Việt tộc phải xa cái chết của trống, vắng, rỗng
Hãy nhận ra cái chết trong cõi chết, trên đất chết ngay trên quê hương hiện nay, đó là các làng ung thư, ngày đêm chung sống với cái chết tới từ nhiệt điện than.
Cái chết tạo cõi chết, nhiều khi vô hình, nhưng nó có mặt từ chợ búa tới những bữa ăn, bằng thực phẩm bẩn với hóa chất độc. Cái chết sinh ra cõi chết bộ ba, khi nó diệt môi sinh, rồi hủy ngư trường để giết con người sau đó, như ta đã thấy qua ô nhiễm các tỉnh miền Trung do Formosa gây ra. Cái chết có ngay trên đất chết, khi nông dân không còn sống được ngay trên quê cha đất tổ của mình, mà phải bỏ làng đi ra thành thị. Vì đất đã chết với nhiễm ô nước, nước uống thủa xưa nay là nước độc giết người. Có cả cái chết từ làng chết tới xóm chết, khi thanh niên trai gái đã bỏ làng, bỏ xóm lên thành phố để tìm việc. Hiện tượng luận trực quan với những làng, những xóm không còn có đám cưới, không còn tiếng khóc trẻ thơ, kể cả đám tang người lớn tuổi không người tiễn đưa.
Hiện tượng luận trực quan luôn dẫn tới hiện tượng học lý trí : ngay trên quê hương xưa đã là gấm vóc mà tổ tiên để lại. Bây giờ trong tay bạo quyền độc đảng toàn trị với chuyên chính vô sản, nhưng thực chất là chuyên chính vô học, vô tri trước quy trình phát triển đất nước, vô minh trước quy trình tiến bộ xã hội, vô thức trước quy trình văn minh dân tộc.
Trên quê hương của gần một trăm triệu con dân Việt, giờ đây có nhiều nơi, nhiều chỗ, nhiều khu, nhiều vùng đã là đất chết, với cõi chết ngang nhiên ngự trị, với cái chết đã xua sự sống ra khỏi đất nước. Nên con dân Việt phải cúi đầu trong xuất khẩu lao động để được ra khỏi đất nước vì hết đường sống, nên trai tráng phải gục mặt làm lao nô cho các quốc gia láng giềng, nên phụ nữ phải nhắm mắt bán thân, phải khom lưng làm nô tỳ tận các nước tại Trung Đông xa xăm. Trên đường đi tìm sự sống, nhưng vẫn gặp cái chết nơi xứ người, với các đồng bào chết cóng trong xe đông lạnh tại Anh quốc. Trước đó có bao cái chết trên biển Đông, khi con dân Việt đánh đổi sự sống của chính mình trước một bạo quyền công an trị, lạm quyền để cực quyền, tham quyền vì cuồng quyền. Tất cả chỉ để phục vụ cho tà quyền tham nhũng trị, tham nhũng quyền lực để vơ vét tiền tài của nhân dân, mà không quên nạo vét tài nguyên của đất nước.
Nguyện ước của chúng ta chống lại cho bằng được cái chết, thì phải biến thành nguyện lực để xua đi cho bằng được cái rỗng, cái vắng, cái trống tới từ mọi nguồn ô nhiễm, cùng lúc xóa đi cái rồng tri thức, cái vắng công bằng, cái trống bác ái của đám đầu nậu quyền lực qua độc đảng toàn trị hiện nay.
Dứt Việt kiếp tháo chạy
Sự xuất hiện của bạo quyền độc đảng toàn trị trong lịch sử cận đại và hiện đại của Việt tộc, cũng là một lịch sử của những cuộc tháo chạy, để thoát họa nạn cộng sản. Chuyện tháo chạy của dân tộc vừa nói lên một sự thật giờ đã trở thành sử tính với sự độc quyền đảng trị, và qua gần một thế kỷ, sử tính này đã biến thành sử kiếp của Việt tộc, với những phản xạ tháo chạy mỗi lần Đảng cộng sản Việt Nam gây họa chiến tranh, hoặc do họ bất tài không quản lý được dịch bịnh như trong dịp hè 2021. Hãy vận dụng sử học cùng tâm lý học xã hội để phân tích và giải thích phản xạ tháo chạy, như một Việt kiếp khi dân tộc phải sống chung với bạo quyền độc đảng toàn trị. Việt kiếp tháo chạy có ngay từ đầu, khi Đảng cộng sản Việt Nam còn ẩn náu dưới lá cờ Việt Minh, nhưng chính những trí thức và văn nghệ sĩ đã nhận ra bản chất công an trị, thanh trừng trị, ngu dân trị của Đảng cộng sản Việt Nam, nên đã có phong trào "về thành" giữa những năm kháng chiến 1945-1954. Và khi đất nước bị cắt đôi, là một cuộc tháo chạy lịch sử từ Bắc vào Nam, với hơn một triệu đồng bào, bằng nhận thức thoát nạn cộng sản, đi tìm tự do tại miền Nam.
Việt kiếp tháo chạy lại diễn ra trên mức độ khốc liệt ngay trong nội chiến Bắc-Nam 1954-1975, với ba thời điểm kinh hoàng.
- Thứ nhất là năm 1968, với chiến dịch với tên gọi là Tổng tấn công vào dịp tết Mậu Thân, với đồng bào miền Trung, luôn chạy về phía quân đội Việt Nam Cộng Hòa, ngay tại Huế, những ai không chạy kịp, đã bị tàn sát với nhiều ngàn nạn nhân.
- Thứ hai là năm 1972, trong Mùa hè đỏ lửa, đồng bào miền Trung cũng chạy về phía miền Nam, với thảm cảnh của đại lộ kinh hoàng, trên quốc lộ Một, nơi mà bộ đội miền Bắc đã pháo kích để giết hại những người tháo chạy.
- Thứ ba là năm 1975, với cả miền Nam vào tay Đảng cộng sản Việt Nam, với dòng người vượt biên hàng triệu người với tên gọi thuyền nhân, kéo dài liên tục hơn hàng chục năm. Giờ đã có hơn một chục triệu người đã tháo chạy và đang sinh sống tại các quốc gia dân chủ.
Vậy mà Việt kiếp tháo chạy vẫn không ngừng nghỉ, với với hàng triệu con dân Việt tháo chạy bằng con đường xuất khẩu lao động, trai lao nô, gái nô tỳ cho các nước láng giềng… Và hiện nay, là cuộc tháo chạy nhiều chục ngàn người ra khỏi các thành phố đang bị phong tỏa, cách ly bởi đại dịch cúm Tàu.
Nếu có một ngày với một chính quyền dân chủ ra đời, thì chính quyền này phải tâm niệm ngay trong chính nghĩa của chính sách của mình là phải chấm dứt cho bằng được Việt kiếp tháo chạy, để thể hiện trọn vẹn giáo lý Việt : trong ấm ngoài êm.
Ông gánh hai cháu chạy trên Đại lộ kinh hoàng từ Đông Hà vào thị xã Quảng Trị trong Mùa Hè đỏ lửa 1972 (Nguồn: Internet)
Ngừng Việt kiếp vượt biên
Khi xã hội học di dân đi vào phân tích rồi giải thích về hiện tượng : vượt biên, thì các chỉ báo sau đây xuất hiện : vượt biên là đi ra ngoài không hợp pháp, có vượt biên là có chỉ báo đôi, sự nghèo đói song hành cùng đàn áp của bạo quyền. Vượt biên không chỉ là chỉ báo đôi, mà là bản chất đôi nói lên sự thất bại chính trị của một chế độ, một chính quyền, thường theo cùng với sự thất bại về kinh tế, nơi mà sự mất niềm tin dẫn tới chuyện lẩn trốn ra nước ngoài. Vượt biên không chỉ là chỉ báo đôi, có bản chất đôi, mà còn là khuynh hướng tương lai của một dân tộc, một quốc gia đang có cái mất đôi. Mất nhân lực cùng với mất chất xám, mất nguyên khí quốc gia cùng lúc mất các tiềm năng phát triển cho tương lai.
Từ đây, chính trị học và kinh tế học đưa ta tới những phân tích về những mất mát rất lớn của Việt tộc hiện nay là những tiềm năng từ nhân lực tới chất xám, không hề được các đầu đảng, đầu nậu, đầu sỏ, đầu sòng của Đảng cộng sản Việt Nam giải quyết vì bản chất của độc đảng toàn trị là liên minh giữa bạo quyền công an trị và quỷ quyền ngu dân trị để tiêu diệt vừa tài năng dân tộc, vừa năng lực trí thức. Những tiềm năng từ nhân lực tới chất xám khi chọn con đường vượt biên qua các nước phát triển và dân chủ, thì các đầu đảng, đầu nậu, đầu sỏ, đầu sòng của Đảng cộng sản Việt Nam dễ tái sản xuất đặc quyền, đặc lợi, đặc ân của nó chỉ qua chuyên chính vô sản, mà thực chất là chuyên chính vô minh không cần tri thức, chuyên chính vô tri không cần trí thức.
Cụ thể là chuyên chính vô học, chỉ cần cái ngu và cái ác có trong thú tính của một con dã thú để cai trị nhân dân đã và đang bị chúng "cừu hóa" bằng tà quyền tuyên truyền trị. Những tiềm năng từ nhân lực tới chất xám của dân tộc khi chọn con đường vượt biên qua các quốc gia biết tôn trọng các giá trị dân chủ và cộng hòa sẽ bị Đảng cộng sản Việt Nam khai thác qua ngoại tệ để nuôi chế độ. Và chất xám của tri thức của các cộng đồng hải ngoại sẽ không bao giờ được sử dụng như các động cơ để : phát triển đất nước, tiến bộ xã hội, văn minh dân tộc.
Khi một chính quyền cùng chế độ dân chủ mới ra đời, thì một trong những ưu tiên là sử dụng chất xám, vận dụng trí thức, tận dụng mọi câu nối giữa trong nước và ngoài nước, để ngừng thảm họa vượt biên, và cùng lúc phát triển tối đa hợp tác quốc tế, để con dân Việt được xuất ngoại một cách liêm chính nhất, chính thức nhất. Từ đó, chất dứt tâm địa của Đảng cộng sản Việt Nam là trục lợi ngoại tệ, chỉ thấy tiền mà không hề thấy-cho-tiềm lực chuyên môn và khả năng tri thức của Việt kiều.
Em bé bú mẹ đã tử nạn trên Đại Lộ Kinh Hoàng tháng 5 năm 1972 (Nguồn : Internet)
Việt kiếp mới : khử khuyết đức
Nhận diện những bè, đám, ổ, phái, tập đoàn đã và đang phá hoại đất nước, tha hóa dân tộc, hủ bại giống nòi, để khi một chính thể liêm chính ra đời, chúng ta sẽ sáng suốt nhập nội vào quy trình khử khuyết đức. Cụ thể là nhận diện và nhận dạng những gì đã tàn phá cơ đồ tổ tiên cùng tương lai của Việt tộc, từ khi Đảng cộng sản Việt Nam cướp chính quyền từ 1945 và độc quyền nắm quyền lực từ 1975 trên toàn bộ đất nước và xã hội. Hãy bắt đầu bằng khử khuyết đức từ gốc, rễ, cội, nguồn của cái chuyên chính vô sản thực ra chỉ là chuyên chính vô học trong vô hậu :
* Cái ác của công an trị
* Cái độc của ngu dân trị
* Cái thâm của tuyên truyền trị
* Cái hiểm của thanh trừng trị.
Khi nhận diện được cái ác, cái độc, cái thâm, cái hiểm đã tạo ra bao hiểm họa cho dân tộc, bạo thảm nạn cho xã hội, bao thiệt hại cho đất nước, thì phải nhận diện luôn những cái xấu, cái tồi, cái tục, cái dở đã sinh sôi nảy nở từ khi cái ác, cái độc, cái thâm, cái hiểm xuất hiện :
* Cái xấu của tà quyền tham nhũng trị, của lòng tham không đáy
* Cái tồi của của trọc phú trị, có tiền mà không có giáo dục
* Cái tục quan hệ-tiền tệ-hậu duệ, ngày đêm truy hủy trí tuệ
* Cái dở của chống lưng-ô dù-sân sau-lót tay-phong bì.
Khi cái ác của công an trị, cái độc của ngu dân trị, cái thâm của tuyên truyền trị, cái hiểm của thanh trừng trị, và cái xấu của tà quyền tham nhũng trị, cái tồi của của trọc phú trị, có tiền mà không có giáo dục, cái tục quan hệ-tiền tệ-hậu duệ, cái dở của chống lưng-ô dù-sân sau-lót tay-phong bì đã cùng nhau mang tội ô uế hóa, hủ bại hóa, mạt vận hóa và ung thư hóa từ giáo dục tới văn hóa, từ xã hội tới đạo đức…
Và khi ta khởi xướng quy trình khử khuyết đức thì chân trời tương lai là phát triển đất nước, tiến bộ xã hội, văn minh dân tộc được nhận ra và nhận rõ trong cái sạch của cộng hòa, và trong cái sáng của dân chủ. Chính hai cái sạch và sáng này, giúp ta nhận ra hai nội chất mới : cái hay, cái đẹp, cái tốt, cái lành của các giá trị cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái). Ra đời cùng cái cao, cái sâu, cái xa, cái rộng của các giá trị dân chủ (đa nguyên, công lý, nhân quyền). Cái sạch, cái sáng mở đường cho cái hay, cái đẹp, cái tốt, cái lành được song hành cùng cái cao, cái sâu, cái xa, cái rộng, đây chính là định nghĩa thượng nguồn của nhân quyền làm nên hạ nguồn vì nhân phẩm.
Chế độ công an trị là một nguyên tắc chính trị
Việt tộc trong khiêm cẩn
Khiêm trong khiêm tốn vì biết nhúng nhường để học hỏi, cẩn trong cẩn trọng khi tự nói, tự kể, tự trình về mình, khiêm cẩn để tránh khoe khoang, khiêm cẩn để vất ngạo mạng, khiêm cẩn để xóa kiêu căng, khiêm cẩn để trừ ngạo nghễ.
Khiêm cẩn trong từ tốn để học cho bằng được sự thông minh của đồng loại, học cho tới nơi tới chốn sự thông thái của nhân loại. Khiêm cẩn trong "biết người, biết ta" để biết nghe mà học tập, biết học để biết hành tác bằng lao tác nghiêm minh, bằng hành tác qua sáng tạo nghiêm túc, để tự cứu mình ra khỏi nghèo nàn lạc hậu. Khiêm cẩn đón từ kiến thức tới tri thức, biết đón mời để tiếp nhận phát triển vì tiến bộ, vì văn minh. Khiêm cẩn mở cửa từ ý thức tới nhận thức khi chung sống với đồng loại có văn minh, với nhân loại có văn hiến. Chuyện tự vỗ ngực ta đây, chỉ là trò trẻ dại của những kẻ chưa trưởng thành, còn là ếch ngồi đáy giếng, ra khỏi giếng lại không vượt được lũy tre làng, để tự hát tự khen, tự cho ta là nhất, làm trò cười cho thiên hạ. Đang là nô lệ của vô minh, vô tri của chính mình mà đã xem trời bằng vung.
Khiêm cẩn đón trong sự tu tập trong tỉnh táo, bằng sự học tập trong sáng suốt, tư mình phải nhủ-tâm-để-dặn-não là người Việt không phải là loại người giỏi nhất, thông minh nhất, cần cù nhất, chăm học nhất… Vì tất cả các nhận định bằng tỉnh từ và trạng từ này đều sai khi nó được phân tích để phân loại, giải thích để giải luận, là người Việt không giỏi nhất, không thông minh nhất, không cần cù nhất, không chăm học nhất… Mà nhận định ngược lại là người Việt dở nhất, tệ nhất, tồi nhất, xấu nhất… cũng sai. Gốc, rễ, cội, nguồn của mọi chuyện là hệ cảnh (bối cảnh, hoàn cảnh, thực cảnh), nếu có hệ cảnh thuận lợi từ chính trị tới kinh tế, từ giáo dục tới lao động, từ tri thức tới nhận thức… thì người Việt cũng sẽ thành công như mọi dân tộc đã thành công. Như Tây Âu và Bắc Mỹ đã thành công, và cụ thể nhất như các quốc gia cùng nôi tam giáo đồng nguyên cùng Việt Nam, như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc đã thành công.
Khiêm cẩn để được học tập trong học thật bằng học lực, chớ không bằng học giả với bằng giả, nên chúng ta phải ngày ngày tránh xa lối nói ngạo mạn bằng ngữ văn tuyên truyền trị, lánh xa lối phát ngôn ngạo nghễ bằng ngữ pháp ngu dân trị. Lánh cửa miệng của đám đầu đảng của Đảng cộng sản Việt Nam đã "truyền bệnh kiêu căng" cho quan chức của nó, thích nói xạo hơn nói thật, để kiêu căng trong cái dốt, khoe khoan trong cái ngu, "ta đây" trong cái xuẩn. Xuẩn động mà cứ tưởng là khôn, đây chỉ là trọng bệnh tâm thần của "lanh quá hóa đần".
Việt tộc trong nôi tam giáo
Khu vực văn minh tam giáo đồng nguyên, có các quốc gia như : Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, mà ta cũng không quên Singapour, trong đó có Việt Nam, là tên gọi chung của các nước này, cùng có chia sẻ chung về Khổng giáo, Lão giáo, Phật giáo, và ta không quên tại đây có đạo thờ tổ tiên. Khi vận dụng các chuyên ngành của khoa học xã hội : sử học, nhân học, xã hội học, thì các quốc gia này có các mẫu số chung sau :
* Văn hiến lâu đời với đạo lý từ tôn sư trọng đạo tới tầm sư học đạo, nơi mà hệ học (học thật, học tập, học hành) được tôi luyện qua hệ tu (tu tập, tu luyện, tu thân). Hiện tượng học giả-thi giả-bằng giả-điểm giả-học hàm giả-học vị giả là một hiện tượng xã hội hoàn toàn mới từ khi Đảng cộng sản Việt Nam cướp được chính quyền và độc quyền trong học giả cho tới nay.
* Văn minh vì biết tôn vinh hiệu quả lao động (thức khuya dậy sớm), biết tôn trọng hiệu năng sản xuất (dãi nắng dầm mưa), biết tôn sùng hiệu suất thường nhật (một nắng hai sương). Một sự văn minh biết bắt đầu bằng cẩn trọng trong quản lý (ăn bữa sáng, lo bữa tối) miệt mài trong sáng suốt với chữ nhẫn : nhẫn nại, bền tâm, vững chí với đường dài. Luôn tỉnh táo để đi lên trong thăng hoa : nay làm tớ, mai làm thợ, nhưng mốt phải làm chủ, làm chủ hành tác lao động để làm chủ lao tác sáng tạo của mình, với ý chí học tới nơi tới chốn và bình tĩnh với đường dài vì có gan làm giàu.
* Văn hóa có giáo lý của phương thức xã hội bằng thủ thân-phòng thân-lập thân-tiến thân qua mô thức đầu tư : thành tựu học tập-thành tài nghề nghiệp-thành công kinh tế-thành đạt xã hội. Nơi mà, của cá nhân và gia đình, tập thể và cộng đồng có cùng một nhận thức "một đứa làm quan cả họ được nhờ" bằng thực chất của học thật qua tu luyện, chớ không bằng học giả qua mua bằng bán cấp để mua chức bán quyền.
Liên hợp văn hiến-văn minh-văn hóa là cội nguồn của liên kết thủ thân-phòng thân-lập thân-tiến thân chế tác ra liên minh thành tựu học tập-thành tài nghề nghiệp-thành công kinh tế-thành đạt xã hội. Đây chính là nguyện ước của xã hội, nguyện cầu của dân tộc mà mọi con dân của Việt tộc phải biến thành nguyện lực tức khắc để bảo vệ giống nòi. Mà trước mắt là loại bỏ cho bằng được cái ăn xổi ở thì trong cái ăn gian làm dối của học giả-thi giả-bằng giả-điểm giả-học hàm giả-học vị giả.
Việt tộc chọn lựa các giá trị của nhân
Giữa cái giàu sang và sự tử tế thì đạo lý Việt đã chọn sự tử tế, giữa cá phú quý và tình nghĩa thì luân lý Việt đã chọn tình nghĩa. Khi ta đặc chọn lựa vào các vấn đề xã hội vĩ mô như chế độ, thể chế, định chế… thì sự chọn lựa tỉnh táo của thông minh, sự chọn lựa sáng suốt của thông thông thái, hoàn toàn không khó, rất dễ. Vì các giá trị của cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái) cùng các giá trị của dân chủ (đa nguyên, công lý, nhân quyền) đã được định hình tự nhiều thế kỷ nay.
Đã tạo được phát triển đất nước-tiến bộ xã hội-văn minh dân tộc, cho các quốc gia của Tây Âu và Bắc Mỹ, cụ thể hơn, gần hơn, cận kề hơn chính là các quốc gia cùng tam giáo đồng nguyên với Việt Nam, đó là Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc… Đây cũng là chuyện không cần phải suy nghĩ trong dằn vặt, suy tư trong đau khổ, suy luận trong đày ải, hãy cân, đo, đong, đếm trong thoải mái để thư thái mà nhân ra giữa độc đảng toàn trị với dân chủ đa nguyên để có đa tài, đa trí, đa tri, đa hiệu, đa năng… thì nên chọn đa nguyên.
Giữa bạo quyền công an trị với tự do dân chủ, thì nên chọn tự do để có tự chủ trong tự tin, để có tự lập trong tự cường. Giữa tà quyền tham nhũng trị với công bằng dân chủ, thì nên chọn công bằng để giữ công tâm, được bảo vệ bằng công lý của công luật. Giữa quỷ quyền tuyên truyền trị với sự thật trong tam quyền phân lập, thì nên chọn sự thật để sự thật được bảo đảm bởi tư pháp, để chân lý được bảo trì bởi lập pháp, để lẽ phải được thực hiện qua hành pháp. Giữa ma quyền ngu dân trị với nhân quyền để bảo vệ nhân phẩm, thì nên chọn nhân quyền để phòng thân bằng nhân lý, để thủ thân bằng nhân tính, để lập thân bằng nhân tri, để tiến thân bằng nhân trí.
Khi ta phải chọn lựa giữa bất công và công bằng, giữa cái thiện và cái ác, thì ta vẫn phải cẩn trọng là cái ác sẽ dùng quyền lực của nó để bố thí vài quyền lợi để ta "tạo nghiệp" qua tư lợi, trong không gian do nó quản trị. Nó liên tục "nhử mồi" ta bằng những đặc quyền, đặc lợi, đặc ân, với ý đồ là hủ hóa để hủ bại ta. Khi ta cúi đầu-nhắm mắt-khom lưng-khoanh tay-quỳ gối ngay trên tà lộ của nó, thì nó sẽ dẩn dắt từ bất chính tới bất lương, đưa đẩy ta từ bất nhân tới thất đức.
Câu chuyện chọn lựa luôn là chọn trên những giá trị. Và những chọn lựa vắng các giá trị đạo lý, trống các giá trị đạo đức, rỗng vắng các giá trị luân lý, thì những chọn lựa này chỉ là chọn lựa của bản năng, tức là của súc tính, chớ không phải nhân tính, tức là có nhân tâm, nhân từ, nhân nghĩa, nhân tri, nhân trí, nhân bản, nhân vị, nhân đạo, nhân quyền, nhân phẩm
Việt tộc nắm lại tự do
Khi một chế độ nhân bản mới ra đời tại Việt Nam, với nền móng của cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái), với tường mái của dân chủ (đa nguyên, công lý, nhân quyền), để làm tiền đề cho phát triển đất nước-tiến bộ xã hội-văn minh dân tộc. Nhưng sự bền vững của chế độ nhân bản mới này sẽ tùy thuộc vào một hệ thống giáo dục từ tiểu học cho đến hết đại học, và sau đại học thì giáo dục xã hội sẽ trợ lực không ngừng nghĩ về khả năng nắm giữ tự do của mỗi công dân, mà không một ý thức hệ nào có thể thao túng và giật dây được.
Tự do là kết quả tất yếu qua quá trình của hệ tự (tự tin, tự chủ, tự quyết, tự lập), nơi mà tự do là thành quả của một công dân đã trưởng thành như một chủ thể. Chủ thể này vừa quyết định nhân kiếp và tương lai của mình, lại vừa có trách nhiệm với đất nước, bổn phận với đồng bào, luôn có sáng kiến cụ thể cùng sáng tạo tích cực cho phương trình phát triển đất nước-tiến bộ xã hội-văn minh dân tộc. Ngay tại tiểu học, hệ thống giáo dục mới sẽ thừa hưởng các giáo khoa cùng các giáo trình biết giảng dạy con em của chúng ta thế nào là tự tin.
Cụ thể là tự tin trong học hỏi để có tự tin áp dụng các kiến thức được học nơi nhà trường để làm sinh hoạt cá nhân của mình cùng sinh hoạt gia đình được tốt hơn. Khi tới cấp trung học, chính học trình về sự tự tin sẽ dắt dìu các thiếu niên tự tự tin đến tự chủ, nơi mà tự chủ từ tư duy đến quyết định, tự quyết định đến hành động, với các nhiệm vụ rõ ràng với tha nhân, với đồng loại. Khi lên tới đại học, thì liên kết giữa tự tin và tự chủ sẽ giúp các thành niên trưởng thành trong tự quyết, với tư quyết có lý luận về đường đi nước bước của kiến thức dẫn dắt tới lập luận về đường đi nẻo về của tri thức, tạo ra ý thức về trách nhiệm với tập thể, với cộng đồng, với đồng bào.
Tất cả được thể hiện qua nhận thức tự quyết, không để một đảng phái chính trị nào giật dây bằng một loại ý thức hệ ngoại lai nào để đưa đẩy dân tộc vào nội chiến, sau đó là độc đảng toàn trị, nơi mà tự do bị bóp chết ngay trong trứng nước. Khi vào trường đời như một công dân có bổn phận với dân tộc, trách nhiệm với xã hội, nhiệm vụ với đất nước, thì phương trình thăng hoa cá nhân là thành tựu học đường-thành tài nghệ nghiệp-thành công kinh tế-thành đạt xã hội đã được thăng hoa với sự xác chứng của tự lập.
Khi Việt tộc có những công dân như chủ thể của cộng hòa với tự do của hệ tự (tự tin, tự chủ, tự quyết, tự lập), thì chắc bẩm là Việt tộc đã trưởng thành trong văn minh của dân chủ để tiếp đón văn hiến của nhân quyền.
Việt tộc cầm lại công lý
Khi một xã hội bảo vệ nhân vị mới ra đời trên quê hương Việt, bằng gốc, rễ của cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái), cùng cội nguồn của dân chủ (đa nguyên, công lý, nhân quyền), để làm bàn đạp cho phát triển đất nước-tiến bộ xã hội-văn minh dân tộc. Thì liên kết giữa gia đình-học đường-xã hội sẽ làm nên hệ thống giáo dục liên kết, và chính hệ thống giáo dục này mang giáo lý bền vững trong quan hệ giữa cá nhân-tập thể-cộng đồng-dân tộc, nơi mà tam quyền phân lập sẽ cùng xã hội dân sự cầm chắc công lý bằng công luật và công pháp. Muốn được như vậy, hệ thống giáo dục đôi này (giáo dục gia đình-học đường-xã hội và giáo dục cá nhân-tập thể-cộng đồng-dân tộc) thì chúng ta sẽ bắt đầu giáo dục thế nào là công bằng ngay trong giáo trình tiểu học như các quốc gia tiên tiến, đã biết tôn trọng các giá trị của cộng hòa và dân chủ.
Hiểu định nghĩa công bằng để có kiến thức cùng tri thức chống bất bình đẳng chính là nguồn cơn của bất công. Khi tới cấp trung học, các con em của chúng ta sẽ được giáo dục thường xuyên và giáo dưỡng trường kỳ thế nào là công lý, nơi mà sự thật của công bằng luôn dẫn tới chân lý của công lý. Nơi mà công bằng lẫn công lý đều được giáo lý minh bạch của đạo lý và đạo đức đưa đường dẫn lối từ lý luận tới lập luận, với giáo trình hiểu được công lý và giải thích được công lý (hiểu được thì giải thích được, giải thích được thì xem như đã hiểu rõ rồi). Tới cấp đại học, công bằng hội tụ cùng công lý để công pháp và công luật xuất hiện, nơi mà công lý sinh đôi với công tâm, tại đây luật pháp có khả năng xem-xét-xử các khúc mắt mà chính đạo lý và luân lý không kết luận được. Đại học có thanh niên trương thành như công dân với hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức) để luôn tỉnh thức từ giải luận tới diễn luận trước hệ công (công bằng, công lý, công tâm, công pháp, công luật).
Khi hệ thống giáo dục đôi (giáo dục gia đình-học đường-xã hội và giáo dục cá nhân-tập thể-cộng đồng-dân tộc) được trợ lực bởi hai hệ là : hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức) và hệ công (công bằng, công lý, công tâm, công pháp, công luật), thì dân tộc sẽ nhận ra đạo đức của hệ liêm (liêm chính, liêm minh, liêm sỉ). Nơi đây các giá trị của cộng hòa và dân chủ sẽ trợ duyên cho xã hội dân sự đấu tranh để chống bất bình đẳng lẫn bất công, và chung sức cùng tam quyền phân lập để hoàn tất rồi hoàn thiện hệ thông : thông minh trong giáo dục, thông thạo trong nghề nghiệp, thông thái trong tuệ giác) trước mọi thử thách nhân sinh, mọi thăng trầm nhân thế.
Việt tộc biết hóa để hợp
Kỳ vọng dựa vào một bạo quyền độc đảng toàn trị như Đảng cộng sản Việt Nam để được hòa hợp hòa giải dân tộc, sau gần nửa thế kỷ từ khi chấm dứt cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn Bắc-Nam (1954-1975) do chính Đảng cộng sản Việt Nam chủ mưu chỉ là một ảo vọng. Từ lãnh tụ thuở xưa tới lãnh đạo thủa nay, Đảng cộng sản Việt Nam sẽ không bao giờ thực hiện hòa hợp hòa giải dân tộc, chỉ vì mọi hòa hợp hòa giải dân tộc đều dựa vào nhân tâm biết dẫn dắt nhân đạo tới gặp nhân từ.
Đảng cộng sản Việt Nam vận dụng bạo lực cách mạng bằng bạo động chiến tranh và tiếp tục bạo hành dân tộc bằng công an trị, để bạo trị bằng độc trị, thì Đảng cộng sản Việt Nam sẽ không bao giờ đi vào con đường hòa hợp hòa giải dân tộc. Một con đường tuyệt đối cấm hệ bạo (bạo lực, bạo động, bạo hành, bạo trị) chính con đường này sẽ mở ra hai con đường khác : con đường cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái) và con đường dân chủ (đa nguyên, công lý, nhân quyền) với một nhà nước pháp quyền trong một xã hội pháp trị.
Nên hóa giải sẽ thay kỳ vọng hòa giải sẽ không bao giờ được thực hiện bởi Đảng cộng sản Việt Nam của hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn). Mà muốn hóa giải để được hòa giải, thì cũng chỉ có một con đường ở chân trời, do hai con đường trên vừa nhập lại làm một, đó là : con đường cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái) và con đường dân chủ (đa nguyên, công lý, nhân quyền).
Sự trưởng thành chính trị của một dân tộc là sự tỉnh táo trong sáng suốt không kỳ vọng vào một bạo quyền độc đảng toàn trị để cai trị dân tộc và đất nước : mà trưởng thành chính trị chính là sự thông minh và thông thái trong hóa giải !
Lê Hữu Khóa
(28/08/2021)