Tháng 6 năm 1983 tôi rời Hoa Kỳ lên đường qua Togo dạy học. Sau ba tháng huấn luyện tại chỗ, tôi và các bạn được chính thức tuyên thệ trở thành Tình nguyện viên Peace Corps, trước khi về nơi công tác nhận nhiệm sở.
Trong nhóm 20 giáo viên toán lý hóa và sư phạm, có bạn lên tận vùng Dapaong, sát biên giới phía bắc Togo với Upper Volta (bây giờ là Burkina Faso), có bạn về Tsévie cách thủ đô chừng 30 cây số. Hai bạn thân là giảng viên sư phạm Anh ngữ làm việc ngay tại thủ đô Lomé.
Lớp học giờ lý hóa có duy nhất một nữ sinh (Ảnh : Bùi Văn Phú)
Một ngày cuối tháng 9, ông giám đốc đưa tôi về thị xã Notsé của tỉnh Haho, nằm trên Route Nationale 1, cách thủ đô 100 cây số về hướng bắc. Nơi đây là nôi của văn hóa Ewe.
Trước tiên ông đưa tôi đến trình diện tỉnh trưởng, rồi gặp ông hiệu trưởng ở trường. Lần đầu tiên tôi thấy ngôi trường của mình, nằm giữa thửa đất rộng nhìn ra quốc lộ, dù tôi đã đi ngang thị xã này nhiều lần trong ba tháng qua mà không để ý.
Sau đó về nơi tôi sẽ sống. Một căn nhà gạch mái tôn với phòng khách, phòng ngủ và nhà bếp, không điện nước hay nhà tiểu bên trong. Nhà nằm trong "concession" có vài nhà gạch và nhà đất làm thành một khu vuông vức, nhà tiểu chung nằm ở một góc, có cây xoài giữa sân. Bên ngoài khu nhà là vườn ngô. Giếng nước công cộng cách nhà chừng hai trăm mét, ngày mở cho dân lấy nước hai lần.
Với hai học trò dưới cây phượng trong sân trường cấp 2 ở Notsé mùa hè 1984 (Ảnh : Bùi Văn Phú)
Hành lý có tấm nệm giường, hai đèn dầu, vài thùng tài liệu và dụng cụ giáo khoa, hai vali, chiếc máy radio-cassette và một hộp đồ y tế cứu thương. Một xe mobylette xanh và một tủ lạnh nhỏ chạy bằng dầu đã được để sẵn trong nhà.
Xong mọi thứ ông giám đốc từ giã. Từ đây tôi phải tự lo trong cuộc sống mới.
Buổi chiều tôi mở hành lý ra sắp xếp quần áo, đồ dùng cần thiết. Sách vở, giáo án để trên bàn, sẵn sàng cho ngày mai vào lớp.
Tối đầu tiên ở Notsé tôi hơi sợ, vì đã mấy chục năm giờ đây lại sống trong cảnh đêm tối dưới ánh đèn dầu. Ký ức gợi nhớ cho tôi một vài hình ảnh xa lắm, vào đầu thập niên 1960 khi thày u mới di cư từ bắc vào nam sống ở xứ Nghĩa Hoà, Ngã ba Ông Tạ lúc đó cũng chưa có điện.
Sáng hôm sau tôi đến trường. Học trò đã đi học từ tuần trước nhưng không có thày lý hóa nên các em được ông giám thị điều động ra làm cỏ quanh trường.
Dạy lý hóa không phải là điều khó khăn, tuy tiếng Pháp của tôi có giọng lạ, nhưng các em chăm chú nghe, ghi chép những điều tôi viết trên bảng.
Láng giềng là anh nông dân, ngồi ghế bên trái, và anh thợ mộc, bên phải, đang cưa gỗ giúp thiết kế học cụ thí nghiệm cho lớp vật lý (Ảnh : Bùi Văn Phú)
Học sinh không có sách giáo khoa, vì thế tất cả những gì thầy viết lên bảng sẽ là tài liệu cho các em học và ôn bài khi cần. Đó là điều tôi học được qua khóa huấn luyện, nên chữ viết của tôi rõ ràng, định nghĩa hay thí dụ tôi tóm tắt hay chép từ sách được văn phòng cấp cho giáo viên. Những bài học tôi đã được học qua hai lần, ở mái trường Nguyễn Bá Tòng và những năm tại đại học Mỹ. Ở Việt Nam chỉ học qua sách vở, vào đại học Mỹ có thực tập trong phòng thí nghiệm nên tôi hiểu hơn. Những bài học về hóa hữu cơ làm tôi điên đầu nhớ để đi thi, dù ở quê nhà hay bên Mỹ.
Khi soạn bài ở nhà, hay đứng trước lớp tôi nhớ đến các thầy đã dạy mình, gần nhất là giáo sư W. Knight, giáo sư E. Segrè ở Đại học Berkeley. Lớp học ở đây lại giống như phòng ốc của trường Nguyễn Bá Tòng nơi tôi học lớp 11 và 12 nên hình ảnh của thầy, của bạn cứ phảng phất trong đầu. Thầy Nguyễn Công Trứ dậy vật lý, thầy Nguyễn Hữu Nghĩa dậy hóa học, trẻ và đẹp trai ; thầy Trần Bằng Phong dạy văn, thầy Lê Phổ dạy triết, thầy Nguyễn Văn Đàng dậy vạn vật. Các thầy Bùi Khắc Tiệp, Đoàn Văn Thơm, Lưu Vân Các dạy toán. Đi học luyện thi tú tài bên trường Hàn Thuyên có thầy Lương Việt Cương với bộ râu dạy cách cho học trò giải toán lượng giác thật nhanh.
Hướng dẫn học trò thực tập thí nghiệm vật lý (Ảnh : Bùi Văn Phú)
Nhớ bạn bè thân thương từ ngôi trường trên đường Hoàng Hoa Thám có cây hoa phượng, cây bông sứ tỏa hương, sắc mà tôi đã từng nhặt cánh hoa rơi ép vào trang thư gửi cho cô nữ sinh mình thích. Bạn cũ cùng lớp là Thiêm, Long, Lý, Ngọc Truyền, Ngọc Di, Thủy Tiên, Minh Châu. Dưới một lớp có Trần Thị Bính tóc búp bê, thích làm báo ; có Nguyễn Thị Thu Hương dễ thương mà tôi thích, nghe tin đã lìa trần vì đạn pháo trong những ngày cuối của cuộc chiến.
Chúng tôi xa nhau đã tám năm mà chẳng có liên lạc. Cuộc đời mỗi bạn đã qua nhiều ngả. Tôi phiêu bạt bốn phương trời, luôn nhớ về quê nhà, nhưng giờ đây trên đất Phi Châu, ở một ngôi trường tỉnh lẻ lại gợi nhớ cho tôi nhiều nhất về thuở học trò mơ mộng, phá phách nhưng cũng chăm học.
Tại trường đã có một bạn tình nguyện viên, anh Christoph từ tiểu bang Ohio qua dạy toán từ năm ngoái. Một bạn đồng hành, về nhận việc dạy toán sau tôi ít lâu rồi bỏ cuộc sau vài tháng. Quanh khu vực có mấy tình nguyện viên khác làm công tác nông nghiệp, y tế, chăn nuôi tại các làng cách quốc lộ vài chục cây số.
Trong số gần 200 học sinh, 90% là nam, nhiều em đã vào tuổi đôi mươi vì học cuối năm lớp 11 nếu không đậu Tú tài I sẽ không được lên lớp 12 và cuối năm lớp 12 không đậu Tú tài II không được vào đại học, phải cố gắng học lại. Kết quả các kỳ thi theo tôi được biết là đậu chưa đến 50%. Bao lo lắng trước sau kỳ thi, như tôi từng trải, khác chăng là nam sinh ở Togo không phải lên đường nhập ngũ nếu thi rớt.
Làm cho lớp học sống động và để chứng minh những định luật khoa học, tôi đem vào lớp đồ thí nghiệm mang theo từ Mỹ như lăng kính, kính lồi, kính lõm, máy đo điện trở, cường độ, lò so, các mẫu nguyên tử để ráp thành phân tử tượng trưng cho chất hữu cơ.
Cùng học trò đón mừng Giáng Sinh 1983 tại nhà ở Notsé (Ảnh : Bùi Văn Phú)
Sau thời gian làm quen với công việc, tôi thường dành dăm phút cuối của mỗi tiết học để chia sẻ những kinh nghiệm đời sống, mẩu chuyện thời sự cũng như để học thêm về văn hóa Togo từ học trò.
Nhiều em thích tìm hiểu lịch sử, đặt những câu hỏi cho tôi thấy cuộc chiến Việt Nam đã vang dội toàn cầu. Sinh vào những năm 1963 hay 1964, nhiều em đã có ý niệm về cuộc chiến trên quê hương tôi, vì các em học lịch sử nước Pháp, với bài học Việt Nam giành được độc lập từ Pháp năm 1954 để làm gương cho các quốc gia Phi Châu, trong đó có Togo được trao trả độc lập năm 1960. Hơn nữa, Tổng thống Togo Gnassingbé Eyadéma đã từng là lính viễn chinh Pháp sang chiến đấu ở Đông Dương trong thập niên 1950. Học trò Togo nhớ rõ những sự kiện này, nay có tôi là người Việt Nam đầu tiên mà các em tiếp xúc nên có gì hấp dẫn với các em. Qua học trò của mình, tôi thấy người Togo có sự kính phục đối với dân tộc Việt Nam.
Học trò cũng như nhiều người dân gặp tôi cứ thắc mắc làm sao tôi có thể là một công dân Hoa Kỳ. Họ chỉ hiểu rằng người Việt là dân tộc đã đánh bại người Pháp và người Mỹ, thế thì tại sao tôi là người Việt lại qua Mỹ, chạy theo một kẻ bại trận. Với nhiều người dân, họ hiểu nước Mỹ chỉ có người da trắng và da đen, còn tôi là "un petit Chinois" chứ không thể là người Mỹ.
Tôi kể cho các em nghe về hành trình vượt biển tìm tự do của tôi, cũng như bao nhiêu người Việt khác. Được định cư tại Hoa Kỳ, theo học đại học rồi sau khi tốt nghiệp qua đây làm việc. Đó là những điều khó tin đối với các em, ngay cả với những giảng viên tôi gặp trong thời gian huấn luyện.
Lycée de Notsé 1984
Trường ốc của Lycée de Notsé là một bin-đinh ba tầng, mỗi tầng có 4 phòng học, trông còn mới vì là dự án viện trợ của chính phủ Cộng hòa Liên bang Đức, xây cách đây chưa đến mười năm để giúp Togo mở rộng giáo dục phổ thông. Trước đó học sinh cấp 3 trong tỉnh phải đi học xa nhà, lên Atakpamé hay về thủ đô Lomé. Học sinh của trường hiện nay cũng có những em từ làng mạc cách Notsé vài chục cây số ra đây ở trọ để đi học.
Tôi dạy các lớp Seconde, Première và Terminale, các ban C toán lý hóa và ban D vạn vật lý hóa, theo chương trình giáo dục Pháp.
Thiếu các dụng cụ thí nghiệm vật lý, tôi xin được ngân khoản vài trăm đôla từ hội Les Amis du Togo ở Mỹ để tạo dựng lên. Dựa theo tài liệu UNESCO, dùng vật liệu tại chỗ, cùng với ít dụng cụ mang theo từ Mỹ, với sự góp sức của anh thợ mộc láng giềng giúp cưa, cắt, tôi thiết kế một phòng thí nghiệm nhỏ, hoàn toàn dùng pin đèn. Qua đó học trò được thực tập đo lực hút của quả đất, chuyển động, quán tính hay các đặc tính của quang phổ, khúc xạ, hội tụ ánh sáng và về từ trường, lực ma sát v.v.
Những học sinh cần giúp hay ôn bài ngoài giờ ở lớp, tôi mở rộng cửa nhà đón các em vì trong nhà có sách giáo khoa, có bảng và phấn cho các em học nhóm.
Học sinh trình diễn văn nghệ trong tuần lễ văn hóa (Ảnh : Bùi Văn Phú)
Chúng tôi chia sẻ, thảo luận nhiều thứ. Bàn về thể thao, tôi kể cho các em nghe về môn bóng bầu dục ở Mỹ làm mọi người lăn lóc cười. Theo hiểu biết và sự tương quan trong tiếng Pháp, môn football đáng lý là bóng đá, dùng cẳng. Cầu thủ Mỹ lại dùng đầu và vai để húc nhau, còn tay ôm bóng mà chạy, vì thế làm các em cười. Nên tiếng Pháp gọi đó là "football americaine". Chiếc áo sơ mi 49Ers tôi mặc cũng là đề tài về tìm vàng ở California để tôi kể chuyện lịch sử Hoa Kỳ có người Á Châu trong đó.
Các em kể cho tôi nghe truyện cổ của văn hóa Phi Châu, như việc thờ vật tổ của từng thôn xóm. Có chỗ lấy của quý đàn ông và đàn bà làm vật tổ. Để kính nhớ tổ tiên có phong tục trước khi uống phải đổ một chút xuống đất.
Về những ngày lễ nghỉ, 24 Janvier (24/1) ghi dấu ngày Tổng thống Gnassingbé bị mưu sát, máy bay rớt mà ông thoát chết. Một tuần sau, 2 Fevrier (2/2), ông vinh quang trở về thủ đô lại cũng là ngày lễ nghỉ. Vào tháng Ba có Semaine Culturelle với học sinh tham gia diễn hành, trình diễn văn nghệ.
Láng giềng của tôi là nông dân, thợ mộc, là công chức. Anh thợ mộc làm việc quanh sân nhà. Anh nông dân sáng sớm vác rựa ra đồng cho đến chiều. Năm 1984 hạn hán khiến ruộng ngô quanh nhà khô cháy, nông dân hàng xóm mất mùa ngô năm đó. Nhiều đêm nghe tiếng máy của đoàn xe tải chạy trên quốc lộ chở thực phẩm lên mạn bắc để cứu trợ các nước gần vùng sa mạc Sahara đang bị chết đói. Ca khúc "We Are the World" ra đời năm đó.
Ăn nhậu với láng giềng một ngày cuối tuần (Ảnh : Bùi Văn Phú)
Người dân Togo rất thích nhạc và nhảy múa. Chiếc radio-cassette bạn tặng khi rời Mỹ đã trở thành đồ vật thân thiết với tôi và hàng xóm vì qua nó họ được nghe trực tiếp truyền thanh các trận tranh tài bóng đá quốc tế, môn thể thao ưa chuộng nhất. Thềm xi măng trước nhà trở thành nơi hội họp trao đổi văn hóa và cũng là chỗ ngủ của hàng xóm hay học trò vào những đêm trời oi bức.
Tôi trở nên người bạn thân của hàng xóm. Họ nói với tôi rằng bất cứ người ngoại quốc nào đến Togo làm việc đều có nhiều thứ thuốc và biết chữa bệnh. Khi bị nhức đầu, nóng lạnh sổ mũi hay bị ngứa vì sâu bọ cắn họ đều hỏi tôi xin thuốc chữa. Ai nóng đầu hoặc sổ mũi tôi cho hai viên Aspirin, còn bị ngứa tôi cho cồn thoa lên. Điều tôi thấy lạ là ít người bị sốt rét, nghe nói từ nhỏ họ có ăn một thứ lá cây có chất chống sốt rét. Cả thị xã Notsé với 5 nghìn dân nhưng không có bác sĩ, chỉ có một trạm y tế với y tá.
Học trò cũng thích tìm hiểu về sinh hoạt dân chủ Mỹ. Thời sinh viên tôi cũng xuống đường, biểu tình hoan hô đả đảo và đó là những gì lạ lắm đối với sinh viên học sinh ở đây. Tôi cho các em xem hình ảnh hoạt động sinh viên, trong đó có sinh viên Việt Nam. Nhiều em hỏi tôi chi tiết về du học, trợ cấp tài chánh theo học đại học Mỹ. Nghe kể, lớp trước ở trường đã có em được du học Trung Quốc, Pháp.
Các em chọn cho tôi một tên Phi Châu, là Yaovi. Togo có tục lệ đặt tên con theo ngày sinh, tôi sinh vào ngày thứ Năm trong tuần là tên Yao, nhưng vì đã có một thầy trong trường sinh cùng ngày, vì thế tôi là Yaovi, người nhỏ tuổi hơn. Chọn tên để mình hòa nhập với người bản xứ, chứ trong lớp các em vẫn phải lễ phép gọi "Monsieur Bui." Học sinh không lễ phép hay nghịch phá sẽ bị thầy giám thị phạt khẻ tay trước sân trường ngay sau lễ chào cờ mỗi sáng thứ Hai.
Về Notsé một thời gian ngắn thì tôi thích ăn fou-fou với sauce de gombo, nhớt như canh rau đay mồng tơi, vì buổi trưa không biết nấu gì nên thường ghé vào một quán gần nhà, ăn thử vài lần rồi thích. Sốt có thể nấu với thịt gà, thịt dê hay cá khô. Bữa tối tôi tự nấu cơm hay couscous, thường ăn với cà chua, cà rốt, thỉnh thoảng có rau, xào chín mọi thứ để bảo đảm vệ sinh. Chợ của thị xã tuần họp một lần vào thứ Năm, có thịt bò, thịt dê. Bà chị từ Mỹ gửi cho ít tôm khô để nấu canh hay rim mặn với cà chua.
Món fou-fou với sauce de gombo, nhớt như canh rau đay mồng tơi
Có dịp về thủ đô thăm bạn, tôi làm các món chả giò, tôm chiên mà mọi người đều thích. Siêu thị ở Lomé có bán nước mắm, giá đắt, một chai 375 ml gần 2 đôla.
Hai năm dạy học ở Togo tương đối bình yên, ngoại trừ vài biến cố gây quan ngại. Cuối năm 1983 khi Hoa Kỳ đem quân vào Grenada và căn cứ Thủy quân Lục chiến Mỹ ở Beirut bị nổ bom làm chết mấy trăm lính, tòa đại sứ đã triệu tập tình nguyện viên về thủ đô để được thông báo tình hình và các biện pháp liên quan đến an ninh bản thân.
Chúng tôi mất hai bạn đồng hành. Một anh chết vì tai nạn xe. Jennifer bị giết tại nhà vì một người địa phương trả thù vụ ăn cắp đồ của chị. Cái chết của chị tuy là một trường hợp đơn lẻ những làm chúng tôi lo sợ. Tổng thống Togo đã lên tiếng trấn an và bảo đảm an toàn cho các tình nguyện viên.
Để biết tin tức Mỹ và thế giới, buổi tối tôi nghe đài BBC, VOA, đài Quân đội Hoa Kỳ và nghe được cả Đài tiếng nói Việt Nam qua làn sóng ngắn. Tôi còn nhớ mãi giọng của Tổng Bí thư Lê Duẩn hay Phó Thủ tướng Tố Hữu, khi đó là lãnh đạo kinh tế với vụ đổi tiền. Đó là những kỷ niệm khó quên vì lần đầu tiên tôi biết giọng nói của các lãnh đạo Hà Nội.
Thông tin, giải trí có tuần báo Newsweek từ văn phòng gửi đến, thường trễ vài tuần ; cónguyệt báo Độc Lập từ Đức. Vài sách mới mua ở Togo hay mang theo từ Mỹ, có "Nói với tuổi 20" của Thích Nhất Hạnh là quà tặng từ bạn.
Có băng nhạc Lê Văn Khoa điều khiển dàn hòa tấu, thích nhất Lý ngựa ô, Trống cơm và Hòn vọng phu ; băng nhạc "Như cánh vạc bay" do trung tâm Khánh Ly phát hành với những tình khúc quen thuộc của Trịnh Công Sơn. Nhạc địa phương nghe từ sóng phát thanh L’Afrique Nunméro 1 trên ra-đi-ô.
Nhớ bạn ở Berkeley, ở Mỹ tôi mong thư và cuối tuần tôi viết bưu thiếp, viết thư kể chuyện xứ lạ ; hay lần giở những trang lưu bút với nhiều hình ảnh, kỷ niệm. Thỉnh thoảng tôi viết bài kể chuyện Phi Châu gửi cho báo Việt ngữ ở Mỹ, Đức.
Tôi rời Notsé sau hai niên học. Đồ đạc trong nhà đem cho láng giềng và học trò.
Mùa hè có phượng nở ở thủ đô Lomé (Ảnh : Bùi Văn Phú)
Tôi cũng trồng trong sân trường hàng phượng vỹ, anh bạn dạy toán trồng hàng xoài, vì trồng cây xanh ở những vùng đất sa mạc là cần thiết cho thiên nhiên. Hạt phượng do anh Nguyễn Vũ tặng. Anh là người Pháp gốc Việt đang làm cố vấn nông nghiệp cho chính phủ Togo. Tôi mong hàng cây sẽ sống sót nắng hạn Phi Châu, để khi có dịp trở lại sẽ thấy phượng nở rộ nơi sân trường.
Khi đặt chân đến Togo mùa hè hai năm trước, nhìn phượng đỏ trên con đường dẫn vào Université du Bénin và trên phố gần nơi dạy thực tập, lòng tôi bồi hồi nhớ đến "Hoa học trò" của Xuân Diệu được thầy Trương Quang Gia cho học sinh lớp Đệ Ngũ trường Thánh Tâm làm bình giảng.
Đó là ký ức tuổi học trò, là trải nghiệm của một thày giáo Mỹ gốc Việt đã chia sẻ những kỷ niệm và truyền đạt kiến thức cho học trò Togo, Phi Châu.
Bùi Văn Phú
Nguồn : © 2021 Buivanphu, 31/05/2021