Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói rằng hành động mở rộng đơn phương của Trung Quốc ở Biển Đông cần phải được xử lý bằng các biện pháp hòa bình.
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc.
Fiji Press của Nhật Bản dẫn lời người đứng đầu chính phủ Việt Nam nói như vậy hôm 2/6 với báo chí "xứ sở mặt trời mọc".
Cơ quan báo chí này dẫn lời ông Phúc nói rằng chính quyền Hà Nội hoan nghênh các đóng góp tích cực của các nước, trong đó có Nhật Bản, để đạt được mục tiêu trên.
Thủ tướng Việt Nam đặt chân tới Tokyo hôm 4/6, bắt đầu chuyến công du "xứ sở phù tang", ít lâu sau khi trở về nước từ Mỹ, nơi vấn đề Biển Đông cũng nổi lên.
Tổng thống Trump và Thủ tướng Phúc hôm 31/5 đã khẳng định rằng Biển Đông là tuyến đường hàng hải có tầm quan trọng chiến lược đối với cộng đồng quốc tế.
Thủ tướng Việt Nam đặt chân tới Tokyo hôm 4/6, bắt đầu chuyến công du "xứ sở phù tang", ít lâu sau khi trở về nước từ Mỹ.
Theo tuyên bố chung công bố sau cuộc họp của hai quan chức tại Nhà Trắng, hai nhà lãnh đạo nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo tự do hàng hải, hàng không và các hình thức sử dụng biển hợp pháp khác.
Đôi bên cũng "bày tỏ lo ngại về tác động bất ổn mà những hạn chế bất hợp pháp đối với tự do trên biển gây ra đối với hòa bình và thịnh vượng của khu vực Châu Á –Thái Bình Dương".
Tin cho hay, quan chức hai nước "nhấn mạnh các bên cần kiềm chế, không có các hành động có thể gây gia tăng căng thẳng, như việc quân sự hóa các cấu trúc có tranh chấp".
Tuyên bố chung có đoạn : "Tổng thống Trump nhấn mạnh Hoa Kỳ sẽ tiếp tục cho tàu và máy bay di chuyển và hoạt động tại bất kỳ nơi nào luật pháp quốc tế cho phép".
Nhật Bản hiện cũng có tranh chấp chủ quyền biển đảo với Trung Quốc nhưng là tại biển Hoa Đông.
Ngoài vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh hải, Fiji News dẫn lời ông Phúc nói rằng thương mại cũng nằm cao trong nghị trình chuyến thăm của ông tới Nhật.
Nhật Hoàng và phu nhân tới thăm Việt Nam hồi tháng Ba, và ông Phúc được trích lời nói rằng sự kiện đó "mở ra chương mới trong quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước".
Sức ép nhân quyền trong chuyến đi Mỹ của ông Nguyễn Xuân Phúc (VOA, 30/05/2017)
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc hôm 29/5 đã đáp máy bay xuống sân bay quốc tế John F. Kennedy, New Yok, bắt đầu chuyến thăm 3 ngày đến Hoa Kỳ theo lời mời của Tổng thống Donald Trump, với trọng tâm là thúc đẩy thương mại và kinh tế. Thế nhưng theo các nhà vận động, sức ép nhân quyền trong chuyến đi này là điều không tránh khỏi.
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc tại sân bay quốc tế John F. Kennedy, New York, Hoa Kỳ, ngày 29/5/2017. (Ảnh chụp từ trang Zing.vn)
Từ Sài gòn, nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng nhận định sức ép nhân quyền trong chuyến thăm Mỹ của ông Phúc như sau :
"Sức ép nhân quyền đến từ cộng đồng người Việt Nam ở trong nước, đặc biệt là nạn nhân của chế độ bạo hành nhân quyền ; thứ hai là đến từ cộng đồng người Việt Nam ở Hải Ngoại, đặc biệt là cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ, họ đang kêu gọi cuộc biểu tình để phản đối chuyến đi Mỹ của thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ; thứ ba là đến từ cộng đồng quốc tế, đặc biệt là từ Mỹ, vừa qua đã có cuộc đối thoại nhân quyền Mỹ - Việt lần thứ 21 tại Hà Nội, nhưng theo tôi biết là kết quả rất mong lung hoặc là gần như không có kết quả gì".
Các dân biểu Hạ viện Hoa Kỳ điều trần về nhân quyền Việt Nam, ngày 25/5/2017.
Dân biểu Hoa Kỳ Chris Smith, đảng Cộng Hòa, đại diện bang New Jersey, nói với VOA – Việt ngữ :
"Sức ép do nhiều sự việc khác nhau, trên cơ sở là chính quyền toàn trị ở Việt Nam đã đàn áp người dân. Tổng thống, Chính phủ, và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cần đề cập vấn đề này với chính quyền Việt Nam. Chúng ta muốn một mối quan hệ tốt đẹp hơn với Việt Nam, nhưng điều đó chỉ xảy ra khi Việt Nam có tôn trọng nhân quyền".
Vào ngày 31/5, Thủ tướng Phúc sẽ gặp Tổng thống Donald Trump tại Tòa Bạch Ốc để thảo luận quan hệ thương mại giữa hai nước.
Ngoài ra, đây cũng là dịp để Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc "làm quen với tân tổng thống và chính quyền mới của Mỹ, đồng thời tìm hiểu chính sách của Washington với Châu Á và Đông Nam Á", theo nhận định của tờ Zing.vn.
Trước đó, hôm 25/5, Hạ viện Hoa Kỳ đã có buổi điều trần về sự "khủng hoảng nhân quyền Việt Nam", trong đó dân biểu Smith và các dân biểu khác như Ed Royce, Alan Lowenthal đều đồng thanh hối thúc Tổng thống Trump ra điều kiện nhân quyền đối với chính phủ Hà Nội.
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã gửi một phái đoàn đến Hà Nội để thực hiện đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ hôm 23/5 và gặp gỡ các chức sắc tôn giáo độc lập, cũng như các nhà tranh đấu nhân quyền hôm 25/5 tại Sài Gòn.
Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, Chủ tịch của tổ chức phi chính phủ BPSOS nói với VOA rằng cơ quan lập pháp, hành pháp của Hoa Kỳ, và cả Tòa Bạch Ốc đều quan tâm đến vấn đề nhân quyền Việt Nam, cụ thể ngày 26/5 vừa qua, ông Matt Pottinger, Giám đốc cao cấp phụ trách Châu Á, Hội đồng An ninh quốc gia của Tòa Bạch Ốc đã tham khảo ý kiến các nhà tranh đấu nhân quyền và tự do tôn giáo gốc Việt ở Mỹ trước khi ông Trump gặp ông Phúc.
Từ Hoa Kỳ, Tiến sĩ Thắng nói thêm về sức ép nhân quyền trong chuyến thăm Mỹ của Thủ tướng Phúc :
"Áp lực lớn nhất là chế độ ở Việt Nam hiện đang rất muốn cứu vãn nền kinh tế ở Việt Nam bằng con đường phát triển mậu dịch với Hoa Kỳ. Để đổi lại thì họ phải nhượng bộ những điều mà chúng ta muốn. Đó là cải thiện về nhân quyền, thực sự tôn trọng quyền tự do tôn giáo, chấm dứt ngay các hành vi tra tấn và cưỡng chế đất đai. Việt Nam phải trả tự do cho tất cả các tù nhân lương tâm".
Theo nhà báo Phạm Chí Dũng, trước chuyến đi của ông Phúc mà Hạ viện Hoa Kỳ tổ chức một buổi điều trần về nhân quyền và tự do tôn giáo như vậy là rất hiếm. Vì vậy, theo ông, sức ép này là "đủ lớn".
Ngoài ra, khi hỏi về hiện tượng nhiều nhà tranh đấu nhân quyền và môi trường bị bắt trước chuyến công du Hoa Kỳ của ông Phúc, nhà báo Phạm Chí Dũng nhận định rằng các vụ đàn áp nhân quyền rộng khắp vừa qua tại Việt Nam là sự thách thức với Mỹ của phe bảo thủ trong giới lãnh đạo Việt Nam, họ muốn đưa ra một thông điệp với Mỹ rằng "chúng tôi không cần nước Mỹ, và Việt Nam vẫn đàn áp nhân quyền".
Phái đoàn ngoại giao Hoa Kỳ do Trợ lý Ngoại trưởng Virginia Bennett (thứ ba, bên phải) dẫn đầu gặp gỡ các nhà tranh đấu Việt Nam tại Sài Gòn, ngày 24/5. (Facebook Huỳnh Thục Vy)
Tuy nhiên, theo nhà báo Phạm Chí Dũng, vẫn có một giả thuyết khác, rằng sự đàn áp nhân quyền vừa qua là "một chiến dịch cố ý nhằm phá đám" chuyến đi Mỹ của ông Phúc, do phe bảo thủ thực hiện :
"Trận đàn áp nhân quyền vừa qua là một chiến dịch cố ý để phá đám chuyến đi của ông Nguyễn Xuân Phúc. Lần đàn áp này là trải rộng. Thông điệp này không rõ ràng. Trong các các lãnh đạo Việt có những người vẫn âm thầm mong muốn cải thiện mối quan hệ với Hoa Kỳ, nhưng có những người khác thì bảo thủ, những người khác thì phá đám lẫn nhau. Nhưng chỉ biết rằngvới "thành tích" nhân quyền như vậy, phần nhiều, chuyến đi của ông Phúc khó mà đạt được những thành tựu khác như về thương mại".
Theo nhà báo độc lập, chuyện các lãnh đạo Việt Nam "phá đám" nhau bằng cách bắt giữ các nhà tranh đấu nhân quyền là có cơ sở, vì trước giờ vẫn thường xảy ra khi có lãnh đạo Việt Nam xuất ngoại, đặc biệt là đi thăm Mỹ, họ bắt các nhà tranh đấu nhân quyền có tiếng tăm "làm vật hy sinh".
"Ông Nguyễn Xuân Phúc sẽ rơi vào một thế khó trong con đường sự nghiệp chính trị, và khó cho cả đảng cầm quyền của Việt Nam. Ông sẽ về báo cáo cho Bộ Chính trị và ông Nguyễn Phú Trọng rằng chỉ còn một lối thoát là mở dân chủ, nhân quyền ra mà thôi".
Vì nếu không mở dân chủ, nhân quyền, Việt Nam không những không đáp ứng các điều kiện trong quan hệ thương mại với Mỹ, mà còn ảnh hưởng tới hiệp định Tự do thương mại với Châu Âu - EVFTA, tiến sĩ Phạm Chí Dũng nhấn mạnh.
****************
Ông Phúc sẽ đọc diễn văn ở Heritage Foundation (BBC, 30/05/2017)
Heritage Foundation, một viện nghiên cứu theo trào lưu bảo thủ và cổ vũ cho tự do sẽ tường thuật trực tiếp bài diễn văn của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.
Từ trái Benjamin Franklin, John Adams và Thomas Jefferson soạn Tuyên ngôn Độc lập : ông Jefferson được cho là người cha của chủ nghĩa tự do Hoa Kỳ
Trang web của Heritage Foundation (một số báo Việt Nam dịch là Quỹ Di sản) cho hay từ 1700-1800 ngày 31/05 này, họ sẽ phát trực tuyến (livestream) bài "diễn văn đặc biệt" của Ngài Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ở trụ sở của viện tại Allison Auditorium, 214 Massachusetts Ave NE, Washington, DC.
Vậy Heritage Foundation là gì và ý nghĩa của việc một lãnh đạo nước ngoài phát biểu tại đây là như thế nào ?
Trang web của Heritage Foundation tự giới thiệu họ là viện nghiên cứu và giáo dục bảo thủ lớn nhất nước Mỹ.
Họ đề cao các giá trị "tự do doanh nghiệp, hạn chế chính phủ, tự do cá nhân và quốc phòng mạnh" và coi đây là những nguyên tắc mang tính sứ mệnh của Heritage Foundation.
Trang giới thiệu của Viện nói : "Chúng tôi chiến đấu hàng ngày vì các giá trị đó của Hoa Kỳ".
Kể từ khi thành lập năm 1973, Heritage Foundation, tự coi mình là "thành trì của phong trào bảo thủ Mỹ", đã có hơn nửa triệu thành viên đóng niêm liễn.
"Họ ủng hộ viễn kiến của chúng tôi là kiến thiết một nước Mỹ nơi tự do, thịnh vượng, cơ hội và xã hội dân sự khởi sắc".
Chính quyền không bóp nghẹt doanh nghiệp
Hàng năm, Heritage Foundation công bố bảng xếp hạng tự do kinh tế về các quốc gia và viện này nói họ vận động cho các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và thị trường qua việc giảm các ràng buộc cơ chế và pháp luật.
Tổng thống Ronald Reagan lúc sinh thời trong một lần đọc diễn văn tại Heritage Foundation
Bảng này năm 2017 đặt Việt Nam ở vị trí 147, dưới Myanmar (146) và trên Uzbekistan (148), trong nhóm các nước "chủ yếu là không tự do" (Mostly Unfree).
Vẫn trong bảng này, các nước Châu Á khác đứng cao hơn Việt Nam rất nhiều : Hong Kong (1), Singapore (2) ; Đài Loan (11), Hàn Quốc (23).
Các nước từng hoặc vẫn có hệ thống cộng sản được Heritage Foundation xếp ở thang bậc cao hơn Việt Nam về tự do kinh tế, gồm bốn tiêu chuẩn : Pháp quyền, Tầm vóc của chính phủ (bộ máy càng to thì điểm càng thấp), Hiệu năng hành chính và Sự cởi mở của thị trường. Trung Quốc ở vị trí 111, Mongolia 129 và Lào 139.
Tại Hoa Kỳ, chủ nghĩa bảo thủ có nguồn gốc chính trị từ thời Tổng thống Thomas Jefferson nhưng cũng thu nạp nhiều luồng tư tưởng Châu Âu và Châu Mỹ.
Về kinh tế, phái bảo thủ Mỹ thuộc phe hữu, cũng tiếp nhận các ý tưởng Adam Smith, Friedrich A. Hayek, Milton Friedman, tới Ludwig von Mises.
Họ chống lại sự bành trướng của bộ máy hành chính bóp nghẹt tự do sáng tạo của doanh nhân và thị trường tự do.
Điều này khiến khái niệm 'bảo thủ' ở Mỹ khác với ở Việt Nam nơi 'bảo thủ' mang nghĩa là tập thể quản lý, kiểm soát doanh nghiệp, tăng thuế, theo mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu cũ.
Phái bảo thủ Mỹ cũng ủng hộ việc cắt giảm thuế, điều bị phe thiên tả phê phán là thực ra chỉ ủng hộ tầng lớp có của.
Thủ tướng Margaret Tharcher đón ứng viên Tổng thống Mỹ Ronald Reagan thăm London năm 1978
Trang web của Heritage Foundation có bài nói về sự ủng hộ dành cho chương trình cải cách thuế của Tổng thống Donald Trump.
Còn về chính trị - quân sự, những nhân vật thuộc dòng tư duy tự do nổi bật gồm có các tổng thống Harry Truman và Ronald Reagan.
Trên trường quốc tế, chính giới thuộc nhóm bảo thủ của Hoa Kỳ thường nhấn mạnh đến liên minh với Anh Quốc, nhất là thời Margaret Thatcher làm thủ tướng Anh.
Gần đây nhất, trang web của Heritage Foundation có bài của Peter Brookes cổ vũ cho liên minh Hoa Kỳ với Nhật Bản thời Thủ tướng Shinzo Abe theo hướng để Tokyo có vai trò lớn hơn về an ninh quốc tế.
Heritage Foundation do một hội đồng 22 thành viên tín thác (Board of Trustees) phụ trách, với người đứng đầu là Thomas Saunders III, từ một dòng họ thế phiệt của Hoa Kỳ từ New York, từng tốt nghiệp Viện Quân sự Virginia.
Nơi phát biểu phù hợp
Trước Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, các lãnh đạo cao cấp nhất khác của Việt Nam đều đã có phát biểu và diễn văn ở các viện nghiên cứu tại Hoa Kỳ.
Hồi tháng 7/2015, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đến thăm và có bài phát biểu tại Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế Hoa Kỳ (CSIS) cũng ở Washington, DC.
Hai ông Shinzo Abe và Nguyễn Xuân Phúc trước quốc kỳ hai nước và đội danh dự ở Dinh Thủ tướng Nhật Bản
Ba năm trước nữa, cũng vào tháng 7, Trung tâm CSIS đón Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đến đọc bài diễn văn mang tựa đề "Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ trong một Châu Á năng động và thịnh vượng".
Nếu như các phát biểu của ông Trọng và ông Sang được đọc tại CSIS chuyên về địa chính trị và hàng hải Đông Nam Á, diễn văn của Thủ tướng Phúc tại Heritage Foundation có vẻ phù hợp hơn cả với nhu cầu đề cao chính phủ kiến tạo, mở rộng không gian cho doanh nghiệp tại Việt Nam mà ông Phúc đã nêu ra liên tục thời gian qua.
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc là lãnh đạo Đông Nam Á đầu tiên và là lãnh đạo Châu Á thứ ba được tổng thống Mỹ Donald Trump đón tiếp tại Nhà Trắng, sau thủ tướng Nhật Shinzo Abe và chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Cho dù điều này không có nghĩa Việt Nam là quốc gia Châu Á quan trọng thứ ba đối với Hoa Kỳ, nhưng sự hăng hái gặp gỡ nhau và dành ưu tiên trong chương trình nghị sự của đôi bên, cũng nói lên được một ý nghĩa nào đó.
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc phát biểu trong hội nghị bộ trưởng Thương Mại APEC tại Hà Nội ngày 20/05/2017. REUTERS/Hoang Dinh Nam/Pool
Hoa Kỳ và Việt Nam có các vấn đề quan trọng về an ninh và kinh tế cần thảo luận. Với con số xuất siêu 32 tỉ đô la, Việt Nam đứng hàng thứ sáu trong số những nước đã khiến Mỹ bị thâm hụt thương mại 502 tỉ đô la trong năm ngoái. Nhờ sự gần gũi về ý thức hệ với Bắc Triều Tiên, Hà Nội có thể đóng một vai trò trong nỗ lực của Washington nhằm cô lập và gây áp lực lên Bình Nhưỡng. Và là đất nước nằm trải dài ở bờ tây của Biển Đông, Việt Nam nắm giữ chiếc chìa khóa cho sự thăng bằng sức mạnh trong khu vực.
Sau khi Mỹ rút khỏi TPP, Hà Nội rất muốn biết chính quyền Trump có thể đề nghị những gì để thay thế cho hiệp định này. Hà Nội cũng rất lo lắng về khả năng Washington có thể bỏ qua những quyền lợi của Việt Nam ở Biển Đông, để đổi chác sự hợp tác của Trung Quốc nhằm kềm chế Bắc Triều Tiên.
Theo nhà nghiên cứu Alexander Vuving, nếu những vấn đề nóng bỏng này khiến cho chuyến công du của thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc được chờ đợi, đó là nhờ một cấp độ mới trong quan hệ Mỹ-Việt. Nếu không, Việt Nam không phải gởi một trong những lãnh đạo cao cấp đến, và tổng thống Mỹ không phải sắp xếp lịch làm việc của mình để đến thăm Việt Nam vào giai đoạn sớm sủa này. Để hiểu được động lực căn bản, trước hết cần nhìn lại những diễn tiến trong thời gian qua.
Nhìn lại những bước ngoặt ngoại giao Mỹ-Việt
Từng là nơi mà ba triệu người Mỹ chiến đấu trong một cuộc chiến kéo dài hàng mấy chục năm, Việt Nam không còn là ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong thập niên 80 và 90. Trong thời kỳ dài này, Raymond Burghadt, đại sứ Mỹ tại Việt Nam từ năm 2001 đến 2004, ghi nhận "cách tiếp cận của Hoa Kỳ với Việt Nam tách biệt với bất kỳ kế hoạch chiến lược nào tại Đông Á". Việc tái lập quan hệ ngoại giao Mỹ-Việt năm 1995 là một dấu mốc hết sức to lớn trong quan hệ song phương, nhưng không phải là một sự xoay chuyển lớn trong chủ trương của Hoa Kỳ. Theo ông Burghadt, quan hệ đôi bên đã được siết chặt hơn vào cuối thập niên 90, chủ yếu nhắm vào các cơ hội kinh doanh, nhưng tiến độ vẫn chậm chạp.
Bước ngoặt lớn diễn ra vào năm 2001, khi chính quyền George W.Bush có quan điểm khắt khe hơn với Trung Quốc so với thời ông George H.W.Bush và Bill Clinton. Tổng thống Bill Clinton năm 1997 đã cam kết hướng tới việc "xây dựng quan hệ đối tác chiến lược" với Bắc Kinh, nhưng ứng cử viên Bush năm 1999 cho rằng Trung Quốc cần được coi là "đối thủ chiến lược", chứ không phải là "đối tác chiến lược".
Bà Condoleezza Rice, cố vấn an ninh của ông Bush, trong một bài viết năm 2000 nhận định Trung Quốc có "các lợi ích cốt lõi không thể giải quyết, đặc biệt về Đài Loan và Biển Đông". Bắc Kinh "bực tức trước vai trò của Hoa Kỳ tại Châu Á-Thái Bình Dương", và "muốn thay đổi sự thăng bằng quyền lực tại Châu Á sang hướng có lợi cho mình". Quan điểm địa chính trị này đã giúp nâng cao vai trò của Việt Nam trong chính sách Mỹ.
Sự cởi mở của chính quyền Bush đối với Việt Nam – đối thoại về các vấn đề chiến lược và hợp tác trong lãnh vực quốc phòng, an ninh – ban đầu vấp phải thái độ cứng rắn của Hà Nội. Sau một thời gian ngắn ngả sang phương Tây từ 1987-1989, Việt Nam lại xoay sang phía Trung Quốc vào năm 1990, đánh dấu bởi mật nghị Thành Đô vào tháng Chín. Trong khi những người chủ trương cải cách muốn duy trì quan hệ với Mỹ như một cánh cửa mở ra với thế giới, và là đối trọng với Trung Quốc, phe bảo thủ lại khăng khăng nói rằng Trung Quốc là bạn, người Mỹ là kẻ thù.
Năm 1990, cán cân quyền lực nghiêng hẳn về phía bảo thủ. Hậu quả là Việt Nam ở lại trong quỹ đạo của Trung Quốc, và thận trọng "đi dây" giữa hai đại cường. Trong chuyến thăm Bắc Kinh tháng 12/2001, tổng bí thư Nông Đức Mạnh hứa sẽ chống lại "chủ nghĩa bá quyền", lặp lại khẩu hiệu của Trung Quốc nhằm đối đầu với vai trò và sức mạnh của Hoa Kỳ. Đó là lần đầu tiên câu "thần chú" chống Mỹ xuất hiện trong thông cáo chung Việt-Trung, nhưng cũng là lần cuối cùng.
Chiến tranh Iraq và thế giới đơn cực
Việc Hoa Kỳ đưa quân sang Iraq năm 2003 đã khiến Việt Nam thay đổi hẳn quan điểm chiến lược. Chỉ trong không đầy 50 ngày, một cường quốc Trung Đông đã sụp đổ dưới sức mạnh quân sự của Mỹ. Chế độ bảo thủ Việt Nam bỗng thức tỉnh, chợt hiểu rằng đang sống trong một thế giới đơn cực do Hoa Kỳ dẫn đầu. Nhà nghiên cứu Alexander Vuving cho biết, lúc đó các quan chức Hà Nội đã hỏi ông một cách nghiêm túc, là liệu Việt Nam và Bắc Triều Tiên sẽ trở thành mục tiêu sắp tới hay không.
Tháng 7/2003, Trung ương Đảng ra Nghị quyết 8, không còn coi ý thức hệ là chìa khóa để xác định bạn-thù. Hà Nội chấp nhận các tiêu chí thực tiễn hơn để đánh giá một chính phủ nước ngoài là "đối tác" hay "đối tượng". Cựu đại sứ Mỹ Burghadt nhớ lại : "Vào nửa cuối năm 2003, các nhà lãnh đạo Việt Nam thông báo cho tôi là họ hoan nghênh những bước đi quan trọng mà nhiều năm qua họ từng chống đối".
Bước ngoặt trong chính sách đối ngoại của Việt Nam năm 2003 đã mở đường cho việc tham gia trật tự thế giới do Mỹ lãnh đạo. Hà Nội đẩy nhanh việc thương lượng gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), trở thành thành viên năm 2006 ; và đến năm 2008 sẵn sàng chấp nhận đề nghị của chính quyền Bush về việc tham gia hiệp định TPP.
Bắt đầu từ cuối những năm 2000, những thách thức không ngừng tăng lên từ phía Trung Quốc, đặc biệt là thái độ hung hăng của Bắc Kinh trên Biển Đông, đã tạo động lực mới cho mối quan hệ đối tác Việt-Mỹ. Một năm sau tuyên bố tại diễn đàn ASEAN ở Hà Nội tháng 7/2010, rằng "Hoa Kỳ có lợi ích quốc gia" trên Biển Đông, ngoại trưởng Hillary Clinton đã nêu ra chiến lược mới của Mỹ được gọi là "xoay trục", theo đó Hoa Kỳ muốn triển khai quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam. Trong chuyến đi Việt Nam tháng 7/2012, bà Clinton đã có động thái hết sức ưu ái, là mời tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sang thăm Hoa Kỳ. Người Mỹ hy vọng chuyến thăm chưa có tiền lệ này được thực hiện vào năm 2013.
Nhưng phe bảo thủ ở Hà Nội đã phá ngang chuyến đi của ông Trọng. Những gì mà phái cải cách và các đối tác Mỹ đạt được, là không phải ông Nguyễn Phú Trọng, mà chủ tịch nước Trương Tấn Sang đi thăm Mỹ, và kết quả là bản thông cáo chung về Hợp tác toàn diện Việt-Mỹ. Cần phải có một hành động khiêu khích lớn từ Bắc Kinh mới xoay chuyển được giới bảo thủ.
Giàn khoan Trung Quốc khiến Hà Nội mở mắt
Mùa hè năm 2014, Trung Quốc ngang nhiên đưa giàn khoan lớn nhất trị giá 1 tỉ đô la mang tên Hải Dương Thạch Du 981 sang vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam tại Hoàng Sa. Sự kiện này gây ra phong trào chống Trung Quốc đại quy mô kéo dài nhiều tháng trời tại Việt Nam. Đây là cuộc khủng hoảng tệ hại nhất giữa hai nước, kể từ sau vụ Trung Quốc thảm sát gần 70 thủ Việt Nam và chiếm sáu đảo nhỏ tại Trường Sa năm 1988.
Cuộc khủng hoảng giàn khoan này đã khiến các lãnh đạo Việt Nam nhận ra rằng Trung Quốc mới thực sự là đối thủ, còn người Mỹ là bạn. Cũng vào thời điểm này, Hà Nội quyết định đẩy nhanh việc chuẩn bị cho chuyến công du của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, tiến hành vào tháng 7/2015.
Việc tổng thống Barack Obama phá vỡ mọi nghi thức để đón tiếp tổng bí thư Việt Nam, vốn không có chức vụ chính thức trong chính quyền, là một sự kiện mang tính đột phá. Đây là dấu hiệu đáng giá, đã thuyết phục được các lãnh đạo Hà Nội, là Hoa Kỳ không câu nệ chế độ cộng sản của họ.
Nếu vụ giàn khoan năm 2014 lần đầu tiên cho thấy Hà Nội tin tưởng ở Washington hơn Bắc Kinh, thì chuyến đi của ông Trọng càng củng cố thêm khuynh hướng này, và giảm hẳn mối nghi ngại về sự đe dọa của Mỹ. Chuyến công du Việt Nam của ông Obama tháng 5/2016, nhân đó ông đã bãi bỏ lệnh cấm vận vũ khí áp đặt lên Việt Nam từ nhiều thập niên qua, càng làm tăng thêm sự tin cậy giữa hai cựu thù.
Quan hệ Mỹ-Việt còn chịu ảnh hưởng gián tiếp của Trung Quốc. Là một nước nhỏ, vấn đề sống còn của Việt Nam là phải khôn khéo trong quan hệ ngoại giao và chính trị, giữa Trung Quốc ở sát bên cạnh, và nước Mỹ tận bên kia đại dương. Từ 1990 đến nửa cuối năm 2003, Việt Nam còn nằm trong quỹ đạo của Bắc Kinh. Cuộc khủng hoảng giàn khoan năm 2014 đã giúp Hà Nội vượt qua cái giới hạn mong manh mà lâu nay vẫn tự hạn chế, để xích lại gần hơn với Mỹ. Đó là bối cảnh thuận lợi đồng thời là khó khăn trong chuyến thăm của thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.
"Make America Great" và quan hệ với Việt Nam
Hai bước ngoặt chính trong chính sách Mỹ đối với Việt Nam (2001 và 2011) là từ quan điểm cần phải cầm chân Trung Quốc, và Việt Nam có thể đóng vai trò chủ chốt trong nỗ lực này. Sự hung hăng của Bắc Kinh cũng khiến cho Washington một lần nữa chìa tay cho Hà Nội (2014). Còn phía Việt Nam, như đã nói, là từ sau vụ Mỹ can thiệp vào Iraq (2003).
Theo chuyên gia Vuving, trong lúc việc giữ thăng bằng quan hệ ngoại giao và chính trị giữa Washington và Bắc Kinh là vấn đề sống còn đối với nước Việt Nam nhỏ bé, thì việc giúp Hà Nội ý thức được cán cân quyền lực trên thế giới là chìa khóa thành công cho Hoa Kỳ tại Châu Á. Có ba phương diện chính : tăng cường năng lực kinh tế và quân sự của đôi bên, chứng tỏ sức mạnh của Mỹ trước Trung Quốc, và duy trì thái độ hữu nghị với Việt Nam.
Các mục tiêu trên cần được thực hiện qua một loạt các chính sách rộng rãi, chứ không giới hạn ở quan hệ song phương Mỹ-Việt. Đó là : một hiệp định thương mại và đầu tư hướng đến tương lai, chú trọng mặt luật pháp chứ không phải dựa theo hiện trạng đối với Biển Đông, và quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam.
1. Hiệp định thương mại và đầu tư bền vững
Đôi bên cần có một hiệp định thương mại và đầu tư vững chắc, giúp đẩy mạnh nền kinh tế và làm tăng sức mạnh quân sự một cách gián tiếp, mang lại lợi ích địa chính trị lâu dài. Tuy một thỏa thuận đa phương như TPP khó thể đạt được, Hoa Kỳ và Việt Nam có thể thương lượng một hiệp định mới, không chỉ nhằm cải thiện tình trạng giao thương Mỹ-Việt hiện nay, mà cả môi trường kinh tế Việt Nam. Một ví dụ là năm 2016, Việt Nam xuất siêu 32 tỉ đô sang Hoa Kỳ, nhưng lại nhập siêu 28 tỉ đô la từ Trung Quốc. Hiệp định mới cần nhắm đến việc giảm xuất siêu sang Mỹ qua việc tăng nhập khẩu thiết bị, hàng hóa kỹ thuật cao từ Hoa Kỳ và giảm nhập siêu hàng chất lượng thấp từ Trung Quốc.
2. Quan điểm trọng luật chứ không trọng hiện trạng tại Biển Đông
Ai kiểm soát được tuyến đường hàng hải quan trọng này sẽ khống chế được Châu Á, trong khi các đảo nhân tạo do Bắc Kinh hối hả bồi đắp gần đây đã biến Biển Đông thành một nút cổ chai. Nếu Trung Quốc biến được Biển Đông thành ao nhà của mình, thì vai trò và ảnh hưởng của Mỹ ở Châu Á sẽ bị sút giảm nghiêm trọng.
Trong nhiều năm qua, Hoa Kỳ chỉ nhắm đến việc giữ nguyên trạng, trong khi Trung Quốc nham hiểm lấn dần từng bước theo kiểu tằm ăn dâu. Bắc Kinh đã thành công trong việc vừa làm thay đổi tình trạng địa lý lẫn cán cân quyền lực, nhưng không gây ra xung đột vũ trang với các đối thủ. Khi chấp nhận hiện trạng, Washington vô hình trung đã khiến Trung Quốc có được lợi thế, trong khi mục tiêu phải là giữ nguyên hiện trạng ban đầu, chưa có bàn tay nhào nặn của Bắc Kinh.
Chính hiện trạng khởi thủy mới nằm trong lợi ích của Mỹ. Tình trạng hiện nay tại Biển Đông, với những đảo nhân tạo rộng lớn do Bắc Kinh xây lên, những phi đạo dài, các cảng nước sâu, hỏa tiễn địa-không và hỏa tiễn đối hạm, radar cao tần…hoàn toàn bất lợi so với trước khi Trung Quốc đào đắp.
Theo chuyên gia Vuving, Washington cần nhấn mạnh việc tôn trọng luật pháp, gồm toàn bộ các đạo luật và án lệ phù hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS). Bên cạnh đó là buộc Trung Quốc tuân thủ phán quyết của Tòa án Trọng tài Thường trực La Haye, coi đường 9 đoạn do Bắc Kinh tự vẽ là bất hợp pháp. Quan điểm "trọng luật" này có thể gây căng thẳng tạm thời, nhưng giúp tránh được chiến tranh sau này.
3. Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam
Cho dù Hoa Kỳ vẫn là siêu cường, Trung Quốc đang nhanh chóng thu ngắn khoảng cách tại Đông Á, sẵn sàng trở thành ngang hàng với Mỹ trong khu vực. Để duy trì ảnh hưởng, Hoa Kỳ rất cần đến các đồng minh trong vùng. Nếu Việt Nam trở thành đồng minh, cán cân sẽ nghiêng về phía Mỹ, với một quốc gia có vị trí chiến lược, khả năng kháng cự đã ăn sâu trong 90 triệu dân và kinh nghiệm hơn 2.000 năm đối phó với Trung Quốc cả trong thời chiến lẫn thời bình.
Liên minh này còn hơn cả một hiệp ước quốc phòng, có thể không đòi hỏi những cam kết tương tự như Hoa Kỳ đã ký kết với các đồng minh khác trong khu vực, và có thể được gọi là "quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện".
Theo ông Vuving, Washington và Hà Nội đang tiến đến hướng này. Tuyên bố về đối tác toàn diện Mỹ-Việt năm 2013 đề ra việc hợp tác trong nhiều lãnh vực, từ quan hệ ngoại giao cho đến kinh tế thương mại ; từ công nghệ, giáo dục đến quốc phòng và an ninh ; từ văn hóa, thể thao, du lịch cho đến di sản chiến tranh ; từ môi trường, y tế đến vấn đề nhân quyền. Trước thách thức ngày càng lớn từ Trung Quốc, quan hệ đối tác này cần được đào sâu thêm, nâng cấp lên mức độ chiến lược, giúp Hoa Kỳ và Việt Nam đối mặt được với thử thách của thời đại.
Khi nói chuyện với đại diện thương mại Mỹ Robert Lighthizer hôm 20/5 tại Hà Nội, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói : "Tôi mong rằng Hoa Kỳ tiếp tục duy trì sự hiện diện trong khu vực". Chỉ 5 năm trước đây, đó là điều mà các lãnh đạo Việt Nam chỉ nghĩ trong đầu mà không nói ra.
Chuyên gia Alexander Vuving kết luận, muốn thành công trong đối sách với Việt Nam, Hoa Kỳ cần phải thực hiện ba mục tiêu trên : một hiệp định thương mại đầu tư cho tương lai, buộc Trung Quốc tuân thủ luật pháp quốc tế trong vấn đề Biển Đông, và hoàn thành liên minh Mỹ-Việt, làm vô hiệu hóa ưu thế của Bắc Kinh tại Đông Nam Á. Đó cũng là những gì mà ông Nguyễn Xuân Phúc có thể bàn thảo tại Washington trong chuyến đi này.
Thụy My
Nguồn : RFI, 30/05/2017
Có nhiều biểu hiện có thể cho thấy Thủ tướng chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đang tìm cách che chắn cho mình. Không biết có phải do sức ép của bộ chính trị trước những nguy cơ có thật về một sự sụp đổ của chính phủ, bắt đầu bằng sự sụp đổ nền tài chính, mà trước hết là khả năng thanh toán các khoản nợ quốc tế tính trên đồng đôla mà Chính phủ phải trả, chỉ vì lỡ ký bảo lãnh cho các tập đoàn kinh tế quốc doanh.
Chắc chắn Nguyễn Xuân Phúc không muốn là người đổ vỏ cho Nguyễn Tấn Dũng sau khi ăn ốc dù được tặng hoa - Ảnh minh họa
Có thể ông Phúc đã không chịu là người đổ vỏ.
Những quyết định quá nuông chiều các Tập đoàn Quốc doanh trong việc vay vốn nước ngoài của chính phủ do ông Dũng cầm đầu, bây giờ tới lúc vỡ lở.
Thời ông Dũng, nhân danh dự án các quả "đấm thép", ông Dũng đã phê chuẩn hàng loạt các quyết định bảo lãnh cho các tập đoàn quốc doanh vay vốn của các đối tác nước ngoài. Và các tập đoàn đã không dùng tiền vay để tạo ra Đấm thép mà để đầu tư vào chứng khoán và bất động sản, kiếm chác và chia nhau những khoản lãi kếch xù những năm bong bóng phình ra hàng chục lần, trước khi chịu khủng hoảng tan vỡ bắt đầu năm 2012, để lại cho nền kinh tế quốc doanh sự trống rỗng và những khoản nợ không gì lấp đầy được. Không ai biết, trong những khoản vay mà chính phủ bảo lãnh, sẽ có bao nhiêu phần trăm "quay lại" chữ ký, khi các ông chủ các tập đoàn đấm thép đút túi hàng nghìn tỷ đồng, và để lại những khoản lỗ hàng trăm nghìn tỷ cho nền tài chính quốc gia. Chỉ một Vinashin cũng hô biến một lần hơn 80.000 tỷ. Và có tới hơn 13 tập đoàn, hàng trăm tổng công ty, hàng nghìn công ty con như vậy.
Nhưng cái khó chịu nhất là những chữ ký ấy không phải là chữ ký có tên Nguyễn Xuân Phúc, mà là tên ông Nguyễn Tấn Dũng, kẻ đang ung dnng "làm người tử tế" một các yên bình.
Còn bây giờ, "nợ công nếu tính đủ thì đã vượt trần", ngày 29/12/2016, ông Phúc phải kêu lên như vậy, đó là loại "tội phạm núp bóng doanh nghiệp". Ông Phúc đang kết tội ai ?
Các doanh nghiệp quốc doanh chính là thủ phạm của những thất bại mà ông đang phải đối diện, hay những gì mà cái chính phủ trước đó ăn rồi để lại vỏ cho ông, ông sẽ không thể âm thầm làm ra "cao thượng" để "áo gấm đi đêm" ; và nhất là bây giờ, ông Trọng có thể ngồi đấy mà đẩy mọi con cờ vào tay ông.
Tăng trưởng giảm, và sẽ tiếp tục giảm. Ngân sách thất thu không đủ chi. Tiền cho các chi phí thường xuyên, trong đó chủ yếu là chi lương thưởng cho bộ máy đảng và bộ máy hành chính khổng lồ không ngừng tăng, tạo cho Chính phủ một sức ép không thể chịu đựng. Ông phải vay để lấy tiền trả nợ, nhưng tiền vay mới, chưa kể không còn nguồn nào chịu cho Việt Nam vay, mà nếu có, những khoản vay này không còn ưu ái với lãi suất thấp như những năm trước. Vay những khoản vay có lãi suất cao để trả nợ cho những khoản vay ưu đãi trước đấy, mà cái "hời" đó thì cái chính phủ trước đã bóc sạch. Hết ân hạn. Bắt đầu phải trả cả vốn lẫn lãi.
Có phải ông đã thành một thứ trâu kéo cày như một nghiệp chướng định mệnh của ông Dũng không ? Sung sướng gì cái chân Thủ tướng vào lúc này. Trên đe, dưới búa.
Ai sẽ phải chịu cái tội gây ra những món nợ đang sắp không còn khả năng trả được này. Ai, ông không biết, nhưng không phải ông.
"Tôi nghe chuyên gia báo cáo, cảnh báo, nếu không chấm dứt tình trạng này, sự sụp đổ của nền tài khóa quốc gia không thể tránh khỏi". Ông bắt đầu dạo nhạc như vậy trong hội nghị tổng kết ngành tài chính được tổ chức chiều ngày 06/01/2017.
Ngay từ tháng 05/2016, Tiến sĩ Lê Ðăng Doanh đã cho rằng nếu tính đủ các khoản nợ từ cấp xã đến nợ xây dựng cơ bản của các bộ ngành, địa phương, nợ của doanh nghiệp nhà nước thì nợ công của Việt Nam có thể đã lên đến 110-120% GDP, khoảng trên 4,5 triệu tỷ đồng, tương đương khoảng 220 tỷ USD. Các khoản nợ này có lãi suất từ 3-8%, bình quân 5%, như vậy nếu tăng trưởng dưới 5%, thì quốc gia tất phá sản. Ông Phúc đang phải đi xiếc trên dây.
"Cháu nó lú, nhưng có chú nó khôn". Ông Phúc chịu tiếng văn hóa không hơn gì ông Dũng, nhưng hồi ông Dũng giải tán Hội Chuyên gia cố vấn, để tiện việc "sập xí sập ngầu, thì ông Phúc không làm thế, ông xin ông Trọng đưa ông Vương Đình Huệ xuống làm phó kinh tế cho ông, cũng gọi là ông biết người. Ông thưà biết không thể tìm chỗ dựa ở mấy thằng tập đoàn quốc doanh, át chủ bài của Thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chỉ giỏi biến tài sản công thành tiền bỏ túi.
Báo kinhtedubao.vn vừa đưa tin :
"Thủ tướng Chính phủ vừa ký văn bản giao các bộ, cơ quan liên quan triển khai thực hiện những nhiệm vụ đã nêu trong các tài liệu phục vụ Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XIV và một số nội dung của Quyết định số 1981/QĐ-TTg ngày 18/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ. Cụ thể… khẩn trương soạn thảo, hoàn thiện dự án Luật Quản lý nợ công (sửa đổi) trình Phiên họp Chính phủ tháng 2/2017".
Điều đáng chú ý là luật Quản lý nợ công sửa đổi sẽ quy định đưa các khoản vay nợ nước ngoài của các tập đoàn và các doanh nghiệp quốc doanh vào khái niệm nợ công quốc gia, phù hợp với cách tính của cơ quan thống kê của Liên Hiệp Quốc áp dụng cho mọi nền kinh tế.
Theo tinh thần mới nhất mà Thủ tướng Phúc họp với ngành tài chính và các ngành khác, nếu doanh nghiệp nhà nước không trả được nợ vay nước ngoài thì sẽ phải tự phá sản chứ không thể trông đợi vào sự cứu giúp của Chính phủ.
Số liệu báo cáo của Bộ tài chính, trong sáu tháng tới, có tới 30 % các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước đối diện với nguy cơ phá sản do mất khả năng thanh toán nợ nước ngoài.
Điều gì sẽ xảy ra khi Chính phủ của ông Phúc từ chối bảo trợ các doanh nghiệp quốc doanh ?
Một bộ phận của nền kinh tế Nhà nước sẽ bị bỏ rơi không thương tiếc ? Ông Phúc thực sự có ý định thủ tiêu "lực lượng chủ đạo của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" ? Ông Phúc chống lại quyết tâm "phát triển vững chắc nền kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể sẽ ngày càng chiếm vị trí chủ đạo" ghi trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) ?
Người ta không quên trước đó, phát biểu khai mạc Hội thảo quốc tế "Tạo dựng hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Việt Nam - Bài học thực tiễn từ Israel" diễn ra sáng 21/09/2016 do UBND Thành phố Hà Nội phối hợp với Đại sứ quán Israel và Tập đoàn FPT tổ chức, Phó thủ tướng Vương Đình Huệ cho biết "Chính phủ đã đưa ra những nhóm giải pháp rất cụ thể về tạo dựng môi trường thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo với mục tiêu có ít nhất 1 triệu doanh nghiệp hoạt động hiệu quả vào năm 2020". Và một triệu doanh nghiệp này là những doanh nghiệp tư nhân, quy mô vừa và nhỏ.
Nếu điều này được thực hiện, khu vực kinh tế tư nhân sẽ giữ khoảng 500 tỷ đôla tiền vốn, trong khi lượng tài sản do khu vực quốc doanh chiếm giữ, ước tính cho tới nay khoả̉ng 150 tỷ đôla, có khả năng không tăng mà thậm chí còn bị giảm, sẽ cho thấy một toàn cảnh nền kinh tế thị trường không còn tính chất định hướng xã hội chũ nghĩa nữa.
Tới năm 2025, khi cơ sở vật chất của một nền kinh tế công nghiệp hiện đại hình thành, sẽ chỉ còn kinh tế tư nhân. Cái ước vọng của ông Nguyễn Phú Trọng về một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, với duy nhất kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, vào cuối thế kỷ sẽ chắc chắn tiêu tan.
Ông Phúc đang làm gì, bắt đầu làm gì ? có phải ông đang bắt đầu cuộc hành trình về phía Thế giới, ngược chiều với ông Trọng ? Có một quy luật đã hiện hình từ rất lâu, rằng bất cứ kẻ nào ngồi ghế Chính phủ, dù tử tế hay không tử tế thì đều tìm cách đi ngược lại Đảng. Hình như khi tiếp cận thế giới, những người này ngô ra rằng, đảng đang đi ngược lại dòng chảy của loài người tiến bộ. Bất cứ ai, khi chấp nhận hội nhập, chấp nhận luật chơi chung toàn cầu, đều thấy cái quái dị của thể chế độc đảng cầm quyền, và không thể không phản bội nó. Cũng như trước đấy, tất cả các bộ trưởng ngoại giao, chỉ sau một nhiệm kỳ thì đều thất sủng. Đó là "tự diễn biến".
Nếu không biết cách tìm đến dân, không tìm kiếm sức mạnh từ phía các tổ chức chính trị xã hội, không biết dựa vào nguồn năng lượng vĩ đại như những cơn sóng thần đang vần vũ, thì rồi cũng lại đến lượt ông Phúc sẽ bị ông Trọng gạt ra ngoài lề bằng những thủ đọan có vỏ bọc "Giáo Làng".
Paris, 03/02/2017
Bùi Quang Vơm