tác. Đốt rừng, cùng lúc truy hủy nhiều sinh vật sống nhờ rừng, không những trên quy mô gia đình lấy đất rừng làm rẫy, mà đáng ngại nhất là đốt rừng lấy đất canh tác với quy mô rộng lớn của các tập đoàn. Hóa chất chống rầy được sử dụng bừa bãi, tràn lan trong môi trường, tạo ra các nguyên nhân không những của ung thư, mà còn tiêu diệt trực tiếp các sinh vật, các côn trùng có vai trò tích cực trong hệ đa sinh thái. Sự kết hợp các hóa chất đã được con người sử dụng và sau khi sử dụng thì không còn nằm trong vòng kiểm soát của con người, sự kết hợp các hóa chất với các độc tính mới mà con người không biết, chưa biết.
Khi tất cả các hậu quả trên kết tụ lại : biến đổi khí hậu với khí hậu nóng lên, tầng khí quyển kín không tiêu thải được ô nhiễm, hệ đa sinh thái, bị biến dạng rồi biến chất, nguồn nước ngọt bị ô nhiễm, quá trình mặn hóa đại dương, đốt rừng cùng lúc diệt sinh vật, hóa chất chống rầy tràn lan trong môi trường, sự kết hợp các hóa chất ngoài vòng kiểm soát của con người, thì tại đây con người không hề kiểm nghiệm và kiểm định được chuyện gì sẽ xẩy ra cho nó và cho môi sinh của nó.
Khi ta nghiên cứu các quyết định của các hội nghị thượng đỉnh cấp toàn cầu, chúng ta thấy xuất hiện những thực tế sau đây : môi trường chung của nhân loại vẫn không là ưu tiên hằng đầu và luôn bị đẩy lùi vào hạng thấp so với các con tính tư lợi của các quốc gia về tăng trưởng sản xuất cũng như về phát triển kinh tế. Môi trường chung của nhân loại vẫn được các chính quyền tính toán và quyết định trong đoản kỳ, với những con tính ngắn hạn trước mắt, mọi đề nghị về bảo vệ môi trường lâu dài, trường kỳ với các phương án nhìn xa trông rộng, đều bị thoái lui bởi các tính toán vụ lợi trước mắt.
Ngay trên con tính tăng trưởng sản xuất để phát triển kinh tế, ta đã thấy giới hạn của con tính này, với thực tế là tài nguyên, quặng mỏ ngày càng cạn với vận tốc cao, thì thiếu hụt rồi cạn kiệt năng lượng sẽ tới, và con tính tăng trưởng sản xuất để phát triển kinh tế cũng phải chậm và ngưng lại. Về con tính ngắn hạn mỗi quốc gia có vụ lợi riêng của mình và không có chính sách bảo vệ môi trường toàn cầu lâu dài với quyết tâm của tất cả quốc gia, thì tại đây chính mỗi con người và nhất là giới lãnh đạo chính trị có quyền lực về cơ chế và định chế phải thay đổi ngay trên thượng nguồn của tư duy ba gốc rễ trong não trạng của chính con người.
Nhân sinh quan, con người sống cùng, sống chung với môi trường cũng có quyền sống như con người. Thế giới quan, con người bảo vệ môi trường, bảo quản môi sinh, bảo trì các sinh vật không phải con người ở bình diện toàn trái đất. Vũ trụ quan, con người nhận và chịu trách nhiệm với tầng khí quyển, với mọi nguồn nước và không khí, không những cho nó, mà còn lâu dài cho các thế hệ mai sau, trong đó có các sinh vật không phải con người.
Nhân học khi nghiên cứu về môi trường trao tới nhân lý một nhân tri để cảnh giác nhân loại : sự cẩn trọng trước lòng tham hiện tại của con người khi nó muốn khai thác triệt để thiên nhiên, nạo vét tài nguyên, truy hủy môi trường, xóa diệt môi sinh. Hãy định nghĩa để định luận về lòng tham hiện tại, từ ăn tươi nuốt sống bằng nghiến rừng, nuốt đất với thái độ ăn cháo đá bát khi tài nguyên của thiên nhiên bị cạn kiệt, với hành vi bây chết mặc bây với những hậu quả của ô nhiễm. Nhân học khi khảo sát về môi trường trao tới nhân tri một nhân trí để cảnh báo nhân thế : tương lai của nhân loại không hề là sự nối dài tự nhiên một cách máy móc từ hiện tại tới tương lai, từ hôm nay tới ngày mai. Tương lai của nhân sinh là chân trời trong đó có kết quả của lương tri hoặc hậu quả của vô tri, với những hiệu quả của nhân bản hoặc với hệ lụy của vô minh. Vì vô giác với môi trường, vô cảm với môi sinh, khai thác bừa bãi, vô tội vạ, vơ vét tài nguyên cho tới khi của môi trường gục ngã, môi sinh đuối quỵ, thì chân trời sẽ xám tối rồi đen nghịt để đưa con người vào thẳng cõi chết ! Chết trong vô tri, vô minh, vô giác, vô cảm là một cái chết xấu, tồi, tục, dở, tới từ cái tội thâm, độc, ác, hiểm với môi trường và môi sinh.
Nhân học khi điều tra về biến đổi môi trường song hành cùng thay đổi khí hậu gửi tới nhân văn một nhân lý để cảnh cáo nhân gian là : sự sống làm nên sức sống nhờ môi trường sạch với môi sinh lành kết tụ ra nhân tính với ít nhất ba kết luận : Trái đất trong tương lai (rất gần) là dễ sống hay khó sống. Cụ thể là sống được hay không sống được, mà câu trả lời là thái độ của nhân loại đối xử ra sao với môi trường sống của mình. Nếu trong thế kỷ qua nhân lý giúp nhân loại đã lột mặt nạ bạo hành của thực dân, bạo động của đế quốc trên môi trường, thì chính quyền và lãnh đạo chính trị hiện nay phải quyết đoán trong quyết sách bảo vệ đất-nước. Tiền đồ của tổ tiên, tương lai của các thế hệ mai sau không ngừng ở con người, mà phải mở rộng, mở sâu, mở cao ra quan niệm về Việt tộc không những là dân tộc Việt mà còn là môi trường Việt luôn song hành, song đôi, song lứa, đồng hội đồng thuyền, cùng đồng bào Việt.
Nhân học sẽ có cùng một định hướng với môi trường học khi cả hai đề nghị phân tích và giải thích môi trường và môi sinh bằng những hệ thống của quan hệ : quan hệ giữa con người và thiên nhiên, quan hệ giữa các sinh vật có mặt trên trái đất, quan hệ giữa con người và sinh vật cùng nhau tác động trên môi trường. Đây vừa là môi trường tri thức của nhân sinh, mà còn phải là môi trường về nhận thức qua giáo dục.
Trước thảm cảnh môi trường bị tàn phá, môi sinh bị hủy diệt từ vô tri thức tới vô trách nhiệm của chính quyền do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, thì ngược lại tại các quốc gia có văn minh của dân chủ, có văn hiến của nhân quyền, họ đã đưa vào giáo dục, giáo khoa, giáo trình những hệ thống của quan hệ giữa con người và sinh thái. Bi kịch của độc đảng, qua độc tài nhưng bất tài, độc trị mà không biết quản trị môi trường là đây. Sau gần nửa thế kỷ lấy độc quyền để tự độc tôn đã biến quê hương gấm vóc thành một bãi rác độc hại, ngày ngày ung thư hóa môi trường của Việt tộc.
Nhân học khi chung lưng đấu cật với môi trường học thì các phân tích và giải thích của khoa học thực nghiệm, từ sinh học tới hóa học, đã và sẽ giúp con người định vị lại để định nghĩa lại thế nào là con người ? Tại đây, con người không phải là một thực thể độc lập với các thành tố hoàn toàn tự chủ và tự lập để tự cấu tạo ra nó. Mà trong con người có sự hiện hữu của các sinh vật khác, từ vi khuẩn tới vi trùng, cùng nhiều tạo chất khác mà các sinh vật khác, từ động vật tới thực vật, cũng có.
Nên con người không hề đứng biệt lập, không hề đứng ngoài hoặc đứng cạnh, đứng cao hơn hệ sinh thái mà con người đang sống, mà con người chỉ là một phần tử, một bộ phận của hệ sinh thái. Nhân học khi đồng hội đồng thuyền với môi trường học, thì mọi chủ thể yêu môi trường, mọi công dân trọng môi sinh sẽ có cùng một nhận thức là con người chỉ là một mắt xích trong một chuỗi dây chuyền với nhiều quan hệ, vừa phức tạp và vừa chằng chịt trong hệ sinh thái. Mỗi chuyển động của một mắt xích sẽ có hậu quả dây chuyền, có hệ lụy trong hiện tại và tương lai.
Giáo lý tổ tiên Việt dạy con cháu bứt dây động rừng với các quy luật nhân quả, từ vi mô tới vĩ mô, song hành cùng các giáo lý ăn ở có hậu, với uống nước nhớ nguồn mà uống nước của môi trường thì phải nhớ bảo vệ môi trường. Rồi ăn quả nhớ kẻ trồng cây và ăn quả của môi sinh thì phải bảo trì, bảo quản cho bằng được môi sinh. Biết luôn ăn cây nào rào cây nấy, mà động từ rào của sự thông minh là hành động có ý thức biết bảo vệ sự sống, chớ không hề là thái độ ích kỷ hoặc vụ lợi của riêng ai, khai thác môi trường và tận dụng môi sinh cho riêng mình.
Nhân học khi biết đồng kham cộng khổ cùng môi trường học để thấu hiểu các hậu quả độc hại trên môi trường do ô nhiễm tới từ các sinh hoạt của con người chỉ biết khai thác môi trường mà không biết bảo vệ môi sinh. Tại đây, nhân học và môi trường học cũng nên từ bỏ quan niệm riêng-chung, trong đó cái riêng là sở hữu của một người, cái chung là sở hữu của mọi người ; cái riêng là tư lợi, cái chung là công ích. Từ bỏ quan niệm riêng-chung để đi tới quan niệm chia-chung, trong đó cái riêng trong tư hữu riêng cá nhân có gốc, rễ, cội, nguồn từ cái chung của một môi trường tổng thể.
Và khi con người muốn cái riêng của tư lợi không triệt hạ cái chung của môi trường thì con người phải có các định chế và các cơ chế, nơi mà các tập thể, các cộng đồng, các quốc gia phải xem xét và phán quyết bằng khoa học và luật pháp các phương án sử dụng môi trường, các phương pháp vận dụng môi sinh, từ riêng tới chung. Sử dụng môi trường mà không triệt dụng, vận dụng môi sinh mà không hủy dụng, vì triệt dụng và hủy dụng đều là tội ác triệt hủy môi trường. Nhân học cùng môi trường học phải biết tổ chức lại kiến thức để tư duy cách khác, mà cách khác này tới từ quá trình của nhận thức là : con người sống sót trong môi trường gục, trong môi sinh chết thì con người đã nhận số phận của âm binh !
Tính triệt để của luận
Derrida đề nghị một định nghĩa về thứ lỗi và tha tội là : khả năng biết thứ lỗi những chuyện không thể nào thứ lỗi được, và : khả năng biết tha tội những chuyện không thể nào tha tội được. Như vậy khả năng thứ lỗi và tha tội là một khả năng vượt thoát để vượt thắng ngay trên sự thật về lỗi và về tội, một chuyện "quá sức" ngay trong thượng nguồn của lý luận, cụ thể bằng cụm tự không thể nào thứ lỗi được, không thể nào tha tội được. Vì nếu thứ lỗi và tha tội để có phúc, có đức vì muốn có hậu không phải là thứ lỗi và tha tội thật sự.
Vì nếu thứ lỗi và tha tội để có lợi, có quyền vì muốn sống yên trong sống chung với thủ phạm thì cũng không phải là thứ lỗi và tha tội thật sự. Thứ lỗi cho kẻ cướp của hoặc tha tội cho kẻ giết người, và sẵn sàng "bỏ qua" mọi chuyện, kể cả việc ngăn chặn thưa kiện dù mình là nạn nhân là một đạo lý chưa được đặt đúng tên, dù rằng các tôn giáo đều khuyên chung ta là gạt qua mọi hận thù, gạt bỏ mọi trả thù. Khả năng biết thứ lỗi và tha tội thật sự không những là vô điều kiện, mà còn là sự mất trắng trong mất trọn một cách tuyệt đối nhất.
Bi kịch của Đảng cộng sản Việt Nam và thảm kịch của Việt tộc là thứ lỗi và tha tội trong sự thật không thể nào thứ lỗi được, không thể nào tha tội được là chuyện đã không làm được từ gần một thế kỷ qua, tự ngày thống nhất đất nước khi chấm dứt cuộc nội chiến 1975, là tập đoàn lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không có tầm vì không có tâm làm được không thể nào thứ lỗi được, không thể nào tha tội được để làm được chuyện hòa hợp hòa giải dân tộc.
Và chính cái độc đảng sinh ra cái độc tài, cái độc trị đẻ ra cái độc quyền chính là hành tác bơi ngược dòng để chống lại khả năng không thể nào thứ lỗi được, không thể nào tha tội được, mà ngược lại tập đoàn lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam vẫn ngày ngày nuôi dưỡng hận thù bằng luận điệu : "các thế lực thù địch"… thì đạo lý thứ lỗi được, thì đạo đức tha tội được không hề có trong tự duy của bọn này.
Thực tại ngoài tầm tay
Lacan, khi thao tác từ triết học tới phân tâm học đề nghị ba hướng giải luận cho một cá nhân, một cộng đồng, một tập thể qua sự phân chia : một là của bản thể nơi mà mỗi cá thể tồn tại qua các kỳ vọng mà mình muốn có trong cuộc sống, hai là của biểu tượng nơi mà các giá trị là thước đo mà cũng là cách đánh giá đạo lý trong cuộc sống, ba là thực thể của hiện tại làm nên thực cảnh. Chuyện lạ là chính thực cảnh làm nên thực tại tưởng là cụ thể nhất, thật ra là khu vực khó phân tích nhất, khó giải thích nhất, vì chính thực tại là muôn hình vạn trạng nên không thể nào định dạng, định hình, định vị nó được. Bi kịch của Đảng cộng sản Việt Nam và thảm kịch của Việt tộc hiện nay là bộ máy tuyên truyền qua sự dối trá của tuyên huấn, nơi mà cái giả xóa chỗ cái thật, cái gian chiếm chỗ cái ngay, thì nhận diện được thực cảnh của đất nước, nhân dạng của dân tộc, nhân cách của giống nòi là một thử thách hàng ngày và là một trong những thử thách lớn nhất của Việt tộc trên đường di tìm nhân quyền rồi nhân phẩm.
Sự khác biệt ngoài vòng kiểm soát
Foucault nhận ra có hai khu vực luôn tác động lên kiến thức, từ đó điều kiện hóa chúng ta, cùng lúc tạo nên sự trăn trở không nguôi trong cuộc sống : thứ nhất là lý tưởng nơi mà chúng ta lấy kỳ vọng nuôi hy vọng rồi biến chân trời hy vọng thành lý tưởng. Thứ hai là sự khác biệt, xa và lạ tự nhiên xuất hiện ngay trong cuộc sống của chúng ta, nơi mà chúng ta không hề có một kiến thức gì về sự kỳ quặc của nó, không hề có một tri thức gì về sự khác biệt của nó.
Lý tưởng thì chúng ta còn lập đồ án rồi phương trình để thực hiện, còn sự khác biệt thì không sao chúng ta "nắm dao đằng chui" được. Như vậy sự khác biệt đáng ngại hơn vì ta không quản lý được so với ý tưởng làm nên lý tưởng. Thảm kịch của Việt tộc hiện nay là bạo quyền công an trị của Đảng cộng sản Việt Nam truy diệt những ai chống nó, mà nó còn truy hủy luôn những ai làm khác nó, dù nó biết là nó vô minh trong vô tri, vô học trong vô hậu, bạo quyền công an trị của Đảng cộng sản Việt Nam không những truy cùng diệt tân phương trình nhân quyền-dân chủ-đa nguyên ; mà nó cũng truy tận gốc diệt tận rễ phương trình tự do-công bằng-bác ái.
Tha nhân không có chỗ đứng
Deleuze đề nghị một định nghĩa về sự có mặt của những cá nhân cũng như những đảng phái chính trị đã tạo ra những chế độ không nhân quyền lại mất nhân tính, chúng vừa độc, lại vừa ác, và vừa thâm lại vừa hiểm khi chúng truy sát để truy diệt tha nhân dù biết những nạn nhân của chúng cùng là đồng loại của chúng. Phân tích phải vào ngay trong ngữ pháp đồng loại để nhận ra là có hai hiện thể là ta và tha nhân ; khi cái ta
bị điều khiển bởi những hành động thâm, độc, ác, hiểm để truy diệt tha nhân không đồng ý hoặc chống lại những cá nhân cũng như những đảng phái chính trị đã tạo ra những chế độ không nhân quyền lại mất nhân tính thì cái ta của độc đảng làm nên độc tài, độc trị tạo ra độc quyền, độc tôn trong độc thoại thì sẻ sẳn sàng đóng vai sát nhân để thành sát thủ diệt mà diệt tha nhân.
Thì học thuật phải đặt tên cho loại người sống để hãm hại và tiêu diệt người khác là những cá nhân cũng như những đảng phái chính trị đã tạo ra những chế độ không nhân quyền lại mất nhân tính nơi mà ngay trong tư duy của chúng : tha nhân không có chỗ đứng ! vì chúng không sao hiểu được nổi khổ niềm đau của tha nhân. Trong não bộ của chúng thì tha nhân không được mang cùng một giá trị sống so với giá trị sống của chúng.
Đây là sự độc hại của độc đảng toàn trị luôn xây dựng một xã hội không có sự tôn trọng lẫn nhau, vì đối với chúng tha nhân không có mặt trước mặt chúng. Tri thức về tha nhân là rể của lương thiện, là gốc của lương tâm, là cội của lương tri, những cá nhân cũng như những đảng phái chính trị đã tạo ra những chế độ không nhân quyền lại mất nhân tính, chúng vừa độc, lại vừa ác, và vừa thâm lại vừa hiểm khi chúng truy sát để truy diệt tha nhân, vì chúng không có rể lương thiện, gốc lương tâm, cội lương tri.
Thảm kịch của Việt tộc hiện nay là đây, khi hệ độc (độc đảng, độc tài, độc trị, độc quyền, độc tôn) hành tác bằng lực độc hại của thanh toán đồng chí, thanh trừng đồng bọn, nên chuyện cướp của giết người, dù người là đồng bào, đồng loại, nhưng đối với chúng chỉ là tha nhân chỉ là loại sớm nở tối tàn, nên sống nay chết mai trong độc tính bất nhân thất đức của chúng.
Lê Hữu Khóa
(11/09/2020)
[1] Xem cùng một tác giả :NHÂN LUẬN (l’argumentation humaine), CHÍNH LUẬN (l’argumentation politique), KIẾP LUẬN (l’argumentation karmique),TÂM LUẬN (l’argumentation affective)
[2] Xem cùng một tác giả : TRỰC LUẬN (l’argumentation directe), XÃ LUẬN (l’argumentation sociétale), OAN LUẬN (l’argumentation contre l’injustice), BỤI LUẬN (l’argumentation à propos de la « poussière de la vie »), VIỆT LUẬN (L’argumentation vietnamienne).
[3] Xem cùng một tác giả ;
TRỰC LUẬN (l’argumentation directe)
XÃ LUẬN (l’argumentation sociétale)
OAN LUẬN (l’argumentation contre l’injustice)
BỤI LUẬN (l’argumentation à propos de la « poussière de la vie »)
TỘI LUẬN (l’argumentation contre le crime d’Etat)
[4] Các phương pháp tiếp cận căn bản của khoa học xã hội và nhân văn, Anthropol-Asie xuất bản, Facebook Vùng Khả luận (trang thầy khóa)
---------------------
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.
Sáng tác lý
Từ lý tới luận, đây là chặng đường muôn thửa của học thuật, nhưng tại sao phải thấy sáng tác lý để thấu sáng tác luận ? Ngữ pháp sáng tác đặt sáng tác lý luận trong khoa học như sáng tác trong nghệ thuật, chỉ có cái khác lại là cái khó của sáng tác lý là sáng tác này phải đi tự hợp lý tới chỉnh lý, và phải tiếp tục sáng tác luận và đi tiếp tới nhận định toàn lý.
Luận thuyết sự thật dựng chủ thể
Sự thật là chân trời của chân lý, từ nghiên cứu qua điều tra, từ điền dã qua kiểm tra, từ so sánh qua tổng kết, nơi mà mỗi khám phá, mỗi phát minh, mỗi kết quả đều có cái giá của nó, và sự thật chỉnh chu trong chân lý : "có thực mới vực được đạo", không phải là thực phẩm, mà là sự thực (sự thật) thực của hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức). Chính sự thực là gốc, rễ, cội, nguồn của khoa học, luôn chứng thực để chứng minh, và sự thực là nền, cột, trụ, móng cho chân lý được ra đời và được công nhận.
Sự thật vô điều kiện trước ánh sáng của chân lý, sự thật với sự thành thật học để hiểu, hi ta có thiện chí để học, có công cụ của tri thức đúng để tìm ra kiến thức mới và đúng về sự thật, thì sẽ hiểu mọi điều kiện cần thiết để nhìn, để thấy, để nhận và để hiểu ra sự thật. Cụ thể là ta phải biết tách chủ thể đi tìm sự thật và đối tượng đang ẩn chứa sự thật, thì từ đó chủ thể có thể tái tạo từ đầu tới cuối sự hình thành của đối tượng để thấy được sự thật, và sự thật sẽ luôn được mở ra cho ta nhận ra sự thật, và sự thật trao tặng cuộc sống sức mạnh của nó qua sự xuất hiện hiển nhiên của sự thật. Nhưng sự thật của con người là biết vụ lợi để bảo vệ tư lợi của mình, nên sự thật trong xã hội xuất hiện với sự xung đột về quyền lợi, nơi mà mỗi tư lợi bám vào chỗ đứng của nó, cùng lúc muốn lớn ra và đe dọa các tư lợi khác. Chính sự xuất hiện của sự thật sẽ nói rõ sự xung đột đã có và sẽ tiếp diễn ngay trong sinh hoạt xã hội, nó đe dọa và nó thúc đẩy các lực lượng tốt trong xã hội liên kết để cùng nhau liên minh chống lại các lực lượng xấu chỉ biết bám vào tư lợi của mình mà "thí mạng" các lực lượng khác.
Sự thật có hành trình ngay trên lộ trình chân lý, chúng ta phải biết là lẽ phải không nằm trong ý thức hệ luôn lấy ý đồ để vo tròn bóp méo sự thật. Con người còn phải có đầy đủ ý thức để biết là lẽ phải tới cùng với chân lý qua sự thật của sự kiện, khi sự kiện đã trở thành sự cố với tất cả tin tức, dữ kiện, chứng từ để từ đó dựng lên chân lý. Chính sự cố làm lộ ra sự thật và không hề tùy thuộc vào nhận xét chủ quan là chuyện này không thể có, chuyện kia không khả thi, chuyện nọ mang tính không thực tế, để làm thay đổi tình hình ; tất cả đều là một loại ngụy biện trá hình trước sự bất lực. Vì trong khoa học cũng như trong chính trị, trong xã hội cũng như trong kinh tế… sự cố mang đến sự thật không kinh qua chuyện không thể có, không đi ngang qua chuyện không khả thi, không quá bộ qua chuyện không thực tế. Tính ngụy biện tạo ra tính bao biện để kẻ có ý đồ tồi muốn chặn phương trình sự thật-chân lý-lẽ phải, thì luôn luôn sử dụng gian lý để ngoa luận : không thể có vì không khả thi và không thực tế. Lịch sử con người thì dạy cho chúng ta rất rõ là : sự cố xuất hiện để nói rõ là sự thật là sự có ; và biến cố hiện lên để nói lớn là chân lý rất khả thi, và biến động sẽ tới để nói mạnh lên lẽ phải rất thực tế !
Sự thật mở cửa mời lẽ phải, từ đạo lý qua đạo đức, từ luân lý qua giáo dục, từ kinh nghiệm qua trải nghiệm, nhưng kẻ đòi tự do cho lẽ phải phải trả giá cho sự liêm chính của mình, mỗi hành vi liêm sỉ, mỗi hành động liêm minh, mỗi hành tác đều có cái giá của nó, và tự do chân chính luôn chu đáo trong chuyện : được mắt ta ra mắt người, trong đó tư lợi cá nhân không được thủ tiêu công lợi của tập thể. Chính lẽ phải đưa công bằng vào công lý, giao pháp lý cho pháp luật. Chính phương trình công bằng-công lý-pháp lý-pháp luật là phương pháp luận hỗ trợ cho định nghĩa về tự do để tự do này không được đập, phá, thiêu, hủy các tự do khác !
Sự thật biết đứng về phía nước mắt ! Sự thật trong mạng xã hội qua internet, trong đó các tin tức, các truyền thông, các sự cố ngoài vòng kiểm soát của chế độ độc đảng, của thể chế độc quyền, trước bị xem là ngoài lề, nhưng giờ đã trở thành chính thống, vì sự thật ngược lại với bưng bít, với tuyên truyền, với tráo luận, với giả dối. Trên mạng xã hội qua internet, lại còn đi xa hơn tin tức và truyền thông về sự thật của sự cố, mà nó còn là nơi hội tụ các đòi hỏi, các phong trào, các đấu tranh vì tự do, muốn tự do. Chính quyền độc đảng ngăn chặn nó, cấm đoán nó, truy hãm internet vì nó đứng chung không những phía sự thật, mà còn biết đúng về phía lẽ phải để bảo vệ các nạn nhân của bạo quyền : sự thật biết đứng về phía nước mắt !
Sự thật xuất hiện ngay trong hiện tượng, nơi mà cái thật được nhận ra qua trực quan, chính trực quan khi tổ chức lại lý trí, đã bắt đầu trao truyền cho ta một trí tuệ mới để ta tiếp cận ngày càng sát với sự thật. Sự thật là sự liên đới của các chủ quan để cùng công nhận là cái biết đã mở cửa cho cái thật xuất hiện, để sự thật tới như một chân lý có rễ sâu, gốc chắc mà không ai bứng được. Sự thật đã có từ lâu, đã có sẵn, đã có trước câu hỏi sự thật là gì ? Chính cái biết là chìa khóa để mở ra không gian của sự thật để cái thật được nhập nội vào cái biết. Khi chủ thể muốn tìm ra sự thật, thì chủ thể phải là chủ thể mở : mở để sống, mở để nhận, mở để biết, mở để đón sự thật, để được sống thật, sống đúng. Sự thật mang bản thể có trong cái thật, và cái thật không ở trong cái giới thiệu, cái tuyên truyền, nơi mà sự thật của bản thể chính là sự vận hành mà ta thấy-nhận-hiểu qua hiện tượng.
Sự thật có trong lý luận khách quan qua tổng hợp các chứng từ để xây dựng lên tri thức khách quan để đặt sự thật vào kiến thức khách quan để chân lý được khai sáng. Trong sinh hoạt xã hội, văn hóa, giáo dục, chính trị, kinh tế… kiến thức khách quan không như trong khoa học chính xác (toán), không như trong khoa học thực nghiệm (lý, hóa, sinh). Vì kiến thức khách quan trong sinh hoạt xã hội, văn hóa, giáo dục, chính trị, kinh tế… được giải thích qua ngôn ngữ bình thường hàng ngày, mà không qua công thức toán, không qua thí nghiệm làm nên kinh nghiệm cho kiến thức ; mà sự thật trong đời sống con người chỉ được giải thích bằng ngôn ngữ chính xác nhất : nói thật để nói đúng. Khi ta đi tìm sự thật thì đừng quên tính hỗ tương, như là lực bổ sung của hai loại người có hai vị trí rất khác nhau, đối diện nhau để bổ túc cho nhau trên lộ trình nhận ra sự thật.
Sự thật xuất hiện trong sự ngẫu nhiên, nhưng khi sự thật ra đời thì chính sự thật sẽ loại đi sự ngẫu nhiên, để trở thành sự thật của phổ quát, của vĩnh hằng, được chấp nhận mọi nơi, mọi hướng. Sự thật thường tới sau một sự cố, chính sự cố làm sự thật xuất hiện. Sự thật cần kiến thức khách quan để xây dựng lại quá trình làm nó xuất hiện. Sự thật hiện hình như sự tái tạo lại cái thật để chúng ta kiểm chứng được tính trung thực của nó. Sự thật khi thì cần các kiến thức qua thực nghiệm của khoa học, có khi thì nó cần đạo diễn, cần kịch bản để tổ chức lớp lang thứ tự các dữ kiện, các chứng từ làm nên nó, để xã hội, để truyền thông, để tòa án, để pháp luận kiểm tra mọi phần tử, mọi chi tiết đã làm nên sự thật. Sự thật thường xuất hiện như là một sự cố ngoại lệ đã trở thành phổ quát qua quá trình sau đây mà con người sống lần lượt qua bốn kinh nghiệm ngay trong tư duy của con người. Sự thật tới từ sự ngẫu nhiên nhưng là sự có thể, nó đang xẩy ra, nó tới để xóa đi sự chủ quan tạm thời của con người, nó xuất hiện dẹp hẳn sự chủ quan để dựng lên sự khách quan. Sự thật mang thực chất đặc thù, ngược với thói quen, trái với phản xạ. Sự thật khi được công nhận sẽ trở thành phổ biến với kết quả tất nhiên của nó.
Sự thật của sự vận hành vừa ngầm vừa nhanh, nửa hữu hình nửa vô dạng của thân phận Việt hiện nay. Với Tàu tặc đã chiếm đất, đảo, biển của ta ; với Tàu họa đang ô nhiễm môi trường, đang hủy diệt môi sinh của ta ; với Tàu hoạn đang ngày ngày đầu độc dân tộc ta qua thực phẩm bẩn, hóa chất độc, kể cả đang tổ chức dày đặc trên quê hương ta một mạng lưới buôn ma túy để truy diệt các thế hệ trẻ của Việt tộc ; với Tàu nạn đang toàn bộ tự giật dây chính trị qua lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, thao túng qua kinh tế, biển lận qua thương mại, tha hóa qua giáo dục… Tất cả song hành cùng với các làn sóng di dân Tàu ào ạt vào đất Việt để định cư lâu dài, trong quỹ thuật trai Tàu lấy vợ Việt, sinh con lai Tàu theo cha, tạo ra một lực lượng lai đang lan tỏa sâu rộng ngay trong giống nòi Việt. Sự thật này đã cho ta nhìn thấy là số phận Việt đã là đang lâm vào tử lộ của diệt vong !
Sự thật khi nhận diện được thủ phạm trong bạo quyền qua độc tài, tham nhũng qua tham quan, nhận diện chân lý để chứng minh các phong trào dân oan là hậu quả của chuyện trộm, cắp, cướp, giật của bọn bạo quyền thông đồng với bọn thầu đất. Chính nạn nhân giờ đã trở thành chủ thể tự do dầy cá tính bảo vệ sự thật để bảo toàn chân lý, bảo hành lẽ phải. Phương trình sự thật-chân lý-lẽ phải là rễ của đạo lý, gốc của luân lý, cội của đạo đức, giờ đã đứng về phía nạn nhân, đã đứng về phía nước mắt, đã đứng về phía nhân quyền !
Sự thật lột mặt nạ sự xảo trá, chẳng hạn như chuyện chống tham nhũng, được mệnh danh là chiến dịch đốt lò của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng của Đảng cộng sản Việt Nam, nhưng thực chất chỉ là chuyện tranh giành quyền lực để thu tóm quyền lợi giữa các nhóm lợi ích, mà thực chất chỉ là những mafia, sống theo phản xạ đám, đàng, bầy như âm binh, chọn lãnh địa đảng để thao túng toàn xã hội, bòn rút tới cạn kiệt tài lực của quốc gia, nguyên khí của Việt tộc. Chúng cướp quyền lực trước để cướp của dân sau, thanh trừng nhau trước trong nội bộ để dễ dàng thanh toán chuyện trộm, cắp, cướp, giật tài nguyên đất nước, tiền tài dân tộc, vốn liếng xã hội sau đó. Sự thật có mặt trong phân tích, trong giải thích, trong chứng minh là độc tài dựa độc đảng để có độc quyền, để tiếp tục được lạm quyền, tức là còn độc trị thì không sao diệt được tham nhũng.
Sự thật vạch mặt nạ các thỏa thuận ngầm, các thỏa hiệp lén, các thông đồng đi đêm bất-chính-vì-bất-lương của các mafia đang chia chác quyền lực để chia phần quyền lợi, để trục lợi, để nạo ruột các công trình của chính phủ. Với chính sách cướp đất giữa ban ngày qua đạo luật quái thai : "đất là sỡ hữu của toàn dân", "do chính phủ quản lý" và tất nhiên là "do đảng lãnh đạo", trong đó người dân chỉ có quyền "sử dụng đất", "theo thời hạn", và đất giờ thành các miếng mồi để các dã thú với thú tính của mafia cấu kết với nhau để cướp đất của dân. Sự thật vạch mặt bọn dã thú thứ nhất là các lãnh đạo dùng chiêu đểu "đổi đất lấy hạ tầng" để trao các miếng mồi đất qua tham nhũng, cho loại dã thú thứ hai là các chủ thầu trách nhiệm làm hạ tầng trong dối trá và xây dựng cao ốc trong man trá với giá nhiều hàng trăm lần so với giá đến bù cho dân. Sự thật vạch mặt chỉ tên các lãnh đạo bộ công an, bộ quốc phòng, bộ tài nguyên và môi trường chính là các dã thú chúa : có quyền lực trong chính sách lẫn trong quy hoạch, có quyền lợi trong xóa nhà dân đen lẫn trong xóa sổ dân oan, để được giành phần rồi chia lời. Sự thật biết lột trần sự man trá.
Luận thuyết tri thức của sự thật
Sự thật là nền của tri thức, chế tác ý thức trong nhân tính vì nhân phẩm, đó là tự do của kiến thức liêm chính đi tìm nhận thức đúng về cuộc sống có chọn lựa trong sạch. Nhưng quá trình minh bạch này đang bị tha hóa nặng nệ về các lãnh đạo giáo dục bất tài có quyền lực qua độc tài dựa trên độc đảng của Đảng cộng sản Việt Nam. Nếu họ sáng suốt thì họ sẽ phải hiểu : phản biện của ngu dân chính là tự do. Sự thật là gốc để xây dựng lý tưởng được lý trí quản lý, vì kiến thức khi trở thành ý thức mang giá trị của lý tưởng dùng kiến thức phục vụ nhân sinh, chính giá trị lý tưởng lấy kiến thức phục vụ đồng loại, thăng hoa nhân loại đang bị thối nát hóa đến cùng cực trong một nền giáo dục đã rơi xuống vực sâu của bóng tối tráo, lừa, lận, gian với hệ giả : học giả, thi giả, điểm giả, bằng giả.
Sự thật giáo dục tính tự chủ để nhận kiến thức, đưa đạo lý kiến thức tầm sư học đạo tới đạo đức tôn sư trọng đạo mà Việt tộc đã đúc kết thành luân lý bền vững : công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy cũng đang xa vào bùn lầy. Với bao tệ nạn giáo dục : trò uy hiếp, bạo hành thầy cô, và thầy cô cũng tra tấn học sinh, tất cả chỉ vì giáo dục bị lãnh đạo bởi một đảng rất sợ, rất ngại một nền giáo dục vì sự thật chân chính của nó có gốc, rễ, cội, nguồn của : sự thực của nhân tính, chân lý của nhân phẩm, lẽ phải của nhân đạo mà không ngu dân được qua tuyền truyền sống sượng của tuyên giáo man trá. Tất cả cái giả tạo phản sự thật sẽ tạo ra một nền cảnh giáo dục quái thai : vừa tha hóa kiến thức, vừa đồi trụy hóa tri thức, mà lỗi lẫn tội tới từ các lãnh đạo giáo dục độc tài nhưng bất tài nên bất tín và sẵn sàng bất chính ngay trong trách nhiệm trao truyền kiến thức trong sứ mạng giáo dục vì sự thật. Sự thật được sống và lao động bằng kiến thức và tri thức của mình, được làm trí thức qua ý thức của chủ thể có trách nhiệm với giáo dục, có bổn phận với các thế hệ của mai sau, trong nhận thức của giáo dục là chỉ có sự thật mới là kiến thức chân chính. Và bọn quen thói tiền gian bạc lận qua học giả, thi giả, điểm giả, bằng giả không bao giờ có chỗ đứng để đối diện rồi trực diện với sự thật, vì sự thật là khoa học của học lực, tức là phải học thật để có học vị thật, học hàm thật. Sự thật đến để vạch mặt chỉ tên bọn gian lận mua bằng bán cấp, để làm chuyện mua chức bán quyền qua bằng cấp giả, có học vị lẫn học hàm mà không có học lực !
Sự thật chống kiểm duyệt của bạo quyền, bằng lòng quả cảm của mình chống lại hành vi tự kiểm duyệt do nỗi lo sợ bị trừng phạt bởi tà quyền. Chống đối để bảo vệ sự thật, đề kháng để bảo trì chân lý, đấu tranh để bảo quản lẽ phải, tự do thông tin trong tự do truyền thông không sợ kiểm duyệt, kiểm tra. Sự thật có cùng một giòng sinh mệnh với đạo lý truyền thông : đối thoại cho sự thật, đối lý vì chân lý, đối luận vì lẽ phải. Sự thật đòi hỏi minh bạch trong đối thoại về dữ kiện, minh chứng trong điều tra, minh luận trong chứng từ. Sự thật trong truyền thông chống lại quy trình truyền lệnh-tuân lệnh-hành lệnh của bồi bút, của văn nô, vì chúng xum xoe chống sự thật để cúi đầu nhận bổng lộc của bạo quyền, nhai nuốt đặc lợi để ngấu nghiến đặc ân vung vãi của tà quyền. Từ vong thân tới vong nghiệp, nên bọn ký nô, văn nô viết để tha hóa thông tin, để gian lận tin tức, để đánh tráo chứng từ ; trong bọn chúng có kẻ còn dùng nghề làm báo, nghề viết lách của mình để đâm thuê chém mướn qua bôi nhọ, chụp mũ, vu khống những ai lương thiện khi chúng nhận được nhiều tiền của các kẻ bất lương. Làm tay sai vì tư lợi, đi ngược lại lương tâm nhà báo khi chúng lội ngược giòng của sự thật, thì chúng chỉ là loại phản phúc chống lại chân lý, vì bọn này đã đánh mất đi một nghiệp vụ học quý nhất là : tự do trao tin vì sự thật, truyền tin vì chân lý, đưa tin vì lẽ phải ! Vì chúng đã rơi vào tà lộ của điếm nghiệp.
Sự thật sẽ làm nền sự sống, giúp sử học viết đúng, viết trúng, tức là viết thật. Viết thật hay nói thật có khi bị trù dập, bị vu cáo, bị hãm hại, bị ám sát, bị tử hình… Nhưng sự thật là sự thật phải được nói tới nơi, tới chốn, cụ thể nếu con người sống thật bằng sự thật thì phải biết chấp nhận cái chết cũng vì sự thật, như vậy sự thật là gốc của lòng tin biết dựa vào sự thật để nhận ra chân lý, vận dụng sự thật để nền cho lẽ phải. Lương tâm của trí thức là đây, lương tri của khoa học là đây, cả hai là hùng lực lương thiện của kẻ đi tìm sự thật. Sự thật dạy ta sự khiêm tốn, Socrate khuyên con người khi đi tìm sự thật, phải đi tìm với chính nhân phẩm của mình, đi tìm là đi học, khiếm tốn để khiêm nhường với tâm thức : "Tôi biết là tôi không biết gì cả !". Khiêm tốn rồi khiêm nhường để có thái độ khiêm cẩn trước con đường tìm đến sự thật, sẽ có chướng ngại vật vì sẽ có rào cản, sẽ có thử thách rồi sẽ có thăng trầm ; có quá trình của "lửa thử vàng, gian nan thử sức".
Sự thật là sự định hình của chân lý, rồi nó trở thành bất di bất dịch, nó sẽ không thay đổi, sẽ không chuyển hóa, để được mọi người nhận như môt giá trị vừa hiển nhiên, vừa vĩnh hằng. Đó là định nghĩa của Platon, môn sinh của Socrate lại là sư tổ của triết học. Platon đưa ra hai chỉ báo để "đánh dấu" trên sự thật : sự thật là tri thức, tới từ kiến thức của con người về một chuyện thật, mà chuyện thật này đã tách rời được sự tưởng tượng, tức là đã ra khỏi ý tưởng tới từ cảm xúc chủ quan của cá nhân ; và sự thật đã hiện hữu với bằng logos : sự thông đạt của lý.
Sự thật có quan hệ với lòng tin, cái thứ nhất thì mang lại chân lý, cái thứ hai có khi dẫn con người tới cuồng đạo, vào mê lộ của mê tín lại lấy sự mù quáng để nhấn chìm sự thật, triết gia này đề nghị các nội chất sau đây để ta nhận ra sự thật. Sự thật xuất hiện như sự vén màn mà bóng tối không còn giúp gì được cho sự giả dối đang che lấp sự thật. Khi sự thật tới như ánh sáng vừa lan tỏa, vừa xóa đi bóng tối, thì sự thật vén màn tới đâu là nhân gian khám phá cái thật tới đó, tại đây có quá trình của vén-lật-nhìn-thấy-hiểu, các đồng từ này chính là các chỉ báo khách quan để định nghĩa thế nào là khám phá sự thật. Sự thật không những đứng giữa ánh sáng lại còn lan tỏa để nhập nội vào nhân thế, để đổi nhân sinh quan của nhân tình, mà còn đổi luôn thế giới quan của nhân loại, đưa con người tới nguyên nhân của sự thật. Nguyên nhân có khi nằm trong động cơ của kẻ nuôi dưỡng chuyện phản sự thật. Sự thật tới có thể làm chúng ta sững sờ khi nó xuất hiện, nhưng khi sự thật đã tới như chân lý hiển nhiên, thì sự thật trao cho chúng ta những chìa khóa để mở cửa mọi nhà tù đang giam hãm ta, để giúp ta khám phá ra sự thật này.
Sự thật xuất hiện để tách người ra khỏi sự mê tín không có cơ sở vì không được kiểm chứng qua một quy trình khách quan của tri thức ; như vậy sự kiểm chứng là cặp mắt của sự thật, làm nên quy luật vô trương bất tín (không thấy thì không tin). Và xa hơn nữa là khi ta nếu thấy rồi, tin rồi, thì phải để kẻ khác kiểm chứng để chuyện thấy và tin, để sự thật trở thành chuyện không chối cãi được. Sự thật không đến thản nhiên rồi ra đi trong hồn nhiên, sự thật không chỉ bay lướt trên mặt đất mà nó yêu cầu ta phải đào thật sâu, bới thật rộng, cào thật xa để biết tại sao gốc, rễ, cội, nguồn của sự thật lại bị che lấp, và nó thường bị che lấp với các ý đồ của lòng tham không đáy. Sư thật đưa ra phân tích sâu và rộng để giải thích cao và xa, nên sự thật không bị giới hạn bằng biên giới của không gian, không bị định hạn bởi thời gian, cụ thể là nó không sợ hãi và không tuân thủ bất cứ vùng cấm nào cả. Nên sự thật khách quan yêu cầu ta tiếp tục điều tra, khảo sát, nghiên cứu chỉ như vậy sự thật mới là sự thật trọn vẹn chớ không phải là loại sự thật chột, què, ngọng, điếc đã bị tà quyền vo tròn bóp méo.
Sự thật đến như một sự kiện của sự cố để giải thích các biến cố đã, đang, sẽ xẩy ra khi sự thật xuất hiện với nguyên vẹn hình hài của nó. Và khi chủ thể khám phá ra sự thật nguyên vẹn này, thì chính chủ thể thường có nhận định là mình đã đi sau tới trễ đối với sự thật, chính cảm nhận này sẽ hướng dẫn chủ thể thực hiện thêm hai việc : thứ nhất là kiểm nghiệm lại mọi quá trình thực nghiệm (thật sự của sự thật) ; thứ hai là luôn đi thêm một bước hay nhiều bước nữa để được tiếp nhận sự thật đầy đủ mà không bị thiếu sót, để tiếp nhận sự thật được toàn diện, không bị phiến diện, như một sự thật tật nguyền.
Sự thật được khai sáng nhờ kiến thức, nhưng trước đó sự thật có thể bị vô thức của người trần mắt thịt vì đã quá cả tin vào chế độ đang quản lý sự thật, vào chính quyền đang quản trị sự thật ; tệ hơn nữa sự thật còn có thể bị vùi lấp bởi mê thức, tới từ hậu quả của tuyên truyền, từ hậu nạn của kiểu lưỡi gỗ chỉ biết nghĩ, biết nói một chiều làm ra đêm giữa ngày, để ma quyền dễ gạt đi mọi phản biện. Chính vô thức khi song hành cùng mê thức thì sự thật bị coi như một hiểm họa vì sự thật có thể đặt lại toàn bộ vấn đề về tổ chức xã hội, trong đó có tư lợi của kẻ đang là nạn nhân của vô thức hoặc mê thức. Cụ thể là quan hệ xung đột giữa kiến thức, vô thức và mê thức là quan hệ trong đó quyền lợi đặt chủ thể của nhận thức vào sự tỉnh thức trước sự thật ; hoặc ngược lại loại bỏ ý thức tới từ kiến thức để bảo vệ tư lợi trong vô ý thức.
Sự thật đưa kiến thức ra ánh sáng, mà ngay trong kiến thức cũng có loại kiến thức bị giấu giếm, để chỉ được chia sẻ kín đáo trong bè đảng như trường hợp của ba lực lượng độc hại cho số phận Việt tộc hiện nay : bạo quyền lãnh đạo trong độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham đất, tất cả đều tham tiền ; và chính chúng là giặc nội xâm, trực tiếp hay gián tiếp mở cửa cho ngoại xâm Tàu tặc, vì chúng chỉ biết sống bất lương để làm giàu bất chính, loại này luôn "mất ăn, mất ngủ" vì sự thật sẽ tới để lột mặt nạ của chúng.
Nên sự thật không bao giờ được chính thức hóa qua hệ độc (độc đảng, độc tài, độc trị, độc quyền, độc tôn). Sự thật xuất hiện trong xã hội không đơn thuần như sự chứng minh một định đề toán, không thuần chất như giải nghiệm sự thật qua thí nghiệm của các ngành khoa học thực nghiệm hóa, lý, sinh… Sự thật xã hội là một mạng lưới có dây dưa rễ má trong sinh hoạt xã hội, có gốc, rễ, cội, nguồn trong đời sống xã hội, nơi mà quan hệ xã hội bị thao túng bởi những tư lợi ; người ta giấu một sự thật vì người ta có quyền lợi trong sự che giấu đó, là nền cho sự dối trá của kẻ muốn bảo vệ tư lợi của mình.
Sự thật đối nghịch với sự mù lòa, khi người ta có thấy một con voi to lớn giữa nhà, mà người ta còn giả vờ như không thấy nó, thì đó là kết quả của vô thức đã cộng nghiệp cùng mê thức để sinh ra hậu quả của vô ý thức, tức là không tỉnh thức trước kiến thức. Tại đây, tri thức của khoa học xã hội và nhân văn sẽ làm nên được ý thức để giúp quần chúng có được nhận thức về chính số phận của mình : chỉ có sự thật Việt mới nói rõ được số phận Việt, không có một mê tín, mê lộ, mê cung, mê chấp nào thay thế được sự thật. Sự thật được tìm ra bởi thiện ý như là một ý chí muốn nhập nội vào sự thật để hiểu tới nơi tới chốn sự thật.
Tại đây, khi ý chí dựa vào thiện ý đã trở thành ý lực thì ý lực này chính là thể lực của niềm tin, và cái tin này cũng là bước đầu của trí tuệ, giúp ta khởi hành trên lộ trình đi tìm ra cái lý để hiểu cái thật. Cả hai cái tin, cái lý sẽ tìm ra cái thật, nơi mà cái tin chọn cái lý để tạo nền tảng để đón cái thật được tới.
Sự thật có thượng nguồn là chỉnh lý, để đi tìm cái đang ẩn sâu trong cái lý, khi ông xem sự thật khi được tung ra như một loại ánh sáng có sức sáng vô song tới để khai phá ý chí của con người muốn biết tận gốc rễ của cái thật. Chính độ sáng mãnh liệt này làm ngời cái thật được hiện hữu tròn đầy rồi hiện hình trọn vẹn giữa nhân sinh. Mà cũng chính nó có lực tập hợp rất lớn, nó đưa cá nhân tới tập thể, đưa các cộng đồng riêng rẽ tới cùng, tới chung một số phận của một dân tộc sống để bảo vệ sự thật sáng rực này. Và khi ánh sáng sự thật càng lớn thì nó tạo ra được sự thỏa thuận, làm nên sự đồng lòng của mọi người thì sức vận hành rất mạnh của nó trong xã hội con người. Sự thật xuất hiện để xóa đi sự ngờ vực, và sự thật đứng vững với chân lý của nó, vừa bằng lý thuyết luận, vừa bằng phương pháp luận của nó, làm nên khoa học luận về sự thật, sẻ mang một giá trị tuyệt đối.
Sự thật được phân tích như một nghệ thuật sống mà con người biết tự thuyết phục mình trước cái hiển nhiên vì nó rõ ràng trong tuyệt đối, đó chính là sự thật. Mà muốn tới sự thật này thì phải biết yêu cái thật để thấu cái thật. Ông chắc chắn một điều là cái yêu đi tìm cái thật làm nên cái biết, cái hiểu về cái thật. Nhưng sự thật đi giữa tri thức và quyền lực. Sự thật luôn bị chi phối bởi hai cực này, ông tin là sự thật không vô tư và không vô điều kiện, vì cả hai tri thức và quyền lực đều không vô điều kiện. Rồi ông chống lại quá trình của niềm tin khi nó đi tìm sự thật, và ông giải thích là khi sự thật nằm giữa kiến thức và lòng tin, thì kẻ có lòng cả tin luôn có ảo tưởng đã là người nắm trọn được sự thật, nhưng thật ra là người đó đang nhốt sự thật vào lồng của niềm tin.
Sự thật tuân thủ các nguyên tắc khách quan thì niềm tin phải theo sự thật, chớ không phải ngược lại là sự thật phải theo niềm tin. Có ít nhất ba yếu tố cấu tạo ra sự thật : cơ cấu lý lẽ của sự kiện tại sao nó có và xuất hiện trong cuộc sống ; sau đó là tính biến đổi của nó qua thời gian, đây chính là sử tính của nó ; và cuối cùng là sự sống còn của nó qua các không gian khác nhau của xã hội con người. Ngay trong sinh hoạt xã hội, quyền lực luôn tìm cách chi phối các tổ chức của xã hội, trong điều kiện đi tìm sự thật Việt để hiểu số phận Việt, thì ai cũng biết là gần hàng ngàn cơ quan truyền thông, dưới độc quyền của tuyên giáo qua độc tài trong độc trị của Đảng cộng sản Việt Nam, thì có chục ngàn bút nô, ký nô, văn nô được trả lương tháng để phục vụ cho một hệ thống truyền thông được tồn tại chỉ để viết những chuyện phản sự thật.
Cái phản sự thật độc hại do độc đảng gây ra, từ nghèo nàn trong lạc hậu của xã hội Việt, tới các cuộc đấu tranh vì nhân quyền trong nhân phẩm qua dân chủ, thì đều bị vu cáo, vu khống, vu họa. Bọn bút nô, ký nô, văn nô hùa sủa với sự hỗ trợ vô điều kiện của bộ máy đồ sộ của tuyên giáo vanh danh nhờ man trá.
Luận thuyết sự thật dựng lòng tin
Sự thật có cội là vốn liếng của gia đình đó trong quan hệ xã hội của gia đình đó có nguồn là vốn kinh tế làm nên vốn quen biết, rồi lấy vốn quan hệ xã hội để lợi dụng ngay trên vốn chung của xã hội, lợi dụng rồi lạm dụng là động cơ chính để bảo vệ tư lợi ; cụ thể là tìm quyền để có quyền, và khi có quyền thì lạm quyền. Nên nguồn cội là quyền lợi qua tiền tệ-hậu duệ-quan hệ của một nhóm có thể làm giàu cá nhân đó, đó là chuyện hằng ngày ta thấy rất rõ là con ông cháu cha dễ thành đại gia ; và ngược lại thì chuyện dân chúng lại nghèo đi, chật vật trong nheo nhóc, dễ thành dân đen, và chỉ một sớm một chiều bị cướp đất, cướp nhà là thành dân oan.
Sự thật của xã hội Việt Nam hiện nay có thể nhìn qua các nạn nhân của quyền lực bạo động trực tiếp bằng đàn áp do công an trị ; lại được trợ lực bằng bạo động truyền thông qua các hệ thống tuyên truyền, truyền thông, báo chí phục vụ ý đồ của tuyên giáo. Ta lại càng không quên : bạo động truyền thông với giọng điệu của chính quyền bắt buộc dân tộc phải nghe sự dối trá như là chân lý ; để từ đó chôn vùi thực chất của sự thật, tạo nên tảng để chính quyền này dễ vu khống để vu cáo, dễ điêu ngoa để chụp mũ sự xuất hiện của mọi lẽ phải. Sự dối trá bằng phản xạ điêu ngoa luôn vùng vẩy trong bùn nhơ phản sự thật.
Sự thật mở cửa cho lương tri, vì chủ thể có lương tâm trong hành động, làm nên tính lương thiện trong lý luận đưa chủ thể đó về hướng : phải nói thật để phải thật khi nói, mặc dù có thể bị xử tử bởi bạo quyền lãnh đạo, bị ám hại bởi tà quyền tham quan, bị trừng phạt bởi ma quyền tham tiền. Khi nói thật để bảo vệ sự thật như chân lý để đi tìm lẽ phải, thì sự thật chính là tiền đề của đạo lý biết sống bằng hay, đẹp, tốt, lành trong mọi sinh hoạt xã hội, của luân lý làm nên điều hay lẽ phải trong trách nhiệm và bổn phận của một công dân đối với xã hội mà mình đang sống.
Sự thật của xã hội không thoát được sự xếp hạng theo thứ tự ưu tiên mà xã hội đó tôn vinh, và chính sự xếp hạng này cho phép hoặc không cho phép một sự thật xuất hiện, tại đây có khen thưởng hoặc có trừng phạt khi có một sự thật xuất hiện. Sự thật chỉ được thuyết phục bởi cái lý, nhưng chính ông cũng khuyên ta hãy cẩn trọng khi sự thật bị chính cái lý thông thường, phổ quát mà thực chất là phản sự thật, đang có sẵn trong tín ngưỡng đến vây bủa cái thật, rồi vây hãm để bóp chết sự thật ngay trong trứng nước trong bằng cái lý độc tôn đang có độc quyền trong tín ngưỡng để chống lại sự thật đó.
Sự thật tác động vào lòng tin, nơi mà lòng tin có kiến thức riêng của nó, có cái lý riêng để định vị, cụ thể là con người không muốn tin những sự thật mới tới để làm phiền rồi lật đổ các niềm tin đã có trong con người. Nên sự thật có thể nằm im lìm trong quên lãng, trong những gì mà người ta không muốn hiểu, và sự thật cũng có thể không nằm trong những gì mà người ta muốn biết. Vì sự thật đụng chạm tới tư lợi, đây chuyện thường tình của nhân gian, nên trong khoa học cũng có chuyện tranh giành quyền lực như trong chính trị, trong tôn giáo cũng có chuyện tranh giành quyền lợi như trong kinh tế… Nếu ta muốn bảo vệ sự thật khách quan, để tới với chân lý của sự việc, chúng ta không bảo vệ sự thật một cách chung chung, mà bảo vệ trước hết là bảo vệ lý trí của sự thật làm nên chân lý cho lẽ phải.
Sự thật trước quyền lực và quyền lợi, nơi mà sinh hoạt xã hội được tạo ra từ hai loại người kẻ thống trị và kẻ bị trị. Kẻ thống trị nắm không những quyền lực, mà còn thao túng luôn cả tri thức, bằng thủ đoạn của mình, qua chính quyền thuộc về mình, mà mục đích là kéo dài chế độ thống trị, nơi mà sân chơi, trò chơi, luật chơi được tổ chức rồi giật dây để khống chế rồi áp bức kẻ bị trị. Tại đây, có kẻ ăn trên ngồi trốc làm giàu qua sự bóc lột những người cày sâu cuốc bẩm ; kẻ thống trị thì ngồi mát ăn bát vàng sống trên lưng những người lưng đội trời, mặt áp đất ; kẻ thống trị này đi trên vai những người một nắng hai sương bằng thói ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau ; kẻ thống trị này lại tự cho phép mình nằm chờ sung rụng lại còn dẫm lên đầu những người thức khuya dậy sớm qua siêu cao thuế nặng, đây chính là họa nạn của Việt tộc hiện nay. Sự thật của xã hội Việt hiện nay là kẻ thống trị vừa lạm dụng mọi sinh khí xã hội, vừa bóc lột tới tận cùng xương tủy kẻ bị trị.
Sự thật vạch mặt chỉ tên bạo quyền, nơi mà đời sống Việt hiện nay là kẻ thống trị vừa bòn rút, vừa trấn lột kẻ bị trị. Kẻ thống trị quây quần với nhau để lập ra những tập đoàn quyền lực, tạo ra bất công tuyệt đối kẻ ăn ốc, người đổ vỏ như ta thấy qua thảm kịch của dân đen hiện nay lợi tức tàn mạt, ngày ngày sống với lạm pháp phi mã. Lực lượng thống trị chung quanh Đảng cộng sản Việt Nam sống bằng bạo quyền độc tài trung ương, bằng tà quyền tham quan địa phương, và ma quyền chung quanh các nhóm lợi ích, có sân sau, có ô dù, được chống lưng, hít vào bằng biển thủ, thở ra bằng gian lận… tồn tại như các ký sinh trùng bòn rút tài nguyên của đất nước, tiền tài của dân tộc. Các ký sinh trùng này được "tẩm bổ" để trở thành một tập đoàn tội phạm trong hệ độc : độc đảng để độc tài, độc trị để độc quyền, độc tôn để độc quyết, bất chấp mọi độc hại tới với đồng bào, đất nước.
Sự thật có ngay trong sự bất bình đẳng của xã hội ; có ngay trong sự bất công xã hội đó ; có ngay trong sự bất nhân xã hội đó, có ngay trong sự vô luân của kẻ thống trị bấp chấp đạo lý hay, đẹp, tốt, lành của tổ tiên, đã làm nên luân lý của cộng đồng Việt biết sống có trách nhiệm với đất nước, làm nên đạo đức của dân tộc Việt biết sống có bổn phận với đồng bào. Sự thật là vũ khí để chống độc tài luôn tìm cách che lấp sự thật ! Sự thật cũng là vũ khí chống mỵ dân của độc tài, chống đạo đức giả của độc đảng. Sự thật tới để lật mặt nạ của bạo quyền trong bất bình đẳng, của tà quyền trong bất côn, sự thật giải thích dựa trên các công cụ phân tích về số kiếp của kẻ bị trị, để kẻ này thấy rõ số phận mình qua các bẫy của kẻ thống trị, khi kẻ thống trị xem kẻ bị trị như công cụ để lợi dụng rồi bóc lột.
Sự thật có mặt trong sự bất công, chính cái bất tín làm nên sự bất công cũng chính là cái phản sự thật đang xiết cổ sự thật, để bất công được tồn tại, để bất nhân được che giấu. Và con người sẽ tìm ra sự thật của số phận mình ngay trong sự nổi dậy chống bất công, đây là một mệnh đề mới của học thuật đương đại, vì sự nổi dậy để lật đổ độc tài chính là gốc, rễ, cội, nguồn của bất công, và bất nhân, đưa ta tới con đường của sự thật. Sự nổi dậy luôn dùng tự do của mình để tái tạo lại công bằng rồi bác ái làm nên nội chất của cộng hòa, tạo ra thực chất của dân chủ, đây chính là chân trời của sự thật. Không phải chỗ nào có bất công là chỗ đó có nổi dậy, nhưng chỗ nào nổi dậy rồi chỗ đó chắc chắn có bất công ! Đây cũng là thử thách để kiểm chứng Việt tộc có phải là một minh tộc hay không trước cuộc sống hiện tại của chính mình ? Đây chính là thử nghiệm để xác chứng Việt tộc có phải là một dũng tộc hay không trước tiền đồ của tổ tiên, trước vận mạng của đất nước, trước tương lai của giống nòi ?
Sự thật thường xuyên bị ngăn chặn bởi bạo quyền, mà khi nó lại vừa là tà quyền thì nó lại đổi trắng thay đen sự thật chính là phản xạ điêu ngoa của nó. Chưa hết, qua bộ máy tuyên truyền nhập nội cùng hệ thống công an trị của nó, nó còn biết dựng lên mọi ý đồ để chặn ngăn sự thật không được thành như sự cố. Khi chặn được sự cố rồi, chúng còn chặn luôn sự kiện hiển nhiên để sự kiện không vào được quỹ đạo của biến cố để biến thành sự thật. Từ đây, bạo quyền độc đảng luôn ngăn sự phát triển của chủ thể là dùng tự do của mình để khám phá sự thật, tà quyền ngăn luôn kiến thức đi tìm sự thật, để kiến thức được trở thành tri thức, là nơi bảo vệ và giữ gìn sự thật qua thời gian.
Sự thật có mặt trong nạn nhân oan để giải thích hiện tượng bạo động, đó là kiểu giết người của bạo quyền giữa thanh thiên bạch nhật, buộc tội oan một người, một tập thể nhỏ, một cộng đồng yếu để quy chụp những tội mà họ không gây ra. Hoặc biến một lỗi nhỏ của một cá nhân, một nhóm thành tội đồ được phình to ra để hành quyết các nạn nhân oan, như để làm vật tế thần, khi một cộng đồng dùng nạn nhân oan không có tội nhưng bị buộc tội oan để giải tỏa những ấm ức, những dồn nén, những bức xúc, tới từ các xung đột nội bộ trong một chế độ, trong một xã hội đang mất niềm tin, đang bị tha hóa.
Cụ thể là chính các nạn nhân oan, không đáng tội chết nhưng bị xử oan để phải chết oan, sẽ giải tỏa sự tù hãm của một tập thể, của một cộng đồng, của một xã hội đang mất phương hướng. Một xã hội cho phép đòn thù để tra tấn cho tới chết, mà lại được một độc đảng bạo quyền che lấp tội ác để che giấu tội phạm là một xã hội đang bị nạn nhân hóa. Một vài côn đồ, du đảng được công an sử dụng, được bọn ma quyền buôn đất trả tiền, có thể bắt cóc và tra tấn cho tới chết một dân oan đang bảo vệ mảnh đất của mình
Sự thật có mặt trong thi thể của nạn nhân, của sự thật Việt làm nên số phận Việt hiện nay đang diễn ra hằng ngày trước mắt chúng ta là một vài công an có thể đưa một người vô tội vào đồn công an và đánh đòn thù cho tới chết, để hôm sau báo với gia đình của nạn nhân này là nạn nhân đã tự tử, và không một tên công an sát nhân nào bị điều tra để sau đó được phân xử công minh trước tòa án… Gia đình của nạn nhân oan này không dựa được vào pháp luật, vì tư pháp hiện nay không hề liêm chính, vì bọn xã hội đen này lại được công an bảo kê, được bọn ma đất trả lương, thì đây chính là độc lộ của dân chúng trong xã hội ngập bất công mà một công dân có thể đã bị ép vào tử lộ để đi thẳng từ dân oan tới nạn nhân oan, vô tội đã trở thành tử tội.
Một nhóm lợi ích tham nhũng đang lũng đoạn xã hội, đang bị điều tra có thể thủ tiêu một đàn em có vài triệu chứng phản bội chúng, để vừa trả thù, vừa để trút giận vào kẻ sẽ là chứng nhân đang tính chuyện bỏ bè rời đảng trong một tập đoàn tội phạm. Và, bè đảng này có thể thủ tiêu chứng nhân này, để trút xả mọi cuồng bạo của nó mà bất chấp pháp luật hiện hành, một xã hội có mức độ bạo động cao, có cường độ bạo động thường trực như xã hội Việt hiện nay, thì chuyện "thí mạng" nạn nhân oan là một chỉ báo để nói lên sự thật : khi bạo quyền trở thành tà quyền mà sẵn sàng giết người, thì nó rất dễ dàng giết luôn đạo lý lẫn luân lý, diệt luôn giáo dục lẫn văn hóa...
Sự thật có trong cái bạo lực của bạo quyền, có trong định nghĩa sự bạo động, thì phải qua đường đi nẻo về của nó là sự giết hại từ tính mạng tới nhân phẩm của nạn nhân của nó. Khi ta nhìn về sự bạo động, thì ta thường nghĩ là ta không phải là thủ phạm, mà kẻ khác mới là thủ phạm, nhưng trên đạo lý làm ra đạo đức khi ta nhắm mắt để bỏ qua các tội phạm, thì ta đã đồng lõa với tội ác, và cứ để tội ác tiếp diễn và lan tràn, thì luân lý học gọi tên nó là : đồng phạm !
Hãy tách rời chuyện đi tìm sự thật bằng chính hành động của mỗi cá nhân thiết tha sống vì sự thật, ông gọi tên hành động đó là hành động truyền thông liên kết có lực kết hợp các hiểu biết khác nhau chung quanh một sự thật mà chúng ta đang đi tìm, được kết tụ lại để rồi cùng nhau chung sức dựng lại hay dựng lên một sự thật đang bị vùi lấp. Sự kết hợp các quan điểm qua các tri thức khác nhau, các kinh nghiệm khác nhau, nhưng khi nhập lại làm một tổng hợp đủ lực tạo ra một viễn ảnh ngày càng sáng, một chân trời ngày càng tỏ, giúp chúng ta cùng nhau đi tới mà nhận diện ra sự thật đó.
Sự thật trao quyền sống đúng, không là nạn nhân của bất công, trong một xã hội mà bóc lột là vô nhân, mà tham nhũng là vô luân, trên nguyên tắc của nhân quyền, con người được quyền sống trong một xã hội đáng sống, không ai là dân đen, dân oan của ai cả ; và khi con người nhận ra sự thật này tức là con người đã biến nhận thức thành tỉnh thức. Sự thật dặn dò ta phải cẩn trọng ngay trong tin tức, dữ kiện, chứng từ, vì sự thật luôn bị đánh tráo, đổi trắng thay đen, bị biến dạng khi ta đi tìm sự thật. Bạo quyền không thể chụp mũ, vu cáo một kiến thức toán trong một định đề toán và tà quyền không thể chính trị hóa toán học được ; nhưng bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham nhũng có thể vu khống một sự thật của khoa học xã hội nhân văn, bằng cách chính trị hóa để lũng đoạn hóa các tri thức của khoa học xã hội nhân văn. Và khi khoa học xã hội nhân văn không bị bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham nhũng khai thác, thì nó lại bị các ma quyền truyền thông này giật dây, vu cáo, chụp mũ... Nên từ đây, xã hội học hiện đại đã là môt kiến thức biết tự phòng vệ để chống lại bạo ngôn của bạo quyền lãnh đạo, xảo ngôn của tà quyền tuyên giáo, lộn ngôn của ma quyền truyền thông. Nên một sự thật muốn vững trong không gian để bền với thời gian là một sự thật biết tự phòng vệ !
Sự thật về nhân phẩm nơi mà con người là một cá nhân trong một môi trường xã hội có quan hệ xã hội làm nên đời sống xã hội của cá nhân đó, và tiếp theo là quan niệm xã hội và thực hành xã hội của cá nhân này trước quyền lợi của nó trong tổ chức xã hội nơi mà cá nhân đó đang sống. Từ đây, ta thấy được những mâu thuẫn, rồi những xung đột hoặc hợp tác của cá nhân đó trong sự vận hành của các cơ cấu xã hội mà quyền lực hiện hành vừa lãnh đạo cả xã hội, vừa chủ mưu tạo ra đặc quyền, đặc lợi làm nên đặc khu cho riêng cho quyền lực đó.
Chính tự lợi là rào cản ngăn chặn không cho cá nhân và tập thể thấy hết được sự thật ; và chính đấu tranh ngay trong xã hội sẽ làm sáng ra sự thật, để mọi người thấy rõ bạo quyền dính tới tham nhũng, tà quyền tham quan dính tới ma quyền trọc phú, tất cả bọn này đều buôn gian bán lận trong những không gian âm binh của chúng, và chúng biết lách luật để né luật, thậm chí tráo luật để xé luật, như để thủ tiêu sự thật ngay trên thượng nguồn của nó.
Nhân quyền luận
Các chọn lựa chính sách độc đoán phản dân chủ của Đảng cộng sản Việt Nam đều là đại nạn cho Việt tộc, từ khi lập đảng những năm 1930 cho tới ngày chia cắt đất nước với 1954, các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam luôn lệ thuộc vào phong trào quốc tế cộng sản, trong đó phản xạ khoanh tay nhận lịnh hai đàn anh Liên Xô và Trung Quốc của Hồ Chí Minh, luôn bắt buộc dân tộc ta phải trả những cái giá rất đắt. Trong giai đoạn 1954 tới 1975, với cuộc chiến huynh đệ tương tàn cùng bao hậu quả từ cải cách ruộng đất tới các trại cải tạo sau 1975, dẫn tới các dòng người bỏ đất nước ra đi tìm tự do, cái giá còn đắt hơn nữa với loại lãnh đạo kiểu Lê Duẩn, là dân Việt sẵn sàng : đánh Mỹ cho Liên Xô và Trung Quốc. Một sự lệ thuộc từ tư duy tới hành động, từ phản xạ tới quyết sách, luôn coi thường xương máu đồng bào, lấy chiến tranh để củng cố bạo quyền, xem thường mọi mưu cầu hạnh phúc của nhân dân, gạt bỏ mọi cơ hội để nước ta có tầm phát triển ngang hàng với các láng giềng cùng tam giáo đồng nguyên với ta (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc).
Nếu tri thức dân chủ có mặt trong đa nguyên hoặc có trong minh trí của các minh chủ, minh chúa, minh vương, thì cả dân tộc có thể tránh được bao hậu quả và hậu nạn tới từ độc đảng lấy độc tài để có độc quyền qua độc trị, đang đưa Việt tộc vào tử lộ Tàu nạn hiện nay. Tại đây, tri thức dân chủ của phương Tây bó buộc kẻ lãnh đạo phải có năng lực chuyên môn (compétence) dựa trên học hàm và học vị được minh chứng qua học lực (qualification), nếu không đạt được điều kiện này, thì dân tộc đó thật vô phúc ! Khi nghiên cứu về dân chủ, Tocqueville cẩn thận đề nghị là nếu muốn dân chủ bảo vệ quyền lợi của công dân, thì các thể chế dân chủ phải bảo vệ ngay trên thượng nguồn các điều kiện bình đẳng để mỗi cá thể được hưởng công bằng từ ngay từ sơ sinh tới lúc trưởng thành. Cụ thể là công bằng xã hội phải được tổ chức ngay trong các điều kiện ban đầu của đời người, từ vật chất tới giáo dục, từ kinh tế tới văn hoá… chính điều kiện bình đẳng thượng nguồn, tạo ra thành công về công bằng trong xã hội.
Từ đây, ta thấy nội chất bất công mà Đảng cộng sản Việt Nam đã tạo ra chống dân chúng, phản quần chúng trong sân chơi-luật chơi về bình đẳng, vì họ đã dùng lý lịch để loại các công dân không đồng ý với họ, họ đã dùng thẻ đảng để chọn, tuyển, lựa, lọc người vào nguồn máy của họ, mà trong đó muốn thăng quan tiến chức thì phải là đảng viên. Đảng cộng sản Việt Nam lại còn cơ chế hóa một cách quái thai nhất là cho hệ thống đảng (chính uỷ, đảng uỷ…) "song hành" cùng hệ thống chính quyền để điều khiển, để thao thúng, để áp chế chính phủ, từ đó tạo ra bao bất bình đẳng mà hậu nạn là bất công trong mọi định chế vĩ mô, trong mọi cơ chế vi mô. Khi nhận định về các điều kiện bình đẳng để có công bằng tự trên xuống dưới, từ khi ra đời tới khi trưởng thành, Tocqueville lấy cá thể giờ là công dân trong thể chế dân chủ để làm gốc rễ cho tri thức dân chủ, và sau hai thế kỷ con người đã có những bước tiến rõ rệt về tổ chức các nguyên tắc công bằng ngày càng phong phú.
Sau các cuộc cách mạng về khoa học, kỹ thuật, thông tin, truyền thông, văn hóa, giờ đây là mạng xã hội qua internet nơi mà tin tức, dữ kiện, chứng từ xuất hiện để phản biện, công dân trong phản luận dân chủ, từ đó vai trò đấu tranh dân chủ vì công bằng và tự do luôn được thay đổi theo hướng đi lên ; mà các chuyên gia về các thể chế dân chủ gọi tên nó là sự khủng hoảng tăng trưởng (crise de croissance). Tại đây xuất hiện hai dữ kiện mới của dân chủ. Xã hội dân sự đối diện để đối chất với chính quyền dân chủ do dân bầu ra, tức là bầu rồi, thắng cử rồi nhưng vẫn phải chịu hệ kiểm (kiểm soát, kiểm tra, kiểm toán…) trong mọi công trình, trong mọi chính sách, trong mọi phương án từ hiện tại tới tương lai.
Dân chủ của những bản sắc trực diện để trực tiếp đòi hỏi quyền bảo vệ bản sắc trong bối cảnh toàn cầu hóa, nơi mà bản sắc của thiểu số luôn bị đe doạ bởi các áp lực kinh tế, thương mại, văn hóa, khoa học, kỹ thuật của các cường quốc. Sự khủng hoảng tăng trưởng là sự khủng hoảng để trưởng thành, để vững mạnh trong phát triển và vững vàng trong các thử thách khi đối diện với các lực lượng quá khích hoặc cực đoan luôn muốn phá hoại sinh hoạt dân chủ để đưa độc tài vào xóa dân chủ, lấy độc trị để diệt nhân quyền, đưa độc đảng vào triệt tự do.
Dân chủ luôn có các địch thủ muốn thủ tiêu nó, luôn có các đối phương muốn xóa bỏ nó, để áp đặt độc tài mà mục đích là chỉ phục vụ cho một người, một đảng, mà quên tiền đồ của tổ tiên, quên quyền lợi của dân tộc, tại đây một thể chế dân chủ muốn sống còn nó phải tự hiện đại hóa nó qua hai phương hướng sau : dân chủ phải luôn đào sâu nội chất đạo lý công bằng-tự do-bác ái của nó, là phục vụ mọi người, tuân thủ đa số mà không quên thiểu số, đạo lý của nó không được bỏ sót ai, không được phân biệt đối xử với bất cứ ai, không được kỳ thị với bất cứ đoàn thể, sắc tộc, tầng lớp xã hội nào.
Dân chủ phải luôn mở cửa để tiếp nhận mọi tiến bộ của nhân loại từ khoa học tới kỹ thuật, từ thông tin tới truyền thông, từ hợp tác quốc tế tới toàn cầu hoá… tất cả dựa trên nhân quyền để củng cố nhân đạo, tăng cường nhân từ, bảo vệ nhân phẩm. Chính nội lực dân chủ này làm nên sung lực dân chủ trong hành động của mỗi công dân !
Thể chế dân chủ tạo nên chế độ dân chủ để bảo trì xã hội dân chủ, không phải là một thể chế thuần giống hay thuần chủng, vì nó vượt trên phạm trù thuần hóa để thống trị, chính nghĩa của dân chủ luôn tìm tới sự hợp nhất dựa trên Lưỡng nguyên có đối kháng để phát triển xã hội, để bảo vệ tự do cho công dân, cụ thể là có ít nhất hai đảng, hoặc hai tập thể tạo ra hai cực đối kháng nhau, qua các dự án phát triển đất nước, qua các lộ trình phát huy sức mạnh của một dân tộc. Hai đảng này trực diện để đối diện thường xuyên bằng sức đối kháng của họ, nơi mà họ phải tích cực để tiến bộ qua các chương trình ứng cử, sẽ trở thành quốc sách khi họ thắng cử để nắm chính quyền. Lưỡng nguyên chấp nhận đối kháng mang bản chất của tự do cạnh tranh trên chính trường rất sòng phẳng, nơi luật rừng mạnh được yếu thua được thế bằng luật đúng của đa số thắng thiểu số qua tranh cử.
Sinh hoạt dân chủ dụa trên đa nguyên dựa đa tài, nơi mà đa nguyên dựa trên đa đảng, vì có sung lực tạo ra đa tàitrong quản lý, đa năng trong sản xuất, đa trí trong cơ chế, đa hiệu trong kinh tế… Đa nguyên chọn đa dạng để chống độc tài, chọn đa chiều để loại độc trị, chọn đa phương để khử độc đảng. Chính hệ đa này sẽ mở ra nhiều cửa, đưa tới nhiều chân trời làm mới tự do, làm rộng công bằng, làm giầu bác ái. Cũng chính đa nguyên tạo ra nhiều nhận định trong lập pháp, tạo ra nhiều phân tích trong tư pháp, tạo tiền đề cho nhiều phương án trong hành pháp.
Đa nguyên là sung lực của dân chủ, vì nhờ có đa tài nên chống lại được với thảm hoạ quá nhiều bất tài hiện nay trong lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, đa nguyên dùng đa trí để gạt luôn quá nhiều bất lực, và cũng chính đa nguyên dụng đa hiệu để trừ mọi hậu quả của độc đoán tới từ độc đảng, độc tôn, độc trị, độc quyền. Đa nguyên nói thẳng với sung lực : vắng mợ chợ vẫn đông ! Không có lãnh tụ nào, không có đảng phái nào là tối cần, chính họ tự nghĩ là : không có họ thì nhân loại phải gục ! Dân tộc phải chết ! Sự thật chính trị là không ai là tối cần cả trong một thể chế thật sự dân chủ. Chỉ vì dân tộc cần mọi công dân, vì đất nước cần mọi nguyên khí, vì giống nòi cần mọi tiềm năng. Vì sung lực dân chủ là hợp nhất trong đa nguyên, nó không tính chuyện đơn lẻ để xé lẻ, để xài lẻ.
Quá trình hợp nhất qua lưỡng nguyên thì hai đảng có thể thay nhau mà lãnh đạo, mà nắm chính quyền qua tranh cử, có lúc cùng nhau tổ chức một chính phủ, các quốc gia Âu châu có nhiều kinh nghiệm về hệ chia quyền này, nước Đức là quốc gia có nhiều kinh nghiệm phong phú về quá trình này. Có quá trình hợp nhất qua đa nguyên, nhiều đảng phải, nhiều tập hợp chính trị có thể nắm chính quyền, tổ chức chính phủ cũng qua đầu phiếu, tạo ra một sung lực dân chủ đó là sự thông minh hỗ tương (l’intelligence de la complémentarité), đảng này bổ khuyết cho đảng kia, tập thể này hữu ít cho tập thể kia, hiện nay nước Pháp đang sống kinh nghiệm này để vượt qua lưỡng nguyên (phái tả, phái hữu) với thói quen của các phản xạ kình chống nhau qua biên giới tả-hữu.
Sự thông minh hỗ tương, tận dụng đa tài, đa năng, đa trí, đa hiệu tạo ra một sinh hoạt văn minh trong chính trường, cho phép ra đời sự thông minh tôn trọng lẫn nhau (l’intelligence du respect mutuel). Họ văn minh qua hỗ tương, qua tôn trọng lẫn nhau, nên họ tránh được các cuộc thảm sát của Đảng cộng sản Việt Nam đã làm, đã truy diệt các đảng đối lập, từ các đảng phái quốc gia tới các đảng thuộc phong trào đệ tứ cộng sản trong những năm 1940-1960. Và cho đến giờ này với độc đảng, Đảng cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục truy diệt mọi chồi non dân chủ, mọi mầm móng đa nguyên. Đây là thảm hoạ cho Việt tộc mà thủ phạm chính là Đảng cộng sản Việt Nam đang ám sát mọi thông minh có trong giống nòi Việt, họ diệt đa tài để giữ độc đảng, đây là một tội lớn của Đảng cộng sản Việt Nam trong lịch sử cận đại và hiện đại của Việt Nam.
Sung lực dân chủ có tầm vóc chính trị, có bản lĩnh định chế, có gân cốt nhân lý được thấy rõ qua ba thực thể pháp lý sau đây của mọi chế độ thực sự có dân chủ : phân ranh giữa chính trị và luật pháp, trong đó chính trị được nắm chính quyền, được lập chính phủ, nhưng chính trị qua chính giới và chính khách cùng với đảng phái của họ không được đứng trên, đứng ngoài, đứng xa pháp luật, mà họ phải ở trong khung pháp luật như mọi công dân, và nếu cần phải chịu bị xử như mọi công dân.
Hợp nhất giữa chính quyền và quốc gia, trong đó chính quyền đại diện cho quốc gia, từ chính trị tới ngoại giao, từ xã hội tới văn hóa, từ an ninh tới quốc phòng… mà cùng lúc phải bảo vệ một cách tuyết đối không những quyền lợi của quốc gia, mà nhất là sự sinh tồn của dân tộc đã bầu ra chính quyền đó. Ưu tiên nhân quyền trong đó dân chủ tận dụng mọi quyền hạn của mình để bảo vệ tự do, công bằng, bác ái vì nhân quyền, với nội dung ngày càng cao về nhân phẩm, nhân đạo ; ngày càng rộng về nhân bản, nhân văn ; ngày càng sâu về nhân từ, nhân nghĩa, ngày càng xa về nhân tri, nhân trí.
Không có ba sung lực : phân ranh giữa chính trị và luật pháp, hợp nhất giữa chính quyền và quốc gia, ưu tiên nhân quyền thì không có thể chế dân chủ nào bền vững. Chính dân chủ đã dùng tất cả sung lực này của mình để tổ chức ra một không gian chính trị dân chủ, trong đó mê tín, dị đoan, thần linh, kể cả thượng đế không còn có mặt trong sân chơi-trò chơi-luật chơi này. Và bản thân sân chơi-trò chơi-luật chơi này phải luôn được hiện đại hóa từ xã hội tới pháp luật, từ văn hóa tới giáo dục, để mở rộng tự do cho công dân, để thăng hoa nhân quyền ; từ đây xuất hiện phạm trù : tự do dân chủ (liberté démocratique) cao hơn tự do của cá nhân, nó còn tìm cách đi xa hơn tự do của tập thể, của cộng đồng.
Tự do dân chủ dùng ba tự do : tự do đầu phiếu, tự do ứng cử, tự do tranh cử để thay đổi các tự do đã cố hữu như thành lũy trong sinh hoạt văn hóa và xã hội. Cụ thể là khi con người muốn có tự do hôn nhân, thì phải ra luật để bảo đảm quyền hủy hôn nhân, tức là lập ra một quyền mới là được ly hôn, được quyền ly dị. Vì hôn nhân là một thực thể của tự do, thì ly hôn cũng phải là một thực thể ngược lại để cùng song hành với hôn nhân để bảo vệ tự do của mỗi cá nhân, khi thỏa hiệp hôn nhân không còn được một trong hai người hoặc cả hai không đồng ý với thỏa hiệp hôn nhân này nữa. Xa hơn : giữa hôn nhân và ly hôn, còn có người muốn sống chung mà không qua đám cưới, muốn sống thử mà không màng gì tới hôn nhân, thì đây cũng là một tự do mà một xã hội văn minh phải công nhận. Xa hơn nữa, xã hội dân chủ chấp nhận hôn nhân giữa các cá nhân đồng tính, và công nhận quyền có con của các cặp hôn nhân này qua luật pháp.
Chính các thể chế dân chủ hiện nay đang trên đà nghiên cứu các đạo luật mới công nhận quyền tự do dân chủ của tự chủ hóa (liberté démocratique de l’autonomisation) để đi đến nguyên tắc cá tính hóa (principe de l’individualité) trong sinh hoạt dân chủ. Tại đây, công dân không những phải được công nhận như một cá thể với tất cả quyền lợi được hiến pháp công nhận, mà công dân này phải được công nhận như một cá nhân có đặc điểm riêng, với ý muốn riêng, mang mong cầu riêng, cao hơn nữa chính công dân này với cá tính sáng tạo của mình muốn thực hiện các hoài bão chính đáng của mình, và yêu cầu xã hội và pháp luật phải tôn trọng những sáng tác, như là những tác phẩm đặc thù, có mang đặc tính của họ.
Chính thể chế dân chủ đã đi đầu trong quá trình luật hóa bảo vệ quyền sở hữu các phát minh cá nhân, không những là một vốn của trí tuệ của cá nhân đó, mà cụ thể là bảo vệ thành quả tới từ cá tính của cá nhân qua sáng tạo làm nên biệt tài của cá nhân đó. Các cao trào cá nhân hóa có mặt rộng rãi trên các mạng xã hội qua internet hiện nay, ngày ngày làm rõ nét uy lực sáng tạo của các cá nhân để khẳng định quy luật tự do nhân trí được cá nhân hóa. Đây là chuyện hiện thực, có trong sinh hoạt truyền thông dân chủ hiện nay, có những cá nhân sáng tạo đã có ảnh hưởng rộng rãi qua các mạng xã hội trên internet, và ảnh hưởng của họ nhiều, sâu, rộng, cao hơn hẳn các báo đài của độc đảng đang kiệt lực, cạn hơi tuyên truyền những tin tức trái sự thật, những tin đồn phản chân lý, những tin bẩn ngược lẽ phải. Các quốc gia chậm trễ (như Việt Nam hiện nay) trong quá trình tri thức dân chủ này, sẽ chậm trễ trong quá trình tri thức nhân quyền, về cá nhân tính trong đó cá tính của mỗi công dân biết sáng tạo sẽ là sung lực để thăng hoa dân tộc của công dân đó.
Nhân chủ luận
Hùng lực trong một không gian dân chủ phải dựa trên các nội dung pháp quyền được dân chủ hướng dẫn từ đầu đến cuối, trong đó dân chủ không chỉ là phương pháp và kỹ thuật bầu ra các lãnh đạo có khả năng để quản lý đất nước, bảo vệ dân tộc, mà hùng lực dân chủ còn dựa trên một hệ thống lý luận đi xa hơn phương pháp và kỹ thuật ứng cử và bầu cử. Trong không gian dân chủ, ta sẽ thấy xuất hiện ba nền móng, có chiều sâu lẫn chiều rộng để xây dựng một thể chế dân chủ, vì ba nền móng này sẽ làm rõ các giá trị mà con người tin.
Và một thể chế thật sự dân chủ phải thể hiện niềm tin của quần chúng ngay trong đời sống, sinh hoạt của một xã hội dân chủ : Giá trị nhân phẩm muốn-và-biết làm người theo hướng hay, đẹp, tốt, lành có trong đạo lý của một dân tộc, trong một quốc gia, trong trong một xã hội, nơi mà nhân bản, nhân văn, nhân đạo làm rường cột không những trong giáo dục mà cả trong chính trị ; qua đó mọi công dân đều được quyền đòi hỏi từ phòng thân tới lập thân cho tới tiến thân, là phải được định chế dân chủ bảo đảm và pháp luật dân chủ bảo vệ. Ở đây, không hề có chuyện "mang con bỏ chợ", không hề có chuyện "ai chết mặc ai", như hàng triệu thảm kịch của dân oan, dân đen mà chúng ta thấy đầy ngập trong xã hội độc tài qua độc đảng hiện nay.
Giá trị lập luận pháp quyền nơi mà không những lập luận về quyền lợi của dân tộc và quốc gia phải được bảo vệ hằng ngày ; mà các tập thể, các cộng đồng cũng phải được bảo vệ từ hiến pháp tới pháp luật. Tại đây, cá nhân là công dân trong không gian dân chủ, không đứng ngoài các lập luận pháp quyền, vì chính các lập luận này làm ra công luật, sinh ra các đạo luật mà không có thực thể nào được đứng trên nó. Vì chính nó đại diện cho quyền lợi của quần chúng hiện tại, mà cả cho giống nòi mai sau ; và với sức thuyết phục chỉnh lý của nó, nơi mà mọi công dân phải tôn trọng các quyền lợi tối cao của dân tộc và quốc gia được bảo vệ bằng pháp luận qua hiến pháp và luật pháp. Các lập luận pháp quyền luôn bị thay, tráo, lừa, gian trong các chế độ độc tài phản dân chủ, nơi mà các bọn lãnh đạo tự cho phép chúng xé luật, lách luật, tránh luật. Vì chúng rất hiểu tầm vóc của lập luận pháp quyền chính là thượng nguồn của mọi diễn luận và giải luận về dân chủ, nên các chế độ độc tài, độc trị, độc tôn qua độc đảng luôn luôn tránh phát triển các trung tâm nghiên cứu về lập luận pháp quyền trong đó công luật phải bảo vệ bởi pháp luật. Đừng mong các chế độ độc đảng phản dân chủ lấy tự sáng kiến để tổ chức và thực hiện các hội thảo, hội nghị, hội luận về các lập luận pháp quyền để xây dựng một hùng lực cho dân chủ, vì chúng ngày ngày "mất ăn, mất ngủ" vì các lập luận pháp quyền này.
Giá trị quan hệ xã hội chính là quan hệ giữa người với người, qua sinh hoạt xã hội, qua đời sống xã hội, từ kinh tế tới thương mại, từ văn hóa tới giáo dục, từ tôn giáo tới tâm linh… Đây là một phạm trù ngày càng có tầm thiết yếu trong các nghiên cứu, điều tra về các kinh nghiệm nhân sinh trong không gian dân chủ. Giá trị quan hệ xã hội cao hơn quyền lợi của một tập thể, sâu hơn quyền lực văn hóa của một cộng đồng, và chắc chắn là rộng hơn tư lợi của một công dân. Vì không thể có nhân phẩm, tức là phẩm chất làm người, nếu không có những giá trị quan hệ xã hội có phẩm chất hay, đẹp, tốt, lành, ngày ngày nuôi dưỡng nhân phẩm qua các quan hệ cụ thể đã có trong xã hội.
Giá trị quan hệ xã hội giữa người với người là gốc của quá trình tạo dựng nhân sinh quan cho một công dân ; là rễ của quá trình chế tác ra thế giới quan của một tập thể ; là nguồn của quá trình phát triển vũ trụ quan của một cộng đồng trước đà tiến hóa của nhân loại. Chính giá trị quan hệ xã hội giữa người với người trực tiếp điều kiện hóa tầm nhìn-sức hiểu, tức là từ kiến thức tới tri thức của mọi chủ thể trong sinh hoạt dân chủ. Nhân phẩm của một người, của một tập thể, của một cộng đồng được kiểm tra và kiểm chứng qua phẩm chất của quan hệ xã hội của các nhân tố này.
Thảm kịch của xã hội Việt hiện nay với hiện tượng vô cảm (ai chết mặc ai) đang đi ngược lại với ba giá trị trên (giá trị nhân phẩm, giá trị lập luận pháp quyền, giá trị quan hệ xã hội)từ đó nói lên rất rõ : ba cái thiếu, ba cái vắng, ba cái trống một xã hội bị bưng bít tin tức và truyền thông tức là bị thui chột về nhân phẩm, mất niềm tin về pháp quyền tức là què cụt về thế giới quan trước công bằng xã hội, bị công an trị tức là bị cầm tù ngay trong tự do quan hệ xã hội.
Một thảm kịch ngoại giới luôn có nguyên nhân từ một thảm kịch nội giới, trong đó mọi bi kịch của Đảng cộng sản Việt Nam đều chóng chày trở thành thảm kịch cho Việt tộc hiện nay. Hãy nhìn lại lý lịch cá nhân của chủ tịch nước Trần Đại Quang vừa qua đời ngày 21/09/2018 (mà giả thuyết chính đáng là bị truy diệt qua thanh trừng nội bộ kiểu độc đảng phản dân chủ), là một chỉ báo rõ nét về số phận của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, thảm hại hơn là trình độ tri thức và mức độ luân lý của chính giới được nhào nặn bởi độc đảng : một tên trùm công an với tay vấy máu hàng ngàn nạn nhân trong các cuộc đàn áp đồng bào Tây Nguyên tới các cuộc đàn áp khốc liệt chống các chủ thể đấu tranh vì dân chủ, nhân quyền. Thảm kịch thành thảm hoạ cho đất nước, đây cũng là tên đầu sỏ các tổ chức trộm, cắp, cướp, giựt được tổ chức bởi tay chân bộ công an của hắn, từ cướp đất của dân oan để bán cho các tập đoàn địa ốc bất chính, tới các chuyện lén lút đưa du đảng, côn đồ để phá hoại, chụp mũ, vu khống các cuộc biểu tình yêu nước.
Với một hệ thống tham ô, tham nhũng ở mọi cấp, cùng lúc cũng là tên đầu nậu này cấu kết với bọn lưu manh, xã hội đen khủng bố những người yêu nước đấu tranh chống xâm lược Tàu, khi hắn là Bộ trưởng Bộ Công an. Một tên buôn máu để tranh quyền, cũng là loại mua bằng bán cấp để mua chức bán quyền với chủ đề tiến sĩ là "khoa học an ninh", mà chỉ có bọn gian lận học giả-thi giả-bằng giả mới dám dùng một cách vô liêm sỉ, trong khi báo đài tuyên huấn thì lại rao tin là một học trò giỏi, chăm học, phải "bắt đom đóm bỏ vào vỏ trứng để học bài", ai còn tin chuyện này ở thế kỷ XXI này ?
Và cái gốc của vấn đề là : an ninh có thể là một phạm trù nghiên cứu nếu nó có lãnh vực kiến thức chuyên môn cần khảo sát, nó không hề là một khoa học với lý thuyết luận, phương pháp luận, khoa học luận, thí dụ như của khoa học chính trị. Mà thật lạ ! Chủ tịch nước thì có bằng tiến sĩ về "khoa học an ninh", và tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng (là nhân vật trung tâm bị nghi vấn là tác giả sát hại chủ tịch nước này) thì có bằng tiến sĩ về "xây dựng đảng", nếu họ là chính khách thật, trong một chính giới thật, tại sao họ không nghiên cứu về chính trị học, tức là khoa học chính trị ?
Chuyện học giả-thi giả-bằng giả khó có thể xảy ra trong một môi trường dân chủ có tri thức rõ, vững, chắc, bền, mà dân chủ tây phương Tây gọi là : clarté (sáng (để) soi), tại đây cái giả không có chỗ đứng, ghế ngồi, như các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đang đánh lận con đen, biến cái "giả học" thành cái tự vỗ ngực là "có học". Cái sáng (để) soi của dân chủ vừa là lý thuyết, vừa là thực hành, vì nó vừa là lý luận, vừa là phương pháp, nó luôn đứng về phía sự thật để lột mặt nạ cái giả, vì nó luôn đứng về phía chân lý để lột trần cái gian, và nó luôn đứng về phía lẽ phải để tuột trần thân cái đểu.
Mảnh lực dân chủ có chỗ dựa là tri lực, mang bản lĩnh của nội lực, có vai vóc của sung lực, đã thành sức mạnh dân chủ trong trí tuệ của nhân loại, nơi mà thể chế dân chủ đã đưa ra ngoài sinh hoạt chính trị không những mê tín, dị đoan, mà cả các luận điểm giáo điều về thần linh, về tôn giáo không đủ lý luận toàn lý để tổ chức được các xã hội văn minh có phân công và phân bố chỉnh lý để phát triển, không những về kinh tế, thương mại, mà về cả khoa học và kỹ thuật lẫn văn hóa và giáo dục. Đẩy lùi ra các thể chế độc tài qua các lý luận không những từ dân chủ tới nhân quyền, mà cụ thể là trên hiệu quả của sáng tạo các cá nhân, nhờ có không gian dân chủ mới phát huy toàn diện tiềm năng và khả năng sáng tạo của mình.
Trong thế kỷ XX, nhân loại cũng thấy rất rõ là các thể chế dân chủ không xóa hẳn được chiến tranh, chỉ vì bọn sát nhân như Hitler tại Đức, Mussolini tại Ý, chúng sẵn sàng mỵ dân, để nắm chính quyền qua bầu cử. Như vậy trong sinh hoạt dân chủ luôn có bọn dùng đạo đức giả để lấy chính quyền qua tuyển cử, và đa số đương thời (cũng là đa số tạm thời) đã bầu cho chúng : phải mở mắt ra khi thấy chúng chính là sát thủ đang ám sát chính dân tộc của mình qua thế chiến ! Nhờ các kinh nghiệm dân chủ này, mà các dân tộc, các quốc gia Âu châu đã lại gần nhau sau hai thế chiến, để cùng nhau xây dựng một liên minh dân chủ, là hiện thân của Liên minh châu Âu hiện nay.
Trong quá trình này, các chuyên gia nghiên cứu về dân chủ đưa ra hai nhận định : một chế độ được xây dựng qua đầu phiếu dân chủ, có thể quay lại độc tài, nếu chính quyền của nó "thông đồng" với các tên có bản chất độc đoán, với các đảng chỉ muốn độc trị sau khi thắng cử, mà đệ nhị thế chiến gây ra bởi Đức Quốc xã là một minh chứng. Một thể chế gầy dựng qua bầu cử dân chủ, không thể thiếu vai trò chủ yếu của chính quyền, tức là chức năng vượt trội của hành pháp trong quản lý lẫn trong ngoại giao, trong chủ trì hệ thống hành chính mà cả trong vai trò điều chế kinh tế quốc gia, nhưng luôn được kiểm tra bởi lập pháp, kiểm soát bởi tư pháp.
Trên hai thực tế này, các thể chế dân chủ đã đi những bước sáng tạo khi sử dụng sức mạnh dân chủ để lấy sáng kiến về nội dung luật cá nhân trong định hướng ngày càng mở rộng tự do cá nhân mà quyền lực của các đảng phái chính trị và uy lực của các tôn giáo không ngăn chặn được, khi cá nhân đã thành công dân, thì công dân sẽ tự phát huy vị thế công dân bằng thông minh của chính mình, được pháp luật bảo vệ để trở thành chủ thể dân chủ : có vai trò trong nhiều hội đoàn và có chức năng trong nhiều tập thể được trợ lực bởi dân chủ qua nhân quyền.
Tổ chức xã hội dân sự qua đòi hỏi chính đáng về điều kiện lao động, văn hóa, giáo dục, lấy nhân quyền làm kim chỉ nam, để kích hoạt các phong trào trực tiếp đấu tranh cho công bằng xã hội không qua chính quyền, hoặc mang quy mô nhân đạo, thiện nguyện cũng không cần qua chính phủ. Bảo hiểm xã hội, trực tiếp đòi hỏi phải có luật xã hội song hành cùng các luật về lao động, về kinh tế… trong đó người bị thất nghiệp phải được tu nghiệp với nhiều chính sách khác nhau, và người nghèo phải được bảo hiểm y tế để sức khoẻ được chăm sóc một cách công tâm và chính quyền phải tích cực tham gia vào quá trình nhân đạo hóa các hệ thống bảo hiểm này để biến chúng thành những công trình bảo trợ người nghèo, kẻ yếu trong xã hội.
Luận thuyết đề kháng đảng trị
Khi tổng kết ba phân tích về nội dung của dân chủ : nội dung luật cá nhân, tổ chức xã hội dân sự, bảo hiểm xã hội để biến thành các công trình bảo trợ, ta thấy rõ chính các thể chế dân chủ đã sáng lập ra phạm trù an sinh xã hội, và chỉnh lý hóa để nó thành luật xã hội mà tam quyền phân lập phải công nhận và phải hỗ trợ nó. Ở đây, phải thấy là kết quả của một thể chế dân chủ luôn là một sự phối hợp tổng thể của ba kinh nghiệm, của ba vốn liếng, giờ đã thành ba cột trụ, ba nền móng để xây dựng dân chủ : chính trị, từ điều hành tới quản lý, từ quyết định quốc gia tới tổ chức xã hội. Luật pháp, có luật sư và có tòa án, để bảo vệ công dân và để ngăn cấm các hành vi phạm pháp. Lịch sử, tránh sai lầm của quá khứ để tránh sai phạm trong hiện tại và tương lai.
Chính ba vốn liếng này cho phép mỗi công dân trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, được phép so sánh thể chế dân chủ này với thể chế dân chủ kia, để cân, đo, đong, đếm xã hội dân chủ này với xã hội dân chủ kia, để tìm đường ngày một tiến bộ hơn. Vì nếu dân thực sự làm chủ thì chính dân sẽ làm cho đời sống của mình ngày càng khá hơn, bằng cách làm cho thể chế dân chủ của mình ngày càng tốt hơn, xã hội dân chủ của mình ngày càng lành hơn. Cho nên một xã hội thật sự dân chủ hiếm có chính quyền do dân bầu ra lại đẩy công an và quân đội giết dân khi dân chúng biểu tình đòi công bằng, đòi tự do. Một xã hội phản dân chủ tới từ độc tài của một độc đảng luôn dễ dàng có phản xạ đàn áp dân, nếu không xong nó sẽ bỏ tù dân, và nếu chưa xong nó có thể bắn giết dân, thảm sát dân, như ta đã thấy bọn lãnh đạo của Đảng cộng sản Trung Quốc ra lịnh giết tuổi trẻ đòi dân chủ tại Thiên An Môn.
Trông người rồi nghĩ tới ta ! Hãy nhớ lại mọi thảm hoạ phản dân chủ của Đảng cộng sản Việt Nam đều là bi nạn của Việt tộc trong thế kỷ XX qua và thế kỷ XXI này, từ bưng bít tin tức về các sự thật trong nội bộ đảng, tới các cuộc thanh trừng nội bộ của họ trong hậu đài, về quyền bính, luôn đi kèm với sự dối trá như phản xạ nội bộ đảng, luôn đi cặp kè với sự gian lận như phản xạ nội cung đảng. Danh sách các đồng chí nạn nhân của cặp bài trùng Lê Duẩn-Lê Đức Thọ thì dày sâu và đặc kín qua quá trình thanh trừng nội bộ, từ Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Đinh Đức Thiện… cho tới ngày nay với các nhân vật quyền lực tưởng là cao nhưng số phận thật bọt bèo, như Nguyễn Bá Thanh, tướng Phạm Quang Ngọ, giờ thì chủ tịch nước Trần Đại Quang.
Thảm hoạ của Đảng cộng sản Việt Nam trong quá khứ chính là thảm trạng chính trị hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam, các giả thuyết trung thực đều quay về phía lãnh đạo Tàu, chung quanh đám đầu sỏ Tập Cận Bình, với bộ máy nội gián là bọn tình báo Hoa Nam đang thao túng, áp đặt, giựt dây, và chúng bắt lãnh đạo nào của Đảng cộng sản Việt Nam phải chết : thì chết, chúng giết theo văn bản "virus hiếm và độc".
Một chuyện không thể xẩy ra nếu giới lãnh đạo có bản lĩnh độc lập quốc gia, nếu một chính giới có tự chủ dân tộc, trong một môi trường được bảo vệ bằng tri thức dân chủ, mọi chuyện "đột tử" đều phải được giải thích rõ ràng trong minh bạch, mà dân chủ Âu châu đặt tên là : trong để sáng (transparence). Cái thảm kịch thầm lặng hiện nay giữa những đảng viên nồng cốt của Đảng cộng sản Việt Nam là chính là sự công nhận của họ : Đảng cộng sản Việt Nam chỉ còn là một cái vỏ ! Không còn cái hồn cách mạng, không còn cái tâm trong luân lý đổi đời, không còn cái lõi dấn thân biết hy sinh vì giống nòi. Tức là không còn một nội dung lý luận nào dựa vào một ý thức hệ để tạo niềm tin cho tập thể, tức là không còn một nội hàm đạo lý nào để dẫn dắt dân tộc, để hướng dẫn đất nước trên con đường phát triển theo hướng văn minh.
Họ chỉ còn cái vỏ ! Đã rỗng toét vì bị chính họ nạo khoét từ năm 1930 tới nay, cùng lúc họ đã vơ vét tiền tài của dân tộc, tài nguyên của đất nước, một cái vỏ không tương lai, một cái vỏ chỉ tồn tại vài năm nữa để vơ vét cho hết, rồi các chóp bu sẽ bỏ chạy, trước khi bọn Tàu tặc xâm chiếm đất nước này. Cái vỏ của họ được bao bọc ngày ngày bởi công an trị, một công cụ của bạo quyền độc tài vì độc đảng, trấn áp đồng bào, đàn áp dân tộc, hãm hại các công dân yêu nước vì yêu dân chủ, quần chúng yêu tự do vì yêu nhân quyền. Cái vỏ này được che bọc bởi một quân đội vẫn còn làm tay sai cho Đảng cộng sản Việt Nam (cho tới bao giờ ?), trong khi Tàu tặc đã đột nhập vào đất nước Việt, đang nhan nhản trên đường phố, thao túng không những chính trị, ngoại giao mà cả về quân sự với một lực lượng quân đội đang "hèn với giặc", đang nhắm mắt để công an ngày ngày "ác với dân".
Nhưng cái vỏ là cái vỏ ! Không có nội dung chính trị thì không có tương lai chính trị ; không có nội chất luân lý thì không có nội hàm dân tộc ; không có nội công phát triển đất nước theo hướng văn minh thì không có nội lực của đồng bào. Tương lai của cái vỏ là sự khô cằn đã báo ngày tận thế của một chế độ chỉ biết nuôi cái ngu để cai trị ; vì chính các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là những người không khôn, không thông minh, chỉ biết tuyên truyền ngu dân để cai trị, họ nuôi cái ngu để tránh phải "vận não" để thành người khôn, họ chỉ muốn dễ bề vơ vét qua tham ô, tham nhũng, mà không cần tri thức về chính trị, không cần kiến thức về quản lý.
Tương lai của cái vỏ là ngày nó rơi, rồi nó tan rữa trên mặt đất, để từ từ về cõi chết của nó, như một ý thức hệ bạo tàn, lấy cái ác để đối xử với đồng bào, lấy cái độc để xử thế với dân tộc, vì chính các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là những người không tốt nên họ mở cửa cho Tàu tặc chiếm đất, biển, đảo. Họ cũng không phải là người hay khi họ bỏ mặc đồng bào phải chịu cảnh thực phẩm độc đi cùng với ô nhiễm môi trường do Tàu hoạ gây ra. Họ cũng không phải là người lành khi biến dân chúng thành dân oan không đất, không nhà, dân đen trong khốn cùng, khổ ải qua tham quyền và tham tiền của họ trong bối cảnh Tàu hoạn đang trùm phủ lên số phận của Việt tộc.
Chắc chắn là phẩm chất các lãnh đạo này không đẹp vì họ đã vơ vét rồi đưa tiền của bằng tham ô, tham nhũng của họ qua phương Tây, bỏ mặc tiền đồ tổ tiên, vận mệnh đất nước, sinh mạng đồng bào trong quy trình Tàu nạn. Họ không có cái hay, đẹp, tốt, lành của các chính khách yêu đất nước vì yêu dân chủ, thương đồng bào vì quý nhân quyền. Họ sẽ cắm cổ bỏ chạy với tiền của có được qua vơ vét trong đời tham quan của họ, khi phương trình Tàu tặc-Tàu hoạ-Tàu hoạn-Tàu nạn được khai triển và áp đặt trên đất nước của Việt tộc trong những ngày tháng tới.
Việt tộc phải thấy trong cái vỏ này : yêu, ma, tà, quỷ đang đục mòn tài nguyên đất nước, đang bòn rút tới kiệt quệ mọi sinh lực của Việt tộc : đừng tiếp tục chấp nhận cái vỏ này ! Vì nó là nơi ẩn chứa bọn tham quan xấu, tồi, tục, dở ; và cũng đừng để cái vỏ là nơi ẩn nấp của bọn buôn dân bán nước, làm tay sai cho phương trình Tàu tặc-Tàu hoạ-Tàu hoạn-Tàu nạn, vô cùng thâm, độc, ác, hiểm của Tàu tà, đang gây bao hiểm nạn cho đất nước Việt, dân tộc Việt, nhân phẩm Việt !
Các chế độ độc tài, độc đảng rất sợ phương trình : dân chủ = dân tự làm chủ, chúng càng "lo ra" hơn nữa khi thấy mọi tiến bộ : từ nhân quyền tới nhân phẩm, từ khoa học tới kỹ thuật, từ thông tin tới truyền thông, từ y tế tới giáo dục… luôn đưa văn hóa vào quỹ đạo của văn minh để giữ vững văn hiến, đều được các thể chế dân chủ khởi xướng, kích hoạt, thăng hoa, đó chính là tiến bộ của dân chủ, vì chúng biết hơn ai hết phản dân chủ là phản tiến bộ, chống lại tiến hóa của sự thông minh đã sẵn có trong nhân tri dân chủ !
Lê Hữu Khóa
(09/09/2020)
---------------------
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.
Sáng kiến ý
Sáng kiến ý là thượng nguồn của ý định biết dựng lên ý muốn, xây lên ý niệm, để ý kiến đóng được vai trò của sáng kiến, tạo chức năng tiền đề cho sáng chế trong lao động, sáng lập trong phương án ; sáng kiến ý là sự khởi hành của sáng tác, là khởi sự lập đồ án cho sáng tạo.
Ý thức luận hành động
Các khoa học xã hội nhân văn nhận ra rất rõ vai trò chủ đạo của ý thức khi ý thức đi vào cuộc sống bằng tri thức luận, khi ý thức biết kết hợp hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, nhận thức) với hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) để trợ lực cho hiện tượng luận bằng quy trình dùng ý thức để xem xét hiện tượng : Ý thức của tìm hiểu hiện tượng để phân biệt thực hư, để phân loại giả thật. Ý thức biết mô tả đầy đủ để nhận ra khuyết điểm cùng khuyết tật của cái giả, trước khi giải thích chỉnh chu về cái giả. Ý thức biết đi xa, đi sâu, đi rộng, để tìm hiểu ý đồ ẩn nấp sau lưng cái giả với các toan tính về chủ đích, về mục đích của cái giả. Ý thức khi hiểu được ý đồ, thì ý thức sẽ thấu ý muốn, ý định làm nên bản chất của ý đồ, chính là tác giả ẩn danh của cái giả, từ đó nhận ra cái giả có mặt trong hậu đài để giật dây hiện tượng bằng cái dối, cái gian, cái xảo, cái tráo… để lừa đảo tha nhân, đồng loại…
Khi ý thức thấy-để-thấu phương án ý muốn-ý định-ý đồ của cái giả thì ý thức cũng có khả năng hiểu-để-thông quá trình của phương án này. Nơi mà ý muốn có mặt trong đề nghị giả ; ý định xuất hiện trong thảo luận giả ; ý đồ hiện diện trong quyết định giả, để tạo điều kiện cho ra đời : hành động giả, để gian lận trong cộng đồng, trong tập thể, trong cơ chế, trong định chế, trong xã hội... Sự bày biện một quy trình giả dựa trên đề nghị giả-thảo luận giả-quyết định giả-hành động giả là xảo thuật của dân chủ tập trung mà thực chất là dân chủ giả, đây là chuyên "cơm bữa" trong chuyên chính độc đảng luôn tuyên bố quyết sách giả của nó, được chế tác bằng quyết tâm giả với sự bày biện giả của toàn đảng giả, cùng toàn dân giả.
Từ hiện tượng học lý trí của Hegel tới hiện tượng luận trực quan của Hussert, từ khảo sát chính trị học trong thực tế tới điều tra xã hội học trên thực địa, thì vai trò của ý thức luôn tăng lên, khi kẻ quan sát để lột trần cái giả biết giữ khoảng cách với cái giả để có cái nhìn toàn bộ về cái giả. Nhưng phương pháp quan sát tham dự của nhân học thì lại muốn đi sâu hơn vào cục bộ, nhập nội vào nội tạng, nhập thân vào sinh hoạt của cái giả bằng dư địa chí, bằng dân tộc chí để đào cho tới nơi tới chốn bản chất giả làm nên hiện tượng giả. Chuyên gia thông minh trong chuyên ngành thông thái của chuyên môn thông thạo thì có thể làm cả hai : lùi xa để thấy trọn, nhập nội để thấu sâu. Nên nhìn xa trông rộng không hề mâu thuẫn với nằm trong chăn mới biết chăn có rận. Muốn lột ý định, cởi ý muốn để vạch ý đồ thì phải làm cả hai.
Ý đồ tạo cái giả để lập cái gian, xây cái xả , ở đây ý đồ tạo cái giả không tuân thủ quá trình khách quan của lý và của luận, nên ý đồ này xuất hiện như một thực thể duy lý, nhưng khi phải phân tích về tính duy lý của nó thì nó gặp khó khăn trong kiểm chứng các tin tức. Hiện diện như một thực tế chỉnh lý, nhưng khi phải giải thích về tính chỉnh lý của nó thì nó gặp trở ngại trong kiểm soát các dữ kiện. Hành tác như một thực trạng hợp lý, nhưng khi phải giải luận về tính hợp lý của nó thì nó gặp rắc rối trong kiểm nghiệm các chứng từ. Hành động như một tổng thể toàn lý, nhưng khi phải lập luận về tính toàn lý của nó thì nó gặp ngõ cụt trong thực chứng các chứng minh.
Dở dang trong bất cập là bẩn kiếp của cái giả, bỏ cuộc trước xác chứng của sự thật là bần kiếp của ý đồ làm nên cái giả, cụ thể là khi cái giả làm cái thật phải "chưng hửng" vì cái láo của cái giả, thì chính cái giả đã "dở sống, dở chết" trước cái thật rồi ! Khi cái giả mang ý đồ oang oang rao hàng là : "tiền trao cháo múc", thì ý thức bảo vệ cái thật đã biết đong, đo, cân, đếm từ định lượng đến định chất để vạch mặt chỉ tên là cái giả : "treo đầu dê bán thịt chó". Nên cái giả mang thực chất của cái đểu, khi cái giả luôn leo đầu cưỡi cổ cái thật, khi phó chủ tịch Ban lý luận trung ương bị dương tính qua khám nghiệm dịch cúm Tàu trong tháng Ba năm 2020.
Tại đây người ta khám phá ra là ông cùng đồng bọn trong đó có bộ trưởng Bộ công thương, hoan hỷ trong hoang phí công quỹ bằng giá hạng thương gia hàng không quốc tế từ Việt Nam qua Ấn Độ. Rồi ông hoang đàng từ Ấn Độ tới Anh quốc, để khi trở lại Hà Nội thì ông tiếp hoang lạc với chi phí thường niên của hội chơi Golf giá vài tỷ bạc một năm. Chưa hết, lời lẽ lý luận trung ương là vô sản để làm đày tớ cho dân thì thật sự là giả, với cung cách ông ăn sáng, ăn trưa trong khách sạn năm sao. Chưa xong ông còn hoang du trong các bữa ăn, bữa tiệc có ca sĩ riêng phục vụ cho cuộc sống ngập hoang kiếp của ông trong khi đất nước bị nợ công tới ngập mặt, trong khi đồng bào của ông nheo nhóc trong khốn cùng. Hàng ngàn, rồi hàng trăm ngàn phải bỏ nước ra đi hàng năm, trong lộ trình thập tử nhất sinh của thùng nhân, mất mạng trong các xe đông lạnh, để khi được sống sót thì trai làm lao nô, gái làm nô tỳ cho các quốc gia láng giềng, nơi mà cuộc sống thật không còn nữa, mà giờ đây phải cam nhận cuộc sống giả một cách dã man nhất của kiếp nô lệ.
Khi cái giả là "đảng lãnh đạo tài tình" với "chính phủ kiến tạo" mà cái thật bị siết cổ ngay trong ý đồ ngu dân hóa với cái đạo đức giả của xảo ngôn trá ngữ trong xây dựng xã hội chủ nghĩa, với chữ trừu tượng biển lận cùng nghĩa siêu thực. Tại đây, cái thật bị vùi dập trong ý đồ của cái độc từ năm này sang năm kia, cái độc vùi lấp hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) có trong giống nòi Việt. Ngày đêm, cái độc tìm mọi cách truy diệt hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái) có trong văn minh Việt.Sáng trưa chiều tối, cái độc tìm mọi cách giết hại hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng tạo) có trong văn hiến Việt. Với ý đồ dùng giả thay thật, dụng gian thay thiện, chỉ để tiếp tục : ăn trên ngồi trốc bằng hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc tôn, độc trị) ; ngồi mát ăn bát vàng bằng hệ tham (tham quan, tham quyền, tham ô, tham nhũng, tham tiền) ; ăn không nói có bằng hệ gian (gian dối, gian lận, gian xảo, gian manh, gian trá) chính là cha sinh mẹ đẻ ra cái giả !
Nên khi chúng ta muốn vạch trần cái giả để kêu đúng tên, gọi đúng họ của nó thì chúng ta phải mô tả cái giả cho tới nơi tới chốn mà không dễ dàng rơi vào thóa mạ để phỉ báng nó. Chính quá trình mô tả chi ly để vào từng chi tiết của cái giả sẽ là chủ đạo để vào phân tích đầy đủ, giải thích chỉnh chu về cái giả. Tại đây các công trình nghiên cứu về cái giả trong thảm trạng của xã hội Việt hiện nay phải được bắt đầu bằng khoa học xã hội của điều tra thực địa, nơi mà điền dã thực nghiệm của dân tộc học, của nhân học, của xã hội học, sẽ là rễ chân lý, là gốc sự thật của thực trạng xã hội để giúp khoa học nhân văn được đại diện bởi ngôn ngữ học, triết học, văn học được đi tới cành, tới ngọn, tới chóp của cái giả.
Ý thức chống cái giả đã gây khó, gây khổ, gây khốn, khi ý thức là kiến thức được kiểm chứng bằng thực nghiệm, lại được đạo lý của hay, đẹp, tốt, lành chuyển thành giáo lý biết bảo vệ sự thật có trong cái thật, thì ý thức khi mô tả cái giả bằng khả năng nhận thức của nó. Để vạch mặt chỉ tên cái giả bằng thực chứng các dữ kiện, bằng xác minh các chứng từ, thì sự mô tả này không hề vô thưởng vô phạt, không hề ba phải trong phân tích, ỡm ờ trong giải thích. Mà ngược lại nó mô tả trong sắc nhọn của chứng tích, bằng sự xác định sắc bén các chứng nhân đã là nạn nhân của cái giả, đã bị cái giả gây khó, gây khổ, gây khốn… Như vậy, mô tả cái giả là thấy để thấu ý đồ thâm, độc, ác, hiểm của cái giả, đã làm nên quan hệ xấu, tồi, tục, dở giữa người và người. Tại đây, chúng ta cần sự có mặt của tâm lý học xã hội để biết tâm địa của cái giả, cần thêm chính trị học quyền lực để nhập nội vào não trạng của cái giả, cần luôn xã hội học quyền lợi để thấu các toán tính của cái giả, mà không quên triết học đạo đức định luận phạm trù bổn phận và trách nhiệm của cái thật để đối luận với cái trống bổn phận, vô trách nhiệm của cái giả.
Tự do luận tự tin
Tự do là rễ của hệ tự (tự tin, tự lập, tự chủ) không có tự do sẽ không có nhân quyền và dân chủ, cụ thể là sẽ không có công bằng và bác ái để có tam quyền phân lập : lập pháp, hành pháp, tư pháp, không có tự do sẽ không có một xã hội dân sự văn minh. Tự do là gốc của hệ công (công bằng, công lý, công pháp) trong đó công tâm không hề rời đạo lý và luân lý để tự do cá nhân không bị bóp, xiết, ngăn, chặn bởi ích kỷ, tư lợi luôn là mối đe dọa trong đời sống cộng đồng, trong sinh hoạt tập thể. Tự do là cội của hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức), hợp lưu của ý thức, nhận thức, tâm thức, làm nội lực cho thăng hoa cá nhân, cho thăng tiến tập thể, cho thăng chất cộng đồng, không có tự do thì tập thể chỉ là khuôn khép, cộng đồng chỉ là khung kín, và xã hội chỉ là nhà tù không quản giáo.
Tự do là nguồn của hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) trong đó tự do sáng tạo của cá nhân là dàn phóng cho tự do tập thể, là dàn nhún cho tự do cộng đồng, để đưa xã hội vào quỹ đạo trong đó cá nhân làm động cơ cho dân tộc, là động lực cho đất nước. Tự do là nền của hệ văn (văn hóa, văn minh, văn hiến) trong đó có tự do sáng kiến của tập thể, có tự do sáng lập của cộng đồng, có tự do sáng tạo của cá nhân kích thích văn hóa mở cửa để đón các văn hóa khác, thôi thúc văn minh của một dân tộc hội nhập vào văn minh của thế giới, đón chào các văn hiến của láng giềng, cùng nhau xây dựng một nhân văn đáng sống cho nhân loại. Tự do là trụ của hệ nhân (nhân loại, nhân sinh, nhân tình) được tự do của nhân tri, nhân trí, nhân văn đưa tới những chân trời của nhân đạo, nhân bản, nhân tính, trong đó nhân quyền hỗ trợ cho nhân nghĩa có chỗ đứng xứng đáng trong nhân cách của mỗi cá nhân qua tự do. Tức là tự do làm người một cách liêm sĩ nhất, tự do làm chủ cuộc đời mình một cách liêm minh nhất.
Tự do là cột của hệ cá (cá nhân, cá thể, cá tính), tại đây tự do nâng hệ cá tới hệ chủ (chủ động, chủ đạo, chủ quyền) để cá thể thực sự thành chủ thể, sống có trách nhiệm với tập thể, lao động có bổn phận với cộng đồng, tiến thân có đạo đức với xã hội, và chủ thể đó không ngừng có sáng kiến với dân tộc, có sáng tạo vì đất nước, chính tự do là định chất của mọi định nghĩa về chủ thể sáng tạo trong mọi xã hội văn minh, dân chủ, nhân quyền hiện nay.Tự do là móng của hệ tư (tư duy, tư tưởng) trong đó các hệ thống tư tưởng văn minh luôn lấy tự do của cá nhân, của tập thể, của cộng đồng, của nhân loại làm mấu chốt cho hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) để làm cao, sâu, xa, rộng hệ nhân (nhân tri, nhân trí, nhân văn), nếu không có tự do nghiên cứu, điều tra, điền dã, trong học thuật thì sẽ không có hệ phát (phát minh, phát huy, phát triển) trong tất cả các chuyên ngành khoa học.
Tự do là mái nhà của hệ triết (từ triết học tới minh triết) đây chính là quá trình tiến hóa tư duy của nhân loại qua nhân tri luôn củng cố cho nhân trí trong quy luật tiến hóa của nhân loại, qua đó ta biết thêm nhiều để hiểu sâu hơn hệ nội (nội chất, nội hàm, nội công) của nhân tính, cụ thể là để thấu suốt hơn số kiếp của con người, thân phận của cá nhân trong nhân thế. Tự do là thuật để chống hệ tham (tham quan, tham quyền, tham chức) mà thực chất là để duy trì tham nhũng, mà dân tộc đã bị tước đi quyền tự do bầu cử để chọn người tài phục vụ đất nước, tự do biểu tình trước vô số các bất công trong xã hội hiện nay. Chính tự do dẫn dắt dân chủ, chính tự do sẽ đưa đường dẫn lối nhân quyền, trong đó có tự do để tự chọn cho mình một tương lai, một chân trời không có tham quan bất tài, không có tham nhũng vô nhân, làm quỵ kiệt mọi tiềm năng phát triển của Việt tộc, đó là tự do diệt bọn "sâu dân, mọt nước".
Tự do là vốn để chống hệ độc (độc đảng, độc tài, độc tôn, độc trị) đang truy diệt nội công Việt tộc, đang vùi lấp nội lực trí thức, đang thủ tiêu sung lực thanh niên, đang bóp nghẹt mãnh lực của toàn dân trên con đường phát triển kinh tế, khoa học, kỹ thuật... Một hệ độc đang giết lần, giết mòn mọi sinh lực xã hội, biến thanh niên là nguyên khí của quốc gia thành các kẻ làm thuê, làm công với điều kiện lương bổng tồi, với bảo hiểm lao động tục. Chỉ có tự do của toàn dân, của toàn xã hội, của mọi cá nhân mới loại bỏ được hệ độc này đang thiêu hủy tiền đồ của tổ tiên, biến nam giới Việt tộc thành lao nô, biến nữ giới Việt tộc thành nô tỳ cho các nước láng giềng. Tự do phải được xác minh, xác nhận, xác chứng để vĩnh viễn gạt hệ độc đang trù ếm tương lai của giống nòi này.
Tự do là lực để chống hệ xâm (xâm lấn, xâm lược, xâm chiếm) của bọn lãnh đạo Bắc Kinh, mang phong cách không nhân cách mà ta có thể gọi chúng là : Tàu tặc, với ý đồ muôn thuở xâm lăng để đồng hóa Việt tộc. Chỉ có tự do bảo trì chủ quyền, tự do bảo đảm độc lập, tự do bảo quản đất nước của toàn dân, ta mới đi trên lưng bọn bán nước cho Tàu tặc đang lẩn lách trong giới lãnh đạo hiện nay. Chỉ có tự do của chính ta, ta mới đi trên vai bọn lãnh đạo "hèn với giặc, ác với dân", vì chúng đã vong thân đang chờ vong quốc. Chỉ có tự do của chính ta, ta mới đi trên đầu bọn Tàu tặc chỉ biết dùng tự do của kẻ mạnh để trộm, cắp, cướp, giật, đất đai biển đảo của láng giềng, mà không biết dùng tự do của chúng để làm đẹp tự do của nhân phẩm.
Khốn luận kiếp
Khốn kiếp ! Có lẽ là câu lăng mạ tệ hại nhất trong tiếng Việt, vì hung dữ nhất, vì tàn nhẫn nhất chăng ? Kiếp đã là nặng : cái nặng nề của số phận đeo đuổi suốt thân phận, cả đời : tới tận kiếp ! Tới cuối kiếp ! Không còn đường nào thoát, nhưng còn ngữ văn và ngữ pháp : khốn, đi đưa số kiếp con người tới đâu ? Ngữ văn và ngữ pháp luôn giấu kiếp nó trong ngữ vựng : khốn khó, khốn cùng, khốn nỗi, khốn nạn, một mê hồn trận đầy mìn bẫy, dày chông gai !
Khốn khó, đây là bối cảnh của cái khó bó cái khôn, cái nghèo diệt cái tinh anh, cái khó khăn xiết sinh lực, thắt thể lực, bóp tâm lực, chặn trí lực, cuộc đời rồi chỉ là đường hầm chăng ? Hãy thương những ai trong khốn khó, để biết thương mình một ngày kia cũng có thể sa lầy trong bãi khó. Khốn cùng : đường cùng ! Nghèo không lối ra, sa bẫy không lối thoát, hiện tại là ngõ cụt thì tương lai chắc chắn là đuối trong kiệt, kiệt quệ rồi kiệt lực, những ai mà không thương những người khốn cùng, những kẻ đó không có tình thương. Khốn nỗi, nỗi đây phải chăng là nỗi đoạn trường, mà phải qua cầu mới hay, hoàn cảnh xấu làm tâm cảnh loạn, bối cảnh tồi vùi tâm trạng đã quỵ, hiện trạng mờ mịt làm cả môi trường lụt rồi ngộp, nổi trôi rồi bồng bềnh, có trầm luân vì có lạc kiếp, hãy gần nhau trong khốn nỗi, để không xa nhau trong khốn cùng.
Khốn nạn, có nạn là có tai nạn trong thâm tình, mà cũng là hoạn nạn tâm giao, có biến nạn trong đồng cảm, đổ vỡ đã tới, không tha thứ thì tan nát sẽ nay mai, không bao dung thì quỵ gục trong mai mốt, không khoan hồng thì không sao thấy lối ra, nên rộng lượng luôn với kẻ khốn nạn đã mang bao ý định hèn, ý muốn ác, ý đồ xấu, để hại ta, để gây nạn ! Khốn khó, khốn cùng, khốn nỗi, khốn nạn trong kiếp, trong phận, trong đời, trong cuộc sống, sao tôi lại muốn : tha thứ, bao dung, khoan hồng, rộng lượngvới tất cả ? Tôi đang đi đâu trong kiếp tôi đây ? Xin trả lời : tôi đang đi tìm ánh sáng để đi ra khỏi đường hầm… để gặp… người !
Có kiếp ngủ của những ai đã chấp nhận như cam phận cái kiếp của mình ; ngược lại cũng có kiếp thức, thức để chuyển, để đổi, để hóa kiếp thấp, hèn, nhục, nhược qua một kiếp khác hay, đẹp, tốt, lành hơn. Nhưng không phải muốn là được, mà phải chuẩn bị, nhất là phải nhận diện được các nội lực của thức. Một trong các chuyên gia tư tưởng về chuyện này có : Phật ! Riêng tôi, xin tìm lối đi khác, dù chỉ là đường mòn chỉ đúng cho vài người.
Hãy phương thức hóa phạm trù thức : kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức, các phạm trù này dường như có lãnh thổ riêng, biên giới minh bạch của chúng giúp ta càng thức hơn trước những ngày dài và trước những đêm dài của một đời người. Kiến thức có khi tới từ lý thuyết qua khoa học, qua giáo dục ; có khi tới dưới dạng những mô hình, những phương trình được truyền đạt qua thí nghiệm (chưa chắc là thể nghiệm), nhưng chúng vừa là những ánh sánh, vừa là những bậc thang, cả hai tạo ra sức bật lên, đánh dấu chặn đường đầu tiên của câu chuyện tiến thân. Tri thức, cầm kiến thức trong tay, giữ trong não, nhưng khá hơn, giờ chúng đã thành sự hiểu biết vừa có lý thuyết, lại thêm thực hành (hiểu rồi biết, biết rồi thạo, biết rồi thông, thông rồi giải) ; biết người biết ta nên biết làm, biết sống, biết thủ thân.
Trí thức, thống hợp kiến thức và tri thức để thấy có những kiến thức này liêm chính hơn những kiến thức khác, có những tri thứ này rộng lượng hơn những tri thức khác, biết được nỗi khổ niềm đau cả đồng loại tức là đã biết bổn phận và trách nhiệm của mình rồi, đặt bước mạnh dạn trên con đường phòng thân. Ý thức, tổng hợp kiến thức, tri thức làm ảo cho trí (biết) thức, ý thức sẽ dùng đạo lý hay, đẹp, tốt, lành để gạn lọc các kết quả của kiến thức, kinh nghiệm của tri thức, biết việc gì nên làm, việc gì tránh làm, tức là đã biết lập thân. Nhận thức, vừa nhận diện được ý thức, lại vừa trực diện được với sự thực, vừa đối diện được với chân lý, dọn đường cho lẽ phải tới, và bảo vệ lẽ phải tới cùng, con đường trước mắt dạy ta tu thân. Tỉnh thức, nhận diện được hay, đẹp, tốt, lành, thì sẽ trực diện để buông bỏ cái xấu, tồi, dở, tục, để đối diện đấu tranh chống cái thâm, độc, ác, hiểm, ánh sáng của liêm chính, chỉ rõ đường đi nẻo về của chuyện thương người như thương thân. Giữa hai kiếp : kiếp ngủ giữa ban ngày, hay kiếp thức (dù phải thức suốt đêm), bạn ơi, tôi chọn kiếp thức.
Đã từ lâu, ta không tin là mỗi người chúng ta chỉ có một kiếp, rồi an phận với kiếp đó ; mà nếu chỉ có một kiếp, một phận, một số, thì chúng ta cũng nên dùng tự do của mỗi người để tạo ra nhiều kiếp trong một kiếp. Vì sao vậy ? Vì một kiếp thì chán lắm ! Kiếp thì được, nhưng tại sao lại kiếp luận ? Luận là lý luận, lập luận, giải luận và …tranh luận, bằng lý, chỉ có lý trong nội kết phân tích chỉnh chu, trong hoàn chỉnh giải thích chu đáo mới thuyết phục được nhau. Nhưng chuyện hiện thực cuộc đời còn cao hơn chuyện thuyết phục lẫn nhau, nó đang rành rành trước mặt ta trong bối cảnh, hoàn cảnh, hiện trạng, thực trạng của cuộc sống : đa kiếp lúc nào cũng ẩn hiện trong độc kiếp.
Đa làm độc sinh động, sống động, sống vui để vui sống… Ta càng thấy rõ là : đa thắng độc. Trong mỗi kiếp, hết kiếp làm con thì lên kiếp làm mẹ, kiếp làm cha, rồi tới kiếp ông, kiếp bà… Đi học cũng vậy, xong kiếp làm trò, kiếp làm sinh, là tới kiếp làm thầy, kiếp làm sư… Kể cả trong tình yêu, kiếp yêu xong là tới kiếp vợ, kiếp chồng…, chẳng cần tranh luận dài dòng, ai cũng thấy là các kiếp này chẳng giống gì nhau : đa kiếp đã sinh động hóa độc kiếp. Chuyện chính là được tự do hay bị bó buộc khi lấy đa để chủ động hóa độc ?
Tâm linh luận
Nếu các giá trị tâm linh sắc về trí tuệ, nhọn về lý trí, thì các giá trị phải là kết quả của một quá trình lập luận cao về tư tưởng, sâu về triết học, tức là rộng về nhân tri, và không hề dính dáng gì tới các chuyện mê tín dị đoan mà học thuật không kiểm chứng được, kinh nghiệm không thí nghiệm trọn vẹn được. Nhưng khi nghiên cứu về các giá trị tâm linh biết củng cố nhân lý, biết phục vụ nhân trí, biết thuyết phục nhân loại tinh anh hơn, giúp nhân sinh tỉnh táo hơn, dìu nhân thế và dắt nhân tình theo các tri thức mà sự sáng suốt của nhân trí giữ vững được các giá trị của nhân đạo, các giá trị tâm linh rất khác các sự thật của khoa học, các chân lý của triết học, các lẽ phải của luân lý tuyệt đối. Các giá trị tâm linh chọn đường đi nẻo về cho riêng nó, tại đây phải hiểu cách định vị (như các chỉ báo) của các giá trị tâm linh, để lần tìm ra cách định nghĩa các các giá trị này :
Chiều cao của các giá trị tâm linh là chiều cao của linh hồn, một chiều cao biết nâng nhân tri cụ thể là biết yêu theo chiều cao của hướng thiện những giá trị bị xem là tầm thường trong cuộc sống, tại đây minh triết cùng đạo đức biết nhập nội để chế tác ra các giá trị tâm linh ; làm được chuyện mà Platon đặt tên là sự bất tử của linh hồn. Chiều cao của các giá trị tâm linh luôn bắt đầu bằng sự đánh giá tỉnh táo, sự phân tích sáng suốt, luôn bình tĩnh chọn con đường để thực hiện cái tốt, nó mang theo nguyện vọng làm nên ý chí biến cái tốt thành hiện thực. Socrate phân tích chiều cao của các giá trị tâm linh là ý chí muốn làm tốt cái tốt.
Chiều cao của các giá trị tâm linh, không phải là chuyện của lý trí tuyệt đối, càng không phải là chuyện lý trí suông, nó chính là sự cẩn trọng không những là khẳng định các lý trí tốt, mà nó phải trở thành các triết lý của cuộc sống được quyền sống còn, nên nó không cực đoan quyết định, và không bao giờ quá khích trong hành động. Các giá trị tâm linh cũng không phải là chuyện khoa học chính xác, mà là chuyện triết đúng lúc, lý đúng cảnh, luận đúng thời, lấy bối cảnh để hiểu nhân sinh, lấy hoàn cảnh để tìm đáp số, lấy tâm cảnh để tư duy, nên nó tìm cách giải quyết ít nạn nhân nhất, cách trả lời ít đổ vỡ nhất, nó tìm cái hợp lý thấu tình để có lối ra, mà không ai phải là nạn nhân cho thời cuộc. Aristote gọi tên nó là thế giới của sự thông minh làm nên sự thông thái, và lắm lúc nó không lệ thuộc vào thế giới thông suốt sự thật của khoa học.
Chiều cao của các giá trị tâm linh chỉ thật sự là giá trị khi nó là sự cẩn trọng trong sáng suốt và là khẳng định của sự can đảm, cẩn trọng ngược với liều lĩnh, can đảm trái với hèn nhát. Các giá trị không bao giờ "liều mạng" để "tử vì đạo" mà "xem rẻ mạng người", nó cũng không hề "ba phải" để "lòn lách" mà làm "nhục kiếp người", nó cẩn trọng cho nhân sinh và nó can đảm bằng chính bản thân nó, nên nó ngược lại hoàn toàn với sự "né tránh" để tồn tại, "lẩn trốn" để "thoát thân", vì nó dụng chân lý, biết dùng sự thật để tạo lối thoát cho những ai "lầm đường lạc lối" sa lầy trong "mê lộ" đang đi tới "tử lộ" mà cứ tưởng đang đi trên "sinh lộ". Chiều cao của các giá trị tâm linh mang tính tiên tri mà nhân sinh kiểm chứng được, đó là tầm vóc của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cứu cùng lúc nhà Mạc và nhà Nguyễn ra khỏi vũng lầy của vua Lê, chúa Trịnh. Chiều cao của các giá trị tâm linh khi được chứng thực bởi sự cẩn trọng và sự can đảm, Montaigne đặt tên cho nó là sự thông minh linh động biết thích ứng trong biện chứng vì biết giữ trí và giữ tâm.
Chiều cao của các giá trị tâm linh có trong ý nguyện muốn cái tốt có mặt trong cuộc sống để chống lại cái xấu có cha sinh mẹ đẻ là cái ác ; nhưng các giá trị tâm linh luôn mang theo sự cẩn trọng không những trong định nghĩa thế nào là tốt mà còn bắt con người phải rõ ràng từ cứu cánh tới phương tiện, luôn phải cẩn trọng hơn nữa khi chọn lựa phương tiện, khi đã có cứu cánh tốt rồi. Plotin tin rằng chiều cao của các giá trị tâm linh làm nên đạo đức của ý nguyện muốn làm tốt cuộc sống từ cứu cánh tới phương tiện, từ thượng nguồn của tư duy tới hạ nguồn của hành động.
Chiều cao của các giá trị tâm linh khi lấy sự cẩn trọng làm giá trị cho đạo đức, thì nó trở nên sinh động khi phối hợp sự cẩn trọng luôn song hành trong các giá trị của luân lý về bổn phận và trách nhiệm. Các giá trị tâm linh luôn biết điều phối sự cẩn trọng như sức mạnh của tư duy biết cái nào là cái tốt cho mình và cho người khác, nó mang trọn vẹn một quá trình suy ngẫm, nó mang toàn bộ các kết quả tâm định và trí định để làm nên thiền định trong tỉnh táo và sáng suốt, mà St Thomas đặt tên cho nó vòng tròn khôn ngoan biết chứa cả hai, vừa cẩn trọng, vừa đạo đức.
Chiều cao của các giá trị tâm linh biết dựa vào ý muốn đi tìm tri thức để hiểu sự vận hành của nhân tri, nó luôn song hành cùng với ý nguyện của nhân sinh muốn tồn tại bằng nhân phẩm trong nhân thế, mặc dù nhân loại đang đầy dẫy các xáo trộn, các hỗn loạn của nhân tình. Weber đề nghị muốn có các giá trị này nhân tri phải thấy sự quan hệ chặt chẽ giữa đạo lý của ý chí và đạo lý của trách nhiệm, khi cả hai có mặt để phối hợp nhuần nhuyễn với nhau, thì chính cái trí của cái tri sẽ giúp cuộc sống thấy ra cái sinh của cái có, cụ thể là quyền năng của nhân trí sản sinh được các giải thoát mới cho nhân lý, để nhân tri nhận ra lối thoát mới cho nhân thế.
Chiều cao tâm linh Việt không những là chiều cao của nội dung lý trí, mà còn là chiều sâu của tư tưởng Việt mang văn hiến riêng của Việt tộc. Chiều cao tâm linh Việt không những là chiều cao của trí tuệ, mà còn là chiều rộng của lịch sử Việt mang văn minh riêng của Việt tộc. Chiều cao tâm linh Việt không những là chiều cao của nhân phẩm Việt, mà còn là chiều dài của bản sắc Việt luôn biết mở cửa để song hành cùng văn hóa Việt. Cao, sâu, rộng, dài có độ bền của đạo lý đã được thử thách, có độ vững của đạo đức đã biết vượt qua thăng trầm ; đạo lý bền biết đi trên lưng cái cực đoan để vượt thoát cái vô minh, đạo đức vững biết đi trên vai cái quá khích để vượt thắng cái vô tri.
Câu chuyện tâm linh không hề là câu chuyện lý thuyết, vì trong đời sống hằng ngày, mọi người có thể nghe được câu "thấy thương quá" tới tự lời nói thật bình thường của những người có lòng vị tha, muốn chia sẻ tức khắc nỗi khổ niềm đau với tha nhân. Câu chuyện tâm linh không hề là câu chuyện trừu tượng, vì trong sinh hoạt hằng ngày, mọi người có thể nghe được câu "nghe mà thương" tới từ một câu nói ngắn gọn của những người có lòng bao dung, muốn chia sẻ tức thì sự đồng cam cộng khổ với đồng loại.
Câu chuyện tâm linh không hề là câu chuyện viễn vông, vì trong quan hệ hằng ngày, mọi người có thể thấu được câu "càng nhìn càng thương" tới từ một phản xạ nhanh nhẹn trong sáng suốt của những người có lòng rộng lượng, muốn chia sẻ tức thời chuyện đồng hội đồng thuyền với đồng bào mình. Đạo Phật biết mang hiện thực này đến để chia sẻ với Việt tôc về vô lương tâm qua các Tâm kinh : "nhìn đời bằng mắt thương" để làm sáng lên lòng vị tha, lòng bao dung, lòng rộng lượng của Việt tộc.
Câu chuyện tâm linh không quan hệ gì tới câu từ tâm linh bị lạm dụng trong ngôn ngữ hiện nay bị mê hoặc bởi mê tín về cõi âm nào đó mà nhiều thành phần xã hội hiện nay đang bị lôi kéo, để bọn đầu cơ mê tín trục lợi ngay trên mê lộ của họ. Tuệ giác của tâm linh kết hợp thuần thạo sự thật, chân lý, lẽ phải để tạo ra cái đẹp của đạo đức, cái hay của đạo lý, cái tốt của luân lý, từ đó tuệ giác tâm linh luôn ngược hướng, trái chiều với mê tín, vì nó mang sự tỉnh táo của lý trí, sự sáng suốt của trí tuệ, có liên minh cứng cáp là minh triết trong lý luận, có minh luận trong hành động.
Tuệ giác của tâm linh thấy đường đi nẻo về của nhân tính, nhận ra nhân vị nhờ nhân bản, hiểu rõ nhân tri nhờ nhân từ, thấu sâu nhân đạo nhờ nhân nghĩa. Mê tín bị mê hoặc trong mê lộ còn đang mò mẫm dưới chân đồi, thì tuệ giác của tâm linh đã tới đỉnh núi với nhân cách thư thả của nhân tri thư thái để nhận diện mọi chân trời mà không bị một trở lực nào vùi, lấp, che, choáng được. Đó là tuệ giác từ bi của Phật tâm đã nhập vào thơ của Phậm Thiên Thư : "Muôn loài như sương rơi, xin làm hoa trắng đỡ".
Nơi đây, nội công tâm linh mang tính thiêng liêng với các giá trị đạo đức tối cao bắt con người lầm đường lạc lối phải suy nghĩ lại, phải cân, đo, đong, đếm lại từ hành vi tới hành động của mình để tìm lại con đường hay, đẹp, tốt, lành của đạo lý. Nội công tâm linh không phải là chuyện thể lực thuần túy, mà là chuyện của trí lực biết bao dung, là chuyện của tâm lực biết dung thứ : phải dung kẻ dưới mới là lượng trên (Nguyễn Du).
Có tầm vóc, có nội công sẽ có bản lĩnh, nhưng các giá trị tâm linh không cần bản lĩnh của xảo thuật để thành công, cũng không cần bản lĩnh của mưu lược để thoát hiểm, nên không cần luôn bản lĩnh của mưu trí để tồn tại trong tính toán. Các giá trị tâm linh được sống ngay trong ánh sáng của chuyện con người yêu cái đẹp, thích cái hay, quý cái tốt, trọng cái lành, nó vượt lên nên vượt xa chuyện tính toán để lời lỗ, để hơn thua, để đọ tài, để thi sức. Bản lĩnh của các giá trị tâm linh tự tin nên tự tại, tự trọng nên tự do trước mọi mưu kế, mưu đồ, nó đi trên mọi cái đầu của vị kỷ, nó đi xa hơn mọi con tính ích kỷ, vì nó đại trí nên nó thoải mái trên đại lộ của mọi nhân lộ.
Trong khu vực của tam giáo đồng nguyên, khi đánh giá về các loại chiến thắng trên mọi mặt trận từ chính trị tới quân sự, từ văn hóa tới giáo dục, từ luân lý tới đạo đức… người xưa xếp loại từ thấp lên cao : thắng nhỏ là thắng mà phải dùng : lực ; cao hơn là chiến thắng khi biết dụng : trí, cao hơn nữa là dùng : đức, và cao hơn cả là thắng là nhờ : đạo ! Toàn thắng. Đạo của nhân đạo tới từ chính nghĩa có lý luận làm nên chính đạo, mang giá trị của nhân đức, có nhân trí của nhân tính, có nhân lý của nhân vị, có nhân văn của nhân bản, tầm vóc của tâm linh chắc chắn là ở đỉnh cao giữa đức và đạo.
Thắng được đối phương với sự khâm phục của đối phương, với tầm vóc giúp đối phương cùng thắng với ta, từ đó đối phương không còn là đối thủ, nên không bao giờ trở thành tử thù với ta. Mà ngược lại, chính đối phương tìm tới ta, tiếp nhân sinh quan vị tha của ta, nhận thế giới quan rộng lượng, đón vũ trụ quan khoan dung của ta ; đây mới là toàn thắng qua đạo ! Thắng vinh quang, thắng bền vững vì biết "cải tử hoàn đồng" cái xấu, tồi, tục, dở giúp nó hóa thân vào cái hay, đẹp, tốt, lành. Hãy nhận ra tầm vóc của Nguyễn Trải : "lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, lấy trí nhân thay cường bạo", để thấy tầm vóc tâm linh Việt tộc.
Hãy đi từ trên xuống dưới, bắt đầu bằng đạo, đi tiếp tới đức, qua nẻo của trí, cùng lúc tránh xa lực (bạo lực), mẹo (mưu kế) vì chúng quá thấp so với các yêu cầu của các giá trị tâm linh, nhưng tác giả sẽ đi trên hai con đường luôn cần sự có mặt của tâm linh để vấn nạn các khổ đau mà Việt tộc đã cam nhận trong lịch sử cận và hiện đại của mình. Cấu trúc lý luận của tiểu luận sẽ bắt đầu bằng tâm đạo để đi tìm chiều cao các giá trị tâm linh thừa kế của tổ tiên, nhận diện được sự đặc sắc của các kinh nghiệm tâm linh của Việt tộc, nhất là qua các kinh nghiệm của thiền tông, từ đời Trần tới cõi tâm linh mà thiền sư Thích Nhất Hạnh đã trao truyền cho thế giới.
Rồi đi tới tâm đức đã có từ lâu trong sáng tác thi ca của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… và tiếp tục trên con đường tâm trí qua nhiều tác giả, nơi mà tâm linh chính là trí lực của nhân lý. Theo chiều sâu lịch sử của Việt tộc, tiểu luận dừng lại trước các oan khiên của đất nước, để hiểu tâm cảnh qua hoàn cảnh của chiến tranh, tâm phận qua hậu quả của nội chiến huynh đệ tương tàn thế kỷ XX vừa qua, cuối cùng là đi sâu vào tâm nạn tới từ bạo quyền độc tài lập nên nhà tù cải tạo sau 1975, giờ đã tới tà quyền là "hèn với giặc, ác với dân" để cảm nhận bi nạn của Việt tộc. Tâm đạo, tâm đức, tâm trí trong các giá trị tâm linh là để giúp người, vì quý người.
Tâm cảnh, tâm phận, tâm nạn trong các giá trị tâm linh là để cứu người, vì thương người.
Tâm sử luận
Tâm luận song hành Sử luận, là dùng tâm sự để tìm tâm giao qua lịch sử, qua đối diện tôn kính trước các danh nhân của Việt tộc, qua đối thoại khiêm cẩn trước các công thần của đất nước, mà không hề có tham vọng truyền sử, không hề có ý muốn trao sử, nên không hề mong làm chuyện viết sử. Phương pháp luận của tâm luận dựa trên thượng nguồn là : sử liệu, chính chức năng của sử liệu sẽ làm rõ nét vai trò lịch sử của các nhân vật mà tác giả tâm luận xin đối thoại khiêm cẩn.
Cũng chính sử liệu với vị thế rõ ràng trong sử học của Việt tộc sẽ tạo -được hay không- tâm giao giữa các nhân vật được lựa chọn, tâm luận tìm tâm giao, chỉ để làm sáng một điều là hiện tại của nhân sinh thấy-hiểu-thấu được quá khứ của nhân sử, để tìm nhân lý cho nhân thế. Cũng chính sử liệu là tiền để lý luận, lập luận, diễn luận, giải luận làm gốc, rễ, cội, nguồn cho đối thoại với các danh nhân, đối thoại này ảo hay thực là tùy vào tính khả thi trong quá trình xây dựng sử học đang trở thành khoa học lịch sử, như ta đang chứng kiến trong các quốc gia có văn minh dựa vào khoa học xã hội và nhân văn.
Lý thuyết luận của tâm luận dựa vào hạ nguồn của phân tích-giải thích-phê bình diễn biến Việt sử (cận đại và hiện đại) của Việt tộc, trong một thế kỷ qua, với bao cuộc chiến tàn khốc hằn sâu trong tâm lý dân tộc. Với bi sử mà hậu quả thật dai dẳng khi chọn một ý thức hệ ngoại tộc : cộng sản với phong trào cộng sản quốc tế mà từ khi đi vào quỹ đạo này, thì số kiếp của Đảng cộng sản Việt Nam (Đảng cộng sản Việt Nam) không sao tách ra khỏi gọng kìm của Đảng cộng sản Trung Quốc (Trung cộng).
Bi kịch đã trở thành thảm sử, Đảng cộng sản Việt Nam đã buộc Việt tộc vào ba sử đạo thật bi đát : với một chế độ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc trị) ; mang theo nó một chế độ tham (tham quan, tham quyền, tham nhũng, tham ô) ; ngày ngày thiêu hủy sinh lực dân tộc ; trừ khử đa (đa nguyên, đa năng, đa hiệu, đa tài) như đang khử loại thông minh, trí tuệ của bao thế hệ.
Khoa học luận của tâm luận, là chống độc luận, như chống lối tuyên truyền một chiều, bị ý thức hệ xỏ mũi dắt đi, hay bị quyền lực chóp bu giật dây, thao túng với ý đồ bám quyền-ôm lợi, bất chấp lợi ích của dân tộc, mà tiền đồ tổ tiên ngày ngày đang bị Tàu tặc đe dọa từ biển đảo tới biên giới đất liền, từ chính trị tới kinh tế, từ môi trường tới thực phẩm. Chống độc luận bằng đa luận với đa lý của đa nguyên mà chỗ dựa là lấy nhân tính, nhân tri, nhân tri trong nhân lý để phục vụ cho nhân sinh, nhân tình, nhân nghĩa vì nhân đạo. Chống độc luận bằng đa ngành với đa lý của đa chuyên, vận dụng tất cả các chuyên ngành, chuyên môn, chuyên gia không những trong trong sử học mà của chung cả khoa học xã hội và nhân văn.
Tâm luận khẩn nguyện xin sử luận tìm cho ra nội luận lãnh đạo : Tại sao các minh vương thuở xưa có bản lãnh gì mà làm được chuyện quốc thái, dân an ? Tại sao các minh chúa thuở xưa có nội công gì mà làm được chuyện cơm no, áo ấm ? Tại sao các minh sư thuở xưa có tầm vóc gì mà làm được chuyện trong ấm, ngoài êm ? Tại sao các minh tướng thuở xưa có sung lực gì mà làm được chuyện giữ yên bờ cõi ? Sử luận khi song cặp với tâm luận sẽ nhập nội được vào não bộ lãnh đạo hiện nay để tâm luận giúp lãnh đạo hiện nay làm được chuyện yêu nước, thương dân.
Tâm luận chân nguyện xin đào sâu sử luận tìm cho ra nội chất kiếp Việt : Tại sao các lãnh đạo hiện nay lại không có bản lãnh gì để làm được chuyện quốc thái, dân an ? Tại sao các lãnh đạo hiện nay không có nội công gì để làm được chuyện cơm no, áo ấm ? Tại sao các lãnh đạo hiện nay không có tầm vóc gì để làm được chuyện trong ấm, ngoài êm ? Tại sao các tướng lĩnh hiện nay không có sung lực gì mà làm được chuyện giữ yên bờ cõi ? Khi sử luận song lứa với tâm luận sẽ vào tim óc lãnh đạo hiện nay để tâm luận giúp lãnh đạo hiện nay làm được chuyện yêu nước, thương dân.
Tâm luận cầu nguyện sử luận tìm cho ra nguyên nhân, lý do về nỗi khổ-niềm đau của Việt tộc : Tại sao trên quê cha đất tổ hiện nay có quá nhiều dân đen-dân oan vậy ? Tại sao trên quê cha đất tổ hiện nay có quá nhiều tham quan-tham ô-tham nhũng vậy ? Tại sao trên quê cha đất tổ hiện nay có quá nhiều bất bình đẳng, bất công vậy ?
Tại sao trên quê cha đất tổ hiện nay có quá nhiều bạo quyền-bạo lực-bạo động-bạo hành vậy ? Tại sao các tướng lĩnh hiện nay không có sung lực gì mà làm được chuyện giữ yên bờ cõi ? Sử luận sẽ giúp tâm luận vào thông minh Việt, sáng tạo Việt để tâm luận giúp Việt tộc làm được chuyện dân giàu nước mạnh.
Lương tri luận
Tù nhân lương tâm, mang hệ lương (lương tâm, lương thiện, lương tri) đi tù, vào tù vì lương tâm của mình, như vậy bạo quyền của độc đảng toàn trị, tà quyền của cơ chế độc trị, ma quyền của công an trị như đang bỏ tù cả dân tộc, cả đồng bào khi chúng đẩy các tù nhân lương tâm vào vòng lao lý. Tù nhân lương tâm là tuyến đầu trong cuộc đấu tranh cho nhân quyền vì nhân phẩm. Tù nhân lương tâm là những đứa con tin yêu của Việt tộc bằng lương tri của mình : "Sống lâu mới biết lòng người có nhân !". Tù nhân lương tâm nhắc cho dân tộc, cho đồng bào là nhân quyền luôn có chỗ dựa trên hệ nhân nơi mà nhân phẩm là gốc của nhân tâm, nhân từ, có rễ là nhân bản, nhân văn, có cội là nhân tính, nhân lý, làm nguồn cho nhân tri, nhân trí, tất cả cùng bồi đắp cho nhân vị. Tù nhân lương tâm chấp nhận : tù đày, tra tấn, nhục hình, truy sát… để đưa cả hệ nhân này vào nhân đạo, để đi trọn con đường từ nhân ái tới tận nhân nghĩa, tù nhân lương tâm là những đứa con kiên cường của Việt tộc bằng quyết tâm của mình : "Đường mòn nhân nghĩa chẳng mòn !".
Tù nhân lương tâm mở cửa cho dân tộc thấy chân trời của nhân quyền, đẩy cửa cho đồng bào thấy rạng đông của dân chủ, bằng chọn lựa của hệ đa : nhận đa đảng để đón đa tài, quý đa trí để dâng đa năng, trọng đa dũng để tạo đa hiệu. Tù nhân lương tâm xuất hiện rồi dùng nhân tính để xóa não bộ của bạo quyền độc đảng toàn trị, dùng nhân lý để tẩy não trạng của tà quyền cơ chế độc trị, dùng nhân bản để gỡ não hoạn của ma quyền công an trị. Tù nhân lương tâm đầy chính nghĩa là những đứa con ngoan dũng của Việt tộc : "Sống có nhân mười phần không khó". Tù nhân lương tâm bồng, ẵm, bế, cõng hệ đạo trong chính nhân kiếp của mình, để làm sáng lên đạo lý : Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ của tổ tiên, để làm rõ ra đạo đức của Việt tộc : Bầu ơi thương lấy bí cùng.
Chính đạo lý khi song hành cùng đạo đức làm nên luân lý qua bổn phận và trách nhiệm của Việt tộc khi gọi nhau là đồng bào, cùng tổ tiên, cùng huyết thống. Trên thượng nguồn lập quốc con dân Việt đã sinh ra cùng một bào thai thủa nào của cha Lạc Long Quân, của mẹ Âu Cơ, luôn thấy để thấu : "Máu chảy ruột mềm". Tù nhân lương tâm là những đứa con đoan chính của Việt tộc qua dấn thân : "Máu chảy tới đâu ruột đau tới đó".
Tù nhân lương tâm vận dụng lý luận của sự thật để nhận ra chân lý, sử dụng lập luận của chân lý để tìm ra lẽ phải, tận dụng giải luận của lẽ phải để diễn luận chiều cao của lương tâm, chiều sâu của lương thiện, chiều rộng của lương tri. Hệ lý có nội công của lý luận để biết đường đi nẻo về của nhân đạo ; có bản lĩnh của lập luận để xây nền đắp gốc cho nhân vị ; có tầm vóc để dựng tường, xây mái cho nhân bản. Tù nhân lương tâm là những đứa con tỉnh táo trong sáng suốt của Việt tộc : "Người khôn chưa đắn đã đo, chưa ra tới biển đã dò nông sâu".
Tù nhân lương tâm mang kiến thức của giống nòi, của đất nước để phục vụ cho tri thức của dân tộc, của đồng bào ; dâng trí thức của mình để trao ý thức cho xã hội, cho quần chúng ; truyền nhận thức của mình để tạo ra tỉnh thức cho bao thế hệ mai hậu. Hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức) chế tác ra hệ sáng : lấy sáng kiến để giống nòi được tiến hóa, lấy sáng tạo để dân tộc được thăng hoa, lấy sáng chế để xã hội được tiến bộ. Hệ thức song đôi cùng hệ sáng (sáng kiến vì dân chủ, sáng tạo vì nhân quyền, sáng chế vì đa nguyên) thì bạo quyền của độc đảng toàn trị sẽ bị thay, tà quyền của cơ chế độc trị sẽ phải lùi, ma quyền của công an trị sẽ tự diệt ! Tù nhân lương tâm là những đứa con thông minh của Việt tộc, có "điều hay, lẽ phải" để "nhìn xa trông rộng".
Tù nhân lương tâm, theo định nghĩa quốc tế, là những công dân một sớm một chiều thành tù nhân, vì họ có chính kiến hoặc chống lại, hoặc khác biệt với ý thức hệ, với chế độ đang cầm quyền không tôn trọng tự do ngôn luận. Như vậy, ý thức hệ độc tôn để độc tài, chế độ độc trị để độc quyền, mà trong trường hợp của Việt Nam hiện nay là độc đảng để độc quyết chính là nguyên nhân cùng lúc là thủ phạm sinh ra, tạo ra, chế ra hiện tượng : tù nhân lương tâm !
Hiện tượng : tù nhân lương tâm không có trong các quốc gia tôn trọng văn minh của dân chủ, quý trọng văn hiến của nhân quyền, như vậy hiện tượng này chỉ có trong hiện tình của một quốc gia như Việt Nam hiện nay là độc đảng-toàn trị, trong đó hoàn toàn không có tam quyền phân lập, để có một nền tư pháp biết lấy công pháp dựa trên công lý để giải luận rõ ràng về sự công bằng giữa các chính kiến. Từ đây, mọi lý luận đều dẫn đến một lập luận là : bạo quyền độc đảng-toàn trị phải bỏ tù, mà không qua đối thoại để đối luận, thì bạo quyền này được nuôi dưỡng bởi : tà kiến !
Chính tà kiến tới từ tà quyền được giáo dưỡng bởi bạo quyền độc đảng-toàn trị đã vạch ra tà lộ cho thượng tầng lãnh đạo bằng ngục lộ để dựng lên nhà tù, rồi đẩy các công dân yêu nước thương nòi, quý dân chủ, trọng nhân quyền vào vòng lao lý. Khi lý luận, lập luận, giải luận xong thì cùng nhau tới một diễn luận là hiện tượng tù nhân lương tâm, có nguyên nhân của đấu tranh giữa hai thế lực : chính kiến đúng chống tà kiến sai đang cầm quyền bằng cái ác !
Chính kiến hay chống tà kiến tồi đang cầm quyền bằng cái độc ! Chính kiến đẹp chống tà kiến xấu đang cầm quyền bằng cái dở ! Chính kiến tốt chống tà kiến tục đang cầm quyền bằng cái bẩn ! Chính kiến hay chống tà kiến tồi đang cầm quyền bằng cái hiểm ! Hiện tượng : tù nhân lương tâm luôn là cuộc đấu trí giữa : Lương tâm chống lại bạo quyền lãnh đạo ; lương thiện chống lại tà quyền tham quan ; lương tri chống lại ma quyền tham quyền. Chính hệ lương (lương tâm, lương thiện, lương tri) làm nên định nghĩa, có định đề làm nền cho định luận của hiện tượng tù nhân lương tâm, tại đây tù nhân vì chính kiến của chính nghĩa đã làm đẹp cụm từ lương tâm, làm thăng hoa nhân cách của tù nhân, vì tù nhân chính là chủ thể của lương tri.
Tù nhân lương tâm, qua tên gọi quốc tế là prisonnier de conscience, mà conscience là ý thức, nếu bị một bạo quyền lãnh đạo mang tà lực của âm binh bỏ tù mình bởi mình có ý thức, thì đây là định nghĩa, định đề, định luận khác, cũng thật đẹp. Vì trong ngữ văn cũng như ngữ pháp cả hai ngữ vựng : lương tâm và ý thức đều đẹp vì cả hai đại diện cho đạo lý đúng, hay, tốt, lành để đối diện rồi trực diện trước cái phản đạo lý xấu, tồi, tục, dở đến từ cái phản luân lý thâm, độc, ác, hiểm trong cuộc sống.
Định nghĩa thế nào là tù nhân lương tâm cần cả hai gốc, rễ, cội, nguồn của hai hệ : hệ lương (lương tâm, lương thiện, lương tri) ; hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức). Tại đây, kiến thức xuất hiện để xóa vô tri, tri thức có mặt để loại vô minh, trí thức hiện diện để bứng vô nghĩa, ý thức ra đời để gạt đi vô cảm, nhận thức đứng lên để vùi vô tâm, làm nên tỉnh thức từ lương tâm tới lương tri. Tại đây, chọn lựa của các đứa con tin yêu của Việt tộc, vừa cõng hệ lương (lương tâm, lương thiện, lương tri), vừa bồng hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức) tạo nên một sung lực cho quần chúng, cho xã hội, sung lực đó chính là hùng lực của sự phản tỉnh.
Sự phản tỉnh ngay khi tỉnh giấc là đồng bào, dân tộc đã qua ác mộng của tà lộ được tà quyền vẽ ra qua ngu dân bằng tuyền truyền, qua áp chế, khủng bố, trù dập của một chế độ lấy công an trị để gieo cái sợ, dùng cái sợ để truy hủy sung lực của tỉnh thức, để truy diệt hùng lực của sự phản tỉnh. Hãy lý luận tiếp để lập luận thêm là bạo quyền lãnh đạo không sợ sự thật, nó chỉ sợ sự thức tỉnh ; tà quyền tham quan không sợ chân lý, nó chỉ sợ sự phản tỉnh. Ma quyền tham quyền, không sợ lẽ phải, nó chỉ sợ sự tỉnh giấc. Chính các tù nhân lương tâm đại diện cho cả ba : sự thức tỉnh trước bất công ; sự phản tỉnh trước bất luân ; sự tỉnh giấc trước bất nhân.
Tâm thức luận
Định đề của hệ thức tuân thủ những định luận của kiến thức có từ kinh nghiệm hoặc từ học tập, có từ ngoại cảnh hay có từ tư duy biết lý luận, có từ tập luyện tới tinh luyện, có từ môi trường tới sự xuất hiện của tha nhân… Nơi đây tri thức là sự hiểu biết từ dữ kiện tới chứng từ, từ kinh nghiệm học tập tới trải nghiệm với xã hội như khả năng biết xếp đặt theo thứ tự để tổ chức một trật tự cho kiến thức, mà từ xếp đặt tới xếp loại, tri thức còn là khả năng trật tự hóa những ưu tiên trước các thử thách của cuộc sống…
Trí thức, không phải là một giai tầng xã hội của những kẻ có bằng cấp cao, có hiểu biết rộng, mà là sung lực của tri thức biết nhận ra sự thật bằng khách quan của khoa học, thấu được nỗi khổ niềm đau của nhân sinh bằng đạo đức trọng sự thực, quý chân lý để thăng hoa lẽ phải. Tại đây ý thức, mang lực tổng hợp của kiến thức lại có lực tổng kết của tri thức, lại có sự hiện diện của đạo lý biết nhận ra hay, đẹp, tốt, lành, lại được luân lý của bổn phận và trách nhiệm giúp nhận ra lẽ phải trước khi quyết định và hành động.
Nhận thức là quá trình đưa kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức vào quỹ đạo của đạo lý, luân lý, đạo đức để luôn có tỉnh táo mà nhận ra sự thật, luôn có sáng suốt mà nhận ra lẽ phải, tự đó có một nhân sinh quan, một thế giới quan, một vũ trụ quan biết tôn trọng sự thật và lẽ phải. Tạo nên tỉnh thức là khả năng nhận ra những sai lầm của tha nhân, mà cũng là kỹ năng nhận ra những lầm đường lạc lối của chính mình, để phải vận dụng lại kiến thức, tri thức, trí thức, để tận dụng trọn vẹn hơn ý thức, nhận thức để khỏi bị rơi vào lỗi, tội bị kết án bởi đạo lý, luật pháp đại diện cho lẽ phải và sự thật.
Chính hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức) là gốc, rễ, cội, nguồn để phân tích và giải thích sự ra đời : hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) ; hệ tự (tự do, tự trọng, tự chủ, tự tin) ; hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái) ; hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng tạo) ; hệ chuyên (chuyên cần, chuyên môn,chuyên nghiệp) ; hệ tinh (tinh lực, tinh thông, tinh hoa).
Qua điền dã, điều tra, khảo sát, nghiên cứu với các phương pháp của khoa học xã hội và nhân văn, tiểu luận này phân tích để phân định, giải thích để giải luận là tất cả các hệ trên đã, đang, sẽ bị truy, diệt, khử, trừ bằng hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc trị, độc tôn) của Đảng cộng sản Việt Nam, chính là cha sinh mẹ đẻ của hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền) ; hệ bất (bất tài, bất lực, bất tín, bất lương) ; hệ gian (gian dối, gian trá, gian xảo, gian manh) ; hệ vô (vô minh, vô tri, vô giác, vô cảm).
Điền dã, điều tra, khảo sát, nghiên cứu với các phương pháp của khoa học xã hội và nhân văn, chỉ là một công đoạn của phân tích và giải thích các hiện tượng, các dữ kiện, các chứng từ… Công đoạn tiếp theo chính là mức độ của học thuật mà cũng là trình độ của hệ thức, cụ thể là vận dụng rồi tận dụng hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) để được đi sâu vào các hệ lụy mà cũng là hệ luận để nhận ra lý luận trên các kết quả của điền dã, điều tra, khảo sát, nghiên cứu để ra đường đi nẻo về của hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc trị, độc tôn) của Đảng cộng sản Việt Nam, chính là cha sinh mẹ đẻ của hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền) ; hệ bất (bất tài, bất lực, bất tín, bất lương) ; hệ gian (gian dối, gian trá, gian xảo, gian manh) ; hệ vô (vô minh, vô tri, vô giác, vô cảm).
Lập luận trên hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức) là gốc, rễ, cội, nguồn của hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) ; hệ tự (tự do, tự trọng, tự chủ, tự tin) ; hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái) ; hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng tạo) ; hệ chuyên (chuyên cần, chuyên môn, chuyên nghiệp) ; hệ tinh (tinh lực, tinh thông, tinh hoa) để thấy lối của Việt tộc qua các phạm trù của cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái) trong không gian của đa nguyên có văn minh của dân chủ, có văn hiến của nhân quyền.
Giải luận trên các kết quả của điền dã, điều tra, khảo sát, nghiên cứu để nhận ra những thảm họa trên nhân kiếp của Việt tộc, tới từ bạo quyền độc đảng liên minh với tà quyền để tham quyền ; với ma quyền để lạm quyền, với quỷ quyền để lộng quyền. Đào càng sâu phân tích để được xới thật rộng giải thích : bạo quyền độc đảng sẽ thay hình đổi xác để thành cực quyền, một loại quyền lực tuyệt đối sẵn sàng khử trừ mọi đối trọng, đối kháng khác với nó. Bạo quyền độc đảng sẽ thay thân đổi dạng để thành cuồng quyền, loại quyền lực tuyệt đối sẵn sàng truy diệt mọi đối thoại, đối luận khác với nó.
Diễn luận trên các kết quả của điền dã, điều tra, khảo sát, nghiên cứu trong học thuật về Việt Nam hiện nay về vấn đề quyền lực thì không thể bỏ qua các chỉ báo về : tà quyền, ma quyền, quỷ quyền, tham quyền, lạm quyền, lộng quyền, cực quyền, cuồng quyền. Thảm kịch trên số phận của Việt tộc sẽ là bi nạn của giống nòi Việt, của các thế hệ mai hậu khi Việt tộc đã để bị tà quyền, ma quyền, quỷ quyền, tham quyền, lạm quyền, lộng quyền, cực quyền, cuồng quyền, cướp đi hệ nhân của mình, nơi mà nhân tính, nhân lý bị mất nhân tri, nhân trí, bị lạc nhân bản, nhân văn, bị xa nhân nghĩa, nhân đạo, bị xóa nhân tâm, nhân từ, tựu trung là bị tước đi nhân quyền !
Thuật ngữ hệ được vận dụng trong tiểu luận này là một không gian chung có tính liên kết rồi kết tụ trong một hệ thống dựa vào hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận), tại không gian này thì lý thuyết luận, phương pháp luận, khoa học luận liên kết để hỗ trợ nhau, kết tụ để tạo nên nội kết, tất cả dựa trên hệ lý, nơi mà hợp lý, chỉnh lý, toàn lý củng cố cho nhau. Thí dụ thứ nhất : khi phân tích về hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc trị, độc tôn) của Đảng cộng sản Việt Nam thì phải giải thích sự độc đoán của hệ độc sẽ tạo nên sự độc hại của độc lộ sẽ dẫn tới tử lộ, hiện nay là bi kịch của Đảng cộng sản Việt Nam sẽ dẫn tới thảm kịch cho Việt tộc, nếu Đảng cộng sản Việt Nam không biết rời hệ độc.
Thí dụ thứ nhì : khi phân tích về hệ thức (ý thức, kiến thức, tri thức, trí thức, nhận thức, tỉnh thức) để phát triển đất nước, thăng hoa dân tộc thì phải giải thích hệ nhân (nhân cách của nhân đạo, nhân tâm, nhân từ ,nhân nghĩa, nhân lý, nhân tính, nhân tri,nhân trí, nhân phẩm, nhân vị, nhân bản, nhân văn), đây là lối ra và cũng là lối thoát của Việt tộc trong những năm tháng tới trước sự độc hại của độc lộ của Đảng cộng sản Việt Nam đã mở cửa dẫn đường cho hệ Tàu (Tàu tặc, Tàu họa, Tàu nạn, Tàu hoạn, Tàu tà) đột nhập vào đất nước Việt.
Phương pháp luận về hệ lụy, khoa học luận về hệ luận được đề nghị trong tiểu luận này để nhận ra một lý thuyết luận của liên minh : sử luận-triết luận-xã luận, để nhận ra ít nhất ba trở ngại của cuộc đấu tranh vì dân chủ và nhân quyền : sử tính, mang sự thật lịch sử đã bị thay trắng đổi đen bởi Đảng cộng sản Việt Nam ; đức tính, mang giáo lý của tổ tiên Việt đã bị vùi dập bởi Đảng cộng sản Việt Nam ; luật tính, mang công lý của luật pháp đã bị bóp nghẹt bởi Đảng cộng sản Việt Nam. Khi cả ba : sử tính, đức tính, luật tính bị loại ra khỏi không gian quyền lực của độc tài, thì khoa học xã hội và nhân văn phải nhận ra các chủ thể mới xuất hiện trong xã hội dân sự, có chủ đoán để chủ quyết, có chủ động để chủ luận về : sử định, hiểu lịch sử và quyết định làm tốt hơn lịch sử ; đức định, hiểu đạo lý và quyết định làm tốt hơn giáo lý ; luật định, hiểu công lý và quyết định làm tốt hơn công luật.
Liên minh sử định-đức định-luật định, làm nên luân lý của dân chủ, thì các thuật ngữ : tà quyền, ma quyền, quỷ quyền không phải là những ngữ văn để chỉ trích, chê bai, thóa mạ, phỉ báng, mà chúng chính là những mô hình giải thích quyền lực của hệ bất (bất tín, bất trung, bất tài, bất nhân) diệt đạo lý, triệt pháp lý ; để từ đó chúng ta lập được mô thức giải luận để phân tích tham quyền, lạm quyền, lộng quyền, đây là các cực quyền chống hệ công (công lý, công luật, công pháp, công tâm). Nếu không giải luận rồi diễn luận tới nơi tới chốn quá trình từ mô hình giải thích tới mô thức giải luận, thì ta sẽ không thấy để thấu các thảm họa đã, đang, sẽ giăng bẫy Việt tộc trên nhân lộ của nhân phẩm.
Tri chủ luận
Nhân tri luôn có nhân lý tới từ kinh nghiệm, mang lý trí và trí tuệ của nhân loại qua nhân sinh quan, thế giới quan, vũ trụ quan của nhân thế đang sống trong cùng một nhân tình, nơi mà kiến thức của nhân sinh được xếp đặt thành hệ thống, có lớp lang thứ tự, tạo tiền đề để xây dựng nhân trí. Nhân tri dân chủ có thể được hiểu như năng lực của nhân loại tìm tự do để gầy dựng hạnh phúc cho chính mình ; như nội lực mưu cầu đạo lý hay, đẹp, tốt, lành cho cuộc sống cho hiện tại và cho tương lai ; như sung lực sẵn sàng hành động chống độc tài, độc trị, độc tôn, độc đảng ; như mãnh lực biết đứng lên để đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, tham quyền, tham quan. Đó là khi tri lực dân chủ đã thành hùng lực giờ đây trực diện để đấu tranh chống bất công, chống luôn bọn lãnh đạo bất tín với dân tộc, bất trung với tổ tiên, bất tài trước các quyết sách để phát triển đất nước. Chính tri lực dân chủ làm nên nhân tri dân chủ, mà không một bạo quyền nào có thể ngăn cản được, không một tà quyền nào ngăn chặn được !
Khi nghiên cứu về các thể chế dân chủ để định đạng một nền văn minh mới cho một dân tộc, cho một xã hội đủ tri lực (sức mạnh của tri thức) để gỡ bỏ hệ độc (độc đảng, độc tài, độc trị, độc quyền, độc tôn), thì ta thấy dân chủ mang ba thể dạng khác nhau. Dân chủ tới với kết quả đấu tranh của các phòng trào xã hội đòi dân chủ để đòi tự do, bình đẳng, nhân quyền… bằng chính kinh nghiệm nạn nhân của mình trong quá khứ và hiện tại ; đã từng bị đày ải trong hoàn cảnh không có tự do, bị lừa gạt bởi một chính quyền trực tiếp là tác giả sinh ra bất công ngay trong xã hội, không tôn trọng nhân quyền, vì chính quyền này luôn tìm mọi cách giết dân chủ ngay trong trứng nước.
Dân chủ xây qua bầu cử để có chính quyền mới tự do hơn, công bằng hơn, nhiều nhân quyền hơn với các định chế mới và cơ chế mới, bảo đảm được các đòi hỏi chính đáng của các phong trào xã hội đấu tranh trên các giá trị dân chủ này. Xây để dựng, dựng để bền qua thời gian, qua các thử thách, thăng trầm của thời cuộc, trong đó các giá trị nhân văn và nhân bản phải được bảo trì, như để bảo vệ nhân quyền qua thể chế dân chủ.
Dân chủ động trong xã hội dân chủ, trong sinh hoạt dân chủ, trong đời sống dân chủ, cụ thể là hàng ngày linh động thực hiện các điều khoản mà các đảng phái đã hứa với nhân dân, nhất là đảng cầm quyền phải thực thi các lời hứa đã có trong chương trình tranh cử của họ, nếu không thực hiện, tức là bội tín, thất hứa thì sẽ thất cử trong nhiệm kỳ tới. Chính chu trình nhiệm kỳ hóa là thời gian thỏa thuận quản lý của một chính quyền với nhân dân, đây là một luật chơi hiệu quả chống hệ bất (bất tín, bất trung, bất tài, bất lực) của các đảng phái, của các chính khách hứa xuôi mà không thực hiện được, hứa mà không làm thì phải bị loại ra khỏi chính quyền qua tuyển cử.
Khi điều tra kỹ về ba quá trình dân chủ tới-dân chủ xây-dân chủ động, ta nhận ra phạm trù xây dựng một xã hội dân chủ cho một dân tộc chọn văn minh, lấy nhân quyền làm gốc, với các định chế được công pháp bảo đảm, các cơ chế được công luật bảo vệ, thì ta sẽ nhận ra hệ tín của một đảng phái sẽ làm nên chữ tin của dân chúng đối với một chính quyền, tại đây niềm tin của quần chúng được các phong trào xã hội bảo vệ tới cùng. Và chuyện lạ-mà-hay của các chế độ dân chủ là luôn có các phong trào xã hội mới để bắt buộc các chính quyền, các đảng phái phải tôn trọng lời nói, lời hứa, hơn thế nữa họ phải làm ngày tốt hơn, ngày hay hơn các chương trình của họ, tức là khá hơn cả lời nói, lời hứa của họ trong bối cảnh cạnh tranh dân chủ. Nếu không sẽ có các đảng phái khác làm hay hơn họ, thì họ sẽ thất cử trong nhiệm kỳ mới.
Trong sinh hoạt dân chủ có hệ tranh qua cạnh tranh giữa các đảng phái, hội đoàn có mặt thường xuyên trong một xã hội dân chủ, đây là thực tế của đời sống dân chủ, là thực thể của sinh hoạt dân chủ cho cá nhân, cho tập thể, cho cộng đồng, làm nên tri lực dân chủ. Tại đây, cạnh tranh giữa các đảng phái, hội đoàn có quan hệ mật thiết với các phong trào đấu tranh đòi bình đẳng, công bằng, tự do… để chống bất bình đẳng, chống bất công, chống độc tài. Chính sự liên đới cạnh tranh-đấu tranh tạo ra tri lực dân chủ có mặt rỏ ràng trong quan hệ xã hội và có đóng góp tích cực làm mới, làm đẹp, làm tốt, làm lành, làm hay các quan hệ xã hội sẳn có qua tự do của công dân, qua tự chủ của thiện nguyện, qua tự lập của các sáng kiến vì nhân đạo và nhân phẩm.
Trong hành tác dân chủ có hệ kháng trong đó sức đối kháng của các đảng phái thiểu số trong bầu cử, vẫn có chỗ đứng, ghế ngồi trong lập pháp, qua quốc hội và nghị viện để tạo ra lực lượng đối kháng vừa thanh tra, kiểm soát, vừa nhận định, phê bình đường đi nước bước của đảng đa số đang nắm chính quyền. Song hành cùng tri lực đối kháng, có vai trò và chức năng của các hội đoàn, tập thể, cộng đồng xây dựng các phong trào đề kháng chống lại các bộ luật mới làm thiệt thòi quyền công dân, các đạo luật mới làm tổn thương nhân quyền, các chính sách mới làm tổn hại truyền thống, di tích, văn hoá… Chính sức liên minh đối kháng-đề kháng nên luôn có phản kháng trong các xã hội dân chủ ; và chính hệ kháng này đóng vai trò không những trong thông tin, truyền thông, mà còn cả trong lý luận và diễn luận để một chính phủ phải xem lại các đề án của mình, để một chính quyền phải xét lại các ý đồ của mình. Từ đó, tri lực dân chủ chính là hùng lực dân chủ cấm ngặt chuyện cả vú lấp miệng em, như Việt tộc phải trả giá quá đắt trừ khi có độc tài của Đảng cộng sản Việt Nam.
Thế liên hoàn tín-tranh-kháng khi làm hùng lực cho tri thức dân chủ, nên xã hội dân chủ mở cửa rộng rãi cho công dân đấu tranh vì công bằng, cho tập thể đấu tranh vì tự do, cho cộng đồng đấu tranh để phát triển đất nước theo hướng văn minh, từ đó bảo vệ được văn hóa của một dân tộc phải là văn hiến của một giống nòi. Không như hiện nay, ta thấy Đảng cộng sản Việt Nam để Tàu tặc chiếm đất, biển, đảo ; để Tàu hoạ ô nhiễm môi trường, môi sinh ; để Tàu hoạn hãm hại dân tộc bằng thực phẩm độc hại ; để Tàu nạn trùm phủ lên số phận Việt tộc hậu nạn qua hệ xâm (xâm lấn-xâm chiếm- xâm-lăng-xâm) của Tàu tà !
Nhiều định hướng của Đảng cộng sản Việt Nam trong thế kỷ XXI này đều là đại hoạ cho Việt tộc, đại hoạ khi bị rơi vào bẫy của phương trình tàu tặc-tàu hoạ-tàu hoạn-tàu nạn, nơi mà các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã chọn lựa cứu đảng, hơn là cứu nước, và trước một đàn anh cộng sản như Tàu, khi chúng không hề có phong cách đại quốc của các minh sư như Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử, Mạnh Tử, mà chỉ là bọn Tàu tặc, (như thảo khấu và thuỷ man) chỉ biết trộm, cắp, cướp, giật từ tài nguyên tới đất, biển, đảo của Việt tộc. Thì tại đây, danh sách của bọn lãnh đạo không những không cứu nước mà còn trực tiếp hoặc gián tiếp bán nước thật dày đặc : Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh… qua mật nghị Thành Đô, và lộ liễu nhất hiện nay là Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Xuân Phúc vẫn đang cúi đầu nhận lịnh của Tàu tà. Từ khai thác bauxite Tây Nguyên tới thảm hoạ môi sinh các tỉnh miền Trung do Formosa gây ra, giờ thì lén lút tính chuyện đặc khu (Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc), cho tới việc lưu hành nhân dân tệ ngay trên đất Việt. Mọi đại hoạ sẽ báo động một chân trời tối nghịch của diệt vong !
Nếu nhân tri dân chủ có mặt tại đất Việt, thì sẽ có kinh nghiệm của phương Tây với vai trò của Cours de compte (thanh tra kế toán quốc gia), xuyên hành pháp, thấu lập pháp, sáng tư pháp. Cơ quan thanh tra này bất chấp mọi quyền lực của chính quyền hay chính phủ, để đưa mọi hệ tham (tham quan, tham quyền, tham nhũng, tham ô) ra công luật, để đưa ra ánh sáng mọi hệ bất (bất tài, bất trung, bất tín, bất lực) ra công pháp, nhất là vạch mặt, chỉ tên bọn ký sinh trùng sống nhờ hệ độc (độc tài, độc tôn, độc trị, độc quyền) và nêu rõ tội trạng của chúng trước công quyền, để bảo vệ công lý. Chính công lý, có rễ từ công bằng, có cội từ công tâm, mới xử được rạch ròi dã tâm bán nước của bọn sâu dân mọt nước !
Khi nghiên cứu các kinh nghiệm dân chủ từ phong trào cho tới thể chế, từ xã hội cho tới pháp quyền, từ định chế tới công dân trong một quốc gia thực sự có dân chủ, các chuyên gia thấy luôn có các phong trào mới, các tập thể mới, các cộng đồng mới ngày ngày sinh ra trong sinh hoạt dân chủ, rất sinh động mà chính những các chính quyền độc tài thường ngày xuyên tạc về các thể chế dân chủ, họ bôi nhọ sinh hoạt dân chủ rồi kết luận hồ đồ là luôn có biến động, rồi biến loạn trong các xã hội dân chủ. Nhưng qua đây phải thấy là nội lực của dân chủ luôn biết mở cửa sổ nhà của mình để lấy không khí lành bên ngoài, luôn biết ra khỏi nhà của mình để học chuyện hay, ăn món ngon, uống giếng lành, chọn mặc đẹp để vui sống, để sống vui, và vui sống-sống vui, tức là biết sống !
Chính nội lực dân chủ này biến mỗi cá nhân giờ thành công dân, hơn thế nữa trở thành chủ thể dân chủ biết bổn phận đối với dân tộc, biết trách nhiệm đối với đất nước, biết quyền lợi của mình qua công bằng-tự do-bái ái. Và hơn thế nữa, chủ thể dân chủ này còn biết nắm hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo), cụ thể là có sáng kiến để làm tốt hơn đời sống xã hội, biết sáng lập ra các tập thể, các cộng đồng với các phương án mới làm đẹp hơn quan hệ xã hội, qua đó có sáng tạo để làm hay hơn các sinh hoạt xã hội. Nội lực dân chủ đã có trong nội lực lịch sử của con người, nhất là lịch sử của hơn ba thế kỷ qua trong quá trình xây dựng dân chủ, ban đầu tại phương Tây, giờ đã lan rộng trên toàn thế giới, tại đây nội lực dân chủ đã hóa giải-để-hòa-giải một cách rất thông minh ba biến số, cũng là ba hàm số mà nhiều người tưởng là hằng số, không sao thay đổi được.
Biến số sử, mà theo thói thường là mạnh được yếu thua, sinh ra cá lớn nuốt cá bé, tạo ra bất bình đẳng kẻ ăn ốc người đổ vỏ, tạo bao bất công chuyện cốc mò cò ăn, từ đó sinh ra độc tài cả vú lấp miệng em, với tham nhũng qua tham quan : cướp ngày là quan. Chính thực thi dân chủ là để xóa tất cả các chuyện trên đã có trong lịch sử, vì nhân quyền của dân chủ không thể chấp nhận các chuyện này, phải dẹp chúng ! Phải nắm sử tính, để hiểu sử liệu, để tìm ra sử luận với đạo lý mới : không lập lại các bất công đã có trong lịch sử của con người ! Sử tính giúp dân chủ sáng tạo qua hệ luận : lấy lý luận của tri thức về bất bình đẳng để xây dựng lập luận về công bằng, hiểu tai họa của độc tài qua giải luận lịch sử để sáng tạo ra diễn luận dân chủ mà xóa bỏ độc tài.
Biến số giáo, tức là tôn giáo được xem như niềm tin vô điều kiện vào một đấng linh thiêng đã có trước dân chủ, nhưng quá trình đấu tranh của nhân quyền để có dân chủ đã tạo dựng nên giáo dục dân chủ, trong đó tôn giáo vẫn được tôn trọng, nhưng không còn quyền lực để ảnh hưởng tới chính trị, để chi phối chính giới, để tác động tới chính khách, để thao túng chính quyền. Ngày mà tam quyền phân lập đã phân quyền rõ ràng lập pháp, hành pháp, tư pháp, cũng là ngày mà quyền lực của giáo hội tại Âu châu phải tách ra khỏi quyền lực chính trị. Đây là một chiến thắng lớn của dân chủ, nó quyết định các hướng đi tới của nhân loại trong các cuộc cách mạng, từ khoa học tới kỹ thuật, từ công nghệ tới công nghiệp, từ thông tin tới truyền thông, từ luật pháp tới tư pháp, từ tự động hóa tới toàn cầu hóa…
Biến số công xuất hiện thì tôn giáo sẽ lùi ra, trong đó công pháp khẳng định không ai có thể đứng trên luật pháp, tại đây công quyền xác chứng không có đảng phái nào, lãnh tụ nào đứng ngoài công luật. Chính cái công này không những điều khiển cái luật, mà nó điều hành luôn các định chế, các cơ chế, nó nói rõ bổn phận của một công dân đối với dân tộc qua nghĩa vụ, nó nói rõ trách nhiệm các đảng phái, các hội đoàn, các phong trào qua đời sống xã hội, quan hệ xã hội, sinh hoạt xã hội. Cùng lúc, chính cái công này biết tôn trọng nhân quyền của công dân, biết tôn trọng dân chủ của đa số, biết tôn trọng tiếng nói và đòi hỏi của thiểu số, nhất là cái công phải biết không những tôn trọng mà còn phải bảo vệ đời sống cá nhân của mỗi công dân. Là biến số của sự tiến bộ, nên cái công biết bảo đảm cái tư, vừa theo nghĩa của luật pháp và vừa theo nghĩa của đạo lý.
Mỹ luận chứng
Nhận diện bằng phân tích cái đẹp qua mỹ luận (lý luận và lập luận về cái đẹp), để đi tìm mỹ quan (cách nhìn và cách thấy cái đẹp), qua mỹ thuật (nghệ thuật nhận định và phân tích về cái đẹp) và mỹ học (nghiên cứu và phân tích về cái đẹp). Từ đẹp tới cái đẹp, tiểu luận này sử dụng các tư tưởng, các phương pháp, các tác giả, các kinh nghiệm sáng tác… để qua cái đẹp, tìm tới cáí sáng tạo ra cái đẹp, của nghệ nhân và nghệ sĩ trong sinh hoạt sáng tạo nghệ thuật. Càng nhiều lối vào về lý luận, lập luận, diễn luận, giải luận, càng tránh được chủ quan, độc đoán, độc tài trong định nghĩa về cái đẹp.
Khi ta được hỏi : "đẹp không ?", câu trả lời có vẻ dễ ! Nhưng khi bị hỏi : "cái đẹp là gì ?" đây là một câu hỏi khó ! "Đẹp không ?", thuộc về tính từ, "cái đẹp là gì ?" là khu vực của danh từ, đòi hỏi một định nghĩa. Câu chuyện như vậy đã chuyển từ phẩm chất của một hiện hình hay một hiện thể qua tới nội chất của hiện hình hay hiện thể đó. Chưa hết, nó bó buộc mỹ luận phải đi từ trường hợp cá biệt tới nhận định tổng quan qua lý luận, lập luận, diễn luận, giải luận về cái đẹp từ nhân sinh qua nhân lý và nhân trí.
Từ nhận định tới định nghĩa về cái đẹp của một vật thể được xem là đẹp tới bản thân của nó có nội chất đẹp, từ đây đặt ra quan hệ giữa nhân sinh quan với thế giới quan và vũ trụ quan, trong đó vai trò của giáo dục, của văn hóa có vị thế chủ đạo. Nếu cái đẹp là "chuyện xúc cảm của cái nhìn" (mỹ quan), thì vai trò của xúc cảm là động lực khởi xướng cho mọi nhận định, xúc cảm này được xem như một khám phá, và khám phá này tạo ít nhất ba loại cảm giác mới trong nhân sinh : cảm giác vui sướng mới, cảm giác khoái lạc mới, cảm giác ngạc nhiên mới.
Cái nhìn chỉ là cái trông, cái thấy, nó là một giác quan trong năm giác quan của một con người, như vậy cái đẹp không thể chỉ đóng khung trong cái nhìn, cũng không nên quên là cái nhìn ngạc nhiên của một cá nhân có thể tới từ sự ngây thơ, tới từ một sự cảm nhận chỉ chọn sự dễ chịu, và chưa chắc được kẻ khác công nhận là cái đẹp. Như vậy, cái đẹp phải vượt lên sự ngây thơ, cái dễ chịu…
Trong mỹ luận, cái đẹp mang phạm trù lý thuyết có lý luận, có lập luận trong đó ý tưởng đóng vai trò khởi xướng cho các phạm trù lý thuyết. Mỹ luận nhận định cái đẹp qua nội chất của phán xét, không liên quan gì đến niềm tin bị ảnh hưởng bởi tôn giáo, tín ngưỡng. Cái đẹp, tạo ra một loại niềm tin đó là niềm tin vào sự thăng hoa cho cuộc sống. Cái đẹp có đường đi nẻo về hoàn toàn khác cái to, cái hay, cái đúng ; cái to thì thấy được, cái đúng thì luân lý quản lý được, cái hay thì giáo dục được, nhưng cái đẹp từ riêng tới chung, có từ bản thân (màu đẹp, giọng nói đẹp, lời ca đẹp…) mà gốc, rễ, cội, nguồn của cái đẹp là nó tạo được sự thăng hoa vừa cho nhân loại, vừa cho nhân tri.
Khi cái đẹp tạo được sự thăng hoa, tự nó là một danh từ đi tìm một nội dung, để từ đó ta có thể hiểu tại sao kẻ sáng tạo ra cái đẹp, có thể hiến thân vì cái đẹp, nơi đây mỹ luận được xem là khả năng hiểu cảm xúc để phân tích thành ý tưởng về cái đẹp. Phân loại cái đẹp qua lịch sử mỹ thuật, có vai trò của văn hóa, trong đó cảm nhận về cái đẹp được ảnh hưởng bởi quá trình giáo dục của một dân tộc. Tây Âu cảm nhận cái đẹp qua hình dạng, rồi đặt hình danh, biến nó thành môn học về hình thể, tạo ra cái đẹp của thân thể (nu) kiểu trần thân, cái đẹp này có sức nội kết các phần tử để tạo nên một tổng thể hài hòa, kinh nghiệm trong cái đẹp của thân thể (nu) kiểu trần thân, không có trong văn hóa, giáo dục, lịch sử của Á châu.
Mật độ luận thi ca
Thi ca tồn tại như những sinh hoạt khác của nhân sinh, cụ thể là cân, đo, đong, đếm được từ sáng tác thượng nguồn tới sáng tạo được công nhận nơi hạ nguồn bằng chính những giá trị nội tại làm nên thi ca. Thi ca không là một ngoại lệ nằm ngoài các thước đo giá trị của nhân sinh nhưng thi ca đặt nhân phẩm vào nhân vị để tạo ra chính các thước đo của nó. Một bài thơ thẩn thơ ra vào với những mơ tưởng vắng nhân bản, một ý thơ thẫn thờ vào ra với những ảo tưởng trống nhân tâm, chóng chày sẽ bị loại ra khỏi không gian thi ca.
Cũng như các bài giả thơ xếp chữ thành vần của một lãnh tụ vô nhân, cũng như các bài mạo tráo ý niệm tuyên truyền luồn lách vào các thi tứ để giả danh cho một bộ máy tuyên huấn thất đức, chắc chắn sẽ không có chỗ đứng, ghế ngồi trong cõi thi ca. Thi ca tự tại với những giá trị nội tại của chính nó, một thi sĩ qua những bài thơ của mình mà kẻ yêu thơ nhận ra mật độ của nhân tâm, cường độ của nhân bản, làm nên trình độ của nhân phẩm. Câu chuyện về những giá trị nội tại của thi ca luôn là câu chuyện mật độ và cường độ làm nên trình độ của thi sĩ, mà bài thơ là chiều sâu của tâm linh, chiều cao của tâm hồn, chiều rộng của linh cảm, chiều dài của cảm xúc.
Có ít nhất ba loại thói quen tự hủy hành động thơ của thi sĩ, sẽ đưa thi sĩ vào ngõ cụt trong hành tác thơ, vì hành tác thơ phải là sáng tạo thơ, sáng tạo ra một luồng tư tưởng mới đủ lực làm thay đổi nhân sinh quan của chính nhân sinh, đủ tầm làm xoay chuyển thế giới quan của chính nhân gian. Thói quen tự hủy thứ nhất là ngựa quen đường cũ, nơi mà phản ứng biết rồi sẽ làm nên phản xạ đã biết, biến cái gần gũi thành cái quen thuộc, biến cái quen thuộc thành cái sở trường, rồi dùng sở đoản của thi từ để làm thơ như ăn cơm bữa, đây là tử lộ giết thơ mà bản thân thi sĩ không ý thức đầy đủ.
Thói quen tự hủy thứ nhì là cường điệu hóa hiện vật tầm thường, thiên phú hóa hiện cảnh bình thường, cường điệu hóa thực cảnh vô thưởng vô phạt, với dụng ý tạo ra sự giả tạo của cuồng ngữ để giả dạng cường tâm, đây là tà lộ diệt thơ mà ý thức của thi sĩ chưa có nhận thức sáng suốt. Thói quen tự hủy thứ ba là lấy tư tưởng chủ quan để đè bẹp cảm xúc, lấy tư duy tính toán để xóa lấp tâm cảm, của tư tưởng để tính chuyện thắng thua, thiệt hơn trong không gian thơ. Khôn quá hóa dại đây là ma lộ triệt thơ mà tri thức của thi sĩ chưa đủ trí thức tỉnh táo để biết bảo vệ nhân ái ngay trong nhân tâm.
Môi sinh luận tình yêu
Tự chấp nhận một thử thách phải phân tích tri thức của tình yêu mà không kể lể về các kỷ niệm với người yêu có thật trong cuộc đời. Dụng ý là tạo-lý-để-luận-đề về không gian và thời gian của tình yêu, mặc dù không có người yêu cận kề. Mà nếu người yêu có xuất hiện qua ngữ vựng thì chỉ để tham dự vào ngữ văn trong không gian của tình yêu ; nếu người yêu có nhân diện qua ngữ pháp thì chỉ để tham gia vào văn phong trong thời gian của tình yêu.
Đây là sự chấp nhận một thăng trầm mà thảm bại đã có trước mắt là : tình yêu có đây nhưng người yêu chưa đến ; tình yêu có nội chất đẹp nhưng người yêu chưa chắc có linh hồn đẹp ; tình yêu giúp chúng ta trưởng thành ngay khi chúng ta thất bại trước người yêu. Hãy thấy để thấu tình yêu có khi sâu hơn người yêu, để thấy rõ là tình yêu cao, sâu, xa, rộng hơn sự xuất hiện và sự hiện diện của người yêu.
Lý trí tình yêu là một loại niềm tin trước là vào người yêu nhưng sẽ bền như suối bền là lòng tin vào tình yêu, một lòng tin đơn phương trong đơn lẻ, lấy chủ quan tình yêu thay thế chính chủ quan thường nhật. Trí tuệ tình yêu là một sự khám phá vỡ bờ nát bến của tất cả trật tự đang có, cứ tưởng chúng sẽ đứng vững, đứng hoài ; ai ngờ đâu khi tình yêu đến, thì trí tuệ tình yêu là khám phá của mọi khám phá. Đó là nội tâm của người như cánh rừng đang khép để được ngủ yên, bỗng dưng tình yêu mang bao cánh chim tự do xa lạ đến đây, vui hót suốt ngày, ta muốn ngủ lại cũng không được nữa rồi.
Tuệ giá tình yêu là đoạn đời mới với tình yêu có yên tâm trong vui sống giữa đời để được sống vui giữa trời ; yên tâm vì đã yên trí với không gian vô hạn của tình yêu. Khi có người yêu, khi vắng người yêu, nhưng tình yêu thì không trống, nên cuộc đời không vắng tanh, vắng ngắt. Vì tri thức về không gian của tình yêu là sự cảm nhận một hạnh phúc đơn lẻ -tự mình tin mình như đã tin vào tình yêu- nên mình rất yên thân. Mà yên thân được là nhờ đã yên lòng trong an nhiên tự tại một mình, một cõi yêu dù vắng bóng người yêu.
Nhân sinh quan tình yêu không còn là nhân sinh quan cá nhân chưa yêu hoặc không biết yêu, vì nhân sinh quan tình yêu cao, sâu xa, rộng hơn nhân sinh quan cá nhân đã chủ quan trong tính toán ích kỷ để vị kỷ trong lẻ loi. Vì nhân sinh quan tình yêu hay, đẹp, tốt, lành hơn nhân sinh quan cá nhân đã bàng quan trong toan tính vụ lợi để trục lợi trong lẻ bóng. Chính nhân sinh quan tình yêu đã mở cửa cho nhân sinh quan tình thương vào đón nhận các tha nhân không phải là người yêu của mình.
Người đang yêu như người đang xin việc để nhận chỗ của người giữ cổng, giữ cửa, để khi thấy được tình thương ở chân trời là anh mở cổng không gian yêu tức khắc, rồi mở cửa căn nhà yêu ngay tức thì để mời tình thương vào mà giáo dục rồi giáo dưỡng tình yêu. Trong cõi yêu có tình thương người cao, sâu, xa, rộng lại hay, đẹp, tốt, lành, nên khi người yêu phản bội vì tư lợi, phản trắc vì quyền lợi, không gian tình yêu sẽ không ngã, không gục, không quỵ, không chết vì đã có tình thương vừa trợ duyên, vừa trợ lực cho tình yêu.
Thế giới quan tình yêu không phải là thế gian quan đóng cửa để giữ quyền lực để người hiếp người ; không phải là thế gian quan cõi kín để giữ quyền lợi đoạt, chiếm, giành, thâu để hưởng ; mà ngược lại thế gian quan này là đón, tiếp, trao, tặng tình yêu mà hiện thân bằng tình người. Nếu người yêu không nhận vì không biết nhận hay chưa được giáo dục và giáo dưỡng để tiếp nhận bằng nhân cách, đón nhận bằng phẩm cách thì tình yêu vẫn tồn tại ngay trong thế giới của nó. Khi người yêu không thấy được cánh cửa đã mở để vào mà đón yêu, khi người yêu không thấu là mình có nội lực làm nên nội công để đẩy cửa vào cõi yêu để nhận yêu, thì chẳng phải lỗi của ai cả.
Những món quà lòng, những bảo vật yêu khi ta trao tặng cho người yêu, thì bản thân người yêu phải có tri thức của tình yêu làm nên nhận thức của yêu đương mà đón nhận cho đúng lúc, đúng nơi. Những kẻ bén gót tới cõi yêu để cào, nạo, vơ, vét trong vụ lợi để trục lợi ; ích kỷ vì vị kỷ, họ không có chỗ đứng, chỗ ngồi, chỗ nằm trong tình yêu. Vì nếu không biết đón, tiếp, trao, tặng thì ta cứ giữ những món quà lòng, những bảo vật yêu này ngay trong kho báu của cõi yêu, rồi tặng cho một người khác xứng đáng hơn, chỉ vì họ biết đón, tiếp, trao, tặng bằng nhân vị lẫn nhân phẩm kho báu này. Vì câu chuyện của tri thức tình yêu chính là câu chuyện trình độ của mỗi người yêu.
Vũ trụ quan tình yêu không phải chỉ là không gian riêng tư của người yêu mà là vũ trụ quan của anh khi đang yêu, đã yêu, vũ trụ này được tạo ra nhờ tình yêu, khi tình yêu tan nát rồi vì người yêu đã ra đi, nhưng sao vũ trụ tình yêu này vẫn tồn tại. Bất chấp cường độ sự phản bội, bất luận mật độ sự phản trắc, vũ trụ tình yêu còn đó chỉ vì người yêu còn đây, trong lúc yêu ta là tác nhân của hành vi yêu, khi đang yêu ta là tác giả của hành động yêu, thì bây giờ mặc dù tình yêu đã tan tành, ta vẫn là kẻ giữ văn khố và thư viện cho cả kiến thức lẫn tri thức của tình yêu.
Môi sinh luận tình yêu, trong khi yêu, ta tạo một vùng ẩm thực vừa ngon miệng, vừa đẹp mắt cho người yêu, vì ăn ngon và thấy đẹp mà người yêu đã tận hưởng hương vị của vùng ẩm thực mà không hề nhận ra nhân diện của tác giả chuyện ngon miệng đẹp mắt này. Đâu có sao đâu ! Vì ngay lúc đó anh nhìn ra nhân diện của người yêu thật đẹp, nhân dạng của người yêu thật lành khi ăn, vì hơn cả ngon miệng lẫn đẹp mắt chính là sự vui sống của anh đã làm nên cuộc sống vui ngay trong vũ trụ của tình yêu.
Nên môi sinh quan tình yêu có lẽ rộng hơn, sâu hơn chuyện ăn ngon mặc đẹp của người yêu. Môi sinh quan tình yêu có chớp bể mưa nguồn trong thử thách của tình yêu, có đầu sóng ngọn gió trong thăng trầm của tình yêu. nó có cả nắng sớm chiều mưa của sự chấp nhận phản bội khi người yêu ra đi. Nó có cả vật đổi sao dời của sự cam nhận phản trắc khi người yêu tìm mọi cớ để buông, mọi cách để bỏ, mọi đường để ta phải rơi. Từ đây thì ta sẽ hiểu ra lẽ biến thiên của tình yêu, ta nên hiểu luôn.
Tại sao anh trân quý đến tôn trọng tri thức tình yêu hơn là kỷ niệm với người yêu, vì tri thức yêu bền, chắc, vững, mạnh hơn kỷ niệm yêu. Tri thức tình yêu bay lướt trên kỷ niệm với người yêu, vì tri thức tình yêu này biết bao dung để giữ cho bằng được kho báu cõi yêu mặc dù không còn người yêu.
Tri thức tình yêu bay bổng trên kỷ niệm với người yêu, vì tri thức tình yêu này biết khoan hồng để biết giữ bảo vật tình yêu mặc dù người yêu đã ra đi từ lâu. Người yêu cứ ra đi vì đây là tự do riêng tư phải được tôn trọng, để ta chấp nhận mọi sự buông bỏ, nhưng kẻ bảo vệ thư viện cùng là kẻ bảo tồn văn khố tình yêu, cứ ngồi đó mà giữ cổng, giữ cửa, giữ cõi yêu cẩn thận trong chu đáo. Mím môi cắn răng, nhưng ta phải viết để kể sự thật về tri thức tình yêu, vì nói gần nói xa không qua nói thật, mặc dù biết là sự thật mất lòng, nhưng sự thật phải là chân lý để nhân lý nhận ra lẽ phải mà chế tác ra nhân phẩm. Nếu ta không giữ được tất cả kỷ niệm với người yêu, vì ta đã chọn trân quý tới nơi tới chốn tri thức của tình yêu.
Lê Hữu Khóa
(04/09/2020)
---------------------
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.
Diễn luận
Diễn luận đưa lý luận ra khỏi nẻo ngựa quen đường cũ, diễn luận đưa lập luận ra xa chốn ta về ta tắm ao ta ; diễn luận đưa giải luận ra ngoài cõi chợ ngày, cơm bữa để được nhìn rộng hơn, thấy xa hơn, thấu sâu hơn mọi sự kiện để nắm sự cố mà gầy dựng lại sự luận.
Luận thuyết về sự thật
Platon, mang tới cho chúng ta một định nghĩa : sự thật là sự định hình của chân lý, rồi nó trở thành bất di bất dịch, nó sẽ không thay đổi, sẽ không chuyển hóa, để được mọi người nhận như một giá trị vừa hiển nhiên, vừa vĩnh hằng.
Augustin, đề nghị định nghĩa : sự thật được tìm ra bởi thiện ý như là một ý chí muốn nhập nội vào sự thật để hiểu tới nơi tới chốn sự thật. Tại đây, khi ý chí dựa vào thiện ý đã trở thành ý lực thì ý lực này chính là thể lực của niềm tin, và cái tin này cũng là bước đầu của trí tuệ, giúp ta khởi hành trên lộ trình đi tìm ra cái lý để hiểu cái thật. Cả hai cái tin, cái lý sẽ tìm ra cái thật, nơi mà cái tin chọn cái lý để tạo nền tảng để đón cái thật được tới.
Descartes, một triết gia lấy thượng nguồn là duy lý để đi tìm cái đang ẩn sâu trong cái lý, khi ông xem sự thật khi được tung ra như một loại ánh sáng có sức sáng vô song tới để khai phá ý chí của con người muốn biết tận gốc rễ của cái thật. Chính độ sáng mãnh liệt này làm ngời cái thật được hiện hữu tròn đầy rồi hiện hình trọn vẹn giữa nhân sinh. Pascal, một nhà toán học lỗi lạc, nhưng cũng biết gởi niềm tin mình vào thượng đế, lại chọn một con đường khác khi ông đề nghị ta phân tích sự thật như một nghệ thuật sống mà con người biết tự thuyết phục mình trước cái hiển nhiên vì nó rõ ràng trong tuyệt đối, đó chính là sự thật. Mà muốn tới sự thật này thì phải biết yêu cái thật để thấu cái thật. Ông chắc chắn một điều là cái yêu đi tìm cái thật làm nên cái biết, cái hiểu về cái thật.
Kant, có niềm tin sâu sắc về thượng đế đã chế tác ra muôn loài, nhưng cũng chính triết gia này lại đề nghị là không có niềm tin nào vô điều kiện cả, ông khuyên ta hãy đến với sự thật với sự thành thật học để hiểu. Khi ta có thiện chí để học, có công cụ của tri thức đúng để tìm ra kiến thức mới và đúng về sự thật, thì sẽ hiểu mọi điều kiện cần thiết để nhìn, để thấy, để nhận và để hiểu ra sự thật.
Flaubert, phân tích sự thật của con người qua vụ lợi để bảo vệ tư lợi của mình, nên sự thật trong xã hội xuất hiện với sự xung đột về quyền lợi, nơi mà mỗi tư lợi bám vào chỗ đứng của nó, cùng lúc muốn lớn ra và đe dọa các tư lợi khác. Đã giàu rồi thì muốn giàu hơn, đứng núi này trông núi nọ cao hơn, và nói theo cách của Flaubert : quyền lực này không thể yêu quyền lực kia, chúng sinh hoạt trong xã hội để vô hiệu nhau, và nếu có điều kiện là chúng hủy diệt nhau, mọi thỏa thuận về quyền lợi đều tạm thời, mọi liên minh về quyền lực đều chóng chày, thay đổi liên hồi như nắng sớm mưa chiều.
Husserl, cha đẻ của hiện tượng luận đưa ra luận thuyết sự liên đới của các chủ quan để cùng công nhận là cái biết đã mở cửa cho cái thật xuất hiện, để sự thật tới như một chân lý có rễ sâu, gốc chắc mà không ai bứng được. Để cụ thể hóa luận thuyết này, ông khẳng định là : sự thật đã có từ lâu, đã có sẵn, đã có trước câu hỏi sự thật là gì ? Chính cái biết là chìa khóa để mở ra không gian của sự thật để cái thật được nhập nội vào cái biết.
Heidegger, môn sinh của Husserl và là triết gia sắc nhọn nhất về các lý luận hiện tượng học, khi ông tin rằng luôn có một bản thể nội tại giúp ta nhận ra sự thật, khi chủ thể muốn tìm ra sự thật, thì chủ thể phải là chủ thể mở : mở để sống, mở để nhận, mở để biết, mở để đón sự thật, để được sống thật, sống đúng, với hai bản thể : bản thể của chủ thể song hành cùng bản thể của sự thật. Tại sao lại dùng cụm từ bản thể ? Vì bản thể bên trong không phải là sự giới thiệu tên tuổi bên ngoài, tức là gặp sự vật rồi đặt tên cho sự vật đó, mà không biết nội chất và sự vận hành của sự vật này.
Char, là thi sĩ hàng đầu của thi ca Pháp trong thế kỷ XX, mà cũng là bạn tri thức tâm giao của Heidegger, có tặng cho triết gia này một bài thơ khi ông ví sự thật như diễn biến linh hoạt của mùa thu, đã vượt hạ để chuyển mình mà vào đông : "Mùa thu sao luôn nhanh hơn cái cào đất của người làm vườn", chỉ vì trí tuệ của con người thường chậm hơn sự vận hành của thiên nhiên đang trùm phủ lên nó.
Foucault, khi nối các định đề của triết học với các thực trạng của xã hội mà con người đang sống, thì đứa con tin yêu của triết học cận đại và xã hội học đương đại này đã đặt sự thật vào giữa tri thức và quyền lực. Như vậy, sự thật luôn bị chi phối bởi hai cực này, ông tin là sự thật không vô tư và không vô điều kiện, vì cả hai tri thức và quyền lực đều không vô điều kiện.
Ta có thể chọn chọn bốn phân tích sau : phân tích chiều ngang, đây là loại chỉ biết thô tục qua bạo động vì họ không được giáo dục về đạo lý, luân lý, đạo đức, vì Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo họ chỉ dạy họ bạo lý, tà lý, vô đức. Phân tích chiều cao, đây là loại chỉ biết buộc tội bằng bạo lực vì họ không được giáo dục về hệ lương (lương tâm, lương tri, lương thiện) và hệ liêm (liêm chính, liêm sỉ, liêm khiết). Phân tích chiều sâu, đây là loại chỉ biết thóa mạ bằng vô minh, làm nên loại người vô tri, vô giác, nên rất vô cảm trước các chủ thể đại diện cho hệ lương và hệ liêm như con và các sinh viên, thanh niên, mọi thành phần xã hội trong tháng 6 năm 2016 đã đầy đủ bổn phận công dân trước họa "buôn dân bán nước" của tập đoàn tội phạm đang cai trị nước ta. Phân tích chiều rộng, qua lịch sử : con và các người đã xuống đường trong năm tháng đó là : những đứa con tin yêu của Việt tộc ! Mà trong lịch sử Việt tộc đã là một dũng tộc đánh thắng bao lần ngoại xâm phương Bắc ; là một minh tộc, biết thắng Tàu tặc trong lịch sử bằng chính sự thông minh của mình : Ngô Quyền, Lê Đại Hành, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung [1].
Phương pháp luận của hiện tượng học trực quan của mắt thấy tai nghe, từ thượng nguồn của các chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam đề ra cho tới hiện tượng học trực diện trước các hậu quả, các hệ lụy mà Việt tộc đang phải gánh chịu hiện nay. Mà Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo tức là nó chính là chủ mưu trong quá trình vô học hóa toàn xã hội, nó cũng là đầu nậu một ý thức hệ dựa vào tuyên truyền trị, nó là đầu cơ bằng ngụy tạo qua các chính sách lấy ngu dân trị vừa làm phương tiện, vừa là cứu cánh. Hậu quả giờ đây đã rõ, từ một quê hương gấm vóc giờ đã thành một đất nước cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm từ nguồn nước tới không khí loại hàng đầu trên thế giới ; từ một dân tộc thông minh bây giờ đã thành lao nô cho các nước láng giềng, cho Tàu tặc không những cướp đất, biển, đảo, mà còn thao túng kinh tế Việt, giăng bẫy thương mại Việt và đang bóc lột nhân công Việt ngay trên đất Việt…
Lý thuyết luận của hiện tượng học lý trí, đề nghị sử dụng lý thuyết để phê bình lý thuyết, vận dụng chủ thuyết để phê bình chủ thuyết, tận dụng luận thuyết để phê bình luận thuyết, ở đây không có chỗ đứng ghế ngồi cho hệ độc (độc quyền, độc trị, độc tài, độc tôn, độc đảng) kiểu cả vú lập miệng em. Không gian của lý thuyết luận này có gốc, rễ, cội, nguồn của hệ đa của đa tài, đa dũng, đa năng, đa hiệu làm nên từ đa thức, đa tri, đa trí ; có chỗ dựa là đa nguyên. Chính đây mới là không gian của phương trình sự thật-chân lý : so ra mới biết ngắn dài. Nơi mà phản diện của hệ vô (vô minh, vô tri, vô giác, vô cảm, vô tâm) chính là hệ thức (kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức, tâm thức) có trí lực của hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái), có luận lực của hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng lập, sáng tạo).
Khoa học luận của hiện tượng học nhận thức, biết phân tích để giải thích các hậu quả, hậu nạn tới từ các chính sách tuyên truyền ngu dân mang thực chất vô học-vô hậu. Cấu trúc của khoa học luận này tuân thủ bốn công đoạn của khoa học xã hội thực nghiệm qua nghiên cứu, điều tra, khảo sát, điền dã thực địa, nơi mà dữ kiện mang theo chứng từ, chứng tích, chứng nhân để lập lại sự thật, để dựng lại chân lý.
Tri thức luận tổng quan
Khi phân tích, phân định, phân loại, phân giải các chính sách tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị gây ra hậu quả và hậu nạn vô học-vô hậu, ngay trong hệ vô (vô minh, vô tri, vô giác, vô cảm, vô tâm) thì khoa học luận sẽ sử dụng hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) để thấy-cho-thấu từ nội dung tới nội hàm của hệ quả (kết quả, hệ quả, hậu quả) mà không quên nhân quả của câu chuyện vô học về tri thức làm ra vô hậu không tương lai. Tại đây, hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức) vừa là phương pháp luận nòng cốt, vừa là khoa học cốt lõi, để xây dựng lý thuyết luận chủ đạo, từ đó cho ra đời các tri thức luận sau đây :
Tri thức luận lịch sử, những kiến thức căn bản của thế kỷ XVIII làm nên ít nhất năm cuộc cách mạng : khoa học, kỹ thuật, tri thức, dân chủ, nhân quyền trong đó hai định luận về công bằng và công lý là những hằng số không chỉ có phương Tây, cụ thể là Tây Âu và Bắc Mỹ được thụ hưởng mà các hằng số này đã trở thành sở hữu của nhân loại, nếu nhân loại đó muốn nhân sinh sống bằng tiến bộ, muốn nhân thế sống trong văn minh. Hậu quả của vốn vô học trong não bộ lãnh đạo đã tạo ra quá trình vô học hóa ngay trong chính sách tuyên truyền ngu dân áp đặt lên hệ thống giáo dục quốc gia từ đó tạo ra bao thế hệ học sinh và sinh viên : vô kiến thức tiến bộ, vô tri thức văn minh. Rồi sau đó các học sinh và sinh viên này khi trưởng thành không hiểu được chức năng của tri thức để có được vai trò của các công dân biết đóng góp vào tiến bộ xã hội, vào văn minh của dân tộc.
Tri thức luận giáo dục, từ khám phá tới ứng dụng vào đời sống, vào xã hội, vào định chế và vào cơ chế, thì các tiến bộ tạo nên đời sống văn minh tới từ năm cuộc cách mạng : khoa học, kỹ thuật, tri thức, dân chủ, nhân quyền biết bảo vệ và bảo đảm về công bằng và công lý, thì các tiến bộ và văn minh này phải được đưa vào hệ thống giáo dục. Một hệ thống giáo dục quốc gia, có giáo lý, giáo luận dựa trên tiến bộ, có giáo khoa, giáo án dựa trên văn minh đã có mặt trong giáo trình của trung học phổ thông dành cho học sinh tuổi thiếu niên tại các quốc gia có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền. Nếu hệ thống giáo dục quốc gia hiện nay tại Việt Nam không giáo lý, giáo luận dựa trên tiến bộ, có giáo khoa, giáo án dựa trên văn minh mà chỉ mượn hệ thống giáo dục để áp đặt tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị, thì sẽ không tránh khỏi hậu quả của vô học, sẽ không tránh được hệ quả và hệ lụy của vô hậu (vì vô tri thức nên vô tương lai).
Tri thức luận chính sách, của một chế độ độc đảng toàn trị vận dụng tuyên truyền trị, để độc đảng được độc quyền, độc trị, độc tài, độc tôn mà đi ngược lại văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền, thì tuyên truyền trị là anh em sinh đôi với ngu dân trị. Mà hậu quả ngu dân trị trước hết là tự tha hóa dân tộc của mình, kế đó là tự nô lệ hóa cho ngoại bang, và cuối cùng là tự đồng hóa từ trí thức tới giống nòi, cụ thể là trao thân gởi phận cho ngoại bang. Nghịch lý của mọi chính sách tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị tới từ tập đoàn lảnh đạo chính là các tác giả của độc đảng, các tác nhân của toàn trị, thì chính các chính sách này tự vô học hóa từ não trạng tới não bộ của họ. Nhưng thảm họa thì thật lớn cho một dân tộc, cho một giống nòi, vì các chính sách tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị tiêu diệt các nguyên khí quốc gia, hủy triệt các hiền tài của dân tộc.
Tri thức luận trình độ, xác chứng mọi chính sách ngu dân luôn đi ngược lại với các chính sách vì dân, cụ thể là vì khoa học, kỹ thuật, tri thức, dân chủ, nhân quyền, công bằng, công lý là những quốc sách vì dân. Nhưng bản chất của các chính sách đều có cốt lõi của vần đề : trình độ ! Có những chế độ độc tài nhưng được điểu khiển và điều hành bởi các minh vương, minh quân, mình chủ, minh chúa ; cũng như có các chế độ lạm dụng hình thức dân chủ của tam quyền phân lập nhưng bị tham nhũng thối nát hóa ngay từ bên trong.
Các loại dân chủ hình thức để mạo danh tam quyền phân lập này đã để bất tài diệt thực tài, thì tiến bộ không tới với dân tộc, mà văn minh cũng không có mặt trong xã hội. Câu chuyện trình độ là câu chuyện cốt lõi để có nhận thức là trong toàn cầu hóa thông tin và truyền thông hiện nay thì quá trình khám phá khoa học, khai phá nhân quyền, khai thác sức mạnh của dân chủ đã là quá trình trực tuyến. Có tin tức tức khắc, có thông tin tức thì, có chứng từ, chứng tích, chứng nhân để chứng minh sự thật tức thời, đó là chân lý có mặt ngay bây giờ và ở đây. Nên tuyên truyền trị để ngu dân trị hoàn toàn bị phản tác dụng, vì sẽ bị vô hiệu hóa bởi tin tức tức khắc, thông tin tức thì, sự thật tức thời trong bối cảnh toàn cầu hóa truyền thông hiện nay. Vì vậy, tuyên truyền trị là bản lai diện mục của vô minh và vô tri ; và ngu dân trị là dị tướng làm nên dị dạng của vô giác và vô cảm ; tất cả làm nên vô tâm và vô trí của chế độ độc đảng toàn trị hiện nay do Đảng cộng sản Việt Nam điều hành và điều khiển.
Tri thức luận xã hội, kiến thức của cá nhân có từ giáo dục gia đình, rồi giáo dục học đường, và sau đó là giáo dục xã hội, nơi mà sinh hoạt xã hội được trao cho các lãnh đạo có tri thức biết thừa nhận các công ích xã hội được đặt trên tự lợi cá nhân của mình. Từ tri thức tới ý thức, các lãnh đạo sẽ lần lượt nhận ra trong các quan hệ xã hội thì an sinh xã hội quan trọng hơn tính toán ích kỷ cá nhân trong quá trình sống chung để chung sống với tập thể, với cộng đồng. Chung là chia vì chia để chung, đây là căn bản để có đời sống xã hội, tại đây ý thức đã trở thành nhận thức bằng đạo lý xã hội, lấy công bằng làm cơ sở cho tổ chức xã hội, trong đó cá nhân là công dân có trách nhiệm với đất nước, có bổn phận với đồng bào. Chính công dân này chủ động để trở thành chủ thể biết vận dụng hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức) để đưa văn minh dân chủ và văn hiến nhân quyền song hành cùng các tiến bộ về khoa học, kỹ thuật, kinh tế, văn hóa, giáo dục… vào xã hội.
Tri thức luận định chế, một chế độ toàn trị dựa trên độc đảng bám độc quyền để độc trị bằng độc tôn qua tuyên truyền trị song hành cùng công an trị để tạo dựng một định chế với hệ thống giáo dục của ngu dân trị, tạo ra một hệ thống xã hội thất nhân bất đức vì thất tri bất thức. Định chế này bất chấp hậu quả và hậu nạn của vô học trong tri thức, vô hậu trong nhận thức, vì ý đồ đã thành mưu toan quyết định mọi chính sách của độc đảng toàn trị là : phát triển tuyền truyền trị, củng cố công an trị để thực hiện sâu đậm quyết sách ngu dân trị. Đây là một tà lộ trong ma nghiệp (đi dễ khó về, vì dễ chết khó sống) trước nhân loại văn minh, trước nhân sinh tiến bộ của thế giới hiện nay. Chỉ vì vốn vô học của lãnh đạo chính trị vừa là gốc, rễ, cội, nguồn của tuyên truyền trị, vừa là móng, nền, tường, mái của ngu dân trị để vô học hóa toàn xã hội, toàn dân tộc. Nên sinh lộ của Việt tộc là minh lộ của văn minh dân chủ, là nhân lộ của văn hiến nhân quyền, cả hai biết bảo đảm tự do, biết bảo vệ công bằng, biết bảo hành công lý. Vì đây là nhân đạo của nhân tri, nhân trí xây nên nhân bản và nhân văn để giữ nhân vị và nhân tâm mà phục vụ cho nhân phẩm.
Tri thức luận lãnh đạo, là xới tới nơi trong phân tích để soi tới chốn trong giải thích về hệ vô thức (vô kiến thức, vô tri thức, vô trí thức, vô ý thức, vô nhận thức, vô tâm thức) có từ vốn vô học chính là điểm khởi hành của một tập đoàn lãnh đạo mang ý đồ độc quyền lãnh đạo bằng phương án vô học hóa toàn xã hội, toàn dân tộc. Với ý đồ độc quyền lãnh đạo bằng cách ngăn chặn một hệ thống giáo dục quốc gia dựa vào khai sáng nhân tri, nơi mà giáo lý, giáo luận dựa trên tiến bộ, có giáo khoa, giáo án dựa trên văn minh đã có mặt trong giáo trình của trung học phổ thông dành cho học sinh thiếu niên tại các quốc gia có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền.
Ngược lại giáo trình của trung học phổ thông này hoàn toàn không được hiện diện trong hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay đang được điều khiển và điều hành bởi ngu dân trị có dây mơ rễ má tới từ vô học trị của các lãnh tụ và các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Cụ thể là lực lượng lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang đưa dân tộc, giống nòi, xã hội, đất nước vào ma lộ của vô minh, khi họ đã chặn ngay thượng nguồn mọi ánh sáng tới từ khám phá về văn hiến nhân quyền, tới từ khai phá về văn minh dân chủ.
Tri thức luận tiến bộ, thấy để thấu vì phải thấy để tin là cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật, tri thức, dân chủ, nhân quyền, công bằng, công lý thực sự là những tiến bộ, không thể chối cải được, nên không thể không thừa nhận bởi mọi chính quyền, chính phủ có chính danh, vì có chính nghĩa do dân và vì dân. Mọi bạo quyền công an trị, mọi tà quyền tuyên truyền trị, mọi ma quyền ngu dân trị đều là bọn âm binh mang quỷ nghiệp trong điếm tri khi chúng đi ngược lại nhân lộ trong ánh sáng của văn minh dân chủ và văn hiến nhân quyền.
Bọn âm binh này mới chính là bọn phản động, theo đúng ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp của từ phản động được định nghĩa và định luận là : những cá nhân, bè nhóm, đảng phái, tập đoàn lãnh đạo đi ngược lại văn minh dân chủ ; đi trái chiều với tiến bộ khoa học biết bảo vệ nhân sinh ; đi nghịch hướng với văn minh nhân tri biết bảo vệ nhân quyền, đi ngược dòng tiến hóa của nhân loại.
Tri thức luận văn minh, khi tiến bộ song hành cùng văn minh là khi khám phá khoa học và ứng dụng kỹ thuật tạo ra phát triển sản xuất để tạo thăng tiến kinh tế. Thì cùng lúc các tiến bộ và văn minh này đã phát huy dân chủ và nhân quyền ; những tiến bộ và văn minh cũng là những công cuộc đấu tranh để bảo vệ công bằng chống bất bình đẳng, để bảo đảm công lý chống bất công.
Mà bất bình đẳng và bất công tới từ các chính quyền mà thực chất là bạo quyền sử dụng tà quyền để tham quyền ; là ma quyền vận dụng lạm quyền để lộng quyền ; là điếm quyền tận dụng cực quyền để cuồng quyền. Loại chính quyền âm binh này ngày đêm rình rập dân chúng bằng công an trị, ra rả qua nhồi sọ bằng tuyên truyền trị, rà rỉ qua tẩy não bằng ngu dân trị, luồn lách bằng vô học trị qua mua bằng bán cấp (học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả), để mua chức bán quyền (cao học gian, tiến sĩ giấy, học vị lừa, học hàm lận).
Tri thức luận dân chủ, nơi đây tiến bộ và văn minh đã rõ nét trên nhiều lãnh vực, có hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức) để bảo vệ hệ thống giáo dục quốc gia, nơi mà giáo lý, giáo luận dựa trên tiến bộ của lý trí, có giáo khoa, giáo án dựa trên sự khai hóa của trí tuệ. Có hệ nhân (nhân lý, nhân tính, nhân tri, nhân trí, nhân bản, nhân văn, nhân tâm) biết bảo trị nhân vị, biết bảo đảm nhân quyền, và nhân phẩm luôn được bảo vệ bởi hệ công (công bằng, công lý, công tâm, công luật).
Chính dân chủ với tự do đầu phiếu trong tự do ứng cử và bầu cử là nơi mà nguyên khí của quốc gia là các hiền tài của dân tộc được nhập nội vào hệ đa (đa tài, đa trí, đa lực, đa năng, đa hiệu) làm nên đa nguyên để đa đảng được hiện diện từ chính quyền tới chính phủ. Chính tri thức luận dân chủ là điểm khởi hành trên nhân lộ của khai sáng văn minh dân chủ, để xóa đi tuyên truyền trị, để khử đi ngu dân trị, để tẩy đi vô học trị, mang hậu quả và hậu nạn của vô hậu, vì vô tri thức nên vắng chân trời.
Tri thức luận nhân quyền, là công cuộc đấu tranh cho toàn bộ hệ nhân (nhân lý, nhân tính, nhân tri, nhân trí, nhân bản, nhân văn, nhân tâm, nhân vị, nhân đạo, nhân quyền, nhân phẩm). Tại đây, tri thức luận nhân quyền trực diện để chống lại tuyên truyền trị, mang chân dung của ngu dân trị, có chân tướng vô học trị, tới từ độc đảng trị là cha sinh mẹ đẻ của bạo quyền công an trị, được "chống lưng" bởi tà quyền tham nhũng trị, có "sân sau" của ma quyền tham tiền trị. Một bên là ánh sáng của nhân quyền biết tôn trọng dân chủ để tôn vinh công lý, để thăng hoa tự do công bằng và bác ái. Ánh sáng của cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái) và ánh sáng của nhân quyền (dân chủ, đa nguyên, văn minh) tạo nên hùng lực khai sáng nhân tri để khai hóa nhân trí, để lột mặt nạ tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị, để vạch mặt chỉ tên độc đảng trị, tham nhũng trị, tham tiền trị.
Bạo quyền độc đảng hiện nay đi ngược lại mọi tiến hóa của nhân loại vì nhân quyền, đi nghịch hướng với tự do vì công bằng ; đi trái chiều với dân chủ vì văn minh và tiến bộ. Mà thảm kịch là tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị đã và đang hủy diệt hệ thông (thông minh, thông thái, thông thạo) lẫn hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng lập, sáng tạo) của Việt tộc, một dân tộc không hề thua kém các dân tộc láng giềng cùng văn hóa tam giáo đồng nguyên với Việt Nam đó là : Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan… Nhưng giờ đây dưới sự lãnh đạo toàn trị trong ngu dân, độc đảng với vốn vô học đã biến thanh niên Việt thành lao nô, phụ nữ Việt thành nô tỳ trong các quốc gia láng giềng này. Hậu quả của vô học-vô hậu là : nô lệ, nô bộc, nô công, nô tỳ…
Hãy tổng kết lại các liên minh trong học thuật : phương pháp luận của hiện tượng học trực quan ; lý thuyết luận của hiện tượng học lý trí ; khoa học luận của hiện tượng học nhận thức.H ãy đúc kết lại các liên hiệp trong khảo sát. Khi đã có tổng kết lại các liên minh trong học thuật, đúc kết lại các liên hiệp trong khảo sát, liên kết lại các liên đới trong điều tra, thì đây là lúc áp dụng mô thức học thuật của cụ Tiên Điền Nguyễn Du là : "Phải lần cho tới tận nguồn lạch sông" để xới tới cội, bới tới nguồn của độc đảng trị, tham nhũng trị, tham tiền trị ; để đào tới gốc, tới rễ của tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị.
Công lý lao động luận
Nơi đây sẽ được trợ lực bởi : chính trị học, thấy quyền lực để thấu quyền lợi từ định chế độc tài tới cơ chế độc trị của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay, từ đó nhận ra sự đối kháng giữa hệ đa (đa đảng, đa tài, đa trí, đa hiệu, đa năng) luôn đối nghịch với hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn). Luật học, tại đây một xã hội bị luật rừng của kẻ mạnh thống trị với sự đồng loã của Đảng cộng sản Việt Nam, đã ngồi xổm rồi ngồi đè lên Hiến pháp, thì phạm trù luật học sẽ được truy xét bởi hệ công (công bằng, công tâm, công lý, công pháp) đối trọng để đấu tranh chống lại hệ bất (bất lương, bất tài, bất tín, bất trung, bất nhân). Tâm lý học, nghiên cứu hệ liêm (liêm khiết, liêm chính, liêm sỉ) từ đạo lý tổ tiên Việt tới luân lý cộng đồng Việt để đối lực với sự xuất hiện của hệ vô (vô cảm, vô giác, vô tri, vô minh) đang tràn lan trong một xã hội đang bị mất phương hướng từ đạo lý tới giáo lý.
Tri thức học, nhận ra được hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái) có trong hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng tạo) của Việt tộc đang bị bộ máy tuyền truyền độc đảng truy cùng diệt tận bởi ngu dân trị. Triết học, định vị hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức) trong giáo lý Việt, trong đạo đức Việt đang bị truy diệt bởi hệ thất (thất đức, thất tâm, thất nhân, thất tri) chính là hậu quả tới từ một chế độ độc đảng toàn trị không những bằng bạo quyền công an trị, mà còn bằng tà quyền tham nhũng trị, bằng ma quyền tham tiền trị. Xã hội học, phân tích sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội, đời sống xã hội để nhận ra là ngôn ngữ linh động biến thể, chủ động biến nghĩa để xã hội dân sự vận dụng được hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) để đối nghịch với hệ tham (tham quan, tham quyền, tham ô, tham nhũng).
Khi đã có liên minh giữa chính trị học, luật học, tâm lý học, tri thức học, triết học, xã hội học, thì dân tộc học ngôn ngữ, trong văn học và văn hóa nhân gian qua ca dao, châm ngôn, ngạn ngữ sẽ là đường đi nẻo về từ phân tích tới phân loại, từ giải thích tới giải luận để nhận ra nhân học Việt ngữ đã làm nên nhân học văn hiến Việt. Phạm trù công lý lao động để giải quyết không những công bằng phải có mặt trong xã hội, mà phải hiện diện ngay trong lao động. Tập-hợp bạo quyền, tà quyền, ma quyền với địa thế ngồi mát ăn bát vàng, với tư thế ăn cỗ đi trước lội nước đi sau ; từ mượn gió độc đảng mà bẻ măng trong thiên nhiên, cướp tài nguyên, với tục thế cốc mò cò ăn, chính là bất công của bất công, nên công lý bảo vệ nhân vị vì nhân phẩm trong lao động phải xuất hiện bằng công pháp biết làm ra công luật để xét và xử bọn cướp ngày là quan này.
Từ thảm cảnh của Việt Nam hiện nay, hãy phải nhìn rộng ra những tai họa trong suốt quá trình công nghiệp hóa của ba thế kỷ qua. Biến tổ chức lao động thành tổ chức xã hội, nơi mà con người luôn là công cụ của tổ chức chính trị với hệ ý (ý định, ý muốn, ý đồ) làm nên ý lực biến nhân lực thành công cụ mà không tôn trọng nhân phẩm của kẻ lao động. Đưa chủ thuyết Tylors nơi mà con người là công cụ của nhà máy vào ý đồ của Lenin là biến nhân lực của nguồn máy độc đảng thành công trường để áp đặt lên toàn xã hội với một kỷ luật quân sự toàn trị bất nhân thất đức.
Từ đây, chúng ta cũng không được quên những lầm đường lạc lối của chính các lý thuyết gia, các tư tưởng gia chính là các tác giả lớn trong hệ thống học thuật của khoa học xã hội và nhân văn khi họ nghiên cứu về quan hệ giữa con người, xã hội, và lao động : Tổ sư của xã hội học cận đại là Durkheim đề nghị khi nghiên cứu về quan hệ con người-xã hội-lao động, thì hãy xem con người là một vật thể (chose). Đại sư của xã hội học đương đại là Bourdieu đề nghị khi nghiên cứu về quan hệ con người-xã hội-lao động, thì hãy xem con người là một phân tử (particule) trong một không gian nam châm. Minh sư của nhân học cận đại và đương đại là Levi-Strausse đề nghị khi nghiên cứu về quan hệ con người-xã hội-lao động, thì hãy xem con người là côn trùng (insecte) trong một cấu trúc chung nơi mà cơ cấu quyết định cho số phận của cá nhân.
Khuyết điểm của các luận thuyết này làm nên khuyết tật của các chủ thuyết mà họ đề ra, nơi mà các lý thuyết gia, các tư tưởng gia này không những mượn hình tượng của vật thể vô tri kiểu Durkheim, của vật thể vô giác kiểu Bourdieu, của tiểu sinh vật vô cảm kiểu Levi-Strausse để làm biểu tượng mà dựng lên hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) không nhân lý cũng không nhân tính, không nhân bản cũng không nhân văn…. Khuyết điểm thành khuyết tật ngay trong hệ thức (ý thức, kiến thức, tri thức, trí thức, nhận thức, tỉnh thức) của các trí thức này tác động thẳng lên nhân trí, luôn yêu cầu chúng ta phải cẩn thận trong tri thức để cẩn trọng trong nhân tri.
Trong một thế chế thực sự dân chủ để bảo vệ nhân quyền, thì công lý lao động phải có mặt ngay trong công bằng lao động qua tổ chức trong lao động bằng hệ thức (ý thức, kiến thức, tri thức, trí thức, nhận thức, tỉnh thức). Tại đây, hành tác trong lao động bằng hệ tự (tự do, tự trọng, tự chủ, tự tin), có phân công trong lao động bằng hệ chuyên (chuyên khoa, chuyên ngành, chuyên môn, chuyên nghiệp), với thành quả trong lao động bằng hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng lập, sáng tạo).
Nhưng tri thức lao động làm nên thành quả lao động có hiệu quả kinh tế, được hỗ trợ bởi khoa học kỹ thuật, trong đó sáng tạo lao động có mặt trong thị trường qua cung và cầu, ở ngoài phạm vi quyền lực của chính quyền và chính quyền chỉ có vai trò làm trọng tài khi bất công trong lao động xuất hiện. Khi chính quyền trở thành trọng tài thì chính quyền này phải được bảo chứng bởi luật lao động, được trợ lực bởi luật xã hội với các tiền đề : thành quả lao động không phải là hàng hóa với giá cả nhất định ; vai trò con người trong lao động không phải hàng hóa để trả giá, để mặc cả ; thị trường lao động không thuần túy là thị trường hàng hóa.
Công lý lao động trong điều kiện công nghiệp cơ giới hóa không còn là công lý lao động trong điều kiện công nghệ truyền thông hiện nay với khả năng vi tính biết có phản ứng phản hồi để thích ứng môi trường, bối cảnh, hiện trạng của xã hội. Kỷ nguyên công nghệ truyền thông có khả năng vi tính có phản ứng, biết phản hồi để thích ứng với nhiều hoàn cảnh, từ chứng khoán tới đầu tư, từ sản suất tới tiêu dùng bắt buộc chúng ta phải linh động trong chuyển luận về công lý lao động…
Tại đây công lý lao động trong bối cảnh công nghệ truyền thông, cũng vẫn bị điều khiển bởi quyền lực của lượng, nơi mà số lượng đẩy lui chất lượng, để chất phải lùi để nhường chỗ cho lượng, từ đó ra đời xã hội tiêu thụ bằng sản suất bằng lượng. Nơi mà chỉ tiêu sản xuất quyết định cường độ lao động, tất cả phải phục tùng định lượng trong hiệu quả và kết quả lao động.
Chính sức ép của sản lượng, áp đặp lên hiệu quả, hiệu năng của lao động đã cho xuất hiện những hiện tượng trầm cảm, tự tử, với tầng số tai nạn lao động cao, theo cùng với những hậu quả về tâm lý, những hậu nạn về nhân phẩm. Chính tại đây, công lý lao động phải tiếp tục những phương án, phương pháp mới để bảo đảm lao động có nhân tính, để bảo hộ người lao động không là nạn nhân của tổ chức lao động, phân công lao động luôn dựa trên sản lượng lao động.
Bảo đảm lao động vừa bằng luật lao động vừa bằng luật xã hội, vừa bằng bảo hiểm lao động vừa bằng bảo hiểm xã hội. Công lý lao động phải biết tương đối hóa sản lượng, để vào thực chất của phẩm, để biết nhận ra tác phẩm của sáng tạo lao động, tự đó biết được hoài bão của nhân phẩm, hoài vọng của nhân tri, nơi mà nhân trí đã vượt thoát số lượng, để vượt.
Nhận thức luận
Từ xa xưa lắm, trước công nguyên, tổ sư của triết học là Platon đã kể về người thầy của mình là Socrate : "Giáo khoa của thầy luôn khích thích sự học hỏi, cụ thể là kích hoạt để trò đặt những câu hỏi ; thầy học nhiều vì thầy đã đi xa, không những bằng tri thức mà còn bằng kinh nghiệm của cá nhân thầy, kinh nghiệm sống làm nên tri thức sống muôn vẻ. Mỗi lần trò tiến thêm trên con đường kiến thức, trò lại gặp thầy trên con đường nhân trí ; chưa hết con đường kiến thức của thầy làm trò nhận ra là cả một sự khám phá những tri thức, luôn làm trò ngạc nhiên trong vui học…".
Đánh thức tri thức chính con đường học của Platon mà thầy Socrate đã vạch ra đã ít nhiều được tổ tiên Việt mô thức hóa rồi : học không mệt, dạy không nghỉ. Cha ông mình còn thêm vào : học không bao giờ muộn, mà từ gia đình tới hệ thống giáo dục phải làm rõ lên một giáo lý đã làm nên giáo dục Việt : cha muốn con hay, thầy mong trò khá. Đây là một ẩn số của nhân cách, sẽ làm nên phong cách của thầy, tạo ra tư cách của trò, đó là câu chuyên biết ơn-mang ơn-đền ơn của trò đối với thầy (mà thầy thì không bao giờ muốn trò trả ơn). Trò chỉ cần tiếp tục để tiếp nối trọng trách giáo dục bằng giáo lý của thầy là trao truyền ba hệ : hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức) ; hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái) ; hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng tạo), tới các trò của các thế hệ mới.
Cái thực giáo dưỡng cái đạo để làm người, để trò được thành tài rồi thành nhân là nhờ thầy, đây là phương trình đường dài của : có tích mới dịch nên tuồng, mà tích và tuồng luôn có chỗ dựa là sự thật-chân lý-lẽ phải. Tích lẫn tuồng luôn được đúc kết qua kết cấu, kết cuộc, kết luận… đó là con đường của kết quả của chuyện học, vì học là học phải tới nơi tới chốn, chớ không phải học trong biệt vô tăm tích. Học là để lại cái tăm của mình, lộ ra nhân diện, rồi nhân dạng, và nhân cách đây là hiệu quả của quan hệ thầy-trò, vì thầy luôn dặn trò nên cẩn trọng trước cái mất tăm mất tích, theo kiểu sông dài cá lội biệt tăm, thuộc loại đường dài ngựa chạy biệt tăm.
Sự thông minh của trò giúp trò nhận ra biên giới giữa nội dung giáo khoa và quyền năng của thầy, nhưng chính trò cũng biết phối hợp cả hai, liên minh với cả hai hiểu là trong một bài học có bài học của giáo án nằm trong giáo trình, và sâu xa trong bài học này có bài học của thầy, lúc kín đáo trao truyền, lúc tế nhị khuyên răn tới trò luôn "sáng dạ" để hiểu thầy, luôn "sáng lòng" để tâm giao đắc khí với thầy. Hiển hiện trong não bộ của trò, câu nói thẳng thắn của tổ tiên khi muốn tách người khôn ra khỏi kẻ dại : làm đầy tớ người khôn hơn làm thầy người dại, đây là lời minh chú của thầy, sẽ theo trò suốt kiếp học hành, luôn đi tìm sự thông minh qua sự thông thái của thầy, nhận ra sự thông minh của thầy qua sự thông thạo của tri thức. Thầy đánh thức hệ thức (kiến thức, tri thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức), rồi thầy vực dậy luôn cả hệ thông (thông minh, thông thái, thông thạo), mà thầy đâu cần nói nhiều : Khôn ngoan chẳng lo nói nhiều/ Người khôn mới nói nửa điều cũng khôn.
Đi tìm tri thức đúng lý giải và trúng trong kết quả là đi tìm thầy cao trong học thức, rộng trong học lực, sâu trong học hành, vì thầy đã đi thật xa trong học luyện. Nhưng mỗi người thầy có sự cẩn trọng riêng của mình khi hoàn thành một giáo án, có sự nghiêm cẩn khi cấu trúc một giáo trình, vì thầy hiểu hơn ai hết là : sai một ly di một dặm. Khi chấp bút cũng vậy, bút sa gà chết, và thầy biết hơn ai hết là có khi người cũng chết theo, và sự mạch lạc của thầy là đường đi nẻo về của giáo khoa nghiêm túc, nó ngược lại với các ý đồ xấu sinh ra từ thâm ý tồi :
Người khôn đón trước rào sau
Để cho người dại biết đâu mà mò.
Thầy không muốn làm loại người khôn có thâm ý, thầy gần với loại người khôn cẩn thận :
Chim khôn chưa bắt đã bay
Người khôn chưa nói dang tay đỡ lời.
Rồi thầy sẽ dạy cái khôn này cho trò, nếu trò hiểu tại sao thầy nghiêm cẩn trong tri thức, càng đi theo thầy qua tháng rộng, năm dài, thầy sẽ khuyên và luôn dặn là :
Người khôn chưa đắn đã đo
Chưa đi biển cả đã dò nông sâu.
Đây là câu chuyện rộng hơn không gian học đường, người ta còn nhớ sự cẩn trọng của thi hào Goethe, dãy ngân hà tinh sáng của thi ca tâm thức, nguồn suối vừa sâu, vừa mạnh của thi từ biết đánh thức trí năng, và ông nhìn hệ thống đại học thủa nào bằng sự nghi ngại qua câu hỏi : "Ai dạy được và ai không dạy được ?". Người dạy được là kẻ đưa được hệ thức (kiến thức, tri thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức) một cách trọn vẹn trong giáo khoa, một cách đầy đủ trong giáo trình, một cách toàn lý trong giáo án, nhưng vẫn chưa là thầy theo đúng trong sự chờ đợi của Goethe.
Đúng là bậc thầy, thì trò sẽ thấy các giá trị tâm linh của nhân sinh đã có mặt trong bài học dày giá trị nhân lý, nhân tính làm nên chiều cao của nhân phẩm, chiều sâu của nhân tâm. Nên thầy luôn dặn dò phải luôn tránh : Khôn ba năm, dại một giờ ! Khôn dại có lãnh thổ tách biệt nhau, nhờ sự sáng suốt của cái khôn luôn tỉnh táo trước ranh giới khôn dại : Trăm cái khôn dồn một cái dại. Mà trong đời sống hằng ngày thì : Thằng dại hại thằng khôn, nhưng thầy sẻ dạy trò là kẻ khôn thì không được khinh người, qua kiểu nói :
Rồng vàng tắm nước ao tù
Người khôn ở với người ngu bực mình.
Dân chủ luận
Không gian quyền lực của nhân bản dân chủ là một không gian trung tính, nếu cái gian của độc tài và cái đểu của tham nhũng "đột nhập" vào đây, nó sẽ bị lột mặt nạ không những bởi tư pháp, mà bị lột trần bởi các phong trào xã hội biết bảo vệ dân chủ để diệt cho bằng được độc tài, bảo vệ dân chủ để đốn tận gốc tham nhũng. Trong không gian trung tính này chính là kết quả chọn lựa của một quần chúng đi bầu chính bằng nhận thức của mình, nên họ là một cộng đồng hợp nhất, với sung lực tổng hợp dùng tự do bầu cử để bảo vệ công bằng trong xã hội cho dân tộc qua quyền lợi của đa số. Chính phương trình của không gian trung tính trong đó có cộng đồng hợp nhất, với sung lực tổng hợp qua quyền lợi của đa số thể hiện rõ ý chí của một dân tộc, lấy dân chủ làm nhân bản cho mình để tạo ra các phương án cho tương lai.
Không gian trung tính này rõ ràng trong chân chính, trong đó đa số có thể thành thiểu số, nếu đa số đó có một chính quyền bất tài và bất lực trước các đòi hỏi cụ thể của tự do, công bằng, bác ái. Và thiểu số có thể trở thành đa số khi nó đủ tài và đủ trí không những để bảo vệ cho tự do, công bằng, bác ái mà còn biết phát triển đất nước, phát huy văn minh vì dân tộc. Tại đây, dân chủ biết công nhận nguyên tắc thay thế quyền hạn của đại diện (principe du renversement de légitimité) để có chính quyền mới đủ tâm và đủ tầm hơn. Khi phân tích sâu vào nguyên tắc thay thế quyền hạn của đại diện này, ta sẽ thấy lộ ra quan hệ mật thiết giữa quyền lực và xã hội, qua quan hệ giữa chính quyền và dân tộc, tại đây một quyền lực được dựng lên bởi dân chủ phải lắng nghe và thông hiểu sự vận hành của xã hội mà nó đang quản lý. Xã hội này không còn là xã hội của "thưa, bẩm, dạ, vâng" trước bạo quyền, chỉ biết "cúi đầu tuân lịnh" trước tà quyền ; và xã hội này cũng không phải là một xã hội của một cộng đồng hủ lậu với "chiếu trên, chiếu dưới" trong phản xạ của "sống lâu lên lão làng". Mà nó là "xã hội của công dân" trong đó quyền lợi của cá nhân phải được tôn trọng và bảo vệ như quyền lợi của đảng phái, của hội đoàn, của phong trào, của cộng đồng… theo một nguyên tắc phổ quát công bằng (principe universaliste et égalitaire) cho mọi thực thể, dù là cá thể hay tập thể.
Không gian trung tính, không phải là một không gian "vô thưởng, vô phạt", nó trung tính nhưng rất trung tâm, nó trung tính chỉ vì nó không để các tín ngưỡng về thượng đế, về thần linh mê hoặc nó ; không cho mê tín, dị đoan đến để nhiễm ô nhân tính, một nhân tính lấy tự do và công bằng để thay thế độc tài và thần giáo. Không gian trung tính này mang đầy cá tính của nhân tính, biết bảo vệ nhân bản dân chủ bằng nhân tri dân chủ. Chính quyền có mặt qua một chính phủ được dân bầu, ngược với độc đảng dùng độc tài để độc trị, vì dân chủ loại độc chủ, mọi độc quyền muốn độc trị sẽ bị loại ngay trong không gian mà dân làm chủ này.
Chính quyền có mặt qua một chính phủ được dân bầu, phải bảo đảm được sự hội nhập của các cá nhân, tập thể, cộng đồng trong một đời sống xã hội lấy công bằng được công lý bảo đảm ; có những sinh hoạt xã hội lấy tự do để có tự lập trong các phong trào xã hội ; có quan hệ xã hội lấy công bằng và tự do để chế tác ra bác ái mà che chở cho nhau. Chính quyền có mặt qua một chính phủ được dân bầu, biết lịch sử của đất nước, hiểu sử tính của dân tộc, và dùng dân chủ để đưa đất nước vào quỷ đạo của phát triển, đưa dân tộc tới các chân trời của văn minh, vì biết tận dụng các tiến bộ của khoa học, kỹ thuật… Chính quyền có mặt qua một chính phủ được dân bầu, phát triển nhân trí để bảo vệ ngày càng sâu nhân phẩm của các thành viên trong cộng đồng dân tộc, trong đó nhân quyền là phẩm của nhân vị, luôn được tôn vinh qua không những qua nhân tính mà qua cả nhân lý và nhân tri.
Bản chất của chính quyền này được dân chủ cho phép đại diện dân tộc để đi tới tương lai qua các chương trình ứng cử chỉnh lý trong lý luận và toàn lý trong sử dụng các phương tiện để thành công trong các cứu cánh vì công bằng trong tiến bộ, vì tự do trong phát triển. Một chính quyền được dân bầu luôn có khả năng thống hợp (faculté synthétique) để giải quyết các mâu thuẫn, các xung đột giữa các quyền lợi khác nhau. Chính quyền được dân bầu này dựa vào không gian trung tính, không mê tín, không chuyên chính, mà luôn trung thành với nguyên tắc lấy dân chủ để bảo vệ nhân quyền. Walt Whitman đã thấy được khả năng thống hợp của không gian trung tính này, nó đã thống hợp được hai nhân tố rất khác biệt nhau để làm nên thể chế dân chủ ; Mỗi cá nhân bình thường nhưng là một cá thể rất cá biệt (la personne simple séparée, le Soi-même). Chính cá thể rất cá biệt này thể hiện mong muốn dân chủ của mình ngay trong quần chúng, nơi mà chữ dân chủ được hiểu là tập-hợp-qua-quần-chúng (en-masse)
Chính dân chủ đã chế tác ra, đã sáng lập nên một kỷ nguyên mà ngay trên thượng nguồn nơi mà mỗi cá nhân sống có ý nguyện được biến thành ý lực là muốn sống chung với nhau, mà không để thượng đế hoặc thần linh chỉ đường, không cho mê tín và dị đoan dẫn lối, và nhất là không cho độc đảng khống chế, để nó biến độc tài của nó thành độc tôn, rồi nó tự cho nó quyền độc trị. Vì dân chủ khẳng định đảng phái chỉ là một tập thể, chỉ có quyền như mọi tập thể khác dưới sự chỉ đạo của sân chơi-trò chơi-luật chơi của đa nguyên, là thắng thì không được làm vua mà chỉ làm đúng nhiệm kỳ ; mà thua cũng không được làm giặc vì tư pháp có mặt để xử giặc theo công pháp của công lý.
Khi nghiên cứu kỹ các xã hội dân chủ văn minh từ tổ chức thể chế tới sinh hoạt xã hội, từ quan hệ xã hội tới chỗ đứng của nhân quyền qua dân chủ làm nên nhân vị, ta sẽ thấy thảm kịch của Việt tộc hiện nay, và thảm kịch này trở thành hài kịch khi các lãnh đạo độc tài của Đảng cộng sản Việt Nam trả lời trước báo chí, trước các chính phủ của các quốc gia văn minh nhờ dân chủ trên chính trường quốc tế, như thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nói trước cuộc họp báo tại quốc gia Áo, tháng 10 năm 2018 này là : "Việt Nam không có độc tài… Việt Nam là một đất nước dân chủ".
Đây là một loại xảo ngữ đã nhập hồn vào điêu ngôn của loại lãnh đạo này với thói quen man trá đã biến thành phản xạ điêu ngoa, chỉ có quái thai độc đảng mới sinh ra loại tuyên bố độc dại này trước quốc tế. Hôm đó, các chuyên gia cùng các ký giả họ chỉ biết ôm bụng cười thầm, và vì lịch sự nên họ không bật cười thành tiếng, cũng chỉ để giữ lịch thiệp tối thiểu với miệng mồm kẻ độc dại đã hóa thành độc hại, một cách lộ liễu trong ngây ngô.
Chuyên gia và ký giả cũng muốn giữ thể diện cho quốc gia Áo, nên họ không "quật lại để lột mặt nạ" tên thủ tướng vô nhân cách này. Và nếu họ muốn, họ chỉ bằng phân tích qua thống kê ; và hiện nay các chuyên gia đã định lượng hóa được các hành vi của một chính quyền có tôn trọng dân chủ hay không qua các số liệu chính trị, văn hóa, truyền thông, xã hội… để kết luận là một xã hội có dân chủ hay không ? Nơi mà dân chủ khi hội tụ cùng nhân quyền đã trở thành một chỉ báo trung tâm để mổ xẻ thực chất của một chế độ. Chỉ cần hôm đó, họ đưa ra vài dữ kiện định lượng làm nên độc chất độc tài của Đảng cộng sản Việt Nam ngay trên quê hương Việt Nam nơi mà các đứa con tin yêu của Việt tộc đấu tranh vì dân chủ để đòi hỏi nhân quyền thường xuyên bị khủng bố, bắt bớ, tra tấn, tù đày… với các án tù rất cao so với các tội hình sự khác.
Nơi mà ông thủ tướng "đầu khờ, miệng lanh" này tuyên bố qua xảo ngôn, điêu ngữ là "Việt Nam không có độc tài… Việt Nam là một đất nước dân chủ", thì cùng tuần lễ đó chính phủ dân chủ Mỹ đã can thiệp cho nữ tù nhân lương tâm đấu tranh vì dân chủ và nhân quyền Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh được đi tỵ nạn cùng gia đình qua Mỹ. Chính cái độc dại để độc quyền trong độc hại vô cùng phản dân chủ đã làm nên tai họa không sao lường hết cho nòi giống Việt tộc, nơi mà con dân chưa bao giờ được làm công dân, được làm chủ thể dân chủ để quyết định số phận của mình. Nơi mà họ cứ phải tìm đường sống bằng cách : bỏ quê hương ! Để định cư tại các quốc gia thật sự dân chủ để sống, để lao động, để bảo vệ tương lai con cái của họ. Đây cũng chính là nền cho sử học sẽ trợ giúp cho tư pháp vì công lý của công pháp nếu sau này : có một tòa án lương tâm Việt để xử Đảng cộng sản Việt Nam !
Không gian trung tính, không hề mờ nhạt vô minh, tan loãng trong vô tri, mà ngược lại nó rất trung tâm trong phân xử nghiêm minh trước công pháp trên phạm trù của nhân quyền bằng dân chủ qua pháp quyền biết tôn trọng công bằng và tự do. Người ta có thể nhớ lại bài tham luận của Lamartine, ngày 25 tháng 2 năm 1848, để hiểu thêm về chân trời rất liêm sỉ vì rất liêm chính của dân chủ : "Chúng ta đã thành lập ra một cộng hòa của bình đẳng, nơi đây chỉ có một dân tộc, được ra đời từ tính nguyên tắc phổ quát cho mọi công dân, nơi mà luật pháp và công quyền đã hội tụ để bảo vệ bằng luật và bằng quyền cho mỗi cá nhân". Qua tuyên bố này, người ta sẽ nhận ra một nội lực của nhân bản dân chủ : mỗi cá nhân có đầy quyền làm người trong nhân quyền và có đủ quyền để bảo vệ tự do cho cá nhân mình, cùng lúc có gắn bó chặt chẽ với các cá nhân khác có cùng vai trò và chức năng công dân với mình.
Nền móng dân chủ không chỉ là cá nhân trong công dân, mà các tư tưởng gia của thế kỷ XVIII còn nhận ra gốc rễ của dân chủ là phục vụ chủ quyền của dân tộc (souveraineté du peuple), chủ quyền này vừa là tiềm năng, vừa là hiệu quả của dân chủ, vì chủ quyền của dân tộc không chỉ là chính trị qua chính quyền, qua chính phủ, qua định chế và cơ chế, mà nó bao trùm lên đời sống xã hội, sinh hoạt xã hội, nhất là quan hệ xã hội. Trong không gian trung tính của dân chủ, mọi ý đồ của hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn) không thể có chỗ đứng trong hành pháp, không thể có ghế ngồi trong lập pháp. Và sẽ không bao giờ có chuyện cũng trong tháng 10 năm 2018 này là ông tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam, Nguyễn Phú Trọng, sau cái quy luật "đột tử" của Đảng cộng sản Việt Nam đối với ông chủ tịch nước Trần Đại Quang, để ông tổng bí thư này được kiêm luôn chức chủ tịch nước.
Độc hại của độc đảng là nó luôn sinh ra các quái thai, từ nhân cách tới thể chế, bằng độc quyền vì tham quyền, không nhiệm kỳ vì không có dân bầu, một quái thai phản dân chủ luôn sinh ra hằng trăm quái thai ngày càng phản dân chủ hơn. Và, bi-hài-kịch chính là kẻ quái thai nhất là ông tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã tuyên bố qua xảo ngữ-điêu ngôn của ông là : "Việt Nam có dân chủ không đâu bằng !".
Không gian trung tính, vì không có thượng đế, không có thần linh, nhất là một không gian không để độc tài qua độc đảng xuất đầu lộ diện rồi làm mưa làm gió, vì không gian này biết tự trong sạch hóa, nó loại tham nhũng, nó xóa bất tài, vì nó biết độc đảng đẻ ra tham nhũng, và bất tài sinh ra bất lực trước các thử thách của phát triển, của tiến bộ, của văn minh. Chính cái độc tài của Đảng cộng sản Việt Nam song hành cùng cái bất tài của lãnh đạo, của cán bộ cũng vừa là đảng viên đã giải thích cái nghèo nàn, lạc hậu của một dân tộc, mà trong lịch sử trước đó không hề thua kém các dân tộc láng giềng, mà giờ đây phải đi làm lao nô, làm nô tì cho các nước lân cận trong tủi nhục.
Chính Đảng cộng sản Việt Nam bất tài và bất chính trong quản lý, nên nó bất tín với dân tộc, nên nó bất trung với tổ tiên, độc đảng phản dân chủ đã đưa Việt tộc tới một cuộc sống không nhân bản trong thể chế, không nhân văn trong văn hóa, ngày ngày xói mòn nhân phẩm Việt trong cái vô cảm ngay trong các quan hệ xã hội, vô tri ngay trong các sinh hoạt xã hội, vô giác ngay trong đời sống xã hội. Độc tài mà bất tài thì chắc chắn sẽ thất trách với tiền đồ của Việt tộc, trước Tàu tặc-Tàu nạn-Tầu họa-Tàu hoạn như hiện nay.
Bọn độc tài mà bất tài không bao giờ dám tổ chức hội thảo về dân chủ, không bao giờ dám tổ chức hội luận về nhân quyền, cho nên đừng trong chờ chúng tổ chức hội nghị về tự do đầu phiếu, tự do ứng cử, tự do trong tự quyết về số phận của công dân, của dân tộc, của đất nước. Tại đây, chuyện lẩn tránh và trốn né thảo luận để lý luận, lập luận để giải luận, tranh luận để trao luận là chuyện dể hiểu vì chúng luôn giấu diếm cái thô bỉ của độc tài, cái trơ trẻn của bất tài. Qua các cuộc nghiên cứu, điều tra, điền dả vào sâu các thể chế độc tài mà bất tài, các chuyên gia đã nhận ra là rất ít, rất hiếm các lãnh đạo của các quốc gia độc tài mà bất tài hiểu rành mạch về sinh hoạt xã hội, và đừng mong chờ chúng hiểu đầy đủ về sự thông minh của xã hội dân sự.
Chính xã hội dân sự là nơi tập trung các ý định, ý muốnlàm nên ý nguyện tạo nên ý lực trong đời sống xã hội, sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội. Vì chỉ có xã hội dân sự là đủ nhân bản dân chủ để làm rõ quốc gia là sở hữu của toàn dân, qua định chế dân chủ có ứng cử được hợp thức hóa bởi bầu cử. Chính quyền cũng là sở hữu của toàn dân, qua chính phủ được dân bầu, và dân kiểm tra qua pháp quyền. Chủ thể dân chủ định vị cho mọi công dân, vừa là chủ thể chính trị trong đầu phiếu, vừa là chủ thể của lịch sử qua các giai đoạn đoản kỳ, trung kỳ và trường kỳ của một dân tộc, lấy dân chủ làm nhân vị. Chính thể dân chủ tập hợp một dân tộc trong quy luật của một giai đoạn lịch sử dài, nơi mà công bằng, tự do, bác ái được hội tụ để hợp lực, lên đường để đưa một dân tộc tới bến bờ của bình đẳng trong tiến bộ, có nhân quyền trong văn minh của nhân bản.
Nhân bản dân chủ là hùng lực của lịch sử không những đã đưa thượng đế, thần linh, lẩn mê tín, dị đoan ra khỏi không gian của nhân quyền, mà nó loại cho bằng được cái độc tài màbất tài, cái tham quan để tham nhũng, chỉ vì tự do mà dân chủ đi tìm là tự do để tự quyếtsố phần của mình trong nhân thế, số phận của mình trong nhân sinh. Tự do để tự quyếtlàm nên cái tự tin trong tự chủ là nhân lý sẻ thắng bạo quyền, nhân đạo sẽ thắng tà quyền. Trong đó quốc gia vừa có đất nước, vừa có dân tộc, vừa có lịch sử, vừa có xã hội, vừa có công dân, vừa có phong trào, làm nên xã hội dân sự, được bảo vệ bởi không gian trung tính, bảo vệ được tính nhất thể của dân chủ trong tính hợp thể vì nhân quyền.
Đa nguyên luận
Dân chủ là một thể chế mà kẻ được trao quyền lực để thực hiện tam quyền phân lập thay thế nhân dân bầu ra mình trong nghị trường để bảo đảm các định đề của cộng hòa : tự do, công bằng, bác ái trên nền nhân quyền với ba hợp đồng ứng cử-bầu cử-thắng cử có thời hạn dưới sự kiểm tra của dân làm chủ. Trong chính sinh hoạt quyền lực, dân chủ tiếp thu sinh hoạt xã hội từ sản xuất tới tiêu thụ cùng lúc có năng lực hội nhập vào kinh tế thị trường, nếu kinh tế có đa năng và đa hiệu về hàng hóa và trao đổi, thì quyền lực dân chủ cũng có đa tài và đa trí về tổ chức các sinh hoạt kinh tế và xã hội.
Ngay trong lý luận và thực hành, dân chủ dựa trên đa nguyên và không ngừng ở không gian giới hạn được khoanh vùng là đa đảng, mà đa nguyên chính là khả năng thích ứng, có từ đa lực sinh động của dân chủ trong đó vai trò của liên minh của các đảng phái với các công đoàn chỉ là một động lực, còn một động lực khác sâu rộng hơn đó là : xã hội dân sự. Sinh hoạt dân chủ là sinh hoạt hội trường trước khi là sinh hoạt nghị trường, trong hội trường của một tập thể, một cộng đồng, một quốc gia, giờ đã tới phạm vi của các châu lục tiến bộ, của toàn cầu hóa văn minh nơi mà con người có thể hội thoại đựơc qua hội đàm, hội luận, hội nghị, hội thảo…
Hội thoại chính là sự thông minh của đối thoại trong sinh hoạt dân chủ, có đối diện và có đối đáp vì có đối luận, nhưng không nhất thiết phải trở thành đối phương, không cần thiết phải là đối thủ, nên sinh hoạt dân chủ là sinh hoạt cẩn trọng để không biến đối phương, đối thủ thành kẻ thù, rồi thành tử thù. Trong độc đảng làm nên độc tài như tình hình của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay thì sự có mặt thường xuyên của thanh trừng để thanh toán nhau, để nắm độc quyền trên độc lộ để độc trị, nên nó chính là bộ máy sản xuất ra kẻ thù và luôn tái sản xuất quy luật tử thù. Hệ lụy của thanh trừng-thanh toán luôn có trong nội chất bất nhân thất đức của nó, vì nó bất chấp đạo lý tổ tiên Việt là phải ăn ở có hậu, tức là phải lấy nhân tâm để điều chế nhân tính, phải lấy nhân từ để điều khiển nhân lý, để nhân nghĩa mở cửa mà chỉ đường cho nhân đạo.
Dân chủ thì ngược lại, đó là khả năng chia sẻ nhân tâm và nhân từ để tái tạo nhân nghĩa và nhân đạo. Chia sẻ nhân tâm và nhân từ để tái tạo nhân nghĩa và nhân đạo, phải tuân theo ít nhất ba định đề của nhân sinh làm nên từ nhân tri và nhân trí : vai trò của luân lý biết tôn trọng nhau để bảo vệ công ích ; chức năng của kinh tế biết tổ chức sản suất để bảo đảm công bằng ; vị trí của lao động biết bảo vệ thành quả lao động bằng công minh.
Ba ba định đề này sẽ là tiền đề để phân định : "sân chơi", "trò chơi", "luật chơi" của dân chủ trên nền tảng của ba định luận về : công ích, công bằng, công minh. Chính các định đề, định luận này phải được xây dựng trên các quy luật được khách quan hóa trong sinh hoạt của dân chủ : tính vô vụ lợi của luật pháp, trong đó có luật lao động và luật xã hội ; tính toán khách quan dựa trên khoa học, giúp xã hội có thước đo chính xác ; tính đồng nhất của ngôn ngữ để thống nhất ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp. Chính luân lý công ích, kinh tế công bằng, lao động công minh được trợ lực bằng luật pháp, khoa học trong ngôn ngữ thống nhất đã kiểm tra được ba hệ chủ yếu bảo đảm tính bền vững của một quốc gia, tính tiến bộ của một dân tộc : hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) trong đời sống xã hội ; hệ liêm (liêm khiết, liêm chính, liêm sỉ) trong quan hệ xã hội ; hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) trong sinh hoạt xã hội.
Khi nhận ra bộ ba : đời sống xã hội, quan hệ xã hội, sinh hoạt xã hội thì ta phải nhận ra : tổ chức lao động trong đời sống xã hội ; phân công lao động trong quan hệ xã hội ; hiệu quả lao động trong sinh hoạt xã hội. Phân tích này không hề trừu tượng, giải thích này không lý thuyết, nó cụ thể trong lịch sử cận đại của văn minh dân chủ, của văn hiến nhân quyền của Tây Âu và Bắc Mỹ. Phân tích này không hề mơ hồ, giải thích này không viễn vông, nó hiện hiện trong lịch sử hiện đại của văn minh dân chủ, của văn hiến nhân quyền của các láng giềng của Việt Nam : Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapour.
Chính luân lý công ích, kinh tế công bằng, lao động công minh được trợ lực bằng luật pháp, khoa học, kỹ thuật chính là tiền đề của tiến bộ làm nên từ văn minh dân chủ, văn hiến nhân quyền, mà tiền đề này đang bị thiêu rụi ngay trên thượng nguồn tại Việt Nam hiện nay trong hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn) đã sinh sản ra : hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng) ; hệ bất (bất tài, bất lực, bất tín, bất lương) ; hệ gian (gian dối, gian trá, gian xảo, gian manh). Giữa dân chủ với độc tài, giữa nhân quyền với độc trị không hề là "cá mè một lứa" mà ngược lại là : "một trời một vực" !
Dân chủ bắt đầu bằng sự công nhận công bằng không những trên những chuyện đã có mà luôn cho những chuyện đang có trong hiện tại của dân tộc, và sẽ có trong tương lai của quốc gia, trong đó công bằng xã hội được bảo đảm bởi công lý làm nên công luật, tất cả được thảo luận bằng hội thoại qua đối thoại bằng luân lý với sự trợ lực của pháp luật. Khi hội thoại qua đối thoại, dân chủ chấp nhận và cho phát biểu để pháp triển sự khác biệt, tính đối kháng, tính nghịch lý để mở cửa rồi mở đường cho sự mâu thuẫn hoàn toàn chính danh vì chỉnh lý trong dân chủ để thực hiện đa nguyên, qua đa quyền lợi, đa giải đáp, đa chọn lựa… bằng quyết định bỏ phiếu, nơi mà thiểu số phục tùng đa số.
Tại đây, dân chủ có những định chế rõ ràng để thực hiện sức thông minh của nhân trí bằng sự tôn trọng lẫn nhau của nhân tri : Hội trường và nghị trường để hội tụ trong nghị luận các vấn đề không những phải làm trong hiện tại và cần làm trong tương lai. Hội trường và nghị trường để hội lý trên nền tảng của công bằng từ đề nghị tới thảo luận, từ quyết định tới hành động. Hội trường và nghị trường để hội luận trên sự phân biệt công ích và tư hữu, để phân loại quyền lợi và quyền hạn, để phân định lợi ích xã hội và tự do cá nhân.
Khi nghiên cứu về lịch sử của dân chủ có nguồn cội trên quê hương Hy Lạp là chiếc nôi của triết học về nhân quyền, có triết lý về nhân sinh, có triết luận về chính thể, thì hai chuyên gia về cổ sử, cổ triết của Hy Lạp đã giúp ta nhận ra tiến trình và tiến hóa của dân chủ. Vernant đã mô tả và giải thích sinh hoạt dân chủ bằng không gian dân chủ, nơi mà các nghị viên ngồi theo thế vòng tròn, có tâm điểm là nơi các nghị viên phải vào giữa mỗi khi muốn phát biểu, để lời nói của nghị viên được xem như công cộng giữa công chúng.
Và khi nghị viên trở lại chỗ ngồi của mình với vị thế ngoài trung tâm thì nghị viên đã trở lại tư thế cá nhân của mình. Détienne đã phân tích và phân giải sinh hoạt dân chủ bằng ngôn ngữ dân chủ nơi mà các nghị viên phát biểu không những bằng kinh nghiệm, bằng hiểu biết mà phải bằng truyền thông biết tuân thủ các phạm trù của hội thoại để tạo điều kiện cho đối thoại, để đa trí xuất hiện cùng đa lý, đa luận.
Kinh nghiệm dân chủ Hy Lạp trên cho ta thấy nội chất của dân chủ không phải là quyền mà là lý : lý luận để thuyết minh, lập luận để thuyết trình, giải luận để thuyết giảng, diễn luận để thuyết phục. Đây là cách xử lý hoàn toàn khác và ngược với hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn) lấy bạo làm quyền, gạt lý để giữ quyền, rồi lấy quyền triệt luận, cầm quyền này để diệt quyền kia, nên : cả vú lấp miệng em không có thảo luận, cá lớn nuốt cá bé không có hội luận, mạnh được yếu thua không có tụ luận.
Nên hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn) không có văn hóa của dân chủ qua thảo luận, văn minh của đa nguyên qua hội luận, văn hiến của nhân quyền qua tụ luận, vì bộ ba này của dân chủ biết chấp nhận nghịch lý vì biết tôn trọng đa lý. Khi ta nhận định dân chủ, đa nguyên, nhân quyền chính là văn hóa, văn minh, văn hiến thì ta sẽ hiểu vai trò của của bộ ba này trong giáo dục xã hội, trong giáo khoa quần chúng, trong giáo trình học đường để giáo dưỡng ngay từ tuổi nhỏ ba liên minh này : dân chủ, đa nguyên, nhân quyền chống bạo quyền, văn hóa, văn minh, văn hiến chống cuồng quyền, giáo dục, giáo khoa, giáo trình chống cực quyền.
Định chế dân chủ được xây dựng trong không gian một tập thể, một cộng đồng, một dân tộc không những có lịch sử với thời gian tính của nó mà có luôn sự phân loại để phân định rõ ràng ba có chế khác nhau trong sinh hoạt dân chủ : tập hợp chính trị là có chức năng giải quyết các vấn đề về công ích, tập hợp kinh tế là nơi đàm phán về các tư lợi cá nhân, tập hợp tôn giáo là nơi tín ngưỡng được tôn trọng nhưng phải ở ngoài tam quyền phân lập. Trong tiến trình hoàn thiện từ định chế tới các cơ chế của mình, sinh hoạt dân chủ luôn bị tác động, luôn gặp khó khăn, và luôn phải tìm cách vượt thoát hai trở ngại, vượt thắng hai loại lợi ích mâu thuẫn nhau, chống đối nhau : lợi ích tập thể mà các chuyên gia còn gọi tên là : lợi ích khách quan ; lợi ích cá thể mà các chuyên gia còn gọi tên là : lợi ích chủ quan.
Để dung hòa hai lợi ích này trong cùng một không gian dân chủ, để điều chế hai thực tế đối nghịch này trong cùng một không gian nhân quyền, thì sinh hoạt dân chủ đề nghị hai ưu tiên : ưu tiên cộng hòa trong tự do, công bằng, bác ái ; ưu tiên dân chủ trong đa nguyên vì nhân quyền. Chính sự tương tác giữa nhân quyền và đa nguyên là ưu tiên của mọi ưu tiên trong sinh hoạt dân chủ, để từ đây ra đời : định chế cho công dân, vì công dân, qua ba cơ chế : quyền được giáo dục và huấn nghiệp để thực hiện lợi ích đôi (lợi ích tập thể, lợi ích cá thể). Quyền được lao động và hành nghề mà không tạo ra bất công, không gây ra bóc lột. Quyền được bảo vệ sự thật vừa bằng chân lý của tri thức, vừa qua thảo luận với tha nhân, mà không sợ một bạo quyền nào truy diệt sự thật của mình khi sự thật được xã hội, quần chúng công nhận.
Tại đây, thảm họa sâu xa của Việt tộc từ khi Đảng cộng sản Việt Nam độc quyền trong độc đảng đã ngăn chặn và xóa bỏ ba tiến trình : cá nhân trở thành cá thể để nhận ra ba quyền : quyền được giáo dục và huấn nghiệp ; quyền được lao động và hành nghề ; quyền được bảo vệ sự thật. Cá thể trở thành công dân của cộng hòa trong tự do, công bằng, bác ái, của dân chủ trong đa nguyên vì nhân quyền. Công dân trở thành chủ thể trong chủ quyết về hiện tại, chủ đoán về tương lai, và chủ động mọi chọn lựa, mọi hành động để bảo đảm nhân quyền và nhân phẩm của mình. Hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn) khi tạo các trở lực để cá nhân, cá thể không thực sự trở thành công dân và chủ thể, thì ta phải nhận ra là hệ độc này vừa ngăn chặn tự do, công bằng, bác ái ; vừa ngăn cản dân chủ, đa nguyên, nhân quyền, vì nhân phẩm không hề là ưu tiên của nó.
Ngay trên thượng nguồn của dân chủ từ khi các lý thuyết gia đã phạm trù hóa định chế của nó để sinh hoạt dân chủ được vinh danh và thăng hoa trong xã hội, thì ta đã thấy vai trò của giáo dục trong phân tích của Montesquieu : giáo dục giúp cá nhân cởi bỏ được ích kỷ vụ lợi để nhận ra công ích tập thể. Giáo dục giúp cá thể yêu nước thương dân qua quý trọng lợi ích tập thể. Giáo dục giúp công nhân cởi bỏ được ích kỷ vụ lợi để nhận ra lợi ích chính trị là bảo đảm, bảo trì công ích tập thể. Giáo dục giúp công nhân làm rõ hoài bảo của nhân sinh muốn bảo vệ nhân phẩm của mình trong không gian chung của tập thể mà không quên không gian riêng của cá thể. Giáo dục giúp công nhân yêu nước thương dân bằng yêu luật trọng pháp trong đó công bằng là nền của công lý, công lý là mái nóc của công pháp.
Giáo dục về dân chủ phải đa dạng như sinh họat của nhân sinh, tại đây giáo dục về thể chế dân chủ qua định chế và qua cơ chế khác với giáo dục về sinh hoạt dân chủ qua đời sống kinh tế và quan hệ thương mại. Khi tách biệt được hai nội chất rất khác nhau của chúng, các chuyên gia về sinh hoạt dân chủ yêu cầu các chính quyền dân cử phải bảo vệ dân chủ, mà đạo lý đầu tiên là không để quyền lợi nhập vào quyền lực. Cụ thể các chính quyền này không thể để : những chủ nhân giàu đã nắm sức mạnh kinh tế, giờ lại nắm chính quyền ; những chủ thầu giàu trong thương mại, giờ lại nắm chính quyền ; những chủ đầu tư trong tài chính, giờ lại lại nắm chính quyền.
Vì khi quyền lợi đã nhập nội vào quyền lực, thì nó thí đi đạo lý của công bằng, thải đi đạo đức của giáo dục, có hai tư tưởng gia về sinh hoạt dân chủ đã phân tích sâu vào quá trình giáo dục về dân chủ. Rousseau đề nghị phải vô cùng cẩn trọng với cái giàu, và cái nhiều vì khi nó có mặt nó sẽ hủy cái tốt, diệt cái lành, cụ thể là xóa cái đức của dân chủ. Montesquieu đề nghị cũng phải cẩn trọng trước các lợi ích của cá thể bất chấp công ích xã hội, vì có sự xung đột giữa những cái ít, và cái nhỏ làm nên cái xấu, tạo ra cái tồi, để rồi diệt đi cái giáo của dân chủ.
Khi công nhận là có lòng tham không đáy của kẻ giàu, cùng lúc cũng thừa nhận là có cái tham không lường được của kẻ nghèo, thì giáo dục về dân chủ phải đi thêm một bước nữa để làm sáng tỏ một sức mạnh kinh tế có trong sinh hoạt dân chủ, đó là tự do thương mại. Nếu tự do thương mại là tự do trao đổi hàng hóa giữa các dân tộc, giữa các quốc gia, giữa các vùng miền, giữa các châu lục… thì động cơ của tự do thương mại rất tốt lành cho quan hệ quốc nội và quốc ngoại, cho quan hệ quốc tế, cho quan hệ liên vùng, liên châu lục. Nhưng nếu tự do thương mại là tự do mua gian bán lận, lại dựa trên sự bóc lột của kẻ giàu là chủ trên lưng, trên đầu kẻ nghèo là thợ với điều kiện lao động tồi, với lương bổng tục, thì phải kết án và đặc biệt cảnh giác về loại thương mại này, vì chính nó sẽ lén lút diệt dân chủ bằng bóng đêm bất công của nó.
Sự khác biệt sâu xa giữa các luận thuyết đã làm nên dân chủ cho Âu Châu từ thế kỷ thứ XVIII được gọi là thời đại của Ánh Sáng với các triết gia, tư tưởng gia, các chuyên gia với phân tích để phân loại của Khổng giáo. Tại Âu Châu, sinh hoạt dân chủ phân biệt rành mạch tự do thương mại qua hợp tác, hoàn toàn khác với tự do thương mại bằng bóc lột ; trong khi đó Khổng giáo áp đặt vị thứ xã hội : nhất sĩ, nhì nông, tam công, tứ thương, đã đẩy thương gia xuống đáy tổ chức xã hội, chỉ vì ngờ vực thương mại là sinh hoạt ăn không ngồi rồi trong mua gian bán lận, vì lấy buôn làm lãi mà không lấy công làm lời.
Lê Hữu Khóa
(31/08/2020)
[1] Tâm luận tìm sử luận, Anthropol-Asie xuất bản, facebook Vùng Khả Luận (trang thầy Khóa).
---------------------
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.
Giải luận
Giải thích các tin tức, các dữ kiện, các chứng tự, chứng tích, chứng nhân chỉ là một công đoạn của học thuật, giải luận đi xa hơn giải thích đề ra những lý luận có khi kình chống nhau nhưng biết bổ khuyết cho nhau ; những lập luận có lúc xung đột nhau nhưng biết hỗ trợ cho nhau ; những diễn luận có thời đối kháng nhau nhưng giờ lại biết song hành với nhau. Giải luận là đoạn đường dài của học thuật nơi mà nhận định tổng quan sẽ trợ duyên lẫn trợ lực cho các phân tích cụ thể.
Luận thuyết tái sản xuất bất công
Bourdieu, thân sinh của xã hội học quyền lực khi phân tích các bất công có mặt trong xã hội thì luôn có gốc, rễ, cuội, nguồn ngay trong quan hệ giữa quyền lực và quyền lợi, khi quyền lợi luôn tìm cách vụ lợi hóa quan hệ xã hội, thì bất công sẽ xuất hiện và thành hình, thầy tôi đề nghị đào thật sâu để xới thật xa về :
* Thuyết khống chế, nơi mà kẻ khống chế có quyền lực, rồi dùng quyền lực để khống chế quan hệ xã hội, sinh hoạt xã hội, đời sống xã hội ; để từ đó điều kiện hóa nhân sinh quan của cá nhân, người ta sẽ trực tiếp hay gián tiếp thấy bất công ngay trong hồi ký của cá nhân ; mà vấn đề chính vẫn là nhận thức về bất công có tạo được thành hành động đấu tranh chống bất công hay không mà thôi.
* Thuyết khuất phục, nơi mà kẻ có tiền lại có quyền không những ăn trên ngồi trốc mà còn tổ chức ra hệ thống xã hội kiểu cốc mò cò ăn, nạn nhân của bất công sẽ kể những khốn khổ cùng sự khuất phục trong nhật ký, trong hồi ký của mình. Tại đây, chưa chắc các nạn nhân của bất công hiểu hết sự vận hành của bất công đã làm nên phản xạ khuất phục của mình. Như vậy bất công nếu không được ý thức hóa trong hồi ký, rồi trong hành động, thì chắc chắn là bất công đã nằm trong vô thức của nạn nhân, phải sống với bất công mà không thấy đầy đủ bất công để đấu tranh tống cổ nó ra khỏi nhân sinh.
* Thuyết tuân thủ trong đó bất công tạo ra các nạn nhân bị khống chế, bị khuất phục luôn biết tuân thủ một cách vô điều kiện các mệnh lệnh của tác giả gây ra bất công đã đè đầu cưỡi cổ mình, các nạn nhân này vô tình hay cố ý tham dự vào hệ thống xã hội được vận hành bằng những bất công. Nơi mà vẫn đâu cũng hoàn đó với con vua thì được làm vua, con sải nhà chùa lại quét lá đa, bất công có thể được kể lể trong hồi ký, được nhắc đến trong nhật ký, nhưng ít khi nào được hiểu trọn vẹn để từ đó vực dậy nạn nhân, giúp nạn nhân vùng lên đấu tranh chống bất công.
* Thuyết thuần hóa, kẻ tạo bất công thì mạnh vì tiền dùng tiền để thao túng quyền, dùng quyền để quản trị tiền, kẻ mạnh này thuần hóa các nạn nhân bằng sự de dọa là sẽ tăng cường độ và mật độ của bất công lên ngày càng cao. Thuần hóa để tuân lệnh kẻ đã tháo nhân cách, gỡ nhân tri, bứng nhân phẩm của các nạn nhân, dùng sự chấp nhận bất công như một giáo lý hiển nhiên, như một giáo dục có ngay trong phản xạ, phản ứng của nạn nhân.
* Thuyết tái sản xuất bất công, sẽ tự vận hành trong sinh hoạt kinh tế, trong quan hệ nghề nghiệp, trong đời sống xã hội với thực tế của khống chế, với thực trạng của khuất phục, để định chế hóa sự tuân thủ, cơ chế hóa sự thuần hóa. Bất công hiển hiện trong thanh thiên bạch nhật, bó buộc các nạn nhân của bất công phải chấp nhận bất công cả kiếp của mình.
Luận thuyết ký ức sự cố
Ricoeur của triết học đạo đức, nhận ra khi ta giữ kỷ niệm để lập hồi ký thì ta chịu quy luật của diễn biến của sự cố trên diễn biến bình thường theo giòng chảy của thời gian. Thí dụ rõ nhất là mỗi cá nhân nhớ rõ ràng ngày sinh nhật của mình, đối với người Việt có giáo lý của đạo thờ tổ tiên thì nhớ ngày giỗ của ông bà, cha mẹ, và tự tổ chức cho mình một quyền hạn chỉ nhớ những ngày này, và được quyền quên các ngày khác trong năm, vì các ngày thường này không làm nên sự cố.
Ricoeur giảng rất chi ly cho các môn sinh chúng tôi đây là chỗ đứng trung tâm của sự cố trong cuộc đời của một cá nhân, sự cố vì nó đáng được nhớ, sự cố vì nó đáng được giữ trong ký ức, chính nó định vị và định chất cho kỷ niệm, cho nhật ký, cho hồi ký. Như vậy trong một đời người có hai loại thời điểm : loại đáng nhớ, loại không đáng nhớ, mà chính lịch sử làm nên sử học cũng phải chịu sự phân loại này, và sử học tập trung giảng dạy và yêu cầu chúng ta giữ sử cố làm nên sử kiện.
Triết gia này sau khi dùng sự cố để giải thích sử kiện, làm nên sử liệu, định hình sử chất, định vị sử luận, vì cái đáng nhớ là cái đáng ghi, mà cái đáng ghi là cái đáng trao, cái đáng truyền, thì thầy còn đi sâu để đi xa vào thuyết bản sắc. Tại đây, các bản sắc từ quốc gia tới cộng đồng, từ tập thể tới cá nhân, từ cá thể ích kỷ tới chủ thể sống có trách nhiệm với dân tộc và đất nước, thì một bản sắc mạnh, vững, bền là bản sắc kể được-ghi được-nhớ được-trao được-truyền được.
Chính bản sắc kể được các chiến thắng của tổ tiên, các chiến tích của dân tộc, vừa là nền của quá khứ, vừa là gốc của hiện tại, và sẽ là chân trời của tương lai, một chân trời kể được, một tương lai hiểu được. Các sự kiện đời là một cuộc đời không chấp nhận bất công, bất kể xuất xứ và bất cần lý lịch của nó tới từ một bạo quyền, một tà quyền, một ma quyền, một cực quyền, một cuồng quyền, một lộng quyền, một tham quyền nào … Tại đây, quyết tâm chống bất công đã rèn luyện nhân sinh quan theo thời gian đã thành thép nguội của một thế giới quan không chấp nhận vì không biết nhượng bộ bất công.
Luận thuyết đa đoạn thân thế
Passeron, đại sư của phương pháp luận thực địa, minh sư của khoa học luận thực nghiệm ; nơi mà nhân học, sử học, xã hội học đã đồng hội đồng thuyền để đại diện cho khoa học xã hội trong khảo sát tại nơi, điều dã tại chỗ, điền dã tại ổ, nên đã có đường đi nẻo về hoàn toàn khác với với khoa học nhân văn của triết học, của văn học, của ngôn ngữ học dựa vào chữ viết, tin vào văn bản, có văn khố làm chỗ dựa cho văn nhân. Passeron đề nghị khi nghiên cứu một cá nhân để biết cá nhân này sẽ là cá thể chấp nhận phận con ong cái kiến trong thấp cổ bé họng, hay có thể trở thành chủ thể biết thay đời đổi kiếp kiểu con hơn cha là nhà có phúc. Passeron đề nghị nghiên cứu sâu vào cá tính của mỗi cá nhân, không qua tâm lý học mà bằng xã hội học góc độ.
Xã hội học góc độ nơi mà cuộc đời của mỗi cá nhân là những đoạn đời rất khác nhau không hề thuận buồm xuôi gió, với biển êm sóng lặng, mà là một cuộc tiếp đời trong thụ động cúi đầu cam phận, hay chuyển đời trong chủ động trong thay đời đổi kiếp theo hướng đi lên, thăng hoa. Chọn lựa cá nhân làm nên cá tính thấy rất rõ trong từng đoạn đời của mỗi cá nhân, một là tiếp đời thụ động, hai là chuyển đời chủ động, thầy đưa ra các chỉ báo của đời người như một đồ hình của mạng lưới lưu thông công cộng của trong một thành phố, một vùng, một miền, môt quốc gia, một châu lục với :
* Điểm khởi hành thì các cá nhân cùng tuổi, cùng thế hệ, sẽ thường là đi cùng về một hướng như khi họ lên xe lửa, xe điện, xe bus… Càng học sớm chuyện đường đi nước bước qua một hệ thống lưu thông xã hội như di chuyển để lưu động, thì càng nhiều kinh nghiệm trong phản xạ, phản ứng để có tự do đi lại.
* Trạm xuống thì các cá nhân có các trạm xuống khác nhau, kẻ bỏ học thì xuống trước để đi học nghề, kẻ học thêm để được học kỹ, kẻ muốn học cao để được học xa, biết sâu. Mỗi trạm xuống luôn mang theo kết quả, hay hậu quả tự chuyện học chữ tới chuyện học nghề, kẻ thì thất nghiệp, kẻ thì lương bổng cao…
* Trạm cuối thì còn lại rất ít người, vì đa số đã xuống các trạm khác nhau trước đó, kẻ bỏ cuộc xuống sớm, kẻ bền chí xuống sau, kẻ kiên cường cứ tìm cách đi xa, nên qua bao thử thách cùng thăng trầm, thì mỗi người một cách, nên có khi tới trạm cuối xe chẳng còn ai.
* Trạm đổi không những có trạm đổi của nhiều xe điện, xe bus mà có cả nhà ga xe lửa, mà thành phố chủ động hay vùng miền mà năng động còn có cả phi trường quốc nội và quốc tế. Chính các trạm đổi này tạo điều kiện cho cá nhân được thay nghề đổi nghiệp, mà còn phong phú hóa cả nhân sinh quan lẫn thế giới quan luôn được mở để dễ chọn, rộng để dễ quyết định, để cá thể được thành chủ thể với nhiều đường đi nước bước khác nhau. Câu chuyện cá tính chủ động làm nên chủ thể linh động biết tùy cơ ứng biến vì biết, hiểu, thấy, thấu mọi lộ trình từ điểm khởi hành tới trạm xuống, từ trạm cuối tới trạm đổi ;, với các trở ngại ngay điểm khởi hành, với bao gian nan khi tới trạm xuống, với nhiều khó khăn trong trạm cuối, cùng lắm thử thách trước các trạm đổi.
Luận thuyết tự do dân chủ
Tự do giáo dưỡng dân chủ ngay trong chuyện chuyển đổi tư duy, từ chuyện "mỗi người giữ một vị trí" trong định chế, trong cơ chế, để cá nhân không được "cựa quậy" gì trong một chế độ ; cho tới nhận thức ra là "mỗi người được đổi vị trí" của mình trong cuộc sống, trong xã hội, cùng lúc đổi luôn số kiếp của tập thể, số phận của cộng đồng của mình trước một hệ thống ý thức hệ quái tâm dị não áp chế nhân quyền. Tự do giáo dưỡng dân chủ ngay trong đấu tranh cho công bằng xã hội, chống lại chuyện"con vua thì được làm vua", với bi hài kịch "thái tử đảng" sinh ra như những quái thai vô tài bất tướng nhưng được lãnh đạo theo kiểu cha truyền con nối của thể loại "con quan thì được làm quan", gây một thảm kịch cho cả dân tộc : "cả họ làm quan" qua gia đình, hậu duệ, thân tộc, họ hàng... với một cơ chế quái vật ma hình quỷ tướng làm trò hề cho các quốc gia dân chủ văn minh.
Tự do giáo dưỡng dân chủ được chứng minh ngay trong lịch sử của Việt tộc là chuyện "con vua thì được làm vua, con sãi nhà chùa thì quét lá đa" là vừa sai trái vừa vô minh, vì vừa bất công vừa vô nhân. Hãy nhớ lại trường hợp của Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) là con "sãi nhà chùa" mà cũng là minh sư : Vạn Hạnh, đã lập ra triều Lý, sáng ngời trong Việt sử, một triều với các khai quốc công thần dụng nội lực văn hóa Việt để chế tác ra sung lực cho văn minh Việt, để gầy dựng nên hùng lực cho văn hiến Việt. Tự do giáo dưỡng dân chủ được chứng minh qua quá trình của các cá nhân, các tập thể, các cộng động, từ vị thế nạn nhân của bất công và trong thăng trầm đã chủ động chấp nhận thử thách để tiếp nhận tự do, để đề kháng, để đòi hỏi, để đấu tranh, trường hợp các phong trào dân oan là minh chứng thông minh cho tri thức của tự do :
Phong trào dân oan Dương Nội, với gia đình của chị Cấn Thị Thêu từ phong trào bảo vệ đất tới đấu tranh vì dân chủ, vì nhân quyền có tầm vóc quốc tế. Phong trào dân oan Đồng Tâm, với dân làng sáng suốt "bắt giữ công an" đã đàn áp họ để cướp đất họ, tới vận động truyền thông dân chủ trong cả nước để cùng đồng tâm với nhau đấu tranh vì dân chủ. Phong trào dân oan Thủ Thiêm, với dân cư quyết tâm bám đất, chống bọn ma xó lãnh đạo thành phố buôn đất bán dân, chặn lại bọn ma bùn chủ thầu buôn đất bán nhà, giờ đã thành phong trào dân chủ được sống và được chết ngay trên mảnh đất của mình, những mảnh đất có được nhờ lao động của tổ tiên và của chính mình.
Tự do tự giải luận, mang khả năng của tự do tự giải thích bằng kiến thức và tri thức các chuyện không thể chấp nhận được đang đe dọa nhân phẩm là : độc tài, tham nhũng, bất công, bạo động, tha hóa, đồi trụy…Tự do tự giải luận, có năng lực của tự do tự giải trình, có chương trình hành động vì có giáo trình đạo đức của chuyện vì ta và vì người ; tại đây tính hợp lý, tính chỉnh lý của tự do được xây dựng qua hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) để trao luận, trong các trao đổi giữa các đối tác, từ tin tức tới truyền thông, từ dữ kiện tới chứng từ.
Tự do tự giải luận, có năng lượng của tự do tự giải thể qua đấu tranh để chuyển đổi các định chế, để biến đổi các cơ chế, để chuyển hóa các chế độ bất tín, bất tài. Từ đó, tự do nhân lên sung lực của mình qua đa tài để đa năng, đa nguyên để đa đảng, nhờ đa năng nên đa hiệu. Tự do tự giải luận, mang tiềm lực của tự do tự giải trừ qua quyết đoán để quyết tâm dẹp các tệ nạn xã hội, các tệ đoan của chế độ, chống lại chuyện lùi bước trước tha hóa, chống lại chuyện tự tha hóa, bởi một ý thức hệ, bởi một bạo quyền.
Tự do tự giải luận, mang cường lực của tự do tự giải quyết các khó khăn, các trở lực, các ngõ cụt, các suy thoái phẩm chất trong xã hội, trong giáo dục, trong văn hóa, để cùng nhau đi về các chân trời đáng sống, sống mà không chán sống ! Tự do tự giải luận, có mãnh lực của tự do tự giải phóng, bỏ kiếp quy phục cúi đầu, gạt phận khoanh tay quỳ gối, để khẳng định cuộc đời mới thẳng lưng để thẳng đầu, thẳng chân để thẳng thân, sống không những cho lành, cho tốt, mà còn muốn sống sao cho hay, sao cho đẹp.
Tự do tự giải luận là tự do vượt lên thiên nhiên, vì tự do đã rời bản năng "đói ăn, khát uống", vì tự do từ chối kiếp "ăn tươi nuốt sống" để chọn cuộc sống : có hậu. Tự do vượt luôn qua thượng đế, vì tự do chịu nhận kiếp người để tự đổi kiếp người, để tự thăng hoa trong công bằng và bác ái qua đường đi nẻo về của tự do. Tự do tự biện cho tự do vì hạnh phúc, đó là thông điệp của Rousseau. Tự do tự giải cho tự do, vì công bằng đó là thông điệp của Kant. Tự do tự luận cho tự do, vì công lý đó là thông điệp của Marx. Tự do tự thân cho tự do, vì nhân phẩm đó là thông điệp của Nietzsche.
Luận thuyết tự do dấn thân
Tự do để tự cứu trong quyết định tự chủ về số phận của mình, trong ý thức hành động vì tự do, từ cứu cánh tốt đẹp tới phương tiện minh bạch. Trong một đất nước mà tự lợi của Đảng cộng sản Việt Nam đứng trên hiến pháp, luật pháp, tư pháp, thì chuyện tự do để tự cứu là chuyện phải có, phải được hiện hữu với văn minh của con người trong thế kỷ này. Tự do để tự cứu chống tha hóa, vì biết tự trọng đối với chính nhân phẩm của mình, trước một xã hội suy đồi từ đạo đức tới giáo dục, có thể dẫn tới sự suy vong của một dân tộc, thì chuyện tự do để tự cứu vừa vì tồn sinh của đất nước, vừa vì tiền đồ của dân tộc là chuyện vô cùng bình thường trong phản xạ của đồng bào ta. Tự do để tự cứu để chống diệt vong, trước mưu đồ xâm lăng của Tàu tặc, vì dân tộc vì đất nước, vì các thế hệ mai sau là chuyện phải có, phải làm -phải dấn thân vì tự do để có tự do- trước một Đảng cộng sản Việt Nam được xếp loại là "hèn với giặc, ác với dân" là chuyện thật dễ hiểu, dễ thông, dễ thấu.
Tự do để tự cứu chống lại tham quan gây ra thảm họa qua tham nhũng, bòn rút cạn kiệt mọi tiềm lực của dân tộc, mọi tiềm năng của phát triển, mà động cơ vào đảng là để giành giật quyền lực, để tham ô, để hối lộ, để vơ vét. Tham quyền vì tham lam và trước lòng tham không đáy của các nhóm lợi ích mà thật ra là các mafia trong lãnh đạo, thì tự do để tự cứu là chuyện hiển nhiên, là chuyện đương nhiên. Tự do để tự cứu để chống tận diệt môi trường, để bảo toàn môi sinh, như chính bảo vệ tính mạng của mình và của đồng bào, trước các cá nhân lãnh đạo giành giật quyền lực để dễ buôn dân, bán nước. Chúng đã bán biển, bán đất, bán tài nguyên, bán nhân lực lao động của đồng bào với giá thấp, giá rẻ, cùng lúc đã chuyển tiền ra ngoại quốc, để tính toán chuyện cao chạy, xa bay khi mất nước, mất đảng, thì chuyện tự do để tự cứu thật quá dễ giải thích, quá dễ giải trình.
Tự do để tự cứu trực diện để kình chống loại tự do vô nhân, vô đạo của bọn sâu dân mọt nước, khi chúng tự cho phép là chúng có quyền tự do vô biên, vô định, vô hạn để vơ vét từ tài nguyên của đất nước tới tiền tài của nhân dân. Loại tự do vô minh, vô tri này của chúng được dung dưỡng trong một chế độ độc đảng để độc quyền thâm thủng nguyên khí của quốc gia.
Tệ hơn nữa, chúng không có một chút tự trọng gì vì quốc thể : tổ chức bắt cóc người (Trịnh Xuân Thanh) trên nước Đức, một quốc gia văn minh, biết tôn trọng công pháp quốc tế. Mà hiện nay tháng Năm, 2018 với phiên tòa tại thủ đô Đức có tất cả chứng từ của một chính quyền rừng rú, với các tướng tá công an giở trò bắt cóc người, ngay giữa một Âu châu văn hiến, thì chuyện tự do để tự cứu để không nhận quốc nhục là chuyện ta phải thực hiện càng sớm càng hay ! Tự do để tự cứu luôn khẳng định tự do không bao giờ rời ý thức (một ý thức của tự do biết tự giới hạn tự do loạn động) của mình trước văn minh, văn hiến của thế giới, mà còn phải luôn biết học người vì người giỏi hơn ta.
Tự do dấn thân là tự do mang tính hiếu động, luôn thúc đẩy hành động tới từ một động cơ kích thích sự hình thành của tự do trong thực tiễn, động cơ này có thể tới tự ngoại cảnh, chúng ta thấy láng giềng cùng văn hóa tâm giáo đồng nguyên với ta : Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan... có đời sống văn minh, phát triển... đó là ngoại cảnh giúp ta dấn thân, thúc đẩy ta có hành động cụ thể vì đời sống văn minh, văn hiến như các láng giềng của ta. Chính ngoại cảnh giúp ta lấy quyết định để hành động, nhưng có kẻ dùng tự do cá nhân để nhậu nhẹt, rượu chè, nghiện ngập... thì khi họ mong muốn có văn hóa, văn minh, văn hiến như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Mỹ châu, Âu châu... mà bản thân họ không biết "thức khuya dậy sớm", và hằng ngày không chịu được cảnh "một nắng hai sương", mà ngược lại còn thiêu hủy kinh tế gia đình qua trác táng, làm khổ vợ con, thì các phát biểu của họ về tự do đi tìm văn minh, văn hiến như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Mỹ châu, Âu châu... chỉ là chuyện tráo lận truyền thông, dựa trên láo, xạo, dối, lừa của thói "lời nói chẳng mất tiền mua", nói mà không suy nghĩ, vì vô tri nên vô lý, nó hoàn toàn xa lạ với định nghĩa về tự do.
Tự do dấn thân mang tính năng động để được nhập cuộc trên con đường đạo lý được chọn lựa bởi cá nhân, bởi tập thể, bởi cộng đồng, bởi dân tộc, bởi nhân loại. Nhưng đạo lý phải chỉnh lý và hợp lý để nhân đạo có sức mạnh của nhân lý. Có lý sáng suốt để có luận tỉnh táo, để mà đi về các chân trời hay, đẹp, tốt, lành. Chính lý luận thông minh vì lập luận thông thái của tự do, nên tự do luôn mang tính tất yếu được chọn lựa bởi nhu cầu cần thiết, bởi mong muốn bức thiết, để cá nhân, tập thể, cộng đồng, dân tộc, nhân loại được sống tốt hơn trong nhân sinh, sống đẹp hơn trong nhân thế.
Tự do dấn thân là tự do khẳng định phải được sự tham gia trong công cuộc chung đi tìm hạnh phúc, bằng thể lực, trí lực, tâm lực của chính mình, đây là định nghĩa cụ thể và minh bạch của thế nào là dấn thân vì tự do. Tự do dấn thân là tự do được xác thực vừa bằng ý chí, vừa bằng quyết tâm, biến chí nguyện thành nội lực, biến ý nguyện thành sung lực, để nội chất tự do biến thành hành động bằng hùng lực của nhận thức, tự do đứng về phía xác định để minh định bằng can đảm của dấn thân.
Luận thuyết tự do trong tất yếu
Tự do khung tự chủ vì tự do vô cùng thận trọng để song hành dài lâu với sự sống, với nhân phẩm, với môi sinh ; chính tự do của lý trí là khung đã thành khuôn cho mọi quyền hạn và giới hạn, để tự chủ được chấp đôi, chấp lứa với tự do, không những vì nhân sinh và còn vì nhân tính nữa, nên ta phải làm rõ các hệ luận sau đây : Tự do không tất yếu, như giết người không phải là tự do, khi nó hủy tự do được sống của người khác ; nên tự do có khung là công lý, mang nội lực của pháp lý, giúp pháp luật được quyền ngăn chặn các tự do không tất yếu đe dọa sự sống. Tự do không bó buộc, như dùng bạo quyền để áp dụng bạo lực với đồng loại, bạo hành với đồng bào, để đàn áp cá nhân, tập thể, cộng đồng, xã hội, khi họ sử dụng quyền phát biểu, quyền tuyên bố, quyền biểu tình, quyền phản kháng, quyền bất tuân… để chống lại tà quyền đang đe dọa sự sống và đang chà đạp tự do.
Tự do không ràng buộc, như độc đảng dùng độc quyền qua độc trị trong độc tài để đàn áp, để bắt bớ, để bỏ tù, để tuyên án, để tra tấn, để hủy diệt các nhà hoạt động vì dân chủ, vì nhân quyền, để tiêu diệt quyền sử dụng tự do của họ. Tự do không bắt buộc, như chính quyền đã áp đặt chế độ công an trị trên toàn xã hội dân sự, để mặc công an tra tấn, giết người ngay trong đồn công an. Mà chính lực lượng công an này có kẻ, có nhóm, có đàng, có bầy, có đám, có đảng… đã liên kết với các tầng lớp tội phạm của xã hội đen để đàn áp dân oan, thao túng dân đen, trấn áp dân chúng. Chúng cùng lúc thông đồng với các lực lượng côn đồ, du đảng, cướp bóc để buôn lậu, trực tiếp hay gián tiếp tha hóa, đồi trụy toàn bộ xã hội. Có cả các tướng công an tổ chức đánh bạc lận qua mạng truyền thông, với các ván bạc lên hàng ngàn tỷ, mà bộ phận kỹ thuật đầu não nằm ngay trong Bộ Công an.
Chính tự do khi muốn bảo vệ tự chủ thì phải đứng lên, để nhìn rõ, để nổi dậy chống các loại tự do bừa bãi đầy độc tố của bọn âm binh ẩn nấp trong quyền lực đang ung thư hóa xã hội, đang đưa vi trùng độc để gây trọng bịnh trong ngay đạo đức của Việt tộc, đang tìm cách siết cổ các hành vi chân chính, các hành động liêm chính của tự do.
Luận thuyết tự do giữa lý và thức
Tự do đặt tự chủ vào giữa lý và thức, trong đó nhân lý phát huy kiến thức, trong đó nhân tri biết dựa vào nhân trí để có sung lực bảo vệ tính tự chủ của cá nhân, của cộng đồng, của tập thể, của dân tộc… Tất cả quá trình này đều được nhận diện trong các phong trào đấu tranh của dân oan tới các phong trào đòi hỏi dân chủ và nhân quyền trước bạo quyền độc đảng. Tự do đặt tự chủ vào giữa lý và thức khi lý trí hiểu tình thương, hiểu từ nguồn gốc của tình thương đồng loại tới hiệu quả cùng hậu quả trong tình thương này, chính là năng lượng của lý và thức trước các điều kiện của nhân sinh (có khổ đau và có hạnh phúc), từ đó hiểu nội chất của hai thái cực này trong nhân thế để tạo hạnh phúc và xa rời khổ đau. Ta thấy rất rõ quá trình này trong các phong trào thiện nguyện cho tới các phong trào bảo vệ các nạn nhân của trộm cướp trên đường phố do các hiệp sĩ thật sự liêm chính, những phong trào tự phát từ lương tri của các chủ thể tự do trước sự bất tín và bất tài của chính quyền độc đảng.
Tự do đặt tự chủ vào giữa lý và thức đưa lý trí lên hàng đầu, hạng ưu tiên để chọn lựa, để quyết định, để hành động, tự do này chống vô cảm để dẵm lên sự hèn nhát, vì trước hết nó chống vô nhân để đạp lên sự thối nát, không chấp nhận một lực lượng công an, cảnh sát, lên hàng triệu người, mà xã hội đen giữa ngày thao túng dân lành, mà chính chính quyền qua hệ thống công an lại thông đồng, giao kết, và giựt dây xã hội đen để khủng bố dân oan, dân đen, dân lành Tự do đặt tự chủ vào giữa lý và thức để cụ thể bảo vệ cá nhân, gia đình, dân tộc, nhân loại qua công bằng, công lý, công pháp, chính đây sự thông minh qua lý và trí để thăng hoa các phong trào xã hội đi tìm và sẵn sàng đấu tranh vì tự do.
Các phong trào dân oan ngày càng được dân tộc hóa và cả nước đều biết, chia sẻ, đồng cảm, song song với đấu tranh vì dân chủ của nhiều phong trào vì nhân quyền ngày càng được thế giới hóa được sự hỗ trợ của nhiều tổ chức nhân đạo quốc tế, ngay cả Liên Hợp Quốc, các châu lục đã có tự do. Điều phải nhận định về chính trị học và xã hội học là hành động tự do đấu tranh vì nhân quyền không bao giờ bị coi rẻ, xem thường, bỏ rơi, bỏ quên mà nó luôn được tôn vinh, và nó ngày càng được tôn vinh hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Kháng oan luận
Ngữ pháp kháng oan luận, được cấu trúc qua ngữ văn đề kháng để chống lại bất công gây ra oan kiếp ngay trong hiện tại mà chế độc đảng toàn trị đã lấy bạo quyền để phá nhà cướp đất của dân lành. Biến dân lành thành dân oan, khi bạo quyền công an trị liên minh với tà quyền tham nhũng trị, liên hiệp với ma quyền tham tiền trị. Kháng oan luận đi bước đầu tiên với hiện tượng học lấy cuộc sống để chế tác ra chất sống, trong chất sống có mắt thấy tai nghe, vì vô trương bất tín (không thấy không tin), chính hiện tượng làm nên kiến thức trực quan của con người. Hiện tượng học có chỗ dựa là hiện tượng luận, nơi mà : trực quan thấu trực cảnh, thực tế kể thực trạng, tầm nhìn sự thật nâng tầm vóc chân lý.
Từ đây, lấy chất sống của cuộc sống để tìm tới sự thật, để tạo ra tri thức, dụng tri thức để dựng lên ý thức, trong đó đạo lý của hay, đẹp, tốt, lành được hình thành để luân lý nói rõ về trách nhiệm và bổn phận của mỗi người, để sống có đạo đức, có nền là nhân phẩm đã biết nhận thức về mọi điều kiện làm người, và muốn làm người với nền của nhân lý, với vóc của nhân tri, với tầm của nhân trí. Nơi đây có nhân kết vừa là tổng kết, vừa là hùng lực của nhân vị tin vào nhân lý, biết dựa vào nhân tri, được nâng cao bởi nhân trí ; nhân bản có nền là nhân văn, có gốc là nhân phẩm, mang rễ của nhân từ ; nhân nghĩa biết trợ lực cho nhân thế, biết trợ duyên cho nhân tình, để nhân loại biết "ăn ở có hậu" ở mãi với nhân duyên.
Nhân kết Việt là thuật ngữ tới từ ít nhất là ba lập luận của Việt tộc : giống nòi Việt, gọi nhau là đồng bào vì cùng bào thai, vì cùng huyết thống ; dân tộc Việt, vì vậy có cùng một giòng sinh mệnh, sinh tử có nhau ; quê hương Việt, là mái nhà Việt để bảo vệ mọi công dân Việt. Nhân kết Việt, được tạo dựng qua ít nhất là ba lý luận của Việt tộc của kết thân, vì có cùng một giòng máu, "máu cháy ruột mềm" ; của kết gia, vì cùng là đồng bào, "anh em một nhà" ; của kết kiếp, vì là thân phận Việt biết, "một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ". Dân oan là con dân Việt, là đồng bào Việt, là dân tộc Việt, là giống nòi Việt, chia sẻ với chúng ta cùng một nhân kiếp Việt : chúng ta không thể bỏ rơi dân oan !
Dân oan là nạn nhân của tham nhũng, tác giả là bọn tham quan tạo ra tham ô, vì tham tiền, nên hiện tượng luận nhân vị phải có lý luận để lột mặt nạ chúng, với hình ảnh như dữ kiện, như chứng từ ; từ đó phân tích và giải thích để lý luận về bản chất bất nhân của hệ tham (tham nhũng, tham quan, tham ô, tham tiền). Một hiện tượng luận nhân vị chỉnh lý phải lý luận rành mạch về nội chất và nội dung của hệ tham này. Dân oan là nạn nhân của tham nhũng, nó là con đẻ của độc đảng lấy độc tài để xây dựng độc quyền, lấy độc trị để độc tôn, qua thủ thuật của bạo quyền, qua ma thuật của tà quyền, lấy âm binh công an trị để khổ sai hóa xã hội, lấy tuyên truyền một chiều để ngu dân hóa quần chúng, để rồi tha hóa mọi giá trị đạo đức của tổ tiên. Một hiện tượng luận nhân vị toàn lý phải thấy-để-thấu cái độc hại của hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền,độc trị, độc tôn) này.
Dân oan là nạn nhân của tham nhũng độc đảng, biến quyền lực thành quyền lợi, rồi biến quyền lợi thành tư lợi, nên chúng chính là tà quyền, là âm binh đang biến chất nhân phẩm Việt, bản sắc Việt, lương tâm Việt. Chúng là bọn cướp công ích của dân tộc, cướp công tài của đất nước, cướp công bằng xã hội, và chúng nhẫn tâm cướp luôn công lý của dân oan, vì chúng bất nhân, thất đức ; nên một hiện tượng luận nhân vị phải có minh lý để thông suốt nhân vị của dân oan là một thực thể đại diện cho hệ công (công ích, công tài, công bằng, công lý).
Dân oan là nạn nhân của tham nhũng độc đảng trong tư lợi của tà quyền ; dân oan đấu tranh đòi lại đất của họ, để đòi lại hệ công (công ích, công tài, công bằng, công lý), bằng thái độ liêm chính, bằng hành động liêm sỉ, họ liêm khiết tự lời nói tới quyết tâm. Một hiện tượng luận nhân vị phải có trực lý để diễn luận rõ ràng dân oan đại diện cho hệ liêm (liêm chính, liêm sỉ, liêm khiết), họ chính là đại biểu cho sự thật xã hội, chân lý quần chúng, lẽ phải dân tộc.
Dân oan là thực thể đại diện cho hệ công (công ích, công tài, công bằng, công lý), cảcho hệ liêm (liêm chính, liêm sỉ, liêm khiết), dân oan không thể bị bỏ rơi, dân oan không thể đơn độc trong cuộc đấu tranh vì nhân phẩm Việt, được xây dựng trên nhân vị của nhân bản, nhân văn bằng nhân nghĩa, nhân từ của Việt tộc. Chúng ta chung lưng đấu cật, song hành và gắn bó với tiếng gào, tiếng hét, tiếng thét của dân oan, họ là đồng bào của chúng ta, họ đang lâm cảnh màn trời chiếu đất, họ chính là nhân nghĩa Việt phải có trong mỗi công dân Việt.
Tri tuệ luận
Biết tầm sư học đạo vì biết tôn sư trọng đạo. Nhưng đậm phúc hay nhạt phúc còn tùy thuộc vào trò nữa, đó là chiều dài và chiều rộng trong sự thông minh của trò đã hiểu ra vai vóc và tầm cỡ của chuyện "tầm sư học đạo", vì trên thượng nguồn của giáo dục đã biết "tôn sư trọng đạo". Đây là câu chuyện đạo lý của tri thức, biết lấy kiến thức hay, đẹp, tốt, lành để xây dựng lên ý thức học thành tài để học thành người, dựng lên không gian của nhận thức, phải có văn hay chữ tốt, mà chữ hay có gốc, rễ, cội, nguồn của nó : muốn hay thì phải tìm người xưa. Khi không gian của thức (kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức) đã định hình, thì con đường học sẽ mở : muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học.
Khi quy trình tiên học lễ hậu học văn đã được khẳng định, thì trò sẽ vào một quy trình văn ôn võ luyện, trong học hằng ngày có luyện thường xuyên, ngữ pháp Việt rành mạch, vì trong tập luyện có tôi luyện. Trong quá trình ngày ngày tiếp cận với thầy, có bài học : muốn hay chữ phải tìm người xưa ; và muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học giờ đã thành một, một của đường dài, một của nhìn xa trông rộng qua nghe lời thầy, nghe để học đúng và hiểu trúng, chớ không phải nghe một cách vô điều kiện.
Nghe lời thầy từ tổng quan tới chi tiết, vì thầy sẽ kỹ lưỡng trong học ăn học nói học gói học mở, vì văn hay chữ tốt của thầy giờ đã là của trò, mà văn và chữ nầy đã đứng hẳn về phía thanh để chống tục. Vì không gian của học là thanh thoát trong thanh tao, nó ngược chiều với cách hành xử thô tục, nó ngược dòng với cách đối xử tục tĩu, kể cả khi phải đối diện với cái tục tằn, thì liên minh của thanh thoát và thanh tao sẽ chế tác ra thanh nhã để luôn có hành tác : đố tục giảng thanh. Dù gặp một chữ, một câu, một thái độ, một hành động thấp tục tới đâu, thì trò sẽ làm theo thầy là trả lời bằng thanh để giảng thanh cho kẻ tục biết mà tự sửa rồi tự bỏ đi cái tục, để tự kiểm rồi tự nâng mình theo cái cao của cái thanh.
Tự thủa xa xôi nào nơi mà chữ nghĩa cũng quý hiếm như tiền bạc, có lời khuyên như con dao hai lưỡi : "Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy", là học chữ để thành người, nhưng nếu học chữ để làm ra tiền, lời khuyên theo loại thực dụng chủ nghĩa này, đáng ngờ vì nó là con dao hai lưỡi, có thể vừa làm ra kết quả, vừa sinh ra hậu quả. Cái thời xưa đó có chữ để làm tiền, vì có chữ là được xem như có học, mà có học thì "không sao chết đói được", dạy học thì ra tiền, thời đó thực sự đã qua chưa ? Giờ đây hình như chữ nghĩa không còn là của riêng của kẻ dạy học, mà dạy trong phản xạ "giấu nghề", thì trò sẽ không học được trọn vẹn, đầy đủ.
Celan, thi sĩ của tâm thức thi ca cận đại, người thầy của những trò muốn đi tìm sự thật tại tâm, có để lại một mô thức nói mạch lạc quan hệ gắn bó bằng tâm huyết giữa thầy và trò : "Tôi là bạn, khi tôi chính là tôi" (Je suis toi, quand je suis moi ! [1]). Lòng thành thật của thầy là sự thật của thầy trong quan hệ giáo lý làm nên giáo dục đặc sắc, dựng lên giáo khoa đặc thù, xây lên giáo trình đặc điểm, dựng nên giáo án đặc biệt mang cá tính, nội công, bản lĩnh, tầm vóc của thầy. Đây không phải là chuyện phô trương hiểu biết của thầy về kiến thức, mà đây là một tổng lực trong đó cá tính, nội công, bản lĩnh, tầm vóc của thầy đã thắp lên được ngọn lửa ngầm ngay trong trí lực và tâm lực của trò, mà những ngày tiếp nối sau này trong cuộc đời của trò, thì trò phải tự biết giữ lấy ngọn lửa ngầm cho trọn kiếp.
Đây là quan hệ giữa người và người, mà giáo dục truyền thông qua internet khó mà thực hiện được, vì tiếng nói của thầy là lời tâm huyết trong một bối cảnh nhất định của không gian trao truyền song hành cùng với thời gian giảng dạy, mang đầy đủ nhân tính trong nhân tri, nhân đạo trong nhân trí, nhân lý trong nhân thế…[2] Thầy đang đứng đó, thầy đang giảng đây, và trò nghe với chính tâm huyết của mình, mỗi lần trò rung động tới từ xúc động qua lời của thầy, tức là trò đang nhen nhúm mà tạo lực cho ngọn lửa ngầm mà trò mong được rực sáng mãi trong tâm lực, trí lực. Trong truyền thống xuất gia của Phật giáo có lễ truyền đăng (truyền đèn như truyền ánh sáng) giữa thầy và trò, như truyền cho nhau không những các tri thức cần có để làm người, mà còn truyền cho nhau tâm nguyện, có trong ý nguyện giờ đã thành ý lực là gốc của tâm lực, trí lực, làm nên vai vóc của trò, biết hành đạo vì biết hành thiện.
Diễn biến tâm lý giáo dục của trò mà chỉ có trò biết, từ nhen nhúm ngọn lửa tới lúc biến ngọn lửa bùng lên, có khi chỉ là khoảng khắc, có khi được nuôi dưỡng bao năm trường, đây có thể là một ngọn lửa lớn, cũng có thể là một ngọn lửa ngầm, tồn tại như một ẩn số của đời người, mà thi sĩ Tô Thùy Yên được vào phương trình ba sinh (quá khứ, hiện tại, vị lai) : "Nhen bùng ngọn lửa chưa tàn ba sinh". Khi người xưa tin rằng lời thầy giảng, dạy, khuyên, răn có khi là khuôn vàng, thước ngọc cho cả một kiếp người, hãy vận dụng các kết quả nghiên cứu của khoa học giáo dục, các khảo sát của xã hội học giáo dục, các định luận vi mô của triết học chính trị giáo dục để cùng song hành với tâm lý học giáo dục mà tổng kết để giải luận về cuộc đời của kẻ đi học gặp được thầy, và những kẻ khác đi học hoài, học mãi, học liên tục mà không gặp được thầy.
Nếu một người thầy đúng nghĩa là thầy, thì người thầy sẽ thực hiện học trình đố tục giảng thanh, với hiệu quả của : không thầy đố mày làm nên, mà giáo dục truyền thông hiện đại qua internet khó mà làm hơn thầy, chỉ vì không có đầy đủ tâm huyết của một người thầy. Chính tâm huyết của thầy (là của riêng thầy) nên thầy rất khác : kỹ thuật viên, giáo viên, giảng viên, giáo sư, họ làm việc với bổn phận và trách nhiệm, nhưng họ không có tâm huyết của thầy. Các kỹ thuật viên, giáo viên, giảng viên, giáo sư thường có tài năng của trí lực (nên mới được hành nghề trong hệ thống giáo dục) ; nhưng họ không có sung lực làm nên hùng lực của tâm lực, đây là một trong những định nghĩa thế nào là tâm huyết trong quá trình trao và truyền của thầy tới trò. Cụ Tiên Điền Nguyễn Du không lầm : Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài !
Tâm huyết của thầy dẫn trò tới một không gian khác của quá trình học tập khi có thầy rồi thì trò không học mò nữa, mà là học hỏi, tức là vừa học, vừa hỏi, hỏi cho ra chuyện, hỏi để được học tới nơi tới chốn, hỏi để thầy và trò cùng ngộ ra là : so ra mới biết ngắn dài ; để cả hai (thầy và trò), cùng thăng tiến rồi thăng hoa theo học lực. Khi thầy không trả lời đầy đủ, trọn vẹn câu hỏi của trò, thì thầy phải tìm hiểu thêm, nghiên cứu thêm, tức là bản thân thầy cũng phải học hỏi thêm, để câu hỏi của trò có câu trả lời, có lối ra, có chân trời, tức là "có hậu", để cả hai, thầy và trò, tiếp tục song hành bền bỉ trên con đường học vấn.
Học lực làm nên thực chất của học hành, nó không bị một bạo quyền lãnh đạo nào có thể bày vẽ ma trận của ngu dân qua tuyên truyền để truy diệt nó, như ta đang thấy trong thảm trạng giáo dục Việt Nam hiện nay, lấy độc đảng để độc tài nhưng bất tài trên mọi lãnh vực quản lý đất nước, nhất là trong giáo dục mà Việt tộc đang phải nhận lãnh một bi nạn là mái trường Việt đang ở đáy vực thẳm của phản giáo dục. Lấy mua điểm bán trường để mua bằng bán cấp, qua học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả để mua chức bán quyền, mà học vị là tờ giấy trắng (trắng tri thức vì vắng kiến thức) và học hàm là tờ giấy đen (đen vì bẩn bùn gian lận, màu đen của âm binh man trá). Cả hệ học (học tập, học hỏi, học vấn, học hành) dựng lên học lực, lấy chí bền của học chăm, trong tỉnh táo để suy ngẫm, sáng suốt để suy luận, luôn ngược lại với học gạo, học cuồng nghiệt trong vô minh, vì học mà không hiểu. Học thuộc lòng nhưng không có tấm lòng để hỏi, học mà không thấy thầy, không biết chuyện tầm sư học đạo.
Thầy đang giảng trước mắt mà nhiều trò vẫn nhìn không ra, họ cứ tưởng là thầy ngồi cùng mâm, ăn cùng chiếu với các kỹ thuật viên, giáo viên, giảng viên, giáo sư… Họ tưởng ai cũng làm thầy được, ai đã dạy họ là thầy họ, họ lầm ! Muốn thấy được thầy, thì trò phải "sáng dạ", "sáng lòng", muốn thấy thầy trước hết phải thấy được một tấm lòng của thầy ! Tấm lòng của thầy lớn hơn điểm thi, cao hơn bằng cấp, rộng hơn học vị, xa hơn học hàm, tấm lòng này dường như ở cõi : sống lâu mới biết lòng người có nhân ! Nhìn mà không thấy, thì xem như "lỡ duyên" học tập với thầy. Thí dụ điển hình là diễn biến hàng năm trong các đại học : năm đầu đại học trong giảng đường có vài trăm sinh viên, tới cử nhân chỉ còn lại một trăm, tới cao học chỉ còn lại hai ba chục, tới tiến sĩ chỉ còn lại vỏn vẹn trên dưới mười sinh viên. Nếu người thầy đúng nghĩa là : thầy, thì thầy sẽ thấy trong vài sinh viên sẽ có kẻ mà chính mình là thầy sẽ đào tạo và "biến hóa" các sinh viên này thành thầy như mình, đây là lúc mà thầy trò phải nhận diện ra nhau ! Thầy thấy trò không những có trí lực, lại có tâm lực, thấu đoản kỳ của kiến thức để chế tác ra trường kỳ của tri thức cho chính mình, và chính thầy sẽ giáo dưỡng để các trò này thành trí thức theo giáo lý hay, đẹp, tốt, lành nhất !
Khi triết gia Hegel xây dựng công trình lý luận của mình là Hiện tượng học lý trí (la phénoménologie de l’esprit), triết gia này đi dần tới Hiện tượng học luật học (la phénoménologie du droit), ông luôn lấy thí dụ của chế độ nô lệ, một bên là chủ mà ngôn ngữ học Âu châu gọi là thầy (maitre), bên kia là nô lệ (esclave). Từ đây, triết gia này phân tích và giải thích mối quan hệ bóc lột của hai loại người không bao giờ cảm thông nhau ngay trong nhân kiếp của họ. Người chủ nô lệ, ngày xưa gọi là thầy (maître) mà loại thầy này không dính líu gì tới giáo dục !
Vì trong không gian giáo dục thì sự gặp gỡ giữa thầy và trò là sự hội tụ của hai nhân kiếp, nếu tâm giao rồi đắc khí, thì hai nhân kiếp này có thể chỉ là một trong chia sẻ kiến thức, trong trao đổi tri thức. Hai kẻ : một bên là thầy, bên kia là trò, nhưng sẽ đồng hội đồng thuyền, lắm lúc đồng cam cộng khổ trên đường đời, trong và ngoài học đường, làm nên một nhân sinh quan chung chia được, dựng lên thế giới quan chia sẻ được, xây lên vũ trụ quan luân lưu được ; có lẽ đây là quan hệ loại đẹp nhất, cao nhất giữa người và người [3].
Nhưng thầy chỉ được danh hiệu : thầy khi do chính trò gọi là thầy, nếu thầy mà tự vỗ ngực là thầy, trong khi chính trò không công nhận mình là thầy, thì chữ thầy do chính thầy tự gọi không có nội dung, vì không có ý nghĩa, nhất là không mang một giá trị cao quý gì cả. Câu chuyện thầy-trò luôn có nội dung của quan hệ giáo dục, luôn có ý nghĩa của sinh hoạt giáo dục, luôn có giá trị của đời sống giáo dục. Chính phương trình quan hệ-sinh hoạt-đời sống được giáo lý Việt hiểu rất nghiêm minh : Nuôi con không dạy là cha có lỗi, dạy không nghiêm ấy tội của thầy, câu chuyện này có cha có lỗi và tội của thầy, mà tội thì nặng hơn lỗi, và lỗi thì ta có thể tha, được chớ tội thì thật khó tha.
Đây cũng là câu chuyện vừa hài kịch, vừa bi kịch của nền giáo dục Việt Nam hiện nay trong chế độ độc đảng gây ra bao độc hại trong giáo lý. Trước hết là hài kịch của trò man trá học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả, để giả học vị rồi gian trong học hàm, ung thư hóa không gian giáo dục, hoạn bịnh hóa môi trường học đường, giờ lại được học trò gọi là "thầy" ! Nhưng vì học (giả) nên chưa bao giờ thực sự gặp thầy thật, được nghe thầy thật giảng, được chia sẻ từ kiến thức tới đạo lý, từ tri thức tới luân lý, từ nhận thức tới đạo đức với thầy thật, nên trọn kiếp chỉ là thầy giả (mạt giáo trong điếm nghiệp).
Thầy giả thì cho tới hết nhân kiếp cũng không sao hiểu được phương trình nội dung-ý nghĩa-giá trị của chữ thầy, luôn song hành để song kiếp với quan hệ-sinh hoạt-đời sống của giáo dục thật. Bi kịch của giáo dục hiện nay của Việt Nam ngày càng tràn lan : với bạo lực học đường, với thầy cô bạo hành học trò, với học sinh bạo động với thầy cô, tất cả đều bị điếm nhục hóa khi học đường bị quan hệ man trá hóa đột nhập, với học sinh phải bán thân trong không gian giáo lý, với những tên thầy giả hãm hiếp học sinh… Với tên Bộ trưởng Bộ giáo dục câm kiến thức, ngọng tri thức, chột ý thức, què nhận thức khi ra thông lệnh "Nếu bán dâm quá bốn lần, thì sẽ bị đuổi học !" (tà nghiệp trong điếm lộ).
Trí tuệ luận
Thầy dặn trò trong chuyện học, thầy khuyên trò về chuyện đời : dại làm cột con, khôn làm cột cái, mà đi học để làm người khôn và sau này ra đời cũng để tiếp tục làm người khôn, để bảo vệ chính nhân cách của mình và luôn biết yêu cầu xã hội chung quanh tôn trọng nhân cách này : chim khôn ai nỡ bán, người khôn ai nỡ nặng lời. Trong thế giới của thiện ác lẫn lộn, nơi mà hai loại người rất khác nhau sống chung với nhau bằng nghịch ngữ, người thì khẩu xà tâm Phật, kẻ thì khẩu Phật tâm xà, vì trong không gian miễn phí này của lời nói : lời nói chẳng mất tiền mua ! Thầy có khi phải thay thế cha mẹ mà khuyên trò : giữ miệng như giữ nút bình, cũng chỉ vì : lưỡi không xương nhiều đường lắc léo.
Giữa thế giới đối xử qua lời nói, thầy chỉ ra cho trò cái khôn cư trú chỗ nào : khôn khéo lấy miệng mà sai, vung dại lấy vai mà đỡ. Nhưng người khôn mà thầy muốn đào tạo là người khôn có đạo lý, lấy đạo đức của mình làm con ngươi trong mọi ứng xử, vì người khôn này là kẻ biết nghe-hiểu-thấu : điều hay lẽ phải. Mà điều hay đang ở trong khu vực của lý trí, là chỗ dựa của trí tuệ, đã mang nội lực của tuệ giác ; còn lẽ phải hiển hiện trong đạo lý dẫn dường cho luân lý, nơi mà con người sống chung với nhau không phải để sát phạt, để truy diệt nhau, mà sống chung vì có bổn phận và trách nhiệm với nhau [4].
Sự qua lại giữa điều hay và lẽ phải, là sự dẫn dắt nhau qua lý trí và đạo đức, và khi cả hai dung hòa rồi thống nhất với nhau thành một khối, thì chân dung của người khôn xuất hiện, mà người khôn của những người khôn khác chính là thầy, thầy dùng cái khôn để nâng đỡ kẻ này, rồi cứu rỗi kẻ kia, bảo vệ kẻ nọ. Trong lịch sử của Việt tộc có loại người thầy đó, chính là Nguyễn Bỉnh Khiêm (1409-1585), không những cứu Nguyễn Hoàng khi khuyên chúa này nên vào Nam không những để thoát chết trước tay chúa Trịnh mà còn để dựng nghiệp ; thầy cũng giúp nhà Mạc khuyên họ lên vùng cao để giữ thân, mà bảo nghiệp. Muốn làm thầy trước hết phải biết : nhìn xa trông rộng.
Nhân dạng nhìn xa trông rộng là nét chính làm nên chân dung người thầy, tạo nội lực cho bài giảng, tạo sung lục cho phân tích, tạo hùng lực cho giảng thích của thầy trước trò. Năm 1993, Passeron (dòng thác mạnh của khoa học luận trong khoa học xã hội hiện đại, cùng lúc là nguồn nước bền của phương pháp luận điền dã thực địa của xã hội học), có lần kể cho tôi nghe câu chuyện khi ông và Bourdieu (chủ trì phái tái sản xuất xã hội, minh chủ của luận thuyết khống chế trong bất công xã hội), khi cả hai cho xuất bản tác phẩm
Tái sản xuất (Reproduction) mà tái sản xuất đây là tái sản xuất bất bình đẳng làm nên tái sản xuất bất công trong xã hội. Thì người thầy của Passeron và Bourdieu đã đưa cả hai vào đại học Sorbonne vào làm trợ giảng cho mình, đó chính là Aron, minh sư của xã hội học cận đại, cầu vồng dày bản lĩnh biết nối triết học và xã hội học qua các phân tích vĩ mô, lại là đối thủ tri thức của Sartre trong hậu bán thế kỷ hai mươi vừa qua.
Có lần thầy Aron tuổi trọng gọi hai thầy tuổi trẻ là Passeron và Bourdieu vào trao đổi về sự thành công ngoài tưởng tượng của tác phẩm của ha thầy trẻ này trong giới học thuật, và Aron đã phát biểu một câu "ngược đời" trước sự thành công của tác phẩm này là : "Các bạn đã mang thêm nước để đổ vào cối xay của Sartre" ("Vous apportez de l’eau au moulin de Sartre"). Thầy Passeron tâm sự thêm là ngay khi nghe xong câu này, Passeron và Bourdieu đều nghĩ là Aron vừa giận, vừa trách hai môn đệ của mình đã thêm nước để đổ vào cối xay của đối thủ của thầy mình. Nhưng Passeron kể thêm là với tháng rộng năm dài, và khi nghiền đi ngẫm lại, thì đây là một nhận định rất sáng suốt của một minh sư, trong bối cảnh của giới trí thức sau đệ nhị thế chiến, khâm phục và tôn vinh chủ thuyết hiện sinh của Sartre, để rồi cùng rơi vào con đường chống bất bình đẳng để loại bỏ bất công với Sartre [5].
Nhưng chính những kẻ theo Sartre đã bật đèn xanh cho chủ thuyết cộng sản của Marx, rồi cổ súy cho các đảng cộng sản tại Âu châu, có nhiều trí thức cổ vũ cho hành động này, bằng cách lấy thẻ đảng viên của các đảng cộng sản Âu châu. Họ chưa biết sự khác biệt một trời một vực giữa chủ thuyết cộng sản của Marx và các đảng cộng sản mà Lénin, Staline, Mao… chính là những lãnh tụ dùng bạo quyền để bạo hành dân tộc họ, dùng bạo lực để hành hung dân tộc họ. Lénin, Staline, Mao… của các đảng cộng sản từ khi ra đời là nguồn chết chớ không phải nguồn sống. Và những nạn nhân sống sót qua những cuộc thanh trừng, thảm sát của bọn này, thì nhận ra là thực trạng của chủ thuyết cộng sản chính là bất bình đẳng của mọi bất bình đẳng, bất công của mọi bất công. Và câu cuối của Passeron với tôi hôm đó là : "Aron đúng là thầy, vì ông biết nhìn xa, vì biết nhìn tự trên cao nhìn xuống, nhưng luôn luôn tôn trọng tự do của các môn sinh của mình, dù tự do đó đã đưa các môn sinh của mình tới sai đường lạc lối".
Lê Hữu Khóa
(28/08/2020)
[1] Éloge du lointain, Paris, Gallimard.
[2] Nhân Luận và Nhân Việt, facebook Vùng Khả Luận (trang thầy Khóa)
[3] Lê Hữu Khóa, Tri Luận, Anthropol-Asie, Facebook Vùng Khả Luận (trang thầy Khóa).
[4] Lê Hữu Khóa, Tự Luận, Anthropol-Asie, Facebook Vùng Khả Luận (trang thầy Khóa).
[5] Lê Hữu Khóa, Anthropologie du Vietnam, Tome III, Anthropol-Asie, Ed. Les Indes Savantes.
---------------------
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.
Lập luận
Lập luận là công đoạn hiểu gốc để làm nền cho lý luận, thấy cội để xây móng cho giải luận, là nơi thấu gốc, rễ, cội, nguồn để thấy được nền, móng, tường, mái mà xây dựng cho đúng quy trình, sáng suốt trước chương trình vì đã nhận thức rõ hành trình của học thuật là nơi không những có cấu trúc, mà cũng là nơi luôn cần có kiến trúc từ kiến thức tới tư tưởng.
Chính trị luận
Hãy làm rõ một định đềlà có độc đảng thì không có chính trị, có độc tài thì không có chính giới, có độc trị thì không có chính trường, có độc tôn thì không có chính kiến. Ta xin dùng định đề này để xác nhận lần nữa là các lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam-Đảng cộng sản Việt Nam không phải là chính trị gia, đây là định đề mà tôi đã viết qua sách và bài, đã phân tích và giải thích trong các giảng đường đại học quốc nội cũng như quốc tế. Trong bài này tôi dùng hệ chính (chính trị, chính giới, chính trường) qua hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức) biết dựa trên hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) để giải luận thảm kịch của Việt Nam hiện nay, và khi không có ba hệ này, thì Việt tộc chỉ bị cai trị, mà xã hội Việt sẽ không có các chính trị gia Việt để quản trị văn hóa Việt, giáo dục Việt, kinh tế Việt… vì chính trị chi phối không những đời sống xã hội, sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội, mà chính trị quyết định toàn bộ thân phận của một dân tộc, toàn thể số kiếp của một quốc gia.
Từ đây xin được đề nghị phương pháp luận sau đây để giải luận câu chuyện : Chính trị là gì ? Chúng ta sẽ dùng định nghĩa để xây dựng định đề, và khi định nghĩa để nhận ra các ẩn số trong đời sống chính trị (chính trị, chính giới, chính trường) thì chúng ta phải vào sâu để phân tích hai hàm số khác : thực trạng vắng bóng sinh hoạt chính trị của Việt Nam hiện nay song hành cùng các sự vô dạng chính trị của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam-Đảng cộng sản Việt Nam. Họ không có chiều cao trong nhận định chính trị, không có chiều sâu trong phân tích chính trị, không có chiều rộng trong xử lý chính trị, không có chiều dài trong dự phóng chính trị, cụ thể là muốn làm chính trị phải có trình độ (cá nhân và tập thể) để tạo được mức độ nhận thức các thử thách đang chực chờ Việt tộc.
Sự thật chính trị làm nên hành động chính trị luôn có nền trên nhận thức về sự thật, sự thật về số phận của một dân tộc trong quá khứ, sự thật về hiện tại của xã hội mà dân tộc đó đang sống, sẽ làm nên tiền đề về sự thật trong tương lai của dân tộc này qua các thế hệ sắp tới. Câu chuyện "có (sự) thực mới với được đạo" ở đây cao, sâu, xa, rộng hơn cách nói "có (lương) thực mới với được đạo", vì sự thực bắt rễ trong thực tại của cuộc sống, làm nên thực cảnh của một dân tộc, dựng nên thực tế của đời sống xã hội.
Chính định nghĩa về sự thật làm nền cho mọi hành động chính trị, sẽ loại khỏi ra sinh hoạt chính trị ít nhất là ba độc tố : thứ nhất là ý thức hệ không hề dựa vào sự thật ; thứ nhì là tuyên truyền độc tài không hề bám vào sự thật ; thứ ba là tuyên giáo độc đảng thì bất chấp sự thật. Chúng ta hãy đi xa hơn nữa trong định nghĩa về sự thật để tìm ra các định luận làm rễ cho mọi hành động chính trị có thực chất của hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) đi tìm hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức) : không chỉ có một sự thật mà có nhiều sự thật, sự thật của nghệ thuật không phải là sự thật của kinh tế, và sự thật của khoa học không phải là sự thật của chính trị… Vậy thì, sự thật chính trị phải dựa trên một định nghĩa : sự thật là quá trình của thực tế làm nên quy trình cho thực tại, tại đây chính quá trình khi trở thành quy trình thì bản thân nó là kết quả của một công trình, hay ngược lại là hậu quả của một tác hại ngay trên dân tộc và đất nước mà chính quyền là thủ phạm.
Tại sao lại đặt vấn đề một công trình của hành động chính trị ? Tại sao lại dùng ngữ pháp công trình ? Ta hãy đi xa thêm nữa trong lý luận : hành động chính trị mang đến kết quả tốt cho dân tộc, đưa đến hiệu quả hay cho nhân dân là một hành động đặc thù của một cá nhân lãnh tụ, một tập thể lãnh đạo có tính nhân quả tích cực lâu dài trong thời gian, rộng rãi trong không gian. Nó thay đời đổi kiếp cho đồng bào, cho đồng loại theo hướng thăng hoa, nó sẽ mang giá trị phổ quát cho nhân loại. Từ hành động đặc thù để có kết quả đặc trưng làm nên giá trị phổ quát cho mai hậu đây chính là định nghĩa để giải luận mọi hành động chính trị ; và "nói gần nói xa không qua nói (sự) thật" là cả thế kỷ XX cho tới thế kỷ XXI, Việt tộc chưa thấy một hành động chính trị nào có bản lĩnh của là kết quả một công trình đặc thù, có tầm vóc làm nên giá trị phổ quát cho Việt tộc.
Hành tác chính trị là động tác đưa vào hành động chính trị vào không gian và thời gian của sinh hoạt chính trị được điều hành bởi quyền lực chính trị (nắm chính quyền, lập chính phủ, dựng chính sách), nơi mà hiệu quả của hành tác chính trị được nhận định và đánh giá qua hiệu quả chính trị khi một cá nhân lãnh tụ, hay một tập thể lãnh đạo có quyền lực trong tay. Định nghĩa chính trị học này dùng quyền lực để nhận diện ra hành tác chính trị thật ra chưa đủ và chưa đúng, vì sau kinh nghiệm dân chủ đa nguyên của nhân loại trong hai thế kỷ qua, tại đây chính đa nguyên dựa trên đa đảng liên tục sáng tạo ra đa trí, đa tài, đa năng, đa hiệu… bó buộc chính giới và chính khách phải nới rộng ra định nghĩa này.
Từ đây, định nghĩa về hành tác chính trị phải được bổ sung thêm bởi hai định nghĩa khác : một của triết học chính trị phân tích quyền lực chính trị qua nguyên tắc của công bằng, nơi mà công bằng là chỗ dựa cho công lý để điều chế mọi hành tác chính trị. Hai là xã hội học chính trị, đặt tự do của hành tác chính trị vào nội hàm của công bằng, để tạo ra hiệu quả, cụ thể là dùng công bằng để chế tác ra bác ái, trong đó kẻ có quyền lực là kẻ thực sử dụng được bác ái để tạo đoàn kết, để dựng tương trợ, đặt bác ái đúng nhân vị tức là cùng hàng, cùng lứa, cùng đôi với công bằng và tự do để bảo đảm một cặp đôi khác là : cộng hòa và dân chủ, trong đa nguyên vì nhân quyền.
Trong lịch sử chính trị của các quốc gia văn minh, có chính trị học để nhận định chính trường, có triết học chính trị để phân tích bổn phận của chính giới, có xã hội học chính trị để giải thích trách nhiệm của chính khách thì lý luận về công bằng là nguồn cội của mọi lập luận về công lý, cụ thể là không thể nào định nghĩa về công lý, mà không kèm theo một định nghĩa có tính thuyết phục cao về công bằng. Đây là một lỗi đã trở thành tội của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam đã tạo ra bất bình đẳng qua đặc quyền và đặc lợi cho đảng viên, từ cán bộ địa phương tới lãnh đạo trung ương, từ đó tạo ra bất công sâu xa ngay trong xã hội. Các khẩu hiệu Đảng là đầy tớ của nhân dân chỉ loại xảo ngôn của gian dối để lừa đảo ở mức trắng trợn vì các khẩu lịnh này rất thô bỉ với sự thực là Đảng cộng sản Việt Nam đã ngồi xổm lên tất cả ! Từ hiến pháp tới tư pháp, chà đạp công lý, vùi dập công pháp, chôn sống công luật.
Tự do chính trị là một phạm trù gây ngộ nhận nhiều nhất trong không gian chính trị, khi ta nghiên cứu về chính trị, chính giới, chính khách khi có chính quyền trong tay, vì bản thân sự hiểu biết chủ quan về tự do là một con dao hai lưỡi ; và các thể chế độc đảng, các chế độ độc tài luôn dùng cách hiểu tự do chính trị tà đạo nhất để lập bạo quyền : có chính quyền là có quyền lực, thì muốn làm gì thì làm ! Gây ra những hậu quả không sao lường được, mà trên thượng nguồn là cách hiểu sai lệch về tự do, vì phạm trù tự do là một phạm trù không có quy phạm, cụ thể là không có mô thức tuyệt đối của đạo lý để kiểm soát nó, không có mô hình phổ quát của luân lý để kềm chế nó.
Nên trong không gian lãnh đạo chính trị dựa trên đa nguyên của dân chủ thì tự do là nơi mà các quy luật khách quan phải tuân theo các quy phạm cần thiết để quản lý tự do trong chính trị bằng tri thức đúng về quyền lực, túc là phải tôn trọng công bằng, phải tôn vinh công lý. Trong không gian chính trị này, ta phải phân biệt có nhiều không gian của tự do, các tự do này rất bất bình đẳng trong sinh hoạt xã hội, thí dụ như trong các quốc gia dân chủ giàu mạnh, nhưng trên thực tế không gian của một tỷ phú luôn rộng hơn không gian của một công dân đang thất nghiệp. Tại Việt Nam hiện nay, ta thấy rõ qua bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền buôn đất thì tự do của một tên đầu nậu đất đai đã chia chát với các nhóm lợi ích trong chính quyền thì hoàn toàn rộng lớn và chúng "có tự do để giết tự do của dân chúng", để biến dân chúng thành dân oan.
Như vậy, tự do phải được nhận định và định nghĩa qua không gian cụ thể, nơi mà bọn bạo quyền, tham quan, ma đất dùng các phương tiện của quyền lực sẵn có trong tay chúng để hủy, diệt, loại, bỏ tự do của dân oan, vừa không có quen biết trong quyền lực, vừa không có các phương tiện pháp quyền để tự bảo vệ tự do của chính mình. Tự do của một con cáo đang lộng hành giết chóc các con cừu trong chuồng mà các nạn nhân không có lối thoát, thì đây không phải là tự do mà là sát hại ! Tự do của liên minh bạo quyền lãnh đạo-tà quyền tham quan-ma quyền trọc phú khi chúng tự do dùng phương châm ma đạo của chúng là : "có tiền mua tiên cũng được", thì đây không phải là tự do trong liêm sỉ mà là hành động âm binh sát hại đồng bào.
Hãy tỉnh táo để có sáng suốt khi đi tìm định nghĩa về tự do, từ chính trị tới xã hội, từ kinh tế tới văn hóa… khi ta đặt tự do trong quyền lực chính trị, của chính quyền độc đảng trong thực trạng tự do cạnh tranh qua bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, ta sẽ thấy, họ sẽ dùng tự do chính trị để tạo ra các bất công mới, mà ý đồ là để duy trì chế độ độc đảng. Thí dụ quá trình hội nhập vào kinh tế thị trường khi cho phép các doanh nghiệp ngoại quốc vào đầu tư tại Việt Nam với lực lượng lao động Việt dồi dào nhưng lương bổng thấp, bảo hiểm xã hội tồi, an sinh xã hội kém, luôn đi cùng với các chính sách xuất khẩu lao động, biến con dân Việt thành lao nô, nô tỳ cho các nước láng giềng.
Chưa bao giờ trong xã hội Việt lại có sự chênh lệch về bất bình đẳng cao một cách bất thường như hiện nay, với các "đại gia" vỗ ngực là "tỷ phú" nhưng tri thức chỉ là "trọc phú" có mức sống xa hoa trong sa đọa, ngày ngày nhìn-mà-không-thấy nỗi khổ niềm đau của dân oan, dân đen, đang dở chết dở sống để sinh nhai ; sống mà không sao vượt qua khó khăn với quá nhiều mức thuế trên lưng, trên vai, trên đầu, và cùng lúc thì chính bọn bạo quyền, tham quan, ma đất… đã tránh được thuế qua tà đạo tham ô và tham nhũng của chúng.
Tổ chức chính trị qua đảng phái hay qua cá nhân là một tổ chức mang theo hệ tự : lấy tự do làm nên tự chủ, để tự quyết trong hành động mà tự tin, nơi mà quyết đoán sẻ làm nên quyết sách, tạo ra chính sách qua hành động chính trị khi có quyền lực trong tay, tất cả hành động này đều phải dựa trên : công lý có nguồn cội là công bằng. Chính đây là thảm kịch đôi của Việt tộc, từ khi bị Đảng cộng sản Việt Nam cai trị, thảm kịch thứ nhất là lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam không hề tôn trọng sự thật đa chiều, đa dạng của truyền thống, văn hóa, xã hội… của Việt tộc mà chỉ đi theo độc lộ đầy độc hại của một ý thức hệ vô sản, có rễ là vô thần nên vô tri ngay trong hệ độc (độc đảng, độc tôn, độc trị, độc quyền, độc tài).
Đảng cộng sản Việt Nam không hề chú trọng việc xây dựng thêm bịnh viện, thêm trường học nơi mà y tế và giáo dục là hằng số của mọi chính quyền liêm chính ; mà ngược lại họ tập trung xây dựng bộ máy tà quyền công an dựa trên bạo quyền độc đảng, cùng lúc thần thánh hóa các lãnh đạo của họ đã lừa đảo dân tộc bằng ma quyền, giờ lại được có các tượng đài nghìn tỷ, trong một xã hội ngày càng nhiều dân oan, ngày càng lắm dân đen. Thảm kịch thứ nhì, vì không biết về sự thật đa chiều, đa dạng của của Việt tộc, nên Đảng cộng sản Việt Nam đã lầm đường lạc lối khi tổ chức tuyên truyền một chiều kiểu xóa não, nhồi sọ, gạt đi các giá trị đạo đức của tổ tiên, các đạo lý của dân tộc. Không là chủ thể chính trị để sáng tạo trong lãnh đạo, Đảng cộng sản Việt Nam không hề quản lý để phát triển, mà chỉ cai trị bằng bạo quyền độc đảng để bảo vệ đặc quyền, đăc lợi, đặc ân của nó, sai lầm này là chỉ báo rõ nhất về ngày tàn không tránh khỏi của Đảng cộng sản Việt Nam.
Muốn thoát khỏi hai sai lầm trên, đã tạo ra bao thảm kịch nghèo nàn lạc hậu trên lưng, trên vai, trên đầu của Việt tộc, thì lối ra lâu dài là đưa hệ đa vào sinh hoạt chính trị, lấy đa đảng để có đa trí trong xây dựng lại xã hội, lấy đa tài làm nên đa năng, tạo ra đa hiệu từ chính trị tới kinh tế, từ giáo dục tới văn hóa… Và trước mắt là phải trở lại nhận thức về sự thật đa chiều, đa dạng của không gian chính trị, từ đó có hành động chính trị dựa trên công bằng, để có tổ chức chính trị dựa trên công lý !
Uy lực chính trị, không nằm trong bạo quyền lãnh đạo, không ở trong tà quyền tham quan, trong ma quyền mafia đang thao túng quyền lực độc đảng như hiện nay, mà nó là uy lực tới từ tiềm lực biết của lãnh đạo chính trị văn-minh-vì-thông-minh, luôn biết củng cố sung lực tự trị của xã hội, để tạo ra sinh lực cho xã hội dân sự giúp chính quyền nhận ra điều hay lẽ phải, để tránh chuyện lầm đường lạc lối trong chính sách. Uy lực chính trị của một chính quyền tạo ra hùng lực cho công bằng luôn có mặt, luôn được bảo vệ, ai cũng như ai, không có kỳ thị, không có phân biệt đối xử, để chính công bằng chế tác được tự do, nơi mà mọi công dân được quyền thành công như nhau trong xã hội, từ học đường tới nghề nghiệp, từ kinh tế tới văn hóa.
Nếu cái uy làm ra cái lực, vì cái uy tới từ cái thiện của công bằng, cái đúng của công lý, và cái uy chỉ tồn tại khi nó tạo được cái ơn qua hành động chính trị, khi mà kẻ mang ơn thấy mình được thăng hoa ngay trong nhân vị công dân của mình : thành công trong học đường, thành tài trong nghề nghiệp, thành đạt trong kinh tế, thành tựu trong xã hội. Điều này, hoàn toàn ngược lại với lối tuyên truyền vô minh của Đảng cộng sản Việt Nam đang bóc lột dân tộc tới tận xương tủy, với bao triệu dân đen, với bao triệu dân oan, nhưng cùng lúc lại tuyền truyền là "nhân dân phải mang ơn Đảng". Với cách giải thích bất chính trong ngây ngô tại sao dân tộc phải mang ơn một đảng độc tài nhưng bất tài, gây bao hậu quả từ tiêu xài đến cạn kiệt tài nguyên của đất nước tới đưa ngoại xâm qua con đường công nghiệp gây ô nhiễm môi trường của đất nước, từ luyện thép kiểu Formosa tới các nhà máy than điện trên khắp các vùng miền, đang tạo ra các làng ung thư, song đôi cùng mưu đồ thâm hiểm qua đường thực phẩm bẩn độc của Tàu tặc.
Cái uy trong quyền lực chính trị tới từ cái thiện của công bằng, cái đúng của công lý, nó hoàn toàn trái ngược với cái bạo của quyền, cái tà của quan, nơi mà bạo quyền và tham quan dựa trên bạo lực để vơ vét qua cách hành xử của Đảng cộng sản Việt Nam đối với dân tộc hiện nay. Ở đây không có một cái uy nào cả, mà chỉ là hành vi hiếp, giành, trấn, lột tạo tiền đề cho hành động trộm, cắp, cướp, giật, chính loại hành vi này, chính kiểu hành động đang nạo rỗng cái uy của bè đảng cầm quyền, nơi mà cái uy đang bị siết cổ bởi cái gian và cái giật.
Công lý chính trị dựa trên công bằng, được lãnh đạo chính trị tôn trọng trong mọi hành động chính trị, và chính các lãnh đạo này phải luôn liêm chính trong nghiêm minh để nhận ra là công lý chính trị luôn song hành cùng công bằng xã hội. Tại đây, công lý là hệ mở nó chống bế môn tỏa cảng, nó chống ngăn sông cấm chợ, ranh giới giữa quốc nội và quốc ngoại không còn là rào cản, mà phải là một luồng thông lưu năng động. Khi láng giềng có công lý chính trị hay, đẹp, tốt, lành hơn ta thì ta phải học, phải theo để làm tốt hơn, để ứng dụng hiệu quả vào xã hội của ta ; còn ngược nếu chính quyền dùng luật để cấm, ngăn, chặn, phạt là bất minh. Thí dụ rõ nhất là truyền thông mạng xã hội chính là lõi của công lý truyền thông, và khi Đảng cộng sản Việt Nam ra luật an ninh mạng để răn, đe, doạ, nạt dân chúng thì đây là một hành động chính trị bất chính, vì nó không tôn trọng công lý trong thông tin và truyền thông.
Công bằng xã hội phải là nguyên tắc trung tâm cho mọi hành động vì công lý chính trị, cụ thể là không dùng quan niệm công bằng xã hội để tạo ra phân biệt đối xử, với lý do là vì muốn bảo vệ công bằng trong xã hội của mình, nên đặt các luật đẩy người ngoại quốc, di dân, nhập cư xuống thấp hơn dân mình, không được có các quyền lợi của dân bản xứ. Chính sự phân biệt đối xử công dân hàng đầu-di dân hàng sau đang tạo ra bất bình đẳng xã hội mà hậu quả xấu sẽ tới với qua xung đột xã hội. Đây chính là bi kịch hiện nay của các dân tộc ít người vùng sâu, vùng xa, vì không phải là dân tộc Kinh nên phải nhận lảnh những bất công không sao lường hết, tạo nên nghèo nàn lạc hậu.
Và, bi kịch này sẽ là thảm kịch dẫn tới các xung đột giữa các dân tộc ít người và dân tộc Kinh, khi hệ thống bạo quyền trung ương qua các nhóm lợi ích đã thông đồng với các tà quyền tham quan địa phương, cùng tổ chức cho bọn ma quyền lâm tặc chặt cây, phá đồi để buôn gỗ, bán rừng, hủy môi trường, diệt môi sinh của các dân tộc anh em của các vùng xa, vùng sâu. Một chính quyền có nhận thức về công lý chính trị bằng hệ lương (lương thiện trong hành động vì có lương tâm trong lãnh đạo làm nên lương tri cho chính sách) thì không bao giờ hành xử như Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay.
Công lợi chính trị là phạm trù của quyền lực chính trị quản lý công sản của quốc gia, tài sản của dân tộc, và luôn đặt công sản và tài sản này lên trên mọi tư lợi của giai cấp, nhất là giai cấp thống trị. Vì khi đặt quyền lợi của giai cấp thống trị lên trên quyền lợi của quốc gia và dân tộc thì sẽ trực tiếp tạo ra bất bình đẳng, tức khắc tạo ra bất công ; chính bất bình đẳng và bất công là gốc rễ cội nguồn của mọi xung đột xã hội, dẫn tới bạo động ngay trong xã hội. Đây lại là thảm họa mà Đảng cộng sản Việt Nam đang trấn, áp, đè, đặt lên vai, lên lưng, lên đầu Việt tộc khi độc đảng được độc quyền qua đặc lợi ; khi độc tài dùng độc trị để có đặc ân, của một thiểu số bất chính dẫm lên mọi ý thức về công sản quốc gia. Sự bất chính này sẽ nhân đôi khi bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền sân sau dùng hệ tham (tham quyền, tham ô, tham nhũng) để làm giàu, đã giàu rồi lại muốn giàu hơn, đã có nhiều rồi lại muốn có nhiều hơn.
Và cuối cùng, khi đã có đặc quyền, đặc ân, đặc lợi thì sự bất chính sẽ tăng lên gấp ba, rồi gấp bội, vì tà quyền này sẽ bám cho bằng được qua hệ độc (độc đảng, độc tài, độc trị, độc tôn) để có độc quyền mà trục lợi cho tư lợi, chúng chặn các tiến bộ xã hội, chúng ngăn thăng tiến giáo dục, chúng nghiền cấp tiến kinh tế, để lấp công bằng, để vùi công lý. Bi kịch của bọn bám quyền chỉ vì tư lợi ích kỷ mà không có một nhận thức nào về công sản chính trị chính là thảm kịch của Việt tộc hiện nay, với Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã nạo bán tài nguyên đất nước để bỏ túi bằng con đường tham nhũng, rồi chuồn tẩu tiền của qua tham ô của chúng qua phương Tây.
Chính tư lợi qua tham nhũng với não trạng ích kỷ vô luân, ẩn sâu trong lòng tham không đáy, nên chúng mới tổ chức các đường dây xuất khẩu lao động để đàn ông Việt làm lao nô, phụ nữ Việt làm tiện tỳ cho các quốc gia láng giềng. Sự bất chính này sẽ không có giới hạn khi tư lợi chỉ thấy độc lợi trong độc đạo của nó, và chúng sẵn sàng đi từ phản dân hại nước tới buôn dân bán nước cho Tàu tặc !
Đạo lý chính trị là hành trình của chính giới và chính khách dùng chính quyền để thực thi các chính sách, để đi tìm các điều hay, đẹp, tốt, lành cho quốc gia, cùng lúc bảo vệ văn hóa, bảo đảm văn minh, bảo tồn văn hiến cho dân tộc. Trên con đường đạo lý chính trị chính trị này, lịch sử chính trị thế giới vạch rõ cho ta một chân lý là chính quyền của trong các thể chế độc tài qua độc đảng là chính quyền của giai cấp thống trị, nhưng thực chất là của các nhóm lợi ích chóp bu có tổ chức như những tập đoàn tội phạm kiểu mafia, tức là khi chúng không lấy, giành, đoạt, chiếm được thì chúng sẽ trộm, cắp, cướp, giật.
Loại chính quyền này hoàn toàn khác với chính quyền của đa số quần chúng qua đầu phiếu trong các cơ chế dân chủ, lấy cải tổ xã hội thay cách mạng sắt máu, lấy cải cách xã hội để xóa đói giảm nghèo, qua các chính sách lấy công bằng của công pháp để giới hạn bất bình đẳng trong xã hội ; lấy công lý qua công luật để ngăn chặn bất công trong xã hội. Nhân loại cũng đã đi và đã có kinh nghiệm qua các con đường từ tập thể hóa tới quốc hữu hóa các phương tiện sản suất để giới hạn, để ngăn chặn chuyện người bóc lột người, để ngăn bất bình đẳng, để chặn bất công. Nhưng con đường này có giới hạn của nó, mà hiện nay các quốc gia càng dân chủ, các dân tộc càng văn minh thì phải tìm thêm các con đường mới, nơi mà nhân vị được bảo đảm bởi nhân quyền trong công bằng và tự do, mà không quên bác ái.
Đạo lý chính trị còn phải đi xa hơn nữa trong vai trò trọng tài để cai quản và canh giữ chính quyền ! Tại sao vậy ? Vì từ triết học chính trị tới chính trị học, từ xã hội học chính trị tới nhân học chính trị, tất cả các chuyên ngành này đều công nhận một chân lý là khi một cá nhân, một tập thể, một đảng phái : có quyền rồi thì sẽ lạm quyền. Sự thật chính trị nắm quyền rồi lạm quyền, chân lý chính trị lạm quyền vì tham quyền tạo ra ung thư chính trị qua phương trình có quyền-lạm quyền-nắm quyền-tham quyền. Loại hoạn bịnh chính trị này bất chấp lẽ phải của luân lý chính trị, bất kể đạo đức chính trị làm nên nhân đức của một chính thể, vì vậy nên đạo lý chính trị phải bảo đảm hằng ngày vai trò trọng tài để cai quản và canh giữ chính quyền.
Vì mọi công dân liêm chính đều có quyền nghi ngờ và nghi ngại loại hoạn bịnh chính trị : có quyền-lạm quyền-nắm quyền-tham quyền này ! Rất nhiều lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay không biết những lời trăn trối trong hối lỗi của hai lãnh tụ cộng sản hàng đầu của họ, thứ nhất là Lénin trối trăn rằng : "Khi lấy độc đảng để bảo vệ chuyên chính, thì bi kịch đã xẩy ra là chuyên chính đã sinh ra độc tài cá nhân !". Và kẻ thứ hai là Mao Trạch Đông, trong những ngày cuối của cõi lâm chung, khi đàn em quây quần chung quanh hỏi lão ta : "Chúng ta đấu tranh chống tư sản trong xã hội, vậy chúng đang ở đâu ?", Mao trả lời : "Chúng đang ở ngay trong đảng ta !". Tại sao khi ta là công dân mà lại đặt câu hỏi này : chính trị là gì ? Ta đặt câu hỏi này nhưng chính ta phải tự tìm câu trả lời : Ta đặt câu hỏi này tại vì tôi không muốn bị lừa bởi chính trị !
Thực chất luận
Khi triết học hình thành trên quê hương Hy Lạp của nó, thì nó đã có truyền thống được đặt tên là vương niệm của sự thật, khẳng định sự thật là nhiệm vụ tiên quyết và vĩnh viễn của triết học, và sự thật cao hơn cả, cao hơn vua, cao hơn mọi cơ chế, mọi quyền lực, mọi chính quyền. Chính sự thật sẽ làm nền cho sử học viết đúng, viết trúng, tức là viết thật. Viết thật hay nói thật có khi bị trù dập, bị vu cáo, bị hảm hại, bị ám sát, bị tử hình… Nhưng sự thật là sự thật phải được nói tới nơi, tới chốn, cụ thể nếu con người sống thật bằng sự thật thì phải biết chấp nhận cái chết cũng vì sự thật, như vậy sự thật là gốc của lòng tin biết dựa vào sự thật để nhận ra chân lý, vận dụng sự thật để nền cho lẽ phải. Lương tâm của trí thức là đây, lương tri của khoa học là đây, cả hai là hùng lực lương thiện của kẻ đi tìm sự thật. Sống chết với sự thật, nhưng cũng phải biết khiêm tốn trước sự thật ! Socrate khuyên con người khi đi tìm sự thật, phải đi tìm với chính nhân phẩm của mình, đi tìm là đi học, khiếm tốn để khiêm nhường với tâm thức : "Tôi biết là tôi không biết gì cả !".
Khiêm tốn rồi khiêm nhường để có thái độ khiêm cẩn trước con đường tìm đến sự thật, sẽ có chướng ngại vật vì sẽ có rào cản, sẽ có thử thách rồi sẽ có thăng trầm ; có quá trình của "lửa thử vàng, gian nan thử sức". Môn sinh của Socrate lại là sư tổ của triết học, Platon mang tới cho chúng ta một định nghĩa : sự thật là sự định hình của chân lý, rồi nó trở thành bất di bất dịch, không thay đổi, không chuyển hóa, để được mọi người nhận như một giá trị vừa hiển nhiên, vừa vĩnh hằng. Platon đưa ra hai chỉ báo để "đánh dấu" trên sự thật : sự thật là tri thức, tới từ kiến thức của con người về một chuyện thật, mà chuyện thật này đã tách rời được sự tưởng tượng, tức là đã ra khỏi ý tưởng tới từ cảm xúc chủ quan của cá nhân ; và sự thật đã hiện hữu với bằng logos : sự thông minh của lý.
Sự thật trước sự dối trá, Marion khi nghiên cứu sự quan hệ giữa sự thật và lòng tin, cái thứ nhất thì mang lại chân lý, cái thứ hai có khi dẫn con người tới cuồng đạo, vào mê lộ của mê tín lại lấy sự mù quáng để nhấn chìm sự thật, triết gia này đề nghị các nội chất sau đây để ta nhận ra sự thật : Sự thật xuất hiện như sự vén màn mà bóng tối không còn giúp gì được cho sự giả dối đang che lấp sự thật. Thí dụ rõ nhất hiện nay mà dân chúng thấy được là trong bóng tối của chùa Ba Vàng, Uông Bí, Quảng Ninh, mượn bề ngoài của Phật giáo để dựng nên một hệ thống tà đạo, do các chủ trì là những ma tăng, trong đó sự giả dối của "thỉnh oan gia tái chủ" lập nên mê lộ "rước vong", chỉ để lừa người mà làm tiền. Tại đây có hai xảo thuật nhập làm một, mà tổ tiên Việt đã dặn con cháu nên cẩn trọng với bọn âm binh vì chúng vừa "treo đầu dê, bán thịt chó", lại vừa "mượn đầu heo nấu cháo".
Khi sự thật tới như ánh sáng vừa lan tỏa, vừa xóa đi bóng tối, thì sự thật vén màn tới đâu là nhân gian khám phá cái thật tới đó, tại đây có quá trình của vén-lật-nhìn-thấy-hiểu, các đồng từ này chính là các chỉ báo khách quan để định nghĩa thế nào là khám phá sự thật. Và khi dân chúng hiểu chùa Ba Vàng là loại chùa giả vì nó có lãnh đạo là sư giả, không biết là Phật giáo phải dựa vào Phật học, trong đó kiến thức về kinh Phật, cũng như sự thực hành Phật pháp làm nên vũ trụ tri thức của đạo Phật, không hề có chuyện"thỉnh oan gia tái chủ" qua mê tín "rước vong".
Sự thật không những đứng giữa ánh sáng lại còn lan tỏa để nhập nội vào nhân thế, để đổi nhân sinh quan của nhân tình, mà còn đổi luôn thế giới quan của nhân loại, đưa con người tới nguyên nhân của sự thật. Nguyên nhân có khi nằm trong động cơ của kẻ nuôi dưỡng chuyện phản sự thật. Và trên thí dụ về chùa Ba Vàng, thì đúng là ổ buôn gian bán lận để đào tiền những ai đã là nạn nhân của mê tín qua chuyện"thỉnh oan gia tái chủ" rồi "rước vong" để trị bịnh. Vì là bọn buôn thần bán thánh không biết gì về y khoa, nên nguyên nhân do chúng mạo danh không đi cùng với hiệu quả của y khoa, những ai dùng mê tín để trị bịnh, thì không thể thế y khoa được, vì sẽ không có hiệu quả trị liệu của y khoa.
Sự thật tới có thể làm chúng ta sững sờ khi nó xuất hiện, nhưng khi sự thật đã tới như chân lý hiển nhiên, thì sự thật trao cho chúng ta những chìa khóa để mở cửa mọi nhà tù đang giam hãm sự thật ; cụ thể là sự thật giúp ta tái tạo lại nó, khi mọi điều kiện đã đầy đủ để khám phá ra sự thật này. Các ma tăng lãnh đạo của chùa Ba Vàng không dám trả lời các thách thức của các Phật tử chân chính là từ các kinh của Phật tới các sinh hoạt Phật pháp hằng ngày trong lịch sử của Phật giáo không hề có kinh nghiệm "thỉnh oan gia tái chủ", "rước vong" ; thì bọn ma tăng này chỉ là âm binh, mà chúng không hề là Phật tử.
Sự thật xuất hiện để tách lòng tin có cơ sở ra khỏi sự mê tín không có cơ sở vì không được kiểm chứng qua một quy trình khách quan của tri thức ; như vậy sự kiểm chứng là cặp mắt của sự thật, làm nên quy luật vô trương bất tín (không thấy thì không tin). Và xa hơn nữa là khi ta nếu thấy rồi, tin rồi, thì phải để kẻ khác kiểm chứng để chuyện thấy và tin, để sự thật trở thành chuyện không chối cãi được. Khi kiểm chứng là "thỉnh oan gia tái chủ", "rước vong" không làm cho hết bịnh, lại có hậu quả ngược lại là tiền mất tật mang, thì ta phải thấy để tin là bọn ma tăng lãnh đạo chùa Ba Vàng chỉ là bọn đánh lận con đen, bằng đánh tráo khái niệm như đánh tráo sự thực, với ý đồ trục lợi chỉ vì tư lợi ham tiền của chúng.
Sự thật không đến thản nhiên rồi ra đi trong hồn nhiên, sự thật không chỉ bay lướt trên mặt đất mà nó yêu cầu ta phải đào thật sâu, bới thật rộng, cào thật xa để biết tại sao gốc, rễ, cội, nguồn của sự thật lại bị che lấp, và nó thường bị che lấp với các ý đồ của lòng tham không đáy. Và, lòng tham này tới từ một bọn bất lương, không lương thiện vì không có lương tri, mà lương tri chính là tri giác của lương tâm. Khi ta đặt câu hỏi : lấy tiền ở đâu ra để xây lên cơ ngơi của chùa Ba Vàng trên một khu đất rộng, với kiến trúc hoành tráng, với nội thất xa hoa ? Thì câu trả lời là có một bọn âm binh làm "sân sau" cho bọn ma tăng, để đầu tư vào chùa Ba Vàng, vừa để rửa tiền, vừa để làm tiền qua chuyện buôn thần bán thánh. Mượn chuyện xây chùa để kinh doanh bất chính qua mê tín thì không hề dính dáng gì đến hệ luận của Phật học : lấy lý luận của tri thức về nguồn cội khổ để lập luận về gốc rễ của khổ đau trong nhân thế, mà giải luận để vượt thoát đau khổ bằng đạo pháp, nên Phật học hoàn toàn ngược lại với mê tín, đi trên mê lộ, sống trong mê cung, vùng vẫy trong mê loạn.
Sư thật đưa ra phân tích sâu và rộng để giải thích cao và xa, nên sự thật không bị giới hạn bằng biên giới của không gian, không bị định hạn bởi thời gian, cụ thể là nó không sợ hãi và không tuân thủ bất cứ vùng cấm nào cả. Chùa Ba Vàng không nằm ngoài quy luật này của sự thật : nếu có "sân sau" bỏ tiền ra rồi giao cho bọn ma tăng buôn thần bán thánh, thì ai là đám "chống lưng" cho bọn"sân sau" này, cùng lúc làm "ô dù" cho bọn ma tăng kia ? Câu trả lời có trong đám lãnh đạo cao nhất từ các thành viên của Bộ Chính trị tới các nhân vật trong chính phủ hiện nay, hiện nay các giả thuyết cần được minh chứng trong những ngày tới là Nguyễn Minh Chính trong Bộ Chính trị đóng phần đầu tư và bao che, còn Nguyễn Xuân Phúc tham gia vào việc ủng hộ để tham dự vào việc chia chát.
Nếu là giả thuyết có cơ sở nơi mà dữ kiện phải được trở thành chứng từ, mà còn là lý luận của chứng từ được trở thành giải luận về nguyên nhân. Nên sự thật khách quan yêu cầu ta tiếp tục điều tra, khảo sát, nghiên cứu về hệ thống truyền thông quốc nội do Đảng cộng sản Việt Nam điều khiển : tại sao tự nhiên lại ào ra để nhảy vào các chuyện ma tăng dùng ma đạo để làm tiền, thì đây lại có giả thuyết khác là một cuộc thanh trừng lẫn nhau giữa các lãnh đạo chóp bu đang thanh toán nội bộ để giành chức qua giành quyền trong đại hội sắp tới của Đảng cộng sản Việt Nam, chỉ như vậy sự thật mới là sự thật trọn vẹn chớ không phải là loại sự thật chột, què, ngọng, điếc đã bị tà quyền vo tròn bóp méo.
Sự thật đến như một sự kiện nhưng tự nó sẽ thành sự cố để giải thích các biến cố đã, đang, sẽ xẩy ra khi sự thật xuất hiện với nguyên vẹn hình hài của nó. Và khi chủ thể khám phá ra sự thật nguyên vẹn này, thì chính chủ thể thường có nhận định là mình đã đi sau tới trễ đối với sự thật, chính cảm nhận này sẽ hướng dẫn chủ thể thực hiện thêm hai việc : thứ nhất là kiểm nghiệm lại mọi quá trình thực nghiệm (thật sự của sự thật) ; thứ hai là luôn đi thêm một bước hay nhiều bước nữa để được tiếp nhận sự thật đầy đủ mà không bị thiếu sót, để tiếp nhận sự thật được toàn diện, không bị phiến diện, như một sự thật tật nguyền.
Câu chuyện của chùa Ba Vàng vẫn không dứt nếu ta không hiểu chuyện buôn thần bán thánh qua Phật giáo của bọn ma tăng hiện nay chính là câu chuyên rửa tiền bất chính qua chuyện xây chùa, để rồi được vơ vét nhiều hơn qua chuyện buôn chùa bán phật của ba lực lượng đang liên kết để sống nhờ liên minh của chúng : bạo quyền lãnh đạo sống nhờ độc quyền qua độc đảng dụng độc tài để độc trị ; tà quyền tham quan sống nhờ tham ô qua con đường tham nhũng ; ma quyền buôn đất lậu đạo của bọn tư bản đỏ sống nhờ quan hệ-tiền tệ với bọn lãnh đạo.
Sự thật được khai sáng nhờ kiến thức, nhưng trước đó sự thật có thể bị vô thức của người trần mắt thịt vì đã quá cả tin vào chế độ đang quản lý sự thật, vào chính quyền đang quản trị sự thật ; tệ hơn nữa sự thật còn có thể bị vùi lấp bởi mê thức, tới từ hậu quả của tuyên truyền, từ hậu nạn của kiểu lưỡi gỗ chỉ biết nghĩ, biết nói một chiều làm ra đêm giữa ban ngày, để ma quyền dễ gạt đi mọi phản biện. Chính vô thức khi song hành cùng mê thức thì sự thật bị coi như một hiểm họa vì nó có thể đặt lại toàn bộ vấn đề về tổ chức xã hội, trong đó có tư lợi của kẻ đang là nạn nhân của vô thức hoặc mê thức. Cụ thể là quan hệ xung đột giữa kiến thức, vô thức và mê thức là quan hệ trong đó quyền lợi đặt chủ thể của nhận thức vào sự tỉnh thức trước sự thật ; hoặc ngược lại loại bỏ ý thức tới từ kiến thức để bảo vệ tư lợi trong vô ý thức.
Câu chuyện của chùa Ba Vàng đã và đang là sự dính líu qua biển lận của ít nhất ba lực lượng : bạo quyền lãnh đạo trong độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền sống bất lương và làm giầu bất chính qua quá trình buôn bán bất nhân. Những bọn này sống như ký sinh trùng ăn trên rồi ăn vào sinh lực của người lương thiện qua sự buôn bán giả dối của chúng. Cụ thể là khi đi học thì chúng buôn bằng bán cấp, khi ra đời thì chúng buôn chức bán quyền, khi cần tiền thì chúng buôn thần bán thánh ; và chúng sẽ buôn dân bán nước khi đất nước bị sa bẫy vào quy trình của hệ xâm : xâm lấn-xâm chiếm-xâm lăng- xâm lược của Tàu tặc-Tàu nạn-Tàu hoạn-Tàu họa thì chúng sẽ cao bay xa chạy như để tiếp tục lẩn trốn sự thật mà thôi.
Sự thật chỉ được biết qua kiến thức đã đưa nó ra ánh sáng, mà ngay trong kiến thức cũng có loại kiến thức bị giấu diếm, để chỉ được chia sẻ kín đáo trong bè đảng như trường hợp của ba lực lượng độc hại cho số phận Việt tộc hiện nay (bạo quyền lãnh đạo trong độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham đất, tất cả đều tham tiền) và chính chúng là giặc nội xâm, trực tiếp hay gián tiếp mở cửa cho ngoại xâm Tàu tặc, vì chúng chỉ biết sống bất lương để làm giàu bất chính, loại này luôn "mất ăn, mất ngủ" vì sự thật sẽ tới để lột mặt nạ của chúng. Nên sự thật không bao giờ được chính thức hóa qua hệ độc (độc đảng, độc tài, độc trị, độc quyền, độc tôn), và khi sự thật được công chúng hóa, thí dụ như qua chiến dịch chống tham nhũng, thì nó không còn sự thật nguyên vẹn nữa, vì sự thật này đã bị bóp méo ngay từ đầu.
Chỉ vì thực chất của chiến dịch chống tham nhũng này mang nội chất của chuyện thanh trừng nội bộ, trong chuyện thanh toán lẫn nhau giữa các lãnh đạo đang có xung đột với nhau vì tư lợi. Chính câu chuyện địa phương tưởng là cục bộ của chùa Ba Vàng hiện nay không còn là một thí dụ đơn lẻ, mà là một trường hợp trong một thực thể, một phần tử trong một tổng thể nói lên sự sa đọa của chế độ hiện nay đang thật sự tha hóa Việt tộc. Khi người ta có thấy một con voi to lớn giữa nhà, mà người ta còn giả vờ như không thấy nó, thì đó là kết quả của vô thức đã cộng nghiệp cùng mê thức để sinh ra hậu quả của vô ý thức, tức là không tỉnh thức trước kiến thức. Tại đây, tri thức của khoa học xã hội và nhân văn sẽ làm nên được ý thức để giúp quần chúng có được nhận thức về chính số phận của mình : chỉ có sự thật Việt mới nói rõ được số phận Việt, không có một mê tín, mê lộ, mê cung, mê chấp nào thay thế được sự thật này.
Thực luận kháng quyền lực
Sự thật dưới quyền lực, có ba tư tưởng gia, mỗi người lại đưa ra một lý luận rất khác nhau để đi tìm sự thật. Tư tưởng gia thứ nhất có niềm tin tuyệt đối vào thượng đế cha đẻ của muôn loài, nhưng không phải vì vậy mà không biết làm giàu một cách khách quan trên minh lộ đi tìm sự thật, đó là Augustin đề nghị là sự thật được tìm ra bởi thiện ý như là một ý chí muốn nhập nội vào sự thật để hiểu tới nơi tới chốn sự thật. Tại đây, khi ý chí dựa vào thiện ý đã trở thành ý lực thì ý lực này chính là thể lực của niềm tin, và cái tin này cũng là bước đầu của trí tuệ, giúp ta khởi hành trên lộ trình đi tìm ra cái lý để hiểu cái thật. Cả hai cái tin, cái lý sẽ tìm ra cái thật, nơi mà cái tin chọn cái lý để tạo nền tảng cho cái đón để cái thật được tới.
Đến tư tưởng gia thứ hai là Descarte một triết gia lấy thượng nguồn là duy lý để đi tìm cái sâu có trong cái lý, khi ông xem sự thật khi được tung ra như một loại ánh sáng có sức sáng vô song tới để khai phá ý chí của con người muốn biết tận gốc rễ của cái thật. Chính độ sáng mãnh liệt này làm ngời cái thật được hiện hữu tròn đầy rồi hiện hình trọn vẹn, thì cũng chính nó có lực tập hợp rất lớn, nó đưa cá nhân tới tập thể, đưa các cộng đồng riêng rẽ tới cùng, tới chung một số phận của một dân tộc sống để bảo vệ sự thật này. Và khi nó càng lớn với sự thỏa thuận làm nên sự đồng lòng của mọi người thì sức vận hành của nó trong xã hội con người sẽ rất mạnh. Sự thật xuất hiện để xóa đi sự ngờ vực, và sự thật đứng vững với chân lý của nó, vừa bằng lý thuyết luận, vừa bằng phương pháp luận của nó, làm nên khoa học luận về sự thật, giờ đã mang một giá trị tuyết đối.
Tư tưởng gia thứ ba là Pascal, một nhà khoa học lỗi lạc nhưng cũng biết gởi niềm tin mình vào thượng đế, nhưng lại đi một con đường khác khi ông đề nghị ta phân tích sự thật như một nghệ thuật mà con người biết tự thuyết phục mình trước cái hiển nhiên vì rõ ràng trong tuyệt đối, đó chính là sự thật. Mà muốn tới sự thật này thì phải biết yêu cái thật để thấu cái thật. Ông chắc bẩm một điều là cái yêu đi tìm cái thật làm nên cái biết, cái hiểu về cái thật.
Nhưng Foucault khi nối các định đề của triết học với các thực trang của xã hội mà con người đang sống, thì đứa con tin yêu của triết học cận đại và xã hội học đương đại này đã đặt sự thật vào giữa tri thức và quyền lực, và sự thật luôn bị chi phối bởi hai cực này, ông tin là sự thật không vô tư và không vô điều kiện vì cả hai tri thức và quyền lực đều không vô điều kiện. Rồi ông chống lại quá trình của niềm tin khi nó đi tìm sự thật, và ông giải thích là khi sự thật nằm giữa kiến thức và lòng tin, thì người ta tưởng là người ta nắm được sự thật, nhưng thật ra là người ta bắt sự thật phải vào khuôn của niềm tin. Mà trên nguyên tắc khách quan của khoa học thì niềm tin phải theo sự thật, chớ không phải ngược lại là sự thật phải theo niềm tin.
Ông đề nghị cụ thể khi ta đi tìm sự thật trên một sự kiện, ta phải nhận ra ít nhất ba yếu tố cấu tạo ra nó : cơ cấu lý lẽ của sự kiện tại sao nó có và xuất hiện trong cuộc sống ; sau đó là tính biến đổi của nó qua thời gian, đây chính là sử tính của nó ; và cuối cùng là sự sống còn của nó qua các không gian của xã hội. Ngay trong sinh hoạt xã hội, quyền lực luôn tìm cách chi phối tổ chức của xã hội, trong điều kiện đi tìm sự thật Việt để hiểu số phận Việt, thì ai cũng biết là gần 800 cơ quan truyền thông, dưới độc quyền của tuyên giáo qua độc tài trong độc quyền của Đảng cộng sản Việt Nam, thì có hàng vạn bút nô, ký nô, văn nô được trả lương tháng để phục vụ cho một hệ thống tin tức tồn tại chỉ để viết những chuyện phản lại sự thật. Bọn này sinh hoạt như chó săn theo lịnh chủ, áp đảo để trấn dẹp, vu khống để vu cáo những công dân nào muốn hiểu, muốn thấy, muốn nói, muốn viết ra sự thật của sự độc hại do độc đảng gây ra, từ nghèo nàn trong lạc hậu của xã hội Việt, tới nhân quyền trong nhân phẩm qua dân chủ, thì đều bị hãm hại để trừng trị, từ truy diệt đến truy sát, với sự hỗ trợ vô điều kiện của bộ máy công an trị hiện hành.
Trên sự thật về nhân phẩm con người trong một xã hội, Foucault đề nghị ta nên bắt đầu phân tích một cá nhân bằng môi trường giáo dục mà cá nhân đó đươc tạo ra ; sau đó là quan hệ xã hội làm nên đời sống xã hội của cá nhân đó, và tiếp theo là quan niệm xã hội và thực hành xã hội của cá nhân này trước quyền lợi của mình trong tổ chức xã hội, mà cá nhân đó đang sống. Từ đây, ta thấy được những mâu thuẫn, rồi những xung đột của cá nhân đó trong sự vận hành của các cơ cấu xã hội mà quyền lực hiện hành vừa lãnh đạo cả xã hội, vừa chủ mưu tạo ra đặc quyền, đặc lợi làm nên đặc khu cho riêng nó. Chính tư lợi làm cho cá nhân và tập thể ngăn chặn họ không thấy hết được sự thật, rồi chính đấu tranh ngay trong xã hội sẽ làm sáng ra sự thật, để mọi người thấy bạo quyền dính tới tham nhũng, tham quan dính tới ma quyền trọc phú, tất cả buôn gian bán lận trong những không gian âm binh của chúng, và chúng biết tránh luật để lách luật, tráo luật để xé luật, để thủ tiêu sự thật ngay trên thượng nguồn của nó.
Sự thật của một cá nhân có rễ là môi trường gia đình, có cội là vốn liếng của gia đình đó trong quan hệ xã hội của gia đình đó, có nguồn là vốn kinh tế làm nên vốn quen biết, có vốn quan hệ xã hội qua lợi dụng làm nên đời sống xã hội qua lạm dùng, cụ thể là tìm quyền để có quyền, và có quyền để làm quyền. Nên nguồn cội là quyền lợi qua tiền tệ-hậu duệ-quan hệ của một nhóm có thể làm giầu hay làm nghèo cá nhân đó, đó là chuyện hằng ngày ta thấy (rất thật) là con ông cháu cha dễ thành đại gia, và chuyện dân chúng dễ thành dân đen, lắm lúc một sớm một chiều thành dân oan.
Như vậy, sự thật của xã hội Việt Nam hiện nay có thể nhìn qua các nạn nhân của bạo động trực tiếp bằng đàn áp do công an trị ; có thể qua bạo động truyền thông qua các hệ thống tuyên truyền, truyền thông, báo chí phục vụ ý đồ của tuyên giáo ; có thể là bạo động tới từ tư pháp dùng pháp luật để buộc tội dân lành đang bị cướp đất, cướp nhà, cướp của… Mà ta không quên bạo động biểu tượng với giọng điệu của chính quyền bắt buộc dân tộc phải nghe sự dối trá như là chân lý, sự lừa đảo như là sự thật, để từ đó chôn vùi thực chất của sự thật, để chính quyền này dễ vu khống để vu cáo, dễ điêu ngoa để chụp mũ sự xuất hiện của mọi lẽ phải.
Sự xuất hiện của sự thật, bắt một chủ thể có lương tri vì có lương tâm trong hành động, nhờ có lương thiện trong lý luận đưa chủ thể đó về hướng phải nói thật và phải thật khi nói, mặc dù có thể bị xử bởi bạo quyền lãnh đạo, bị ám hại bởi tà quyền tham quan, bị trừng phạt bởi ma quyền tham tiền. Khi nói thật để bảo vệ sự thật như chân lý để đi tìm lẽ phải, thì sự thật chính là tiền đề của đạo lý biết sống bằng hay, đẹp, tốt, lành, của luân lý làm nên điều hay lẽ phải trong trách nhiệm và bổn phận của một công dân.
Sự thật bị khống chế, vì sự thật của xã hội không thoát được sự xếp hạng theo thứ tự ưu tiên mà xã hội đó tôn thờ hay tôn vinh, và chính sự xếp hạng này cho phép hoặc không cho phép một sự thật xuất hiện, tại đây có khen thưởng hoặc có trừng phạt khi có một sự thật xuất hiện. Đó là bi kịch của Gallilé khi chứng minh trái đất tròn mà không phẳng như giáo hội thời đó tin tưởng và áp đặt ; tại đây chính Nietzsche đã xây dựng được luận thuyết nơi mà sự thật chỉ được thuyết phục bởi cái lý, nhưng hãy cẩn trọng khi sự thật bị chính cái lý thông thường, phổ quát mà thực chất là phản sự thật để vây bủa cái thật, rồi vây hãm sự thật trong bằng cái lý độc tôn rồi độc quyền chống lại sự thật đó.
Niềm tin luôn tác động vào kiến thức nơi mà lòng tin có kiến thức riêng của nó, để định vị sự thật, cụ thể chúng ta không muốn tin những sự thật mới tới để làm phiền rồi lật đổ các niềm tin đã có trong ta. Nên sự thật có thể nằm im lìm trong quên lãng trong những gì mà ta không muốn hiểu, và sự thật có thể không nằm trong những gì mà ta muốn biết. Đây là chuyện thường tình của nhân gian, nên trong khoa học cũng có chuyện tranh giành quyền lực như trong chính trị, trong tôn giáo cũng có chuyện tranh giành quyền lợi như trong kinh tế. Nếu ta muốn bảo vệ sự thật khách quan, để tới với chân lý của sự việc, chúng ta không bảo vệ sự thật một cách chung chung, mà bảo vệ trước hết là phải bảo vệ lý trí của sự thật làm nên chân lý cho mọi lẽ phải.
Kant có niềm tin sâu sắc về thượng đế đã chế tác ra muôn loài, nhưng cũng chính triết gia này lại đề nghị là không có niềm tin nào vô điều kiện cả, ông khuyên ta hãy đến với sự thật với sự thành thật học để hiểu, có thiện chí để học, có công cụ của tri thức đúng để tìm ra kiến thức đúng về sự thật, thì sẽ hiểu mọi điều kiện cần thiết để nhìn, để thấy, để hiểu và để nhận ra sự thật. Khi ta biết tách chủ thể đi tìm sự thật và đối tượng đang ẩn chứa sự thật, thì tự đó chủ thể có thể tái tạo tự đầu tới cuối sự hình thành của đối tượng để thấy được sự thật, vì sự thật sẻ được mở ra cho ta nhận ra sự thật, Kant tin rằng sự thật dâng tới cuộc sống qua sự xuất hiện của sự vật.
Nhưng sự thật của con người biết vụ lợi, để bảo vệ tư lợi của mình, thì sự thật trong xã hội xuất hiện với sự xung đột về quyền lợi, nơi mà mỗi tư lợi bám vào chỗ đứng của nó, cùng lúc muốn lớn ra và đe dọa các tư lợi khác. Chính sự xuất hiện của sự thật sẽ nói rõ sự xung đột đã có và sẽ tiếp diễn ngay trong sinh hoạt xã hội, nó đe dọa và nó thúc đẩy các lực lượng tốt trong xã hội liên kết để cung nhau liên minh chống lại các lực lượng xấu chỉ biết bám vào tư lợi của mình mà "thí mạng" các lực lượng khác. Các lý luận của triết học đã được một chuyên ngành sắc nhọn mài dũa trong hơn hai thế kỷ qua, để sự thật được ngời sáng lên, được thấy rõ qua đời sống xã hội, sinh hoạt xã hội, nhất là quan hệ xã hội, đó chính là xã hội học. Chuyên ngành này yêu cầu chúng ta khi đi tìm sự thật trong một xã hội, đừng quên là trong xã hội đó luôn có hai loại người kẻ thống trị và kẻ bị trị. Kẻ thống trị nắm không những quyền lực, mà còn thao túng luôn cả tri thức, bằng thủ đoạn của mình, qua chính quyền thuộc về mình, mà mục đích là kéo đài chế độ thống trị, nơi mà sân chơi, trò chơi, luật chơi được tổ chức rồi giật dây để khống chế rồi áp bức kẻ bị trị.
Thực luận kháng khống chế
Bourdieu là nhà xã hội học đã đi sâu và đi xa trên chủ thuyết khống chế để thống trị này, cả sự nghiệp học thuật của thầy là mài dũa xã hội học sắc nhọn, mang thể chất của một sinh lực luôn đủ hùng lực để chiến đấu vì sự thật nằm ngay trong sự bất bình đẳng, tạo ra bất công trong mọi quan hệ xã hội. Tại đây, có kẻ ăn trên ngồi trốc làm giàu qua sự bóc lột những người cày sâu cuốc bẩm ; kẻ thống trị thì ngồi mát ăn bát vàng sống trên lưng những người lưng đội trời, mặt áp đất ; kẻ thống trị này đi trên vai những người một nắng hai sương bằng thói ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau ; kẻ thống trị này lại tự cho phép mình nằm chờ sung rụng lại còn dẫm lên đầu những người thức khuya dậy sớm qua siêu cao thuế nặng, đây chính là họa nạn của Việt tộc hiện nay. Sự thật của xã hội Việt hiện nay là kẻ thống trị vừa lợi dụng mọi phía, vừa bóc lột tới cùng kẻ bị trị.
Kẻ thống trị quây quần với nhau để lập ra những tập đoàn quyền lực, tạo ra bất công tuyệt đối kẻ ăn ốc, người đổ vỏ như ta thấy qua thảm kịch của dân đen hiện nay lương bổng thấp ngày ngày sống với lạm pháp phi mã. Lực lượng thống trị chung quanh Đảng cộng sản Việt Nam sống bằng bạo quyền độc tài trung ương, bằng tà quyền tham quan địa phương, và ma quyền chung quanh các nhóm lợi ích, có sân sau, có ô dù, hít vào bằng biển thủ, thở ra bằng gian lận… tồn tại như các ký sinh trùng bòn rút tài nguyên của đất nước, tiền tài của dân tộc.
Các ký sinh trùng được nuôi dưỡng và "tẩm bổ" để trở thành một tập đoàn tội phạm trong hệ độc : độc đảng để độc tài, độc trị để độc quyền, độc tôn để độc quyết, bất chấp mọi độc hại tới với đồng bào, đất nước. Bọn thống trị khống chế quần chúng bằng công an trị không chừa một thủ đoạn nào của bạo quyền là đè đầu cỡi cổ dân đen, không chừa một xảo thuật của tà quyền tham quan liên minh với ma quyền tham đất, ngày ngày trộm, cắp, cướp, giật đất đai, biến dân chúng thành hàng triệu dân oan. Chúng sống với các phản xạ thừa nước đục thả câu, để được đục nước béo cò, chúng say mê thừa gió bẻ măng để được mê mệt với quy luật của khống chế để áp chế của bọn cướp ngày là quan ! Sự thật của đời sống Việt hiện nay là kẻ thống trị vừa bòn rút, vừa trấn lột kẻ bị trị.
Độc hại như ung thư biến hóa hàng ngày trong quy trình tự tăng, tự phát của nó : mua bằng bán cấp để mua chức bán quyền qua hiện trạng học giả-thi giả-bằng giả, rồi buôn thần bán thánh như bọn ma tăng được nuôi nấng bởi quy chế công an văn hóa để thành sự quốc doanh mà moi móc tiền của của các nạn nhân trong mê lộ của mê tín. Nơi mà chùa được xây để rửa tiền, rửa tiền xong là phải vơ tiền ngay bằng các ma tăng gieo mê tín qua sự sợ hãi của quần chúng đã sống quá lâu trong bưng bít của tuyên truyền phản sự thật, nay lại trao thân gởi phận cho ma tăng chỉ thấy tiền, được "chống lưng" bởi một lực lượng ma quyền lãnh đạo chỉ thích tiền.
Tất cả trong bối cảnh chung của bọn phản dân hại nước, đã đi trên tử lộ của chúng là buôn dân bán nước trước Tàu tặc đã chiếm đất, chiếm đảo, chiếm biển của chúng ta ; trước Tàu họa đang ô nhiễm môi trường, hủy diệt môi sinh của Việt tộc ; trước Tàu hoạn ngày ngày đầu độc dân ta với thực phẩm độc hại ; trước Tàu nạn thao túng, giật dây chính trị, kinh tế, thương mại, văn hóa… trước hiện cảnh của một Đảng cộng sản Việt Nam hèn với giặc ác với dân, bằng hiện thân đớn hèn cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối của kẻ thống trị dân bằng công an trị, nhưng lại bị một kẻ thống trị lớn hơn áp chế, mà tổ tiên dặn con cháu chính chúng là tử thủ của Việt tộc từ ngày ông bà ta lập quốc. Sự thật sinh hoạt Việt hiện nay là kẻ thống trị vừa siết cổ dân Việt, vừa bán đứng kẻ bị trị.
Từ đây Xã hội học từ chối nghiên cứu về đời sống xã hội mà không nghiên cứu về bất bình đẳng ; từ chối điều tra về sinh hoạt xã hội mà không điều tra về bất công ; từ chối khảo sát về quan hệ xã hội mà không khảo sát về sự bất nhân, vô luân của kẻ thống trị bấp chấp đạo lý hay, đẹp, tốt, lành của tổ tiên, đã làm nên luân lý của cộng đồng Việt biết sống có trách nhiệm với đất nước, làm nên đạo đức của dân tộc Việt biết sống có bổn phận với đồng bào. Khi xã hội học phân tích về một hệ thống xã hội, nó luôn phân tích về quyền lực (trong bóng tối) đã tổ chức chính quyền của xã hội đó bằng khống chế và áp chế. Khi xã hội học giải thích về một cấu trúc xã hội, nó luôn giải thích quyền hạn (dưới ánh sáng) của dân quyền qua công bằng và bác ái của dân chủ. Xã hội học có kiến thức làm công cụ cho tri thức, hơn thế nữa : chính kiến thức là vũ khí để chống độc tài luôn tìm cách che lấp sự thật !
Hãy xem xã hội học như là chuyên ngành cũng có kiến thức hàn lâm như các chuyền ngành khác của khoa học xã hội và nhân văn ; mà cùng lúc tri thức của xã hội học cũng vừa là vũ khí chống mỵ dân của độc tài, chống đạo đức giả của độc đảng. Tri thức của xã hội học biết trao truyền kiến thức của nó không những qua lý thuyết, mà còn qua phương pháp tự phân tích để mỗi cá nhân, mỗi tập thể, mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc thấy rõ về số phận của mình để lật mặt nạ của bạo quyền trong bất bình đẳng, của tà quyền trong bất công. Xã hội học đề nghị những công thức giải thích dựa trên các công cụ phân tích về số kiếp của kẻ bị trị, để kẻ này thấy rõ số phận mình qua các bẫy của kẻ thống trị, khi kẻ thống trị xem kẻ bị trị như công cụ để lợi dụng rồi bóc lột.
Đưa sự thật cho quần chúng trong xã hội, là để mọi người được sống đúng, không là nạn nhân của bất công, trong một xã hội mà bóc lột là vô nhân, mà tham nhũng là vô luân. Trên nguyên tắc của nhân quyền, con người được quyền sống trong một xã hội đáng sống hơn, không ai là dân đen, dân oan của ai cả ; và khi con người nhận ra sự thật này tức là con người đã biến nhận thức thành tỉnh thức. Xã hội học luôn dặn dò ta phải cẩn trọng ngay trong tin tức, dữ kiện, chứng từ, vì sự thật luôn bị đánh tráo, đổi trắng thay đen, bị biến dạng khi ta đi tìm sự thật. Thí dụ khi ta đi tìm sự thật về giáo dục, chúng ta thường rơi vào các văn bản của Bộ Giáo dục, mỵ dân trên văn bản không phải thực tế hiện nay là hoàn tòan phản giáo dục với các bi nạn : bạo động, dâm loạn, hối lộ, tham nhũng… đây là sự thật của một bộ máy giáo dục bị lũng đoạn toàn bộ, nó ngược lại với văn bản đạo đức giả của Bộ Giáo dục.
Bạo quyền không thể chụp mũ, vu cáo một kiến thức toán trong một định đề toán vì tà quyền không thể chính trị hóa toán học được ; nhưng bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham nhũng có thể vu khống một sự thật của khoa học xã hội nhân văn, bằng cách chính trị hóa để lũng đoạn hóa các tri thức của khoa học xã hội nhân văn ; và khi khoa học xã hội nhân văn không bị bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham nhũng khai thác, thì nó lại bị tà quyền này giật dây, vu cáo, chụp mũ... Nên từ đây, xã hội học hiện đại là môt kiến thức biết tự phòng vệ để chống lại bạo ngôn của bạo quyền lãnh đạo, xảo ngôn của tà quyền tuyên giáo, lộng ngôn của ma quyền truyền thông, âm binh muốn thống trị người hiền luôn có mặt trong cuộc sống vừa để tuyền truyền, vừa để đánh lạc hướng quần chúng và xã hội.
Sự thật dưới bạo lực, qua luận thuyết của Girard đề nghị luận thuyết nạn nhân oan (bouc émissaire) để giải thích hiện tượng bạo động kiểu giết người có trong xã hội là buộc tội oan chỉ một người, bị quy chụp những tội mà họ không gây ra, hoặc biến một lỗi nhỏ của một người, một nhóm thành tội đồ to để hành quyết nạn nhân, có thể là một người, có thể là một nhóm để làm vật tế thần, khi một cộng đồng dùng nạn oan, không có tội nhưng bị buộc tội oan để giải tỏa sự ấm ức tới từ các xung đột nội bộ của một xã hội. Chính các nạn nhân oan, không đáng tội chết nhưng bị xử oan để chết oan giải tỏa sự dồn nén có tập thể, cộng đồng, xã hội đang mất phương hướng. Xã hội Việt đang lâm nặng vào quá trình nạn nhân oan, chỉ một lỗi bắt trộm chó mà có thể bị một xóm, một làng đánh chết, tại đây kẻ nghiên cứu xã hội học không thấy được gì thêm về nạn nhân, mà nên quan sát kỹ vào hành dộng của một tập thể dân bình thường nhưng tại sao lại có thể giết người dễ dàng như vậy ?
Chính sự bức xúc của một tập thể bị dồn nén bởi những bất công trong xã hội, lại không được công lý che chở, nạn nhân của cường hào ác bá của độc đảng công an trị mà không làm gì được chính quyền đang đè đầu, đè cổ mình, thì dễ thành sát nhân với một tên trộm, chỉ trộm một con chó thôi mà phải chịu tội chết. Nạn nhân oan có thể xảy ra dễ dàng trên đường phố, chỉ một cái quẹt xe trong giao thông, chỉ một cái nhìn lạ của một kẻ lạ, là có thể đi sát hại, bị đâm chết vì nhũng chuyện không đâu ! Hiện tượng nạn nhân oan nói lên rất nhiều trạng thái tâm lý tập thể, tâm thần cá nhân, bị dồn nén bởi các chuyện bất công mà mình không vượt qua được, lại quay ra "giận cá, chém thớt".
Câu chuyện trở nên trầm trọng hơn khi nó gây ra trạng thái tâm thần cho những kẻ có quyền lực nhưng lại không có sự tín cẩn, lòng khâm phục của kẻ bị trị, nên bịnh tâm thần của kẻ cầm quyền xử những bản án thật nặng với các đứa con tin yêu của Việt tộc, chỉ dùng dân chủ để đòi nhân quyền mà phải nhận những bản án nhiều năm trong lao lý. Khi các nhà xã hội học hoặc sử học chỉ nhận định là những bản án nặng để làm gương, để ra uy, để làm kẻ khác sợ mà không dám đấu tranh, cách giải luận chưa đủ, còn thiếu sót, mà phải đưa vào giải thích của chúng ta chủ thuyết nạn nhân oan, để thấy rõ sự hận thù quá mức, sự oán giận quá đổi của kẻ cầm quyền, đang bất lực trước các trào lưu đấu tranh của xã hội dân sự mà họ không sao dẹp được. Nạn nhân oan luôn phải nhận những đòn thù, những án oan, những trừng phạt kiểu bị truy diệt để kẻ có quyền thỏa giận, thỏa tức, để thoát được chuyện "mất ăn mất ngủ" vì tha nhân đã nhìn ra sự bất chính của bạo quyền, sự bất lương của tà quyền.
Sự thật Việt của số phận Việt hiện nay, đang diễn ra hằng ngày trước mắt chúng ta : Một vài công an có thể đưa một người vô tội vào đồn công an và đánh đòn thù cho tới chết, để hôm sau báo với gia đình của nạn nhân này là nạn nhân đã tự tử, và không một tên công an sát nhân nào, bị điều tra để sau đó được phân xử công minh trước tòa án. Một xã hội cho phép "đòn thù" để tra tấn cho tới chết, mà lại được một độc đảng bạo quyền che lấp tội ác để che giấu tội phạm là một xã hội đang bị nạn nhân hóa. Một vài côn đồ, du đảng được công an sử dụng, được bọn ma quyền buôn đất trả tiền, có thể bắt cóc và tra tấn một dân oan đang bảo vệ mảnh đất của mình, mà bọn xã hội đen lại được công an bảo kê, được bọn ma đất trả tiền, thì dân chúng trong xã hội đó có thể đi thẳng từ vị thế dân oan tới nạn nhân oan, vô tội mà trở thành tử tội. Một nhóm lợi ích tham nhũng đang lũng đoạn xã hội, đang bị điều tra có thể thủ tiêu một đàn em có vài triệu chứng phản bội chúng, để vừa trả thù, vừa để trút giận vào kẻ thấp nhất trong nhóm để xả mọi dồn nén và bất chấp pháp luật hiện hành, nên xã hội bạo động hiện nay là xã hội dùng nạn nhân oan để loạn hóa bộ máy công lý, muốn dùng luật pháp để kềm chế tội phạm. Sự thật xuất hiện ngay trong cái bạo động xã hội, mà muốn định nghĩa sự bạo động, thì phải qua đường đi nẻo về của nó là sự xâm phạm từ tính mạng tới nhân phẩm của nạn nhân của nó. Khi ta nghiên cứu về sự bạo động, thì ta nghĩ là ta không phải là thủ phạm mà kẻ khác là thủ phạm.
Tội phạm luận
Định hướng khoa học luận của tội phạm học là vận dụng khám phá khoa học để phê bình và xem xét lại các định đề cố hữu của khoa học, như vậy khoa học luận dùng diễn luận khoa học để giải luận khoa học, dùng lý luận khoa học mới để khám nghiệm lại các lập luận cũ. Nên, định hướng khoa học luận phải dựa trên phương trình luận (lý luận, lập luận, diển luận, giải luận) để lập nên các chỉ báo, từ đó nghiên cứu, điều tra, khảo sát, điền dã về sự thật để nhận ra chân lý. Chính sự thật và chân lý sẽ mở ra một chân trời cho tội phạm học có đầy đủ nhận thức về lẽ phải. Cái ác được nhận ra bằng quá trình của ý thức, vì ý thức trước đó biết là có cái tốt hoàn toàn ngược lại với cái ác, và cái tốt có mặt trong cuộc sống để bảo vệ cuộc sống.
Cái độc là nền để làm động cơ hành động cho cái ác, chính sự hiện diện của lý trí báo thức cho ý thức biết là cái lành có trong cái nhân, để duy trì cuộc sống trong xây dựng, chống lại sự tàn phá của cái độc. Cái thâm là con tính của cái độc, để biến cái ác thành cái thực trong cuộc sống, tại đây ý thức hợp lực với lý trí để chế tác ra niềm tin để bảo vệ cho bằng được cuộc sống bằng cái hay mang tầm vóc của cái tốt, mang bản lĩnh của cái lành để tiếp tục bảo hành cuộc sống. Cái hiểm, là thủ đoạn của cái thâm, là gốc rễ của cái độc, là cội nguồn của thâm, nó luồn lách qua tà quyền, nó chui rúc để bám bạo quyền, nó thích bóng tối hơn ánh sáng, vì nó sợ sự thật, nó lo bị lột mặt nạ, nên bóng tối là nơi ẩn nấp của cái hiểm để nó thực hiện tội ác của nó.
Tội ác, không những mượn bóng tối để ẩn nấp, mà còn để che dấu tội trạng, để khỏa lấp tội phạm, dấu diếm tội nhân, mà còn để lẩn trốn ánh sáng của sự thật, chính sự thật sẽ đưa tội phạm ra trước ánh sáng : công lý ! Tội trạng, sẽ được xử bằng công lý, có cái lý của công bằng, có cái luận của công luật, có cái quyết của công pháp, nơi đây pháp luật thực thi cái luật, có cái nền của công tâm. Tội phạm, khi bị lên cán cân, một bên là đạo lý (hay, đẹp, tốt, lành) và một bên là luật pháp (công bằng, công lý, công pháp, công tâm), thì nguyên nhân, động cơ, hành động, hậu quả của tội ác, tội trạng, tội phạm sẽ vạch mặt, chỉ tên tội nhân. Tội nhân, bị vạch trần lý lịch qua bằng chứng của tội ác, qua tang chứng của tội trạng, qua minh chứng của tội phạm, nên luật pháp có đầy đủ luận chứng để luận tội và kết tội thủ phạm của tội ác ; dù đó là một đảng, một chính quyền, một chính phủ, một bọn tham quan, một tập đoàn tội phạm, một nhóm sát nhân… dù chúng có sự hỗ trợ của một cường đảng như Tàu tặc, Tàu phỉ hiện nay.
Định vị phương pháp luận của tội phạm học vận dụng phương pháp kết nối nghiên cứu với điều tra, khai thác phương pháp để kết hợp khảo sát với điền dã, lý luận trên phương pháp để lập luận cùng phân tích, diễn luận qua phương pháp để giải luận song hành cùng giải thích. Định vị phương pháp luận của tội phạm học dựa vào nội lực đã có trong các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn, nhưng tội phạm học mang tính đặc thù nghiên cứu về sự thật luôn bị giấu diếm, mang tính đặc điểm điều tra về chân lý luôn bị phủ lập, mang đặc tính khảo sát về lẽ phải luôn bị ám sát cùng nạn nhân ngay trong tội ác. Nên phương pháp luận của tội phạm học phải có các định vị đặc sắc sau.
Khoa học nhân văn, từ văn học tới triết học, cho tới ngôn ngữ học có cơ sở là văn bản từ dữ kiện tới chứng từ, từ phân tích tới giải thích, văn bản làm nền cho diễn luận và giải luận. Nhưng tội phạm học phải đi xa hơn nữa trong cách thuyết phục dữ kiện để tạo tiền đề cho tang chứng, và chứng từ là thượng nguồn để nhận ra tang vật, từ đó thấy rõ tội ác để nhận diện tội nhân. Khoa học xã hội, từ xã hội học tới dân tộc học mà tên gọi mới là nhân học cho tới sử học, có nền cũng là văn bản, nhưng định vị qua điều tra thực địa, qua nghiên cứu thực tiễn, qua điền dã thực nghiệm tại chỗ, nơi mà "mắt thấy tai nghe" ngay "tại chỗ, tại nơi", "bây giờ và ở đây" làm rễ cho thực tế, làm gốc cho sự thực. Nhưng tội phạm học phải đi sâu hơn nữa trong cách diễn đạt các tội ác không nằm trên mặt nổi của xã hội, mà trong các mạch ngầm, bóng khuất, xó gian, luồn bẩn… luôn được giấu kín và được bảo kê bởi tà quyền.
Sử học, ghi nhận sự kiện, mô tả dữ kiện, giải bày sự cố, rồi xếp vào một trật tự của không gian, một thứ tự của thời gian, trong đó các diễn biến được phân tích và giải thích bằng chứng từ, làm nên luận cứ cho sử học. Nhưng tội phạm học phải đi rộng hơn nữa trong cách phân giải các sử kiện có liên quan tới quá trình thâm, độc, ác, hiểm của tội nhân luôn ép nghẹn, các tội trạng, luôn phủ lấp các tội phạm để thủ tiêu các tội ác của nó.
Văn học, biết ghi nhận sự kiện để sáng tác ra hành động của các nhân vật trong tiểu thuyết, biết mô tả dữ kiện để sáng tạo ra các cá thể với hành vi đặc thù để phong phú hóa các diễn biến, biết giải bày sự cố qua không gian và thời gian được tổ chức vừa theo thực trạng, vừa theo sức tưởng tượng của tác giả, qua văn xuôi hoặc qua thi ca. Nhưng tội phạm học phải khách quan bằng sự chính xác của tang chứng, qua minh chứng của tang vật, tại đây tội ác gây ra có tác động dây chuyền không những trên nạn nhân của nó, mà lan tỏa ra xã hội, thấm nhập vào giáo dục, làm hư úng đạo lý cộng đồng, luân lý tập thể, đạo đức tổ tiên.
Triết học, gầy dựng tư tưởng để lý luận trên các khái niệm, xây dựng ra kiến thức lý thuyết để lập luận các vấn đề của nhân sinh bằng diễn luận các qua trình tri thức của nhân trí để tìm tới sự thật. Nhưng tội phạm học phải tỉnh táo để cặn kẻ, từ đó tập hợp đầy đủ tang chứng, tang vật, qua biến cố mà hậu quả được thấy-biết-hiểu không những trong môi trường của nạn nhân qua hành động của tội nhân, mà ngay trên môi sinh của một dân tộc, của một quốc gia, từ đó xét nghiệm các hậu quả này trên toàn nhân loại.
Xã hội học, nghiên cứu về đời sống xã hội, điều tra về sinh hoạt xã hội, xét nghiệm các quan hệ xã hội, để tìm hiểu các mâu thuẫn, các xung đột, qua phân loại và phân tầng trong xã hội, cùng lúc cũng thấu hiểu các hợp tác giữa các cộng đồng qua tính đoàn kết hay qua quá trình bị tha hóa ; các sáng kiến của tập thể tự đòi hỏi tới đấu tranh ; các sáng tạo của cá nhân luôn củng cố quyền lợi xã hội của mình qua các công trình có lợi ích an sinh xã hội. Nhưng tội phạm học phải đào sâu hơn nữa quá trình liên đới giữa quyền lực-quyền lợi-tư lợi để nhận diện được cái ác có mặt không những qua quá trình bóc lột đồng loại để trục lợi, mà nó còn dựa dẫm lên bạo quyền để trộm, cắp, cướp, giật, nó còn biết đeo bám vào tà quyền để giết, loại, hủy, bỏ các cái hay, đẹp, tốt, lành của đạo đức xã hội, bằng tội ác để vơ vét, để đục khoét, để bỏ đầy túi tham tự lợi của nó.
Nhân học, nghiên cứu toàn bộ nhân sinh, khảo sát toàn diện nhân tình, điều tra toàn cõi nhân thế, để nhận diện nhân loại bằng chiều sâu để hiểu chiều cao, thấu đáo chiều rộng để biết chiều dài của nhân vị. Nhưng tội phạm học phải mang tính chính xác của phương pháp để có tính chuẩn xác trong phân tích và giải thích các bóng tối của nhân sinh nơi mà tội ác đang ẩn náu, các góc khuất của nhân thế nơi mà tội phạm đang luồn lách, các mạch ngầm của nhân tình nơi mà tội trạng không được phơi bày, nơi có các luồng vừa bẩn, vừa độc của tà quyền đang bao che cho tội nhân. Chúng đang giết, loại, thiêu, hủy đồng loại, đang bất chấp nhân tính được định vị qua không những qua nhân bản và nhân văn, mà còn qua nhân nghĩa và nhân từ.
Luật học, lấy công bằng để bảo vệ nhân sinh, dùng công luật để duy trì nhân thế, dụng công pháp để bảo trì nhân tính, đại diện cho công tâm để xử lý các vấn đề của nhân tình, phán quyết bằng hệ công (công bằng, công luật, công pháp, công tâm để lập nên công pháp) làm nên công luận để tuyên án tội phạm. Nhưng tội phạm học phải chuẩn bị sắc sảo nhất ngay trên thượng nguồn để giúp luật học, luật pháp tra, quyết, xét, xử tội ác với sự tỉnh táo của khách quan, với sự sáng suốt của liêm minh, nơi mà sự liêm chính của chứng từ được vạch ra bởi sự liêm khiết của mọi công dân trong một dân tộc có văn hiến, trong một quốc gia có văn minh đang là nạn nhân trực tiếp hoặc gián tiếp của tội ác, mà luật phải phải luận tội tới nơi, tới chốn, một cách nghiêm minh nhất.
Định chất lý thuyết luận của tội phạm học, nội chất của lý thuyết là biến đúc kết kiến thức thành mô hình qua công thức, khi kiến thức trở thành mô thức thì tri thức thành hình qua lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận của lý thuyết. Nên lý thuyết luận dùng lý thuyết mới để xét ghiệm lại lý thuyết cũ, tập hợp cả hai lý thuyết cũ và mới để lý thuyết luận có thể sử dụng lý thuyết để củng cố lý thuyết ; từ đó lý thuyết luận tận dụng lý thuyết để bổ sung cho lý thuyết. Tại đây, định chất lý thuyết luận của tội phạm học mang nội hàm của các thành quả đã đạt được trong tất cả các ngành khoa học xã hội nhân văn, và từ các thành quả này tội phạm học phải đủ lực, đủ tầm, đủ vóc, đủ dạng để có các sung lực cần thiết của mình qua các quá trình xây dựng lý thuyết, vừa có cơ sở, vừa có tiềm năng :
Cái ác gây ra tội ác, ngược lại với cái thiện, vì nó diệt không những nhân phẩm có trong nhân tính, nhân bản có trong nhân tri, nhân nghĩa, nhân từ có trong nhân văn và nhân vị ; mà nó còn giết, diệt, hủy, thiêu các điều kiện làm người bình thường nhất đã có trong nhân loại, nhân tình, nhân thế, nhân sinh. Cái ác gây ra tội ác, ngược lại với cái lành, vì chính cái lành làm nền cho hệ tự (tự do, tự chủ, tự quyết, tự trọng), có trong quan hệ giữa người, tạo nên sự sống chung trong đời sống xã hội, sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội.
Chính từ cái lành này, mọi người có cùng một quá trình tư duy tự làm người biết sống chung qua sự tôn trọng lẫn nhau để tiến tới chuyện làm người biết làm việc chung, biết chia sẻ với nhau trong điều kiện làm người vì cái lành. Cái ác gây ra tội ác, ngược lại với cái tốt, vì chính cái tốt chế tác ra nên hệ công (công ích, công lợi, công pháp, công luật để bảo vệ công bằng), trực diện để đối kháng lại với cái ác. Và, chính cái tốt nói rõ bổn phận với cộng đồng, trách nhiệm với tập thể của mỗi công dân, từ đó biến đoàn kết thành tương thân, tương trợ làm nền cho bản chất của cái tốt : bác ái ! Từ định chất này, cái tốt làm được bác ái, vì nó mang nội hàm của vị tha, khoan dung, rộng lượng để tới thẳng từ bi, mà nhân từ là kết quả tích cực của cái tốt biết làm nên nhân phẩm.
Cái ác gây ra tội ác, ngược lại với cái hay, không hề là chuyện của bẩm sinh, mà là chuyện của giáo dục, nó không trên trời rơi xuống mà là chuyện rèn luyện qua phẩm chất của giáo khoa, làm nên giá trị nhân tính qua giáo trình, chế tác ra chất lượng của nhân bản qua giáo án. Vì cái hay mang cái thiện, cái lành, cái tốt vào cuộc sống xã hội, qua đường đi nẻo về của nhân sinh quan hay của cá nhân, qua thế giới quan hay của một dân tộc, qua vũ trụ quan hay của một chính quyền. Và, nếu chính quyền này chỉ là bạo quyền, hoặc tà quyền thì không thể cấy, cày, tưới, tẩm được cái hay để chống lại cái ác.
Cái ác gây ra tội ác, ngược lại với cái đẹp, tới từ ý muốn của nhân phẩm, ý định của nhân ái, ý lực của nhân lý, nơi mà con người biết đứng dậy và đi tới để đi xa hơn trách nhiệm cá nhân và bổn phận công dân, để tới phương án mà cũng là phương trình của cái đẹp : tự do luôn song hành cùng nhân phẩm, cả hai không để cái ác lộng hành, rồi biến tự do lẫn nhân phẩm là nạn nhân của nó. Đứng dậy, đi tới để lấy, cầm, giữ, nắm hệ tự (tự do, tự chủ, tự quyết, tự trọng), để bảo vệ tự do lẫn nhân phẩm, phải được xem như ngang hàng, lắm lúc còn cao hơn cả hạnh phúc của một cá thể, cao hơn cả sự bình yên của một tập thể : cái đẹp vì nó đẹp ở trên cao (cao hơn cả trời), ngay trong tư duy của con người tự do biết yêu người, của con người tự trọng biết yêu cuộc sống.
Cái ác gây ra tội ác, ngược lại với chủ thể chính là cá thể có cá tính luôn biết đòi hỏi công bằng qua công lý, luôn thấu hiểu tự do để có tự chủ, chủ thể tôn trọng bổn phận và trách nhiệm, nhưng chủ thể muốn làm công dân trong ý nghĩa toàn vẹn nhất, với giá trị phổ quát nhất : chủ thể của tự do hành động vì công lý. Cá tính của chủ thể trong sáng tạo biết song hành, biết chung lưng đấu cật với cái lành, cái tốt, cái hay, cái đẹp để sáng tạo của chủ thể phải là tác phẩm của cái thiện, hoàn toàn mâu thuẫn với cái ác.
Cái ác gây ra tội ác, ngược lại với cái nhân, vì trong cái nhân có sự thương yêu biết hiến dâng lòng bác ái, có thiện chí biết hiến tặng thiện tâm ; trong khi đó cái ác không những gây nên nỗi khổ, niềm đau cho nạn nhân của nó, mà còn truy, hủy, giết, diệt nhân phẩm của nạn nhân này. Cái ác không phải chỉ là lỗi, mà chính là tội : tội ác đã giết thân xác, diệt cuộc sống, hủy nhân cách của nạn nhân, bằng bạo lực của bạo quyền, bằng bạo hành của tà quyền, nó mang bản chất của bạo động, hoàn toàn ngược lại với phẩm chất bất bạo động của hệ nhân (nhân từ, nhân nghĩa, nhân bản, nhân văn).
Cái ác gây ra tội ác, ngược lại với cái sinh, chính là sự sống đang bị cái ác gây thương tích, tạo thương tật, gây ra thương xót trong xã hội, quần chúng, chính cái ác báo hiệu cái chết đang tới, nó báo động cái sinh trong sự sống đang bị đe dọa bởi bạo lực, được bảo kê bởi bạo quyền, được hà hơi tiếp sức bởi tà quyền, bất chấp công tâm và công lý. Muốn chống lại cái ác, thì sự hiểu biết về công bằng và công lý không đủ, sự thấu đáo về tự do, tự chủ không đủ, mà phải vận động tư duy qua hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) trên hệ nhân (nhân phẩm, nhân từ, nhân nghĩa, nhân bản, nhân văn). Cả hai hệ (luận và nhân) này, phải đủ hùng lực để chế tác ra hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng tạo) biết bảo vệ cái sinh trong nhân thế, bảo hành sự sống cho nhân sinh.
Lê Hữu Khóa
(26/08/2020)
---------------------
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.
Tạo lý – Tạo luận
Tạo luận được xây dựng trên hành trình của học thuật từ 1980 tới 2020, một chặng đường với hơn 60 điều tra thực địa của hai chuyên ngành nhân học và xã hội học, được song hành với các chuyên ngành chủ lực khác : sử học, triết học, văn học, kinh tế học, chính trị học, ngôn ngữ học…
Tạo luận đi từ điều tra thực địa để nghiệm, soát, kiểm, tra ba khu vực trung tâm của khoa học xã hội và nhân văn : khoa học luận, phương pháp luận, lý thuyết luận, đi từ hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) cho tới hệ sáng (sáng kiến ý, sáng tác lý, sáng tạo luận).
Tạo luận dựa hai hệ (luận và sáng) được vận dụng trong nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã của khoa học xã hội và nhân văn. Tạo luận mang cấu trúc của tư tưởng ngay trong hiện cảnh của Việt Nam. Nơi đây mọi tin tức, dữ kiện, chứng từ cùng chứng tích và chứng nhân đều tới từ xã hội hiện nay của Việt Nam dưới sự quản lý và sự phá sản của hệ thống độc đảng toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam.
Tạo luận là nơi thể nghiệm để xét nghiệm những lý thuyết, luận thuyết, chủ thuyết của khoa học xã hội và nhân văn, tất cả đều phải được "thí nghiệm" để được minh chứng và xác chứng trong bối cảnh, hoàn cảnh, hiện cảnh, thực cảnh của Việt Nam.
Tạo luận được dẫn dắt bằng liên đới luận trong đề nghị nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã với sự liên kết nhiều chuyên khoa để tạo nên những phân tích biết bổ sung cho nhau, những giải thích biết hỗ trợ cho nhau, những giải luận biết củng cố cho nhau từ lý luận để lập luận, tự giải luận đến diễn luận.
Tạo luận không ngừng lại để bị đóng khung trong hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) mà phải đi xa hơn vì được đưa đường dẫn lối bằng hệ sáng (sáng kiến ý, sáng tác lý, sáng tạo luận). Nơi đây quy trình sáng tạo trong học thuật được xét nghiệm như quá trình sáng tạo trong nghệ thuật, nhưng với đặc tính chỉnh lý trong phân tích, hợp lý trong giải thích và toàn lý trong nhận định, tất cả phải luôn dựa trên các kết quả của nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã.
Lý luận
Lý luận là công đoạn hiểu đường đi nước bước của nghiên cứu, để thấy đường đi nẻo về của học thuật ; lý luận là nơi sử dụng phân tích để đi tới giải thích một cách chỉnh lý, lý luận là chốn mà nhận định hợp lý sẽ tham dự tích cực vào tính toàn lý cho nhận thức.
Chức năng luận
là phương pháp tương đối phổ thông trong khoa học xã hội và nhân văn, đề nghị nghiên cứu về tổ chức qua chuyên môn của chức năng, để khảo sát các quyết định trong hành chính, từ đó tổ chức sự vận hành của cơ chế, cùng lúc nghiên cứu luôn các khủng hoảng có thể xẩy ra không những trong cơ chế mà còn lan tỏa ra xã hội. Chức năng luận chuẩn đoán những khủng hoảng qua định nghĩa để định vị chức năng, tại đây lý luận mọi tổ chức là một tập hợp của các chức năng khác nhau được xếp theo hàng dọc rồi hàng ngang, để giới hạn các tự do của cá nhân, và cá nhân chỉ được đánh giá qua chức năng.
Chức năng luận chỉ thấy mỗi cá nhân là một con số, không có cá tính, chỉ có chức năng, chỉ là một phần tử trong một tập hợp chính là guồng máy, mà từ sáng kiến tới sáng tạo cá nhân không được tôn vinh, từ đó nó duy lý hóa một cách máy móc mọi quan hệ xã hội, mọi sinh hoạt xã hội, mọi đời sống xã hội. Nó lý luận cạn tàu ráo máng là mọi chức năng, mọi phần tử đều có thể thay thế được, như người ta thay thế cầu chì, bóng đèn là điện cứ phát điện, nên khi áp dụng vào nhân sinh, thì nó càng ráo máng cạn tàu hơn, vì nó luôn có ý đồ vắt chanh bỏ vỏ ! Đây là cách đối nhân xử thế giữa những người cộng sản, mà lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam rất nhẫn tâm trong vô cảm khi họ tha nh trừng nhau.
Tất cả các đảng cộng sản trên thế giới này điều bị vướng vào tội ác này, không những thanh trừng nhau mà họ còn tàn sát dân lành, họ diệt chủng luôn chính dân tộc họ, đó là trường hợp của bọn diệt chủng Khmer đỏ. Nên khi định lượng về các cuộc thảm sát do các lãnh đạo các đảng cộng sản trên thế giới, từ khi có chế độ độc đảng-toàn trị tại Liên Xô 1917, thì con số nạn nhận đã vượt lên hơn một trăm triệu người, gấp nhiều lần tội ác của bọn Đức quốc xã trong đệ nhị thế chiến.
Chức năng luận thật là con dao hai lưỡi, khi nó được dùng để tổ chức các nhà máy trong giai đoạn xây dựng công nghệ cơ khí và sản xuất xe hơi, thì nó làm ra bao của cải cho các nước phương Tây, nhất là Mỹ ; nhưng khi nó bị các lãnh đạo các đảng cộng sản trên thế giới vo tròn bóp méo nó, thì hậu quả của nó thật tán tận lương tâm !
Cấu trúc luận
tìm cách đi ngược lại với chức năng luận, nếu chức năng luận lý luận là mọi chức năng, mọi phần tử, mọi bộ phận đều có thể thay thế được, hư thì vất đi, thế bằng cái mới thì nguồn máy sẽ hoạt động trở lại ; đây là bản chất máy móc trong quan hệ giữa phần tử và tổng thể. Cấu trúc luận thì lý luận ngược lại là quan hệ xã hội, sinh hoạt xã hội, đời sống xã hội là những tổng thể sống như cơ thể của con người, phần tử này tùy thuộc phân tử kia, bộ phận này lệ thuộc vào bộ phận kia, nên chức năng này được định nghĩa và định vị bởi chức năng kia, làm nên quan hệ sống còn của nguồn máy, của tổ chức, của cơ chế. Cụ thể là khi tim ngừng đập, thì các nội tạng khác sẽ ngừng theo, và thân thể sẽ chết, chính tính lệ thuộc lẫn nhau này làm nên quan hệ tùy thuộc nơi mà một tổ chức là tập hợp những phần tử, phần tử này sống nhờ phần tử kia.
Quan hệ sinh tử này được ứng dụng trong dân tộc học mà tên gọi hiện nay là nhân học để giải thích quan hệ huyết thống tự gia tộc tới thống tộc, theo hàng dọc tự tổ tiên tới con cái, cháu chắt, làm nên quan hệ sống còn trong trật tự gia đình. Cấu trúc luận không ngừng ở dân tộc học, xã hội học… mà còn đi sâu vào ngôn ngữ học, khi nó giải thích trong một câu luôn luôn có : chủ từ, động từ, túc từ, chỉ cần một trong ba phần tử này mất đi, thì ngôn ngữ sẽ không sử dụng được, sẽ đưa đối thoại, trao đổi, truyền thông đi vào ngõ cụt, tức là không ai hiểu ai hết ! Cấu trúc luận xếp cá nhân vào trật tự sống còn của tập thể, nên nó tổ chức luôn nhân sinh quan, thế giới quan, vũ trụ quan của cá nhân.
Tại đây, cấu trúc luận đã bị các đảng cộng sản lạm dụng để lập ra một cơ chế xã hội toàn trị, nơi mà độc tài qua độc đảng nắm toàn bộ bộ máy tuyên truyền để đánh lận con đen về các sự thật của nhân sinh, các chân lý của nhân tính, các lẽ phải của nhân tâm, để chế tác ra các quái thai chống nhân lý và nhân tri : "dân chủ thì phải tập trung" ; "dân làm chủ nhưng đảng lãnh đạo" ; "đất đai là sở hữu của toàn dân nhưng do nhà nước quản lý và đảng chỉ đạo" [1].
Đây không phải là cấu trúc luận khoa học mà là kiến trúc luận lưu manh ! Nơi mà duy vật hiểu theo nghĩa tồi tệ nhất để trở thành tội lỗi nhất, kiến trúc lưu manh với lý luận côn đồ xuất đầu lộ diện để truy diệt duy lý theo nghĩa nhân lý nhất ; và duy tâm theo nghĩa nhân tâm nhất [2].
Văn hóa luận
nơi mà văn hóa là kiến thức của cộng đồng, tri thức của tập thể, tại đây văn hóa luận phân tích và giải thích văn hóa như một hệ thống trật tự để tổ chức các phong tục tập quán, thói quen… như văn hóa đã tổ chức các kinh nghiệm, các kiến thức, các vốn liếng của tổ tiên để làm nên đạo lý cho cộng đồng và ý thức cho tập thể. Văn hóa luận tôn trọng để tôn vinh truyền thống, từ thờ cúng tới lễ hội… nơi mà các giá trị văn hóa chính là các giá trị tâm linh với ý nghĩa của đạo lý, với nội dung của luân lý.
Chính văn hóa xếp đặt các hành vi của cá nhân được lập lại theo truyền thống, nó xếp đặt luôn các lề thói về cưới hỏi, kinh tế, trao đổi… Văn hóa luận còn đi xa hơn nữa khi nó tổ chức các sinh hoạt ưu tiên : ngôn ngữ trong truyền thông, tư tưởng trong xã hội, ý thức trong hành động, nên văn hóa vừa có mặt trong quản lý xã hội, vừa có mặt trong môi trường giáo dục của một cộng đồng của một dân tộc.
Chính văn hóa làm nên cho ý thức tập thể ; văn hóa biết biến cái tối đa của kiến thức thành cái tối đa của ý thức, để tạo nên sự đồng cảm giữa các thành viên có chung một văn hóa. Khi các đảng cộng sản muốn cướp chính quyền, để sau đó áp đặt độc đảng qua độc trị, độc tài, độc quyền, độc tôn, thì các lãnh đạo cộng sản luôn tìm cách tấn công văn hóa, truy diệt truyền thống của đạo lý hay, đẹp, tốt, lành của một dân tộc, giúp dân tộc đó sống có bổn phận với giống nòi, và sống có trách nhiệm với đất nước.
Mao đã giật dây dân tộc của hắn để làm Cách mạng văn hóa, chính là để hủy diệt văn hóa truyền thống. Và tên tội đồ này đã thí mạng bao triệu nạn nhân trong cuộc thảm sát này, mà nó không hề là một cuộc cách mạng văn hóa, mà thực chất là hủy diệt truyền thống văn hóa. Rồi Đảng cộng sản Việt Nam nối gót theo Đảng cộng sản Trung Quốc để làm Cải cách ruộng đất, vừa để thảm sát hàng trăm ngàn sinh linh bị vu cáo rồi vu khống là các thành phần địa chủ. Đây không hề là một cải cách mà là cuộc truy cùng diệt tận quan hệ làng nước trong quan hệ láng giềng cao đẹp trong văn hóa truyền thống Việt : bán bà con xa, mua láng giềng gần.
Chủ động luận
đề nghị nghiên cứu thật sâu vào tính đa nguyên tạo ra đa tài, đa lực, đa trí, đa hiệu, đa năng, không những làm nền cho dân chủ, mà cũng là nội lực của tập thể, của cộng đồng, của dân tộc để hiểu tính chủ động thường trực trước mọi đổi thay xã hội, biến hóa thời cuộc, tiến bộ khoa học kỹ thuật… Chủ động luận đề nghị xem cạnh tranh trong thương mại, kinh tế là hằng số của nhân sinh, có cạnh tranh mới có tiến bộ ; cùng lúc chấp nhận tranh đua trong khoa học kỹ thuật như là một thực thể thường nhật của nhân sinh, vì có tranh đua mới có hiện đại hóa. Chủ động luận luôn đặt ra các câu hỏi để đánh giá lại các quyết đoán được rà soát lại bởi quá trình đề nghị-đối thoại-quyết định-hành động. Đây chính là sung lực của đa nguyên, làm nên quá trình đối thoại-đối trọng-đối lực-đối kháng bằng phản biện để phản luận, làm hùng lực cho dân chủ đưa xã hội thăng tiến, đưa dân tộc thăng hoa.
Chính hai quá trình này : đề nghị-đối thoại-quyết định-hành động trong đa nguyên để khơi dậy đa lực, đa tài, đa trí, đa năng, đa hiệu, tạo sinh lực cho đối thoại-đối trọng-đối lực-đối kháng, từ đó lấy cái đúng thuyết phục được cái sai, vì cái đa luôn khôn ngoan hơn cái độc, và khi dân chủ cô lập được độc tài, khi đa nguyên vô hiệu hóa được độc đảng, thì cái độc hại của độc trị sẽ không vận dụng được cái ác để gây ra tội ác. Không nên trông chờ hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn) chấp nhận chia lợi, chia quyền, cụ thể là chung-chia với hệ đa (đa nguyên, đa lực, đa tài, đa trí, đa năng, đa hiệu). Vì chung để chia, thì hệ độc sẽ mất hệ đặc (đặc quyền, đặc lợi, đặc ân) [3] của nó !
Chỉnh lý luận
bắt đầu bằng đề nghị tìm hiểu để giải thích tính duy lý khi con người đặt quyền lợi của mình trên quyền lợi của người khác, cụ thể là cá nhân chỉ thấy tư lợi của mình, nếu duy lý như vậy thì tự lợi của người này có thể gây nên thiệt hại cho người kia, thì đây chỉ là loại ích kỷ thô thiển. Nên từ đây, chỉnh lý luận phân tích các thỏa thuận giữa các duy lý khác nhau, đang xung đột nhau để tìm ra tính hợp lý được tập thể, cộng đồng, xã hội công nhận, từ đó định nghĩa lại quyền lợi của cá nhân, vẫn giữ tư lợi nhưng phải biết là tư lợi không được gây hậu quả xấu tới tha nhân. Khi có được thỏa hiệp về quyền lợi cá nhân làm nên tư lợi cho mọi cá thể, thì tính toàn lý sẽ xuất hiện để bảo đảm tự do cá nhân được có mặt và được tăng tư lợi trong cuộc sống ; mà không quên công bằng xã hội giữa các cá nhân, các tập thể, nơi mà công bằng luôn có chỗ dựa là công lý [4].
Chính tự do cá nhân và công bằng xã hội cho phép bác ái ra đời trong đoàn kết và tương trợ, qua các cơ chế xã hội có mặt tự do cạnh tranh, nhưng cũng có mặt các hội đoàn từ thiện, các chủ thể thiện nguyện, các tổ chức nhân đạo… Nên phương trình tự do-công bằng-bác ái tưởng là mâu thuẫn nhau, nhưng thực sự hỗ trợ cho nhau trong quan hệ hỗ tương chung-chia để chung-sống. Khi duy lý đã được điều chế bởi quá trình chỉnh lý-hợp lý-toàn lý thì duy lý sẽ rộng mở và sẽ rời duy lợi vì tư lợi để nhập nội vào quy trình chung để chia và chia để chung với tha nhân, với đồng loại, trên nguyên tắc của cộng hòa vì công ích xã hội qua phương trình tự do-công bằng-bác ái của dân chủ.
Đây là chuyện mà một chế độ độc tài-toàn trị không bao giờ làm được, vì tự do dẫn tới đa nguyên, công bằng dẫn tới dân chủ, và bác ái dẫn tới nhân quyền, một quá trình của nhân trí phục vụ nhân vị, nhân tri phục vụ nhân tính, nhân lý phục vụ nhân tâm. Một chế độ độc tài-toàn trị không bao giờ muốn có tự do-công bằng-bác ái để phải công nhận đa nguyên-dân chủ-nhân quyền. Vì vậy các chế độ độc đảng-toàn trị luôn luôn đi về hướng : bất nhân !
Cá nhân luận
không phải là cá nhân chủ nghĩa sẽ dẫn tới ích kỷ chủ nghĩa, mà cá nhân luận đưa ra định đề là mỗi cá nhân là một đơn vị tính toán của thống kê, là đối tượng của điều tra, khảo sát, nghiên cứu về một sắc tộc trong dân tộc học, về một xã hội trong xã hội học, về một đơn vị lao động trong kinh tế học… [5] Nên cá nhân là căn bản của mọi phân tích, nguyên tắc của mọi giải thích, và Weber đã cho ra đời cá nhân phương pháp luận (individualisme méthodologique) để đi sâu vào các dữ kiện xã hội, trong đó có các nguyên tắc tổ chức của tập thể, của cộng đồng, và sâu hơn nữa là các giá trị luân lý được đại diện bởi chính các cá nhân, thay mặt cho thân tộc, thống tộc, dân tộc của mình. Cá nhân luận là nơi nhận diện các trách nhiệm cá nhân trong chọn lựa cũng như trong quyết định trước khi hành động. Chính Tocqueville đã thấy được cá nhân luận là tiền đề của xã hội dân chủ, vì nó biết chống lại các thái độ độc tài, các hành vi độc đoán, các hành động độc tôn. Cách hành xử cả vú lấp miệng em không có chỗ đứng, ghế ngồi trong cá nhân luận, cho nên các chế độ độc đảng-toàn trị đứng ngồi không yên rồi mất ăn mất ngủ với cá nhân luận. Vì nó biết cổ súy tính đa nguyên của các cá nhân, vì nó biết cổ vũ tính sáng tạo qua sáng kiến trong phương pháp giải quyết của cá nhân luận để chống lại các quy luật độc trị được độc tài phổ biến qua tuyên truyền.
Cá nhân luận còn đi xa hơn khi nó phân tích quá trình thành lập các phong trào xã hội, tới từ các công đoàn tôn vinh dân chủ, các nghiệp đoàn tôn trọng nhân quyền để tạo ra các so sánh lực lượng mới, làm tiền đề cho cải cách thực sự đưa dân tộc thăng hoa. Cá nhân luận định nghĩa cá nhân không chỉ là một cá thể mà là một chủ thể có sáng kiến để có sáng tạo làm nên lực đẩy, dàn phóng cho chuyện thay đời đổi kiếp theo hướng tích cực. Cá nhân luận làm ra chủ thể có ý thức, không bao giờ vô cảm trước bổn phận với dân tộc, không bao giờ vô tâm trước trách nhiệm với đất nước.
Cá nhân luận xây dựng chủ thể có lương tâm với với đồng bào, sống lương thiện với xã hội, luôn giữ lương tri với tiền đồ dân tộc. Và trong bối cảnh của Việt nam hiện nay, các chủ thể chính thống lại là các tù nhân lương tâm, đang trong vòng lao lý, vì quả cảm đấu tranh cho nhân quyền và dân chủ, họ đang bị hành hạ, đày đọa bởi bạo quyền. Chính các tù nhân lương tâm này đã và đang đại diện cho hệ lương (lương tâm, lương thiện, lương tri) cho Việt tộc ! Cá nhân luận là một trong những gốc, rễ, cội, nguồn để thay, để tháo, để gỡ, để xóa độc đảng-toàn trị đang sâu dân mọt nước qua hệ tham (tham quan, tham ô, tham quyền, tham quan, tham tiền), đang bòn rút của cải dân tộc, đang tiêu hủy tài nguyên đất nước.
Tri thức luận
rời bỏ để dứt khoát với mọi phương pháp dựa trên siêu hình học (linh hồn, thiên đàng, địa ngục…) để lập lại quá trình xây dựng ý thức chỉ bằng kiến thức thí nghiệm được, tri thức kiểm chứng được. Tri thức luận thẳng thắn chấm dứt với mê tín, dị đoan, và đã chọn khoa học não bộ và khoa học thần kinh làm tiền đề và thượng nguồn để khám phá quá trình xây dựng tri thức của con người biết chế tác ra niềm tin dựa trên đạo lý hay, đẹp, tốt, lành, có đạo đức của chân, hiện, mỹ, có luân lý của bổn phận và trách nhiệm của mọi cá thể muốn sống đúng và sống chung cùng một xã hội với tha nhân.
Hai trường phái chính của não bộ học vừa đối lập nhau, vừa bổ sung cho nhau trong qua trình giãi thích các sinh hoạt của não bộ : trường phái duy vật mang định đề chỉ có bộ óc là nơi quyết định tất cả mọi việc ; và trường phái môi trường thì tạo định luận qua bối cảnh của môi trường xã hội sẽ tác động trực tiếp lên năng lực của não bộ, cụ thể là não bộ thay đổi và chuyển hóa theo môi trường.
Trong nghiên cứu về tâm lý học tri thức thì Jame nhận định vai trò của bộ óc là để bảo đảm thăng bằng bền vững cho cá nhân ; và Watson đã đi sâu thêm khi giải thích bộ óc mang sung lực tổ chức hóa mọi hành động của cá nhân. Trong các công trình về não bộ học thì Churchland đưa ra các phân tích về bộ óc là nơi có khả năng diễn luận kinh nghiệm của cuộc sống, từ đó biến thành ý thức để xây dựng ra các hành động cho tương lai, lý luận này được tiếp nối bởi các công trình của Edelman nhận định bộ óc như một hệ thống biết tự tổ chức, nơi mà ý thức làm tiền đề tạo dựng lên các cơ sở lý giãi để phân loại và so sánh các sự kiện. Chính não bộ học [6] thăng tiến liên tục với những khám phá mới về các khu vực sinh hoạt của nảo đã cũng cố vai trò giãi luận của tri thức luận, hiện có chỗ đứng trung tâm trong hầu hết các chuyên ngành của khoa học xã hội nhân văn.
Trong tình hình của xã hội Việt Nam dưới bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền thì tri thức luận là nguồn nước ngầm sẽ trở thành sóng thần trong tương lai để giúp mọi công dân của Việt tộc thay đổi não trạng sau bao năm làm nạn nhân của bộ máy tuyên truyền ngu dân trong mê lộ của dối trá, gian manh, lừa đảo [7]. Tri thức luận đủ nội lực để xóa đi nguồn máy độc tài nhưng bất tài trong việc bảo vệ đất nước, đủ sung lực để loại bỏ bộ máy độc trị nhưng không biết quản trị để đưa dân tộc vào tiến bộ và văn minh.
Tri thức luận biết phối hợp với tất cả các nghành khoa học xã hội nhân văn để giúp dân chủ trong đa nguyên lột mặt nạ bọn tổ chức học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả, cùng lúc lột trần quá trình mua điểm-bán bằng trong tà lộ của mua chức chức-bán quyền, để vạch mặt chỉ tên bọn sâu dân mọt nước đang lẩn lút như âm binh trong ma lộ của buôn dân-bán nước cho Tàu tặc. Vì tri thức luận biết quản lý sự thật-chân lý-lẽ phải bằng hệ thức, nơi mà kiến thức là sung lực của tri thức, ý thức là hùng lực của nhận thức0
Trực quan luận
Merleau-Ponty là một trong vài triết gia cột trụ đã vừa vinh danh đứng đắn, vừa thăng hoa chỉnh chu hiện tượng luận trong thế kỷ XX, hiện tượng luận có nhiều lối vào và lối ra, chủ yếu có hai lối chính : hiện tượng luận lý trí và hiện tượng luận trực quan, ông chọn loại thứ nhì. Nơi mà cái thấy mở màn cho cái hiểu, cái hiểu sẽ đưa ta tới cái nghiệm, nếu cái nghiệm hoàn chỉnh thì cái thức sẽ tới, thức tới thì một loạt chuyện nhân trí sẽ được thông : kiến thức đủ nội lực sẽ thành tri thức, khi tri thức đủ nội công sẽ thành ý thức, nơi mà nhân trí (rất thức) để mời đạo lý hay, đẹp, tốt, lành vào sống chung với nhân tri nhân tình, nhân sinh... Đây là câu chuyện lõi kiếp thông kiếp, qua thức để kiếp sau luôn mở rộng, dang rộng, đào sâu, bước dài hơn kiếp trước trên con đường nhân phẩm.
Merleau-Ponty không đóng cửa, cấm cung để chăm lo cho lý thuyết, ông đi nhiều nơi, tới nhiều lục địa, nhất là những nơi mà trong quá khứ, qua lịch sử có kể là chốn này, nơi đây con người đã làm khổ con người. Có bận, ông lang thang tận bên Phi châu, rồi đi lạc vào một nơi không quen ai, không biết nói tiếng địa phương, ông hoàn toàn rơi vào ngõ cụt, thì có một người đàn bà Phi châu đi ngang ông, thấy ông da trắng, bà ngạc nhiên vì hình như đây là lần đầu bà thấy một màu da trắng, ngược với màu da quen thuộc của bà. Chuyện làm ta ngạc nhiên trên đời thường là chuyện ta thấy "ngược đời" đối với thói quen trực quan hằng ngày của ta (mình da đen, sao ông này da trắng ?) ; nhưng cũng từ trực quan ông khám phá một điều rất lạ cho hiện tượng luận trực quan của ông, là trong chớp mắt người đàn bà Phi châu này từ ngạc nhiên thoắt qua tươi cười và chào ông rất tử tế. Ai cũng có thể thấy và sống cảnh này, nhưng người đời hay đặt tên sai đó là chào vì lịch sự, chào cho đúng phép tắc …
Riêng ông đặt tên cho thái độ từ ngạc nhiên thoắt qua chào hỏi là l’intelligence immédiate (sự thông minh tức thời), mà chính thông minh này là chất keo sơn của nhân loại chưa bao giờ thấy nhau, chưa bao giờ sống chung với nhau nhưng có cùng một nhân tính. Đây không phải là chuyện "trước lạ sau quen", nó sâu hơn nhiều, nó là "còn lạ mà đã quen", vì còn ngạc nhiên mà đã muốn thân quen, thân mến, thân thiện… muốn thành người thân trong khi cái lạ còn rành rành trước mắt, cái lạ không phải là cái kỳ quái, nên nó không còn là rào cản, kẽm gai, ngăn lòng, chắn cảm. Merleau-Ponty thấy trong trực quan có nhân thông nhân, để kiếp thông kiếp.
Hiện tượng luận trực quan của ông còn đi những bước thật là kỳ lạ trong triết học nói riêng, và trong học thuật nói chung, nhất là trong thế kỷ qua con người từ quý phục qua quy phục khoa học, trước đây không có khoa học thì con người tin chỉ có thượng đế mới cứu mình được. Từ khi khoa học chữa hết bịnh này tới bịnh khác, lại có thuốc bổ cho ta ăn no, ngủ yên, lại đủ khôn làm ta tăng tuổi thọ, quý phục-quy phục là phải, nếu cần thì quỳ phục-khuất phục luôn.
Nhưng Merleau-Ponty thì khuyên ta ngược lại, để trở về với cảm nhận, cảm thông, cảm phục với thế giới, với vũ trụ mà ta đang sống, trong khi khoa học cân, đo, đong, đếm thế giới, vũ trụ xong là bỏ đi mà không sống với thế giới, với vũ trụ bằng tình cảm như văn học, như nghệ thuật, thí dụ như nghệ thuật tạo hình, họa sĩ vẽ tranh và sống trong tranh, sống với tranh, sống vì tranh… không bỏ đi đâu hết. Mà muốn sống trong-sống với-sống vì thì phải sống bằng tình cảm : cảm thật sự, yêu thật lòng, thương cho hết kiếp !
Tha nhân luận
Lévinas không nghiền ngẫm triết học bằng lý thuyết, mà ông nhận diện các chủ đề triết học và tư tưởng qua quan hệ giữa người và người trong sinh hoạt cụ thể của xã hội, từ đó nhận diện ra một chuyện thật là trong kiếp người khi ta sinh ra, ta thường không ngạc nhiên khi khám phá vũ trụ mà tự ngạc nhiên nhất khi ta khám phá tha nhân.
Tha nhân là kẻ khác đang đối diện với ta, và chỉ qua khuôn mặt của tha nhân ta khám phá từ nhân sinh tới nhân tính, tự nhân tâm tới nhân nghĩa, từ nhân tri tới nhân phẩm. Chỉ có khuôn mặt của tha nhân ta cũng khám phá luôn từ niềm vui tới nỗi khổ trong nhân thế. Khuôn mặt của tha nhân không phải là chuyện lý thuyết của triết học, mà nó nói lên nội tâm của mỗi chúng ta. Lévinas viết : "la crainte qui me vient du visage d’autrui" (nỗi lo tới từ khuôn mặt của tha nhân).
Như vậy, ta sẽ thấy kiếp của ta trên khuôn mặt của tha nhân, những kẻ sống quanh ta, sống chung với ta trong cùng điều kiện làm người với ta, vừa tổng thể nhất, vừa vô biên nhất. Rồi thầy lập ra hai chủ thuyết vừa lạ lùng, luôn kình chống nhau : tổng thể (totalité) và vô biên (infini). Chúng ta cứ tưởng chúng ta sống trong một tổng thể đã được xã hội xếp đặt và xếp gọn, đã được lịch sử xếp lớp và xếp hạng, trong kiếp này hay trong kiếp khác, chính vì hiểu sai như vậy nên chủ nghĩa toàn trị (totalitarisme) mới có cơ ngơi phát triển, mới đưa kiếp ta vào khung, vào rọ, vào hầm, vào chiến tuyến, vào địa đạo, vào tù rạc. Vô biên (infini) thì ngược lại, không lãnh thổ, nên không biên giới, đó chính là tự do của chúng ta, một tự do đầy bí mật, giúp ta khám phá ra công bằng rồi bác ái, đưa ta từ nhân quyền qua dân chủ.
Vừa bí mật, lại vừa biến hóa không lường, nên tự do không những biết cải cách mà còn biết làm cách mạng, nó muôn hình vạn trạng, nếu muốn biết sung lực vô biên của nó tới cỡ nào hãy xem sức lực vô tận của nó từ khoa học qua nghệ thuật, từ văn hóa qua tâm linh, từ tình yêu tới tình thương… Vậy nếu ai dụ dỗ mình vào một tổng thể rối sau đó khen mình hội nhập giỏi : hãy cẩn trọng ! Coi chừng bị vô khung, rồi vô khuôn, sau đó vô tù, một nhà tù vô hình. Nếu ai không quen biết mình mà công nhận quyền vô biên của mình rồi sau đó khuyên mình biến tự do vô biên thành bổn phận, tự chủ vô tận thành trách nhiệm, có khi ta phải cảm ơn người đó.
Tại sao lạ vậy ? Nếu vỡ lẽ ra bổn phận, trách nhiệm có thể thành khung, thành khuôn, khuôn nhà tù thì sao ? Thầy lại luyện trong lò rèn lý luận của thầy ra một lập luận mới về trách nhiệm, và thầy lý giải là có hai loại trách nhiệm, loại đầu tiên dễ hiểu nên dễ làm là có trách nhiệm với bản thân, với cuộc đời tức là với số kiếp của riêng mình.
Loại thứ hai khó hơn là có trách nhiệm với tha nhân, tức là với người dưng nước lã, đây mới khó, đây mới là nhân tính, đây mới là lấy kiếp nhân kiếp. Cụ thể là lấy một kiếp tốt của mình để nhân lên, nhân ra bao kiếp lành khác, thầy giải thích ta có thể quen rất nhiều người nhưng suốt đời ta không hiểu họ, vì ta không gần được họ, vậy muốn gần họ ta phải có trách nhiệm với họ. Khi nhận trách nhiệm là làm chuyện hay, đẹp, tốt, lành vì họ, thì họ sẽ gần ta nên ta rất dễ gần họ, đây là loại trách nhiệm thông minh nhất, có lúc thầy gọi chất trách nhiệm này trong nhân tính là chất thánh, đã làm nên bao ông thánh.
Thượng đế thì chưa ai thấy, nhưng các ông thầy tu, cố đạo, hy sinh cho đời, sống vì người, có khi "tử vì đạo" (đạo đây là nhân đạo của nhân tính, chứ không phải đạo giáo của tôn giáo). Họ trở thành các ông thánh, trong quá khứ chúng ta thấy họ, biết họ, họ đã sống gần ta, chia sẻ thử thách cùng thăng trầm với ta, ta biết họ qua trách nhiệm của họ đối với nhân sinh.Thầy cứ khuyên các môn sinh của thầy đừng đi tìm chất thánh xa vời trong thượng đế (vô hình) mà hãy đi tìm chất thánh trong nhân sinh (hữu hình) qua nhân từ, nhân ái. Các vị chân tu, cạnh các cố đạo là các tù nhân lương tâm trên quê hương Việt của tổng thể khổ đau (totalité des soufrances) vì tù nhân lương tâm có đầy đủ chất thánh trong chất trách nhiệm của họ.
Vận hành luận
Deleuze làm nhiều vận hành mới cho triết cận đại và hiện đại của Âu châu, vận hành bắt đầu là khởi hành với các hành lý thật mới lạ (đưa văn học, điện ảnh, phân tâm học vào các ngã tư chính của các chủ đề lớn trong triết học), sau đó tốc hành để chuyển kiếp, để tạo kiếp cho kiến thức, cho tri thức, rồi cho nhân lý và nhân phẩm. Kiếp hành kiếp để kiếp đổi kiếp, nhưng muốn làm được chuyện này thì phải thay đổi ngôn ngữ trước, vì ngôn ngữ vừa là tư tưởng, vừa là truyền thông, vì nó vừa là nhân trí của nhân lý, vừa là nhân tri của nhân quần.
Thay đổi được ngôn ngữ thì thay đổi được tư duy, đưa nó theo hướng mở để nhận những cái mới trong khoa học, trong xã hội, đẩy nó theo hướng lên để nó đủ sức đón nhận những sáng tạo, những khai phá mà ngôn ngữ (cũ) chưa có ngôn ngữ (mới). Nếu thật tâm muốn đổi, muốn chuyển ngôn ngữ, thì bắt buộc phải đẩy ngôn ngữ vào các ngõ cụt của nó, khi ngôn ngữ không có lối ra, thì ta sẽ thấy giới hạn của ngôn ngữ, từ đó thấy rõ hơn các khuyết điểm và khuyết tật của ngôn ngữ ; và chuyện đổi, thay, chuyển, biến ngôn ngữ sẽ giúp ngôn ngữ được đồng hành với sức thông minh của nhân trí.
Văn học sẽ giúp triết học vận hành chuyển kiếp, trong việc khởi hành chuyển thay ngôn ngữ, giúp luôn tốc hành qua sáng tác, để thấy ở đây văn học có thần lực vạn năng làm thay, đổi, biến hóa ngôn ngữ mạnh dạn nhất. Sung lực của văn học qua sáng tác làm rõ tính đa diện của chủ thể, với nội lực của văn học làm rõ tính da dạng của sự thật. Nếu triết học và văn học phải dùng ngôn ngữ để thể hiện, để minh chứng, nhưng triết học và văn học, mỗi nơi nói lên chân lý, lẽ phải theo cách riêng của mình, thì cả hai phải cận nhau, vì cần nhau. Phản lại sự thông minh luôn muốn chuyển hóa ngôn ngữ là các chế độ độc (độc tài, độc đoán, độc quyền, độc trị, độc đảng) vì nó chỉ dùng tuyên truyền bằng ngôn ngữ một chiều nên không bao giờ muốn thay đổi ngôn ngữ, vì nó chỉ dụng nhồi sọ nên nó cần lập đi, lập lại, nên rất dị ứng với chuyện thay, đổi, chuyển, biến trong ngôn ngữ, làm mới ngôn ngữ. Như vậy nhân trí phải rút ra một kết luận cho nhân sinh là các chế độ độc tài (autoritarisme) các chế độ toàn trị (totalitarisme), hai loại chế độ này không sợ các phạm trù của đạo đức (trung thành, chung thủy, can đảm…) mà chúng chỉ sợ và "mất ăn mất ngủ" vì mouvement (sự vận hành chuyển hóa thành phong trào). Và mỗi lần có vận hành hình thành ra phong trào là có đổi, thay, hóa, chuyển kiếp người !
Tháo kiếp luận
Cụm từ tháo kiếp luận sẽ không bất ổn về ngữ văn nếu ta nhận ra ngữ pháp : tháo là tháo gỡ để được nhìn rõ hiểu sâu nội chất của vấn đề, thì từ kiếp của nhân kiếp không hề là một định đề bất di bất dịch bị hiểu theo nghĩa là số kiếp không thay đổi được, và luận là giải luận ngay trên kết quả nhờ tháo gỡ được, ngay trên hiệu quả nhờ tháo rời được các hệ quả. Derrida làm một chuyện "động trời" trong triết học để gầy dựng sự nghiệp của mình trên chủ thuyết này, tên nó là déconstruction (tháo cái đã được dựng) nó khác hẳn với destruction (đập đổ cái đã được dựng). Tháo được cái đã dựng thì tháo luôn các thói xấu hủ lậu đã có sẵn trong thói quen : "cả vú lấp miệng em", "ăn trên ngồi trốc", sinh ra tham nhũng rồi bất công mà cứ xem đó là văn hóa, văn minh, văn hiến, chuyện chính là muốn đổi kiếp dở dể dựng nên một kiếp hay, thì hãy tháo kiếp cũ để xây lên kiếp mới.
Derrida cứ nhắc nhở các môn sinh khi ta làm việc tháo cái đã được dựng để dựng ra cái mới thì ta có thể bị lạc đường ! Và Derrida khuyên luôn là : đừng sợ lạc đường ! Rồi thầy dựng ra phạm trù destinerrance, tự thầy chế ra, không có trong tự điển, thầy ráp từ hai từ destination (hướng tới) errance (lạc hướng rồi lang thang). Derrida chứng minh destinerrance (hướng tới-không có hướng) chính là hướng đi của khám phá, cái giá phải trả khi đi tìm các phát minh, cái giá phải nhận khi sáng tạo, chính cái giá đắt này giúp ta thấy rõ các giá trị của tri thức, giúp ta trưởng thành ngay trong sinh hoạt trí thức. Derrida lại thuộc loại người kỹ tính, ngờ vực luôn đồng hành với cẩn trọng, là khi có một người, mới gặp ta mà đã có sẵn các câu hỏi, thì ta nên nghiêm cẩn mà tự đặt câu hỏi ngay trên câu hỏi của họ, cụ thể là tại sao lại có câu hỏi này, vì mọi câu hỏi đều có ý muốn, ý định, ý đồ, mà khi đã đụng chạm tới ý muốn-ý định-ý đồ trên đời này thì toàn là chuyện có chủ ý-chủ đạo-chủ trương của kẻ đặt câu hỏi.
Câu chuyện dùng quyền lực để có quyền lợi từ đây mà ra, lạm quyền rồi tham quyền cũng từ đây mà sinh sôi nẩy nở, nếu phải nghi ngờ các câu hỏi thì ta phải nghi ngại luôn các câu trả lời, nhất là các câu trả lời có sẵn công thức, có sẵn mô hình, có sẵn kinh nghiệm, vì kẻ trả lời cũng mang ý muốn-ý định-ý đồ đưa ta vào chủ ý-chủ đạo-chủ trương của họ. Chuyện này hoàn toàn đúng và được kiểm nghiệm mỗi ngày trong các chế độ độc tài (autoritarisme) và các chế độ toàn trị (totalitarisme), kiểm soát nhân sinh bằng các câu hỏi kiểu công an trị (régime policier) với các câu trả lời kiểu quân đội trị (militarisme). Nếu phải nghi ngờ tất cả các câu hỏi, tất cả các câu trả lời trên nhân thế, thầy còn kỹ hơn nữa dặn dò phải vô cùng cẩn trọng luôn với các câu đằm thắm nhất trong yêu đương, thí dụ như câu khi chúng ta tỏ tình : je t’aime (I love you). Khởi đầu chỉ là lời tuyên bố (déclaration), lời tuyên bố này gọn, ngắn nhưng khi ra khỏi miệng, thành lời rồi thì không sao lấy lại được (non-retour), và khi ta muốn lấy lại nó thì kẻ được ta yêu sẽ khinh bỉ và loại ta.
Câu yêu thương ngắn nhất, lời tỏ tình gọn nhất, cũng là lời tự thú (aveu) nhưng là một loại tự thú để được bị chung-thân, hai thân giờ thành một, vì nói yêu người này rồi thì không được nói yêu người khác. Chưa hết, vì lời tự thú này bắt ta phải dấn thân để hiến thân, dâng thân để nhập thân với người mình yêu, tức là làm tình với nhau, như kết quả tất yếu từ tuyên bố qua tự thú. Chưa hết, dấn thân-hiến thân-dâng thân-nhập thân dẫn tới chung thân, qua hôn nhân để lập ra một gia đình, có gia đình rồi có con cái, chỉ một câu ngắn gọn je t’aime (I love you) mà hiệu quả cùng hậu quả truyền đi mấy đời, sinh ra bao kiếp.
Tái tạo luận
Bourdieu gọi xã hội học là một môn thể thao võ thuật (sport de combat), phải giải thích được tại sao mỗi xã hội đều mang nội chất của nội chiến (guerre civile). Cho nên từ lý luận tới lý thuyết, môn sinh phải sống với nghề xã hội học kiếp chống kiếp, được sống các màn võ thuật, bị sống cảnh nội chiến từ nhân sinh quan tới thế giới quan của các tầng lớp khác nhau trong xã hội. Nhưng ai được học thầy đều ít nhiều mang ơn thầy, vì thầy chỉ giáo các môn sinh dùng kiến thức về xã hội để thay đổi xã hội, nếu không thay đổi được xã hội, thì cũng không được ngây thơ, ngây dại, ngây khờ trước các lực lượng xấu, ác đang có mặt trong xã hội. Bourdieu nổi tiếng qua thuyết tái sản suất (la reproduction), đào từ gia đình tới giáo dục, từ kinh tế qua chính trị, từ văn hóa tới truyền thống, từ sở thích qua du lịch… để diễn luận thuyết "con vua thì được làm vua, con sãi nhà chùa thì quét lá đa", lấy định lượng để làm rõ định chất, lấy ý muốn của cha mẹ để hiểu ý nguyện của tổ tiên, để nắm ý đồ của hậu sinh.
Bourdieu cũng tin là có chuyện "không ai giầu ba họ, không ai khó ba đời", nhưng chuyện này chỉ đúng cho cá nhân, cho gia đình, mà hoàn toàn sai về thành phần xã hội, giai cấp xã hội, lực lượng xã hội, vì vua, quan cầm quyền luôn tổ chức các cấu trúc chính trị, các hệ thống kinh tế, các cơ chế giáo dục vừa thuận lợi, vừa trường tồn theo quyền lực và quyền lợi của chúng. Như vậy câu "Ăn đời ở kiếp chi đây, xem nhau như bát nước đầy thì hơn", ta lại phải đổi lại : "Ăn đời ở kiếp mãi đây, chẳng xem như bát nước đầy có sao !" để biết tâm dạ kẻ thống trị.
Nếu Bourdieu đúng thì nhân tính thật "cạn tàu ráo máng", nhân sinh không có nhân tình vì "người với người coi nhau như sói" rồi ! Thậm chí còn tệ hơn sói, vì theo Bourdieu nhân thế là thực trạng "cá lớn nuốt cá bé", thì sao có nhân nghĩa được ! Bourdieu lập ra thuyết khống chế (la domination) để củng cố thuyết tái sản suất (la reproduction) của thầy : trong một xã hội có ngàn nghề nghiệp, có trăm thành phần, nhưng chỉ có hai loại người, loại thứ nhất là loại khống chế kẻ khác, loại thứ hai là loại bị khống chế. Kẻ khống chế có quyền lực để bồi đắp quyền lợi chúng, kẻ bị khống chế là nạn nhân trực tiếp qua bóc lột, gián tiếp qua các định chế của kẻ khống chế. Bourdieu không ngừng, đi tiếp và thêm thuyết vốn xã hội (capitaux sociaux), là một mê hồn trận được chế tác ra bởi bọn khống chế để thao túng người, dùng vốn kinh tế để có vốn chính trị, dùng vốn chính trị để có vốn văn hóa, dùng vốn văn hóa để có vốn giáo dục, dùng vốn giáo dục để có vốn nghệ thuật... Ông bà ta rủa chúng là loại : "ăn tham, chết thối", ta phải hiểu ngược lại để nhìn thấu tâm địa của bọn khống chế này : "ăn tham, sống sướng". Chuyện này đang rất đúng trong chế độ độc tài, độc quyền, độc tôn, độc trị vì độc đảng trên quê hương Việt Nam !
Dân chủ luận
Gauchet mang một kiếp vừa trong, vừa sáng, suốt đời nghiên cứu thuyết dân chủ (la théorie de la démocratie), để hiểu tại sao con người luôn muốn làm chủ số kiếp của chính mình, không cần đạo giáo để quyết định số phận mình, không cần đảng phái để quyết đoán số phần mình. Làm chủ hành động cá nhân mình để bảo đảm quyền tự do của mình, hành động qua tập thể để bảo vệ công bằng, hành động vào xã hội để bảo trì bác ái để sống có nhân phẩm với đồng loại.
Gauchet chứng minh là các chế độ độc tài, độc quyền, độc tôn, độc trị, độc đảng, làm bọn lãnh đạo các chế độ này rất "cực thân", vì chúng phải rình rập để đàn áp, phải đe dọa để áp chế, phải tuyên truyền để lừa đảo, phải làm khổ xã hội để đày tha nhân, chúng tốn nhiều thì giờ và năng lượng vào những chuyện công an, quân đội, nhà tù… vu oan giá họa cho chúng sinh nên chúng không thể thông minh, vì chúng thời gian đâu để cải cách, để cải tổ, để sáng chế, để sáng tạo, để khai thác tiềm năng và tiềm lực của tha nhân và của xã hội.
Gauchet giải thích bằng sử học là bọn cầm quyền dùng các chế độ độc tài, độc quyền, độc tôn, độc trị, độc đảng bằng các trò mỵ dân qua chủ nghĩa cộng đồng, đạo đức giả qua chủ nghĩa tập thể, mà cộng đồng không sao tới được cộng sản, vì tất cả các chủ nghĩa cộng này đều thất bại, đều bị nhân sử gạt bỏ, vất đi. Nếu con người muốn làm chủ qua dân chủ, thì không những đã có sẵn lý thuyết, có sẵn sử học, có sẵn tư tưởng, có sẵn kinh nghiệm về dân chủ, thì trong nhân tính của nhân loại chắc chắn có sẵn nhân học dân chủ (anthropologie démocratique), loại nhân học thông minh hàng đầu, vì nó trao kiếp người lại cho người, không để tôn giáo hoặc dị đoan, đảng phái hoặc bè nhóm nào quản lý kiếp người này. Cho nên kiếp chủ kiếp là vậy.
Gauchet lập luận chính chủ thuyết tự do cá nhân để bảo vệ quyền lợi cá nhân làm tăng trưởng các thỏa hiệp đa nguyên, thỏa thuận đa dạng, thỏa ước đa dụng, lấy đa tài làm ra đa trí, chống lại cái một chiều của độc tài, cái một khung của độc quyền, cái một lò của độc đảng làm ra cái một nhà tù chống lại cái muôn hình, muôn vẻ của nhân sinh. Gauchet tin vào chữ đa của thiên hạ, không muốn độc thoại, và sống rất trọn với đa nguyên, với dân chủ, có lần tôi định nghĩa : "Dân chủ là biết người biết ta để sống chung", thầy thêm ý kiến của thầy : "Dân chủ là nghe người để biết người, để biết ta, để sống chung, và để không bỏ rơi nhau !".
Ngoại thế luận
Xã hội luận phê bình
Định hình môi trường sống của công trình nghiên cứu trong một vũ trụ xã hội, nơi mà khảo sát, điều tra, điền dã, nghiên cứu là một quá trình phê bình xã hội, mang tính chất xã hội hóa riêng của nó và mỗi quá trình xã hội hóa luôn nằm trong một môi trường ý thức hệ nào đó (độc đảng hay đa nguyên, độc tài hay đa tài, toàn trị hay đa trị…). Bản thân người nghiên cứu và người đọc cũng không thoát khỏi môi trường ý thức này, nên công trình nghiên cứu luôn có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với môi trường xã hội và các ý thức hệ trong xã hội đó. Chính xã hội luận phê bình có cơ sở nghiên cứu khách quan đã mang lại những tiến bộ lớn trong học thuật và ngay trong các xã hội có dân chủ đa nguyên, khi chính các công trình nghiên cứu đã lột mặt nạ của mê thức giả danh kiến thức để làm chuyện "đánh lận con đen" mà định hướng dư luận. Nên các chế độ độc đảng toàn trị hiện nay, như Việt Nam thường vu oan, vu cáo, vu khống, vu họa để chống phương pháp này, vì khi xã hội luận phê bình được thực hiện tới nơi tới chốn thì bộ máy tuyên truyền sẽ bị vô hiệu hóa, và đám tuyên giáo sẽ bị lột mặt nạ !
Dân tộc luận phê bình
Nơi mà dân tộc tính được đánh giá qua cá tính của dân tộc đó qua sinh hoạt văn hóa, qua quan hệ xã hội, qua đời sống tâm linh… Dân tộc luận phê bình có thể bắt đầu bằng nghiên cứu các văn bản từ lịch sử tới văn học, để đi sâu vào các điều tra thực địa, nơi mà phê bình tới từ phân tích và giải thích sẽ làm rõ sức thông minh và lực sáng tạo qua các cộng đồng quốc gia, qua các tập thể xã hội, qua các cá nhân có cá tính được định nghĩa như các chủ thể của sáng tạo.
Nói gần nói xa, không qua nói thật là dân tộc luận phê bình còn đi xa hơn thế nữa để vào sâu từng dân tộc tính qua các giai đoạn lịch sử, cụ thể là thủa xưa Việt tộc là một dũng tộc đã thắng bọn Tàu tặc khoảng 20 lần bằng chính lòng dũng cảm của ý chí bất khuất quyết tâm giữ nước ; cũng đã là một minh tộc biết thắng Tàu tặc bằng chính sự thông minh của mình : Ngô Quyền, Lê Đại Hành, Trần Hưng Đạo bằng thủy chiến ; Nguyễn Trãi bằng sự phối hợp giữa kháng chiến, ngoại giao và tâm lý chiến ; Quang Trung bằng tri thức luận quân sự về quản lý không gian và thời gian… Vậy mà dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay, thì chí khí của dũng tộc, sáng tạo của minh tộc, xem như bị tiêu tán hóa cùng trước thực chất đớn nhục của Đảng cộng sản Việt Nam là : hèn với giặc, ác với dân ! Đẩy Việt tộc từ dũng tộc, minh tộc sang "hèn tộc", "nhục tộc", đây là một tội ác ngay trên dân tộc tính, là tội đồ trước tiền đồ của tổ tiên, mà cũng là một tội ác trước các thế hệ mai hậu của Việt tộc.
Địa dư luận phê bình
Là phương pháp phân tích đặt ưu tiên cho nghiên cứu về tính đặc thù của một không gian địa lý trong phân tích và giải thích. Địa dư luận phê bình chống lại các quy phạm xơ cứng về không gian, thí dụ cụ thể là tháng bảy năm 2019 này bọn Tàu tặc đã vào lãnh hải của Việt Nam tại bãi Tư Chính, với thái độ xâm lược mà chính phủ độc đảng Việt Nam đã giấu nhẹm dân chúng, hơn 700 trăm tờ báo bồi bút cho Đảng cộng sản Việt Nam đã "im hơi lặng tiếng", để chính các báo đài ngoại quốc thông báo mà dân chúng biết được qua truyền thông quốc tế. Địa dư luận phê bình cho thấy rất rõ trong năm 2019 này là dân Hồng Kông, dân Đài Loan không sợ Trung Quốc, trước đó Philippines còn kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế về "đường lưỡi bò" của Tàu tặc trên biển Đông, tại sao chỉ có Đảng cộng sản Việt Nam là sợ Trung Quốc ? Địa dư luận phê bình cho xuất hiện phương pháp giải luận chỉnh lý là Đảng cộng sản Việt Nam sống còn nhờ Đảng cộng sản Trung Quốc-Đảng cộng sản Trung Quốc, phương pháp này cho xuất hiện luôn phương pháp diễn luận toàn lý là lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam từ mật ước Thành Đô, 1991, chỉ có não trạng cứu đảng, chớ không hề đặt ưu tiên cứu nước lên hàng đầu, tại đây có những lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam đã mở ra con đường bán nước [1], và đã chuẩn bị não bộ để chấp nhận chuyện mất nước.
Định dạng luận
Một phương pháp phân tích và giải thích dựa trên hình thức, mà hình thức ở đây chính là nội dung của nội dung ! Nơi mà lời nói là nhân cách (học ăn học nói, học gói học mở). Nơi mà nhân dạng làm nên nhân vị (cái tai cái tóc là vóc con người) nơi mà tầm vóc vừa là nội công, vừa là bản lĩnh của chủ thể, chính tầm vóc nói lên trình độ tri thức và mức độ tư duy của chủ thể [9]. Thư của bạn tới với tôi, cùng lúc với tin tức về ba thảm trạng cho trí thức và cho trí thức, trực tiếp liên quan tới định dạng luận mà bạn biết rất rõ là : ba lãnh đạo cấp bộ, cấp cục, cấp ngành của bạn, mỗi người một cách, làm cả một dân tộc xấu hổ đến "độn thổ" :
Hiện đại luận
Hiện đại là một ngữ pháp thường bị lạm dụng để đặt tên cho những gì đang đến hay sắp đến ; trong học thuật, người ta có phương cách định hình hiện đại, khi cái cũ không còn đứng vững được nữa mà cái mới đang lấn tới để thay hồn đổi xác nó. Cuối thế kỷ thứ XIX qua đầu thế kỷ XX, có ba nhà tư tưởng tiên đoán về một xã hội hiện đại sẽ bứng tận gốc rễ xã hội phong kiến cũ để dọn đường cho nhân loại vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của một xã hội hiện đại.
Người thứ nhất là Comte với chủ thuyết tiến bộ tích cực, tin tưởng sự tiến bộ tới từ khoa học bằng công nghiệp sẽ thay đổi không những xã hội phong kiến mà cả nội chất thần quyền trong tôn giáo. Dự đoán này bị xem như phiến diện, vì chính khoa học có thể hủy diệt cả nhân loại, khi khoa học khám phá và ứng dụng nguyên tử trong chiến tranh, không kể là chính sinh hoạt công nghiệp là nguồn cội của ô nhiễm ngày ngày hủy diệt môi trường và môi sinh.
Người thứ nhì là Marx với chủ thuyết duy vật biện chứng đề nghị thấy duy vật sử quan để hiểu sự vận hành của tư bản chủ nghĩa là một tiến bộ so với xã hội phong kiến, nhưng hệ thống người bóc lột người còn tồn tại trong xã hội tư bản, vẫn là một xã hội của đấu tranh giai cấp. Tính hiện đại sẽ xuất hiện với giai cấp công nhân lãnh đạo xã hội để xóa bỏ hệ thống người bóc lột người, cùng lúc sẽ xóa đi đấu tranh giai cấp. Nhưng giai cấp công nhân phải lãnh đạo xã hội qua chuyên chính vô sản, mà khi ứng dụng vào trường hợp của Liên Xô, thì chuyên chính vô sản đã trở thành một hệ thống công an trị để thanh trừng rồi thanh toán các bè nhóm đấu tranh để giành quyền lực ngay trong nội bộ của giai cấp công nhân, ngay trong các đảng cộng sản. Tính man rợ của chuyên chính vô sản liên tục được khai thác từ Lenin tới Staline, rồi Mao, không hề là một tiến bộ để đại diện cho cấu trúc hiện đại.
Người thứ ba là Toqueville, nhận ra tính hiện đại của một xã hội khi rời độc tài quân chủ hay phong kiến chính là sự vận hành của dân chủ, có cơ sở của tam quyền phân lập, có lập pháp, tư pháp và hành pháp qua bầu cử chịu sự kiểm soát của đầu phiếu mới bảo đảm cho sự vận hành của cộng hòa thăng hoa, trong đó tự do, công bằng, bác ái vừa là nhân phẩm, vừa là nhân quyền. Sự phiến diện của lý luận vận dụng khoa học để tận dụng công nghiệp tạo tiến bộ, cùng sự phá sản chủ thuyết duy vật biện chứng với lập luận của đấu tranh giai cấp để chế tác ra một xã hội công an trị bằng chuyên chính vô sản thì vừa phản tiến bộ, vừa ngược với giải luận về hiện đại.
Bi kịch của Đảng cộng sản Việt Nam và thảm kịch của xã hội Việt hiện nay là đang sống với hai chủ thuyết đã sai từ định hướng tới chính sách, một là công nghiệp bẩn tiêu hủy môi trường, hủy diệt môi sinh, và bi đát trong tồi tệ là chế độ độc đảng toàn trị với công an trị đang song hành cùng tham nhũng trị trong bối cảnh chuyên chính vô sản chính là chuyên chính vô học của tầng lớp lãnh đạo.
Bốn phương pháp phân tích nội dung
Có mặt thường xuyên trong khoa học nhân văn (ngôn ngữ học, triết học, văn học) và trong khoa học xã hội (nhân học, sử học, xã hội học) :
Phương pháp cấu trúc, làm nên tổng thể, trong đó mọi phần tử này ảnh hưởng chi phối phần tử kia, và quan hệ giữa các phần tử là quan hệ sống còn của một thân thể, khi tim ngừng đập thì óc, phổi và các nội tạng khác sẽ ngừng theo và thân thể sống giờ đã thành thây xác [10]. Cũng như hiện nay về mặt xã hội, hệ thống công an trị dùng bạo lực để hành hung, áp chế, tù đày… dân oan (mà bạn đã thấy trong vidéo do tôi gởi) hệ thống công an trị chỉ tồn tại với bạo quyền của Đảng cộng sản Việt Nam, khi dân chủ tới cùng nhân quyền trong đa nguyên thì hệ thống công an bất chấp công lý và pháp luật này sẽ "tan biến" theo Đảng cộng sản Việt Nam.
Phương pháp trùng phương, tại đây X xuất hiện thì Y xuất hiện, nếu X là hằng số thì Y là biến số, tức là Y diễn biến rồi chuyển hóa theo X, đây là kiến thức căn bản để tổ chức các phương trình toán, mà cũng là nội chất của mọi diễn biến trong xã hội Việt Nam hiện nay : có bất công vì có bất bình đẳng (con vua thì được làm vua, nên con quan thì được làm quan, còn con sãi nhà chùa thì quét lá đa), độc đảng độc tài vẫn "đè đầu, cỡi cổ" dân tộc, xuất hiện với phương trình trùng phương này, một loại ung thư trên toàn xã hội của Việt tộc : độc đảng sinh ra độc tài nhưng bất tài, đẻ ra độc trị nhưng không biết quản trị.
Phương pháp loại trừ, phân tích xung đột qua sự kình chống tuyệt đối, khi A xuất hiện thì A không cho B xuất hiện để thảo luận, tức là dùng tranh luận để trao luận ; và B cũng vậy khi B xuất hiện thì A biến mất không có mặt để tranh cãi bằng lý luận hay lập luận. Đó là mâu thuẫn tuyệt đối giữa hai hệ : hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn) và hệ đa (đa đảng, đa tài, đa trí, đa năng, đa hiệu), có cái này thì không có cái kia bạn à !
Phương pháp lợi luận, trong đó mọi quan điểm đều xuất phát từ các con tính về quyền lợi làm nên tư lợi, dùng quyền lực để giữ quyền lợi, hòa tan quyền lực và quyền lợi làm một bằng ích kỷ, thậm chí lấy cái chung làm cái riêng cái chung, tạo nên ung thư xã hội qua hệ tham (tham quan để tham ô, tham nhũng vì tham tiền). Tồi hơn nữa là tái tạo hệ tham qua tiền tệ-hậu duệ-quan hệ để diệt trí tuệ. Tôi xin thành thật hỏi bạn, không biết bạn sinh ra và lớn lên, giờ lại có chức quyền, bạn có thoát được vòng lợi luận này không ?
Khoa học thuật nghiên cứu
Bốn phương pháp nghiên cứu sau đây khi được tổng hợp trong nghiên cứu để hòa hợp trong khảo sát và điều tra sẽ xây dựng được đương đi nước bước cho khoa học luận của khoa học luận của khoa học xã hội thực địa :
Khoa học thuật sử tính, là công đoạn một, có quá trình sử luận, nơi mà các sự cố là sự kiện mà người nghiên cứu định vị được không gian và thời gian. Nếu định vị được địa điểm và thời điểm của sử kiện thì sẽ định vị được kết quả, hậu quả, hiệu quả của sự kiện đã là sự cố hay đã là biến cố tác động lên sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội, đời sống xã hội, tổ chức xã hội, tới từ các chính sách tuyên truyền ngu dân mang thực chất vô học-vô hậu.
Khoa học thuật bối cảnh, là công đoạn hai, để phân tích thực cảnh của một xã hội nơi mà sự cố đã thành biến cố, để phân loại các hoàn cảnh, tại đây hoạt cảnh xã hội bị đóng khung bởi các chính sách tuyên truyền ngu dân mang thực chất vô học-vô hậu ; từ đó phân giải toàn cảnh các chính sách của tuyên truyền trị, ngu dân trị mang thực chất vô học trị. Các chính sách tuyên truyền ngu dân của độc đảng toàn trị được “chống lưng” bởi một hệ thống công an trị, và “sân sau” của các chính sách này chính là tham nhũng trị ; được bảo kê kiểu “ô dù” giữa các bè, đám, nhóm, phái… với mưu hèn kế bẩn, mà tất cả đều bị chi phối bởi tham tiền trị.
Khoa học so sánh, là công đoạn ba, nơi mà mọi dữ kiện trong cùng một bối cảnh, mọi chứng từ trong cùng một hoàn cảnh, mọi cá nhân trong cùng một hoạt cảnh, đều có thể so sánh được, ở cấp độ khác nhau từ địa phương tới trung ương, ở mức độ khác nhau từ quốc gia tới quốc tế, ở cường độ khác nhau từ kiến thức tới ý thức, ở trình độ khác nhau từ tri thức tới nhận thức… Cụ thể là đưa ra ánh sáng các chính sách tuyên truyền ngu dân gây nên hậu quả và hậu nạn vô học-vô hậu, rồi vận dụng so sánh để đo đạc cường độ, mật độ, mức độ của các chính sách tuyên truyền ngu dân này, để hiểu bản chất của nó qua chính trình độ của nó.
Khoa học tổng quan, là công đoạn bốn, với đồ hình được phân định và phân giải vừa hợp lý, vừa chỉnh lý của khoa học sử tính, khoa học bối cảnh, khoa học so sánh, để có nhận định tổng thể, từ đây hình thành sự phân loại các thành phần bằng các khuynh hướng chung, các hành vi đa số, các hành tác thiểu số, các hành động đơn lẻ của bè, đám, đảng, nhóm, phái, qua quan hệ giữa quyền lực và quyền lợi, trong không gian của tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị gây nên hậu quả và hậu nạn vô học-vô hậu hiện nay trong hệ thống xã hội Việt Nam.
Lê Hữu Khóa
(24/08/2020)
[1] Lê Hữu Khóa, ANTHROPOLOGIE DU VIETNAM, tome 4, Editions les Indes Savantes. Paris.
[2] Lê Hữu Khóa, ANTHROPOLOGIE DU VIETNAM, tome 5, Editions les Indes Savantes. Paris.
[3] Lê Hữu Khóa, OAN LUẬN, Anthropol-Asie xuất bản, Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-Trang thầy Khóa.
Lê Hữu Khóa, BỤI LUẬN, Anthropol-Asie xuất bản, Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-Trang thầy Khóa.
[4] Lê Hữu Khóa, DÂN LUẬN, Anthropol-Asie xuất bản, Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-Trang thầy Khóa.
[5] Lê Hữu Khóa, LÝ THUYẾT LUẬN, Anthropol-Asie xuất bản, Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-Trang thầy Khóa.
[6] Lê Hữu Khóa, ANTHROPOLOGIE DU VIETNAM, tome 3, Editions Les Indes-Savantes. Paris.
[7] Lê Hữu Khóa, TRỰC LUẬN, Anthropol-Asie xuất bản, Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-Trang thầy Khóa.
[8] Lê Hữu Khóa, KIẾP LUẬN, Anthropol-Asie xuất bản, Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-Trang thầy Khóa.
[10] Các phương pháp tiếp cận của khoa học xã hội và nhân văn, Anthropol-Asie xuất bản, facebook Vùng Khả Luận (trang thầy Khóa)
---------------------
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.