Nhân vụ Đồng Tâm, đọc lại lịch sử :
Nếu không có Đảng cộng sản, ngay từ năm 1945 dân tộc Việt Nam đã có dân chủ, tự do và nhân quyền
Do sự xuất hiện của Việt Minh, đúng hơn, Đảng cộng sản Việt Nam, do đảng này cướp chính quyền ngày 19/8/1945, do sự phức tạp của thời thế và sự nóng nảy muốn giành độc lập nhất thời của một số người Việt, lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đã không những không biến chuyển như mọi người mong muốn mà còn đầy rẫy những ngộ nhận, từ đó những oan khuất cần phải được giải toả và làm sáng tỏ.
Hình ảnh Việt Minh cướp chính quyền tại Hà Nội ngày 19/8/1945
Đây là một việc làm vô cùng khó khăn mà một vài cá nhân khó có thể làm nổi. Tuy nhiên, tuy gọi là khó nhưng những người quan tâm và hiểu biết ít nhiều vẫn phải làm để sau này sẽ có người tiếp tục và điều chỉnh. Vì là một khoa học, sử học luôn luôn tiến bộ. Những gì gọi là đúng ngày hôm nay có thể sẽ cần phải được ít ra là điều chỉnh và bổ khuyết ngày mai, để phơi bầy sự thực lịch sử, không có gì gọi là chân lý vĩnh cửu trong môn học này. Người học sử không thể chủ quan nhất định cho rằng điều mình nói, viết ra hay được học mãi mãi là đúng, là chân lý bất di bất dịch.
Trong bài này cũng như một số bài trước, người viết xin gửi tới các bạn đọc, đặc biệt là các nhà tranh đấu cho một nước Việt Nam tự do và dân chủ, một vài nhận định về những gì Hoàng đế Bảo Đại và vị Thủ tướng đầu tiên của nước Việt Nam độc lập là Nhà giáo kiêm Học giả Trần Trọng Kim cùng với các bộ trưởng của ông, đã làm, trong một thời gian ngắn ngủi hơn ba thángcủa năm 1945, từ ngày 8/5 đến ngày 6/8/1945, để xây dựng một chính thể dân chủ lâu dài cho đất nước và ban hành các quyền tự do cho người dân từ cách nay trên 70 năm bằng những đạo luật phải nói là rất tiến bộ. Đây là một việc làm mà ba phần tư thế kỷ sau, với ít nhất ba thế hệ đã qua đi một cách uổng phí, với hàng triệu sinh mạng đã bị hy sinh cùng với máu và nước mắt của người dân lành vô tội, người ta vẫn chưa muốn làm hay chưa làm được.
Bốn bước tiến ngoạn mục
Bốn bước tiến đã được Hoàng đế Bảo Đại thực hiện trong thời gian này gồm có :
Thứ nhất : Ban hành dụ "Dân vi quý".
Thứ hai : Đích thân tham khảo ý kiến của các quan lại, các thân hào, nhân sĩ có uy tín để thành lập một chính phủ mới.
Thứ ba : Thành lập các hội đồng chuyên môn để mọi người có thể tham gia việc soạn thảo hiến pháp và các sinh hoạt quan trọng của quốc gia.
Thứ tư : Ban hành các đạo dụ liên quan đến các quyền tự do cơ bản của người dân.
Sau đây là những chi tiết liên hệ tới bốn bước tiến kể trên :
Khẩu hiệu "Dân vi quý" của Hoàng đế Bảo Đại
Đây là khẩu hiệu của vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn mà ai đã từng học sử Việt Nam đều biết và cũng là bước tiến đầu tiên của vị hoàng đế này trên đường thực hiện chế độ dân chủ của ông. Khẩu hiệu này được trích dẫn từ sách Mạnh Tử, một trong Tứ Thư của các nhà Nho ta thời xưa (1), nguyên văn là "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh" có nghĩa là "Dân là quý, sau đó là xã tắc, vua là nhẹ", được nhà vua chính thức đưa ra trong Dụ số 1, mở đầu cho một giai đoạn mới trong triều đại của ông. Dụ này được ban hành ngày 17/3 dương lịch năm 1945, nguyên văn như sau :
Dương Lịch, ngày 17 tháng 3 năm 1945
Nước Nhật muốn hoàn toàn thực hiện chương trình xây nền thịnh vượng chung ở Đại-Đông-Á đã giải phóng cho nước Nam ta, và Trẫm tuyên bố Việt Nam độc lập rồi.
Nay Trẫm có trách nhiệm đối với lịch sử và thần dân, nên tự cầm lấy quyền để bảo vệ lấy quyền lợi cho Tổ-quốc và giáng dụ rằng :
1. Chế độ chính trị từ nay căn cứ vào khẩu hiệu "Dân vi quí’.
2. Trong chính giới sẽ chiêu tập các nhân tài đích đáng để chỉnh đốn lại nền tảng Quốc gia cho xứng đáng là một nước độc lập chân chính có thể hợp tác với Đại-Nhật-Bản trong công cuộc kiến thiết Đại-Đông-Á.
3. Trẫm sẽ tài định và tuyên bố các cơ quan chính trị để ban hành những phương pháp hợp với nguyện vọng của Quốc dân.
Nhận định về đạo dụ này, Nguyễn Tường Phượng trong bài "Một đạo dụ, một chế độ" đăng trên Tri Tân tạp chí số ra ngày 20/4/1945, trên trang đầu, đã viết như sau :
"Ba điều ban bố trên đáng ghi vào lịch sử xứ này, thật là trên thuận lòng giời, dưới đẹp lòng dân, quốc dân rất trông mong ở sự thi hành triệt để khác nào như đói mong ăn và khát mong uống vậy.
Nếu một khi nhà nước dùng được người tài, đức vẹn hai ra gánh vác, đảm đương những trọng trách, lại thêm vào đấy cái chính sách thân dân, thể tất đến dân nguyện thời nền tảng quốc gia xứ này có thể phục hưng. Được như vậy, đạo dụ ngày 17/3 đáng ghi vào trang đầu lịch sử của nước Việt-Nam độc lập".
Còn Luật sư Bùi Tường Chiểu, trong bài "Đạo Dụ số 1 của Đức Bảo Đại Hoàng đế" đăng trên Thanh Nghị, số 107, "Số Đặc san Chính trị", ra ngày 5/5/1945, cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng đặc biệt của đạo dụ này. Ngay những dòng mở đầu ông viết :
"Đạo dụ trên đối với chế độ chính trị nước ta sau này có một tính cách quan trọng đặc biệt mà ta có thể nói rằng đạo dụ này đã nêu lên một cách tóm tắt những quả quyết rõ ràng những nguyên tắc kiến thiết chính thể nước Việt-Nam sau này".
rồi nhấn mạnh hơn đến ba chữ Dân vi quý, ông phân tích :
"Nay đạo Dụ số 1 đã nêu lên khẩu hiệu Dân vi quí có nghĩa là đức Bảo-Đại đã hủy bỏ cái lý thuyết cũ mà đến nay hầu hết các nước văn minh đã cho là không hợp thời. Đã lấy dân làm trọng, đã lấy quyền lợi dân để trên tất cả thì vua tất chỉ là một cơ quan tối cao trong nước điều khiển những cơ quan chính trị khác để phụng vụ quốc gia, tìm những phương pháp hợp với nguyện vọng của cả quốc dân mà thi hành. Như thế là trong nền chính trị đức Bảo-Đại Hoàng-Đế đã định đặt quốc dân ta đi vào một con đường mới".
Cuối cùng đi xa hơn nữa, vị luật gia này còn nói tới hiến pháp. Ông viết :
"Xong chúng ta có thể căn cứ vào điều thứ 3 của bản Dụ mà nói rằng đức Bảo-Đại sẽ tuyên bố các cơ quan chính trị mới mà trong câu cơ quan ấy sẽ có một cơ quan có quyền lập pháp. Muốn tổ chức một cách phân minh các cơ quan hành chính, lập pháp và tư pháp, tất nhiên phải có một đạo hiến-luật để ấn định rõ ràng những quyền hành của các cơ quan chính trị".
Đúng như vậy, Hoàng đế Bảo Đại sau đó đã từng bước tiến hành những biện pháp mang tính cách dân chủ để xây dựng một thể chế mới với sự đóng góp của nhiều người thay vì của một thiểu số quan lại trong triều. Sau đây là những nét chính của những nỗ lực này.
Đích thân tham khảo ý kiến của các quan lại, các thân hào, nhân sĩ có uy tín để thành lập một chính phủ mới.
Chính phủ mới
Nhằm thành lập một chính phủ mới, ngay từ chiều ngày 19 tức mười ngày sau khi Nhật đảo chánh Pháp và tám ngày sau khi tuyên bố Việt Nam độc lập, Bảo Đại đã họp với Phạm Khắc Hòe, lúc này là người thân cận duy nhất bên cạnh nhà vua, để "bàn việc chiêu tập nhân tài một cách cụ thể". Phạm Khắc Hòe, sau khi đã trao đổi ý kiến với Tôn Quang Phiệt, Tạ Quang Bửu, Bùi Bằng Đoàn và Ưng Úy, đã đề nghị lên nhà vua một danh sách 14 nhân vật sau đây :
- Nhà cách mạng lão thành Huỳnh Thúc Kháng (Huế)
- Giáo sư Tôn Quang Phiệt (Huế)
- Bác sĩ Trần Đình Nam (Đà Nẵng)
- Giáo sư Lê Ấm (Qui Nhơn)
- Bác sĩ Hồ Tá Khanh (Phan Thiết)
- Kỹ sư cầu cống Lưu Văn Lang (Sài Gòn)
- Luật sư Vương Quang Nhường (Sài Gòn)
- Ông Ngô Đình Diệm, nguyên Thượng thư Bộ Lại (Sài Gòn)
- Giáo sư Thạc sĩ Toán Học Hoàng Xuân Hãn (Hà Nội)
- Luật sư Vũ Văn Hiền (Hà Nội)
- Luật sư Phan Anh (Hà Nội)
- Ông Trịnh Văn Bính, tốt nghiệp Cao học Thương mại Pháp (Hà Nội)
- Ông Hoàng Trọng Phu, nguyên Tổng đốc Hà Đông
- Ông Trần Văn Thông, nguyên Tổng đốc Nam Định
Sau gần một giờ bàn thảo, 8 người đã được Bảo Đại lựa chọn. Tám người này gồm có :
- Trần Đình Nam (bác sĩ)
- Hồ Tá Khanh (bác sĩ)
- Lưu Văn Lang (kỹ sư)
- Hoàng Trọng Phu (nguyên tổng đốc Hà Đông)
- Trần Văn Thông (nguyên tổng đốc Nam Định)
- Hoàng Xuân Hãn (giáo sư thạc sĩ toán học)
- Phan Anh (luật sư)
- Vũ Văn Hiền (luật sư) hay Trịnh Văn Bính (tốt nghiệp Cao học Thương mại Pháp) tùy theo Hoàng Xuân Hãn lựa chọn vì Bảo Đại chỉ quen Hoàng Xuân Hãn trong số những người ở Pháp về (2).
Điều cần để ý ở đây là tất cả các vị này đều là những cựu quan lại hay những trí thức hay chuyên viên nổi tiếng đương thời và có gốc từ cả ba miền Nam, Trung, Bắc, thay vì chỉ có hai miền Trung và Bắc theo đúng như thẩm quyền của nhà vua ở thời điểm này vì xứ Nam Kỳ chưa được người Nhật trao trả. Các nhà hoạt động chính trị, kể cả những người được coi là thân Nhật đều không có tên trong danh sách này. Sự kiện này cho phép người ta nghĩ rằng quyết định và sự lựa chọn các nhân vật để tham khảo ý kiến kể trên của vua Bảo Đại và phía người Việt là hoàn toàn do nhà vua quyết định, không có sự can thiệp của người Nhật vì chỉ có hai người hiện diện là chính nhà vua và Phạm Khắc Hòe. Không những thế, tinh thần và ý chí thống nhất ba miền đã luôn luôn được nhà vua tôn trọng. Ngoài ra ta cũng nên để ý tới nhận xét của Luật sư Bùi Tường Chiểu về ý nghĩa và tầm quan trọng của cuộc tham khảo ý kiến này khi ông viết trong bài tham luận kể trên.
Cũng nên để ý thêm là những cuộc tiếp xúc kể trên chỉ là những cuộc tiếp xúc với những nhân vật tên tuổi, có chức vị đương thời. Ngòa i những người này, Bảo Đại, cũng qua Phạm Khắc Hòe, còn mời gặp thêm nhiều nhân vật khác nữa trong đó có Tôn Quang Phiệt, Tạ Quang Bửu, Đào Duy Anh, Hoàng Sử, Nguyễn Lân… Tất cả, theo hồi ký của Trần Thị Như Mân (bà Đào Duy Anh), đều đã "có vào" và Tôn Quang Phiệt có được cử "nói lên lời chúc mừng nước nhà độc lập và hứa nếu cần gì thì chúng tôi sẽ giúp không công cho nhà vua". Phạm Khắc Hòe không nói tới chuyện có vào này. Nói là giúp không công cho nhà vua như vậy nhưng sau này trong hồi ký của mình, Tôn Quang Phiệt lại ghi thêm là "Cũng nói thế thôi, chứ trong bụng thì đã có kế hoạch" (3). Tuy nhiên dù thế nào đi chăng nữa đây cũng là một bằng chứng cụ thể của thiện chí dân chủ hóa đất nước của Hoàng đế Bảo Đại.
Cuối cùng thì học giả Trần Trọng Kim đã được lựa chọn để lập chính phủ mới và ngày 8/5/1945, chính phủ này đã được chính thức trình diện.
Bước tiến thứ ba
Đặt nền tảng cho việc xây dựng chế độ mới và sửa soạn cho những công trình tái dựng đất nước lâu dài (sửa lại chính thể và toàn bộ guồng máy chính quyền).
Đây là bước tiến quan trọng thứ ba trong tiến trình xây dựng chế độ dân chủ bằng cách tạo dịp cho người dân mà đại diện là các nhân sĩ, trí thức và chuyên viên các ngành được tham gia việc nước, đồng thời thực hiện khẩu hiệu Dân vi quý của Hoàng đế Bảo Đại. Với bước tiến thứ ba này, vào khoảng từ trung tuần/sáu đến thượng tuần/bảy, vừa nhằm chiêu dụ nhân tài, vừa nhằm tạo cơ hội cho người dân được góp phần vào việc đặt nền tảng và thiết lập các cơ chế căn bản cho mọi phạm vi sinh hoạt lâu dài của đất nước, bốn hội đồng đã được thành lập qua ba đạo dụ và một đạo sắc với đầy đủ nhân sự để ngay lập tức có thể thực thi. Bốn hội đồng này gồm có :
Hội đồng Dự thảo Hiến pháp, do Phan Anh, Luật sư, Bộ trưởng Bộ Thanh Niên, người từ lâu đã nghiên cứu về hiến pháp và các thể chế đương thời làm Thuyết trình viên gồm có các ông Phan Anh, Hoàng Đạo tức Nguyễn Tường Long, Vũ Đình Hòe, Huỳnh Thúc Kháng, Hồ Tá Khanh, Nguyễn Huy Lai, Đặng Thái Mai, Vương Quang Nhường, Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Văn Sâm, Nhượng Tống, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Văn Thinh và Nguyễn Trác (Dụ số 60 ngày 7/7/1945. Dụ này được đăng trong Việt Nam Tân Báo số ra ngày 7/7/1945).
Hội đồng cải cách cai trị, tư pháp và hành chính, do Vũ Văn Hiền, Luật sư, Bộ trưởng Bộ Tài chánh, tác giả của nhiều bài nghiên cứu liên hệ, làm Thuyết trình viên, gồm có các ông Vũ Văn Hiền, Trần Văn Ân, Trần Văn Chương, Phạm Khắc Hòe, Lê Quang Hộ, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Văn Khoát, Trần Văn Lý, Trần Đình Nam, Nguyễn Khắc Niêm, Đặng Như Nhơn, Dương Tấn Tài, Nguyễn Hữu Tảo, Trịnh Đình Thảo và Phan Kế Toại (Dụ số 70 ngày 30/6/1945. Dụ này được đăng trong Việt Nam Tân Báo số ra ngày 9/7/1945).
Hội đồng cải cách giáo dục, do Hoàng Xuân Hãn, Giáo sư, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và mỹ nghệ làm Thuyết trình viên, gồm có bà Hoàng Thị Nga, các ông Hoàng Xuân Hãn, Tạ Quang Bửu, Kha Vạng Cân, Nguyễn Văn Chi, Hoàng Minh Giám, Nguyễn Thành Giung, Ngụy Như Kontum, Bùi Kỷ, Hồ Văn Ngà, Nguyễn Quang Oánh, Ưng Quả, Nguyễn Mạnh Tường, Hồ Đắc Thắng, Nguyễn Văn Thích, Hoàng Đạo Thúy và Nguyễn Xiển (Dụ số 71 ngày 30/6/1945. Dụ này được đăng trong Việt Nam Tân Báo số ra ngày 10/7/1945).
Hội đồng Thanh niên. Hội đồng này gồm có :
Chủ tịch : Hoàng Đạo Thúy, Huynh trưởng Hướng đạo
Phó Chủ tịch : Trần Duy Hưng, Bắc Chi bộ
Phó Chủ tịch : Tạ Quang Bửu, Nam Chi bộ
Cố vấn Bắc Chi bộ : bà Nguyễn Thị Thục Viên, các ông Nguyễn Xiển, Phạm Thành Vinh, Vũ Văn Cẩn,Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Mạnh Hà, Vũ Xuân Phương, Trần Văn Quý, Phan Huy Quát, Ngụy Như Kon-tum, Phạm Ngọc Khuê, Nguyễn Tường Bách.
Cố vấn Nam Chi bộ : bà Nguyễn Đình Chi, các ông Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Thủ, Tôn Quang Phiệt, Kha Vạng Cân, Nguyễn Tư Vinh, Huỳnh Văn Tiểng, Nguyễn Văn Thích, Nguyễn Kinh Chi và Thái Can (Sắc số 65 ngày 15/6/1945) (4).
Khi đọc danh sách các hội viên được đề nghị tham gia các hội đồng kể trên để trình lên Hoàng đế Bảo Đại phê duyệt, Phạm Khắc Hòe tỏ ý thắc mắc là có tên những người ông "chưa từng thấy bao giờ" nên đã hỏi Trần Trọng Kim và được Trần Trọng Kim cho biết là các danh sách này "đã được toàn thể Nội các và nhất là các ông bộ trưởng thuyết trình viên đồng ý cả rồi, tuy chưa hỏi được ý kiến của tất cả những người hữu quan, song chắc họ vui lòng nhận cả, vì lúc này ai mà chẳng sẵn sàng ra thờ vua giúp nước" và nói thêm "Vậy ông chịu khó xin Hoàng đế phê chuẩn đi cho kịp thời, đừng nên hỏi đi hỏi lại nữa". Kết quả, theo lời Phạm Khắc Hòe, là "chỉ mấy phút sau, bốn dự thảo của nội các trở thành ba đạo dụ và một đạo sắc chính thức" (5).Những lời đối thoại này cho ta thấy khả năng, tính cách hữu hiệu và làm việc chạy theo thời gian của Trần Trọng Kim và nội các của ông dù đó mới chỉ là ban hành được những đạo dụ hay đạo sắc, những văn kiện có giá trị như những đạo luật được quốc hội thông qua trong một nước dân chủ hiện đại, để làm nền tảng pháp lý cho những bước kế tiếp trong tương lai. Nó cũng nói lên tính cách hữu hìệu của chế độ quân chủ chuyên chế và sự tin tưởng của Hoàng đế Bảo Đại vào vị thủ tướng và nội các đương thời, vì bình thường những quyết định liên hệ đến thể chế và những cơ chế tương lai trong một quốc gia dân chủ không thể nào có thể thực hiện được trong vòng trên dưới hai/tính từ ngày Nội Các Trần Trọng Kim họp phiên họp đầu tiên, ngày 8/5, đến ngày 10/7, ngày đạo dụ cuối cùng trong bốn đạo sắc dụ này được đệ trình, rồi được vị nguyên thủ quốc gia phê chuẩn trong có "mấy phút sau". Một thời gian kỷ lục mà một quốc gia dân chủ hiện đại khó có thể làm nổi. Cũng nên để ý là các vị bộ trưởng được Trần Trọng Kim nói đến ở đây là Bộ trưởng Thanh Niên Phan Anh, Bộ trưởng Tài chánh Vũ Văn Hiền và Bộ trưởng Giáo dục và mỹ thuật Hoàng Xuân Hãn. Cả ba, ngòa i bằng cấp chuyên môn, đều là những chuyên viên hàng đầu của Việt Nam về các vấn đề liên hệ thời đó. Họ là những người từ lâu đã tìm hiểu, nghiên cứu và viết những những bài tham khảo bàn về những lãnh vực riêng của mình và là những cây bút nòng cốt của tờ Thanh Nghị, một thứ "think tank" của chính phủ đương thời. Đây cũng là dịp để các vị này thi thố tài năng và thực thi hòa i bão mà từ lâu họ đã từng thai nghén và mọi người mong đợi. Cũng nên nhớ là thành ngữ "thờ vua giúp nước" cho đến thời điểm này vẫn chưa trở thành lạc hậu. Điều nên để ý là trái với nhận định của một vài tác giả, tất cả những nỗ lực kể trên, người viết xin được nhấn mạnh, đều là những thành tích cụ thể của Hoàng đế Bảo Đại và Nội các Trần Trọng Kim nhằm thiết lập những cơ chế mới với nhân sự để chỉ còn thực thi là đầy đủ.
Bước tiến thứ tư
"Tuần lễ của các tự do"
Bước tiến thứ tư là ban hành một số những đạo dụ ấn định những nguyên tắc liên hệ đến các quyền tự do căn bản của người dân. Ba đạo dụ sau đây đã được báo Thanh Nghị số 117, ra ngày 21/7/1945 (6) ghi nhận theo thứ tự thời gian gồm có :
1. Dụ số 73, ngày 26/5 năm Bảo Đại thứ 20 tức ngày 5/7 dương lịch năm 1945 về tự do lập nghiệp đoàn.
2. Dụ số 78, ngày 1/6 năm Bảo Đại thứ 20 tức ngày 9/7/1945 về tự do lập hội.
3. Dụ số 79, ngày 1/6 năm Bảo Đại thứ 20 tức ngày 9/7/1945 về tự do hội họp.
Cả ba đạo dụ với nội dung phải nói là rất tiến bộ này đã được ban hành trong một thời gian ngắn là thượng tuần/bảy năm 1945 và báo Thanh Nghị đã gọi tuần lễ này là "Tuần của các tự do".
Về chi tiết, báo Thanh Nghị tóm tắt như sau :
Tự do lập hội : Từ nay phàm người công dân Việt Nam ai nấy đều có quyền lập những hội có mục đích chính trị, văn hóa, tôn giáo hay xã hội, ngòa i những hội có mục đích kiếm lợi. Chỉ cần mục đích của hội không trái với pháp luật, luân lý hoặc là có hại đến nền duy nhất và sự toàn vẹn của lãnh thổ quốc gia. Nhưng cần phải báo trước với nhà chức trách ít nhất là 30 ngày trước khi hoạt động
Muốn phân biệt các hội do đạo Dụ số 78 với các hội có mục đích kiếm lợi phải xét xem các hội viên có chia lãi cho nhau hay không ? Nếu chia lãi thì tất phải theo những luật lệ hiện hành về các hội buôn.
Nhiều người hội họp với nhau nhiều lần cũng lại không họp thành một hội vì không có điều lệ để hội viên theo. Cho nên trong tờ khai phải đính theo cả bản điều lệ của hội mình định sáng lập.
Hội có thể tự giải tán (theo điều lệ hay theo ý muốn toàn thể hội viên) hay bị tòa án giải tán, nếu mục đích trái với pháp luật, luân lý, hại tới quốc gia, nếu không khai báo cho đúng thể lệ (chưa kể những sự trừng phạt về tội hình những người có trách nhiệm). Tài sản của hội khi đó sẽ phân phát theo điều lệ của hội, theo quyết định của đại hội đồng của hội hay theo lệnh của tòa.
Có hai thứ hội : hội thường và hội được Hội đồng Nội các công nhận là một hội có ích lợi chung. Hội thường có quyền tố tụng, thu nhập tiền đóng góp của hội viên, có quyền mua, quyền sở hữu và quản lý nhà hội quán, quản trị những bất động sản mà Bộ Nội vụ và Tài chính cho phép mua. Còn hội được chính quyền công nhận là có ích lợi chung thì ngoài những quyền này còn có quyền được nhận những tặng dữ.
Tự do hội họp : Người dân được quyền tự do hội họp nhưng Dụ số 72 phân biệt hai thứ hội họp là hội họp trong tư gia có tính cách gia đình hay lễ nghi và các hội họp ở những nơi công cộng.
Đối với các hội họp trong gia đình hay lễ nghi hay những hội họp của các hội tư nhóm họp trong tư gia với số người tham dự không quá 30 người, người triệu tập không cần phải khai báo. Các cuộc hội họp khác cũng được tự do nhưng phải khai báo với nhà chức trách. Tất cả các cuộc hội họp ở các nơi công cộng như họp ở ngòa i đượng phố, trong các công viên hay các thị xã đều phải xin phép trước. Giờ họp không được quá 12 giờ đêm trừ khi có phép riêng. Ngòa i ra một nhân viên hành chánh hay tư pháp cũng có quyền tới dự.
Tự do nghiệp đoàn : Việc lập nghiệp đoàn cũng được coi như quyền tự do của nguời dân với những quy luật được ấn định trong Dụ số 73, theo đó, để tránh không cho những hội kiếm lợi giả danh làm nghiệp đoàn với mục tiêu trốn thuế, các nghiệp đoàn bị cấm không được chia lời cho các đoàn viên và khi giải tán thì của cải không được đem chia cho các đoàn viên. Đồng thời để bảo vệ những người trong nghề, dụ này cấm không cho nghiệp đoàn cưỡng ép những người này phải gia nhập hay bắt đoàn viên phải ở lại trong nghiệp đoàn vĩnh viễn nhưng ngược lại cho phép nghiệp đoàn được từ chối không nhận một người làm đoàn viên theo điều lệ của mình. Mặt khác, nghiệp đoàn có tư cách pháp nhân trong việc bảo vệ các quyền lợi của mình, có quyền sở hữu các động sản hay bất động sản nếu xin phép, có quyền liên kết với nhau để thành lập các liên đoàn và về phía chính quyền, chính quyền có quyền cử nguời kiểm soát việc quản lý tài chánh của nghiệp đoàn hay liên đoàn. Cuối cùng vì nghiệp đoàn là một tổ chức có thể dùng để tranh đấu nên người sáng lập bắt buộc phải có quốc tịch Việt Nam và phải ở trong nghề ít nhất một năm.
Vì ba đạo luật kể trên đã được ban hành trong thượng tuần/7/1945 nên tác giả của bài báo gợi ý gọi tuần lễ này là "Tuần lễ của các tự do". Mặt khác nếu người ta theo dõi những cuộc hội họp của người dân ở cả hai miền Trung và Bắc đã diễn ra liên tiếp từ ngày 10/3, sau ngày Nhật đảo chánh Pháp, đặc biệt là ở Huế và Hà Nội với hàng vạn người tham dự một cách tự do, thoải mái, thì sự ban hành các đạo dụ này "đã làm hợp pháp một tình trạng riêng của các tỉnh ở Bắc Bộ Việt Nam vì từ sau ngày 9/3 các hội, các đoàn mọc lên như nấm, các cuộc hội họp công khai tự do vô cùng" (7).
Kết luận
Tất cả các công trình lớn lao kể trên đã được đã được Hoàng đế Bảo Đại, Thủ tướng Trần Trọng Kim và các vị bộ trưởng trong chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, trong những hoàn cảnh vô cùng khó khăn và trong một thời gian kỷ lục chưa tới ba năm ngắn ngủi kể từ ngày 8/5 khi chính phủ này được trình diện đến ngày 6/8/1945 khi chính phủ này từ chức và được Hoàng đế Bảo Đại cho phép, ngắn hơn nữa nếu tính đến ngày 9/7, ngày các Dụ số 78 về tự do lập hội và số 79 về tự do hội họp được nhà vua chấp nhận. Đây là một phần của một cuộc cải cách rộng lớn hơn bao trùm mọi phạm vi sinh hoạt đương thời, gọi theo sử gia Na Uy Stein Tonnesson là "từ trên xuống", còn gọi theo Vũ Ngự Chiêu thì đó là một cuộc cách mạng nhưng cũng từ trên xuống : "cách mạng từ trên xuống". Cả hai sử gia này đều có lý vì tính cách nhanh chóng ít ai có thể ngờ của nó. Câu hỏi được đặt ra ở đây là làm sao nó có thể xảy ra được trong một chế độ quân chủ chuyên chế đã từng tồn tại cả ngàn năm như vậy ? Có ba sự kiện người ta có thể nghĩ tới để trả lời câu hỏi này. Đó là ý muốn và sự hiểu biết của người cầm đầu hay đúng hơn vị nguyên thủ quốc gia, ước vọng và khả năng của những người lãnh nhiệm vụ thực hiện cuộc cải cách theo ý muốn của vị nguyên thủ quốc gia ấy và cuối cùng là sự đón nhận của dư luận đương thời. Cả ba sự kiện này, Đế quốc Việt Nam ở thời điểm đương thời đều có đủ. Từ vua Bảo Đại đến thủ tướng Trần Trọng Kim và các vị bộ trưởng đều là những người được huấn luyện đầy đủ, có kiến thức và nhất là có thực tâm, tha thiết với nền độc lập và sự tiến bộ của nước nhà.
Điều đáng tiếc là biến cố 19/8 đã xảy ra, Việt Minh cộng sản cướp chính quyền và tất cả đều đã bị dẹp bỏ, điển hình là ngày 22/9/1945, chỉ 20 ngày sau khi tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh "bãi bỏ các nghiệp đoàn trong toàn cõi Việt Nam" (8) và Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp ký Nghị định ngày 14/9 giải tán Hội khai trí Tiến Đức trong khi cùng ngày lại ký một nghị định khác "cấp năng lực pháp luật" (9) cho hội "Văn hóa Cứu quốc Việt Nam" (Việt Minh) (10). Điều này cho ta thấy chế độ mới rất sợ các nghiệp đoàn, các hiệp hội và đặc biệt các cuộc biểu tình hay tụ tập đông người, đồng thời muốn độc quyền hoạt động trong mọi sinh hoạt quốc gia. Cuối cùng thì sau 75 năm, cho đến tận ngày hôm nay khi bài này được viết, bất chấp hai cuộc chiến kéo dài cả ba mươi năm, bất chấp mọi sự hy sinh, gian khổ, máu và nước mắt của hàng triệu người dân, nhân quyền, tự do và dân chủ, từ đó thống nhất dân tộc, vẫn nguyên vẹn chỉ là niềm mơ ước hầu như còn lâu mới đạt được của Quốc Dân Việt Nam. Trong khi đó hình ảnh của một xã hội Việt Nam theo xã hội chủ nghĩa vẫn tuyệt mù tăm tích hay có thì cũng chẳng có gì đáng lạc qua như các nhà lãnh đạo của Đảng cộng sản vẫn từng hứa hẹn, nếu không nói chỉ là bánh vẽ (11).
Ngày ông Táo lên chầu Trời, 17/1/2020
Phạm Cao Dương
Phạm Cao Dương là cựu Giáo sư đại học, Tiến sĩ Sử học
Chú thích :
(1) Đoàn Trung Còn, dịch giả :
- Tứ Thư, Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử, quyển Bảy, "Chương sau : Tận Tâm", Huế, Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2000, tr. 263 - Nguyễn Đức Lân (dịch và chú giải),
- Tứ Thư Tập Chú, "Mạnh Tử, Chương XIV, Tận Tâm, Chương Cú Hạ", Hà Nội, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 1999, tr. 1346.
- Nguyễn Hiến Lê, Mạnh Tử, Sài Gòn, Cảo Thơm, 1975, Nhà xuất bản Xuân Thu tái bản tại Hoa Kỳ, Los Alamitos, CA, tr. 58.
– Phan Bội Châu, Khổng học đăng trọn bộ. Houston, Xuân Thu tái bản tại Hoa Kỳ, không đề năm, tr. 463.
- Bàn về khẩu hiệu này, Phạm Khắc Hoè, Ngự tiền Tổng lý Văn phòng của Vua Bảo Đại và là người thân Việt Minh nằm trong Đại Nội bên cạnh nhà vua cho là do một người nào đó "mớm" cho nhà vua chứ Bảo Đại không thể có ý tưởng đó được. Nhận xét này nhiều phần không đúng nếu ta để ý tới căn bản giáo dục mà Bảo Đại nhận được xuyên qua Phụ đạo Lê Nhữ Lâm từ hồi ông mới 6 tuổi rồi sau đó theo ông sang Pháp trong suốt thời gian ông ở Pháp để dạy ông về đạo làm vua theo truyền thống Việt Nam trong đó có Khổng giáo, tiếp theo là những gì ông làm trong thời kỳ cải cách trước đó và những gì ông viết trong hồi ký sau này của ông.
- Xem thêm Phạm Khắc Hoè, Từ Triều Đình Huế đến Chiến khu Việt Bắc, Huế, Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1987, tr. 22-23.
(2) Phạm Khắc Hoè, dẫn trên, tr. 25-26.
(3) Tôn Quang Phiệt, "Tôi tham gia Cách mạng tháng Tám ở Huế", trong Xưa & Nay, Cơ quan Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, số 410, tháng 8/2012, tr. 6.
- Trần Thị Như Mân, Sống với tình thương, Hồi ký, Hà Nội, Nhà xuất bản Thanh Niên, 1988, tr. 49.
(4) Phạm Khắc Hoè, Từ Triều Đình Huế…, dẫn trên, tr. 41-43.
(5) như trên, tr. 41.
(6) Thanh Nghị, số 117, ngày 21/7/1945. Trong mục "Đời sống Đông Dương" qua bài báo nhan đề "Mấy đạo dụ về tự do", tr. 23-25,
(7) như trên, tr. 25
(8) Việt Nam Dân Quốc Công Báo, số 2, 6/10/1945, "Mục lục Công báo ngày 6/10/1945".
(9) Tư cách pháp nhân.
(10) Việt Nam Dân Quốc Công Báo, dẫn trên.
(11) Độc giả muốn biết thêm chi tiết có thể tìm đọc tác phẩm Trước khi bão lụt tràn tới : Bảo Đại – Trần Trọng Kim và Đế quốc Việt Nam, 9/3/1945 – 30/8/1945, 826 trang của cùng tác giả bài này, do Amazon in ấn và phát hành, 2017, 2018.
Ngày Xuân bàn về :
Ngôn ngữ và nhân cách Việt anh hùng
"Nói chuyện Tháng Giêng" là đề tài tôi viết để gửi đăng trên một số các báo xuân ở Hải Ngoại cách đây nhiều năm. Câu chuyện xoay quanh một số các từ ngữ từ sau năm 1975, vì lý do này hay lý do khác, hầu như không còn được dùng nữa.
Tháng Giêng Xanh là tên tuyển tập 55 bài thơ của nhà giáo Hoàng Thị Thu Hiền (giáo viên dạy môn ngữ văn của Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong, Thành phố Hồ Chí Minh - Ảnh minh họa
Người ta, đặc biệt là một số các xướng ngôn viên của các đài phát thanh, đã dùng những từ ngữ khác để thay thế. Trong số đó có từ ngữ "Tháng Giêng", được dùng để gọi tháng đầu tiên của một năm. Thay vì gọi hay đọc tháng này là Tháng Giêng, người ta gọi hay đọc nó là Tháng Một. Lý do có lẽ vì khi viết người ta dùng số 1 cho tiện dụng. Từ đó, "Tháng Chạp" trở thành Tháng Mười Hai, viết bằng số 12, và Tháng Một tất nhiên không còn là Tháng Mười Một nữa. Nhớ lại bài học thuộc lòng mà tôi có dịp học hồi còn nhỏ trong đó có các câu :
Tháng Giêng ăn tết ở nhà....
Tháng một, tháng chạp nên công hoàn toàn
mà thỉnh thoảng tôi vẫn thấy các thầy cô ở các trường Việt ngữ hiện tại thường nhắc tới. Tôi không khỏi bùi ngùi khi thấy một chuyện bình thường người ta không nên để xảy ra mà vẫn xảy ra này. Đây không phải là chuyện bảo thủ hay không bảo thủ, chống hay không chống chế độ mới, dù là chuyện liên hệ tới ngôn ngữ, mà ngôn ngữ vốn có tính chất qui ước và luôn thay đổi. Có điều qui ước hay không qui ước, thay đổi hay không thay đổi, người nói vẫn không thể vì lý do gì đi chăng nữa làm mất đi tính cách chính xác, trong sáng và phong phú của ngôn ngữ mình sử dụng.
Một thí dụ điển hình là người Mỹ, nói riêng, và dân của những nước nói tiếng Anh, nói chung, cũng ở vào trường hợp tương tự nhưng họ đã không làm như vậy. Khi viết, để cho tiện và không chính thức, họ vẫn dùng các con số 1 cho Tháng Giêng, 2 cho Tháng Hai... liên tục cho đến số 12 cho Tháng Chạp trong cách ghi ngày tháng của họ. Nhưng khi phải ghi một cách đầy đủ một cách hình thức và tránh nhầm lẫn họ vẫn viết rõ là January, February... December. Còn khi nói, khi đọc, chính thức hay không chính thức, họ luôn luôn dùng các tiếng này chứ không bao giờ dùng các con số thay thế.
Thoáng đó, nhiều năm đã trôi qua. Vì bận rộn với cuộc sống thường ngày, tôi không có dịp theo dõi chuyện này và bây giờ, khi viết bài này, chúng ta sắp bước sang Tháng Giêng của năm mới tây và tháng Giêng của năm mới ta thì cũng sắp tới, nên tôi chưa thể nói là bà con ta hiện tại có còn cái tật sử dụng tiếng Việt một cách bừa bài, cẩu thả như vậy nữa không. Nói như vậy vì nói tới tháng Giêng Tây nhiều người đã dùng chữ Một, tháng Một và tôi hy vọng các vị này dành hai chữ Tháng Giêng cho tháng đầu năm âm lịch. Tuy nhiên nhiều người khác cũng cảnh cáo tôi là đừng lạc quan hão, đồng thời thỉnh thoảng tôi cũng thấy có người đề cập đến vấn đề này như nói đến một nỗi buồn tiếng Việt.
Sự trong sáng và phong phú của ngôn ngữ của chúng ta dường như mỗi ngày một bị thui chột trước cuộc sống mới nặng về thực tế và lúc nào cũng tất bật, vội vã. Người ta đã nại đủ cớ, kể cả ngang ngược tự cho mình là đúng để muốn nói sao thì nói, muốn viết sao thì viết không theo một nguyên tắc nào cả, nhất là khi mọi người, vì lý do này hay lý do khác, kể cả lười biếng, thiếu suy nghĩ, dễ dãi chạy theo thói nhất thời hay để phá bỏ những gì của một thời xưa cũ.
Bây giờ nói tới chuyện mới hơn một chút. Gọi là mới, nhưng thực sự thì chuyện này đã xảy ra từ hơn hai mươi năm trước. Hồi đó là năm 1995, hai mươi năm sau khi chế độ Cộng hòa ở Miền Nam không còn nữa. Để tưởng nhớ tới biến cố quan trọng nhưng vô cùng phức tạp đối với dân tộc Việt Nam này, đài BBC của người Anh, một dân tộc nổi tiếng là lạnh lùng và thực tế, khác hẳn với người Pháp, đã phỏng vấn một số người Việt về sự khác biệt trong cuộc sống của người Việt Nam ở hai miền Nam-Bắc sau hai chục năm thống nhất đầy bi thương này. Một trong số những người được phỏng vấn là Giáo sư Sử học Trần Quốc Vượng thuộc trường Đại học Quốc gia Hà Nội. Tôi không nhớ rõ là để trả lời câu hỏi nào Giáo sư Vượng đã có dịp đưa ra nhận xét của mình khi đề cập tới tiếng Việt ở Miền Nam. Đại khái câu nói của ông là ông và nhà văn Nguyễn Tuân, một nhà văn rất nổi tiếng trong thời tiền chiến với lối viết tùy bút vô cùng ý nhị, vô cùng bóng bẩy, nặng tính chất hoài cổ của ông, rất lấy làm đắc ý về một câu nói của đồng bào Miền Nam là "Vậy mà không phải vậy". Phát biểu thế thôi, Giáo sư Vượng đã không giải thích thêm. Người nghe muốn hiểu sao thì hiểu và áp dụng vào khía cạnh nào của cuộc sống thì áp dụng, trong đó có cả sự kiện Miền Bắc đã dùng bạo lực đánh bại Miền Nam để thống nhất đất nước và tình trạng thống nhất hai miền hai chục năm sau đó. Thay vào đó, với thói quen nói lên sự thực của một người dạy và viết sử và với bản tính bộc trực, ông đã thêm một chữ khác hay được dùng ở miền Nam là chữ "nên" khác với chữ "phải" ở Miền Bắc. Với chữ "phải" này, ông chú thích thêm rằng "Đó là tiếng của cán bộ". Tôn trọng Giáo sư Trần Quốc Vượng và để độc giả được thong thả suy luận, theo đúng với tinh thần ra vô thong thả của người Miền Nam, tôi chỉ thuật lại nội dung đại khái của cuộc phỏng vấn này và không bàn rộng hơn nữa.
Hội hay Lễ hội
Trở lại chuyện mùa xuân và tháng Giêng. Cũng trong bài học thuộc lòng kể trên, câu thứ hai của bài này là :
Tháng Hai cờ bạc, tháng Ba hội hè...
Hội hè trong sinh hoạt cổ truyền ở Miền Bắc Việt Nam tượng trưng cho tinh thần và cuộc sống hồn nhiên, vui tươi, thoải mái, hoàn toàn tự do truyền thống không bị ràng buộc bởi những lễ nghi lôi thôi, phiền phức của người Việt theo Khổng giáo, sau những ngày lao động vất vả với đầy dẫy những lo âu mà trên từ vua chúa, quan lại, dưới đến các nhà đạo đức tôn sùng Khổng Giáo hay các bô lão ở các xã thôn đều phải tôn trọng, không động tới.
Người ta đã mở hội để không chỉ riêng dân trong làng vui chơi mà luôn cả dân từ các làng khác hay sau này từ các thành phố về tham dự.
Mùa xuân ấy ông tôi lên tận tỉnh
Đón tôi về xem hội ở làng bên...
Những hội hè này trong suốt thời Pháp thuộc vẫn đều đặn được mở với tất cả những tiết mục mà một số vượt ra ngoài trí tưởng tượng của người trẻ của thế hệ hiện tại. Trừ một số hội chùa hay một số hội đền, đa số các hội được người ta trẩy để vui chơi, để gặp gỡ và nếu có phải lễ thì lễ ít hơn là hội. Chữ lễ do đó hầu như không được dùng mà chỉ có chữ hội hay hội hè hay hội hè đình đám mùa xuân cho cả trăm hội ở khắp trong nước, ở miền núi cũng như khắp miền xuôi, từ hội đền như Hội Đền Hùng, Hội Đền Kiếp Bạc,... hội chùa như Hội Chùa Hương, Hội Chùa Keo,... hội phủ như Hội Phủ Giầy... đến các hội làng. Tất cả đều là hội. Không hề có hội lễ hay lễ hội. Lý do rất đơn giản. Đó là vì hội là mục đích chính và lễ là phụ. Người ta trẩy hội là để vui chơi, để xem hội. Còn lễ thì chỉ là cái cớ, có lễ thì càng tốt mà không lễ thì cũng chẳng sao, không bắt buộc. Người Việt bản chất rất bao dung về tôn giáo, tín ngưỡng. Không phải chỉ qua ngôn ngữ bình thường mà qua thi ca, sau này là tiểu thuyết... người ta cũng thấy phản ảnh rõ rệt điều này. Nhưng đó là chuyện của quá khứ.
Khai hội chùa Hương hay Lễ hội chua Hương ? - Ảnh minh họa
Sau một thời gian bị lãng quên vì chiến tranh và vì cách mạng, các hội hè cổ truyền của người Việt, do nhu cầu bảo tồn truyền thống của dân tộc, nhu cầu phát triển du lịch hay nhu cầu thuần túy chính trị..., đã được mở lại. Đây là một cố gắng đáng khích lệ. Nhưng từ hội hè theo đúng tinh thần của những biến cố đặc trưng cho một nếp sống đã tồn tại từ nhiều ngàn năm, đổi sang lễ hội với những mục tiêu thực tế, người ta đã vô tình làm mất đi ý nghĩa hồn nhiên, căn bản ban đầu của một hình thức biểu hiện cuộc sống tập thể ở nông thôn thời xưa của người Việt vậy.
Từ 81 Biệt kích Dù Việt Nam Cộng Hòa đến Chiến tháng Đống Đa
Ngôn ngữ là phương tiện để truyền đạt nhưng không phải chỉ là thuần túy truyền đạt mà còn là một biểu hiện của tinh thần, của nếp sống và rộng ra là của văn hóa của người sử dụng và của dân tộc sử dụng ngôn ngữ ấy. Coi là phương tiện, người ta có thể sử dụng nó một cách tùy hỷ nhưng điều này chỉ nên áp dụng cho những gì liên hệ tới cuộc sống tạm bợ hàng ngày. Đối với những phạm vi khác liên hệ tới quá khứ và tương lai lâu dài hơn, người sử dụng phải vô cùng thận trọng hầu tránh làm mất đi những tính cách chính xác, trong sáng và phong phú của ngôn ngữ mà mình yêu mến và có may mắn được dùng vậy. Việc làm nói ra thì dễ nhưng thực hiện và thường xuyên thực hiện, bắt đầu tự nhắc nhở và nhắc nhở người khác không dễ chút nào.
Từ Chiến thắng Đống Đa đến Giỗ trận Đống Đa
Nói chuyện Tháng Giêng mà không nói tới Chiến thắng Đống Đa năm Kỷ Dậu 1789 của Vua Quang Trung là một sự thiếu sót. Có điều vì chiến thắng này đã được quá nhiều người nói tới mỗi độ xuân về nên người viết đã tránh không viết thêm vì sợ làm rậm mắt người đọc. Tuy nhiên trong những ngày cuối năm 2019 này một sự kiện bất ngờ đã xảy ra trong Cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại khiến người viết thấy cần phải viết ít dòng vì nó liên quan tới tinh thần và truyền thống từ bi, bao dung, trọng nhân nghĩa, coi nghĩa tử là nghĩa tận của người Việt, đặc biệt là trong những ngày trước và sau Tết Nguyên Đán. Đó là sự kiện hài cốt của 81 chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa thuộc Tiểu đoàn 7 Nhẩy dù tử nạn máy bay trong thời gian Chiến tranh Ba Mươi Năm (1945-1975) vừa qua, được cựu Nghị sĩ Mỹ Jim Webb vận động đem từ Hawaii về an nghỉ trong nghĩa trang Westminster Memorial Park, Thành phố Westminster, Nam California, Hoa Kỳ.
Tai nạn xảy ra ngày 11/12/1965, mãi đến ngày 26/10/2019, tổng cộng ngót 54 năm, hài cốt của các nạn nhân mới được an táng. Lý do là xác máy bay chỉ được tìm thấy vào năm 1974 và di cốt các nạn nhân được chuyển qua Thái Lan, rồi Hawaii để nhận diện, sau đó là tìm nơi an nghỉ.
Nghị sĩ Jim Webb dưới thời Tổng thống Ronald Reagan làm Bộ trưởng Hải quân được Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ trao cho trách nhiệm giải quyết vấn đề này. Ông đã liên lạc với Chính phủ cộng sản Việt Nam nhưng đã bị chính phủ này từ chối hai lần, không cho những hài cốt này hồi hương an táng tại Việt Nam. Cuối cùng người Mỹ phải quyết định đem tất cả về an táng ở các nơi có Cộng đồng người Việt Nam đông nhất thế giới, sau hơn nửa thế kỷ vô thừa nhận. Lễ an táng đã được cử hành trọng thể với đầy đủ lễ nghi quân cách do Hải quân Hoa Kỳ và các cựu chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đảm nhiệm.
Lễ an táng hài cốt của 81 chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa thuộc Tiểu đoàn 7 Nhẩy dù tử nạn máy bay ngày 11/12/1965 đã được cử hành trọng thể tại Westminster Memorial Park...
...với đầy đủ lễ nghi quân cách do Hải quân Hoa Kỳ và các cựu chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đảm nhiệm.
Các nguồn tin không nói rõ lý do khiến cho các nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam từ chối lời đề nghị của người Mỹ cho hồi hương các di cốt của 81 chiến sĩ nhảy dù Việt Nam Cộng Hòa về quê hương Việt Nam để an táng họ, nhưng nói chung không ngoài tâm trạng thù địch và sợ hãi nhìn đâu cũng thấy, điều được gọi là "các thế lực thù địch" và phải phòng ngừa của các nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam hiện tại.
Tình trạng này hoàn toàn trái ngược với truyền thống vốn có từ lâu của dân tộc Việt Nam, ít ra là từ sau thời nhà Trần đại thắng quân Mông Cổ, đến thời vua Lê Thái Tổ đánh đuổi quân Minh rồi vua Quang Trung đánh bại quân Nhà Thanh.
Gương đốt cả một tráp chứa đầy biểu xin hàng giặc Mông Cổ thời vua Trần Nhân Tông để làm yên lòng những kẻ có dã tâm phản trắc cũng như việc Nhà vua cởi ngự bào đắp lên đầu tướng Mông Cổ Toa Đô, kèm câu nói bất hủ "Làm bầy tôi nên như người này !" hay sau này thời Lê Thái Tổ đuổi quân Minh, đối với kẻ thù truyền kiếp : "Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển chưa thôi trống ngực. Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tầu còn đổ mồ hôi. Nó đã sợ chết cầu hòa, ngỏ lòng thú phục ; ta muốn toàn quân là tốt, cả nước nghỉ ngơi" đã không được những kẻ chiến thắng thời 1975 noi theo, đối với chính đồng bào của mình, từ đó không có được cảnh :
Tứ hải dĩ thanh, trần dĩ tĩnh,
Kim niên du thắng tích niên du.
Bốn bể yên rồi, dơ bụi tạnh,
Cuộc chơi năm trước kém năm nay.
(Thơ Thượng hoàng Trần Thánh Tông,
Ngô Tất Tố dịch)
hay như vua Trần Nhân Tông được thấy cảnh :
Bạch đầu quân sĩ tại,
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong.
Lính già phơ tóc bạc,
Kể chuyện thuở Nguyên Phong.
(Xuân Nhật Yết Chiêu Lăng,
Ngô Tất Tố dịch)
Một hình ảnh vô cùng đẹp đẽ, yên bình của những người già đã làm xong bổn phận ngồi kể lại cho con cháu nghe, hay rộng rãi hơn, trong toàn cảnh xã hội :
Trung hưng văn vận mại Hiên Hy,
Triệu tính âu ca lạc thịnh thì.
Trung hưng văn vận vượt đời xưa,
Thời thịnh muôn dân ngợi hát ca.
(Thơ Trần Nguyên Đán (1325-1390),
Nguyễn Đức Vân, Đào Phương Bình dịch)
Trung hưng ở đây có thể hiểu là thời sau thời nhà Trần bình được quân Mông Cổ, khôi phục lại được Kinh đô Thăng Long, giữ vững được quyền làm chủ đất nước. Hiên là Hiên Viên và Hy là Phục Hy, hai vị hoàng đế trong huyền sử Trung Hoa, còn Trần Nguyên Đán là ông ngoại của Nguyễn Trãi vị công thần đệ nhất của Triều Lê, tác giả của Bình Ngô Đại Cáo.
Cuối cùng, gần chúng ta nhất và cũng là đề tài cho bài viết lần này là chuyện Chiến thắng Đống Đa và Giỗ trận Đống Đa. Chiến thắng Đống Đa là chiến thắng của người Việt Nam trước kẻ thù Phương Bắc xảy ra vào năm Kỷ Dậu, 1789, mà không một người Việt Nam nào không biết và không lấy làm hãnh diện ; nhưng trong lịch trình những ngày lễ của người Việt người ta đã không ghi là chiến thắng, Chiến thắng Đống Đa, mà lại ghi là ngày giỗ, Giỗ trận Đống Đa. Tại sao vậy ? Câu trả lời phải chăng đó là do tinh thần hiếu hòa, từ bi, nhân nghĩa và bao dung của người Việt, coi nhẹ chiến tranh, khí giới và bạo lực là một giá trị truyền thống, bất đắc dĩ mới phải dùng đến, đúng như chủ trương của Đạo giáo, một trong Tam giáo của người Việt, qua cái nhìn của Lão Tử, "coi binh khí như một vật chẳng lành, không phải đồ dùng của người quân tử (1)" và "thắng chẳng có gì là hay vì nếu hay là thích giết người và kẻ thích giết người đâu thể trị được thiên hạ. Hãy khóc bi ai. Khi thắng hãy cử hành tang lễ (2)".
Cũng nên biết thêm là ở Hà Nội có một ngõ hẹp mang tên là Ngõ Sầm Công, phía sau Phố Hàng Buồm, sau đổi là Tôn Thất Yên thời Quốc Gia Việt Nam, rồi Đào Duy Từ hiện tại. Sầm Công ở đây chính là Sầm Nghi Đống, Tri phủ Điền Châu đóng ở Đống Đa bị bao vây , thắt cổ chết và người Tầu đã lập đền thờ. Đền này đã tồn tại mà không hề gặp khó khăn gì từ phía người Việt nói chung và từ phía các nhà cầm quyền Việt Nam nói riêng. Đền này đã được nữ sĩ Hồ Xuân Hương đề bốn câu thơ châm biếm sau đây :
Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo,
Kìa đền Thái Thú đứng cheo leo.
Ví đây đổi phận làm trai được,
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu
Đây cũng là một truyền thống vô cùng tốt đẹp của người Việt Nam nói chung và của các vua chúa Việt Nam nói riêng đối với các sắc dân thiểu số sống trên lãnh thổ của mình, kể cả người Tầu.
Tướng Lee đến với lễ phục sạch tinh, nguyên nếp, mang gươm trang trí cực đẹp của một tướng lãnh quý tộc Miền Nam ở cạnh sườn. Ảnh minh họa
Một điều đáng tiếc khác là khác với Lịch sử Hoa Kỳ sau chiến tranh Nam-Bắc, Lịch sử Việt Nam không có được những người như tướng Ulysses S. Grant của Miền Bắc và tướng Robert E. Lee của Miền Nam trong thời Chiến Tranh Nam-Bắc trong cách hai người đối xử với nhau khi tướng Lee tới gặp tướng Grant để chính thức đầu hàng. Tướng Lee đến với lễ phục sạch tinh, nguyên nếp, mang gươm trang trí cực đẹp của một tướng lãnh quý tộc Miền Nam ở cạnh sườn. Còn tướng Grant thì ngược lại. Mặc dù là thuộc phe chiến thắng, ông ăn mặc xoềnh xoàng, không khác một người lính thường, quần áo, giầy trận còn "dính bùn đất hành quân", không mang gươm cạnh sườn, ngoại trừ huy hiệu cấp tướng. Đến khi ra về tướng Lee và các sĩ quan khác của ông vẫn được giữ nguyên tất cả, đặc biệt là không bị sỉ nhục, không phải nạp gươm và tiếp tục được ngồi trên lưng ngựa. Cả hai đều tự giữ được mình, giữ tư cách cho mình và giữ tư cách cho nhau, tôn trọng lẫn nhau trong một hoàn cảnh vô cùng tế nhị. Chuyện này các học sinh Mỹ ngay từ các lớp dưới đều được học, coi như một niềm hãnh diện của họ và là lý do tại sao nước Mỹ sau này đã trở thành một nước lớn và mạnh, lớn và mạnh với đầy đủ ý nghĩa của ngôn từ. Đây cũng là bài học mà các học sinh Việt Nam, nói riêng, và người Việt Nam, nói chung, cần phải học. Câu hỏi được đặt ra ở đây là chừng nào thì dân tộc Việt Nam mới thực sự thoát được tình trạng :
Dân hai nhăm triệu không người lớn,
Nước bốn ngàn năm vẫn trẻ con !
như một nhà thơ hồi đầu thế kỷ trước, nếu tôi nhớ không lầm, Tản Đà, đã từng than ?
Phạm Cao Dương
Những ngày cuối năm 2019
(1) "Binh giả, bất tường chi khí, phi quân tử chi khí, Đạo Đức Kinh", Chương 31, Nguyễn Tôn Nhan dịch
(2) "Dĩ ai bi khấp chi. Chiến thắng dĩ tang lễ xử chi"
Tiến sĩ Sử học, nguyên Giáo sư các Đại học thời Việt Nam Cộng Hòa và Hoa kỳ sau 1975.
Hãy soi vào thời đại Nguyễn Du để thấy chúng ta rõ hơn
"Trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ 19 trở về trước, không có thời kỳ nào đen tối hơn thời kỳ của những năm cuối cùng của thời Lê mạt và trong toàn bộ lịch sử Việt Nam, không có thời nào suy đốn và nhiều bạo lực hơn thời kỳ sau năm 1945".
Nguyễn Du và Truyện Kiều - Ảnh minh họa
Trong hầu hết các tác phẩm viết về văn học sử Việt Nam, Nguyễn Du thường được xếp vào thời Nguyễn sơ hay Tiền bán thế kỷ 19. Sự sắp xếp này có lẽ đã được căn cứ vào thời gian Nhà đại thi hào của chúng ta sáng tác Truyện Kiều, sau chuyến ông đi sứ nước Tầu về, tức sau năm 1813.
Sắp xếp như vậy tôi nghĩ không được hợp lý và quá tùy thuộc vào các yếu tố chính trị và vào sự phân định thời gian theo lối Tây phương. Lý do là vì sắp xếp và phân định thời gian trong văn học sử không nhất thiết phải gò bó một cách cứng nhắc y như sự sắp xếp trong sử học, đành rằng ngay trong sử học, nhất là lịch sử văn minh, khi nói tới thế kỷ 19, người ta không bắt buộc phải nghĩ rằng thế kỷ này phải bắt đầu vào năm 1800 và chấm dứt vào năm 1899, cũng như triều Nguyễn phải bắt đầu vào năm 1802. Tất cả đều có thể sớm hơn hay trễ hơn tùy từng khía cạnh hay cách nhìn của sử gia về mỗi vấn đề, mỗi tác giả. Lý do rất đơn giản : một tác phẩm văn học, đặc biệt tác phẩm văn học lớn thường phản ảnh hoàn cảnh chính trị và xã hội của cả thời đại của tác giả.
Đối với Truyện Kiều, được viết sau năm 1813 không có nghĩa là chỉ thuộc thế kỷ 19, chỉ thuộc thời Nguyễn sơ. Trái lại, đại tác phẩm này phải được coi là đã thành hình từ nhiều chục năm trước đó và được kết tinh trong thập niên thứ hai của thế kỷ 19, dưới thời Nhà Nguyễn. Nó không phải chỉ phản ảnh cuộc đời và tâm sự riêng của Nguyễn Du mà còn phản ảnh cuộc đời và tâm sự chung của một phần không nhỏ những người thuộc thế hệ ông, những người sinh trưởng ở Bắc Hà trong Hậu bán thế kỷ 18, dưới thời Lê-Trịnh và còn tiếp tục sống trong những thập niên đầu của thế kỷ 19 dưới thời Nguyễn sơ.
Phạm Quý Thích và hơn hai chục ông nghè khác của Triều Lê chẳng hạn. Gia dĩ ngoài Truyện Kiều, Nguyễn Du còn là tác giả của nhiều tác phẩm khác không kém giá trị ngoài tính phổ thông trong dân gian của chúng, Văn tế thập loại chúng sinh mà các sư ở các chùa ở miền Bắc luôn luôn ngâm đọc với một giọng điệu vô cùng đau thương và thảm thiết trong ngày Rằm tháng Bảy, ngày cúng cô hồn, chẳng hạn.
Trong bài này, tôi muốn cùng bạn đọc nhìn lại thời đại của Nguyễn Du và những ảnh hưởng của những gì đã xảy ra ở thời này đối với cuộc đời, tâm tư và sự nghiệp của tiên sinh, đồng thời so sánh phần nào thời đại đó với thời đại của chúng ta hiện tại với một ước vọng trong những năm tới đây chúng ta có thể chứng kiến sự ra đời của không phải của một mà nhiều tác phẩm lớn nếu không hơn thì ít ra cũng không kém tác phẩm của Tiên Điền Nguyễn Tiên Sinh. Tất nhiên ước vọng là một chuyện, có được hay không lại là một chuyện khác. Nhưng ước vọng thì cứ ước vọng.
Lịch sử và Nguyễn Du
Trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ 19 trở về trước, không có thời kỳ nào đen tối hơn thời kỳ của những năm cuối cùng của thời Lê mạt và trong toàn bộ lịch sử Việt Nam, không có thời nào suy đốn và nhiều bạo lực hơn thời kỳ sau năm 1945. Nguyễn Du đã sống trong những năm cuối cùng của thời Lê mạt và chúng ta đã sống trong những chục năm sau Thế chiến thứ hai.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, Nguyễn Du có thể nói là một người đã sống một cuộc sống đau thương nhất, u buồn nhất, do đó đã mang một tâm sự u uẩn nhất, xót xa nhất.
Còn trong lịch sử dân tộc, chúng ta là những kẻ đã phải gánh chịu hay được chứng kiến nhiều cảnh đổ vỡ, chia ly éo le nhất, từ đó đã mang những niềm đau khắc khoải nhất, thầm kín nhất, đặc biệt là những người đã có cái may, hay không may sinh ra và trưởng thành trong những năm trước khi Thế chiến thứ hai chấm dứt và hiện tại vẫn còn đang sống.
Nguyễn Du cũng là người có cái may đồng thời cũng là cái không may tương tự. Hai đại biến cố, hai cuộc đời cách nhau ngót hai trăm năm, tuy mang những tính cách đặc thù của những biến cố và những sự thực lịch sử vẫn có những tác động giống nhau đối với nội tâm của con người. Có khác chăng là ở thời Nguyễn Du mọi chuyện chỉ xảy ra quanh quẩn trong nội địa của nước Việt Nam và giữa người Việt Nam với nhau. Còn ở thời đại chúng ta mọi chuyện đã xảy ra trên một bình diện lớn lao hơn, cổ kim chưa từng có, là khắp thế giới.
Biến cố 30/04/1975 đã đẩy hàng triệu người Việt ra khắp địa cầu để đến bây giờ, bước sang Thiên niên kỷ thứ ba sau Tây lịch, một học sinh Việt Nam đã có thể hãnh diện được học rằng : "Mặt trời không bao giờ lặn trên những miền đất có người Việt Nam cư ngụ !", thay thế cho một học sinh người Anh hồi cuối thế kỷ 19, với tất cả những cái may cũng như những cái không may của sự kiện lịch sử này.
Sinh năm 1765, dưới thời Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26, trong một gia đình cha, chú, anh, em đều thi đậu và làm quan to vào bậc nhất phẩm đương thời, Nguyễn Du đã có dịp sống cuộc đời niên thiếu của một công tử con Nhà thế gia, vọng tộc ở chốn kinh đô ngàn năm văn vật, vào lúc cơ nghiệp của hai họ Lê, Trịnh còn tương đối vững chãi, chưa có gì báo trước một sự xụp đổ trong tương lai. Ông hãy còn được thấy tận mắt hay được nghe nói về cuộc sống nghiêm ngặt hay nhàn rỗi, xa hoa ở các cung vua, phủ chúa vào lúc nước Nhà vô sự như được tả trong Thượng Kinh Ký Sự của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720 - 1791) hoặc Vũ Trung Tùy Bút của Phạm Đình Hổ (1768 - 1839), mặc dầu cha mẹ mất sớm và không được thành công lắm trên đường khoa hoạn. Nhưng kể từ khi Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm mất (1782), thế đứng của hai họ Lê, Trịnh đã bắt đầu suy sụp. Kiêu Binh làm loạn (1784) và Tây Sơn ra Bắc (1786 - 1787) đã chấm dứt Triều đại Nhà Lê sau ngót bốn trăm năm trị vì kể từ khi Lê Thái Tổ đánh đuổi quân Minh dựng nên nghiệp lớn (1428 - 1787) và làm sụp đổ ngôi chúa của họ Trịnh. Tố Như Tiên Sinh lúc ấy mới có 22, 23 tuổi. Cuộc đời đầy u buồn, bất đắc chí, xen lẫn với những nuối tiếc của ông bắt đầu từ khi ông phải tản cư về ẩn náu ở quê vợ thuộc xã Hải An, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình ngày nay, xa hẳn đất kinh kỳ, nơi sau này chỉ còn là cảnh :
Thiên niên cự thất thành quan đạo,
Nhất phiến tân thành một cố cung.
(Thăng Long I)
Dinh xưa cung cũ còn đâu ?
Mà nay đường trước thành sau khác rồi !
(Hoa Đăng dịch)
hay :
Tương thức mỹ nhân khan bão tử,
Đồng du hiệp thiếu tận thành ông.
Người đẹp buổi xưa đều bế trẻ,
Bạn chơi thuở nhỏ thẩy thành ông !
(Quách Tấn dịch)
khi Nguyễn Du "Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long" (Bạc đầu còn được thấy Thăng Long) nhân chuyến đi sứ Nhà Thanh vào năm 1813 có dịp ghé lại.
Chưa hết, sự đổi chủ đã không diễn ra một cách êm đềm mà trong cảnh "Máu tươi lai láng , xương khô rụng rời" với những "Bãi sa trường thịt nát máu rơi" để "Phơi thây trăm họ nên công một người" đã liên tiếp xảy ra mà Nguyễn Du đã tả trong Văn tế thập loại chúng sinh. Nguyễn Hữu Chỉnh, người bạn giao du thân thiết với anh em họ Nguyễn, người được coi là thiên tài vô song của đất Bắc Hà, đã bị xé xác, phơi thây, bào huynh của Nguyễn Du là Nguyễn Quỳnh cũng bị Tây Sơn giết chết. Anh em xưa kia quây quần đông đúc, nay ly tán mỗi người một phương, còn chính Nguyễn Du cũng đã hơn một lần bị Tây Sơn bỏ ngục. Cuối cùng vào năm 1796, tiên sinh đã phải bỏ tất cả, trở về sống ở chốn cố hương, ngày ngày đi săn để mai danh ẩn tích, nhưng vẫn một lòng tưởng nhớ tới Nhà Lê với một tâm sự mà Hồng Liên Lê Xuân Giáo, một trong những vị túc nho lão thành đã di tản sang sống ở San Diego trong thời đại của chúng ta, đã so sánh với tâm trạng của Đặng Dung, xuyên qua hai câu thơ trong bài Thuật Hoài của vị nghĩa sĩ của thời Hậu Trần này :
Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Vai khiêng trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây.
(Phan Kế Bính dịch)
với một lòng ước vọng không bao giờ đạt được là "Muốn ra tay tát cạn Biển Đông". Có điều là vận của Nhà Lê đã hết. Năm 1802, Gia Long thống nhất đất nước. Người ẩn sĩ đã không sao ẩn được danh mình vào lúc toàn thể non sông đã đổi chủ, vào lúc :
Trời Đông Phố ào ào gió động,
Hội tao phùng đái ủng tân quân.
(Bùi Kỷ, Văn Tế Tiên Điền Nguyễn Du)
để cuối cùng thấy mình "dật dân bỗng hóa hàng thần lạ thay" hay "Hàng thần lơ láo" và chẳng biết "phận mình ra đâu". Bị triệu vời với đích danh, Nguyễn Du đã phải ra làm quan với Nhà Nguyễn một cách miễn cưỡng trong nhiều năm ròng rã. Cuối cùng ông đã tự kết liễu đời mình bằng cách đau mà không chịu uống thuốc.
Nguyễn Du và chúng ta
Nếu lập một bảng đối chiếu đại cương thời đại Nguyễn Du với thời đại chúng ta hiện tại, ta có thể thấy vô số những điểm tương đồng.
Cũng với đất nước bị chia đôi với con sông Gianh được thay thế bằng sông Bến Hải. Cũng một xã hội tuy không cường thịnh nhưng những gì các thế hệ trước để lại vẫn còn nguyên vẹn, với những thành trì, cung điện, lăng tẩm, chùa chiền, đền miếu, tập tục, lễ nghi, văn chương đạo đức... mà một dân tộc văn minh phải lấy làm hãnh diện. Cũng với những mốc thời gian then chốt, 1784 và 1787 cho thời Nguyễn Du và 1945, 1975 cho thời hiện tại. Cũng với những đổi thay và đổi đời vĩ đại, khủng khiếp cho một con người bình thường, với những cảnh "thất thế tên rơi, đạn lạc", "máu tuôn lai láng , xương khô rụng rời" trên mặt đất, hay những trường hợp "đem thân chôn giấp vào vòng kình nghê" trên mặt biển, đặc biệt là của những thành phần xưa kia "phong gấm rủ là", "màn lan trướng huệ", "cung quế phòng hoa".
Nhưng ở thời đại chúng ta còn ngang trái, bi thảm hơn nhiều. Người anh hùng đất Bình Định, sau khi diệt Nhà Lê, đã đánh dấu triều đại của mình bằng chiến thắng vĩ đại ở Gò Đống Đa, tiếp đó đã khơi dậy trong lòng dân tộc mình một tinh thần tự tin và tự chủ qua dự định lấy lại Lưỡng Quảng về cho đất nước, do đó đã được một phần dân chúng Bắc Hà chấp nhận.
Trái lại khi Cộng sản xâm chiếm miền Nam năm 1975, họ đã không làm nên điều gì mọi người mong đợi. Trái lại, chiến thắng của họ đã xô đẩy dân tộc Việt Nam đến một tình trạng càng ngày càng tăm tối, tồi tệ hơn. Ở thời đại Nguyễn Du, tuy bất đắc dĩ phải phục vụ tân quân và tân triều, nhưng các sĩ phu Bắc Hà thời ông đã được phục vụ với đầy đủ danh dự như là những quan lại, kể cả quan lại cao cấp của Triều đình Huế. Ở thời đại của chúng ta, những kẻ hậu duệ của Tố Như Tiên Sinh đã bị cưỡng bách phục vụ triều đại mới trong những trại tù khổ sai được những kẻ chiến thắng, giả nhân, giả nghĩa gọi là "lao động cải tạo", hoặc đem thân ra làm thuê, làm mướn nơi đất khách, quê người cho nhà cầm quyền lấy tiền trả nợ, hay lên các vùng kinh tế mới ở với rắn và gió, trong những căn lều không vách...
Ở thời đại Nguyễn Du không có những trận đói trong đó nhiều làng một mạng sống không còn để những thành phần chống đối chính quyền đương nhiệm có cơ lợi dụng. Ở thời đại chúng ta không ai có thể quên được Trận đói tháng Ba năm Ất dậu 1945 khiến hai triệu người bị chết. Ở thời đại Nguyễn Du không có chuyện vu cáo và thanh toán lẫn nhau bằng kết tội nhau là Việt gian, phản động và thủ tiêu nhau vô tội vạ. Ở thời đại Nguyễn Du không có chuyện Tự vệ vũ trang với những cuộn dây thừng để bắt Việt gian, với Công an chận đường bắt cóc mang đi mất tích hay đương đêm vào nhà bắt người mang đi rồi ít ngày sau nạn nhân chỉ còn mình một nơi, đầu một nẻo với một bản án gắn trên ngực, không có chuyện đồng chí con, đồng chí bố, vợ tố cáo chồng, con tố cáo cha, không có Đảng, không có Cách mạng có quyền sinh sát trong tay để khoan hồng hay bắt người đền tội.
Ở thời đại Nguyễn Du không có những cuộc chiến triền miên kéo dài cả ba chục năm mà vẫn chưa hoàn toàn kết thúc với ba, bốn và có thể năm triệu người chết và không biết bao nhiêu triệu người đau khổ. Ở thời Nguyễn Du biến loạn chỉ ảnh hưởng giới hạn trong giới cầm quyền hay lãnh đạo. Ở thời Nguyễn Du chiến tranh chỉ xẩy ra ở kinh đô và một số những địa điểm quan trọng. Ở thời đại chúng ta, chiến tranh xả ra ở khắp các làng xã, các hang cùng ngõ hẻm, thậm chí cả những vùng rừng núi, những thôn bản xa xôi, trước kia rất ít người các miền đồng bằng lui tới.
Ở thời đại chúng ta, chiến tranh là chiến tranh toàn diện, không một người dân nào, dù là đàn bà, con trẻ, những kẻ khố rách, áo ôm, những người cùng đinh trong xã hội, bằng cách này hay cách khác, không bị cuốn hút vào cuộc chiến. Sau đó là sự cưỡng chiếm miền Nam của người cộng sản miền Bắc và cuộc ra đi tị nạn của hàng triệu dân Việt trong suốt hơn bốn chục năm và ảnh hưởng của nó trên toàn cầu, cùng với lối trả thù những người bị kẹt lại một cách vô cùng hiểm độc, dã man, khó có thể tưởng tượng được bởi những người cộng sản miền Bắc sau biến cố 30/04/1975. Tất cả đã dẫn tới hai phong trào dời bỏ quê hương mà Phạm Duy, trong bài 1954 Cha bỏ quê, 1975 Con bỏ nước đã diễn tả bằng những câu hát như :
Một ngày năm bốn cha bỏ Sơn Tây,
Dắt díu con thơ vô sống nơi Biên Hòa.
Dù là xa đó vẫn là nước nhà.
Một mảnh đất thân yêu gia đình ta.
............
Một ngày bảy lăm con đứng ở cuối đường,
Loài quỷ dữ xua con ra đại dương..
Một ngày bảy lăm con bỏ nước ra đi.
Hai mươi năm là hai lần ta biệt xứ.
Giờ cha lưu đầy ở ngay trên nước ta,
Và giờ con lưu đầy ở đây nơi xứ lạ...
Cuối cùng là sự thành hình của cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại với nhiều hứa hẹn sẽ trở thành thành phần thứ hai của dân tộc Việt Nam độc lập với thành phần ở trong nước mà tôi gọi là Siêu Quốc Gia Việt Nam của thiên niên kỷ thứ ba với thế kỷ 21 là thời kỳ chuyển tiếp.
Sự so sánh kể trên nếu chỉ được đặt ra một cách đơn thuần, nói chung, có thể bị cho là không cần thiết, đặc biệt là đối với những người thường lưu tâm đến sự nghiệp của thi hào Nguyễn Du, nói riêng, ai cũng có thể làm được. Nhưng tôi đã lựa chọn nó để trình bày ở đây vì từ trước tới giờ tôi luôn luôn thắc mắc là ở thời Lê mạt, một thời không có gì đáng gọi là huy hoàng của lịch sử dân tộc, đứng trên bình diện chính trị, ngoại giao hay quân sự , trái lại đó là một thời kỳ đại loạn, thế mà trong thời này lại có nhiều tác phẩm lớn, bất hủ xuất hiện.
Ngược lại, thời của chúng ta so với thời Lê mạt tệ hại hơn nhiều. Câu hỏi được đặt ra là liệu rằng trong thời hiện tại đã có những công trình nào đáng kể xuất hiện chưa và trong tương lai liệu có tác phẩm nào xuất hiện không ? Nguyễn Du với những tâm sự u uẩn bời bời, chất chứa trong lòng từ nhiều chục năm, sau chuyến đi sứ sang Tầu của ông đã để lại cho hậu thế những áng văn vô giá, bất hủ. Người Việt chúng ta trong thời đại mới cũng có dịp xuất ngoại và xuất ngoại ra nhiều hơn và lưu lại suốt đời hơn là chỉ tới một nước Trung Hoa với một thời gian đi sứ ngắn ngủi.
Vậy liệu rằng trong những năm, những chục năm sắp tới, điều người ta mong đợi sẽ bật lên ở những vùng đất mới, hay vùng đất hồi sinh những tinh hoa mới của dân tộc có xảy ra không ? Câu hỏi này cho đến nay chưa có câu trả lời, nhưng tôi tin tưởng rằng một khi được tìm tòi sẽ có rất nhiều hy vọng là sẽ có, nhất là ở các anh em trẻ vì anh em vừa được sống, vừa được học hỏi. Thời Nguyễn Du Tiên sinh và những người đồng thời với Tiên sinh chỉ được biết có một nước Tầu. Trong thời đại của chúng ta, chúng ta được biết nhiều hơn một nước Pháp hay một nước Mỹ, một nước Nga hay một nước Tầu. Hơn thế nữa, trong thời đại Nguyễn Du, ông và các cựu thần Nhà Lê khác đã mang những mặc cảm tội lỗi với triều đại cũ, những bạn bè xưa và với chính mình. Những nhà Nho này đã hơn một lần bị đưa ra làm đề tài chế giễu.
Trong thời đại của chúng ta, không thiếu những anh em, bà con của chúng ta mang những tâm sự đau lòng của những kẻ bất đắc dĩ phải đào tẩu, bỏ lại cha mẹ, vợ con, anh em, bạn bè, chiến hữu, thuộc cấp đã từng nhiều năm sát cánh chiến đấu với mình, che chỡ đùm bọc cho mình và đào tẩu bằng những phương tiện của người bạn đồng minh cũ mà mình cho là đã phản bội mình.
Hoàn cảnh éo le của lịch sử đã khiến nhiều người trong chúng ta ra đi với một ý thức rõ ràng là hành động này sẽ góp phần làm cho suy yếu mau phần đất mà mình từng bảo vệ, nhưng nay nằm trong tay kẻ xâm lăng cộng sản Việt Nam. Ngã rẽ bất đắc dĩ này đã buộc tất cả chúng ta phải tiếp tục tranh đấu, vật lộn để tồn tại, để hướng về tương lai, tương lai cho chính mình, cho con cháu mình và tương lai cho cả tập thể mình với những nỗi lòng không dễ gì bày tỏ cùng ai được. Cuộc hành trình khắc khoải này chẳng khác gì những miếng cơm, ngụm nước mà không thiếu gì những bà con vượt biển của chúng ta đã phải nghẹn ngào nuốt nước mắt, xót xa, tủi nhục khi nhận lãnh từ tay đám hải tặc trước đó đã làm hại đời mình.
Thấy gì trong tương lai ?
Vì vậy trong một bài tham luận đăng trên tờ Hành Trình do nhà văn Cao Thế Dung chủ trương ở Thủ đô Washington trước đây, tôi có đưa ra một nhận xét về "Bi thảm tính trong Văn hóa Việt Nam" và cho rằng đặc tính này là một trong những đặc tính của văn hóa dân tộc Việt Nam. Nó đã làm cho nền văn hóa của dân tộc ta trở nên vô cùng phong phú, vô cùng sâu sắc và hấp dẫn sau một bề ngoài có vẻ u buồn, thiếu những mầu sắc vui tươi so với nhiều văn hóa khác.
Nguyễn Du là một trong những bằng chứng của bi thảm tính đó. Nhưng tác phẩm của ông sở dĩ mang đặc tính ấy và trở nên muôn đời bất hủ là vì nó phản ảnh cuộc đời và thời đại của tác giả, một cuộc đời và một thời đại đầy dẫy những bi thảm và ngang trái. Nhưng thời đại và cuộc đời của những người Việt chúng ta thuộc hậu bán thế kỷ thứ 20, tiền bán thế kỷ 21 này, nếu được diễn tả bởi những thiên tài văn học tương lai hay chưa được khám phá, chắc chắn còn có giá trị hơn gấp bội. Có điều ước vọng là một chuyện, có được hay không lại là một chuyện khác.
Đời người quá ngắn ngủi mà những gì người ta ước mong được thấy hay muốn làm thì nhiều, đúng như nhà thơ nổi tiếng của văn học miền Nam và hải ngoại, Tô Thùy Yên, người mới từ giã chúng ta để về nơi miên viễn, đã than trong bài hành bất hủ Ta Về của ông :
Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thuở trần gian bay lướt qua.
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn,
Đành không trải hết được lòng ta !
và người ta không khỏi không nghĩ tới tâm sự đầy u uẩn của Nguyễn Du :
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như !
Ba trăm năm lẻ về sau,
Hỏi ai người nhỏ lệ sầu Tố Như
(Người dịch, không rõ)
còn Tô Thùy Yên thì tuy bề ngoài có vẻ nhẹ nhàng, âm thầm chấp nhận nhưng bề trong không phải là không xót xa, oán hận :
Ta về - một bóng trên đường lớn,
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai.
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ ?
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay !
Với gần mười ba năm tù, Tô Thùy Yên đã phải sống gần hết thời gian đẹp nhất của cuộc đời trong trại tù khổ sai không có án. Hai chữ "mười năm" đã trở thành nỗi ám ảnh không dời đối với ông khiến ông đã nhiều lần nhắc tới trong bài thơ trường thiên ông làm kể trên :
Vĩnh biệt ta mười năm chết dấp
Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu.
Mười năm mặt sạm soi khe nước
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ !
Mười năm thế giới già trông thấy
Đất bạc màu đi, đất bạc màu.
Một đời được mấy điều mong ước ?
Núi lở sông bồi đã lắm khi…
Mười năm, cổ lục đã ai ghi ?
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó,
Người thức nghe buồn tận cõi xa.
Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ,
Mười năm người tỏ mặt nhau đây.
Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ.
Mười năm ta vẫn cứ là ta.
Hãy kể lại mười năm mộng dữ.
Một lần kể lại để rồi thôi !
Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở ?
Mười năm, cây có nhớ người xa ?
Mười năm con đã già trông thấy,
Huống mẹ cha, đèn sắp cạn dầu !
Ta về như nước Tào Khê chảy,
Tinh đẩu mười năm luống nhạt mờ.
Nhưng cuối cùng thì tác giả đành mượn chén rượu để giải oan :
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống,
Giải oan cho cuộc biển dâu này !
Nguyễn Du may mắn hơn. Thời đại của Tiên Điền Tiên Sinh chưa có trại tù cải tạo. Không những không bị đi tù, trái lại, ông còn được trịnh trọng mời ra hợp tác với tân triều và lãnh những trách vụ quan trọng ở triều đình, kể cả đi sứ.
Có điều, đúng như lời Tản Đà của nửa đầu thế kỷ trước, cuối cùng tất cả chỉ còn là :
Cảnh vật đầu non đường lối cũ,
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng soi.
Khởi viết cuối Thu 1982 nhân ngày Kỷ niệm thi hào Nguyễn Du tại Quận Cam California, Hoa Kỳ
Sửa chữa và phổ biến đầu Hè 2019
Giáo sư Tiến sĩ sử học
Phạm Cao Dương
(10/06/2019)
Bồng bồng mẹ bế con sang,
Đò dọc quan cấm, đò ngang không chèo.
Muốn sang thì bắc cầu kiều,
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy.
(Ca dao Việt Nam)
"Tôi là Carnot đây, thầy còn nhớ tôi không ?"
Quốc văn giáo khoa thư Lớp Dự bị
(Thời Pháp Thuộc)
"… Có một điều người ta phải để ý và thận trọng khi nói tới cách mạng và đặc biệt khi "làm cách mạng vì cách mạng"… nhất là khi cách mạng không bắt nguồn từ truyền thống và tưduy của chính dân tộc mình".
(Phạm Cao Dương)
Giáo dục : Bao giờ được như… xưa ?
Tâm tình của người viết
Sau 44 năm người cộng sản gọi là "giải phóng miền Nam" (1975-2019), không ai có thể phủ nhận thành tựu trong Giáo dục là một trong những thành công quan trọng nhất và rõ rệt nhất, đồng thời cũng là một nét vàng son đáng trân quý trong nếp sống và sinh hoạt ở Miền Nam thời trước năm 1975. Có nhiều nguyên nhân và một trong những nguyên nhân này là sự liên tục trong lịch sử trong quan niệm cũng như trong tổ chức và cách thức sinh hoạt của nền văn hóa này.
Nói như vậy không có nghĩa là trong chiều dài của hơn 20 năm lịch sử này (1954-1975), miền đất của tự do và nhân bản cuối cùng mà những người quốc gia còn giữ được, không trải qua xáo trộn. Cuộc chiến giữa quốc gia và cộng sản, dưới hình thức này hay hình thức khác luôn luôn tồn tại, tồn tại thường trực, tồn tại hàng ngày, đồng thời có những thời điểm người ta nói cả tới các chế độ độc tài hay quân phiệt và luôn cả cách mạng. Tuy nhiên, ngoại trừ những gì liên hệ tới chế độ chính trị, quân sự hay an ninh quốc gia, sinh hoạt của người dân vẫn luôn luôn diễn ra một cách bình thường, người nào việc nấy, người nào trách nhiệm nấy và được tôn trọng hay tôn trọng lẫn nhau. Sự liên tục lịch sử do đó đã có những nguyên do để tồn tại, tồn tại trong sinh hoạt hành chánh, tồn tại trong sinh hoạt tư pháp, trong văn chương và nghệ thuật và tồn tại đương nhiên trong sinh hoạt giáo dục.
Trong bài này tôi chỉ nói tới giáo dục và đặc biệt là giáo dục công lập. Đây không phải là một bài khảo cứu mà chỉ là một bài nhận định và những nhận định được nêu lên chỉ là căn bản, sơ khởi, nhằm mục tiêu gợi ý cho các nhà nghiên cứu và tất nhiên là không đầy đủ. Mỗi độc giả có thể có những nhận định riêng của mình. Một sự nghiên cứu kỹ càng, có phương pháp hơn và đầy đủ hơn là một điều cần thiết.
Nền tảng của giáo dục
Vì vậy tôi chỉ xin được trình bày năm đặc tính mà tôi gọi là cơ bản. Năm đặc tính này là :
Thứ nhất : giáo dục là của những người làm giáo dục
Thứ hai : Tôn chỉ và mục đích nhằm hướng tới quốc gia dân tộc và con người dựa trên những truyền thống cổ truyền
Thứ ba : Liên tục trong phạm vi nhân sự
Thứ tư : Hệ thống tổ chức, tổ chức thi cử và chương trình học vẫn giữ được những nét chính của chương trình Pháp và chương trình Hoàng Xuân Hãn thời Chính Phủ Trần Trọng Kim năm 1945 và Phan Huy Quát thời Chính phủ Bảo Đại sau đó
Thứ năm : Một xã hội tôn trọng sự học và tôn trọng người có học
Sau đây là các chi tiết :
1. Giáo dục là của những người làm giáo dục
Giáo dục công lập ở Việt Nam đã có từ lâu đời và tùy theo nhận định của các sử gia, định chế này đã tồn tại trên dưới mười thế kỷ. Mục đích của nó là để đào tạo nhân tài cho các chế độ, nói riêng, và cho đất nước, nói chung.
Sĩ tử đứng chờ trong cuộc Thi Hội ở Nam Định thời nhà Nguyễn đầu thế kỷ 20 - Ảnh minh họa
Các vua chúa Việt Nam thời nào cũng vậy, cũng coi trọng việc học. Có điều coi trọng thì coi trọng, các vua, nói riêng và các triều đình Việt Nam, nói chung, chỉ vạch ra những đường nét chung và những mục tiêu chung, kèm theo là tổ chức các kỳ thi để tuyển chọn người tài mà không trực tiếp can dự vào sinh hoạt giảng dạy của các trường, hầu hết là các trường tư do tư nhân lập ra ở rải rác khắp trong nước. Sinh hoạt này hoàn toàn do các thầy ở các trường do các thầy đồ hay các danh sĩ trong vùng đảm trách, với sự đóng góp của người dân. giáo dục là của người dân và của những người làm giáo dục, và cho đến khi người Pháp sang, nó là của giới trí thức đương thời, đúng hơn là của các nhà Nho với tất cả những học thuyết, những nguyên tắc căn bản của giới này.
Sang thời Pháp thuộc, do nhu cầu, đồng thời cũng là sứ mạng truyền bá văn minh và văn hóa của họ, người Pháp đã lập ra một nền giáo dục mới, nhưng việc điều hành, việc soạn thảo chương trình vẫn được giao cho các nhà giáo, được huấn luyện chuyên môn hay ít ra là lựa chọn nghề dạy học với tinh thần quí trọng kiến thức, yêu mến nghề dạy học và hạnh phúc với sứ mạng làm thầy, về phía người Pháp cũng như về phía người Việt. Người Pháp mở các trường Sư phạm để huấn luyện giáo chức chuyên nghiệp, lập ra các trường học thuộc đủ các cấp, có quy mô rộng lớn, có đủ tiêu chuẩn để ngay trong những ngày đầu tiên mới độc lập, thời Chính Phủ Trần Trọng Kim, đã có thể có ngay nột chương trình học riêng cho một nước Việt Nam mới, tồn tại lâu dài cho đến ngày nay vẫn còn và sẽ còn mãi mãi nếu người ta gìn giữ và bảo vệ nó.
Giờ tan lớp ở một trường nội trú tiểu học thời Pháp thuộc - Ảnh minh họa
Đặc tính kể trên đã liên tục được tôn trọng trong suốt thời gian miền Nam tồn tại và luôn cả trước đó, từ thời Chính phủ quốc gia của cựu Hoàng Bảo Đại cho đến Đệ Nhất rồi Đệ Nhị Cộng Hòa. Chức vụ Bộ trưởng hay Tổng trưởng giáo dục có thể là do các chính trị gia hay những người thuộc các ngành khác đảm nhiệm, nhưng trong việc lựa chọn nhân sự điều hành trong bộ, ngoại trừ các chức vụ có tính cách chính trị như Đổng lý văn phòng, Chánh văn phòng, Bí thư tức Thư ký riêng của bộ trưởng… tất cả các chức vụ chỉ huy khác trong Bộ, từ Thứ trưởng, Tổng thư ký, Tổng giám đốc, Giám đốc cho tới các Hiệu trưởng các trường và đương nhiên là các giáo sư, giáo viên, đều là những nhà giáo chuyên nghiệp, không có đại diện đảng phái chính trị ở bên cạnh.
Lý do rất đơn giản : Vì họ là những người vô tư, biết việc, rành công việc và có kinh nghiệm, chưa kể tới sự yêu nghề. Chính trị đối với họ chỉ là nhất thời, tương lai của cả một dân tộc, hay ít ra là của những thế hệ tới, mới là chính và thực sự quan trọng.
Trong phạm vi Lập pháp thời Việt Nam Cộng Hòa, rõ hơn là ở Quốc hội, các chức vụ đứng đầu các ban hay tiểu ban giáo dục, dù là Thượng viện hay Hạ viện đều do các Nghị sĩ hay Dân biểu gốc nhà giáo phụ trách. Ngoại trừ ở những vùng mất an ninh, những gì thuộc phạm vi chính trị nhất thời đã dừng lại trước ngưỡng cửa của học đường. Thầy cô giáo là nhân viên của Bộ giáo dục, do Bộ giáo dục bổ nhiệm, trực thuộc vị Hiệu trưởng của trường sở tại, hay các nha sở của Bộ giáo dục ở trung ương chứ không trực thuộc các Quận hay Tỉnh trưởng. Việc giảng dạy ở trong lớp là hoàn toàn tự do, nhất là ở bậc Đại học, chính quyền không hề theo dõi. Chưa hết, để cố vấn cho chính phủ, một Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục cũng được thành lập với đa số hội viên là các nhà giáo.
Về tên các trường, tất cả các trường Trung, Tiểu học đều được gọi bằng tên của các danh nhân hay anh hùng dân tộc thời trước, được mọi người từ lâu công nhận như : Trưng Vương, Ngô Quyền, Chu Văn An, Đoàn Thị Điểm, Gia Long, Petrus Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Thanh Giản, Lê Ngọc Hân, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… không hề có tên nào là của các lãnh tụ đương thời dù đó là Bảo Đại, Ngô Đình Diệm hay Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, kể cả Trần Văn Hương gốc nhà giáo.
Tất nhiên với những tên trường hoàn toàn xa lạ, từ sau ngày 30/04/1975, như Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Thị Sáu, Lê Văn Tám… hay, tệ hơn nữa, là ngụy tạo, không có thật, đối với quảng đại quần chúng miền Nam là "ngoài giáo dục".
2. Tôn chỉ và mục đích nhằm hướng tới quốc gia, dân tộc và con người, dựa trên những truyền thống đã có từ lâu đời
Nói tới ba nguyên tắc căn bản, đồng thời cũng là tôn chỉ và mục đích tối hậu của nền giáo dục của miền Nam trước năm 1975, có người tỏ ý không thích ba nguyên tắc này. Lý do có lẽ, tôi chỉ đoán như vậy, là vì ba nguyên tắc này phần nào đã được người Cộng Sản Việt Nam nêu lên trong Đề Cương Văn Hóa 1943 của họ.
Ba nguyên tắc đó là : Nhân Bản, Dân Tộc và Khai Phóng, sau này là Nhân Bản, Dân Tộc và Khoa Học trong khi trong Đề Cương Văn Hóa của Đảng Cộng Sản Việt Nam thì là Dân Tộc, Đại Chúng và Khoa Học.
Ở đây người viết không đi sâu vào khía cạnh này vì dù không thích, không đồng ý, ba nguyên tắc Dân Tộc, Nhân Bản và Khai Phóng này vẫn đã trở thành căn bản của nền giáo dục của miền Nam mà ai cũng biết. Chúng ta, những người Việt thời Việt Nam Cộng Hòa, đã giúp cho nền giáo dục này giữ được những truyền thống cơ bản của dân tộc và phát triển một cách vững vàng từng bước một để theo kịp với đà tiến triển của cả nhân loại mà không chạy theo những gì của thời thượng để trở thành lai căng, mất gốc, đồng thời cũng không bị gán cho là bảo thủ, lỗi thời… Tính cách liên tục lịch sử của nền giáo dục của miền Nam sở dĩ có được, phần nào là dựa trên những nguyên tắc này, đặc biệt là nguyên tắc Dân Tộc. Nó cho phép người ta đề cao và bảo tồn những truyền thống dân tộc trong học đường, dù đó là những truyền thống thuần túy Việt Nam hay những truyền thống của Khổng giáo và ở bất cớ thời nào, kể cả thời người ta đua nhau cổ võ cho phong trào toàn cầu hóa hay thế giới đại đồng trước kia.
Đôi câu đối được khắc trên cổng chính của một trong những trường trung học lớn nhất của miền Nam là trường Petrus Trương Vĩnh Ký sau đây là một trường hợp điển hình :
Khổng Mạnh cương thường tu khắc cốt
Tây Âu khoa học yếu minh tâm
Trong khi đó thì nguyên tắc khai phóng đã giúp người ta thường xuyên cởi mở, khoáng đạt để sẵn sàng đón nhận những gì mới mẻ từ bên trong, cũng như từ bên ngoài, từ đó theo kịp đà tiến bộ chung của cả nhân loại. Sinh hoạt giáo dục ở vùng quốc gia và ở miền Nam Việt Nam trong thời gian tồn tại mỗi ngày mỗi sinh động hơn, mỗi phong phú hơn và nhân bản hơn là nhờ nguyên tắc này thay vì trở nên nghèo nàn, sơ cứng, hay ít ra không hấp dẫn đối với những thế hệ mới.
Cuối cùng cũng nên nói sơ qua về nguyên tắc đại chúng. Nguyên tắc này tuy không được kể trong ba nguyên tắc căn bản của nền giáo dục của miền Nam nhưng vẫn được mọi người tôn trọng, trái với thực tế đã xảy ra trước năm 1975 ở miền Bắc và trên toàn quốc sau năm này. Lý do là vì khi nói tới nguyên tắc này, người ta nghĩ ngay tới hai chữ "dân chủ", từ đó đưa đến những nhận định quen thuộc là do dân, vì dân và cho dân. Ở đây là do đại chúng, của đại chúng và phục vụ đại chúng thay vì chỉ do một thiểu số cầm quyền và giàu có. Một trong những gì mà nền giáo dục của miền Nam đã đem lại cho đại chúng là tính miễn phí, hay gần như miễn phí từ tiểu học đến đại học và cũng ít ra là ở các trường công lập, bất kể đất nước còn đang ở trong tình trạng chiến tranh và nghèo nàn và ngân sách dành cho giáo dục là rất thấp so với các nước Á Châu khác. Người ta chỉ cần đậu xong bằng tú tài là có thể ghi danh hay thi vào các trường đại học hay cao đẳng. Học phí rất thấp, hầu như chỉ vừa đủ cho thủ tục hành chánh, giấy tờ. Sinh viên ra trường hầu như không nợ nần gì cả, chưa kể tới các trường đại học hay cao đẳng chuyên môn, sinh viên được cấp học bổng để sống và theo đuổi việc học toàn thời gian và sau khi ra trường khỏi phải trả nợ.
Các trường tư cũng được tự do, coi như để bổ khuyết cho khả năng giới hạn của các trường công do số học sinh mỗi ngày một đông, trường công không đáp ứng được đầy đủ. Sự thành công của các trường tư dựa trên sự tín nhiệm của các phụ huynh và có thể cả chính các học sinh lựa chọn căn cứ vào sự giảng dạy của các thày và kết quả của các kỳ thi. Trong phạm vi này các tôn giáo đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Ngoài các trường trung và tiểu học, tôn giáo lớn nào cũng có trường đại học : Công giáo có trường Đà Lạt, Phật giáo có trường Vạn Hạnh, Hòa hảo có trường Long Xuyên, Cao đài có trường Tây Ninh, chưa kể tới các trường Minh Đức, Cửu Long…
3. Liên tục trong phạm vi nhân sự
Nhân sự ở đây không ai khác hơn là các nhà giáo, căn bản là các nhà giáo chuyên nghiệp. Người viết muốn nói tới các nhà giáo tốt nghiệp từ các trường sư phạm, những người ngay từ thuở thiếu thời đã chọn nghề dạy học làm lý tưởng cho mình và chỉ sống bằng nghề dạy học, vui với nghề dạy học, hãnh diện với vai trò làm thầy, làm cô của mình, dù đó là Sư phạm cho bậc tiểu học, Cao đẳng Sư phạm hay Đại học Sư phạm cho bậc trung học. Một nghề bị coi là "bạc nghệ", là bị xếp sau so với các nghề khác :
Dưa leo ăn với cá kèo,
Cha mẹ anh nghèo, anh học "noọc-man".
Hai câu bề ngoài có vẻ tự ti, than vãn, nhưng không phải là không mang thâm ý ngược lại nếu người ta nghĩ tới trường hợp của không ít con em các nhà giàu được gửi sang Tây học và không mang được bằng cấp gì về cho cha mẹ, trừ bằng "nhảy đầm". Anh nghèo nhưng anh học giỏi và làm nên sự nghiệp.
Khởi đầu là các vị tốt nghiệp trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội hay các vị tốt nghiệp các trường đào tạo giáo viên tiểu học. Tất cả các vị này đã hành nghề trong suốt thời Pháp thuộc, đã âm thầm góp phần vào việc Việt hóa nền giáo dục quốc gia thời Bảo Đại – Trần Trọng Kim, rồi thời Chính phủ quốc gia. Sau này, khi đất nước bị qua phân, từ miền Bắc đã di cư vô Nam hay vẫn ở lại miền nam, các vị đã tiếp tục dạy ở các trường trong Nam khi các trường này được mở cửa trở lại sau một thời gian chiến tranh bị tạm đóng cửa, bên cạnh các trường được gọi là Bắc Việt di chuyển như Ngô Quyền, Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Trưng Vương, Hồ Ngọc Cẩn, Trần Lục… không hề bị gián đoạn, kể cả trong thời kỳ chuyển tiếp từ Pháp thuộc sang độc lập.
Mặt khác, chính các giáo chức chuyên nghiệp này cũng là những giảng viên cơ bản trong các trường huấn luyện giáo chức thuộc thế hệ mới. Từ phong thái đến cách giảng dạy, từ cách vào lớp, cho phép học trò ngồi, tới cách viết bảng và xóa bảng, cách chấm bài hay phê bài, các vị này đã để toát ra một sự chừng mực và vô cùng thận trọng của những nhà sư phạm lành nghề và yêu nghề. Học đường do đó đã tránh được nạn chánh trị hóa, tránh được nạn cán bộ chánh trị xâm nhập như ở miền Bắc trước 1975 và trên cả nước sau đó.
Nhiều vị vào những lúc tình thế vô cùng tế nhị cũng vẫn giữ được thế vô tư và độc lập, nghiêm chỉnh của học đường và tư cách của nhà giáo. Cũng cần phải nói thêm là trong thời gian này nhiều vị xuất thân là cử, tú, kép, mền, luôn cả tiến sĩ của thời trước, những người tinh thâm Nho học, vẫn còn có mặt ở các học đường, đặc biệt là các Đại học Văn Khoa ở Sài Gòn và Huế như Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Giác, Cử nhân Thẩm Quỳnh, Tú tài Kép Vũ Huy Chiểu… mà không ai là không quý trọng.
4. Hệ thống tổ chức, tổ chức thi cử và chương trình học vẫn giữ được những nét chính của Chương trình Pháp và Chương trình Hoàng Xuân Hãn, Phan Huy Quát dù có sửa đổi
Đây là một trong những đặc tính căn bản của nền giáo dục của miền Nam trong suốt thời kỳ nền giáo dục này tồn tại. Những gì người Pháp thiết lập không những không bị hủy bỏ, coi như tàn tích của chế độ thực dân, đế quốc mà còn được thận trọng giữ gìn, song song với việc bảo tồn truyền thống văn hóa cổ truyền và đạo đức của dân tộc. Người Việt ở miền Nam trong tinh thần cởi mở và tự do đã biết phân định những gì là kìm kẹp và những gì là hay đẹp mà một chế độ chính trị đem lại, thay vì cứ nhắm mắt đập bỏ để sau này hối hận. Các nhà làm giáo dục ở miền Nam đã tỏ ra vô cùng thận trọng trong mọi quyết định. Những gì gọi là cách mạng vội vã, nhất thời dường như không được chấp nhận. Họ chủ trương cải tổ để thích ứng với hoàn cảnh mới và cải tổ từ từ, kể cả khi thế lực và ảnh hưởng của người Mỹ, từ đó áp lực của họ đã trở nên rất mạnh.
Hệ thống giáo dục do người Pháp từ tiểu học cho đến đại học đã tồn tại dưới hình thức Việt hóa bắt đầu từ thời chính phủ Trần Trọng Kim năm 1945, với chương trình Hoàng Xuân Hãn, vị bộ trưởng giáo dục đương thời, sau này là Phan Huy Quát thời quốc gia Việt Nam mới được thành lập. Nó cho phép người ta, từ thầy đến trò, dễ dàng chuyển sang một nền giáo dục mới của một quốc gia độc lập không hề có chuyện trục trặc.
Ngay từ cuối niên học 1944-1945, trong rất nhiều khó khăn, từ giao thông, vận chuyển đến thông tin, liên lạc, người ta đã tổ chức được những kỳ thi ở bậc tiểu học bằng tiếng Việt mà không hề có chuyện than phiền, khiếu nại. Điều nên nhớ là Chính phủ Trần Trọng Kim chỉ tồn tại có vẻn vẹn bốn tháng hay hơn một trăm ngày, vô cùng ngắn ngủi, với những phương tiện giao thông và liên lạc hết sức nghèo nàn. Sau này khi gửi sinh viên ra ngoại quốc du học, miền Nam đã không gặp phải những khó khăn trong việc đối chiếu bằng cấp, hệ thống học, học trình và khả năng của các đương sự, không phải chỉ riêng cho những ai muốn sang du học bên Pháp mà luôn cả cho những ai muốn sang các quốc gia khác, kể cả Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Úc, Nhật… vì đó là một hệ thống giống như các hệ thống khác thuộc thế giới tây phương, một hệ thống gần với hệ thống chung của quốc tế với 12 năm dành cho bậc tiểu học và bậc trung học.
Duy trì mối liên tục lịch sử cũng cho phép người ta sử dụng được các sách giáo khoa của người Pháp và những sách giáo khoa về lịch sử và văn chương Việt Nam do chính người Việt soạn thảo từ thời trước năm 1945 và sau đó là từ năm 1947 đến năm 1954 ở những vùng đất của người quốc gia. Điển hình là các sách toán và khoa học bằng tiếng Pháp, do các tác giả Pháp soạn và xuất bản ở bên Pháp nhưng đã được không những các thầy mà luôn cả các trò sử dụng làm tài liệu hay để tự học mà cho tới nay nhiều cựu học sinh các trường trung học miền Nam vẫn còn nhắc tới và nhắc tới như là những kỷ niệm đẹp.
Trong phạm vi văn chương, những sách của Dương Quảng Hàm, đặc biệt là hai cuốn Việt Nam Văn Học Sử Yếu và Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển đã được dùng rất lâu dù cho nhiều sách giáo khoa khác đầy đủ hơn đã được soạn thảo. Cũng vậy, trong phạm vi sử học với cuốn Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim. Về nội dung, đặc biệt là trong văn học, người ta cũng thấy nền giáo dục của miền Nam vẫn giữ được tinh thần tự do, cởi mở. Các tác giả được đem dạy hay trích dẫn đã được lựa chọn căn cứ vào giá trị của các công trình của họ thay vì gốc gác và sự lựa chọn chế độ của họ, thay vì căn cứ vào chuyện họ ở miền Bắc hay ở miền Nam trong thời gian này.
Trường hợp của các tác giả gốc cộng sản như Thế Lữ, Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Nguyễn Tuân, Tô Hoài… là những trường hợp điển hình.
Trong phạm vi thi cử, các kỳ thi được thiết lập từ thời Pháp hay có ở bên Pháp vẫn được duy trì, đặc biệt là hai kỳ thi tú tài. Ở bậc đại học hệ thống tổ chức cũng tương tự. Ảnh hưởng của người Mỹ chỉ được chấp nhận một cách từ từ với nhiều thận trọng, mặc dầu người Mỹ đã bỏ ra nhiều tiền bạc và nhân sự qua các chương trình viện trợ khiến cho nhiều người Mỹ đã tỏ vẻ bất bình. Hình thức thi trắc nghiệm áp dụng cho các kỳ thi tú tài chỉ được thực hiện rất trễ về sau này và dư luận đã đón nhận nó với những nhận định khác nhau, đặc biệt là danh xưng "Tú Tài ABC Khoanh" đã được dùng để chỉ các kỳ thi này. Tiếc rằng chỉ vài năm sau miền Nam đã không còn nữa.
Trong phạm vi tổ chức thi cử, người ta có thể thấy không riêng gì quan niệm, cách tổ chức, cách coi thi và chấm thi cũng như cách cho điểm, định kết quả và công bố kết quả hãy còn chịu ảnh hưởng nhiều của người Pháp mà còn luôn cả những thời quân chủ trước đó nữa. Quyền uy của các giám khảo, các chánh phó chủ khảo, các giám thị đã luôn luôn được tôn trọng và nhiều vị chủ khảo đã tỏ ra vô cùng can đảm giữ thế độc lập cho mình hay biết khôn ngoan né tránh cho mình và cho các đồng nghiệp của mình khi phải lãnh nhiệm vụ ở những vùng xa thủ đô Sài Gòn, an ninh và giao thông không bảo đảm. Nên nhớ là trong thời gian này hệ thống trung ương tập quyền vẫn còn tồn tại.
Việc ra đề thi, in đề thi và gửi đề thi về địa phương với tất cả sự bảo mật cần thiết là vô cùng khó khăn, tế nhị và phức tạp. Về phía chính quyền thì từ trung ương đến địa phương hầu như không hề có sự trực tiếp can thiệp. Báo chí, các cơ quan truyền thông vẫn luôn luôn hiện diện và sẵn sàng phanh phui mọi chuyện.
Những tướng tá đi học
Ngay cả trường hợp các thí sinh là những sĩ quan cao cấp trong quân đội hay trong các lực lượng an ninh. Điển hình nhất là trường hợp của Đại tướng Cao Văn Viên. Tướng Viên lúc đó là Tổng Tham mưu trưởng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông là một người ham học nên mặc dù vô cùng bận rộn với quân vụ, ông vẫn ghi danh theo học trường Đại học Văn Khoa Sài Gòn, ban Pháp văn. Trong kỳ thi cuối năm Chứng chỉ Văn chương và Văn minh Pháp, ông đã đậu kỳ thi viết nhưng bị đánh rớt phần vấn đáp. Đây là một trong những chứng chỉ tương đối khó, nhiều khi kết quả được công bố : không ai đậu, ngay từ phần thi viết. Tướng Viên đã đậu phần thi viết. Điều này chứng tỏ khả năng viết và sự hiểu biết của ông, ít ra là về môn học được hỏi trong phần này, vì bài làm của thí sinh luôn luôn bị rọc phách trước khi giao cho giám khảo chấm. Trong phần vấn đáp, thầy trò trực tiếp đối diện với nhau và vị giám khảo là người Việt, không phải người Pháp, còn trẻ, ở tuổi quân dịch. Ông đã bị chính vị giám khảo người Việt này đánh hỏng nhưng trong suốt thời gian sau đó mọi việc đều an lành, không có gì đáng tiếc xảy ra cả. Đây là một trong những điểm son rực rỡ cho cả hai phía, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và Trường Đại học Văn Khoa Sài Gòn nói riêng và nền giáo dục của miền Nam nói chung thời trước năm 1975.
Tưởng cũng nên nói thêm là cũng trong thời gian này, Thiếu tướng Bùi Đình Đạm, Giám đốc Nha Động viên Bộ Quốc phòng cũng theo học Ban Sử ở trường này. Sang Mỹ, ông ghi tên học ở đại học Mỹ và đậu thêm bằng Cao học. Cũng vậy, chuyện chuẩn tướng chào chuẩn úy trước. Lý do là vị chuẩn tướng này đã theo học lớp văn hóa buổi tối để dự thi tú tài do sự khuyến khích của Tổng thống Ngô Đình Diệm và người chuẩn úy trước khi nhập ngũ là một giáo sư trung học dạy lớp buổi tối. Hai người gặp nhau một buổi sáng khi cùng đưa con đi học. Nhưng cũng chưa hết, trong thời gian này Trung tướng Nguyễn Bảo Trị cũng là được người ta biết tới như một ông "Tướng văn hóa".
Cuối cùng và vẫn chưa hết là trường hợp của một vị trung tá cũng thuộc Bộ Tổng Tham mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, trình một tiểu luận cao học ở ban Sử của trường Đại học Văn Khoa Sài Gòn. Bình thường, khi đã được phép trình, thí sinh được kể như là đã đậu. Vị trung tá này đã bị đánh rớt. Lý do là ông đã không sửa lại tiểu luận của mình mặc dầu đã được khuyến cáo trước đó và để nguyên những lỗi lầm bị cho là căn bản. Cũng nên biết là trước khi trình vị trung tá này đã đặt tiệc trà ở phòng giáo sư ở ngay lầu dưới để sẽ ăn mừng cùng với bạn bè và gia đình sau khi được chấm đậu.
Người ta có thể trách cứ ban giám khảo là quá nghiêm khắc nếu không nói là nghiệt ngã, nhưng vì tiểu luận cao học cũng như luận án tiến sĩ thời này được trình trước công chúng, ai vào nghe cũng được, sau đó ai cũng có thể mở xem được. Người ta có thể đánh giá nhà trường căn cứ vào phần trình bày và phẩm chất của tiểu luận hay luận án mà thí sinh đệ trình. Có điều vì thí sinh này là một trung tá của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa nên nhiều người tỏ ý lo ngại cho các giám khảo.
Cũng giống như Đại tướng Cao Văn Viên, ông có thể không làm gì, nhưng đàn em của ông thì sao ? Tướng Viên có thể không làm nhưng thuộc hạ của ông làm sao ông kiểm soát được ? Nên nhớ tướng Viên trước đó là Tư lệnh Lực lượng Nhảy dù. Lính của ông sống nay, chết mai, chuyện gì họ cũng có thể làm được. Nhưng cuối cùng thì mọi chuyện đều đâu vào đó, an lành, không có gì xảy ra cả. Đó là những điểm son của cả nền giáo dục của miền Nam lẫn của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trước khi miền đất được coi là tự do không còn nữa, người viết xin được nhắc lại.
5. Một xã hội tôn trọng sự học và những người có học
Đây là một trong những đặc tính cơ bản của văn hóa Việt Nam mà xã hội miền Nam nói chung và nền giáo dục miền Nam nói riêng thời trước năm 1975 được thừa hưởng. Đặc tính này đã được biểu lộ không riêng qua tinh thần "tôn sư trọng đạo" mà còn được coi như một giá trị và là một giá trị đứng đầu trong mọi giá trị. Sự học là một giá trị và giáo dục là một giá trị. Sự học hay giáo dục làm nên con người chứ không phải là những yếu tố khác, dù đó là quyền uy và tiền bạc.
Được xã hội tôn trọng nhưng ngược lại xã hội cũng trông đợi rất nhiều ở các thầy. Điển hình là chuyện "giáo sư mà cũng đi ăn phở". Câu chuyện này do Giáo sư Nguyễn Ngọc Cư kể lại. Giáo sư Nguyễn Ngọc Cư là một trong những vị cựu sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội thời Pháp thuộc, một trong những vị giáo sư nổi tiếng là nghiêm túc còn lại của trường này. Ông dạy ở trường Thành Chung Nam Định, sau là Đại học Sư phạm Sài Gòn. Một trong những học trò cũ của ông sau này là Ngoại trưởng của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch.
Câu chuyện xảy ra khi giáo sư Cư xuống chấm thi ở Mỹ Tho khi mới từ Hà Nội di cư vào Nam hồi sau năm 1954 vào một buổi sáng khi các vị giám khảo rủ nhau đi ăn phở trước khi nhập trường và khi người dân quanh vùng nhìn thấy các thầy trong tiệm phở. Cũng nên nhớ là hồi đó các giáo sư trung học, nhất là các vị dạy ở cấp tú tài là rất hiếm và kỳ thi tú tài là một biến cố lớn ở trong vùng.
Cũng nên để ý là, khác với ở miền Bắc, nơi thầy cô thời trước gọi học trò bằng anh hay chị, trong Nam học trò được thầy gọi bằng trò và thường tự xưng là trò. Quan niệm chính danh ở đây được thấy rõ, từ đó sự trông đợi tư cách phải có của người thầy. Cho tới nay, người ta không rõ danh xưng em trong học đường Việt Nam về sau này đã được sử dụng từ bao giờ. Có thể từ thời có Phong trào Thanh niên Thể dục Thể thao của Hải quân Đại tá Ducoroy thời Thống chế Pétain ở bên Pháp và Đô Đốc Decoux ở Đông Dương, nhưng cũng có thể do ông Hồ Chí Minh thời năm 1945. Nói như vậy vì trong thư gửi các học sinh hồi đầu niên khóa 1945-1946, Hồ Chí Minh đã mở đầu bằng câu "Các em học sinh, các em hãy nghe lời tôi…" và tiếp theo bằng ba tiếng "lời của một người anh lớn"… mặc dù lúc đó ông đã 55 tuổi và thư là gửi cho những thiếu niên, những học sinh trung và tiểu học chỉ đáng tuổi cháu nội, cháu ngoại của ông.
Lối xưng hô này đã không được một số thầy cô trong Nam chấp nhận. Nhiều người vẫn ưa thích lối xưng hô cổ truyền hơn và ngay ở bậc đại học, nhiều sinh viên, đặc biệt là các nữ sinh viên, đã xưng con với các thầy của mình mặc dù thầy trò hơn nhau chỉ có vài tuổi. Một vị hiệu trưởng một trường nữ trung học lớn, nổi tiếng của Sài Gòn đã chỉnh học sinh của mình khi người này xưng em với bà : "Thưa Cô, Con chứ ! sao lại Thưa Cô, Em !". Tưởng ta cũng nên nhớ là, thầy và con, cô và con, từ cả hai vị thế, từ trách niệm đến bổn phận và cung cách đối xử khác nhau nhiều lắm.
Ngoài xã hội cũng vậy, các phụ huynh học sinh luôn luôn gọi các thầy cô của con mình bằng thầy và cô luôn, với tất cả mọi sự tin cậy khi đặt trách nhiệm dạy dỗ con mình vào tay họ, đặc biệt là các thầy cô tiểu học. Điều này giải thích tại sao sau năm 1975, các giáo viên từ miền Bắc vô Nam ưa dạy các học sinh gốc miền Nam hơn các học sinh mới từ miền Bắc theo chế độ mới vào.
Trở lại với thành ngữ "Tôn sư trọng đạo". Thành ngữ này thường được dùng như một phương châm dành cho các học sinh và phần nào luôn cả các phụ huynh tương tự như các câu "Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy thày", hay "Nhất tự vi sư, bán tự vi sư" hoặc thành ngữ "quân sư phụ". Đối với một số không nhỏ các nhà giáo thành ngữ này cần được hiểu là bao gồm hai phần : phần thứ nhất là "tôn sư" và phần thứ hai là "trọng đạo". Tôn sư là dành cho học trò và trọng đạo là dành cho người thày theo đúng quan niệm chính danh của Khổng giáo. Thày phải ra thày trước khi đòi hỏi trò phải kính trọng thày. Đây là một vấn đề khác có tính cách chuyên môn và khá phức tạp. Tôi sẽ xin trở lại trong một bài khác.
Tạm thời kết luận
Bài này được viết vào lúc những tin tức về những tệ hại trong nền giáo dục hiện tại ở Việt Nam thời xã hội chủ nghĩa chiếm một phần không nhỏ trong sinh hoạt truyền thông quốc tế cũng như quốc nội. Ngoài những tin tức, những bài nhận định có những hình ảnh của các kỳ thi đi kèm. Tất cả đã xảy ra hàng ngày và đã chiếm những phần quan trọng trong thời lượng phát thanh hay phát hình hay trên các trang báo, đặc biệt là vào những thời kỳ bãi trường hay khởi đầu của một niên học. Mọi chuyện đã liên tiếp xảy ra từ nhiều năm trước và người xem, người nghe có thể đoán trước và chờ đợi mỗi khi mùa hè và sau đó là mùa thu đến.
Nhiều người còn dùng hai chữ "phá sản" để hình dung tương lai của nền giáo dục này và nhiều người tỏ ý nuối tiếc quá khứ mà họ cho là rất đẹp của nền giáo dục ở miền Nam thời trước năm 1975.
Trong khi đó ở hải ngoại, giới trẻ Việt Nam, ở đây tôi chỉ nói tới những người xuất thân từ các học đường ở miền Nam, đã thành công rực rỡ và được các thầy cô và các cơ quan truyền thông khen ngợi, nếu không nói là ca tụng. Nhiều người không những vẫn tiếp tục làm nghề cũ, kể cả những ngành mà tiêu chuẩn quốc tế rất chính xác, rõ ràng mà họ học được ở các trường đại học hay cao đẳng ở Việt Nam. Rất nhiều người đã trở thành những chuyên viên cao cấp, những cố vấn, hay những giáo sư đại học bản xứ với những công trình nghiên cứu có giá trị cao và ở mức độ quốc tế. Ở đây, như đã nói trong phần mở đầu, người viết chỉ vắn tắt ghi nhận một số những dữ kiện căn bản. Nhiều công trình nghiên cứu qui mô hơn và kỹ càng hơn còn cần phải được thực hiện bởi nhiều người, trước khi người ta có thể khẳng định những nhận xét này.
Tuy nhiên có một điều người ta phải để ý và thận trọng khi nói tới cách mạng và đặc biệt khi làm "cách mạng vì cách mạng" và hệ quả của nó có thể làm thay đổi toàn bộ cuộc sống của dân tộc, theo chiều hướng đi xuống, nhất là khi cách mạng không bắt nguồn từ truyền thống và tư duy của chính dân tộc mình. Người ta có thể xóa bỏ một chế độ chính trị bằng cách mạng, từ đó đoạn tuyệt với quá khứ nhưng người ta không thể theo đà đó mà làm cách mạng trong những phạm vi sinh hoạt khác, xóa bỏ và làm lại tất cả, trong đó có giáo dục. Cách Mạng Mỹ không làm như vậy, Cách Mạng Pháp cũng không làm như vậy… vẫn duy trì những truyền thống cũ. Nhận định này có thể bị coi là bảo thủ, nhưng đó là một sự thật và một sự thật bắt đầu bằng kinh nghiệm. Có điều vì bằng kinh nghiệm nên khi biết được sự thật thì đã quá muộn. Nhiều khi người ta phải từ bỏ cách mạng để trở về với truyền thống của cha ông vì cha ông của chúng ta cũng là người, cũng thông minh, cũng khôn ngoan, sáng suốt, cũng nhạy cảm như chính chúng ta, ngoại trừ các cụ sống ở thời của các cụ, mỗi cụ chỉ sống một thời gian ngắn, còn truyền thống thì có từ lâu đời.
Phải có lý do truyền thống mới được tôn theo, được duy trì và từ đó tồn tại. Lịch sử do đó đã luôn luôn liên tục vì không liên tục là đổ vỡ, là mất quân bình và xáo trộn, là thụt lùi hay ít ra là bất khả tiến bộ.
Khởi viết, tháng 9, 2006
Sửa lại trong Mùa Lễ Tạ Ơn của Hoa Kỳ 2016
Cập nhật hóa và bổ khuyết, tháng Tư, 2019
Phạm Cao Dương
"Nhà nước ta lệ thuộc không dám nói gì với Trung Quốc…"
lời Thiếu tướng cộng sản Việt Nam Lê Duy Mật
"Nhiều người đã ví giai đoạn mất nước và luôn cả diệt vong của dân tộc Việt Nam như một người đang hấp hối…"
(Phạm Cao Dương)
"Chúng ta phải giành cho được Đông Nam Châu Á bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái lan, Miến Điện, Ma-lai-xi-a và Xin-ga-po. Một vùng như Đông-nam Châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản… xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy… Sau khi giành được Đông-nam Châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió đông sẽ thổi bạt gió tây".
"Chúng ta phải chinh phục trái đất. Mục tiêu của chúng ta là toàn thể trái đất"
Mao Trạch Đông tuyên bố trước Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc năm 1959.
(trích từ "Sự thật về Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong 30 năm qua", Nhà xuất bản Sự Thật, 1979, tái bản 1980.)
***
Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc - tranh biếm họa
Trước khi vào đề : Đây là bài thứ ba trong loạt bài tác giả viết dưới nhan đề chung là "Mưu Độc Ngàn Năm" như một lời cảnh giác về hiểm họa Bắc Phương mà tổ tiên người Việt từ thời Mã Viện non một ngàn năm trước đã phải liên tục đương đầu.
Bài thứ nhất nói về Cuộc Khởi Nghĩa của Hai Bà Trưng và chủ trương đồng hóa tiếp theo của Mã Viện với việc dựng cột đồng của viên tướng Nhà Hán này. Bài thứ hai nói về việc Nhà Minh tịch thu sách của ta đem về Tầu nhằm tiêu diệt văn hóa của người Việt, từ đó chính dân tộc Việt Nam ; và bài thứ ba về cuộc xâm lăng vừa công khai vừa âm thầm chút một nhưng vô cùng nguy hiểm bằng những phương tiện tinh vi nhất, độc địa nhất, mới mẻ nhất hiện đang xảy ra ở ngoài Biển Đông và ở ngay trên đất liền của chính quốc Việt Nam.
Đây là một vấn đề vô cùng rộng lớn và vô cùng phức tạp nhưng vì giới hạn của một bài viết ngắn để bạn đọc có thể bỏ thì giờ đọc được, tôi chỉ xin đưa ra những điểm chính, đồng thời tôi sẽ không nói nhiều về Biển Đông với các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Đường Lưỡi Bò của Trung Quốc cùng những gì đế quốc mới này đã và đang làm ở trong vùng biển này như thành lập Thành Phố Tam Sa, thiết lập các cơ cấu hành chánh, chánh trị, quân sự, đưa các tàu hải tuần xuống đe dọa các quốc gia liên hệ và chặn bắt các tàu đánh cá của ngư dân, đặc biệt là ngư dân Việt Nam…
Lý do là vì tất cả đã trở thành đề tài thời sự thế giới, được nói tới gần như hàng tuần và luôn cả hàng ngày trên các đài phát thanh, các đài truyền hình quốc tế cũng như các đài phát thanh, đài truyền hình của người Việt, và trên các trang mạng từ nhiều năm nay và đương nhiên cả trong những buổi gặp gỡ giữa người Việt ở Hải Ngoại. Ngoài ra một số sách cũng đã được soạn riêng và xuất bản về vấn đề này rồi.
Tôi cũng không nói hay nói rất ít về bản "Tuyên cáo về việc nhà cầm quyền Trung Quốc liên tục có những hành động gây hấn, xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam trên Biển Đông", ngày 25 tháng 6 năm 2011 và bản "Kiến nghị về Bảo vệ và phát triển đất nước trong tình hình hiện nay" của các nhân sĩ, trí thức nổi tiếng ở trong nước gửi Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Chính trị Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam ngày 10 tháng 7 cùng năm với nhiều kiến nghị khác mà mọi người đều biết trước là sẽ không bao giờ được trả lời hay chỉ được trả lời quanh co hay gián tiếp rồi sau đó im lặng luôn theo chiến thuật "phân trâu để lâu hóa bùn".
Công hàm Phạm Văn Đồng
Tôi cũng không nói hay nói rất ít về lối trả lời gián tiếp các nhà trí thức kể trên của Đảng cộng sản Việt Nam xuyên qua một bài báo đăng trên tờ Đại Đoàn Kết (07/2011) theo đó những người cầm quyền ở Việt Nam hiện tại đã tỏ ra vô cùng lúng túng trước câu hỏi về bản công hàm của Phạm Văn Đồng nhân danh Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gửi Chu Ân Lai, Chủ tịch Quốc Vụ viện nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, ngày 14 tháng 9 năm 1958. Đây là lần đầu tiên những người cầm đầu Đảng cộng sản Việt Nam, đã thừa nhận là họ đã lựa chọn nhường các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc để đổi lấy sự giúp đỡ của Trung Quốc trong cuộc xâm chiếm Miền Nam bằng vũ lực của họ sau đó.
***
Chú thích : Bản tuyên bố của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có nội dung như sau :
"Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nay tuyên bố :
(1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
(2) Các đường thẳng nối liền mỗi điểm cơ sở của bờ biển trên đất liền và các đảo ngoại biên ngoài khơi được xem là các đường cơ sở của lãnh hải dọc theo đất liền Trung Quốc và các đảo ngoài khơi. Phần biển 12 hải lý tính ra từ các đường cơ sở là hải phận của Trung Quốc. Phần biển bên trong các đường cơ sở, kể cả vịnh Bột Hải và eo biển Quỳnh Châu, là vùng nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong các đường cơ sở, kể cả đảo Đông Dẫn, đảo Cao Đăng, các đảo Mã Tổ, các đảo Bạch Khuyển, đảo Điểu Khâu, Ðại và Tiểu Kim Môn, đảo Đại Đảm, đảo Nhị Đảm, và đảo Đông Đĩnh, là các đảo thuộc nội hải Trung Quốc.
(3) Nếu không có sự cho phép của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, tất cả máy bay nước ngoài và tàu bè quân sự không được xâm nhập hải phận Trung Quốc và vùng trời bao trên hải phận này. Bất cứ tàu bè nước ngoài nào di chuyển trong hải phận Trung Quốc đều phải tuyên thủ các luật lệ liên hệ của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
(4) Ðiều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
Khu vực Ðài Loan và Bành Hồ hiện tại vẫn bị lực lượng vũ trang Hoa Kỳ xâm chiếm. Ðây là hành vi phi pháp, xâm phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ðài Loan và Bành Hồ đang chờ được thu phục. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy lại các phần đất này trong tương lai, không cho phép nước ngoài can thiệp".
***
Công hàm Phạm Văn Đồng :
Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ :
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958 , của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận 12 hải lý của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển.
Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.
(Tài liệu của Bách khoa Toàn thư mở)
***
Đây cũng là lần đầu tiên họ, những người cầm đầu Đảng cộng sản Việt Nam, công nhận chính phủ Quốc gia Việt Nam thời Quốc trưởng Bảo Đại và sau đó là Việt Nam Cộng hòa thời Tổng thống Ngô Đình Diệm và Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu là những chính phủ hợp pháp có trách vụ quản trị các quần đảo này theo Hiệp định Genève cũng như những nỗ lực không thể chối cãi mà những chính phủ quốc gia này đã làm để bảo vệ các quần đảo này trong suốt thời gian các chính phủ này tồn tại.
Lý do chính yếu khiến tôi không nói hay chỉ nói rất ít về những sự kiện kể trên là vì tất cả hiện thời đang xảy ra ở Biển Đông và các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mới chỉ là diện, là bề ngoài, là mới chỉ là bắt đầu và chưa phải là chính. Tất cả rồi cũng sẽ được giữ nguyên trạng trong một thời gian dài và dù muốn hay không Hoàng Sa cũng đã mất rồi, còn Trường Sa thì cũng mất nhiều phần, còn nhiều thế hệ nữa Việt Nam mới có thể lấy lại được hay có cơ hội lấy lại được. Trung Hoa cộng sản trong mọi hoàn cảnh, kể cả khi Hoa Kỳ và các nước Tây phương có những thái độ tích cực hơn, cũng đã chiếm được và giữ được những phần quan trọng kể từ sau khi họ chiếm Hoàng Sa từ trong tay Việt Nam Cộng Hòa hồi tháng Giêng năm 1974 trước sự ngoảnh mặt của Đồng minh Hoa Kỳ, và trong sự im lặng, đồng lõa của chính quyền cộng sản Hà Nội. Cái giá để cho Đảng cộng sản Việt Nam xâm chiếm miền Nam và thống nhất đất nước ta bằng võ lực phải nói là quá đắt cho dân tộc Việt Nam và cho chính họ. Đã chót cầm bút ký công hàm, đã chót giữ im lặng không phản đối đúng lúc giờ có hối hận thì đã quá muộn.
Điểm mất nước ở đâu ?
Hoàng Sa, Trường Sa hay rộng hơn, Biển Đông, chỉ là những gì nổi bật bề ngoài, là cái diện ai cũng có thể thấy được trong tiến trình mất nước của dân tộc Việt Nam đầu Thế kỷ 21 này.
Vậy thì mục tiêu chính để dứt điểm đất nước và dân tộc Việt Nam hay cái điểm nằm ở đâu ? Nó nằm ngay trên đất liền, trên lãnh thổ của chính quốc Việt Nam trên bán đảo Đông Dương. Nó nằm rải rác ở khắp lãnh thổ nước ta chứ không riêng ở biên giới phía bắc, đành rằng ở biên giới phía bắc, người ta đã ghi nhận những sự nhổ và lui cột mốc, sự mất ba phần tư Thác Bản Giốc, những sự chiếm giữ các cao điểm có tính cách chiến lược từ trước và sau trận chiến 1979 giữa hai đảng cộng sản Á Châu anh em và có thể từ xa hơn nữa, từ đầu thập niên 1950, khi phe cộng sản Việt Nam mở cửa biên giới phía bắc để nhận viện trợ của Trung Quốc nhằm củng cố vị thế cầm quyền, tiếp tục cuộc chiến tranh chống Pháp và gián tiếp chống lại chính quyền Quốc gia Việt Nam lúc đó đã được thành lập bởi cựu Hoàng Bảo Đại. Những thắc mắc về sự mất mát này cho tới nay vẫn chưa được hoàn toàn giải tỏa dầu cho đã được nhiều người đòi hỏi. Tôi sẽ nói thêm ở phần cuối về vấn đề này.
Có điều là đến giờ thì hai bên đã ký kết những thỏa ước và những cột mốc mới đã khởi sự được "cắm" rồi. Những điểm này tuy nhiên chỉ là ở dọc vùng biên giới. Quan trọng hơn và nguy hiểm hơn, bức thiết hơn là những điểm, mà không phải là điểm hiểu theo ý nghĩa đen của danh từ, nằm sâu ngay trong lãnh thổ của tổ quốc Việt Nam, dưới quyền quản lý của chính quyền cộng sản hiện tại nhưng vượt ra ngoài sự kiểm soát của chính quyền này. Những điểm vừa cố định, nằm nguyên một chỗ, vừa di động khắp nơi trên lãnh thổ, điển hình là những mỏ Bauxite trên cao nguyên, những khu rừng đầu nguồn nằm ở cửa ngõ của những vùng biên giới Việt-Trung và Lào-Việt, những khu vực trúng thầu, những địa điểm thu mua các nông sản, những vùng nông dân bỏ trồng lúa, trồng khoai, những trại nuôi cá, điển hình là trại nằm không xa quân cảng Cam Ranh là bao nhiêu mà các nhà cầm quyền địa phương sau cả gần chục năm không hề biết, những khu phố kiểu Đông Đô Đại Phố ở Bình Dương… Tất cả đã trở thành những "thực dân địa", những "colonies" của người Tàu ngay trong lòng của lãnh thổ Việt Nam, nơi những ủy ban nhân dân vẫn còn làm chủ.
Nói cách khác, theo lời của các tác giả của Bản "Kiến nghị về Bảo vệ và phát triển đất nước…" ngày 10 tháng 7 năm 2011 mà tôi đã dẫn trên đây thì "… mặt trận nguy hiểm nhất đối với nước ta mà Trung Quốc muốn dồn quyền lực và ảnh hưởng để thực hiện, đó là : thâm nhập, lũng đoạn mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa của nước ta. Đó là mặt trận vừa uy hiếp, vừa dụ dỗ nước ta nhân danh cùng nhau gìn giữ ý thức hệ xã hội chủ nghĩa, gây chia rẽ giữa nhân dân ta và chế độ chính trị của đất nước, vừa lũng đoạn nội bộ lãnh đạo nước ta, làm suy yếu khối đại đoàn kết thống nhất của dân tộc ta, làm giảm sút khả năng gìn giữ an ninh và quốc phòng của nước ta.
Đánh thắng nước ta trên mặt trận nguy hiểm nhất này, Trung Quốc sẽ đánh thắng tất cả. Nói cách khác đó là chiến lược dùng quyền lực mềm thọc sâu vào lãnh thổ Việt Nam để nhẹ ra là đưa Việt Nam đến chỗ phụ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc, còn nặng hơn là chiếm luôn cả nước và tiêu diệt cả dân tộc theo lời nguyền của Mã Viện hơn một ngàn năm trước. Đến lúc đó thì Hoàng Sa, Trường Sa và Đường Lưỡi Bò đương nhiên sẽ trở thành biển đảo của Trung Quốc.
Hãy tưởng tượng ngay trên Cao Nguyên Miền Nam, mái nhà của toàn xứ Đông Dương, địa điểm chiến lược quan trọng nhất đã chi phối toàn bộ an ninh của miền nam Việt Nam và sự thống nhất của lãnh thổ quốc gia trong quá khứ, trong một khu vực rộng lớn, nằm ngoài sự kiểm soát của cả chính quyền trung ương lẫn chính quyền địa phương của người Việt, là một khu vực dành riêng cho người Tàu, không ai được nhòm ngó, không ai được ra vào. Họ được tự do mang người của họ vô, mang người của họ ra, được chở đồ của họ vô, chở đồ của họ ra một cách tự do, thong thả không qua một sự kiểm soát nào. Những người này là những người nào ? những đồ này là những đồ gì ? Làm sao biết được, ai mà biết được… cho đến biến cố tầy trời nổ ra ?
Cũng vậy, ở những khu rừng đầu nguồn và ở những địa điểm của những công trình xây cất có tính cách căn bản nhằm cung cấp điện năng, khoáng sản, dầu khí… những lãnh vực thuộc loại tối quan trọng liên hệ tới an ninh của quốc gia. Nhìn vào con số 90% các "gói thầu" thuộc loại này được mở ra ở trong nước đã lọt vào tay các nhà thầu Trung Quốc. Nhiều gói lên tới hàng tỷ Mỹ kim với những món tiền lót tay không phải là nhỏ, từ 10% đến 15% tiền thầu. Hậu quả là những công trình do họ thực hiện phần lớn có phẩm chất kém, thời gian thi công kéo dài trong khi các nhà thầu Việt Nam, vì không đủ vốn, không đủ thế lực chỉ còn bất lực, đứng bên lề các đại công trường trên chính đất nước của mình.
Nhưng nguy hiểm hơn hết vẫn là nạn nhân công người Tàu do chính các chủ thầu người nước họ mang sang để lao động thay vì các nhân công bản xứ. Ở khắp nơi, từ Quảng Ninh, Hải Phòng, Đồ Sơn đến Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, đến Đà Nẵng rồi vô tới Bình Dương và Cà Mau… chỗ nào có nhân công người Tàu đều có những khu cư xá riêng cho họ, kèm theo là các chợ búa, các cửa hàng, các trung tâm dịch vụ, các nhà nghỉ, các quán cà phê, karoke mang chữ Tàu… để phục vụ cho họ. Người Việt Nam không chỉ có thể đứng nhìn mà còn trở thành nạn nhân của tất cả những tệ hại do họ gây ra như ăn uống, nhậu say không trả tiền, phá phách, tiểu bậy, trêu gái, đánh lộn, kéo hàng trăm người đánh hội đồng người bản xứ khi có tranh chấp…
Những người Tàu được gửi sang Việt Nam để lao động kể trên thuộc thành phần nào ? Họ có phải thuần túy là dân lao động có tay nghề hay là những quân nhân thuộc những đơn vị đặc biệt, những đặc công tình báo được gửi sang để thực hiện một mưu đồ hiểm độc lâu dài hơn ? Hiện tại chưa có gì là rõ ràng mà chỉ là ức đoán. Có điều là họ hiện diện ở khắp nơi trên toàn quốc Việt Nam mà các nhà cầm quyền từ trung ương đến địa phương đều đã không kiểm soát được hay cố tình làm lơ không kiểm soát. Mặt khác, nếu nhìn vào những gì Trung Quốc đã làm ở Tân Cương, ở Mông Cổ và luôn cả ở Tây Tạng trong thời gian gần đây thì không ai là không khỏi lo ngại. Tỷ lệ số người gốc Hán ở các xứ này đã tăng gia đáng kể và sự cạnh tranh cũng như sự kỳ thị với sự thiên vị của nhà cầm quyền đã gây nên những cuộc bạo loạn trầm trọng.
Liệu Việt Nam có thể tránh khỏi tình trạng đang xảy ra cho các nước này hay không ? Ta không được biết, nhưng chỉ nhìn vào miền cao nguyên với các công trình khai thác Bauxite, với lượng nhân công gốc Tàu đông đảo, phần lớn là những thanh niên chưa có hay không có vợ, hậu quả của nạn giới hạn hai con của chính quyền Trung Quốc, người ta không thể không lo ngại cho tương lai của miền đất chiến lược quan trọng bậc nhất của đất nước Việt Nam này, miền đất mà Hoàng đế Bảo Đại coi trọng đặc biệt với danh xưng Hoàng Triều Cương Thổ.
Những thanh niên này sẽ lấy các thiếu nữ Thượng, sẽ sinh con đẻ cái và tất cả sẽ trở thành công dân xứ Thượng. Nếu điều này xảy ra thì rất là êm thắm, chỉ trong vòng hai thế hệ hay ba chục năm, chưa tới năm mươi năm, thời gian thuê các rừng đầu nguồn với giá rẻ mạt, những người Thượng gốc Tàu sẽ trở thành chủ nhân của các cao nguyên và qua một cuộc đầu phiếu êm ả và hợp pháp, miền đất rộng lớn, nhiều tài nguyên này sẽ trở thành của Tàu và biết đâu qua một tiến trình tương tự toàn bộ cả nước Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh mới của nước Tàu, tỉnh Quảng Nam của Tầu, rộng trên ba trăm ngàn cây số vuông hay hơn nữa nếu bao gồm cả hai nước Lào và Căm bốt, sau hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, biên giới phía nam nước Tàu sẽ được mở rộng tới Vịnh Thái Lan về phía nam và về phía tây, tới bờ sông Cửu Long.
Đó chính là ước mơ của những người tự nhận là Đại Hán mà suốt một ngàn năm vừa qua họ không đạt được. Điều này không phải là không thể xảy đến cho dân tộc Việt Nam, dân tộc Lào và dân tộc Campuchia trong nửa thế kỷ tới. Tất cả sẽ có thể xảy ra một cách bất ngờ "trước khi người lính của chúng ta được quyền nổ súng" nói theo lời của một tướng lãnh của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam trong một đoạn video được phổ biến rất rộng rãi và trong một thời gian dài trước đây. Chỉ tiếc là tính cách chính xác của đoạn video này cho tới nay chưa được phối kiểm. Vị tướng lãnh này là Trung tướng Phạm Văn Dỹ, Chính ủy Quân Đoàn 7 của quân đội này.
Trung tướng Quân Khu 7-Phạm Văn Dỹ Phạm Văn Dỹ cảnh báo nguy cơ mất nước trong thời bình
Nội thù tiếp tay
Những gì tôi kể ra trên đây chỉ là những gì dễ thấy và được nhiều người thấy. Còn có nhiều hiện tượng khác tiềm ẩn hơn, thâm độc hơn do người Tàu cố ý gây ra như nạn hàng hóa rẻ tiền, thiếu phẩm chất của họ tràn ngập Việt Nam trong đó có những hàng độc hại, những thực phẩm có chứa các hóa chất gây bệnh chết người hay làm hại cho sức khoẻ cho loài người nói chung mà ảnh hưởng sẽ kéo dài trong nhiều thế hệ.
Việc người Tàu xây hàng loạt nhiều đập trên thượng nguồn sông Cửu Long và sông Hồng Hà đe dọa sự an toàn và phong phú của các đồng bằng Châu thổ của các sông này, từ đó đe dọa cuộc sống của nhiều chục triệu người dân ở đây cũng là những hiện tượng người ta cần chú ý. Chưa hết, chuyện Trung Quốc tung tiền ra và đứng sau hai nước ở phía tây Việt Nam là Căm Bốt và Lào cũng đã và chắc chắn sẽ còn gây ra rất nhiều khó khăn cho Việt Nam mà những gì Căm Bốt đã làm trong Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN vừa qua là một bằng cớ, y hệt những gì cộng sản Bắc Việt đã gây ra cho Việt Nam Cộng Hòa trong cuộc chiến tranh vừa qua.
Trên đây mới chỉ là hiểm họa do người Tàu từ phương bắc đem tới. Còn có những hiểm họa khác do chính những người lãnh đạo ở Việt Nam hiện tại vì tham lam, vì trình độ hiểu biết kém cỏi, vì kiêu căng, vì mang bệnh thành tích… đã và đang gây ra cho chính dân tộc mình thì sao ? Tôi muốn nói tới việc xây dựng bừa bãi và cẩu thả các đập thủy điện ở khắp nơi mà Sông Tranh 2 chỉ là một trường hợp điển hình. Nguy hiểm hơn nữa là dự án xây dựng các nhà máy phát điện hạch tâm, khởi đầu là ở Phan Rang, bất chấp những kinh nghiệm khủng khiếp của người Nga ở Chernobyl, người Nhật ở Fukushima hay những sự thận trọng của người Pháp, người Đức, người Mỹ khi những người này quyết định cho đóng cửa hay ngưng hoạt động các lò điện này ở nước họ. Nga, Nhật, Mỹ, Pháp, Đức… là những nước giàu có, tiền bạc nhiều, lại có những nền khoa học và kỹ nghệ cao, những chuyên viên giỏi, những người thợ có kinh nghiệm và vững tay nghề mà còn thận trọng tối đa như vậy, còn Việt Nam mình thì mặc dầu còn kém cỏi về đủ mọi mặt nhưng đã bất chấp tất cả. Người ta đã không điếm xỉa gì đến sự cảnh cáo của dư luận quốc tế cũng như quốc nội.
Hai giáo sư Phạm Duy Hiển ở trong nước và giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn ở bên Pháp là những chuyên viên thượng thặng của người Việt đã hết lời can ngăn và đã viết nhiều bài điều trần với những lời lẽ vô cùng thống thiết nhưng không ai để mắt, để tai tới… cho đến khi đại họa xảy ra thì mọi sự đã quá muộn. Nên nhớ là với Fukushima, người Nhật chỉ riêng để làm sạch miền biển liên hệ đã phải bỏ ra nhiều tiền bạc, công sức và dự trù sẽ phải để ra bốn mươi năm mới thực hiện nổi.
Tham nhũng và nhất là bệnh thành tích phải chăng là nguồn gốc của đại nạn này ? Việt Nam phải là nhất, là cái gì cũng có, nhất là ở thời đại Hồ Chí Minh, Đỉnh cao của Trí tuệ loài người. Cuối cùng chỉ tội nghiệp cho người Chàm vì địa điểm thiết lập những nhà máy này chỉ cách Tháp Chàm có năm cây số. Nếu chuyện gì xảy ra, con số hơn một trăm ngàn người còn sót lại của một dân tộc đã một thời hùng cứ ở miền trung và miền nam Trung Phần Việt Nam, có thời đã đánh bại người Việt, tràn ngập kinh đô Thăng Long, với một nền văn hóa giàu về hình tượng, nơi xuất thân của nhiều ca nhạc sĩ gốc Chàm sẽ một lần nữa bị tiêu diệt và lần này chắc chắn là lần chót.
Nên biết thêm là có một thời nhà cầm quyền ở Việt Nam đã dự trù sẽ thiết lập tổng cộng từ 8 đến 10 nhà máy điện hạch tâm, phần lớn là ở miền Trung mà Phan Rang chỉ là khởi đầu với 2 nhà, mỗi nhà 2 lò. Tất cả đều là mua của Nhật, Nga và luôn cả Đại Hàn sau các cuộc thăm viếng của các nhà lãnh đạo Đảng và Chính phủ. Họ viện cớ là các nhà sản xuất đều nói là các lò họ làm là an toàn một trăm phần trăm nhưng ai mà tin được những kẻ ở giữa ăn huê hồng từ những hợp đồng tính từ 3 tỷ, 5 tỷ, 10 tỷ Mỹ Kim trở lên. Nếu chẳng may những vụ rò rỉ hay phát nổ của các lò xảy ra như ở Chernobyl hay Fukushima thì một phần ba dân số cả nước, phần ba dân số vốn bị coi là có quê hương "đất mặn đồng chua", là "đất cày lên sỏi đá", là "nghèo lắm ai ơi" với "mùa đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn", nơi "Trời làm cơn lụt mỗi năm, khiến đau thương lan tràn, ngập Thuận An…", bây giờ lại bị đe dọa có thêm một đại nạn mới do chính các nhà lãnh đạo của nước mình gây ra treo sẵn trên đầu.
Cũng may là dự án Phan Rang đã tạm thời được hoãn lại. Nhưng vụ Formosa Hà Tĩnh, nhà máy gang thép hỗn hợp Đài Loan-Trung Quốc lại bùng nổ và đã gây tai họa với nạn ô nhiễm môi trường và cá chết khủng khiếp ở Vũng Áng (Hà Tĩnh) năm 2016. Tiếp theo là các dự án đặc khu kinh tế Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc được dự trù cho nước ngoài, với Trung Quốc là chính, thuê tới 99 năm. Rất may là cuộc biểu tình phản đối trong cả nước của người dân ngày 10/06/2018 đã buộc chính quyền cộng sản Việt Nam phải dừng lại. Nhưng có thể còn nhiều vụ tương tự khác nữa sẽ được thực thi mà người dân không biết.
Trên đây chỉ là một số những gì đã và đang xảy ra trên đất nước Việt Nam của chúng ta mà mọi nguời ít nhiều còn quan tâm tới quê hương của mình, của ông cha mình đều nhận thấy. Còn rất nhiều chuyện khác lớn hơn, quan trọng hơn và có tính cách chiến lược hơn, thâm độc hơn như sự lệ thuộc về chính trị, về kinh tế và luôn cả về văn hóa của Việt Nam vào Trung Quốc. Nhà nước cộng sản Việt Nam đã cấm dân không được tỏ thái độ dù cho chỉ là để bày tỏ lòng yêu nước của mình. Ngược lại, họ đã bắt bớ hành hạ khi dân phản đối, hoặc không cho dân biết những gì xảy ra liên hệ tới sự thịnh suy, tồn vong của quê hương và dân tộc mình.
Trước tình trạng đa số người dân không được biết hoặc không muốn biết để tránh liên lụy nên đa số đều dửng dưng, nếu không nói là vô cảm trước an nguy của đất nước. Bên cạnh hiện tượng thờ ơ này là sự suy đốn trầm trọng trong sinh hoạt của giới trẻ, với nạn ăn chơi bừa bãi, cuồng nhiệt lan rộng trong xã hội. Thậm chí đến độ tự thoát y giữa đường phố để mừng chiến thắng thể thao !
Tệ hơn nữa là nạn suy đồi đạo đức của người lớn đang ngày một lên cao, nhất là bạo lực và lạm dụng tình dục ngay trong học đường. Như vậy, liệu khả năng đề kháng truyền thống ngàn năm của người Việt trong hoàn cảnh này có tồn tại được không ?
Nhiều người đã ví giai đoạn mất nước và luôn cả diệt vong của dân tộc Việt Nam như một người đang hấp hối với cái chết từ bàn chân đã lên tới đầu gối và đang từ từ leo lên cho đến khi miếng bông đặt trên mũi đương sự không còn chuyển động nữa.
Âm mưu Mao Trạch Đông
Do đó, câu hỏi được đặt ra là những người đang lãnh đạo Việt Nam hiện tại có biết rằng, như một truyền thống hay một mưu độc ngàn năm, Đảng cộng sản Trung Quốc hay ít ra là những người lãnh đạo của đảng này ngay từ những ngày đầu đã nuôi mộng làm chủ thiên hạ giống như Tần Thủy Hoàng ngày trước hay không ? Hay là họ vẫn tin tưởng vào "mười sáu chữ vàng" và "tinh thần bốn tốt" mà cộng sản Tàu đã trao cho họ để tự lừa dối và lừa dối dân mình qua phương châm "vừa là đồng chí, vừa là anh em" ?
(16 Vàng : "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai", 4 Tốt : "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt").
Câu trả lời là có. Bằng cớ là năm 1979, khi hai đảng cơm không lành, canh không ngọt, môi không theo răng bị răng cắn bật máu. Chính Đảng cộng sản Việt Nam không những chỉ tố cáo trước người dân ở trong nước mà còn trước dư luận thế giới qua những tài liệu do chính họ xuất bản từ Hà Nội, theo đó Mao Trạch Đông ngay từ giữa thập niên ba mươi của thế kỷ trước đã nuôi mộng theo chân Tần Thủy Hoàng muốn làm bá chủ của cả thế giới, bắt đầu là Đông Nam Á. Trong hai tài liệu nhan đề Sự thật về Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong 30 năm qua bằng tiếng Việt do Nhà xuất bản Sự Thật ấn hành năm 1979 và tái bản năm 1980, và Chinese Aggression Against Vietnam, Dossier du Vietnam Courrier chủ biên, xuất bản ỏ Hà Nội năm 1979, ngay từ những trang đầu, người ta có thể đọc được những chi tiết như sau :
Ngay từ năm 1939, trong tài liệu nhan đề Cách Mạng Trung Quốc và Đảng cộng sản Trung Quốc do chính ông viết, Mao Trạch Đông đã nhận định : "Sau khi dùng chiến tranh đánh bại Trung Quốc, các nước đế quốc đã cướp đi nhiều nước phụ thuộc và một bộ phận lãnh thổ của Trung Quốc : Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận, Anh chiếm Miến Điện, Bu-tan, Nê-pan và Hương Cảng, Pháp chiếm An Nam…".
Tiếp đến, một bản đồ trong một sách giáo khoa đã vẽ nhiều lãnh thổ của các nước trong vùng biển Đông Nam Á và Biển Hoa Đông là thuộc Trung Hoa. Sau đó, năm 1959, trong một buổi họp của Ủy ban Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc, khi nói về bang giao quốc tế, Mao Trạch Đông phát biểu rõ hơn nữa về tham vọng thống trị toàn cầu của mình.
Lãnh tụ này nói : "Chúng ta phải chinh phục trái đất. Mục tiêu của chúng ta là toàn thể trái đất" hay hạn hẹp hơn và kế hoạch hơn : "Chúng ta phải giành cho được Đông Nam Châu Á bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Ma-lai-xi-a và Xin-ga-po. Một vùng như Đông-nam Châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản... xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy… Sau khi giành được Đông-Nam Châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió đông sẽ thổi bạt gió tây".
Nên để ý là khi nói tới Việt Nam, Mao Trạch Đông đã nói tới "nam Việt Nam" thay vì "Việt Nam" gồm cả Bắc và Nam. Phải chăng ông đã coi Bắc Việt Nam là xong rồi, là thuộc Trung Quốc rồi, không cần phải nói tới nữa ? Ngoài ra, phải chăng đây cũng là một hình thức rửa mối nhục chung mà không ít người Tầu cho là họ đã phải gánh chịu trong Thế kỷ 19, sau trận Chiến tranh Nha phiến : "Gió đông sẽ thổi bạt gió tây" ?
Về sự lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam ở biên giới Trung – Việt, qua tài liệu Chinese Aggression Angainst Vietnam, cộng sản Hà Nội tố cáo Trung Quốc vi phạm các Công Ước 1887 và 1895 ký kết giữa Nhà Thanh và nước Pháp, lấn chiếm 60 địa điểm trên lãnh thổ Việt Nam ngay từ trước năm 1949, sau đó, từ sau năm 1949, bất chấp sự xác nhận lại các công ước này bởi Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào năm 1957-1958, cộng sản Bắc Kinh lại sáp nhập thêm trên 90 địa điểm khác ở biên giới giữa hai nước.
Chưa hết, cũng theo tài liệu này, từ sau năm 1974 con số các cuộc xâm nhập lại tiếp tục gia tăng mạnh mẽ hơn với 179 vụ năm 1974, 294 vụ năm 1975, 812 vụ năm 1976, 873 vụ năm 1977 và 2.175 vụ năm 1978. Cuối cùng ngày 10 tháng 2 năm 1979, hai tiểu đoàn chính quy Trung Quốc đã tiến sâu 2 cây số vào lãnh thổ Việt Nam, chiếm đồn kiểm soát Thanh Loa, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Vẫn chưa hết, trong trận chiến biên giới Hoa Việt lần thứ hai 1984-1989, sau một trận đánh ác liệt ở núi Lão Sơn, mà người Việt quen gọi là Núi Đất hay tọa điểm 1502, thuộc xã Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, quân Trung Quốc đã chiếm được núi này, 3.700 lính phòng thủ Việt Nam đã hoàn toàn bị tiêu diệt, xác của họ đã bị đơn vị chống hóa chất của bên địch thiêu hủy không còn vết tích.
Tuy nhiên Lão Sơn không phải là tọa điểm duy nhất bị quân Trung Quốc đoạt mà còn nhiều tọa điểm khác như các tọa điểm 1030, 852, 211, 138, 156, 166, 167, 168… nằm sâu trong lãnh thổ Việt Nam. Sau trận này Việt Nam đã mất thêm từ 600 đếm 1000 cây số vuông lãnh thổ về tay Trung Quốc. Có điều lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam đã giấu nhẹm không cho dân chúng biết gì về trận chiến bi thảm này cho mãi đến khi Trung Quốc phổ biến phần nào trên các mạng của họ.
Điều nên biết là trong thời gian này Trung Quốc luôn luôn dùng thủ đoạn cho di dân của mình sang khai thác đất đai hay cư ngụ trên lãnh thổ thuộc Việt Nam dọc biên giới, rồi sau đó áp lực bắt Việt Nam phải công nhận những vùng đất này là thuộc nước họ. Sự kiện này giải thích tại sao lại có chuyện điều đình và sửa lại các công ước mà trước kia Nhà Thanh đã ký với Pháp mà nội dung đã được hai phía làm sáng tỏ không lâu, trong các năm 1957, 1958 trước đó, như tôi đã nói ở trên qua các hiệp ước 1999, 2000 ("Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc" và "Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ").
Chiến thuật này đang được họ dùng ở Biển Đông trên một quy mô rộng rãi hơn, lớn hơn qua việc họ chiếm Hoàng Sa và một số đảo thuộc Quần đảo Trường Sa rồi tìm cách hợp thức hóa sau này. Việt Nam giấu nhẹm nhưng Trung Quốc thì coi là quan trọng và quảng bá rộng rãi. Họ đã cho công bố hình ảnh Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương tới thăm địa điểm Lão Sơn này, kèm theo hình ảnh những công sự và đường sá mà họ thiết lập sau đó, nhắm về phía Việt Nam. Những sự kiện này khiến cho những ai quan tâm đến sự sống còn của đất nước không khỏi không liên tưởng tới sự kiện Giang Trạch Dân đã bay thẳng từ Trung Quốc đến bơi ở biển Mỹ Khê, Đà Nẵng, mà người Mỹ, không rõ do lý do bí mật gì hay không, đã gọi là China Beach, như là biển nhà của mình thay vì phải qua Hà Nội gặp chủ nhà trước, hay Hồ Cẩm Đào đến bơi ở biển Hội An khi đến dự Hội Nghị OPEC, hay chuyện Đảng cộng sản Việt Nam cho phép và bảo vệ các thanh niên người Hoa rước đuốc thế vận qua Sài Gòn và các đảo trong khi mọi cuộc tụ tập của người Việt đều bị đàn áp, cấm đoán.
Trước tình trạng cực kỳ nguy hiểm kể trên, câu hỏi được đặt ra là khả năng đề kháng của người Việt Nam như thế nào và những người có trách nhiệm bảo vệ đất nước và sự tồn vong của dân tộc đã có thái độ ra sao và đã làm gì ? Để trả lời cho câu hỏi này, có lẽ chúng ta còn cần phải tìm hiểu và bàn thảo nhiều hơn nữa. Có điều chắc chắn là các nhà nghiên cứu ở trong nước hiện không được tự do tìm hiểu và không được tự do tiếp xúc với các tài liệu bị coi là bí mật quốc gia còn tàng trữ ở Kho Lưu trữ Trung ương hay ở rải rắc khắp trong nước, và tự do công bố những gì mình tìm được. Tạm thời tôi chỉ xin mời quý vị đọc lại bản kiến nghị mà tôi đã đề cập đến trong phần đầu của bài viết này, hay những bức thư mà Hòa thượng Thích Quảng Độ, hay những bài viết của nhiều vị nhân sĩ, trí thức như Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu Đại sứ Việt Nam ở Trung Quốc và nhiều người khác ở trong nước viết trong ít năm gần đây.
Trước khi dừng bút, tôi xin được trích dẫn lời của Thiếu tướng Lê Duy Mật, nguyên Phó Tư Lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân Khu 2, Chỉ huy trưởng Mặt trận Hà Giang trong thời gian chiến tranh biên giới, khi ông trả lời Biên tập viên Mặc Lâm của Đài Á Châu Tự Do, RFA, ngày 17 tháng 2 năm 2013 về sự kiện là "nhiều gia đình liệt sĩ của cuộc chiến 1979 đã không biết hài cốt con em mình nằm tại đâu vì sau đợt cắm mốc biên giới thì phần đất Việt Nam chôn hài cốt liệt sĩ đã thụt sâu về phía Trung Quốc.
Mặc Lâm hỏi : Thiếu Tưóng có nghĩ rằng nhà nước phải làm một điều gì đó để mang lại công bằng cho những người này hay không ?
Nguyên văn câu trả lời của tướng Lê Duy Mật như sau : "Nhà nước ta lệ thuộc không dám nói gì với Trung Quốc, nếu không, phải bàn với ngoại giao Trung Quốc, quân đội Trung Quốc, nhà nước Trung Quốc thì mới có thể giải quyết được".
Câu trả lời của tướng Mật chủ yếu là về các liệt sĩ đã hy sinh trong trận chiến Việt Trung 1979 và 1984-1987, nhưng nội dung của nó đã bao gồm toàn bộ các vấn đề liên hệ đến bang giao Trung-Việt trong hiện tại. "Nhà nước ta lệ thuộc không dám nói gì với Trung Quốc" là nguồn gốc của tất cả. Đó là lý do tôi lựa chọn đề tài này cho bài thứ ba và cũng là bài chót trong loạt bài nói về "Mưu độc ngàn năm" của người Tầu nhằm tiêu diệt đất nước và dân tộc Việt Nam. Với tình trạng vô cảm của không ít người Việt trước hiện tình vô cùng nguy hiểm của đất nước, sự mất tin tưởng của đa số người dân vào chính quyền và sự bất lực của giới trí thức trong mọi sinh hoạt từ chính trị đến kinh tế, xã hội và luôn cả văn hóa ở Việt Nam đã cho thấy, sau 44 năm cộng sản làm chủ toàn thể đất nước và trên 30 năm đổi mới, chưa bao giờ nguy cơ mất nước đã đến gần như bây gờ.
Vậy lãnh đạo cấp cao của hai đảng cộng sản Việt-Trung đã thỏa hiệp với nhau những gì trên đầu người dân Việt Nam từ sau Cuộc chiến biên giới Trung-Việt ; từ sau Hội nghị Thành Đô 1990 ; và từ sau các buổi gặp gỡ của các Tổng bí thư đảng Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh và sau này Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nhà nước Trương Tấn Sang với các nhà lãnh đạo Trung Quốc ? Chỉ có những người này mới biết được nhưng không bao giờ và sẽ chẳng bao giờ họ nói ra cả. Tất cả đối với họ đều không quan trọng. Sự tồn vong của Đảng cộng sản mới là chính. Đó là một sự thực.
Về điểm này, tôi xin được nhắc lại lời Vua Lê Thánh Tông dụ bọn các ông Thái- Bảo-Kiến-Dương-Bá Lê Cảnh Huy năm Hồng Đức thứ tư, 1473, nguyên văn như sau : "Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di".
Lịch sử đã được chép, đang được chép và sẽ còn được chép dù cho môn sử học không còn được coi là quan trọng trong chương trình giáo dục của Việt Nam hiện tại. Rất tiếc, vì lý do nào đó môn học lịch sử Việt Nam dưới thời cộng sản đã bị bóp méo, xuyên tạc trái với truyền thống hào hùng của dân tộc, trái ngay cả với nhận định "dân ta phải biết sử ta" của Hồ Chí Minh. Nó cũng đi ngược lại với chương trình giáo dục của bất cứ quốc gia độc lập và có chủ quyền nào, kể cả các quốc gia tiền tiến về khoa học và kỹ thuật. Đây cũng là một lý do khác đã và đang làm cho chúng ta mất nước.
Để kết luận ta có thể nói rằng những gì đang xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam dưới sự cai trị của người cộng sản hoàn toàn trái với thời người Việt quốc gia trước đó. Với Người Việt quốc gia dù là ở bất cứ thời nào, từ thời các vua chúa đến thời Chính phủ Trần Trọng Kim hồi năm 1945, rồi xuyên qua Quốc gia Việt Nam hồi trước năm 1954, gọi chung là Quốc gia - Việt Nam Cộng Hòa, dùng chữ của nhà văn Hoàng Hải Thủy, qua Hội nghị Cựu Kim Sơn, rồi Đệ nhất, Đệ nhị Cộng hòa ở Miền Nam, sự toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc luôn luôn được coi là tối quan trọng và mọi người phải có nhiệm vụ bảo toàn. Lịch sử đã chứng minh điều này.
Có một nhận định khác chúng ta cũng cần phải chú ý là rất có thể người Tầu sẽ không cần phải chiếm đóng Việt Nam mà qua một nhóm bù nhìn, họ chỉ cần dìm Việt Nam xuống hàng thứ yếu để một mặt trở thành một thứ bán thuộc địa để dễ khai thác, mặt khác không bao giờ còn có thể tiếp tục làm nút chặn ngăn cản sự bành trướng của Hán Tộc về phương nam mà Tộc Việt đã làm được trong suốt thiên niên kỷ trước.
Phạm Cao Dương
(Kỷ niệm Quốc hận 30/04/2019)
"Năm 2004 hiểm họa tái xâm lăng nước ta của người Tàu chưa lộ rõ và chưa thật sự nguy hiểm như trong năm 2012 và những năm sau này...
"Có điều người ta cần phải ghi nhớ là người Tàu luôn luôn kiêu căng, tự coi nước mình là một nước lớn là duy nhất văn minh, nằm ở giữa. Chung quanh họ đều là man di mọi rợ, Việt Nam hay Đại Việt đi chăng nữa cũng chỉ là man, Nam Man, cùng với Bắc Địch, Đông Di, Tây Nhung… nằm ngoài rìa của Hoa Hạ thời cổ, của Trung Hoa thời Dân Quốc, của Trung Quốc thời Cộng Sản hiện tại…".
(Chuyện cướp sách của ta đem về Kim Lăng)
Quan lại nhà Minh đưa người vào nước ta - Ảnh minh họa (Một Thế Giới, 24/03/2017)
Chuyện Nhà Minh xâm lăng nước ta và cướp sách của ta đem về Tàu xảy ra cách đây hơn sáu trăm năm bị nhiều người cho là không quan trọng. Thực sự đây là một mưu toan vô cùng thâm độc của người Tàu nhằm tiêu diệt dân tộc Việt mà người thường ít ai để ý đến, mà có để ý đến thì cũng khó nhận ra hay đã quá muộn.
Nó nằm trong "Mưu Độc Ngàn Năm" với lời nguyền "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" của Mã Viện gần hai ngàn năm trước và một lần nữa đã và đang trở thành một mối ưu tư và một đề tài vô cùng quan trọng cho những ai còn lưu tâm tới tiền đồ của đất nước và tương lai của con cháu mình cũng như trách nhiệm của mình đối với tổ tiên, đồng bào và hàng triệu người dân và chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến kéo dài ba mươi năm vừa qua.
Không lẽ tổ tiên mình đã thành công bảo vệ được dân tộc, giữ vững được đất nước mà đến đời mình lại bất lực và để mất hay sao ? Không lẽ Các Cụ Ta đã thành công dìm "Cột đồng (của Mã Viện) chìm chín suối" và Hai Bà Trưng đã tạo dựng được "Bia đá rọi ngàn thu" để sang thế hệ chúng ta, chúng ta lại ngồi yên để sẽ ngậm ngùi tự hát cho mình mình nghe :
Để lại cho em này nước non mình.
Để lại cho em một nước đẹp xinh.
Một miền oai linh hiển hách.
Chỉ còn dư vang thần thánh.
Để lại cho em hèn kém của anh…
thay vì :
Người sau, kẻ trước lao vào địch,
Giữ vững nghìn thu một giống nòi.
hay sao ? Xin để quý bạn đọc tùy nghi trả lời.
Đây là bài thứ hai trong loạt bài tác giả viết về "Mưu Độc Ngàn Năm" của người Tàu nhắm vào Dân Tộc Việt Nam sau bài nói về Cuộc Khởi Nghĩa của Hai Bà Trưng và Cột Đồng Đông Hán của Mã Viện kỳ trước.
Trong tháng 4 năm 2004, dưới nhan đề "Từ Lĩnh Nam Chích Quái Đến Các Tài Liệu Bị Quân Minh Tịch Thu Đem Về Tàu", tôi có viết một bài về việc người Tàu tịch thu sách của ta. Vì bài viết quá ngắn và vì tôi không chỉ rõ các nguồn tài liệu nên sau đó nhiều người thắc mắc. Năm 2012, tôi đã viết thêm và năm nay 2019, tôi xin được viết thêm nữa. Đầu tiên tôi xin nói là năm 2004 khác với năm 2012 và năm 2019 lại khác hơn nữa. Năm 2004 hiểm họa tái xâm lăng nước ta của người Tàu chưa lộ rõ và chưa thật sự nguy hiểm như trong năm 2012 và những năm sau này. Cập nhật hóa và phổ biến những gì tôi thấy được cho bạn bè nói riêng và cho tuổi trẻ Việt Nam nói chung là một điều tôi thấy nên làm mặc dầu tôi vẫn muốn kiếm thêm tài liệu để viết nhiều hơn nữa dù đã ở trên đường tới tuổi chín mươi, tuổi bị kể như là quá già và sắp rời cõi tạm.
Thực sự thì sự quan tâm của tôi về chuyện người Tàu tịch thu hết các sách vở của ta đem đốt hết hay đem về Tàu đã có từ lâu. Thắc mắc nhưng đồng thời cũng là một nỗi ấm ức, bực bội, đau đớn, xót xa, tủi nhục, tiếc nuối, đặc biệt là mỗi khi tôi có việc phải tìm hiểu về hai thời Lý Trần, hai triều đại đã đóng góp rất nhiều cho vinh quang, thịnh vượng của xứ sở, nói chung và đặc sắc riêng cho văn hóa của dân tộc mình, nói chung. Tôi biết nỗi ấm ức, bực bội, đau đớn, xót xa, tủi nhục, tiếc nuối của tôi cũng là của chung dân tộc tôi, dù là tôi đang làm công chuyện tìm hiểu và nghiên cứu. Tôi cũng biết tìm hiểu và nghiên cứu là phải có cái đầu lạnh chừng nào hay chừng ấy, càng lạnh càng tốt, nhất là nghiên cứu về quá khứ, nhưng dù muốn hay không tôi vẫn là người Việt Nam.
Những gì tôi viết ra ở đây chỉ là một gợi ý và gợi ý về những sách vở và tài liệu liên hệ tới nước Đại Việt đương thời do chính người Đại Việt viết ngoài văn chương, thơ phú, còn có học thuật, tư tưởng, phong tục, tập quán, sử ký, địa lý, con người và tất nhiên gồm cả văn chương, thi ca…, những gì có thể giúp cho người thời đó và người sau này tìm hiểu về nước Đại Việt và dân tộc Đại Việt cũng như những thành công vĩ đại mà tổ tiên ta đã đạt được ngót ngàn năm trước.
Những sách vở, tài liệu này tôi tin là nhiều lắm, nhiều hơn là những gì ta hiện có, cộng thêm với những gì được liệt kê trong danh sách những sách đã mất mà các cụ ta sau này còn nhớ được và viết lại trong sử sách do các cụ viết.[1] Tôi dám tin là như vậy vì đây là cả một kho tàng tổ tiên ta đã tạo dựng được trong suốt bốn trăm năm thịnh trị nhất của lịch sử dân tộc mình. Tôi cũng dám tin như vậy căn cứ vào bài tựa của Việt Âm Thi Tập, sưu tập thơ của thời Lý-Trần và thời Lê Sơ do Phan Phu Tiên khởi đầu và Chu Xa thực hiện, Lý Tử Tấn đề tựa. Cả ba đều là người đương thời, từ đó những sự hiểu biết của các ông còn rất nóng, chưa đến nỗi bị thời gian làm cho hao mòn.
Phan Phu Tiên đậu Thái Học Sinh năm 1396 đời Vua Trần Thuận Tông, Lý Tử Tấn đậu đồng khoa Thái Học Sinh với Nguyễn Trãi, khoa Canh Thìn (1400) triều Nhà Hồ, còn Chu Xa thì trẻ hơn một chút vì sách được soạn xong năm 1459 dưới triều Vua Lê Nhân Tông, tiếp nối công trình của Phan Phu Tiên hoàn thành năm 1433, niên hiệu Thuận Thiên triều Vua Lê Thái Tổ, nên những gì các ông biết về sách vở, thi ca của hai Triều Lý và Trần phong phú đến mực nào cũng như hành động tịch thu sách của không thể nào tàn bạo hơn của Nhà Minh là như thế nào. Lý Tử Tấn trong bài tựa của Việt Âm Thi Tập cho biết là sau cơn binh lửa, số thơ còn lại chỉ được một hai phần nghìn. Nguyên văn như sau :
"… Như các vua Triều Trần là Thánh Tông, Nhân Tông, Minh Tông, Nghệ Tông, cùng là Chu Tiều Ẩn tiên sinh (Chu An), các ông họ Phạm ở Hiệp Thạch (Phạm Sư Mạnh), họ Lê ở Lương Giang (Lê Quát), Nguyễn Giới Hiên (Nguyễn Trung Ngạn) và anh em ông Phạm Kính Khê (Phạm Tông Mại, Phạm Ngộ) đều có tập thơ riêng lưu truyền ở đời. Về sau, vì binh lửa, số thơ còn lại chỉ được một hai phần nghìn" [2].
Điều cần phải để ý là đây mới chỉ là về thơ văn mà thôi. Những tài liệu khác liên quan tới sự tìm hiểu về nền văn hiến của nước Đại Việt dưới hai thời Lý Trần trước đó có thể ít hơn về số lượng nhưng quan trọng hơn nhiều cho các học giả sau này.
Sự thịnh trị này đã được chính Minh Thái Tổ ghi nhận khi ông ban cho sứ thần của ta bốn chữ Văn Hiến Chi Bang vào năm 1368 [3] và Trần Nguyên Đán (1325 – 1390), cha vợ của Nguyễn Phi Khanh hay ông ngoại của Nguyễn Trãi đã miêu tả qua câu thơ bất hủ "Triệu tính âu ca lạc thịnh thì" (trăm họ vui ca mừng thời thịnh trị) [4] và người lính già đầu bạc thời Trần Nhân Tông còn thỉnh thoảng ngồi kể chuyện thời Nguyên Phong :
"Bạch đầu quân sĩ tại,
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong"
Lính già phơ tóc bạc
Kể chuyện thuở Nguyên Phong
Cái gì đã làm cho Đại Việt là một nước văn hiến ? Cái gì đã làm cho trăm họ Đại Việt "Âu ca Lạc thịnh thì" ? Cái gì đã làm cho người lính già phơ tóc bạc ngồi kể chuyện thuở Nguyên Phong ? Cái gì đã làm cho một nước nhỏ bằng bàn tay [6] thắng được quân nhà Tống và luôn cả quân Mông Cổ, điều Thiên Triều, thượng quốc của người Việt trong nhiều thế kỷ và luôn cả sau này, tôi muốn nói là chính nước khổng lồ Trung Quốc, không làm được ? Cái gì đã làm cho Hồ Nguyên Trừng được Hoàng Đế Nhà Minh biết tới và trọng dụng ? Đó phải là những câu hỏi mọi người nghiên cứu về triều đại này phải tìm hiểu để trả lời và đương nhiên cả người nhà Minh, trong đó có Minh Thành Tổ khi chủ trương xâm lăng và đô hộ nước ta cũng muốn tìm hiểu.
Chính vì vậy, những sách vở do người Đại Việt đương thời biên soạn hay sáng tác chắc chắn phải là những nguồn hiểu biết vô cùng quan trọng về đất nước và con người Đại Việt mà những ai, kể cả người Tàu đương thời, có nhu cầu tìm hiểu hay chỉ vì vì tò mò, cũng muốn có được trong tay để đọc và lưu giữ thay vì nhắm mắt đốt bỏ hết. Đó là lý do tại sao hai sắc chỉ ban đầu của Minh Thành Tổ đã không được triệt để thi hành. Nếu quả như vậy thì phần nào những sách vở, tài liệu này vẫn chưa bị mất và vẫn còn nằm đâu đó bên Tàu, dưới hình thức này hay hình thức khác, nếu kiên trì tìm kiếm và có phương pháp tìm kiếm, người ta vẫn có thể thấy lại được. Tất nhiên là với tất cả sự dè dặt và kiên trì tối thiểu mà một nhà sưu tầm, khảo cứu cần phải có.
Ý được gợi ra nhưng câu trả lời đầu tiên được ghi nhận gần như là không, vì nếu cứ nhất định căn cứ vào tài liệu của thời đó để lại thì làm gì có chuyện người Tàu lấy sách của ta đem về Tàu. Minh Thành Tổ trong hai đạo sắc dụ của ông có hạ lệnh cho tướng lãnh, quân binh của ông đem về Tàu đâu. Câu trả lời của tôi là căn cứ vào các sách sử của ta. Tôi có thể chưa có dịp đọc hết các sách vở, tài liệu có thể chứa những chi tiết về chuyện này, nhưng trong Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, chính sử của nhà Nguyễn, một tác phẩm không do một người mà do nhiều người thuộc Quốc Sử Quán đương thời do Phan Thanh Giản làm Tổng Tài biên soạn, và trước đó, Lê Quý Đôn (1726 – 1784) trong Lê Triều Thông Sử đã viết rất rõ điều này.
Trước hết, trong Lê Triều Thông Sử, phần "Nghệ Văn Chí", Lê Quý Đôn có viết :
"Đến đời Nhuận Hồ mất nước, tướng nhà Minh là Trương Phụ lấy hết sách vở cổ kim của ta gửi theo đường sông về Kim Lăng" [7]. Nên để ý ba chữ "theo đường sông" tác giả dùng để nói rõ chi tiết về cách chở về Kim Lăng ở đây chứ không nói chung chung. Còn trong Khải Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, phần Chính Biên, quyển XXXIII, sau phần nói về việc vua nhà Minh cho in các sách Tứ Thư, Ngũ Kinh và Tính Lý Đại Toàn và sai Giám Sinh Đường Nghĩa sang nước ta ban phát cho những người Nho học, một cách khẳng định, có chép thêm "Còn các sự tích và sử sách của nước ta từ đời Trần trở về trước đều tịch thu đưa về Kim Lăng" [8].
Gần ta hơn, Trần Quốc Vượng, giáo sư sử học thuộc Viện Đại Học Quốc Gia Hà Nội, trong tuyển tập nhan đề Văn Hóa Việt Nam, Tìm Tòi và Suy Gẫm cũng viết :
"Cướp được nước ta, trong 20 năm trời bên nền đô hộ hà khắc về chính trị, vơ vét tham tàn về kinh tế, giặc Minh đã thi hành một chính sách hủy diệt độc ác về văn hóa, giặc Minh đã quyết tâm đập cho tan nát những cơ cấu văn hóa dân tộc xây dựng suốt hơn 400 năm, chủ yếu dưới thời Lý – Trần. Vua Minh đã trực tiếp ra mật lệnh cho bọn tướng xâm lăng khi tiến quân vào nước ta, thấy bất cứ cuốn sách vở nào, gặp bất cứ tấm bia đá nào đều phải thiêu hủy, đập phá hết. Tên tướng Trương Phụ lượm lặt hết các sách vở cổ kim của ta, đóng thùng chở về Kim Lăng. Tháng 7 năm Mậu Tuất (1418), nhà Minh còn sai tiến sĩ Hạ Thì và hành nhân Hạ Thanh sang tìm tòi và thu lượm tất cả những sách chép về lịch sử và sự tích xưa nay do người Việt viết. Năm 1419, nhà Minh lại cho người đem sách Khổng giáo, Đạo và Phật giáo của Trung Quốc sang thay thế cho những sách trước kia chúng lấy đi. Chính sách hủy diệt văn hóa thâm độc đó đã phá hoại gia tài văn hóa, tinh thần của dân tộc ta không phải là ít. Nếu không, cái gia tài văn hóa, văn học tư tưởng thời Lý Trần để lại sẽ phong phú biết chừng nào !" [9].
Tất nhiên các nhà nghiên cứu thận trọng có thể nói rằng những ghi chú kể trên đều là bởi những người của nhiều thế kỷ sau này viết nên vẫn chưa đủ thuyết phục, và ta vẫn cần phải có thêm bằng chứng. Thực sự thì ta không biết Lê Quý Đôn rồi sau này các nhà san định bộ Khâm Định Việt Sự Thông Giám Cương Mục đã căn cứ vào đâu để ghi chép như trên. Có thể các vị sau này đã căn cứ vào Lê Quý Đôn còn Lê Quý Đôn thì căn cứ vào những gì ông đọc được và nghe được từ những người của thời trước ông, trong đó không thể không có Lý Tử Tấn.
Chúng ta cần ghi nhớ là Lê Quý Đôn là người chịu khó tìm tòi, học hỏi. Ông đã đọc rất nhiều, rất rộng và ghi chép rất cẩn thận. Chỉ cần đọc các tác phẩm của ông người ta thấy rõ điều này. Còn Trần Quốc Vượng thì đã không nêu rõ các nguồn sử liệu ông đã dùng. Nhưng sử gia này cũng là người làm việc rất tỉ mỉ và có phương pháp nên chắc chắn đã không đưa ra những ghi nhận về sự kiện kể trên một cách hồ đồ vô căn cứ. Dù sao, một khi nghi vấn đã được đưa ra, ta vẫn cần phải truy tầm vừa bằng tài liệu nếu có và vừa bằng suy luận cặn kẽ chừng nào hay chừng nấy.
Trước hết ta hãy đọc lại những phần chính liên hệ tới vấn đề sách vở của người Việt trong ba sắc chỉ của Minh Thành Tổ được ghi trong Việt Kiệu Thư, được dịch và in lại trong Thơ Văn Lý Trần, một công trình được thực hiện bởi những nhà nghiên cứu có uy tín và đáng tin cậy của Việt Nam trong thế kỷ XX trước, để thấy lại phần nào chi tiết liên hệ, nhất là sắc chỉ thứ hai, ban hành vào ngày 16 tháng 6 năm 1407, theo đó thì vị Hoàng Đế Trung Hoa này đã nhiều lần bảo các tướng sĩ của ông ta là phải hủy diệt lập tức những sách vở của người Việt này, nhưng các tướng lãnh của ông đã không ra lệnh đốt ngay, lại để xem xét rồi mới đốt. Còn quân lính thì phần đông không biết chữ… thì khi "đài tải" sẽ bị mất mát nhiều [10].
Tại sao lại "đài tải" ? Tại sao lại lo mất mát nhiều ? Tại sao lại để xem rồi mới đốt ?
Đến sắc chỉ thứ ba ban hành ngày 24 tháng 6 năm 1407, Minh Thành Tổ lại ra lệnh cho các tướng lãnh của ông phải cấp tốc thu hồi những văn kiện ông ban hành từ trước : "Nay An-nam đã bình định xong […] trừ các loại chế dụ ra, còn thì tất cả các đạo sắc viết tay và các ký sự thư thiếp, đã từng phát đi từ trước, cùng với sổ ghi chép mà Thành Quốc Công đã lĩnh hoặc các thứ [sổ sách] trù nghị mọi chuyện, đều phải đem toàn số kiểm kê, đối chiếu, niêm phong cẩn mật, gửi trả lại, không cho lưu lại một chữ. Nếu có một chữ bỏ lại rơi vào tay bọn kia thì rất bất tiện" [11]. thì người ta thấy sự kiện đã quá rõ rệt là lệnh của vua Nhà Minh đã không được triệt để thi hành và các sách vở quân Minh thu được đã không bị đốt bỏ hết.
Một số khác trên đường đài tải đã bị mất mát rất nhiều. Ngoài ra, ngoài ba dụ chỉ hiện được người ta biết tới, chắc chắn còn nhiều văn kiện tối mật khác hoặc đã được niêm phong gửi lại Triều Đình Kim Lăng, hoặc đã bị hủy bỏ trong thời điểm này. Chúng chứa đựng những gì hiện tại chúng ta chưa biết được và có thể không bao giờ biết được nhưng người ta có thể chắc chắn là chúng chứa đựng rất nhiều chi tiết liên quan tới đường lối thâm độc của nhà Minh trong thời gian này, nếu không tại sao Minh Thành Tổ lại thêm câu cuối "Nếu có một chữ bỏ lại rơi vào tay bọn kia thì rất bất tiện". Đây mới là điểm quan trọng của vấn đề. Tại sao Minh Thành Tổ lại sợ đến như vậy ?
Do đó nếu chúng ta chỉ căn cứ vào sắc chỉ thứ nhất (được nói tới trong Thơ Văn Lý-Trần), ban hành ngày 21 tháng 8 năm 1406, cho Chu Năng kể trên, mà bảo rằng không hề có chuyện người Minh đem sách vở của ta về Tàu, tôi e rằng quá máy móc và vội vã. Chúng ta chỉ có thể biết rõ hơn chừng nào kiếm ra được những tài liệu mật này. Đây gần như là một việc mò kim đáy biển. Tuy nhiên còn có những lý do khác khiến ta có thể viện dẫn được.
Thứ nhất là tính tò mò của các tướng sĩ nhà Minh, một tính tự nhiên và phổ quát của con người mà họ không tránh được, đặc biệt ở những người có học khi họ kiếm được những sách nói về những điều họ đã học và muốn biết. Ở đây tôi muốn nói tới các sách về Tam Giáo, đặc biệt là sách của Hồ Quý Ly [12] và của Chu Văn An [13], cộng thêm nhu cầu cần biết để xâm lăng, bình định và cai trị, chưa kể tới hoàn cảnh họ phải sống xa triều đình và xa nhà. Các tướng sĩ trong ban tham mưu của Chu Năng và sau này của Trương Phụ và các nhà hành chánh sau này nữa chắc chắn phải thu thập bất cứ tài liệu gì họ thu thập được, phân tích nghiên cứu chúng một cách tỉ mỉ để hiểu rõ kẻ địch của họ và của dân bản địa mà họ phải bình định và cai trị. Nghiên cứu rồi sau đó đem theo mình và giữ lại làm của riêng là một việc làm tự nhiên của họ ; còn triều đình nhà Minh thì ở quá xa, làm sao có thể hiểu rõ những nhu cầu này và theo dõi chặt chẽ được, chưa kể tới chuyện ra lệnh chỉ là bề ngoài để che mắt mọi người.
Câu hỏi kế tiếp người ta có thể nêu lên là cho đến những ngày hiện tại đã có tác phẩm nào của người Việt sau nhiều thế kỷ luân lạc đã được người ta khám phá ra dưới hình thức này hay hình thức khác chưa ? Câu trả lời là có. Đó là Việt Sử Lược và Thiền Uyển Tập Anh. Hai cuốn sách này xuất hiện từ thời nhà Trần và đã được người sau chép hay viết lại.
Việt Sử Lược đã bị thất truyền rất lâu, mãi đến thời Càn Long nhà Thanh (1736 – 1795) mới được đem in, nói là theo bản của Tuần Phủ Sơn Đông thu nhặt được đem dâng lên vua với người hiệu đính là Tiền Hi Tộ, người Giang Tô, người đã san định bộ Thủ Sơn Các Tùng Thư.
Việt Sử Lược được lưu trữ ở Thủ Sơn Các Tùng Thư và ở Khâm Định Tứ Khố Toàn Thư của nhà Thanh và đã được nhiều nhà xuất bản Trung Quốc ấn hành. Tác phẩm này đã được Giáo Sư Trần Quốc Vượng phiên dịch sang Việt ngữ, giới thiệu và chú giải [14].
Trong bản dịch của ông, Trần Quốc Vượng có nói tới Thiền Uyển Tập Anh khi ông bàn về việc các người họ Lý bị đổi thành họ Trần, nhưng đến Lê Mạnh Thát thì sau khi đối chiếu nội dung của Thiền Uyển Tập Anh với An Nam Chí Nguyên, nhà học giả Phật Giáo uyên thâm này đã khẳng định là : "Khi quân Minh đánh chiếm được nước ta vào năm 1407, Thiền Uyển Tập Anh đã bị chúng thu gom và sau này được dùng một phần để viết An nam chí nguyên" [15].
Chuyện ngày nay
Trên đây là những gì tôi ghi tạm để cấp thời chia sẻ với mọi người, đặc biệt là giới trẻ khi hiểm họa mất nước của dân tộc ta trước những toan tính ngàn năm, vừa công khai, vừa tiệm tiến và vô cùng thâm độc của người Tàu đang diễn ra ở cả ngoài biển đảo lẫn trên đất liền, ở dọc biên giới với những khu rừng đầu nguồn, trên cao nguyên cũng như dưới đồng bằng dọc theo bờ biển từ Móng Cái đến Cà Mau, đối với đất đai cũng như đối với con nguời Việt Nam.
Mưu độc ngàn năm với lời nguyền "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" của Mã Viện một lần nữa đã trở thành một mối ưu tư và một đề tài vô cùng nóng hổi cho những ai còn lưu tâm tới tiền đồ của tổ quốc và tương lai của con cháu mình cũng như trách nhiệm của mình đối với tổ tiên, đồng bào và hàng triệu chiến sĩ ở cả hai bên đã hy sinh trong cuộc chiến kéo dài ba mươi năm vừa qua nhân danh bảo vệ đất nước.
Bài viết, do đó, chắc chắn còn nhiều thiếu sót và sơ hở. Tôi sẽ xin bổ túc khi có dịp. Riêng về giá trị văn chương của thi phú của ta so với của Tàu thì tôi không dám lạm bàn vì sự hiểu biết và khả năng của tôi về khía cạnh này không đủ, vả lại đó không phải là loại tài liệu mà các tướng lãnh và các nhà cai trị người Minh quan tâm, nhất là loại thơ văn lãng mạn, tình cảm cá nhân. Nếu tôi có đọc các tác phẩm thuộc loại này thì chỉ là để tìm hiểu về các thời kỳ hay các nhân vật liên hệ tới lịch sử mà thôi.
Điều tôi muốn nói lên ở đây là nếu người Tàu có làm chuyện hủy diệt hay chép lại rồi đề tên bất cứ người nào khác hay viết lại hay đạo văn của ta, nếu có, khi họ xâm lăng nước ta vào đầu thế kỷ XV với chủ trương chính yếu của họ là nhằm triệt tiêu khả năng tinh thần, lòng tự tin và nguồn hãnh diện của dân tộc ta để phòng ngừa hậu họa, đồng thời giữ cho nước Tàu vị thế độc tôn, trung tâm của thế giới văn minh, không phải chỉ ở thời điểm xâm lăng hay đô hộ mà vĩnh viễn sau này nữa. Thơ văn chỉ là một phần nhỏ. Đây là một chính sách vô cùng tàn độc nếu ta dùng từ ngữ chung của nhiều người khi nói tới hay viết về giai đoạn lich sử này của dân tộc và của đất nước ta.
Một chính sách không phải chỉ phát xuất từ tham vọng Đại Hán mà còn có thể được coi như phản ảnh của một mặc cảm, một sự sợ hãi lo âu trước sự thành công không thể ngờ được của Đại Việt trước sự thất bại của Thiên Triều Trung Quốc, một chính sách và một hành vi nếu được thực hiện vào thời điểm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI hiện tại, quốc gia chủ trương sẽ phải chính thức và long trọng xin lỗi, coi như đã phạm một tội ác đối với nhân loại. Có điều người ta cần phải ghi nhớ là người Tàu luôn luôn kiêu căng, tự coi nước mình là một nước lớn là duy nhất văn minh, nằm ở giữa. Chung quanh họ đều là man di mọi rợ, Việt Nam hay Đại Việt đi chăng nữa cũng chỉ là man, Nam Man, cùng với Bắc Địch, Đông Di, Tây Nhung… nằm ngoài rìa của Hoa Hạ thời cổ, của Trung Hoa thời Dân Quốc, của Trung Quốc thời Cộng Sản hiện tại… Bao nhiêu tài nguyên, của cải quý báu nhất từ vật chất đến tinh thần trong thiên hạ là phải được tập trung hết về tay họ. Những chiến thắng của người Việt trong các thời Lý Trần, đặc biệt là chiến thắng chống quân Mông Cổ trong khi người Tàu thực hiện không nổi là những gì họ không thể chấp nhận được.
Còn nếu vị Hoàng Đế sáng lập nên Triều Đại Nhà Minh là Minh Thái Tổ ban cho sứ Đại Việt bốn chữ Văn Hiến Chi Bang, vô tình ông đã mở đầu khai tử cả một nền văn hóa riêng của Đại Việt mà đao phủ là hậu duệ của ông, Minh Thành Tổ. Là người sáng lập nên một triều đại mới, Minh Thái Tổ có thể có một cái nhìn rộng rãi bao dung nhưng những người kế vị ông coi đó là một sự xúc phạm đến thiên triều khi chính tình của nhà Minh đã ổn định. Cuối cùng ta cũng không nên quên là kiêu căng nhưng người Tàu vẫn luôn mở cửa để thu góp chất xám từ các xứ chung quanh bằng cách đòi hỏi các xứ này phải cống những người tài giỏi khi các nước này còn độc lập hoặc ruồng bắt những người này khi các nước họ bị xâm lăng hay đô hộ đem về Trung Quốc.
Điều này đã xảy ra trong thời quân Minh xâm lăng nước ta khi vua Minh hạ lệnh cho Trương Phụ và các tướng tá của ông này phải "tìm tòi dò hỏi những người ẩn dật ở núi rừng, có tài, có đức, thông suốt năm kinh, văn hay, học rộng, thạo việc, am hiểu thư toán, nói năng hoạt bát, hiếu đễ, chăm làm ruộng, tướng mạo khôi ngô, gân sức cứng rắn, cùng những người hiểu biết nghề cầu cúng, làm thuốc, xem bói, đều đưa sang Kim Lăng, sẽ trao cho quan chức, rồi cho về trấn trị các phủ, châu huyện" [16]. Lệnh này phải được hiểu xa hơn là nhằm thâu góp nhân tài của Đại Việt để phục vụ cho thiên triều ở Trung Quốc hơn là để sau này cho về phục vụ trong ngành hành chánh ở Đại Việt vì nếu cho họ phục vụ ngay tại Đại Việt, cần gì phải đưa họ về Kim Lăng, đường xá vừa xa xôi, vừa tốn kém, vừa nguy hiểm. Đưa về phục vụ ở Đại Việt chỉ là miếng mồi không hơn, không kém, giữ họ lại Trung Quốc để khai thác mới là chính.
Một trường hợp điển hình cho chính sách tom góp và thu dụng nhân tài của nhà Minh đương thời là trường hợp của Hồ Nguyên Trừng, con trưởng của Hồ Quý Ly. Bị bắt đưa về Tàu nhưng Nguyên Trừng đã không bị ghép tội và bị xử cực hình vì ông đã bằng lòng đem tài riêng của mình, tài chế súng thần cơ, và sự hiểu biết của mình về tình hình Đại Việt ra giúp cho nhà Minh hay cung cấp cho nhà Minh những chỉ dẫn cần thiết để diệt nhà Hậu Trần. Trái lại, ông đã được trọng dụng, làm quan đến chức á khanh, công bộ tả thị lang và đã được pháo binh Trung Quốc thời đó kính trọng để sau này coi như là thánh tổ của họ. Chưa hết, không lâu trước đó, năm 1385, thời Trần Đế Hiện, năm Xương Phù thứ 9, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục có ghi sứ thần Nhà Minh sang yêu cầu ta dâng nộp các nhà sư với các chi tiết như sau :
Trước đây, ta đưa sang nhà Minh những hoạn quan là bọn Nguyễn (Tông) Đạo và Nguyễn Toán. Nhà Minh dùng họ làm chức nội quan, đối xử rất hậu. Nguyễn (Tông) Đạonhân nói với vua Minh rằng : Phép thuật sư Nam giỏi hơn sư Bắc (Trung Quốc). Đến đây, Minh sai sứ sang yêu cầu. Nhà vua sai tuyển lấy 20 vị sư đưa sang Kim Lăng [17].
Chưa hết, năm sau, 1386, cũng nghe Nguyễn Tông Đạo nói nước ta có nhiều cây quý, Nhà Minh lại sai Lâm Bột sang yêu cầu dâng nộp.
"Nhà vua lại sai viên ngoại lang là Phạm Đình đưa sang các cây : cau, vải, nhãn và mít, nhưng các cây ấy không quen chịu lạnh, dọc đường, đều chết hết cả". Sau đó "Nhà Minh lại sai Lý Anh sang hỏi nhờ đường nước ta để đi đánh Chiêm Thành và đòi 50 thớt voi nữa. Ta bèn sắp xếp từ Nghệ An đổ ra, cứ theo dọc đường, dựng các cung trạm, chứa sẵn lương thảo, luân chuyển đưa đến Vân Nam" [18].
Tưởng cũng nên biết thêm là do vị trí địa lý, ngay từ thời Bắc thuộc, Giao Châu đã là nơi Phật Giáo phát triển rất sớm và rất mạnh. Các sư người Giao Châu như Mộc Xoa Đề Bà, Khuy Sung Pháp Sư, Huệ Diêm Pháp Sư, Trí Hành Thiền Sư, Đại Thặng Đăng Thiền Sư… đã sang tận Ấn Độ, Tích Lan để học hỏi và nghiên cứu ; Nhật Nam Tăng sang trụ trì một ngôi chùa trong hang núi bên Tàu và được thi hào Trương Tịch tặng thơ, Vô Ngại Thượng Nhân được thi hào Thẩm Thuyên Kỳ làm thơ để tỏ lòng kính mộ. Phụng Đình Pháp Sư và Duy Giám Pháp Sư sang Trung Quốc giảng kinh trong cung vua Đường, khi về được thi hào Dương Cự Nguyên và Cổ Đảo làm thơ tiễn biệt. Nhận xét về những sự kiện này, Thượng Tọa Mật Thể viết :
Tăng già Annam mà được sang giảng kinh ở cung vua cũng là một sự hiếm có, mà bấy giờ bên Trung Quốc đời Đường Phật giáo đương hồi thạnh, hẳn không thiếu gì cao tăng mà Tăng già ta được dự vào việc giảng kinh, kể cũng là một điều chứng nhận vẻ vang cho lịch sử Phật giáo Việt Nam vậy [19].
Đồng thời để giải thích sự phát triển này Thượng Tọa viết thêm : Nước ta thời ấy làm trung gian cho Tàu và Ấn Độ lại có cái lợi này : hồi ấy dân Chàm còn mạnh lại ở gần ta, họ lại dùng chữ Phạn làm văn tự và thông hiểu cả tiếng Qua Oa (Java), nên ta cũng có nhiều người giao thiệp với họ, cũng hiểu hai thứ chữ đó. Bởi thế những người Tàu qua Ấn Độ và người Ấn Độ qua Tàu, khi tới Giao châu, thường tìm người nước ta làm thông ngôn hoặc cộng tác dịch kinh chữ Phạn. Như vậy ta không nên ngạc nhiên khi thấy nhiều kinh điển về bản cựu dịch hoặc tân dịch đều dịch lần đầu tại Annam.
Nói cách khác, người Tàu luôn luôn có chính sách thu góp mọi thứ từ các xứ chung quanh về làm giàu cho xứ họ. Đối với họ, nước họ phải là nhất, các nước chung quanh không được phép hơn họ. Do đó cái gì có giá trị họ thu góp hết, trong đó có sự hiểu biết, có sách vở, có các sản phẩm nghệ thuật, có văn chương, thơ phú… Thu góp và để nguyên như vậy hay sửa đổi đi nhưng tất cả đều phải trở thành di sản văn hóa riêng của họ, điều sau này họ tiếp tục làm, người Nhật cũng làm và người Mỹ, người Anh, người Pháp cũng làm ; nhưng không thời nào, không người nào có mưu toan thâm độc và tàn bạo như người Tàu dưới thời nhà Minh xâm lăng Đại Việt. Hậu quả là từ sau thời Minh Thuộc, Người Việt không bao giờ có được những vinh quang đáng nể đối với người ngoài, lòng tự tin và niềm hãnh diện cho chính mình như thời trước đó nữa.
Thay cho kết luận
Chuyện Nhà Minh xâm lăng nước ta và cướp sách của ta đem về Tàu xảy ra cách đây hơn sáu trăm năm bị nhiều người không cho là quan trọng. Thực sự đây là một mưu toan vô cùng thâm độc của người Tàu nhằm tiêu diệt người Việt mà người thường ít ai để ý đến, mà có để ý đến thì cũng khó nhận ra và đã quá muộn.
Nó nằm trong "Mưu Độc Ngàn Năm" với lời nguyền "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" của Mã Viện gần hai ngàn năm trước và một lần nữa đã và đang trở thành một mối ưu tư và một đề tài vô cùng quan trọng cho những ai còn lưu tâm tới tiền đồ của đất nước và tương lai của con cháu mình cũng như trách nhiệm của mình đối với tổ tiên, đồng bào và hàng triệu người dân và chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến kéo dài ba mươi năm vừa qua.
Không lẽ tổ tiên mình đã thành công bảo vệ được dân tộc, giữ vững được đất nước mà đến đời mình lại bất lực và để mất hay sao ? Không lẽ Các Cụ Ta đã thành công dìm "Cột đồng (của Mã Viện) chìm chín suối" và Hai Bà Trưng đã tạo dựng được "Bia đá rọi ngàn thu" [20] để sang thế hệ chúng ta, chúng ta lại ngồi yên để sẽ ngậm ngùi hát cho mình mình nghe :
Để lại cho em này nước non mình.
Để lại cho em một nước đẹp xinh.
Một miền oai linh hiển hách.
Chỉ còn dư vang thần thánh.
Để lại cho em hèn kém của anh [21]
thay vì :
Người sau, kẻ trước lao vào địch,
Giữ vững ngìn thu một giống nòi [22]
hay sao ? Xin để quý bạn đọc tùy nghi trả lời.
Khởi viết tháng Tư 2004, sửa lại nhằm kỷ niệm Ngày Giỗ Trận Đống Đa, Nhâm Thìn 2012. Cập nhật hóa Xuân 2019
Phạm Cao Dương
Xin chú ý : Đây là bài thứ hai trong loạt bài tác giả viết về "Mưu Độc Ngàn Năm" của người Tàu nhắm vào Dân Tộc Việt Nam sau bài nói về Cuộc Khởi Nghĩa của Hai Bà Trưng và Cột Đồng Đông Hán của Mã Viện kỳ trước.
(*) Giáo sư, Tiến sĩ Lịch sử.
[1] . Dựa theo phần "Văn Tịch Chí", trong Lịch Triều Hiến Chưong Loại Chí của Phan Huy Chú, các nhà san định bộKhâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục liệt kê các tác phẩm "mà người Minh tịch thu mất" như sau :
Tên sách Số quyển/bộ Tác giả/thời vua
Hình Thư 3 quyển Lý Thái Tông
Quốc Triều Thông Lễ 10 quyển Trần Thái Tông
Hình Luật 1 quyển Trần Thái Tông
Kiến Trung Thường Lễ10 quyển Trần Thái Tông
Khóa Hư Tập 1 quyển Trần Thái Tông
Ngự Thi 1 quyển Trần Thái Tông
Di Hậu Lục 2 quyển Trần Thánh Tông
Cơ Cừu Lục 1 quyển Trần Thánh Tông
Thi Tập 1 quyển Trần Thánh Tông
Trần Triều Đại Điển 2 quyển Trần Dụ Tông
Trùng Hưng Thực Lục2 quyển Trần Nhân Tông
Thi Tập 1 quyển Trần Nhân Tông
Thi Tập 1 quyển Trần Minh Tông
Thủy Vân Tùy Bút 2 quyển Trần Anh Tông
Bảo HoàĐiện Dư Bút 8 quyển Trần Nghệ Tông
Thi Tập 1 quyển Trần Nghệ Tông
Binh Gia Yếu Lược 1 bộ Trần Hưng Đạo
Vạn Kiếp Bí Truyền 1 bộ Trần Hưng Đạo
Tứ Thư Thuyết Ưóc 1 bộ Chu Văn Trinh
Tiều Ẩn Thi 1 tập Chu Văn Trinh
Sầm Lâu Tập 1 quyển Uy Văn Vương
Trần Quốc Tuy (Toại)
Lạc Đạo Tập 1 quyển Chiêu Minh Vương
Trần Quang Khải
Băng Hồ Ngọc Hác Tập1 quyển Trần Nguyên Đán
Giới Hiên Thi Tập 1 quyển Nguyễn Trung Ngạn
Hiệp Thạch Tập 1 quyển Phạm Sư Mạnh
Cúc Đường Di Thảo 2 quyển Trần Nguyên Đào
Thảo Nhàn Hiệu Tần 1 quyển Hồ Tôn Thốc
Việt Nam Thế Chí 1 bộ Hồ Tôn Thốc
Việt Sử Cương Mục 1 bộ Hồ Tôn Thốc
Đại Việt Sử Ký 30 quyển Lê Văn Hưu
Nhị Khê Thi Tập 1 quyển Nguyễn Phi Khanh
Phi Sa Tập 1 quyển Hàn Thuyên
Việt Điện U Linh Tập 1 quyển Lý Tế Xuyên
Tất nhiên đây chỉ là những tác phẩm được tập trung lại thành sách. Chỉ cần đối chiếu với danh sách các tác phẩm được Lê Quý Đôn ghi trong phần "Nghệ Văn Chí" thuộc tác phẩm Đại Việt Thông Sử người ta thấy còn nhiều sách khác đã bị mai một mà các cụ đã bỏ qua không ghi ra hết, chẳng hạn như Hoàng Tông Ngọc Diệp, 1 quyển, soạn năm thứ 17 đời Lý Thái Tổ (1026) ; Quốc Triều Thông Chế, 20 quyển, soạn trong thời Trần Thái Tông, Công Văn Cách Thức thời Vua Trần Anh Tông, năm 1299, Nam Bắc phân Giới Địa Đồ, thời Vua Lý Anh Tông, năm 1147…
Còn nhiều tài liệu rời thuộc các sinh hoạt chính trị, hành chánh, giáo dục, văn chương, thi ca… có giá trị khác cũng đã bị tiêu hủy hay bị Quân Minh lấy mất, tiêu hủy hay đem về Tàu.
Xin xem thêm : Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Tập Một, bản dịch của Viện Sử Học, Trung Tâm Khoa học Xã hội và Nhân Văn Quốc Gia. Hà Nội : Nhà xuất bản Giáo Dục, 1998, tr. 765-767 ; Lê Quý Đôn, Lê Quý Đôn Toàn tập, Tập III, Đại Việt Thông Sử, bản dịch ncủa Ngô Thế Long. Hà Nội : Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1978, tr. 103-113 ; Lệ Thần Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược. Saigon : Bộ Giáo Dục, Trung Tâm Học Liệu, 1971, tr. 212-213.
2. Trần Văn Giáp, Tìm Hiểu Kho Sách Hán Nôm, Nguồn Tư Liệu Văn Học Sử Học Việt Nam, Tập II. Hà Nội : Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1990, tr. 26-30 ; Lại Nguyên Ân, Từ Điển Văn Học Việt Nam. Hà Nội : Nhà xuất bản Giáo Dục, 1999, tr. 734-35.
3. Phạm Cao Dương, "Chung quanh hai chữ Văn Hiến trong bài Bình Ngô Đại Cáo của Đệ Nhất Công Thần Triều Lê : Nguyễn Trãi", trong Đại Học Văn Khoa Saigon, Tập I. Huntington Beach : Dòng Việt, 1999, tr. 77-80.
4. Ủy ban Khoa Hhọc Xã hội Việt Nam, Viện Văn học, Thơ Văn Lý-Trần, Tập III. Hà Nội : Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1978, tr. 196.
5. Xuân Nhật Yết Chiêu Lăng", thơ Trần Nhân Tông (1258-1308), trong Ngô Tất Tố, Việt Nam Văn Học : Văn Học Đời Trần. Saigon, Khai Trí, 1960, tr. 189.
6. Lời phê của Vua Trần Nhân Tông về việc Trần Anh Tông phong thưởng quá nhiều quan tước. Nguyên văn : "Một nước to bằng bàn tay, mà sao lại có triều ban nhiều như thế này !", Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục,đã dẫn, tr.589 ; Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tập II, bản dịch của Hoàng Văn Lâu. Hà Nội : Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1993, tr. 103-104.
7. Lê Quý Đôn Toàn Tập, Tập III, Đại Việt Thông Sử, "Nghệ Văn Chí", bản dịch của Ngô Thế Long, đã dẫn, tr. 100-101.
8. Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Tập Một, đã dẫn.
9. Trần Quốc Vượng, Văn Hóa Việt Nam, Tìm Tòi và Suy Gẫm. Hà Nội : Nhà xuất bản Văn Hóa Dân Tộc, Tạp Chí Văn Hóa Nghệ Thuật, 2000, tr. 754-755.
10. Thơ Văn Lý-Trần, đã dẫn, Tập I, 1977, tr. 58.
11. như trên, tr. 58-59.
12. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, năm Quang Thái thứ 5 thời Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly có dâng lên vua sách Minh Đạo gồm có 14 chương trong đóông đãđưa ra nhiều nhận định mới và độc đáo.
Đại khái "ông cho Chu Công là Tiên Thánh, Không Tử là Tiên Sư, ở Văn Miếu để Chu Công ở chính giữa, nhìn về phương nam, Khổng Tử ở phía bên, nhìn về phương tây, sách Luận Ngữ có bốn chỗ đáng ngờ, cho Hàn Dũ là đạo nho, cho bọn Chu Mậu Thúc, Trình Di, Dương Thi, La Trọng Tố, Lý Diên Bình, Chu Tử, tuy học rộng nhưng ít tài, không sát với sự việc, chỉ thạo việc cóp nhặt văn chương người xưa".
Những nhận xét này bị Ngô Sĩ Liên cho là "khinh suất bàn về ngài (Khổng Tử) thì thực là không biết lượng sức mình. Ta không biết lý luận của Quý Ly là như thế nào vì sách này không còn nữa nhưng dù sao nó cũng chứng tỏ lối học của họ Hồ là có suy nghĩ, phê bình chứ không máy móc, thụ động như sau này. Còn Vua TựĐức thì cho rằng những nhận định này chưa phải đã hoàn toàn sai. Ngoài Minh Đạo, Quý Ly còn làm Quốc Ngữ Thi Nghĩa và viết bài Tựa để dạy cho các cung nữ. Sách này cũng cóđiểm đặc biệt là tác giả phần nhiều đã chép theo ý mình chứ không theo tập truyện của Chu Tử.
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tập II, đã dẫn, tr. 184-185, 190. Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Chính Biên, Quyển Thứ XI,đã dẫn, tr. 688-689. – Chương Thâu, Góp Phần Tìm Hiểu Nho Giáo – Nho Sĩ – Trí Thức Việt Nam Trước 1945. Hà Nội, Nhà Xuất Bản Văn Hóa – Thông Tin, 2007, tr. 42.
13. 1292-1370. Ngoài vai trò của một sư biểu của Việt Nam, Chu Văn An còn là tác giả của nhiều tác phẩm có giá trị trong đó cóTứ Thư Thuyết Ước, Tiều Ẩn Thi, Thanh Trì Quang Liệt Chu Thị Di Thư, Quốc Ngữ Thi, Thất Trảm Sớ.
14. Tác giả khuyết danh đời Trần, Thế kỷ XIV, Việt Sử Lược, bản dịch và chú giải của Trần Quốc Vượng. Hà Nội, Nhà xuất bản Văn SửĐịa, 1960.
15. Lê Mạnh Thát, Nghiên Cứu Về Thiền Uyển Tập Anh. Saigon : Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, tr.24.
16. Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục,đã dẫn, tr. 755.
17. như trên, tr. 671-172.
18. như trên, tr. 673.
19. Thượng Tọa Mật Thể, Việt Nam Phật Giáo Sử Lược. Huế, Minh Đức, 1960, tr. 86 và các trang liên hệ.
20. Trích thơ của Nhà NhoĐặng Văn Bá, Thế Kỷ XX trước.
21. Trích "Để Lại Cho Em", Tâm Ca của Phạm Duy, Thập Niên1960.
22. Hoàng Cầm, Đêm Liên Hoan.
ta - Ảnh minh họa (Một Thế Giới, 24/03/2017)
Mưu độc ngàn năm của người Tầu :
Từ cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đến cột đồng Mã Viện và tình hình ngày nay
Hậu thế đã có những nhận xét gì về những biến cố này ?
Từ cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đến cột đồng Mã Viện và tình hình ngày nay
*****************
"Khi bài này được viết thì mối đe dọa của người Tầu và hiểm họa mất nước, kể cả diệt chủng lại tái xuất hiện. Nhưng lần này cực kỳ nguy hiểm, tinh vi và độc địa hơn nhiều. Nó xảy ra giữa hai nước cộng sản anh em "môi hở răng lạnh", "bốn tốt, mười sáu chữ vàng". Có điều là hiểm họa không phải chỉ xảy ra ở Biển Đông mà ngay trên đất liền…".
*******************
"Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt"
Mã Viện
Cột đồng chìm chín suối,
Bia đá rọi ngàn thu.
Đặng Văn Bá
(1877 - 1942)
Cột đồng Đông Hán tìm đâu thấy
Chỉ thấy Tây Hồ bóng nước gương.
Thái Xuyên Hoàng Cao Khải
(1850 - 1933)
Lời tác giả : Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng là cuộc khởi nghĩa đầu tiên của người Việt nhằm đánh đuổi người Tầu, giành lại nền độc lập cho dân tộc sau một-trăm-năm-mươi (150) năm nước ta bị Nhà Hán đô hộ. Cuộc khởi nghĩa này rất quan trọng vì nó không phải chỉ xảy ra ở một địa phương nhỏ bé, xa xôi, tương xứng với hai huyện Mê Linh và Châu Diên thuộc quận Giao Chỉ mà thôi mà được toàn thể các quận huyện khác, từ Cửu Chân ở phía nam tới Hợp Phố trên lãnh thổ Trung Hoa hiện tại ở phía bắc hưởng ứng. Nó đã làm rung động triều đình Nhà Hán, khiến cho Nhà Hán phải cử viên lão tướng danh tiếng nhất đương thời là Mã Viện sang đánh và phải mất hai năm dài sửa soạn mới phản công được. Chưa hết, cuộc phản công này cũng đã vô cùng gian nan, vất vả chứ không dễ dàng như người ta tưởng. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng do đó đã được dành cho những chỗ đứng vô cùng quan trọng trong lịch sử và văn học nước nhà.
Bài này nhằm giới thiệu đến các độc giả một số những nhận định của các sử gia và các nhà trí thức sau này về Hai Bà. Tuy nhiên, để các bạn trẻ có thể dễ dàng có những nhận định riêng và chính xác của mình, tác giả cũng xin được tóm tắt những sự kiện chính cần biết về cuộc khởi nghĩa này và đặc biệt về cuộc kinh lý của Mã Viện sau đó cũng như việc Mã Viện dựng cột đồng cắm mốc kèm theo lời nguyền vô cùng độc ác : "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" của viên tướng nổi tiếng qua tước hiệu Phục Ba Tướng Quân trong lịch sử Trung Hoa này. Chuyện người Tầu chủ trương tiêu diệt người Việt như vậy đã xảy ra từ cách đây cả hai ngàn năm trước chứ không phải đợi đến tận ngày nay, dưới thời hai nước cộng sản anh em.
Phạm Cao Dương (*)
******************
Nguyên nhân
Theo các sử cũ của ta, nguyên nhân của cuộc khởi nghĩa này là sự tham tàn của Thái thú Tô Định và việc Tô Định giết chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách. Nhưng gần đây các nhà nghiên cứu hiện đại (1) đã đưa ra nhiều nguyên nhân sâu xa hơn và đã giải thích cặn kẽ hơn, theo đó ta có thể kể :
Nguyên nhân sâu xa
Những sự thay đổi trong chính sách cai trị của người Tầu và những sự va chạm về quyền lợi giữa người Tầu và người Việt trong những năm đầu của Thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch. Những biến cố này đã xảy ra khi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán (9-23 sau Tây lịch).
Một số đông các quan lại và Nho sĩ người Tầu, vì trung thành với Nhà Hán, không chịu phục vụ triều đình mới đã dời bỏ miền Bắc di cư xuống ẩn náu ở các quận miền Nam thuộc Giao Chỉ Bộ. Tại đây, nhờ Thứ sử Đặng Nhượng và các thái thú các quận như Tích Quang, Đỗ Mục đóng cửa các miền biên cảnh để phòng giữ nên tình hình rất yên tĩnh. Cuộc di cư xuống miền Nam của những thành phần này đã làm tăng thêm con số người Tầu tới lập nghiệp ở các quận huyện miền Nam. Chúng đã giúp cho kỹ thuật, ngôn ngữ và văn hóa của người Tầu được phổ biến kèm theo với sự phát triển của nền kinh tế bản xứ, nhưng mặt khác đã gây ra những va chạm về địa vị, quyền lợi và phong tục giữa họ và người dân bản xứ, đặc biệt là giới quý tộc bản địa. Trong hoàn cảnh này chắc chắn người Tầu di cư đã góp những phần không nhỏ vào sự hoạch định và thi hành các chính sách đồng hóa của các quan lại địa phương như Tích Quang và Nhâm Diên. Nhờ thủ đoạn khôn khéo của hai viên thái thú này, người Hán đã trấn áp được nhân tâm người Lạc Việt, từ đó không có gì nghiêm trọng xảy ra (2). Tình hình đã thay đổi khi Tô Định xuất hiện.
Nguyên nhân trực tiếp
Sự tham lam, tàn bạo của Thái thú Tô Định và việc viên thái thú này giết Thi Sách, chồng bà Trưng Trắc. Đây là nguyên nhân chính mà sử cũ của ta và sử của Nhà Hán thường hay nói đến : Năm Giáp Ngọ, niên hiệu Kiến Võ thứ 16, Nhà Đông Hán cử Tô Định sang làm thái thú quận Giao Chỉ. Là người tham lam, tàn bạo (3), Tô Định đã triệt để dùng luật pháp để ràng buộc người dân bản xứ, đặc biệt là giới quý tộc, sau đó lại giết Thi Sách, người huyện Châu Diên (4) là chồng bà Trưng Trắc, con gái vị Lạc tướng của huyện Mê Linh. Sự giết Thi Sách là có lẽ nhằm mục đích diệt các mầm mống khởi nghĩa của người Lạc Việt ngay từ trong trứng nước, đặc biệt là của hai nhóm quý tộc lớn ở Châu Diên và Mê Linh. Nó đã trực tiếp châm ngòi cho cuộc tổng nổi dậy.
Cuộc khởi nghĩa
Cuộc khởi nghĩa đã xảy ra và đã thành công một cách mau chóng. Trưng Trắc đã cùng với em là Trưng Nhị tấn công thành Liên Lâu, nơi Tô Định đóng trị sở và đã chiếm được thành này, khiến Tô Định phải bỏ chạy về Nam Hải. Đại thắng này đã đưa tới sự hưởng ứng của tất cả dân chúng các quận Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố. Hai Bà đã thu được cả thảy 65 thành trì trong vùng Lĩnh Nam và tự lập làm vua, đóng đô ở Mê Linh. Các thứ sử và thái thú chỉ chạy được thoát thân mà thôi.
Phản ứng của Nhà Đông Hán – Cuộc tái xâm lăng của Mã Viện
Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng như vậy không phải chỉ là một cuộc nổi dậy ở một địa phương thuộc quận Giao Chỉ mà thôi mà là cuộc tổng nổi dậy của toàn thể nhân dân các thuộc địa miền Nam của Nhà Hán chạy suốt từ Cửu Chân, Nhật Nam trên lãnh thổ Việt Nam hiện tại cho đến Hợp Phố trên lãnh thổ Trung Hoa. Nó đã làm rung động triều đình Trung Hoa. Mọi cố gắng của địa phương để phục hồi uy quyền của các quan lại Nhà Hán đều không thể thực hiện được. Ngay cả triều đình trung ương của họ cũng phải bó tay ít ra là trong suốt hai năm đầu. Trong hai năm này họ đã cho sửa soạn một cuộc tái xâm lược các thuộc địa đã mất một cách hết sức quy mô và kỹ càng. Các quận huyện từ Trường Sa trở xuống đã được lịnh dự bị xe cộ, thuyền bè, đào nương, bắc cầu để vượt qua các khe núi và trữ sẵn lương thực. Đến tháng 12 năm Kiến Võ thứ 17 (tháng Giêng năm 42 sau Tây lịch), Mã Viện, viên lão tướng danh tiếng nhất của triều đình Nhà Hán đương thời, người vừa mới thành công trong việc dẹp loạn Lý Quảng ở Hoãn Thành, An Huy, được phong làm Phục Ba Tướng Quân để đem quân tái chiếm lại Giao Chỉ. Phụ tá cho Mã Viện có Phù Lạc Hầu Lưu Long làm phó và Đoàn Chính làm Lâu Thuyền Tướng Quân.
Đại quân của Mã Viện gồm hơn mười ngàn người lấy ở các quận Trường Sa, Quế Dương, Linh Lăng, Thương Ngô, mười hai ngàn người lấy ở các quận thuộc Giao Chỉ Bộ và thuyền xe lớn nhỏ hai ngàn chiếc. Bộ binh theo đường từ Hồ Nam xuống địa phận của các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây hiện tại để hợp với thủy quân của Đoàn Chí ở Hợp Phố. Nhưng đến đây thì Đoàn Chí bị bịnh chết. Hán Đế hạ chiếu cho Mã Viện men theo bờ biển để tiến quân. Theo các sử gia hiện đại thì viên tướng này có thể đã theo đường Quảng Yên để vào miền lưu vực Sông Thái Bình, trong khi lâu thuyền có lẽ đã theo đường Sông Bạch Đằng kéo vào.
Cuộc tiến quân không mấy gặp trở ngại. Sự kháng cự chỉ thực sự bắt đầu khi quân Hán tới địa phận Tây Lý (Vu) là căn cứ của An Dương Vương xưa kia, sau đó đã mỗi ngày một trở nên ác liệt khiến Mã Viện phải rút quân về miền giữ Tây Lý và Lãng Bạc. Tình cảnh quân Nhà Hán vào lúc này, theo như chính lời Mã Viện kể lại, vô cùng gian nan vất vả : "Quân địch chưa dẹp yên. Trên thì mưa, dưới thì lụt. Mây mù, khí độc bốc lên ngùn ngụt. Trông lên thất con diều đương bay bỗng rớt xuống nước chết" (5). Tất cả chỉ chấm đứt khi quân Hai Bà từ Mê Linh kéo ra đại tấn công quân Mã Viện ở Lãng Bạc và bị thất bại. Hai Bà sau đó phải rút quân về Cấm Khê. Tại đây theo Lưu Long Truyện chép trong Hậu Hán Thư, Trưng Nhị đã bị viên phó tướng này bắt sống. Còn theo Mã Viện Truyện, cũng chép trong Hậu Hán Thư, thì Mã Viện đã đánh bại nghĩa quân thêm ít trận nữa. Cuối cùng tháng Giêng năm sau chém được cả Hai Bà, gửi đầu về Lạc Dương.
Theo dã sử của ta, Hai Bà đã trầm mình xuống sông Hát Giang tự tận. Cuộc hành quân của Mã Viện đến đây chưa chấm dứt, vì sau đó viên tướng này còn phải tiến sâu xuống Cửu Chân để dẹp tàn quân của Hai Bà do tướng Đô Dương cầm đầu. Sự chống cự vô cùng mãnh liệt. Mã Viện đã phải thống suất lâu thuyền lớn nhỏ hơn hai ngàn chiếc, sĩ tốt hơn hai vạn người tấn công quân Đô Dương suốt từ huyện Vô Công đến huyện Cư Phong, chém và bắt được hơn hai ngàn người.
Những cải tổ thâm độc của họ Mã
Song song với cuộc đàn áp các thành phần còn lại của cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, tàn sát hàng ngàn người Việt ở hai huyện Vô Công và Cư Phong thuộc quận Cửu Chân, Mã Viện đã tức thời thực hiện những công tác củng cố lại quyền kiểm soát và cải tổ lại toàn bộ chính sách cai trị của Nhà Đông Hán. Ông đã cho dựng hay dựng lại những thành quách, đặt quân đội trú đóng để phòng ngừa những cuộc nổi dậy khác, đặt tỉnh ấp, đặc biệt là dựng thành Kiển Giang ở Phong Khê (6).
Các đơn vị hành chánh cũng được phân chia lại, điển hình là huyện Tây Vu. Huyện này có tới ba vạn ba ngàn (33.000) nhà nên đã được Mã Viện xin với vua Nhà Hán chia làm hai huyện nhỏ là Phong Khê và Vọng Hải. Vua Hán đã chấp thuận. Quan trọng hơn nữa, ông đã tổ chức lại guồng máy hành chánh bằng cách áp dụng lối tổ chức như bên chính quốc, nhằm loại trừ giới quý tộc bản xứ, điển hình là các lạc hầu, lạc tướng. Giới này một phần bị tàn sát, một phần phải bỏ chạy lên các vùng rừng núi. Hàng trăm gia đình khác đã bị đầy sang Hoa Nam. Phần còn lại bị tước đoạt hết những ưu quyền và vai trò của thời cũ. Riêng chỉ những thành phần lãnh đạo cấp dưới, tương đương với các làng xã là còn tồn tại nhưng bị lệ thuộc chặt chẽ vào chính quyền trung ương. Những người này đã phải hòa đồng với các thành phần cai trị khác từ chính quốc sang hay các di dân người Tầu, từ đó một thứ quý tộc bản xứ mới đã nảy sinh và sẽ đóng những vai trò quan trọng trong những biến cố về sau này.
Về mặt luật pháp, Mã Viện đã tiếp tục những gì các quan lại Nhà Hán đã làm trước đó là đem luật của người Tầu áp dụng vào xã hội của người Việt, buộc người Việt phải theo pháp luật Tầu. Ông đã tâu lên Vua Hán về mười điều khác biệt giữa luật của người Tầu và luật của người Việt, đã đem luật Tầu dạy cho người Việt. Về phương diện kinh tế, trong thời gian hành quân, Mã Viện đã cho xẻ núi, đào sông, đắp đường, từ đó đã giúp cho sự giao thông giữa các địa phương được trở nên dễ dàng hơn.
Toàn bộ các ông trình kể trên của Mã Viện đã được hoàn thành vào cuối năm 43 và năm sau thì ông về nước mang theo rất nhiều trống đồng Lạc Việt, sau khi đã dựng những cột đồng làm ranh giới.
Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt
Về vị trí của những cột đồng này, người ta không được rõ một cách chính xác. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư thì Mã Viện đã dựng những cột đồng này sau khi đã thanh toán được những tàn quân của Hai Bà do tướng Đô Dương chỉ huy ở Cửu Chân "làm giới hạn cuối cùng của Nhà Hán". Như vậy những cột đồng này phải nằm ở phía nam của huyện Cư Phong thuộc quận Cửu Chân. Nhưng ngay sau đó, cũng trong sách này người ta lại đọc được là "cột đồng tương truyền là ở trên động Cổ Lâu thuộc Khâm Châu".
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục cũng chép việc dựng cột đồng đằng sau câu nói về việc Mã Viện hàng phục được tướng Đô Dương và tàn quân của Hai Bà ở Cư Phong. Sau đó các tác giả của bộ sử này lại dẫn theo tác phẩm Thủy Kinh Chú của Lịch Đào nguyên cho biết Mã Viện đã dựng kim tiêu tức cây nêu bằng kim loại làm ranh giới cực nam của nước Tầu, cùng nhiều sách khác tương tự bên cạnh bộ Nhất Thống Chí của Nhà Thanh nói về cột đồng ở động Cổ Sâm ở Khâm Châu. Như vậy ta có thể nghi Mã Viện dựng nhiều cột đồng ở hai địa điểm khác nhau, một ở cực nam của Giao Chỉ bộ thuộc huyện Cư Phong và một ở Khâm Châu phía bắc để đánh dấu miền đất mà ông đã tái chinh phục được. Riêng ở địa điểm thứ hai này, ông đã ghi câu thề "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" (Cột đồng gãy thì Giao Chỉ diệt) khiến cho người dân Việt mỗi khi đi qua lại lấy đá chất vào thành gò đống vì sợ cột gẫy.
Một nhận xét khác cần được nêu lên ở đây là Mã Viện đã lấy đồng ở đâu ra để đúc các cột đồng này ? Phải chăng đó là từ các đồ đồng của dân Lạc Việt trong đó có các trống đồng mà viên tướng này đã đem một số về Tầu ? Điều này chứng tỏ là ở thời này văn minh đồ đồng của người Lạc Việt đã phát triển rất mạnh và Mã Viện trong khi hành quân đã tịch thu được rất nhiều đồ đồng của các nhà quý tộc bản xứ. Những đồ đồng này có thể do không dùng làm gì được vì người Tầu hồi đó đã dùng toàn đồ sắt, hoặc có thể là vì những trống đồng là biểu trưng cho quyền uy của các nhà quý tộc nên phải bị tiêu hủy, do đó đã được đem nấu chảy để làm cột đồng dựng ở hai điểm trọng yếu làm mốc cho những miền đất của người Lạc Việt cũ mà Mã Viện đã tái thu phục được, coi như những biểu tượng của chiến thắng vĩ đại của mình và của người Tầu, bên cạnh sự tan biến và bị tiêu diệt hoàn toàn của uy quyền và thế lực của giới quý tộc bản xứ. Vấn đề, tuy nhiên, còn cần được khảo cứu tường tận hơn vì rất có thể tất cả chỉ là truyền thuyết, vả lại vị trí của các cột đồng này đã không cố định mà đã di chuyển theo ranh giới phương nam của đế quốc Trung Hoa.
Tầm quan trọng lớn lao và hậu quả của cuộc khởi nghĩa
Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng là cuộc khởi nghĩa đầu tiên của người Việt chống lại chế độ đô hộ của người Tầu, giành độc lập cho dân tộc. Cuộc khởi nghĩa này thường được coi như biểu dương cho tinh thần bất khuất của dân tộc ta trước sự tràn lấn thường trực và vô cùng mãnh liệt của Hán Tộc và khả năng lãnh đạo của người phụ nữ trong xã hội Việt Nam thời cổ. Một mặt khác, như trên đã trình bày, đó không phải là một cuộc nổi dậy nhỏ, giới hạn trong một địa phương mà là một cuộc khởi nghĩa có quy mô rộng lớn bao trùm tất cả các quận thuộc Giao Chỉ Bộ từ Hợp Phố trở xuống. Nó đã làm rung động triều đình Nhà Hán. Những cố gắng phản công của triều đình này đã chỉ xảy ra sau hai năm dài sửa soạn và cuộc tái xâm lược mặc dầu được đặt dưới sự chỉ huy của vị lão tướng nổi danh nhất đương thời, đã không được thực hiện một cách mau chóng.
Về hậu quả, mặc dầu không hoàn toàn thành công, cuộc khởi nghĩa của Hai Bà đã thức tỉnh tinh thần dân tộc của người Việt sau ngót một trăm năm mươi năm sống an phận dưới sự thống trị của người Tầu và trước đó của Nhà Triệu. Sự thương tiếc và tôn kính của người Việt đối với Hai Bà đã được biểu lộ trong việc lập đền thờ Hai Bà hay âm thầm trong đáy lòng của mỗi người đã trở thành một sự nhắc nhở thường trực về sự khác biệt giữa hai chủng tộc cũng như về khả năng đấu tranh của người Việt. Nó đã ảnh hưởng rất lớn lao tới các cố gắng khởi nghĩa của dân ta về sau này.
Cuối cùng là chủ trương và nỗ lực cải tổ của Mã Viện trong tổ chức cai trị ở ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Những cải tổ này đã đưa tới sự kiểm soát các sinh hoạt của người bản xứ một cách trực tiếp, chặt chẽ hơn và đã làm cho văn hóa của người Tầu được truyền bá sâu rộng hơn trong quần chúng Giao Chỉ. Vai trò của giới quý tộc thời xưa không còn nữa. Chế độ có thể gọi là bảo hộ giống như các chế độ của người Tây Phương ở các thuộc địa của họ sau này đã hoàn toàn bị thay thế. Các quan lại người Tầu trong chiều hướng này đã mặc tình thao túng với sự ủng hộ nhiệt tình của các di dân của họ. Tình trạng này đã được phản ảnh một phần nào qua nhận xét của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái trong Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca khi hai tác giả này viết :
Trưng Vương vắng mặt còn ai,
Đi về thay đổi mặc người Hán quan.
Lịch sử dân tộc Việt Nam từ sau năm 43 đã rẽ sang một hướng khác hẳn trước. Đây mới là điểm thực sự quan trọng của cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Nó cũng nói lên tham vọng và chủ trương thâm độc cố hữu của người Tầu đối với dân tộc Việt Nam, dân tộc ngay từ đầu đã đóng vai trò nút chặn, ngăn cản con đường Nam tiến của họ xuống các vùng Đông Nam Á, Úc Châu và Ấn Độ Dương, một vị trí địa lý chiến lược vô cùng quan trọng trong bất cứ thời đại nào.
Hậu thế đã có những nhận xét gì về Hai Bà Trưng ?
Trước hết là các sử gia
Các sử gia Việt Nam ngay từ những ngày đầu cho tới thế kỷ 19, kể cả vua Tự Đức, người đã ra lệnh soạn thảo bộ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, và sau này là Trần Trọng Kim, tác giả Việt Nam Sử Lược, bộ sử gối đầu giường, đã được dủng làm sách giáo khoa cho nhiều thế hệ hiện đại, đã dành cho Hai Bà Trưng những cảm tình đặc biệt, nếu không nói là những lời tán dương đẹp đẽ nhất mà người cầm bút có thể viết được. Phan Bội Châu lại còn đi xa hơn nữa. Tác giả của Việt Nam Vong Quốc Sử và Việt Nam Quốc Sử Khảo đã đề nghị suy tôn Hai Bà Trưng làm tổ nước ta. Ông lý luận như sau :
Nước ta từ Trưng Nữ Vương về trước, bảo rằng không có người e rằng cũng là đúng sự thật lắm. Thế mà thình lình có một người con gái ở huyện Mê Linh đột nhiên xoang tay rán cánh đuổi quân Tàu làm tiên phong độ quân độc lập ở nước ta, mà sử nước ta mới bắt đầu có ba chữ tên họ Trưng nữ vương là người nước ta, chẳng những làm vẻ vang cho nước ta mà thôi, mà cả đến nước tàu thời Đông Hán Kỷ cũng có mấy chữ viết to là Giao Chỉ Nữ Tử Trưng Trắc mà ở tỉnh Quảng Tây, phủ Thái Bình nước Tàu cũng có một cái miếu thờ có ba chữ biển đề rằng Trưng Vương Miếu.
Chứng cớ như thế thời bảo bà trưng là người sinh đẻ ra người nước nam ta ai lại không thừa nhận được ? Sử học ngày nay theo khoa học mà cùng tới, không thể bằng theo thuyết thần bí huyễn hoặc mà cần phải căn cứ vào sự thực. Vậy căn cứ vào sự thực trên lịch sử thì tôi nhất định nhận bà Trưng nữ Vương là thủy tổ. Các nhà sử học trong nước nghĩ sao ? (7).
Người Tầu cũng vậy. Mặc dầu coi Hai Bà là làm phản, Hậu Hán Thư đã dùng ba chữ "thậm hùng dũng"(rất hùng dũng) để diễn tả khí thế của Hai Bà. Sau đây là những đoạn trích trong các sách sử khác của người Việt.
Trước hết là nhận xét của Lê Văn Hưu, tác giả của bộ chánh sử đầu tiên của người Việt đời Trần Thái Tông. Lê Văn Hưu đã viết về Hai Bà Trưng như sau :
Trưng Trắc, Trưng nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng ; việc dựng nước, xưng vương dễ như trở bàn tay, đủ biết là hình thế đất Việt ta có thể dựng cơ nghiệp bá vương. Tiếc rằng sau họ Triệu cho đến trước họ Ngô, trong khoảng hơn nghìn năm, bọn đàn ông chỉ cúi đầu bó tay, làm thần bộc cho người phương Bắc, há chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà ư ? Ôi ! Có thể gọi là tự bỏ mình vậy (8).
Tiếp theo là nhận xét của Ngô Sĩ Liên :
Họ Trưng giận thái thú nhà Hán bạo ngược, vung tay hô một tiếng mà quốc thống nước ta xuýt được khôi phục ; khí khái anh hùng không những là lúc sống dựng nước xưng vương mà sau khi chết có thể chống ngăn tai họa ; phàm gặp những việc tai ương hạn lụt, đều cầu đảo không việc gì là không ứng.
Cả bà Trưng em cũng thế. Vì là đàn bà mà có đức hạnh kẻ sĩ, các khí hùng dũng trong khoảng trời đất không phải vì thần chết mà kém đi. Bọn trượng phu chẳng nên nuốt lấy cái khí phách cương trực chính đại ư ? (9).
và của một sử thần khác :
Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam là đất nước Thục, không giữ được mà mất về họ Triệu, không giữ được mà bị nhà Hán thôn tính. Bà Trưng là một người con gái góa ở Giao Chỉ, không có một thước đất, một người dân, chỉ vì báo thù chồng mà khởi binh đánh một trận, cả sáu quận đều theo, định được 65 thành dễ như lấy đồ trong túi, làm cho bọn quan lại, thú úy cai trị trong thời gian 150 năm, phải bó tay không dám làm gì. Than ôi ! Cái khí anh linh của trời đất, không chung đúc vào người con trai, mà lại chung đúc vào người con gái, nếu phải có lòng trời tựa Lạc Việt, thì có thể lấy cả được Kinh, Dương, đâu lại chỉ có đất Ngũ Lĩnh mà thôi (10).
Ngọ Phong Ngô Thì Sĩ còn dẫn một đoạn khác trong sách Thông Luận như sau :
Không có gì khó thu phục được là nhân tâm, không có gì khó nắm giữ được là quốc thể ; lại còn khó nữa là một người đàn bà mà tập họp được cả nhân dân trai tráng làm đồng chí. Nước ta bị nội thuộc đã lâu, phục tùng pháp chế cho là quen, bị bọn tướng lại thống trị cho là việc thường ngày, huống chi đương lúc nhà Hán trung hưng, thu phục nhiều tay trí dũng, ai dám chống cùng oai hổ. Trưng vương là đàn bà góa, búi tóc đứng lên, những con trai trong nước đều cúi đầu chịu. Bà chỉ huy, các quan to ở năm mươi thành cũng đều nín hơi, không dám kháng cự. Lưu Văn Thúc là người diệt được quần hùng, chống nổi đại địch, mà khi tập binh khiển tướng còn phải ăn trưa ngủ muộn, lo nghĩ cơ mưu ; Mã Phục Ba làm cỏ nước Tiên Linh, phá tan nước Tham Lang, mà khi đóng quân ở Lãng Bạc, cũng phải lo xa nghĩ kỹ, náu hình ở bên hồ sâu. Tiếng tăm hùng dũng của Bà chấn động cả Trung Hoa, cơ nghiệp mở mang của Bà ngang trong trời đất, thật là anh hùng.
Trong những sách Bắc Sử về đời Hán, Đường cũng có vua đàn bà, như họ Lã, họ Vũ, nhưng đều là nhờ thế đã làm mẫu hậu rồi, mà nắm lấy quyền nhân chủ, thì dễ lung lạc được trong nước, múa may với đàn trẻ. Đến như Bà Trưng là một người đàn bà thường mà khởi lên được thì khó lắm. Xem trong Nam Sử thì nội thuộc Lương và Trần, có ông Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương, sẵn là cường hào, hay là gia thế, lòng người đã sẵn quy phục, thế nước đã hơi xu hướng mà khởi lên còn có phần dễ ; đến như Bà Trưng là con gái thì lại khó lắm. Tuy thế cũng chưa lấy gi làm kỳ cho lắm.Vợ trả thù chồng, em giúp việc chị, một là tiết phụ, một là nghĩa nữ, vào cả một nhà, thế mới là kỳ. Ông vua bị mất nước, hoặc là bị bắt, hoặc là đầu hàng, con gái ở cảnh nhà tan, hoặc phải bỏ đi, hoặc bị tủi nhục. Bà chị mất nước, bà em cũng tuẫn tiết theo chị, không chịu đầu hàng cũng không để bị bắt, người chồng ở dưới đất được nhắm mắt, kẻ gian tà trông thấy thế phải cúi đầu. Vua tôi Văn Thúc (tướng Hán) không làm gì nổi. Chết rồi mà tiếng thơm vẫn còn. Thế mới càng kỳ nữa. Than ôi ! Hồng nhan trẻ đẹp xưa nay chôn vùi đã bao người. Nhưng Nữ Oa có việc động trời đến giờ, chỉ có hai chị em Bà Trưng nữa đấy thôi. Còn bà Triệu thì chưa đáng kể (11).
Vua Tự Đức cũng có nhận xét tương tự trong phần Ngự Phê của bộ Cương Mục :
Hai Bà Trưng thuộc phái quần thoa, thế mà hăng hái quyết tâm khởi nghĩa, làm chấn động cả triều đình Hán. Dầu rằng thế lực cô đơn, không gặp thời thế, nhưng cũng làm phấn khởi lòng người, lưu danh sử sách. Kì những bọn nam tử râu mày mà chịu khép nép làm tôi tớ người khác. Chẳng cũng mặt dày thẹn chết lắm du ! (12).
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Tiền Biên, Quyển Nhị.
Sau hết là Trần Trọng Kim, tác giả của Việt Nam Sử Lược :
Hai bà họ Trưng làm vua được 3 năm, nhưng lấy cái tài trí người đàn bà mà dấy được nghĩa lớn như thế khiến cho vua tôi nhà Hán phải lo sợ, ấy cũng là đủ để cái tiếng thơm về muôn đời. Đến ngày nay có nhiều nơi lập đền thờ hai bà để ghi tạc cái danh tiếng hai người nữ anh hùng nước Việt Nam ta (13).
Lệ Thần Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược. Saigon, Tân Việt, in lần thứ không đề năm, tr. 48.
Trong văn học :
Trong văn học không một người Việt Nam nào trước đây không có dịp đọc hay học thuộc lòng hay được nghe người khác học hay ru em bài "Bà Trưng quê ở Châu Phong", trích trong Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái và một số những bài thơ khác của hai tác giả này. Những tác phẩm này phần lớn xuất hiện hồi đầu thế kỷ 20 do nhu cầu vận dụng quần chúng của các nhà cách mạng, ái quốc đương thời và được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.
Về tuồng ta có Thù Chồng Nợ Nước của Hoàng Tăng Bí ; về văn tế ta có Bà Trưng Tế Chồng của Á Nam Trần Tuấn Khải ; về văn suôi, ta có bài Ai Là Tổ Nước Ta ? Người Nước Ta Với Sử Nước Ta của Phan Bội Châu đã dẫn trên đây ; về thơ, người viết chỉ giới thiệu một số bài tiêu biểu đã có dịp được học như những bài học thuộc lòng hồi còn nhỏ, được nghe các bà mẹ, các bà chị hát ru, được học thuộc lòng từ thuở ấu thơ, được đọc trong các sách và gần đây được thấy trên các trang mạng.
Tất cả đều gợi lên trong lòng người nghe, người đọc một niềm hãnh diện lớn lao về quá khứ oai hùng của dân tộc Việt Nam, kèm theo những tình cảm đau xót, ngậm ngùi, tiếc thương, oán hận, nhưng không hoàn toàn tuyệt vọng. Trái lại với bốn câu mở đầu cho bài Đề Vịnh Trưng Vương của Hoàng Thúc Hội làm năm 1932, vào lúc thịnh thời của chế độ đô hộ của người Pháp : Thời nào cũng có hào kiệt của thời ấy, chỉ là đã qua hay chưa tới mà thôi. Thời hai Bà Trưng, Thánh Gióng đã về Trời, Bà Triệu chưa nổi dậy, nhưng rồi Hai Bà đã xuất hiện để "Nẩy chồi hoa nụ Lạc, Mở mặt nước non Hồng" :
Ngựa Gióng đã lên không
Rừng Thanh voi chửa lồng.
Nẩy chồi hoa nụ Lạc
Mở mặt nước non Hồng.
Trước nhất và quen thuộc nhất là bài của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái, trích trong Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca mà ngươi ta quen gọi là bài Bà Trưng Quê ở Châu phong :
Bà Trưng quê ở châu Phong,
Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên.
Chị em nặng một lời nguyền,
Phất cờ nương tử, thay quyền tướng quân.
Ngàn tây nổi áng phong trần,
Ầm ầm binh mã tới gần Long Biên.
Hồng quần nhẹ bước chinh yên,
Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành.
Đô kỳ đóng cõi Mê Linh,
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta.
Ba thu gánh vác sơn hà,
Một là báo phục, hai là bá vương.
Uy danh động đến Bắc phương,
Hán sai Mã Viện lên đường tiến công.
Hồ Tây đua sức vẫy vùng,
Nữ nhi chống với anh hùng được nao.
Cấm Khê đến lúc hiểm nghèo,
Chị em thất thế phải liều với song.
Phục Ba mới dựng cột đồng,
Ải quan truyền thấu biên công cõi ngoài.
Trưng Vương vắng mặt còn ai,
Đi về thay đổi mặc người Hán quan.
Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca
Bài của Dương Bá Trạc (1884 – 1944) :
Nước nhà gặp cơn bĩ,
Trách nhiệm gái trai chung.
Quyết lo đền nợ nước
Há những vị thù chồng ?
Tham tàn căm tướng Chệt,
Tai mắt tủi nòi Hồng.
Em ơi ! Đứng cùng chị.
Thù riêng mà nghĩa công
Tham tàn căm tướng Chệt,
Tai mắt tủi nòi Hồng.
Em ơi ! Đứng cùng chị.
Thù riêng mà nghĩa công.
Xin đem phận bồ liễu,
Đành liều với núi sông.
Một trận đuổi Tô Định.
Quân Tầu đuôi chạy cong.
Lĩnh Nam bảy mươi quận,
Mặc sức ta vẫy vùng.
Mê Linh xưng nghiệp đế,
Độc lập nêu cờ hồng.
Bốn năm nước tự chủ ;
Nhi nữ cũng anh hùng.
Dương Bá Trạc
Bài của Đặng Văn Bá (1877 - 1842) :
Cột đồng chìm chín suối,
Bia đá rọi ngàn thu.
Vì nước thương người khuất,
Xúm tay chỉ đứa thù.
Non sông tươi nét mặt,
Hào kiệt hổ chòm râu.
Ai biết, ai không biết,
Hồ Tây nước thẳm sâu.
Đoàn Văn Bá
Bài của Nguyễn Ngô Đoan (1851 – 1945) :
Trăm năm trong cõi người ta,
Khí thiêng chung đúc một nhà lạ thay,
Kìa xem Sử Việt xưa nay,
Thoa quần mà cũng có ngày đế vương.
Giai nhân nan tái đắc.
Trong danh hoàn dễ được mấy Trưng Vương ?
Hội phong trần sinh ở xứ Đông Dương,
Vững gan sắt lấy cương thường làm trọng.
Quốc sỉ phu thù thiên bất cộng,
Tỷ trinh muội liệt thế vô vong.
Đem phấn son thay lấy việc anh hùng,
Lưỡi kiếm chẳng dong phường cẩu tặc.
Đuổi Tô Định thẳng về đất Bắc,
Rửa tanh hôi mà gánh lấy non sông.
Làm gương cho khách hồng quần.
Nguyễn Ngô Đoan
Bài Vịnh Phục Ba của Đoàn Như Khuê (1883- 1957) :
Vịnh Phục Ba
Trèo non, vượt bể biết bao công,
Một chút Hồ Tây chút vẫy vùng.
Quắc thước khoe chi mình tóc trắng,
Cân đai đọ với khách quần hồng.
Gièm chê đã chán đẩy mâm ngọc,
Khen chê đã chán mấy cột đồng.
Ai muốn chép công ta chép oán.
Công riêng ai đó, oán ta chung.
Đoàn Như Khuê
Bài Vịnh Trưng Vương của Thái Xuyên Hoàng Cao Khải (1850 – 1933) :
Vịnh Trưng Vương
Tượng đá Trời Nam giãi tuyết sương
Ngàn năm công đức nhớ Trưng Vương
Tham tàn trách bởi quân gây biến
Oanh liệt khen cho gái dị thường
Liều với non sông hai má phấn
Giành nhau nòi giống một da vàng
Cột đồng Đông Hán tìm đâu thấy
Chỉ thấy Tây Hồ bóng nước gương.
Thái Xuyên Hoàng Cao Khải
Tiếp theo là Hoàng Thúc Hội (1870 -1938) với bài Đề Vịnh Trưng Vương. Bài này được giải thưởng năm 1932 và được khắc vào bia Đền Thờ Hai Bà. Khác với những bài trước, bài này ý và lời không mang tính cách hoài niệm, u buồn, thở than, ngậm ngùi, trách móc mà hào hùng hơn khi hướng về quá khứ với hai hình ảnh biểu trưng là Thánh Gióng tức Phù Đổng Thiên Vương, Bà Triệu và tích cực hơn khi hướng về tương lai, dù không trực tiếp mà chỉ là nói mé :
Đề Vịnh Trưng Vương
Ngựa Gióng đã lên không
Rừng Thanh voi chửa lồng
Nẩy chồi hoa nụ Lạc
Mở mặt nước non Hồng
Trăng rọi gương hồ Bạc
Mây tan dấu cột đồng
Nén hương lòng cố quốc
Xin nhắn một lời chung.
Hoàng Thúc Hội
Riêng về câu đối, trước đó, về thời Nhà Lê, dưới thời Lê Thần Tông, người ta có truyền tụng đôi câu sau đây của Giang Văn Minh làm khi đi sứ sang Nhà Thanh năm Mậu Thìn, 1628, nói về cột đồng :
Đồng trụ chí kim đài dĩ lục
Đằng Giang tự cổ huyết do hồng
(Cột đồng đến nay rêu đã xanh
Sông Bạch Đằng từ xưa máu còn đỏ)
được ghi trong Đại Việt Lịch Triều Đăng Khoa Lục với đề tài do phía Nhà Thanh đề ra. Sau đó, theo lời truyền, ông bị Nhà Thanh giết, tẩm xác vào thủy ngân, rồi cho đưa về nước.
Trong âm nhạc
Không kể cổ nhạc với những vở chèo, tuồng, cải lương, trong tân nhạc người ta cũng thấy có nhiều bài nói tới Hai Bà Trưng hay lấy Hai Bà Trưng làm đề tài, điển hình là bài Trưng Nữ Vương của Nhạc sĩ Thẩm Oánh vô cùng quen thuộc với các nữ học sinh Việt Nam trong vùng Quốc gia, thời Quốc trưởng Bảo Đại trước năm 1954 và ở miền Nam trước năm 1975,rồi sau này ở Hải Ngoại, với lời ca vô cùng trang nghiêm, kính cẩn và mang nặng tinh thần hoài niệm như sau :
Trưng Nữ Vương lau phấn son mưu thù nhà,
Mài gươm vang khúc toàn thắng hùng ca,
Thu về giang-san cho lừng uy gái Nam,
Bầu Trời Á sáng ngời ánh quang.
Nợ nước phó tay người nhi-nữ,
Tình riêng cứu nguy cho toàn-dân,
Một lòng trung-trinh son sắt bên Hát Giang sóng rền.
Trưng Nữ Vương dày đức cao ơn,
Xin ứng linh ban phúc cho giang san hòa bình.
Trưng Nữ Vương, nước non còn đó,
Giống Lạc Hồng quyết kiên lòng bồi đền non sông.
Hồn quốc gia mờ phai má đào,
Nhà Việt lặng buồn, rầurĩ, sầu đau,
Xui lòng nhinữ mau phục thù,
Mê Linh ngợp trời cờ Việt sóng xô.
Mang phấn son tô màu sơn hà,
Lòng vì nước, vì nhà.
Cho Việt Nam muôn đời hung cường,
Nhờ ơn-đức Trưng Vương.
Trưng Nữ Vương lau phấn son mưu thù nhà,
Mài gươm vang khúc toàn thắng hùng ca,
Thu về giang san cho lừng uy gái Nam,
Bầu Trời Á sáng ngời ánh quang.
Nợ nước phó tay người nhi nữ,
Tình riêng cứu nguy cho toàn dân,
Một lòng trung trinh son sắt bên Hát Giang sóng rền.
Trưng Nữ Vương dày đức cao ơn,
Xin ứng linh ban phúc cho giang san hòa bình.
Trưng Nữ Vương, nước non còn đó,
Giống Lạc Hồng quyết kiên lòng bồi đền non sông.
Hùng Lân (1922 – 1986) trong Cô Gái Việt cũng có hai câu :
Triệu Trưng xưa đẹp gương sáng muôn đờ !
Dòng máu thiêng còn đượm nồng trong trái tim.
Văn Giảng (1924 – 2013) cũng viết Đêm Mê Linh :
Canh dài ta ngồi trong rừng cây vang âm hồn thiên thu
Trời vắng hồn lắng tiếng sơn hà trong gió hú :
"Ai thấy chăng xưa hùng cường ?
Ai thấy chăng nay xiềng cùm
Đằng đằng nặng hận thù
Ai đắp non sông trường tồn ?
Ai kết lên dân tài hùng
Xua tan giặc Đông Hán
Xua tan giặc xâm lấn ?"
Ta cùng chung lòng mong ngày vang danh thơm dòng oai linh
Thề quyết rèn chí quét quân thù đang cướp nước
Ta cháu con dân Việt hùng
Nơi Mê Linh ta trùng phùng
Đồng lòng nguyền vẫy vùng
Ta chiến binh đang thề nguyền
Quanh ách thiên nung lòng bền
Gian nguy càng hăng chí
Xung phong chờ đến ngày
Ai vì nước ?
Ai thề ước ?
Ta xung phong nguyền dâng thân hiên ngang
Nguyện đấu tranh xua tan quân Đông Hán
Ai trung thành ?
Ai liều mình ?
Thề hy sinh, thề tung hoành hiên ngang
Thề kiên trung chiến đấu, thế chiến thắng !
Canh dài ta ngồi mơ ngày đi xông pha giành non sông
Ngời chói bừng ánh sáng tươi hồng hăng chí nóng
Quanh ánh thiêng reo bùng bùng
Ta nắm tay ca trầm hùng
Hẹn ngày rạng Lạc Hồng
Mơ xuất quân đi rập ràng
Mơ quét tan quân bạo tàn
Xua tan giặc Đông Hán
Xua tan giặc xâm lấn
và chắc chắn còn nhiều hơn nữa, đặc biệt là câu đối và văn tế. Người viết xin để quý vị độc giả tùy nghi tìm kiếm thêm cho đầy đủ hơn.
Để kết luận, ta có thể nói rằng chủ trương xâm lấn và tiêu diệt dân Việt là một chủ trương ngàn năm, cố hữu của người Tầu. Người Tầu đã có chủ trương này từ ngót hai ngàn năm trước ngay sau khi Mã Viện đánh bại Hai Bà Trưng. Sự thay đổi chính sách và cuộc cải tổ guồng máy cai trị, điển hình là chuyện họ Mã dựng cột đồng và nguyền rủa dân Giao Chỉ "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" là những bằng chứng cụ thể không thể chối cãi được.
Một-ngàn chín-trăm bảy-mươi-sáu (1976) năm đã trôi qua. Chỉ còn hăm-bốn (24) năm nữa là đủ hai ngàn năm. Nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam vẫn hiên ngang tồn tại và hàng năm vẫn làm lễ tưởng niệm Hai Bà Trưng ở khắp nơi ở trong nước cũng như ở Hải Ngoại trong khi cột đồng của họ Mã ngay từ sau khi xuất hiện đã bị người dân ném đá chôn vùi để rồi "chìm chín suối", không còn "tìm đâu thấy" dấu vết, còn danh thơm của Hai Bà thì "Bia đá rọi nghìn thu" đúng như hai câu thơ của nhà Nho Đặng Văn Bá được trích dẫn trong phần đầu của bài viết này :
Cột đồng chìm chín suối,
Bia đá rọi nghìn thu.
Khi bài này được viết thì mối đe dọa của người Tầu và hiểm họa mất nước, kể cả diệt chủng đã lại tái xuất hiện. Lần này cực kỳ nguy hiểm, tinh vi và độc địa hơn nhiều. Nó xảy ra giữa hai nước cộng sản anh em "môi hở răng lạnh", "bốn tốt, mười sáu chữ vàng". Có điều là hiểm họa không phải chỉ xảy ra ở Biển Đông mà ngay trên đất liền. Những gì xảy ra ở Biển Đông chỉ là diện, trên đất liền mới là điểm. Hiểm họa lần này đã xảy ra một cách âm thầm, nhẹ nhàng, tiệm tiến, phi võ lực và do chính những người Việt tự nhận là "đỉnh cao trí tuệ" tự tạo ra và tự chấp nhận. Nó đã và đang xảy ra trong tất cả mọi sinh hoạt từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, xã hội... và đã được rất nhiều người thuộc đủ mọi giới trong cũng như ngoài nước lên tiếng cảnh cáo. Người viết thấy không cần viết thêm ở đây.
Quận Cam, California, Kỷ niệm Hai Bà Trưng năm thứ 1976
Phạm Cao Dương
Xuân Kỷ Hợi (2019)
(*) Tác giả là Giáo sư, Tiến sĩ Sử học của nhiều trường Đại học ở miền Nam trước năm 1975 và ở Hoa Kỳ sau 1975. Hiện ông đã nghỉ hưu.
(1) Bùi quang Tung, "Cuộc Khởi Nghĩa Hai Bà Trưng Dưới Mắt Sử Gia", trong Đại Học, Tạp chí nghiên cứu Viện Đại Học Huế, số 10, tháng 7 năm 1959, tr. 1 – 16. H. Maspéro, "L’Éxpédition de Ma Yuan", in BEFEO, XVIII, No, 3, pp. 11 -28.
(2) Bùi Quang Tung, "Cuộc Khởi Nghĩa Hai Bà Trưng…"
(3) Theo Đông Quan Hán Ký, Mã Viện sau khi bình được xứ Giao Chỉ đã dâng sớ lên Vua Hán nói rằng "Thái Thú Tô Định mở mắt lớn khi thấy tiền, nhắm mắt lại trong việc dẹp giặc, lại sợ ra trận"., dẫn bởi Bùi Quang Tung, -nt-.
(4) Sau này thuộc phủ Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây và hiện tại thuộc tỉnh Vĩnh Phú.
(5) Hậu Hán Thư, "Mã Viện Truyện", dẫn bởi Bùi Quang Tung, -nt-.
(6) Thành này hình tròn như cái kén nên được gọi như vậy. Ngoài thành Kiển Giang, theo Đại Nam Nhất Thống chí, Mã Viện còn cho đắp thêm một thành nữa ở Vọng Hải.
(7) Báo Tiếng Dân số 656, ngày 6/1/1934
(8) Đại Việt Sử ký Toàn Thư, Ngô Đức Thọ dịch và chú thích. Hà Nội, Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã hội, 1993, Kỷ Trưng Nữ Vương, tr. 156-157.
(9) -như trên-, Kỷ Thuộc Đông Hán, tr. 157-158.
(10) Ngọ Phong Ngô thời Sỹ, Việt Sử Tiêu Án, Từ Hồng Bàng) đến Ngoại Thuộc Nhà Minh. Bản dịch của Hội Liên Lạc Văn Hóa Á Châu. Saigon, Văn Hóa Á Châu, 1960, tr. 40-41.
(11) – như trên-, tr. 241-143.
(12) Quốc Sử Quán Triều Nguyễn Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Tập Một, Tiền biên, Quyển Thứ II, tr. 116.
(13) Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược. Saigon, Tân Việt, in lần thứ bảy, 1964, Sài Gòn, Trung Tâm Học Liệu xuất bản lần thứ nhất, 1971; Đại Nam, California, tái bản ở Hải Ngoại, không đề năm, tr. 48.
73 Năm Nhìn Lại : Miền Nam trong những ngày định mệnh tháng Tám và Chín 1945
Không có lực lượng võ trang đáng kể, Việt Minh chỉ lợi dụng Thanh niên Tiền phong làm lực lượng xung kích, qua sự lừa đảo tập thể những người trẻ chỉ biết yêu nước và phụng sự quốc gia của miền Nam này và họ đã thành công, giống hệt như ở Hà Nội, họ đã lợi dụngvà cướp ngang cuộc biểu tình ngày 17 tháng Tám của Tổng hội Công chức, được tổ chức để mừng độc lập và ủng hộ Chính phủ Trần Trọng Kim, không phải để ủng hộ Việt Minh.
Việt Minh sử dụng lực lượng Thanh niên Tiền phong như lực lượng xung kích
- "Tôi có đủ tin tức biết rõ lực lượng Việt Minh. Họ không có khí giới gì ráo. Tôi đủ sức giữ Sài Gòn, không để Việt Minh cướp chánh quyền một khi Bảo Đại chưa thoái vị".
Huỳnh Văn Phương, Đệ Tứ
Tổng Giám Đốc Công An Nam Kỳ
- "Thấy hôn ! Tôi không ăn có với kỷ niệm tưng bừng mà "xin cho tôi can", đừng nói quá lắm về tài giỏi mà như ông bà ta biểu, "nói năng phải phân phân, cây đa cậy thần, thần cậy cây đa".
Cách mạng Tháng Tám ở Sài Gòn mà thắng lợi là cũng nhờ có cơ hội, điều kiện giúp cho nó mà thôi.
Coi, tôi là người tổ chức cướp chính quyền mà thiệt ra tôi có làm được gì nhiều đâu".
Nguyễn Văn Trấn, Hung thần Chợ Đệm
(Hồi Ký Viết cho Mẹ và Quốc hội)
"…Người Việt Nam nào đảm đương được và có hy vọng thành công, chúng tôi sẵn lòng tán trợ… Nghĩa là lúc nào chúng tôi cũng vẫn đặt nền độc lập quốc gia lên trên vấn đề quyền tước…
Giết thì cứ giết nhưng đừng kêu qua là Việt gian".
Hồ Văn Ngà
Chủ tịch Việt Nam Quốc gia Độc lập Đảng
Mặt trận Quốc gia Thống nhứt
"…hàng triệu truyền đơn do Việt Minh tung ra, tự xưng là bạn với Nga, với Tàu, với Mỹ, và với Anh…".
Nguyễn Kỳ Nam
Hồi ký 1925-1964
Hồ Chí Minh và các thành viên Chính phủ Lâm
thời sau phiên họp Chính phủ đầu tiên (3/9/1945)
Khi nói tới hai biến cố Việt Minh cướp chính quyền và Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam độc lập thời cuối tháng 8 và đầu tháng 9 năm 1945, những ngày người viết gọi là "định mệnh đầy đau thương của dân tộc Việt Nam", bình thường người ta chỉ nghĩ tới những gì xảy ra ở hai miền Bắc và miền Trung mà ít hay không nói tới những gì xảy ra ở miền Nam. Đây là một thiếu sót vô cùng quan trọng cần phải được điều chỉnh.
Bài này nhằm phần nào bổ khuyết cho sự thiếu sót kể trên với phần mở đầu nói về sự khác biệt giữa xứ Nam Kỳ và hai xứ Bắc Kỳ và Trung Kỳ, tiếp theo là những gì đã xảy ra ở Nam Kỳ trong những ngày những ngày định mệnh này.
***************
1. Khác biệt giữa Nam kỳ với Bắc kỳ và Trung kỳ
Khác với Bắc kỳ và Trung kỳ, Nam kỳ từ sau hai năm 1862 và 1867, rồi 1874 đã là thuộc địa của người Pháp, do đó nằm ngoài thẩm quyền cai trị của Hoàng đế Việt Nam và Triều đình Huế, từ đó bị tách rời khỏi hai phần còn lại của đất nước. Nhưng đó chỉ là về lý thuyết. Trên thực tế người Việt miền Nam vẫn luôn luôn coi mình là người Việt Nam và lúc nào cùng hướng lòng mình về cố quốc, đúng như Nguyễn Đình Chiểu đau đớn triền miên, khắc khoải và thất vọng, tâm sự qua bài thơ viếng Phan Thanh Giản :
Ải Bắc ngày trông tin nhạn vắng,
Thành Nam đêm quạnh tiếng quyên sầu
Cho tới ít ra là năm 1954 và nhiều năm sau đó, người Nam vẫn tự nhận mình là Người Việt, còn gọi người Bắc là người Bắc. Họ đã nhiệt tâm và liên tục, bằng cách này hay bằng cách khác, thế hệ này sang thế hệ khác, ủng hộ các cuộc đấu tranh chung cho nền độc lập và Thống nhứt của cả dân tộc, điển hình là các phong trào Đông Du và Duy Tân với các nhà ái quốc tiền bối Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh, rồi sau này là vận động hướng về quá khứ của các sinh viên Nam Kỳ "du học" ở Đại học Hà Nội trong nửa đầu của thập niên 1940. Đây là một nét đẹp nằm sâu trong tâm tư của người dân Nam Kỳ đối với hai phần còn lại của nước Việt Nam, nói chung, và đối với cuộc chiến đấu giành độc lập và Thống nhứt quốc gia trong thời gian này, nói riêng.
Về điểm này Luật sư Hoàng Cơ Thụy, tác giả Việt Sử Khảo Luận, người có mặt ở Nam Kỳ trong những ngày này đã viết như sau :
"Dân chúng Nam Kỳ mặc dầu đã Tây hóa rất nhiều, song phản ứng rất hào hứng và đầy thiện cảm với bản tuyên ngôn độc lập của vua Bảo Đại.
[…]
Toàn dân rất xúc động về nạn chết đói thê thảm ở Bắc Việt, nên hô hào tổ chức chở gạo để cứu đói.
Vậy nếu chưa có Thống nhứt về pháp lý, thì đã có Thống nhứt trong tâm hồn" (1).
Điều khác biệt là ở Nam Kỳ giới trí thức du học ở Pháp về đã đóng một vai trò quan trọng trong sinh hoạt chính trị trong tiền bán thế kỷ 20, bên cạnh hai tôn giáo lớn mang nặng tính cách Việt Nam là Cao Đài và Phật giáo Hòa hảo. Hai tôn giáo này đã có ảnh hưởng rất lớn đối với quần chúng, đặc biệt là quần chúng nông thôn. Nói cách khác, các vận động giải phóng dân tộc ở đây đa dạng hơn ở hai xứ Bắc và Trung Kỳ rất nhiều. Ảnh hưởng của cộng sản Đệ Tam Quốc Tế với Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai, Trần Văn Thạch... từ đầu, hay luôn cả ảnh hưởng của Việt Minh sau này, so với nhóm Đệ Tứ của Tạ Thu Thâu có thể nói là rất yếu ớt, không mạnh như ở miền Bắc.
Về sự khác biệt này, Nguyễn Long Thành Nam, tác giả của Phật giáo Hòa hảo trong dòng Lịch sử dân tộc đã ghi nhận như sau :
"Quần chúng miền Nam không bời rời như ở miền Bắc, mà đã thực sự đoàn ngũ hóa trong hai tổ chức tôn giáo quan trọng là Cao Đài và Phật giáo Hòa hảo. Quần chúng đoàn ngũ hóa bao giờ cũng có năng động tính và sẵn sàng để nhập cuộc hơn là quần chúng tâm lý mà không có tổ chức. Các đảng cách mạng xuất hiện tại miền Bắc như Việt Nam Quốc dân đảng, Đại Việt, Duy Dân có thể được sự đồng minh ngưỡng mộ của quân chúng, nhưng không thể chuyển động mau chóng khối quần chúng đó vào đấu tranh, vì chưa thực hiện được bước sơ khởi là đoàn ngũ hóa quần chúng.
Ngoài ra, tại miền Nam các tổ chức cách mạng mang hình thức tôn gíáo, cho nên quy tụ được đông đảo quần chúng, trong khi tại miền Bắc, các tổ chức cách mạng mang hình thức chánh đảng, cho nên sự quy tụ đảng viên giới hạn hơn.
Ngoài hai tổ chức tôn giáo Cao Đài, Phật giáo Hòa hảo ở vào tư thế đã đoàn ngũ hóa và sẵn sàng chiến đấu, tại miền Nam lúc đó còn có phong trào Thanh niên Tiền phong, và vài tổ chức võ trang, tuy ít người nhưng cũng đã chuẩn bị sẵn sàng để nhập cuộc chiến đấu. Đó là tổ chức Bình Xuyên, tổ chức Nghĩa sĩ đoàn, tổ chức Thanh niên ái quốc đoàn, tổ chức Dân quốc quân của Việt Nam Quốc dân dảng miền Nam, nhóm Đệ Tứ, đảng Quốc gia Độc lập với thành phần trí thức miền Nam.
Riêng đảng Cộng sản đệ tam rất yếu thế tại miền Nam, lúc đó chưa có quần chúng tổ chức, chưa có đơn vị võ trang, chỉ mới có một số cán bộ là Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo, Trần Văn Giàu, sau được tăng cường lớp cán bộ vừa được thả ra từ các khám đường như Lê Duẩn, Phạm Hùng được chỉ thị ở lại miền Nam hoạt động, chớ không về thẳng miền Bắc" (2).
2. Mặt trận Quốc gia Thống nhứt
Trong bối cảnh chánh trị kể trên, ngày 14 tháng 8 năm 1945, năm ngày trước biến cố 19 tháng 8 ở Hà Nội, Mặt trận Quốc gia Thống nhứt được thành lập với thành phần gồm có Việt Nam Quốc gia độc lập đảng, Liên đoàn Giáo chức, Tịnh độ Cư sĩ, Phật giáo Hòa hảo, Cao Đài, nhóm trí thức Đệ Tứ hay quen gọi là Nhóm tranh đấu...
Cương lĩnh của Mặt trận là chống Pháp, chống thực dân và ngày chính thức ra mắt dân chúng là ngày 21 tháng 8 trong một cuộc biểu tình qui tụ 200.000 người thuộc đủ mọi từng lớp theo lời kêu gọi của người cầm đầu là Hồ Văn Ngà của Việt Nam Quốc gia độc lập đảng kéo tới ủng hộ. Một bản tuyên ngôn cũng được phổ biến trên báo chí. Mặt khác, để phòng ngừa quân Pháp trở lại các tổ chức đấu tranh miền Nam còn thành lập bốn sư đoàn dân quân cách mạng bằng cách võ trang quần chúng do các đoàn thể có khả năng như Phật giáo Hòa hảo, Cao Đài, Việt Nam Quốc dân đảng, Bình Xuyên… tự đảm nhiệm.
Tất cả các nỗ lực kể trên đều không mang lại kết quả mong muốn. Phe cộng sản Đệ Tam đã chờ sẵn và đã mau chóng cướp được chính quyền và lịch sử đã chuyển sang một hướng khác.
Nhận xét về Mặt trận Quốc gia Thống nhứt vào thời điểm này, tác giả Nguyễn Long Thành Nam, cũng là một tín đồ Hòa hảo rất tích cực đương thời và sau này, đã viết :
"Sơ hở căn bản của Mặt trận Quốc gia Thống nhứt là không nắm lấy chính quyền trong lúc có phong trào quần chúng ủng hộ như thế. Thành ra chỉ khơi động phong trào, tạo không khí thuận lợi, để cho Việt Minh xen vào phỗng tay trên, tuyên bố thiết lập Lâm ủy Hành chánh Nam bộ lãnh đạo đấu tranh, chỉ bốn ngày sau cuộc biểu tình vĩ đại đó" (3).
Còn Nguyễn Kỳ Nam, ông này đã ghi chi tiết hơn :
"Vừa hay tin Nhựt đầu hàng, ông Hồ Văn Ngà đứng ra kêu gọi các đảng phái chánh trị đoàn kết lại.
Ngày 14 tháng 8, các đảng phái đáp lời kêu gọi của Hồ Văn Ngà, đoàn kết sau Mặt trận Quốc gia Thống nhứt.
Trong thời kỳ nghiêm trọng nầy, Nhựt đầu hàng, Đồng Minh sẽ đến tước khi giới, Pháp làm sao không "đòi" Nhựt trả chủ quyền cho họ, nên đoàn kết là một phương pháp đấu tranh, một vấn đề sinh tử của cả một dân tộc.
Nhưng dân chúng đặt vấn đề đoàn kết rất giản dị : nắm tay nhau tranh đấu chống Pháp, chống thực dân. Có thế thôi.
Không một ai chịu ngó xa thêm một chút nữa :
- Ai lãnh đạo đoàn kết ?
- Đóng góp vào đoàn kết đến độ nào ?
- Phân công làm sao cho công bằng ?
- Phương pháp đoàn kết trong tinh thần nào ?
Lúc đó các đảng phái quốc gia chỉ nghĩ có 3 mục đích :
- Chống Đế quốc Pháp,
- Chống thực dân,
- Bảo vệ an ninh và bài trừ phản động.
Họ không bao giờ nghĩ đến Cộng sản Đệ tam đang ở trong bóng tối chực cướp công cuộc kêu gọi đoàn kết, thành lập Mặt trận Quốc gia Thống nhứt của cánh Quốc gia. Cho nên sau lời kêu gọi Thống nhứt của ông Hồ Văn Ngà, tức thì tất cả các đảng phái chính trị, tôn giáo nhất tề đứng dậy.
Việt Nam Quốc gia Độc lập đảng, Thanh niên Tiền phong, Nhóm trí thức, Liên đoàn Công chức, Tịnh độ Cư sĩ, Phật giáo Hòa hảo, Cao Đài giáo v.v…
Đồng thời nhóm Đệ tứ, thường gọi là nhóm Tranh đấu, cũng xin gia nhập Mặt trận.
Một bản tuyên ngôn đăng tải trên các báo Thủ đô.
Đồng bào rất có cảm tình với các đảng chính trị, nên nhiệt liệt hoan nghinh Mặt trận Quốc gia Thống nhứt. Thấy phong trào đang lên cao, Mặt trận liền đứng ra tổ chức một cuộc biểu tình để biểu dương lực lượng quốc gia.
Thế là ngày 21 tháng 8, hai trăm ngàn người gồm đủ các giới nghe theo lời kêu gọi của Mặt trận, tham gia cuộc biểu tình và tuần hành qua các đường lớn.
Như vậy, đến giờ phút nầy, nào thấy có mặt Cộng sản ?
Mà có mặt Cộng sản, chưa chắc có cuộc biểu tình trong vòng trật tự như vậy.
Nếu ngay bây giờ, mà có người lãnh đạo Mặt trận thì chánh quyền đã về Mặt trận Quốc gia Thống nhứt rồi.
Hồ Văn Ngà… lại viết trên mặt báo rằng :
"…Người Việt Nam nào đảm đương được và có hy vọng thành công, chúng tôi sẵn lòng tán trợ…
"Nghĩa là lúc nào chúng tôi cũng vẫn đặt nền độc lập quốc gia lên trên vấn đề quyền tước…" (4).
Cũng về cuộc họp ngày 14 tháng 8, Nguyễn Kỳ Nam cho biết thêm là trong những ngày đầu, tại trụ sở của Mặt trận ở đường Léon Combes, sau này là đường Alexandre de Rhodes, mỗi đêm đều có nhóm họp và có người nói đến Việt Minh. Nhưng Việt Minh là ai ? Ở đâu ? Chẳng một ai biết.
Đại biểu các đảng phái đề nghị nên tìm Đại biểu Việt Minh đặng mời gia nhập Mặt trận.
Phan Văn Hùm (nhóm Tranh đấu) tình nguyện lãnh sứ mạng đi liên lạc với Việt Minh.
Huỳnh Phú Sổ thản nhiên cuời và nói một cách nửa chơi nửa thiệt :
- …thì Việt Minh có đâu đây, chớ cần gì phải kiếm ?
Té ra có Trần Văn Giàu, đứng trong hàng ngũ Đảng Quốc gia độc lập mà không ai ngờ Giàu là Đại biểu Việt Minh ở Nam bộ.
Và mọi người đều biết rõ dĩ vãng của Trần Văn Giàu.
Hồi 1943, Trần Văn Giàu có đến nhờ anh em cho gia nhập và nhờ can thiệp với nhà đương cuộc Nhựt, bảo đảm cho Giàu để anh ta dễ bề hoạt động.
Lúc đó, Giàu bị nhà chức trách truy nã, nên phải bỏ Bà Rịa trốn vào Sài Gòn.
Anh em trong Việt Nam Quốc gia độc lập đảng không thể nhận điều kiện của Giàu mặc dầu Giàu đã cam kết trên giấy trắng mực đen rằng : "Tôi bỏ hàng ngũ Cộng sản về với Quốc gia", Giàu ký tên hẳn hòi trên lời cam kết đó.
3. Lâm ủy Hành chánh xuất hiện
Nhờ len lỏi được vào Mặt trận Quốc gia Thống nhứt để trở thành "một cán bộ được trọng dụng và đắc dụng" (5) như trên, Trần Văn Giàu đã hiểu rõ được nhược điểm không có người lãnh đạo của Mặt trận Quốc gia Thống nhứt này và lợi dụng cơ hội khi thời cơ đến. Hậu quả là ngày 25 tháng 8, Lâm ủy Hành chánh "tự mình ra mắt đồng bào với Trần Văn Giàu đứng đầu sổ, làm Chủ tịch gồm 9 người, phần đông đều là cán bộ cộng sản" (6).
Theo Nguyễn Kỳ Nam, tất cả xảy ra trong vài ngày sau cuộc biểu tình 21 tháng 8, bắt đầu bằng sự kiện hàng triệu truyền đơn do Việt Minh tung ra, tự xưng là bạn với Nga, với Tàu, với Mỹ, và với Anh… và :
"Ngủ qua một đêm, sáng ngày đồng bào Thủ đô thức dậy lấy làm ngạc nhiên thấy khắp trên đường treo đầu biểu ngữ : "Chánh quyền về Việt Minh".
Không một ai hiểu gì ráo !
Chính các lãnh tụ tham gia trong Mặt trận Quốc gia Thống nhứt cũng ngẩn ngơ…
Họ hỏi với nhau :
- Việt Minh là ai ?
- Ai cho Việt Minh nắm chánh quyền, mà bảo rằng : chánh quyền về Việt Minh ?
Đang lúc bối rối và phân vân ấy, nhiều truyền đơn khác tung ra : Kêu gọi đồng bào tham gia cuộc biểu tình ngày 28 tháng 8… dưới ký tên Việt Minh.
Mặt trận Quốc gia Thống nhứt liền triệu tập Đại hội.
Thì ra thiếu mặt "Thanh niên Tiền phong".
Mà Thanh niên Tiền phong là một lực lượng đáng kể được cảm tình nồng hậu nhất của dân chúng.
Không dự Đại hội của Mặt trận Quốc gia Thống nhứt, Thanh niên Tiền phong còn dán yết thị, treo biểu ngữ, rải truyền đơn xác nhận, kể từ chiều ngày 22 tháng 8 : "Thanh niên Tiền phong gia nhập Mặt trận Việt Minh".
Bây giờ các lãnh tụ quốc gia mới hiểu ý nghĩa của lá cờ vàng sao đỏ… để sau đổi thành cờ đỏ ngôi sao vàng. Và Phạm Ngọc Thạch, lãnh tụ Thanh niên Tiền phong lại là cán bộ cộng sản.
Thế là, bên cánh Quốc gia mất đi nửa lực lượng.
Uy tín của Mặt trận Quốc gia Thống nhứt bị tổn thương vì Việt Minh.
Nói đến "Thanh niên Tiền phong", người nhớ kẻ không.
Còn bạn trẻ, thì hầu hết, chỉ nghe nói lại thôi.
Phong trào Thanh niên Tiền phong quả thật là một phong trào quốc gia có một lực lượng hùng hậu, một tinh thần dũng cảm, một hy sinh đáng kể, một chủ trương tân tiến được đồng bào trong Nam triệt để ủng hộ ; vì Thanh niên Tiền phong sẵn sàng hiến thân cho Tổ quốc !
Thanh niên Tiền phong là một phong trào phổ biến sâu rộng trong dân chúng. Nó có một lịch sử vẻ vang mà tất cả mọi người phải công nhận : đó là phong trào giải phóng dân tộc mạnh mẽ nhứt trong Nam" (7).
Có điều người lãnh đạo của tổ chức này, Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, là người của cộng sản Đệ Tam nằm vùng. Ông này đã lái Thanh niên Tiền phong đi theo hướng khác.
Nguyễn Long Thành Nam cũng ghi nhận sự bất ngờ của người dân Sài Gòn trước sự xuất hiện của Lâm ủy Hành chánh như sau :
"Sáng ngày 25/08/1945, nguời dân Sài Gòn mới thức dậy nhìn thấy một cây trụ lớn sơn màu đỏ chói đặt tại "Bồn Kèn" tức ngã tư đường Charner (Nguyễn Huệ sau này) và Bonard (Lê Lợi sau này) liệt kê danh sách cơ quan chánh quyền miền Nam với danh nghĩa Ủy ban Hành chánh Nam bộ Lâm thời gọi tắt là Lâm ủy Hành chánh.
Sự xuất hiện thật là đột ngột, báo chí không hề loan tin trước, dân chúng cũng không hề nghe đến một cuộc bầu cử hay chuẩn bị nào. Lại là một cây trụ sơn màu đỏ chói như màu máu, đập vào mắt mọi người qua lại. Đây cũng là một lối đánh úp, đánh du kích của Cộng sản, bất ngờ tạo ra một thay đổi đột ngột như cờ Việt Minh xuất hiện đột ngột tại cuộc biểu tình 17/08/1945 tại Hà Nội, và đặt dư luận cũng như các tổ chức đấu tranh trước một "đã rồi". Những người ngạc nhiên nhất là các chiến sĩ trong cơ quan lãnh đạo Mặt trận Quốc gia Thống nhứt. Họ không hề được tham khảo ý kiến về việc thành lập Lâm Ủy và thành phần của nó, mặc dầu mới vài ngày trước Mặt trận Quốc gia Thống nhứt do sự yêu cầu của Trần Văn Giàu, đã chấp nhận cho Giàu tham gia để có sự đoàn kết rộng rãi mà ứng phó hữu hiệu với thời cuộc.
Thành phần của Lâm ủy Hành chánh Nam bộ gồm có chín ủy viên mà hết bốn ủy viên là cộng sản, bốn ủy viên thân cộng, chỉ có một độc lập.
Trần Văn Giàu, chủ tịch kiêm Ủy trưởng Quân sự.
[…] Tất cả quyền hành đều tập trung vào tay Trần Văn Giàu, nghĩa là vào Độc tài Cộng sản Đệ Tam Quốc tế, chớ không phải là một Chính phủ Liên hiệp (không có một đại diện nào của Mặt trận Quốc gia Thống nhứt).
Các lãnh tụ Mặt trận Quốc gia Thống nhứt bất bình, nhưng đã quá trễ. Đảng Cộng sản đã đi trước một nước cờ quan yếu. Đồng thời Trần Văn Giàu hạ một đòn độc đâm vào sau lưng Mặt trận Quốc gia Thống nhứt : Phạm Ngọc Thạch, lãnh tụ Thanh niên Tiền phong, ra thông cáo tuyên bố rằng tổ chức Thanh niên Tiền phong đã rút khỏi Mặt trận Quốc gia Thống nhứt và từ nay gia nhập Mặt trận Việt Minh" (8).
Theo Nguyễn Trọng Xuất, trong bài "Một quyết định mang tính lịch sử" in trong Trần Văn Giàu dấu ấn trăm năm, Trần Văn Giàu và phe cộng sản đã bàn tính cướp chính quyền ngay từ giữa tháng 8, trong buổi họp tối ngày 15 tháng 8 của Ban Thường vụ Xứ ủy Nam Kỳ do Trần Văn Giàu triệu tập ngay sau khi được tin Nhật Bản đầu hàng, ở Chợ Đệm và lập kế hoạch nổi dậy vào đêm 17 hay 18, đồng thời thành lập Ủy ban Khởi nghĩa gồm 6 người với Trần Văn Giàu làm chủ tịch và Huỳnh Văn Tiểng làm ủy viên thường trực rồi đêm 16 họp Hội nghị Xứ ủy Nam Kỳ mở rộng để thông qua kế hoạch này. Cuộc họp không suông sẻ vì có hai nhóm đối nghịch nhau về quyết định nổi dậy hay không, khiến Trần Văn Giàu phải cho ngưng lại và đặt câu hỏi "Nếu Hà Nội khởi nghĩa thì trong Nam ta phải làm gì ?". Kết quả là Hội nghị mở rộng họp lại lần thứ hai vào sáng ngày 21 rồi đặc biệt lần thứ ba vào sáng ngày 23, sau khi Tân An thành công cướp được chính quyền một cách suông sẻ, không bị quân Nhật ngăn cản, kèm với tin Đại tá Cédile đã nhảy dù xuống Tây Ninh để cuối cùng đêm 24 quyết định sẽ biểu tình tuần hành vào sáng hôm sau 25 tháng 8, đồng thời thành lập Ủy ban Hành chánh Lâm thời, gọi tắt là Lâm ủy Hành chánh với Trần Văn Giàu làm Chủ tịch (9).
Cũng trong tác phẩm Trần Văn Giàu dấu ấn trăm năm, Tiến sĩ Sử học Phan Văn Hoàng trong bài "Cùng nhau xông pha lên đàng" cũng cho biết thêm nhiều chi tiết về các hoạt động của cộng sản dưới danh nghĩa Việt Minh và Thanh niên Tiền phong trong những ngày này. Chẳng hạn như trong buổi lễ truy điệu Nguyễn An Ninh ngày 20 tháng 8, do Thanh niên Tiền phong tổ chức, Tôn Đức Thắng, "một thanh niên cách mạng, một đảng viên của Nguyễn Ái Quốc, hiện bị 20 năm tù ngoài Côn Đảo" ngay lúc mở đầu đã được bầu làm chủ tịch danh dự và Phạm Ngọc Thạch là chủ tịch. "Diễn giả là Nguyễn Văn Tạo, một cán bộ cộng sản kỳ cựu".
Mặt khác, căn cứ vào báo Điện Tín, Tiến sĩ Phan Văn Hoàng cho biết thêm là lần đầu tiên người Nam Bộ được nghe tiếng hô "Vạn tuế Việt Minh" là sau buổi lễ truy điệu Nguyễn An Ninh đêm 20 tháng 8 tại rạp Nguyễn Văn Hảo. Đêm hôm sau, cũng tại rạp Nguyễn Văn Hảo, Liên đoàn Công chức tổ chức buổi diễn thuyết với Trần Văn Giàu là diễn giả. Trong buổi diễn thuyết này, Trần Văn Giàu đã đưa ra nhận định của Đảng cộng sản là "Không phải một mình Đảng đem lại sự độc lập cho Việt Nam [mà] cần phải có nhiều đồng bào, nhiều chánh đảng yêu nước tham dự" và "Xét như vậy, Đảng cộng sản mới kêu gọi tất cả các đảng yêu nước, tất cả dân chúng liên hiệp lại làm một Mặt trận để chống bọn đế quốc xâm lăng, để mưu đồ cuộc độc lập hoàn toàn cho nước nhà. Mặt trận ấy là Việt Nam độc lập đồng minh, tức Việt Minh…" bên cạnh nhiều hoạt động khác của Trần Văn Giàu (10).
Hồi ký của Nguyễn Kỳ Nam thì lại nói hoàn toàn khác. Theo Nguyễn Kỳ Nam :
"Nắm chánh quyền được 5 ngày, từ 25 tới 30 tháng 8, Lâm ủy Hành chánh Nam Bộ mở phiên nhóm Khoáng Đại hội Nghị, có đủ các Đảng phái Chánh Trị tham gia.
Buổi nhóm đó, có các ký giả.
Tôi không bao giờ quên những câu hỏi và những câu trả lời của Trần Văn Giàu.
Tôi cũng không bao giờ quên khi Trần Văn Giàu mặc áo sơ mi đứng lên, tay mặt đập mạnh vào khẩu súng lục nhỏ mang ở bên hông, để trả lời một câu hỏi của Trần Văn Thạch.
Nghe và thấy vậy, làm sao không sợ ?
Nhứt là người đứng lên trả lời đó là một cán bộ cao cấp của Đảng Cộng sản Đệ tam.
Không run, không sợ làm sao… khi mà sáng tinh sương ngày 25 tháng 8, từ nhà xuống toà báo, đi qua "Bồn kèn" trước Sạc Ne, tôi trong thấy một trụ lớn và vuông, bốn mặt sơn đỏ lòm, kẻ chữ vàng, danh sách những người được chọn vào Lâm ủy Hành chánh, đứng đầu là Trần Văn Giàu.
Buổi nhóm Khoáng đại Hội nghị hôm đó, Lâm ủy Hành chánh để lộ chân tướng "sát nhơn" rõ rệt.
Tôi nhớ 2 người chất vấn : Huỳnh Phú Sổ và Trần văn Thạch.
Huỳnh Phú Sổ - Phật giáo Hòa hảo - mà cũng là lãnh tụ đảng Việt Nam Vận động hội - tôi sẽ nói sau này.
Bây giờ, tôi xin nói trường hợp của Trần Văn Thạch – nhóm Đệ Tứ - trước.
Thạch chất vấn Giàu :
- Ai cử Lâm ủy Hành chánh Nam Bộ ?
Thạch chất vấn như vậy là phải, vì như trên đã nói, ngủ một đêm sáng ngày bừng mắt dậy, bỗng dưng thấy danh sách Lâm ủy Hành chánh, kẻ chữ trên một trụ đỏ lòm, không biết ai cử Lâm ủy Hành chánh ? Và cử hồi nào ?
Trần Văn Giàu đứng dậy trả lời :
- Anh Thạch, tôi biết anh muốn nói gì rồi. Anh hỏi : "Ai cử Ủy ban Hành chánh", chớ thật ra trong bụng anh nghĩ : Ta giỏi như vầy mà không ai đem ta vào Lâm Ủy". Vậy tôi xin trả lời : "Chúng tôi tạm thời đảm đương chính phủ. Trong giai đoạn này. Sau rồi, chúng tôi giao lại các anh. Còn trả lời về chánh trị, tôi sẽ gặp anh ở một nơi khác".
Trần Văn Giàu vừa nói câu sau vừa để tay mặt nơi cây súng sáu" (11).
Viết về Trần Văn Giàu và biến cố Việt Minh cướp chính quyền ở miền Nam, phía những người cộng sản, kể cả các nhà nghiên cứu hay sử học đã dùng các từ ngữ vô cùng hoa mỹ như "tinh thần sáng tạo", "chủ động", "bản lĩnh, trí tuệ" để ca ngợi (12). Nguyễn Văn Trấn, một lãnh đạo cộng sản cao cấp đương thời, quê ở Chợ Đệm là nơi Xứ ủy Nam Kỳ họp ba đêm liền, 21, 22 và 23 tháng 8, để sửa soạn cho ngày cướp chính quyền 24 tháng 8, người sau này được cử làm Giám đốc rồi Ủy trưởng Quốc gia Tự vệ cuộc và cũng tự nhận là "Người tổ chức cướp chính quyền ở Sài Gòn", đồng thời được mệnh danh là "Hung thần Chợ Đệm", lại cho biết những chi tiết khác hơn khi ông viết kể lại chuyện này vào năm 1995, tức nửa thế kỷ sau, "để cho rõ vài chuyện lịch sử bị kể méo", theo lời ông, như sau :
"Cái năm 1945 năm mà cái chủ nghĩa háo danh nó làm kỷ niệm rập rình, bắt tôi, trái với lòng hết sức, nhưng vì nợ nuớc phải rập theo.
Rập theo khoe không phải vì công khanh mà để cho rõ vài chuyện lịch sử bị kể méo.
Người tổ chức cướp chánh quyền ngày 25 tháng Tám, ở Sài Gòn là chính tôi đây, chớ tôi không có ai ở trên đầu để tôi làm phó. Sử gia hãy nghe tôi nói lại.
Một buổi chiều (nhớ chắc là ngày 24 chớ không thể là vào ngày khác được, tại nhà số 6 Colombert tôi thay mặt cho Cộng sản, họp với Huỳnh Văn Tiểng mà tôi gọi là người "lãnh đạo Thanh niên Tiền phong của Tân dân chủ đảng", với Trương Văn Giàu, Nguyễn Văn Quang, ông Đội Hưng ở Caserne Lelièvre, (gần bên thơ viện), Sơn Xuyên và Chín Bội của Brigade mobile Chí Hòa. Mấy vị lính này là bạn của tôi qua công tác binh vận mà trách bương bả.
Hôm đó tôi nói kế hoạch và phân công. Và cũng muốn làm oai chơi nên đề nghị các đoàn thanh niên của anh em dân chủ chịu trách nhiệm những chỗ quan trọng mà cuộc khởi nghĩa nào của thành phố cũng đền nghĩ tới trước nhứt. Những chỗ đó là : Nhà đèn, Đài phát thanh, Khám lớn, Nhà dây thép, các trại lính.
Đằng anh em kêu, nhiệm vụ như vậy nặng quá, làm không nổi, cho lãnh những chỗ vừa vừa.
Tôi nói vừa vừa là dinh Thống đốc, là đài phát thanh… ?
Có người nào đó nói : hai chỗ đó, lính Nhựt còn cả tiểu đội chớ vừa gì ?
Tôi nói :
Thật ra như mùa lúa chín, ta rung nó rụng thôi. Mà thế lực của ta là : Ở cơ quan, công sở nào cũng có Thanh niên Tiền phong hai màu cờ. Hôm qua cờ vàng hoan hô Khâm sai đại thần. Ngày mai cờ vàng, cờ đỏ sánh đôi hô Việt minh vạn tuế.
[…] Trên chóp nón là chính tôi, chin Bôi và Kiều Tấn Lập.
Và Nguyễn Văn Trấn kết luận :
"Thấy hôn ! Tôi không ăn có với kỷ niệm tưng bừng mà "xin cho tôi can", đừng nói quá lắm về tài giỏi mà như ông bà ta biểu, "nói năng phải phân phân, cây đa cậy thần, thần cậy cây đa".
Cách mạng tháng Tám ở Sài Gòn mà thắng lợi là cũng nhờ có cơ hội, điều kiện giúp cho nó mà thôi.
Coi, tôi là người tổ chức cướp chính quyền mà thiệt ra tôi có làm được gì nhiều đâu" (13).
Điều cần phải tìm hiểu là trong hồi ký của ông, Nguyễn Văn Trấn đã không hề nói tới ba cuộc họp vô cùng gay cấn để quyết định có nên khởi nghĩa hay không của Thường vụ Xứ ủy ở Chợ Đệm, quê hương ông. Câu hỏi được đặt ra là tại sao ? Xin để các độc giả tự tìm câu trả lời.
Riêng về thế lực của phía quốc gia, Nguyễn Văn Trấn viết :
Cơ sở giai cấp, nền tảng Mặt trận Quốc gia Thống nhứt của chánh quyền khâm sai Nguyễn Văn Sâm, có đó và không phải yếu.
Ông ta nè, hội đồng Bền chủ hãng xà bông Việt Nam nè, Kha Vạng Cân chủ lò đúc "Cân et Vang" nè (xin nói chừng ấy với tánh chất đại biểu trí thức tư sản) ;
Trần Văn Ân, đốc phủ Hoài là trí thức địa chủ và quan lại ;
Vậy mà ít ai dám ngồi lại với Khâm Sai. Họ sợ tiếng collabo (14) với phát xít, mà đồng minh sẽ đối xử là tội phạm chiến tranh.
Cho nên một tiếng hét "đả đảo", ngày 25/8 đủ cho ông Sâm nhào. Ghế bỏ trống. Ta leo lên và dựng "Ủy ban hành chánh Nam Bộ (chớ có đâu mà Ủy ban Nhân dân vô duyên) (15).
Có điều ngay trang sau, Nguyễn Văn Trấn lại viết :
"Sự nghiệp của tôi đã cho phép tôi báo cáo với Ủy ban hành chánh rằng : sự thắng lợi quá dễ dàng và chóng quánh của Việt Minh đã làm cho những đảng phái ngoài vòng cảm tình đã có ý muốn cướp lại nhưng họ đã thôi. Tôi coi cái nguyện vọng ấy, của họ như cái trứng chí lép.
Xin đọc kỹ ba chữ "muốn cướp lại" và các chữ "tội phạm chiến tranh" ở đây và đối chiếu với những gì kể lại bởi phía các người quốc gia về biến cố 25 tháng Tám này, đặc biệt là những lời chất vấn Trần Văn Giàu của Trần Văn Thạch thuộc Nhóm Đệ Tứ và Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ của Phật giáo Hòa hảo trên đây trong buổi họp khoáng đại ngày 30 tháng 8, cùng sự sợ hãi của những người tham dự khi thấy Trần Văn Giàu tay phải vỗ vào khẩu súng lục đeo bên sườn bên phải khi trả lời Trần Văn Thạch. Một nghi vấn khác cũng cần phải được đặt ra ở đây là có thật có biểu tình cướp các công sở ở Sài Gòn ngày 25 tháng 8 hay không, vì theo các nhân chứng như đã nói trên đây, thì ngủ một đêm, sáng ra "mới thức dậy nhìn thấy một cây trụ lớn sơn màu đỏ chói đặt tại "Bồn Kèn" tức ngã tư đường Charner (Nguyễn Huệ sau này) và Bonard (Lê Lợi sau này) liệt kê danh sách cơ quan chánh quyền miền Nam với danh nghĩa Ủy ban Hành chánh Nam bộ Lâm thời gọi tắt là Lâm ủy Hành chánh" ?
Cũng Nguyễn Văn Trấn, khi nói về chức xứ ủy Nam Kỳ của Trần Văn Giàu, có viết về một lớp học do Tạ bá Tòng, một sinh viên con nhà giàu quê Sóc Trăng được cha mẹ cho ra Hà Nội học và tham gia Thanh niên Cứu quốc của Lê Quang Đạo, khi về Sài Gòn tổ chức ở nhà Dược sĩ Trần Kim Quang ở Thị Nghè. Lớp học do "anh Sáu", tức Trần Văn Giàu phụ trách, quy tụ được gần bảy chục đoàn viên thanh niên dân chủ, và :
"Học trò mến thầy lại nghe lịch sử của thầy nữa nên suy tôn anh Sáu là bí thư xứ ủy Nam Kỳ, không biết cái xứ ủy ma nào" (16).
4. Có phải vì Nhật thua nên mới trả lại Nam Kỳ cho Chính phủ Trần Trọng Kim không ?
Nhằm phủ nhận thành tích của Trần Trọng Kim và nội các của ông, có người cho rằng sở dĩ người Nhật quyết định trả lại xứ Nam Kỳ cho Việt Nam là vì họ đã thua, trong đó có Nguyễn Văn Trấn. Nguyễn Văn Trấn căn cứ vào ngày dự trù long trọng làm lễ trả và thu nhận lại xứ này là ngày 14 tháng 8 tại Sài Gòn. Điều này (vì Nhật sắp thua) không đúng vi hai lẽ.
Lẽ thứ nhất ngày 14 tháng 8 là sau ngày 9 tháng 8, ngày quả bom nguyên tử thứ hai được thả xuống Nagasaki, sau quả bom thứ nhất được thả xuống Hiroshima ngày 6 tháng 8. Sau đó Nhật Bản mới đầu hàng. Trước đó không ai ngờ chuyện này có thể xảy ra sớm như vậy và dù sớm hay muộn, Nhật cũng phải thua nhưng còn có thể cầm cự được cả năm nữa.
Lẽ thứ hai là quyết định trả lại xứ Nam Kỳ cho Việt Nam đã được Thủ tướng Trần Trọng Kim và Tướng Tsuchihashi chấp thuận cả non một tháng trước đó, ở thời điểm không một ai có thể biết là Mỹ sẽ sử dụng bom nguyên tử, ngoại trừ Tổng thống Truman và các cộng sự viên thân tín nhất của ông. Không những thế nhu cầu giữ nguyên trạng, tránh mọi sư lộn xộn ở hậu phương để cho Quân Đội Nhật rảnh tay đối phó với quân Đồng Minh một khi quân Đồng Minh đổ bộ là một nhu cầu của người Nhật. Chính vì thế mà Tướng Tsuchihashi đã dùng dắng lúc đầu.
Cũng nên để ý là các cuộc điều đình đã được thực hiện từ trước khi Thủ tướng Trần Trọng Kim ra Bắc giữa Ngoại trưởng Trần Văn Chương và giới chức Nhật. Còn về phía Việt Nam, Hoàng đế Bảo Đại qua bản Tuyên chiếu, ngày 11 tháng 6 năm 1945, tức ngày 21 tháng 5 âm lịch, năm Bảo Đại thứ 20, ngày lễ Việt Nam Thống nhứt Đại Khánh, cho biết ông phải "hành động thận trọng và tuần tự", "sau khi "chính phủ phải dự bị cho xong công cuộc tổ chức việc cai trị các lãnh thổ (đã) được phục hồi và thực hành chủ quyền của chính phủ ta trên các lãnh thổ ấy (hai xứ Bắc và Trung Kỳ)". Lý do là vì trong suốt 80 năm trước đó Nam Kỳ là thuộc địa của người Pháp nên hoàn toàn không thuộc thẩm quyền cai trị của Triều Đình Huế, trái với Bắc và Trung Kỳ là các xứ bảo hộ. Chính vì vậy Nhà Vua đã "cảm ơn quan chức Nhật-bản đã tạm cai quản những lãnh thổ kia từ ngày mồng chín tháng ba dương lịch, và đã sẵn sàng chỉ đợi chính phủ tuân theo ý Trẫm, dự bị hoàn toàn, là sẽ trả lại quyền cai trị tất cả đất nước Việt-nam cho chính phủ Việt-nam" (17). Vấn đề như vậy không đơn giản như phía cộng sản nhận định và tuyên truyền.
5. Dân Miền Nam vẫn còn quý trọng Nhà Vua và tôn trọng vị Khâm sai của Triều đình.
Đây là một thực tại lịch sử khác ta cần phải để ý. Nó giúp ta hiểu rõ hơn những gì đã xảy ra ở miền Nam không riêng vào thời điểm 1945 mà luôn cả những năm cuối của thập niên 40 của thế kỷ 20. Ít nhất có ba sự kiện đã chứng minh thực tại này.
Thứ nhất : Lễ Hưng Quốc Khánh Niệm 11 tháng 6 năm 1945, ngày Vua Gia Long thống nhứt sơn hà, đã được long trọng cử hành tại Câu lạc bộ Thể thao Sài Gòn, rất đông người tham dự.
Thứ hai : Ngày 3 tháng 7 năm 1945, 38 sinh viên đại diện trường huấn luyện Thanh niên Tiền phong đã ra Huế và đã được Vua Bảo Đại tiếp kiến. Nguyễn Kỳ Nam lúc đó có mặt ở Huế với tư cách đặc ủy viên của Bộ Tư pháp của Luật sư Trịnh Đình Thảo đã kể lại buổi lễ như sau :
"Cuộc tiếp rước đơn giản mà trọng thể tại lầu Kiến Trung, nhà vua không tiếc lời ban khen nồng nhiệt và nhắc nhở trách vụ của thanh niên trong giai đoạn tranh giành độc lập, và kiến thiết quốc gia.
Do đề nghị của Chính phủ Trần Trọng Kim, vua Bảo Đại ban Sắc, chuần cho Phạm Ngọc Thạch sung chức Xứ trưởng thanh niên và đại diện Bộ trưởng thanh niên Phan Anh ở Nam Kỳ (18).
Thứ ba : Khâm sai Đại thần Nguyễn Văn Sâm, sau khi đã bị Việt Minh ngăn chặn, kể cả bị bắt, khi trên đường đầy gian nan, nguy hiểm, từ Huế vào Sài Gòn nhậm chức vào lúc tình hình đã có nhiều biến chuyển, vẫn được đồng bào Nam Kỳ long trọng đón tiếp.
6. Dân chúng đứng chật hai bên đường từ Đất Hộ (Dakao) về tới đường Lagrandière (Gia Long) dinh Thống đốc để đón mừng vị Khâm sai đầu tiên của triều đình sau tám mươi năm ngoại thuộc
Nguyễn Kỳ Nam, như đã nói ở trên, lúc đó là đặc ủy viên của Bộ Tư pháp của Bộ trưởng Trịnh Đình Thảo trong Chính phủ Trần Trọng Kim, là người tháp tùng Nguyễn Văn Sâm và, vì không tin người tài xế, đã lái xe cho ông này trong đoạn cuối của chuyến vô Sài Gòn nhậm chức, đã ghi lại sự đón tiếp nồng hậu mà vị Khâm Sai này nhận được khi qua khỏi Phan Thiết, tiến vào địa phận Nam Kỳ như sau :
Đường về Nam Bộ, xe Khâm sai qua khỏi ranh Phan Thiết là gặp những khải hoàn môn dựng trước công sở, đón tiếp nồng hậu.
Bây giờ, tôi mới biết mình còn sống.
Tôi ngừng xe lại. Mà xe ngừng ở giữa 2 bên mé rừng làm cho ông Nguyễn Văn Sâm ngạc nhiên.
- Sao anh không chờ tới chỗ đông người…
Tôi mở cái "cốp" xe Ford, lấy lá cờ quẻ ly, đem treo trước đầu xe. Diệp Ba mỉm cười.
- Họ đã xé lá cờ lúc tới Khánh Hòa, tại sao anh còn lá cờ nầy ?
- Tôi "phòng thủ" một lá cờ thứ hai từ lúc còn ở Huế. Từ đây về Sài Gòn sẽ gặp nhiều nơi đón tiếp. Dầu sao cũng là Khâm sai đại thần, phải treo cờ cho người ta biết chớ !
Ông Nguyễn Văn Sâm cười, một nụ cười đau khổ thế nào ! Diệp Ba vui miệng nói luôn :
- Hồi thời xưa, nhà vua đưa Khâm sai đại thần đi trấn nhậm một nơi nào, là tiền hô hậu ủng, hương án đặt hai bên đường, lính tráng oai nghiêm chớ đâu có một chiếc xe Ford trơ trọi như vầy… Lại còn bị nhốt vào khám nữa !
Diệp Ba nói dứt lời, xe tiến tới…một bàn hương án !
Tôi ngừng xe lại, Diệp Ba ngó ra trước nói :
- Cũng có hương án đó !
Đây là Xuyên Mộc. Ông chủ Quận ặc áo rộng đứng trước bàn hương án, với ban Hội tề và vài người lính.
Một giây pháo nổ lẹt đẹt xé tan không khí âm u của khu rừng im lặng, giữa quang cảnh gió mát, cây lá chận ánh sáng mặt trời.
Một quận nghèo nàn làm sao ấy !
Đây là "ải địa đầu" của Nam Bộ.
Dân tình thưa thớt, có mấy chú thợ rừng…Không ai chú ý đến ông Khâm sai Đại thần ! Hơn nữa, Nam Kỳ là thuộc địa, nó mới mang tên "Nam Bộ" đây và bây giờ mới có một Khâm sai đại thần sau tám mươi năm không liên lạc với Triều đình vua chúa.
Nguyễn văn Sâm xuống xe nói chuyện qua loa vì sợ mất thì giờ, đoạn vội vã trở lên xe đặng về Sài Gòn kịp 5 giờ chiều.
Tôi đếm tất cả là 18 người đứng chung quanh bàn hương án !
Ông tỉnh trưởng Phan thiết đánh điện tín về những tỉnh, những quận… mà Khâm sai sẽ trải qua, trên quốc lộ số 1, nên đâu đâu đều chuẩn bị cuộc tiếp rước. Xe chưa vào châu thành Biên hòa, lại gặp một chiêc xe trắc xông có cắm cờ đón giữa đường, ở một nơi vắng vẻ.
Tôi hỏi :
- Sao ? Ngừng hay chạy luôn. Kìa có người đưa tay ra ngoắc xe ngừng lại ; bây giờ liệu sao ?
Diệp Ba cũng còn lưỡng lự. Xe lại gần…
Tôi tốp bớt máy lại, rề rề… chờ.
- Sao ? Ngừng hay… chạy luôn.
Tôi hỏi chưa dứt câu, Diệp Ba vùng la lên :
- Anh Huỳnh Văn Phương mà làm tôi hết hồn… tưởng Việt Minh đón xe bắt ông Khâm sai nữa !
Ông Hỳnh Văn Phương lãnh chức Tổng giám đốc Công an lên trước ở đây, đón ông Nguyễn Văn Sâm đặng hỏi tin tức.
Mọi người đều xuống xe.
Huỳnh Văn Phương và Nguyễn Văn Sâm trao đổi tin tức.
- Tụi nó… dám tuyên truyền Bảo Đại thoái vị rồi.
Tụi nó… đây là Việt Minh.
Ông Huỳnh Văn Phương là chiến sĩ Đệ tứ nắm Công an trong tay, tự nhiên phải coi chừng Cộng sản Đệ tam, từ mọi hành động, từ một lời tuyên truyền.
Huỳnh Văn Phương lại hỏi riêng tôi :
- Anh có nghe Hội đồng Nội các tính thế nào không ? Và ông Đổng lý Văn phòng Bảo Đại có biết gì về Việt Minh không ?
Tôi không giấu một sự thật nào :
- Thủ tướng Trần Trọng Kim không thể lập Nội các nữa được, nên ở đó chờ giờ… Ông đã mướn nhà riêng ở bên kia cầu Trường tiền, đặng khi Việt Minh đến, ông sẽ giao luôn Thủ tướng Phủ ?
Ông Huỳnh Văn Phương coi bộ cương quyết lắm :
- Tôi có đủ tin tức biết rõ lực lượng Việt Minh. Họ không có khí giới gì ráo. Tôi đủ sức giữ Sài Gòn, không để Việt Minh cướp chánh quyền một khi Bảo Đại chưa thoái vị.
Ông Nguyễn Văn Sâm lúc nào cũng bình tĩnh và ôn hòa :
- Để về tới nơi rồi sẽ lo liệu. Ở Hà Nội, Phan Kế Toại chịu đựng không nổi nên đánh điện về Huế xin từ chức.
Huỳnh Văn Phương kể sơ qua những biến chuyển mấy ngày chót. Đoạn cùng nhau trực chỉ Sài Gòn.
Xe của Phương mang cờ Công an, chạy trước mở đường.
Tới Biên Hòa, Thanh niên Tiền phong sắp hàng tiếp rước Khâm sai rất long trọng.
Ông Khâm sai Đại thần đứng trước cờ vàng sao đỏ của Thanh niên Tiền phong, nghiêm chỉnh bằng cách đưa trước ngực… như một chiến sĩ bại trận… hàng cầu nghịch vậy !
Rồi Thủ Đức, Gia Định, Sài Gòn.
Dân chúng đứng chật hai bên đường từ Đất hộ (Dakao) về tới đường Lagrandière (Gia Long) dinh Thống đốc là nơi còn Minoda.
Xe Huỳnh Văn Phương ngừng ở Đất hộ để một mình ông Khâm sai vào Sài Gòn để cuộc tiếp rước không lầm lẫn được. Nhưng tôi quýnh trước số đông dân chúng một lúc một đông thêm. Tôi run : cầm tay chiếc Ford PI (Palais Impérial) mà lòng những hồi hộp làm sao ấy ! (19).
Xin để ý câu nhận định của Huỳnh Văn Phương về lực lượng võ trang của Việt Minh và sự tự tin của ông dựa trên những tin tức mà ông nhận được : "Tôi có đủ tin tức biết rõ lực lượng Việt Minh. Họ không có khí giới gì ráo. Tôi đủ sức giữ Sài Gòn, không để Việt Minh cướp chánh quyền một khi Bảo Đại chưa thoái vị" để đối chiếu với những gì xảy ra sau đó. Quan điểm này phần nào giống quan điểm của Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Đại học Hà Nội Phan Thanh Hòa, chống lại chủ trương ép nhà vua thoái vị nhường quyền cho Việt Minh. Không có lực lượng võ trang đáng kể, Việt Minh chỉ lợi dụng Thanh niên Tiền phong làm lực lượng xung kích qua sự lừa đảo tập thể những người trẻ chỉ biết yêu nước và phụng sự quốc gia của Miền Nam này của lãnh tụ gốc cộng sản Đệ Tam Phạm Ngọc Thạch và họ đã thành công, gìống hệt như ở Hà Nội, họ đã lợi dụng và cướp ngang cuộc biểu tình ngày 17 tháng Tám của Tổng Hội Công Chức.
Điểm khác biệt là ở miền Bắc cuộc chống đối tiếp theo là giữa Quốc gia và cộng sản, còn ở miền Nam có thêm nhóm Tranh đấu Đệ Tứ. Hậu quả là phe Đệ Tứ phần đông là trí thức du học ở Pháp về đã bị tàn sát một cách tàn khốc với các nhân vật danh tiếng như Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Dương Văn Giáo, Phan Văn Hùm, Hồ Văn Ngà, vợ chồng Bác sĩ Hồ Vĩnh Ký-Nguyễn Ngọc Sương…
Nên để ý là Bác sĩ Nguyễn Ngọc Sương là thủ lãnh Thanh niên Tiền phong, phía các phụ nữ. Đó là chưa kể tới 64 (?) người ở sông Lòng Sông và không rõ bao nhiêu người trong danh sách trên hai ngàn người của Trần Văn Giàu được nói tới trong hồi ký của Nguyễn Kỳ Nam, Trần Văn Ân và nhiều nhân vật khác khiến miền Nam mất đi một lực lượng trí thức ưu tú lớn lao, cần thiết để sau này tiếp tục tranh đấu cho nền độc lập, thống nhất và kiến thiết xứ sở.
Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu trong bài viết nhan đề "Những nhân chứng cuối cùng", đăng trên Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y năm 2010, đã viết về những sự kiện này như sau :
Trong đêm 23 tháng 9 năm 1945, ngày lịch sử mở màng cuộc Kháng chiến Cách mạng Mùa Thu ở Nam bộ, người bị giết đầu tiên, thây phơi trên đường Albert 1er (đường Đinh Tiên Hoàng) là ông Lê Văn Vững, bí thư vùng Sài Gòn-Chợ Lớn của nhóm Tranh Đấu và cũng là người phụ trách phát hành lại báo Tranh Đấu (20). Như vậy người Việt Nam đầu tiên đã bỏ mình trong cuộc Kháng chiến chống Pháp không do thực dân giết mà lại do Tự vệ Cuộc miền Nam thanh toán. Bà vợ của ông Vững đã tận tụy suốt đời nuôi con và mở một tiệm bán bánh mức trên đường Đinh Tiên Hoàng, gần góc đường Hiền Vương. Tiệm trương bảng màu vàng đề tên Lê Văn Vững chữ đỏ, để kỷ niệm người chồng vắn số.
Vài ngày sau 23 tháng 09, 1945 nhà giáo Nguyễn Thi Lợi phụ trách báo Tranh Đấu cũng bị thủ tiêu ở Cần Giuộc, Chợ Lớn. Cuộc khủng bố trắng, săn bắt, ám sát các nhân sĩ ái quốc có uy tín nhưng không thuộc Đảng Cộng sản từ đó đã xảy ra hằng ngày, bắt đầu từ Bùi Quang Chiêu đến Hồ Văn Ngà, Trần Quang Vinh, Luật sư Hồ Vĩnh Ký và vợ là Bác sĩ Nguyễn Thị Sương (nguyên Thủ lãnh Phụ Nữ Tiền Phong) v.v... Nhà viết báo và cách mạng danh tiếng trong thời kỳ "Đông dương Đại hội," Diệp Văn Kỳ, khi biết rõ ý đồ của Trần Văn Giàu, đã lánh mặt, mặc áo tu lên ở Tha La Xóm Đạo (Trảng Bàng) cũng bị bắt và sát hại trong đêm.
Một nhân tài có tiếng tăm khác bị thanh toán là Luật sư Dương Văn Giáo. Cái chết của ông Giáo có thể có liên can một phần nào đến cấp chỉ huy trực tiếp của ông Trấn, tức ông Trần Văn Giàu, Chủ tịch Ủy ban Hành chánh Nam bộ. Số là trước khi Nhật đảo chánh Pháp ngày 09 tháng 03 năm 1945, ông Trần Văn Giàu cũng như một số lớn các nhà cách mạng khác, đã bị Pháp cầm tù ở Trại Tà Lài (Bà Rá). Có thể vì nhu cầu chánh trị, để chống phá quân đội Nhật, giới cầm quyền Pháp ở Việt Nam đã nhận chỉ thị từ Pháp dàn cảnh để ông Trần Văn Giàu vượt ngục Tà Lài để ra ngoài hoạt động chống Nhật. Khi Nhật đảo chánh Pháp, trong các hồ sơ mật được giữ trong văn khố Sở Mật thám ở Catinat, văn kiện này được người Nhật tìm ra và ông Huỳnh Văn Phương là người được Chánh phủ Trần Trọng Kim cho phụ trách cơ sở bót Catinat đã có tài liệu về việc Trần Văn Giàu gặp gỡ với trùm mật thám Arnoux của Pháp. Trong một phiên họp của Mặt trận Quốc gia Thống nhứt ở nhà vợ chồng bác sĩ Hồ Vĩnh Ký, đường Phan Đình Phùng, ông Dương Văn Giáo lúc đó từ Thái Lan về, đã rút từ cập da ra tài liệu này cho các người hiện diện xem. Sau khi thảo luận, chính ông Giáo là người đề nghị không công bố tài liệu này để không làm mất uy tín ông Trần Văn Giàu để Mặt trận Việt Minh có thể lãnh đạo hữu hiệu việc chống Pháp lúc đó đang lâm le chiếm trở lại miền Nam. Quyết định sau cùng của buổi hội là giao cho Dương Văn Giáo đến gặp Trần Văn Giàu đặt vấn đề cải tổ Lâm ủy Hành chánh.
Khi Pháp, với sự thỏa thuận của quân đội Anh đang chiếm đóng, làm chủ được Sài Gòn nhưng còn bị bao vây trong thành phố, Dương Văn Giáo đã bị vu cáo là Việt gian và bị xử tử ở Cầu Bến Phân (Gia Định). Phần đông những người hiện diện trong buổi hội lịch sử kể trên như luật sư Hồ Vĩnh Ký và vợ là bà bác sĩ Nguyễn Thị Sương, Huỳnh Văn Phương, Hồ Văn Ngà, Huỳnh Phú Sổ, Lê Kim Tỵ... sau đó đã lần lượt bị giết chỉ trừ Vũ TamAnh (sau bị Mật vụ chế độ Ngô Đình Diệm giết) và Nguyễn Văn Hướng.
Những người đã bị thủ tiêu không những phần nhiều đã hoạt động chung quanh vùng Sài Gòn, Chợ Lớn mà còn cả nhiều người ở các tỉnh xa ở miền Nam. Danh sách những người này như đã được ghi nhận từ lâu, chỉ chờ có cơ hội là được đem ra thi hành. Ông Trịnh Hưng Ngẫu (người được giới tranh đấu ở Nam biết tiếng không phải chỉ vì ông đã chế biến cho các xe chuyên chở sử dụng lò đốt than gọi là gasogen để thay thế xăng khan hiếm vào thời đó, mà do thành tích ông đã đá vô mông một cò Pháp nhân một cuộc bảo vệ ông Bùi Quang Chiêu từ Bến Nhà Rồng, Khánh Hội về tới nhà ở Phú Nhuận) đã cho biết là trong một cuộc gặp gỡ Trần Văn Giàu ở Thái Lan, ông Giàu đã khoe là ông có danh sách hơn 200 người cần thủ tiêu nhưng chưa thi hành kịp (!).
Một số đông những người này đã bị Tự vệ Cuộc của ông Trấn bắt giam trước khi Lâm ủy Hành chánh của Trần Văn Giàu rút khỏi Sài Gòn đi về miệt Tân An. Ông Trấn đã có đề cập đến việc này trong sách của ông (Xem trang 136) với lời khen (!) "Pháp cho nhảy dù xuống Hội đồng Sâm để giải thoát cho tù nhân mà ta giam ở đó. Có cái tốt là tù nhân không chạy theo Tây". Tù nhân (!) được giao cho Phạm Hùng đem vào kinh Xáng và đi luôn xuống Cà Mau. Một số những người bị giam nầy đã thoát chết khi được ông Nguyễnnhân lúc Sư đoàn này rút lui về Hậu giang. Người may mắn trong trường hợp này là ông Ngô Văn đã kể lại chuyện trong quyển "Viet-Nam, 1920-1945, révolution et contre-révolution sous la domination coloniale" xuất bản ở Pháp.
Định mệnh đầy đau thương và cực kỳbi thảm của miền Nam khởi đầu từ những sự kiện này. Điều đáng tiếc căn bản làvì "mắc lừa bọn du côn" (21),Chính Phủ Trần Trọng Kim đã từ nhiệm và Vua Bảo Đại đã thoái vị quá sớm.
Phạm Cao Dương
(Giáo sư, Tiến sĩ Sử học)
------------------
(1) Hoàng Cơ Thụy, Việt Sử Khảo Luận, Cuốn 4, Từ Đế quốc Việt Nam đến trận Điện Biên Phủ. Paris ; Nam Á (Sudasie), 2002, tr. 1956.
(2) Nguyễn Long Thành Nam, Phật giáo Hòa hảo trong dòng Lịch sử dân tộc, Santa Fe Springs, Đuốc Từ Bi, 1981, tr. 308-309.
(3) như trên, tr. 343.
(4) Nguyễn Kỳ Nam, Hồi ký "1925-1964". Tập II, Sài Gòn, Nhật báo Dân Chủ Mới xuất bản, 1964, tr. 49-50.
(5) như trên, tr. 78.
(6) như trên, cùng trang.
(7) như trên, tr. 50-52.
(8) Nguyễn Long Thành Nam, Phật giáo Hòa hảo…, tr. 346-347.
(9) Nguyễn Trọng Xuất, "Một Quyết Định Mang Tính Lịch Sử", trong Trần Văn Giàu, dấu ấn lịch sử. Thành phố Hồ Chí Minh : Nhà xuất bản Trẻ, 2012, tr. 172-175.
(10) Phan Văn Hoàng, "Cùng Nhau Xông Pha Lên Đàng", trong Trần Văn Giàu, dấu ấn lịch sử, tr. 147- 176.
(11) Nguyễn Kỳ Nam, Hồi ký…, đã dẫn, tr. 27-28.
(12) Nguyễn Trọng Xuất, "Tự Vạch Lấy Con Đường Mà Đi", trong Trần Văn Giàu, dấu ấn lịch sử, đã dẫn, tr. 146.
(13) Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ và Quốc hội. California, USA : Văn Nghệ Xuất Bản, 1995, tr. 122 - 124.
(14) Trong sách in là "collabo" và chú thích là "cộng tác"
(15) Nguyễn Văn Trấn, như trên, tr. 125.
(16) như trên, tr. 117-118.
(17) "Tuyên Chiếu", trong Tri Tân tạp chí, số 1993, thứ Năm, 25 tháng Sáu 1945, tr. 382.
(18) Nguyễn Kỳ Nam, Hồi ký, tr. 71.
(19) Nguyễn Kỳ Nam, Hồi ký, tr. 43-47.
(20) Tờ báo của phe Đệ Tứ.
(21) Lời cựu Hoàng Bảo Đại nói với cựu Thủ tướng Trần Trọng Kim khi hai người gặp lại nhau lần đầu tiên vào năm 1946 và được Trần Trọng Kim ghi lại trong hồi ký của ông (Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi. Sài Gòn, Vinh Sơn, 1960, tr. 146).
Phạm Cao Dương là Giáo sư, Tiến sĩ Sử học của một số trường Đại học thời Việt Nam Cộng hòa trước 1975. Sau 1975, ông là Giáo sư chuyên về Văn hóa và Lịch sử Việt Nam tại một số Đại học Mỹ.
Sự thực về ngày 2 tháng 9, 1945
73 năm nhìn lại :
Hai bản Tuyên ngôn độc lập thay vì một
Lịch sử không thể chỉ được biết có một nửa
Phạm Cao Dương, 23/08/2018
Trong lịch sử tranh đấu giành độc lập của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ hai mươi, hai lần nước ta đã được các nhà cầm quyền đương thời chính thức tuyên bố độc lập.
Lần thứ nhất vào ngày 11 tháng 3 năm 1945 bởi Hoàng đế Bảo Đại và lần thứ hai vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 bởi Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Hồ Chí Minh.
Hai lần cả thảy, nhưng đa số người Việt chỉ biết hay chỉ được học có một lần. Họ chỉ biết hay chỉ được học bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 mà không biết hay không được học bản tuyên ngôn của Vua Bảo Đại ngày 11 tháng 3, 1945, ngót sáu tháng trước đó. Lịch sử do đó chỉ được biết có một nửa thay vì toàn vẹn.
Bài này nhằm bổ khuyết cho tình trạng thiếu sót đó, đồng thời phân tích nội dung và ý nghĩa của từng bản.
Buổi họp mặt tay ba giữa Hoàng thân Lào Xuphanuvong, Chủ tịch Hồ Chí Minh và cựu Hoàng đế Bảo Đại (Vĩnh Thụy) tại Hà Nội sau ngày 2/9/1945
Bài này được trích đăng một phần từ tác phẩm Trước khi bão lụt tràn tới : Bảo Đại-Trần Trọng Kim và Đế quốc Việt Nam, 9/3/1945-30/8/1945 của tác giả, do Nhà xuất bản Amazon in và phát hành, thể theo lời yêu cầu của một số quý vị độc giả, vì lý do này hay lý do khác, không có cuốn sách này trong tay, muốn biết rõ hơn và đầy đủ hơn về hai bản tuyên ngôn quan trọng này, liên hệ tới định mạng và lịch sử đầy đau thương, máu xương và nước mắt của dân tộc Việt Nam.
I. Tuyên ngôn của Hoàng đế Bảo Đại
1. Hoàn cảnh được công bố
Bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoàng đế Bảo Đại được công bố ngày 11 tháng 3 năm 1945, hai ngày sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương và sau một thời gian dài hơn bốn năm, từ cuối tháng 9 năm 1940, sau khi quân Nhật vào phần đất này của Đông Nam Á, gần năm tháng trước khi Nhật Bản đầu hàng và Thế chiến thứ hai kết thúc.
Trong thời gian này Việt Nam bị sống dưới sự cai trị của cả người Pháp, từ sau khi Hòa ước 1884 được ký kết, lẫn người Nhật, từ ngày 22 tháng 9 năm 1940, với một hậu quả khủng khiếp là Trận đói tháng Ba năm Ất Dậu. Hoàn cảnh này đã làm cho không chỉ riêng những người cộng sản, vốn chủ trương đánh đổ chế độ quân chủ để "cướp chính quyền" (chữ của chính người cộng sản) để từ đó thực thi cách mạng vô sản, mà luôn cả những người không những không có cảm tình với chế độ quân chủ đương thời và còn chủ trương lật đổ chế độ này để thay thế bằng một chế độ dân chủ, không nhìn nhận giá trị đích thực của bản tuyên ngôn này.
Lý do là vì Bảo Đại luôn luôn bị coi như một ông vua bù nhìn, trước kia trong tay người Pháp và lúc đó trong tay người Nhật. Theo họ trước kia người Pháp bảo sao, ông làm vậy và sau đảo chính 9 tháng 3 năm 1945, người Nhật bảo ông tuyên bố độc lập thì ông tuyên bố độc lập, thế thôi. Người ta chỉ hiểu hay được học đơn giản như vậy. Nền độc lập mà Bảo Đại tuyên bố theo họ chỉ là do người Nhật ban cho và bản tuyên ngôn của ông chẳng có một giá trị gì trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của người Việt. Thực chất của nó chỉ là "sự tuyên bố công khai việc thay thầy đổi chủ của triều đình Bảo Đại" (1) không hơn không kém.
Sự thực không đơn giản như vậy. Người Nhật có lý do làm đảo chính lật đổ người Pháp và Bảo Đại có lý do phải chấp nhận yêu cầu của người Nhật tuyên bố Việt Nam độc lập. Lý do của Bảo Đại đã được ông giải thích khi tiếp kiến Trần Trọng Kim và cố gắng thuyết phục ông này chấp nhận làm thủ tướng đầu tiên của chính phủ Nam Triều độc lập. Nguyên văn câu nói của Bảo Đại được Trần Trọng Kim kể lại như sau :
"Trước kia nước Pháp giữ quyền bảo hộ nước ta, nay đã không giữ được nước cho ta, để quân Nhật đánh đổ, vậy những điều trong hiệp ước năm 1884 không có hiệu quả nữa, nên Bộ thượng thư đã tuyên hủy hiệp ước ấy. Trẫm phải đứng vai chủ trương việc nước và lập chính phủ để đối phó mọi việc" (2).
Người ta cần phải nhớ là hơn mười năm trước đó, sau khi du học từ Pháp về tới Huế được hai ngày, ngày tháng 10 tháng 9 năm 1932, Bảo Đại đã ra Dụ số 1 tuyên bố chấp chính và khẳng định chế độ quân chủ của Nam Triều hủy bỏ Quy ước 6 tháng 11 năm 1925 do Hội đồng Phụ Chính, đứng đầu là Tôn Thất Hân, ký với Toàn quyền Đông Dương thời ông còn nhỏ tuổi và đang du học bên Pháp, tước bỏ hầu hết các quyền hành còn lại của nhà vua trừ các quyền có tính cách nghi lễ, ân xá, sắc phong, tế lễ... kèm theo nhiều dụ khác nhằm thực hiện những cải cách qui mô trong nền hành chánh của chính phủ Nam Triều, nhưng đã bị người Pháp ngăn cản và bị thất bại.
Đảo chính 9 tháng 3 năm 1945 và lời yêu cầu tuyên bố độc lập của người Nhật dù gì đi chăng nữa cũng là điều vị hoàng đế còn trẻ tuổi này từ lâu mong đợi.
Ngoài ra theo nhận định và giải thích nhằm thúc đẩy Trần Trọng Kim "chịu khó" lập chính phủ mới. Ông nói :
"Trước kia người mình chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn, nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có chính phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc nước" (3).
Hai tiếng "cơ hội" Bảo Đại dùng ở đây cho ta thấy ông từ lâu mong có dịp này. Đồng thời ông cũng hiểu rằng nền độc lập mà ông tuyên cáo chưa phải độc lập hẳn. Chưa hết, tuyên bố rồi ông còn có nhu cầu phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lậpvà nhất là để tránh không cho người Nhật "lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta". Một sự e ngại chỉ có những người có kiến thức về lịch sử và chính trị học mới biết được.
Ngoài ra những tiếng "rất có hại cho nước ta" cũng cho người ta thấy đối tượng của hành động tuyên cáo độc lập của ông không phải là ngôi vua mà là đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam, đất nước của ông và thần dân của ông. Cái nhìn và quan điểm này cũng như sự hiểu biết của ông về tình hình thế giới và thế tất bại của người Nhật về sau đã được ông nói rõ trong hồi ký của ông. Riêng đối với người Nhật, ông đã không tin tưởng ở họ cũng như chiêu bài Đại Đông Á của họ.
Nói cách khác Bảo Đại ở vị thế phải chấp nhận nhập cuộc dù ông hiểu rõ sự phức tạp của vấn đề. Phần khác như ông cũng nói tới trong hồi ký của ông : "Độc lập là ước mơ của tất cả mọi người Việt Nam thời đó".
2. Nội dung bản Tuyên ngôn
Đây là một bản văn tương đối ngắn so với những bản văn cùng loại, nhằm ba mục tiêu chính yếu là hủy bỏ một hòa ước Triều đình Huế trước kia đã ký với nước Pháp, tuyên bố Việt Nam độc lập, đứng vào khối Đại Đông Á trong chương trình phát triển chung, đồng thời bày tỏ sự tin tưởng vào "lòng thành" của nước Nhật với nguyên văn như sau :
"Cứ tình hình chung trong thiên hạ, tình thế riêng cõi Đông Á, chính phủ Việt Nam tuyên bố từ ngày này điều ước bảo hộ với nước Pháp bãi bỏ và nước Nam khôi phục quyền độc lập.
Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập và theo như lời tuyên ngôn chung của Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vượng chung.
Vậy Chính Phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc, quyết chí hợp tác với nước Nhật, đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên" (4).
Bản Tuyên Bố được đề ngày 11 tháng Ba năm 1945, tức ngày 27 tháng Giêng năm Bảo Đại thứ 20, được Bảo Đại ký tên với sáu thượng thư phó thự. Sáu vị thượng thư gồm có : Phạm Quỳnh, bộ Lại, Hồ Đắc Khải, bộ Hộ, Ưng Úy, bộ Lễ, Bùi Bằng Đoàn, bộ Hình, Trần Thanh Đạt, bộ Học, và Trương Như Định, bộ Công. Theo Bảo Đại đây là lần đầu tiên trong lịch sử một văn kiện được ký bởi nhà vua và tất cả các nhân vật quan trọng nhất trong triều đình (5).
Đọc bản Tuyên ngôn Độc lập này của Bảo Đại, người ta cần chú ý tới những chi tiết sau đây :
Thứ nhất : Gọi là tuyên ngôn nhưng thực sự đây chỉ là một văn kiện hủy bỏ một điều ước đã được ký kết trước đó vì do tình hình biến chuyển, một trong hai phía đã không tôn trọng được những gì mình đã ký kết hay không thực thi được những gì mình đã ký kết trong một sinh hoạt quốc tế.
Điều ước bị hủy bỏ ở đây là Hòa ước Giáp Thân được ký kết giữa Triều đình Huế và người Pháp ngày 6 tháng 6 năm 1884, đặc biệt hai điều khoản của hòa ước này là điều khoản thứ nhất, theo đó Việt Nam công nhận và chấp nhận Quyền Bảo Hộ của nước Pháp và điều khoản thứ mười lăm, theo đó nước Pháp cam kết bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ của các xứ do vua Việt Nam cai trị và bảo vệ nhà vua chống lại những sự xâm nhập từ bên ngoài và những cuộc nổi loạn từ bên trong (6).
Sự hủy bỏ này phải được hiểu là do người Pháp bất lực không bảo vệ được Việt Nam trước sự bành trướng của quân đội Nhật và cuối cùng là chính người Pháp đã bị người Nhật lật đổ trong cuộc Đảo chính ngày 9 tháng 3 năm 1945.
Sự hủy bỏ này cũng có tính cách đơn phương từ phía Bảo Đại với tư cách là người kế vị chính thống của Triều Đình Nhà Nguyễn căn cứ vào những gì đã xảy ra vào thời điểm này.
Điểm cần được lưu ý ở đây là từ ngữ hòa ước trong văn kiện này được dùng theo số ít, trong tiếng Việt, không có chữ "các" hay "những" đi kèm và trong tiếng Pháp không có chữ "s" theo sau để biểu lộ số nhiều. Điều này có nghĩa là bản tuyên cáo này chỉ hủy bỏ hòa ước bảo hộ, tức Hòa ước Giáp Thân 1884 mà thôi thay vì hủy bỏ tất cả các hòa ước đã được ký kết trước đó. Đó là các Hòa ước Nhâm Tuất 1862 và Hòa ước Giáp Tuất 1874 liên hệ tới xứ Nam Kỳ theo đó xứ này đã bị nhường đứt cho người Pháp và trở thành thuộc địa của họ, không còn thuộc quyền cai trị của Vua và Triều Đình Huế nữa.
Vấn đề thâu hồi xứ Nam Kỳ do đó chưa được giải quyết ngay nhưng đã trở thành mối bận tâm và một phần hành quan trọng của chính Bảo Đại ngay từ buổi nhà vua tiếp kiến Đại sứ Nhật Yokoyama và của Chính phủ Trần Trọng Kim trong gần suốt thời gian chính phủ này tồn tại. Xứ Nam Kỳ chỉ được người Nhật trao trả trong những ngày cuối của chính phủ này và chỉ chính thức trở về với lãnh thổ quốc gia Việt Nam ngót năm năm sau, vào giữa tháng 6 năm 1949, và do Bảo Đại với tư cách Quốc trưởng tiếp nhận từ tay người Pháp. Đây cũng là một sự kiện ít người biết đến.
Thứ hai : "Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập... giúp cho cuộc thịnh vượng chung". Câu này xác định phương thức hoạt động nhằm thực hiện tư cách độc lập (tự phát triển như một quốc gia độc lập không phụ thuộc vào nước ngoài, mà ta phải hiểu ngầm là trong đó có cả Nhật Bản, cho xứng đáng một quốc gia độc lập) và thế đứng của Việt Nam trên trường quốc tế (tự coi mình là một phần tử của Khối Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vượng chung).
Nên để ý tới khẩu hiệu "Châu Á của người Á" do người Nhật đưa ra trong thời gian này, một khẩu hiệu hàm chứa sự độc lập của các nước Á Châu lúc đó còn là thuộc địa của các đế quốc Âu Châu. Đây cũng là một cách nói trước một cách khéo léo để ngăn chặn trước sự can thiệp vào nội tình Việt Nam của người Nhật.
Thứ ba : "Chính phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc...". Câu này nhằm buộc chặt lời hứa của người Nhật bằng cách nhấn mạnh vào sự trung thành với những gì họ đã nói, với quan niệm trung thành như một truyền thống chung của các dân tộc Á Đông.
Thứ tư : "Quyết chí hợp tác với nước Nhật đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên". Mục đích như trên là mục đích gì ? Phải hiểu mục đích này bao gồm hai phần là "tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập" và "giúp cho cuộc thịnh vượng chung"như là một phần tử của khối Đại Đông Á chứ không phải cho Đế Quốc Nhật Bản.
Thứ năm : Vì bản tuyên ngôn của Hoàng đế Bảo Đại được ban hành vào lúc Việt Nam "chưa phải độc lập hẳn" theo Vua Bảo Đại, nên có tác giả cho rằng nó"không thể coi là có giá trị pháp lý quốc tế gì" (7).
Nhận định này cần phải được xét lại nếu ngưòi ta nghĩ tới trường hợp của Bản tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ. Bản tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ được công bố ngày 4 tháng 7 năm 1776. Lúc đó Hoa Kỳ chưa độc lập chút nào, chứ chưa nói là chưa độc lập hẳn. Chính quyền thuộc địa của người Anh và quân đội Anh vẫn còn đó. Dân chúng 13 thuộc địa của xứ này còn phải chiến đấu thêm hơn bảy năm nữa, mãi đến năm 1783 Thỏa ước Paris mới được ký kết, bảy năm, xin nhắc lại (từ ngày 4 tháng 7 năm 1776 đến ngày 3 tháng 9 năm 1783, sau Chiến thắng Yorktown) và Hoa Kỳ mới được người Anh công nhận là một quốc gia độc lập thực sự.
Còn nếu so sánh tình trạng độc lập của Việt Nam vào lúc Hoàng đế Bảo Đại công bố bản tuyên ngôn của ông, với tình trạng độc lập của Việt Nam vào ngày 2 tháng 9, 1945, lúc Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, mọi chuyện vẫn y nguyên, người Pháp vẫn chưa công nhận mà phải đợi đến ngày 8 tháng 3 năm 1949 với Hiệp định Élysée, hay muộn hơn nữa, với Hiệp định 4 tháng 6 năm 1954.
Có điều một bản tuyên ngôn hay một lời tuyên bố chỉ là một bản tuyên ngôn, một lời tuyên bố mà thôi. Nó chỉ là để người viết hay người nói ra nó bày tỏ quan điểm, chủ trương và ý chí của mình. Nó hoàn toàn chủ quan. Còn giá trị của nó tới đâu là tùy ở nội dung của nó và luận cứ của các đương sự dưới nhãn quan của người đọc.
Luận cứ của Vua Bảo Đại là vì người Pháp bất lực không bảo vệ được Việt Nam trước sức bành trướng của người Nhật hồi đầu thập niên 40 của thế kỷ trước, theo đúng như Hòa ước Bảo hộ, 6 tháng 6 năm 1884, quy định, nên hòa ước này bị kể như đã không được người Pháp thi hành, do đó không còn hiệu lực nữa và đương nhiên bị hủy bỏ. Luận cứ này đã được các nhà ngoại giao, luật học hay sử gia dùng, để cho rằng chế độ bảo hộ của người Pháp ở Bắc Kỳ và ở Trung Kỳ đã chấm dứt ngay từ ngày 22 tháng 9 năm 1940, chứ không phải đợi đến mãi ngày 9 tháng 3 năm 1945 hay sau này. Xứ Nam Kỳ là một ngoại lệ, không bị chi phối bởi những sự kiện này.
Thứ sáu : Nội dung của bản tuyên ngôn của Vua Bảo Đại không hề chứa đựng lời lẽ lên án, mạt sát hay thù hận người Pháp hay tuyệt giao với nước Pháp, từ đó một cánh cửa được để mở cho các cuộc gặp gỡ ngoại giao để điều đình về sau này, từ đó hai dân tộc ó thể trở thành bạn và hợp tác với nhau về lâu, về dài.
Nói cách khác và tóm tắt lại, đây là một bản văn tuy ngắn ngủi, cô đọng nhưng rất quan trọng vì nó vừa mang tính cách pháp lý, có liên hệ tới nhiều văn kiện ngoại giao khác đã được hình thành trước đó, vừa biểu lộ chủ trương của một quốc gia được trao trả độc lập trong một hoàn cảnh không nhận không được, vô cùng tế nhị và phức tạp, vào lúc tình hình thế giới biến chuyển quá nhanh và hoàn toàn bất lợi cho quân đội và quốc gia đảm nhận sự trao trả nền độc lập này. Mỗi điều nói ra, mỗi chữ được viết đều đòi hỏi người soạn thảo phải vô cùng thận trọng và ước tính kỹ càng.
3. Ai là tác giả của bản tuyên ngôn này ?
Người được nói đến nhiều nhất là Phạm Quỳnh, lúc đó đang giữ chức thượng thư bộ lại. Điều này có nhiều phần đúng nếu người ta để ý tới khả năng nghị luận và viết văn, viết báo kèm theo sự hiểu biết và kinh nghiệm của một học giả, một người làm báo, và sau đó là một ngự tiền văn phòng tổng lý của nhà vua cũng như thượng thư bộ lại lúc đó. Nó cũng được Phạm Khắc Hòe, đương thời là ngự tiền văn phòng đổng lý của Vua Bảo Đại, trong hồi ký của ông này xác nhận (8).
Tuy nhiên theo Nguyễn Kỳ Nam, trong hồi ký của nhà báo này, thì trong một cuộc tình cờ gặp Phạm Quỳnh trên cầu Trường Tiền Huế và được hỏi về bản tuyên này, Phạm Quỳnh đã bác bỏ và cho biết bản văn này là do Đại sứ Yokoyama đưa cho ông ngày 11 tháng 3 yêu cầu các vị thượng thư ký tên (9).
Chuyện này có thể đúng và có thể sai, nhưng sai thì hợp lý hơn vì vào lúc được Nguyễn Kỳ Nam hỏi, Phạm Quỳnh không còn giữ chức vụ gì nữa nên phủ nhận những gì thuộc quá khứ liên hệ tới mình ; ngoài ra nếu sự thực là như vậy, Phạm Khắc Hoè có thể cũng biết và nói ra, trong khi những gì viên Đổng lý văn phòng này kể lại có vẻ đủ chi tiết hợp lý hơn, kể cả chuyện hai thượng thư Hồ Đắc Khải và Trương Như Đính khen "Cụ Lại giỏi thật !".
Phạm Khắc Hoè ghi là sau khi Phạm Quỳnh trình bày lý do của buổi họp của Cơ Mật Viện :
"Bảo Đại hỏi ai có ý kiến gì không ? Thì mọi người đều hoan nghênh việc tuyên bố độc lập và Bùi Bằng Đoàn nói thêm là trong bản tuyên bố cần nói rõ việc xóa bỏ các hiệp ước đã ký kết với Pháp. Phạm Quỳnh mỉm cười và nói ông ta đã không quên việc đó, rồi với vẻ mặt hớn hở tự đắc, ông ta thò tay vào túi áo rút ra hai tờ giấy và nói tiếp : "Tâu Hoàng đế ! để cho gọn việc, chúng tôi đã trộm phép dự thảo một bản tuyên bố, xin Hoàng đế cho phép tuyên đọc". Phạm Quỳnh trịnh trọng đọc bản quốc văn rồi bản dịch Hán văn. Bản dự thảo có ba ý kiến chính : Một là tuyên bố Việt Nam độc lập ; hai là xóa bỏ các hiệp ước đã ký với Pháp ; ba là Chính phủ Việt Nam độc lập sẽ hợp tác thân thiện với Chính phủ Đại Nhật Bản để cùng nhau xây dựng khối thịnh vượng chung Đại Đông Á.
Phạm Quỳnh đọc xong, Hồ Đắc Khải và Trương Như Đính tấm tắc khen "Cụ Lại giỏi thật !". Còn không ai có ý kiến gì thêm bớt cả. Bảo Đại bảo Phạm Quỳnh đưa bản thảo cho tôi làm mọi việc cần thiết để trong mười lăm phút có văn bản đưa vào ký (10).
Điều đáng tiếc là cho tới nay người ta không rõ những bản văn chính này nằm ở đâu, còn hay đã mất ?
II. Bản Tuyên ngôn của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Hồ Chí Minh
1. Hoàn cảnh được công bố
Bản tuyên ngôn này đã được Hồ Chí Minh một mình soạn thảo, một mình đứng tên và đọc tại Quảng trường Ba Đình ở Hà Nội vào buổi chiều ngày 2 tháng Chín năm 1945, tức ngót sáu tháng sau bản tuyên ngôn của Bảo Đại, hơn hai tuần lễ sau khi Nhật Bản đầu hàng, mười ba ngày sau khi Việt Minh cướp được chính quyền ở Hà Nội và hai ngày sau khi Bảo Đại chính thức thoái vị.
Sau này nó đã được chính quyền cộng sản chính thức phổ biến như tác phẩm mà ông là tác giả. Điển hình là cuốn Tuyên ngôn Độc lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, do Nhà xuất bản Sự Thật ấn hành năm 1976, với lời giới thiệu của Phạm Văn Đồng và lời chú dẫn của nhà xuất bản, có ghi rõ là "do Hồ Chủ tịch thảo ra và đọc trước cuộc mít-tinh của hơn 50 vạn đồng bàotại Quảng trường Ba-đình (Hà Nội)".
Trong Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 36 (11), dày 923 trang, dành riêng cho Hồ Chí Minh, và Hồ Chí Minh Écrits (1920-1969) (12) cũng đều in bản tuyên ngôn này như tác phẩm riêng của Hồ Chí Minh.
Vì được công bố sau bản tuyên ngôn của Bảo Đại, sau khi người Nhật đã đầu hàng cũng như chế độ bảo hộ của người Pháp đã bị người Nhật lật đổ trước đó, bản tuyên ngôn này đã bị nhiều người cho là thừa, không cần thiết, chưa kể tới sự kiện là chính phủ mới do Hồ Chí Minh thành lập là kế vị chính phủ Nam Triều do Bảo Đại thoái vị nhường cho, dựa theo chiếu thoái vị của Bảo Đại.
Chiếu này đã được chính Hồ Chí Minh và chính phủ mới của ông chấp nhận với những điều kiện đã được Hoàng đế Bảo Đại liệt kê rõ ràng. Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong những điều kiện này đương nhiên kế tục những gì Hoàng đế Bảo Đại và Chính phủ Trần Trọng Kim đã làm trước đó, trong đó có bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 11 tháng 3 năm 1945. Lập luận như vậy là hoàn toàn hợp lý đứng trên phương diện công pháp quốc tế. Một lập luận đơn giản và hoàn toàn dễ hiểu.
Câu hỏi được đặt ra là Hồ Chí Minh, và những cộng sự viên của ông, khi đưa ra bản tuyên ngôn của ông tại Quảng trường Ba Đình có biết là trước đó Bảo Đại đã làm công việc này rồi hay không ? và biết như vậy tại sao ông lại còn làm lại việc đó một lần nữa ?
Cho câu hỏi thứ nhất, câu trả lời là chắc chắn có. Hồ Chí Minh chắc chắn phải biết là Bảo Đại trước đó đã tuyên cáo hủy bỏ hòa ước bảo hộ 1884 rồi, nhưng ông vẫn làm lại công việc này vì ông có nhu cầu phải làm. Những nhu cầu đó là những nhu cầu gì ?
Thứ nhất là vì từ lâu toàn dân ai nấy đều khao khát được thấy nước nhà độc lập, đúng như Bảo Đại đã viết trong hồi ký của ông, độc lập là ước mơ của mọi người dân Việt (13), cũng như nó được phản ảnh ở khắp nước ngay trước và sau ngày 2 tháng 9 năm 1945. Nói tới độc lập vào lúc đó là gõ đúng tần số của bất cứ một người dân Việt Nam nào, từ đó qui công lao và đem lại thanh thế cho người chính thức công bố ra điều đó.
Thứ hai là cho tới ngày 2 tháng 9 năm 1945, cái tên Hồ Chí Minh hoàn toàn xa lạ ở trong nước cũng như ở ngoài nước. Võ Nguyên Giáp, một trong những cộng sự viên thân cận nhất và có uy thế nhất của Hồ Chí Minh trong thời gian này, đã viết trong hồi ký của mình rằng :
"Ba tiếng Hồ Chí Minh không bao lâu đã vang đi khắp thế giới với những truyền thuyết mà người ta thường dành cho các bậc vĩ nhân. Nhưng vào ngày hôm ấy, cái tên mới của Bác vẫn còn mới lạ với nhiều đồng bào. Số người biết Bác chính là đồng chí Nguyễn Ái Quốc khi đó không nhiều" (14).
Ngay vua Bảo Đại ngày 23 tháng 8 năm 1945, khi nhận được điện tín của của các ông Nguyễn Xiển, Nguyễn Văn Huyên, Ngụy Như Kontum và Hồ Hữu Tường - nhân danh Ủy ban Nhân dân Cách mạng, yêu cầu nhà vua thoái vị nhường quyền lãnh đạo quốc gia cho Chính phủ Nhân dân Cách mạng với chủ tịch là "Cụ Hồ Chí Minh" - đã không biết Hồ Chí Minh là ai.
Còn Phạm Khắc Hòe, người được Việt Minh gài vào cạnh nhà vua cũng không biết nốt, phải chạy đi hỏi Tôn Quang Phiệt, một đảng viên cộng sản, rồi Đào Duy Anh, nhưng Tôn Quang Phiệt đi vắng và Đào Duy Anh lục lọi, truy tìm các tài liệu, sách vở ông có nhưng cũng không ra tên này. Cuối cùng Vũ Văn Hiền, ở Bắc về mới xác nhận Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc (15).
Tuyên bố Việt Nam độc lập đối với Hồ Chí Minh vào thời điểm này là cách tự giới thiệu mình tốt nhất và hữu hiệu nhất với toàn thể đồng bào, và để được nhìn và được chấp nhận như là lãnh tụ đầu tiên đã mang lại được độc lập cho tổ quốc và cho toàn dân Việt Nam. Đây là một nhu cầu tối cần thiết, dầu rằng nền độc lập này hoàn toàn không phải do ông hay do Mặt Trận Việt Minh tạo ra mà là do những biến cố khác của lịch sử, trong đó quan trọng nhất là cuộc Đảo Chính ngày 9 tháng 3 năm 1945, qua đó người Nhật đã loại bỏ người Pháp, kèm theo là bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoàng đế Bảo Đại nói trên, và cuối cùng là sự bại trận sau đó của người Nhật.
Chúng ta cũng cần để ý là đối với đa số người Việt Nam thời đó, ngày 2 tháng 9 là Ngày Độc Lập, đúng như Nguyễn Hữu Đang, người được Hồ Chí Minh chỉ định tổ chức ngày này, gọi, qua các văn thư chính thức ông đã gửi cho các cơ quan liên hệ, trong đó có thư gửi cho Thị trưởng Hà Nội (16) và theo bìa in bản tuyên ngôn, bản đầu tiên năm 1945, do Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Hồ Chí Minh đọc trong Ngày Độc Lập (17).
Nhưng đối với Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 còn có một ý nghĩa quan trọng hơn nữa. Đó là "ngày khép lại cuộc Cách mạng tháng Tám, và khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa", theo lời ông nói với Nguyễn Hữu Đang, "Chú phải nhớ..." (18). Tại sao vậy ?
Tại vì Hồ Chí Minh phải làm chuyện này trước khi quân Đồng Minh kéo vô Việt Nam, đặc biệt là thủ đô Hà Nội, nhằm đặt họ trước một sự đã rồi, không thể đảo ngược đươc. Sự kiện vua Bảo Đại thoái vị được nhắc tới và câu "Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp" là nhằm vào mục tiêu này.
Một lý do khác cũng được người ta nhắc tới là cho mãi đến ngày 2 tháng 9 năm 1945 nền độc lập của Việt Nam vẫn chưa có gì gọi là hoàn toàn, chưa được quốc tế chính thức công nhận hay nếu cộng nhận là qua Vua Bảo Đại, người lãnh đạo hợp pháp chứ không phải với Hồ Chí Minh, một nhân vật vô danh, hoàn toàn xa lạ, nhất là đối với người Pháp. Vấn đề tuy nhiên còn cần phải được xét lại.
Cuối cùng thì những lý do liên hệ tới nhu cầu của cá nhân Hồ Chí Minh và Việt Minh cộng sản vẫn là chính.
2. Nguyên văn bản Tuyên Ngôn
Hỡi đồng bào cả nước,
"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng, Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được ; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói :
"Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi".
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
Thế mà hơn tám mươi năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.
Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu.
Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.
Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều.
Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.
Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cầy và dân buôn, trở nên bần cùng.
Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.
Mùa thu năm 1940, phát-xít Nhật đến xâm lăng Đông-dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích : Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khi giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp hoặc bỏ chạy hoặc đầu hàng. Thế mà chẳng những chúng không "bảo hộ" được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.
Trước ngày 9 tháng 3 biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng, lại thẳng tay khủng bố Việt Minh nữa.
Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.
Tuy vậy, đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua bên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp chạy ra khỏi nhà giam Nhật, và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ.
Sự thật là từ đầu mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải là thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Sự thật thì dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.
Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa.
Bởi thế cho nên, chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ hết mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.
Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp.
Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Tê-hê-răng và Cựu-kim-sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.
Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do ! Dân tộc đó phải được độc lập !
Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng :
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững tự do, độc lập ấy.
(Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1976)
3. Phân tích nội dung
Bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh, vì được phổ biến rộng rãi và hầu như được coi là duy nhất gắn liền với ngày 2 tháng 9, ngày Quốc khánh của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, rồi Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nên đã được nhiều người đọc, phân tích và tìm hiểu. Trong phần này người viết chỉ nêu lên những gì ít được mọi người nhắc đến hay để ý đến mà thôi.
Trong khi Tuyên cáo của Hoàng đế Bảo Đại đơn giản chỉ là một bản văn thuần túy pháp lý nhằm hủy bỏ hòa ước bảo hộ mà triều đình Huế đã ký trước đó, căn cứ vào sự bất lực của người Pháp, vì người Pháp đã không giữ được cam kết ghi trong điều khoản thứ nhất và điều khoản thứ mười lăm của hòa ước này, mà không nhằm vào một đối tượng quần chúng hay quốc tế nào, thì bản Tuyên ngôn của Hồ Chí Minh nhằm vào toàn thể người Việt qua lời mở đầu "Hỡi đồng bào cả nước…".
Tuy nhiên ở những đoạn cuối Hồ Chí Minhlại nhắm vào các nước Đồng minh. Điều này phải tinh ý người ta mới nhận ra được. Về tư cách, Bảo Đại nhân danh Hoàng đế Việt Nam, người đứng đầu của một quốc gia độc lập đã tồn tại từ trước khi người Pháp xâm lăng và là người kế thừa chính thống của các vua chúa Nhà Nguyễn, thì Hồ Chí Minh đã nhân danh "Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới". Mới là vì đến ngày đó chính phủ này mới chính thức được ra mắt trước quốc dân.
Lời văn do đó phản ảnh hai tư cách của bản chất của hai con người khác nhau. Một người là hoàng đế kế thừa chính thống của một triều đại đã trị vì một quốc gia từ hơn non bốn trăm năm trước, dù cho là chỉ còn hư vị ; người kia là lãnh tụ của một phong trào cách mạng vừa chủ trương chống Pháp, vừa chủ trương chống Nhật và lật đổ chế độ quân chủ để giành chính quyền. Văn phong trong bản tuyên ngôn của Bảo Đại là văn phong bình thường của người cầm quyền ; còn văn phong của Hồ Chí Minh mang tính cách kêu gọi và ở một mức độ nào đó có tính cách bình dân, kể lể dài dòng và nhất là xách động.
Mở đầu cho bản tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đã trích dẫn một số câu trong phần đầu của Bản Tuyên ngôn Độc lập của người Mỹ và một câu trong bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách Mạng Pháp. Sự trích dẫn này, vào lúc mà sự hiểu biết của quần chúng Việt Nam còn thấp kém, đặc biệt là về lịch sử Hoa Kỳ và thế giới, chắc chắn không nhằm vào quần chúng người Việt mà nhằm vào người Mỹ và người Pháp.
Lý do là Hồ Chí Minh như là một đảng viên cộng sản quốc tế chắc chắn đã hiểu hơn ai hết là người Mỹ vào thời điểm này đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong chính tình ở Á Châu, trong đó có Việt Nam. Được nguời Mỹ công nhận là coi như làm chủ được chính quyền. Hiểu được như vậy, ngay từ khi còn ở chiến khu Hồ Chí Minh đã tìm cách tiếp xúc và cộng tác với người Mỹ của cơ quan OSS từ hồi còn ở chiến khu, và đã yêu cầu họ cung cấp cho ông một bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ, đồng thời nói về lịch sử nước Mỹ như là một cách để chinh phục cảm tình của họ.
Đó chính là lý do tại sao ngày 29 tháng 8 năm 1945, hai ngày trước khi Hồ Chí Minh tuyên đọc bản Tuyên ngôn Độc lập của ông, lúc 10 giờ 30 sáng, ông đã cho xe tới chở Archemedes L. A. Patti, trưởng nhóm tình báo OSS mới tới Hà Nội không lâu tới gặp ông. Mục đích của cuộc gặp mặt, theo Hồ Chí Minh không phải là để bàn về chuyện người Tàu mà là để nói về những gì ông đã làm vài ngày trước đó (buổi họp ngày 27/8 về Chính phủ Lâm thời) và ít ngày sau đó (ngày 2 tháng 9 đã được chọn là Ngày Độc Lập, Hồ Chí Minh sẽ tuyên bố Việt Nam độc lập và giới thiệu thành phần chính phủ lâm thời) với Patti như là người đầu tiên được biết. Quan trọng hơn hết ở đây là Hồ Chí Minh đã cho Patti coi bản nháp của bản Tuyên ngôn Độc lập của ông bằng tiếng Việt mà Pattti không đọc được và chỉ hiểu sơ sơ qua lời một thông ngôn… (19).
Vì chỉ nhằm mục tiêu lôi cuốn sự chú ý và cảm tình của người Mỹ, Hồ Chí Minh đã không đi xa hơn nữa và rất có thể ông cũng không hiểu rõ hơn hay cố tình không hiểu sự khác biệt trong quá trình giành độc lập của mười ba thuộc địa của người Mỹ vào cuối thế kỷ XVIII và của nước Việt Nam thời năm 1945.Vì vậy ông đã áp dụng quan điểm của người Mỹ về quyền bình đẳng, quyền được sống tự do và mưu cầu hạnh phúc của mọi-người-như-là-những-cá-nhân riêng lẻ theo đúng như tinh thần của bản Tuyên ngôn Độc lập của người Mỹ vào trường hợp chung của cả nước Việt Nam-như-một-quốc-gia đòi quyền độc lập một cách gượng ép hay ít ra là suy luận theo quan điểm chủ quan của ông với dụng ý riêng của ông. Cũng vậy với những gì ông trích dẫn từ bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách Mạng Pháp.
Phần kế tiếp, Hồ Chí Minh lên án người Pháp và người Nhật, đồng thời ông kể công cho Việt Minh : "Trước ngày mồng 9 tháng 3, đã bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật...", sau đó "đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ" và kết luận rằng "Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp". Điều này như người viết đã nói ở trên là không đúng sự thật.
Sự thật là Chính Phủ Bảo Đại - Trần Trọng Kim đã lấy lại được toàn thể nước Việt Nam từ Bắc chí Nam, bao gồm luôn cả xứ Nam Kỳ từ trong tay người Nhật, trước khi người Nhật đầu hàng và Việt Minh đã cướp chính quyền từ trong tay của chính phủ Bảo Đại - Trần Trọng Kim trong những ngày 17 và 19 tháng 8 năm 1945 sau đó, sau khi Nhật đã đầu hàng, nói cách khác sau ngày 15 tháng 8 năm 1945. Lý do là vì Việt Minh "đã có đường riêng của họ rồi", nói theo Phan Anh, Bộ trưởng Thanh niên trong Chính phủ Trần Trọng Kim và sau này là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong Chính phủ Liên hiệp của Hồ Chí Minh (20). Trong những đoạn này Hồ Chí Minh đã dùng các từ ngữ ta hay "dân ta" hay "đất nước ta", nhưng mục đích không nhằm vào người Việt Nam mà vào người Pháp.Ông đã kể công với người Pháp, giữ một cánh cửa mở, phòng ngừa họ trở lại.
Phần cuối cùng của bản văn, từ "Bởi thế cho nên..." cho đến hết, lời văn cho người ta thấy Hồ Chí Minh không hướng về người Việt mà về cả thế giới. Trong phần này ông xưng là "chúng tôi, Lâm thời Chính phủ, đại biểu cho toàn dân Việt Nam" để tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, kêu gọi các nước Đồng minh công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam... Phần này Hồ Chí Minh thay vì nói về quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mọi-người-như-những-cá-nhân do Tạo hóa ban cho, những quyền phải hiểu là tự nhiên ai cũng có, đã nói về quyền hưởng tự do và độc lập. Đây là một lập luận có tính cách cưỡng ép, hoàn toàn không đúng với tinh thần của bản Tuyên ngôn Độc lập của người Mỹ và nhất là của bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp mà danh xưng của nó đã nói lên một cách rõ ràng : Nhân quyền và Dân quyền, không thể hiểu sai được.
Độc lập của một dân tộc không phải luôn luôn đồng nghĩa với tự do, dân quyền và nhân quyền của mỗi một cá nhân người dân như một thành phần của dân tộc ấy. Không những thế, thay vì coi những quyền này là do Tạo hóa ban cho, Hồ Chí Minh lại lý luận là vì dân tộc Việt Nam là "Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do ! Dân tộc ấy phải được độc lập !". Lý luận như vậy người ta phải hiểu, theo Hồ Chí Minh, rằng những dân tộc không gan góc chống lại những thế lực đè nén, áp bức mình và không gan góc đứng về phe Đồng Minh, chống phát-xít là không đáng được tự do, độc lập.
Cũng vậy, với các quyền độc lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc của con người như là những cá nhân trong xã hội. Chính vì vậy Luật sư Trần Thanh Hiệp, khi được Đài Á Châu Tự Do phỏng vấn ngày 2 tháng 9 năm 2007, đã có lý khi ông gọi bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh này là "một bản tuyên ngôn phi nhân quyền" (21) dù cho là nó đã được chính tác giả của nó trích và soạn thảo theo tinh thần của bản Tuyên ngôn Độc lập của người Mỹ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của người Pháp. Nhưng dù nói thế này hay thế khác sự kiện này đã phản ảnh chủ trương giai đoạn của những người cộng sản Việt Nam mà Hồ Chí Minh ở đây là một trường hợp điển hình.
Về thời gian soạn thảo, nhiều người cho rằng Hồ Chí Minh chỉ có ít ngày sau khi ông từ chiến khu của Việt Minh về Hà Nội, trong khi ông còn phải bận rộn với nhiều vấn đề cấp bách khác. Điều này không đúng vì trước đó từ lâu, như đã nói ở trên, khi tiếp xúc với một sĩ quan người Mỹ, ông nhờ người này kiếm cho ông một bản tuyên ngônđộc lập của người Mỹ rồi (22).
Nói cách khác, Hồ Chí Minh đã nghĩ tới và đã thai nghén bản tuyên ngôn của ông từ lâu chứ không phải chỉ ít ngày trước ngày 2 tháng 9 năm 1945. Do đó những gì ông nói tới, những từ ngữ ông dùng đều được cân nhắc kỹ càng và đều có dụng ý riêng với những mục tiêu riêng mà chỉ sau này phải phân tích kỹ, đối chiếu kỹ và có thể sau này khi mọi việc liên hệ đã xảy ra rồi, người ta mới có thể hiểu được.
Điều đáng tiếc là khi thực thi những gì ông đã trích dẫn và đề cao trong bản tuyên ngôn của ông, Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông và sau này những người nối nghiệp ông trong Đảng cộng sản Việt Nam chỉ thực thi những gì ông đã suy rộng ra theo lối suy luận loại suy (độc lập của dân tộc) mà làm ngược lại những gì đích thực về nhân quyền và quyền tự do mưu cầu hạnh phúc của từng cá nhân con người, theo đúng nguyên bản của bản Tuyên ngôn Độc lập của người Mỹ cũng như bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của ngưòi Pháp.
Nói cách khác, Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông trong đó có Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, cũng như hậu duệ của các ông, thay vì đi theo con đường tự do, dân chủ của các nhà lãnh đạo của cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ, trong đó có Washington, Jefferson, dựa theo đúng tinh thần của bản Tuyên ngôn Độc lập của họ mà các ông đã trích dẫn phần mở đầu, đã theo con đường của Lê-nin, Xít-ta-lin và Mao Trạch Đông.
Hậu quả là 67 năm sau, bà Hillary Clinton, Ngoại trưởng Hoa Kỳ, đã phải công khai nhắc người đồng nhiệm của bà ở Việt Nam và luôn cả các ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng chính phủ và Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam.
Người ta không hiểu là khi làm công việc nhắc nhở này, bà Clinton có biết rằng 67 năm trước Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập của ông với phần trích dẫn về nhân quyền từ bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ hay không ? Người viết tin là có. Cũng vậy với Đại sứ David Shear khi ông này tới thăm Bác sĩ Nguyễn Đan Quế và Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ ở Sài Gòn.
Nhưng dù có hay không, khi trích dẫn những tài liệu này, Hồ Chí Minh và từ đó Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã mắc một món nợ tinh thần với cả hai dân tộc Mỹ và Pháp và nhân ngày 2 tháng 9 năm 2018 này, những ai quan tâm đến vấn đề nhân quyền và dân quyền ở Việt Nam hiện tại, nhất là người Mỹ và người Pháp, nên nhắc nhở những người đang nắm vai trò lãnh đạo ở quốc gia này phải tôn trọng và thực thi những gì Hồ Chí Minh, người đã khai sáng nên chế độ của họ cần phải "thật thà" như ông thường khuyên mọi người, đặc biệt là các "cháu ngoan" của ông, coi như một giá trị đạo đức, coi trọng những lý tưởng mà người sáng lập ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã viện dẫn từ hai bàn Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp, coi như một hình thức trả nợ mà bình thường mọi người đều phải làm, nếu không muốn mang tiếng là lừa đảo.
Về điểm này, tuy nhiên, người ta cũng cần phải dè dặt vì bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 sau đó đã bị sửa lại nhiều lần cũng giống như bức thư gửi Hồ Chí Minh gửi cho các học sinh nhân lễ khai trường đầu tiên khi nước Việt Nam mới được độc lập cùng năm mà người viết bài này đã phải học thuộc lòng, cho đến giờ này hãy còn nhớ từng chữ.
Người ta không biết những chi tiết nào đã bị sửa nhưng theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thành từ Hà Nội, trong bài viết nhan đề "Trong Lịch sử nước ta đã có hai hay ba bản Tuyên ngôn Độc lập" đăng trong Nghiên cứu Lịch sử, số 1 (278), (I- II), 1995, "lại có nhiều dị bản, sai nhau đến 22 từ, được sửa đi sửa lại nhiều lần từ sau ngày 2/9/1945 đến năm 1973 thì thật không thể hiểu nổi" (23).
1945 – 2018. Bảy mươi ba năm đã trôi qua. Đã đến lúc người ta phải trả lại lịch sử những gì gọi là sự thực của nó khi tìm hiểu hai bản tuyên ngôn này, đồng thời trả tất cả những món nợ mà vì bất cứ lý do gì những người đi trước đã mắc phải, nhất là nợ chính đồng bào mình.
Một điều khác vô cùng quan trọng độc giả cũng nên để ý khi tìm hiểu hai bản tuyên ngôn này là mục tiêu tối hậu của những người cộng sản không phải là độc lập cho quốc gia, đất nước và dân tộc Việt Nam mà là cách mạng quốc tế vô sản và xã hội chủ nghĩa theo quan niệm riêng của họ, như người ta đã thấy ngay từ những năm đầu của thập niên 1950 với sự thúc đẩy của Nga Xô và Trung Cộng. Tranh đấu cho nền độc lập của quốc gia chỉ là một chiêu bài, một phương tiện họ dùng để đạt mục tiêu tối hậu này. Những gì Hồ Chí Minh nói trong bản tuyên ngôn của ông do đó chỉ nhằm mục tiêu xách động quần chúng nhất thời, sau đó không còn được chính ông và hậu duệ của ông tôn trọng, chưa nói là làm ngược lại, trong đó có những gì ông nặng nề lên án người Pháp.
Phạm Cao Dương
Khởi sự viết năm 2012, sửa lại mùa Khai trường năm 2018
Chú thích :
(1) Dương Trung Quốc. Việt Nam : Những Sự Kiện Lịch Sử (1919-1945). Hà Nội : Nhà xuất bản Giáo Dục, 2002, tr. 288.
(2) Lệ Thần Trần Trọng Kim. Một Cơn Gió Bụi (Kiến Văn Lục). Sài Gòn : Nhà xuất bản Vinh Sơn, 1969, tr. 49.
(3) nt, tr. 51.
(4) Dương Trung Quốc. Việt Nam, đã dẫn, tr.388 ; Nguyễn Vỹ. Tuấn, Chàng trai nước Việt (Chứng tích thời đại từ 1900 đến 1970), Quyển II. Sài Gòn, 1970. Fort Smith, AR tái bản tại Hoa Kỳ, tr. 512. S. M. Bao Dai. Le Dragon d’Annam. Paris : Plon, 1990. tr. 104 ; Bảo Đại, Con Rồng Việt Nam, Hồi Ký Chánh Trị 1913-1997. Los Alamitos, CA : Nguyễn Phước Tộc xuất bản, 1990, tr. 162 ; Cameron, Alan W. Vietnam Crisis. A Documentary History, Vol. I, 1940-1956. Ithaca, NY : Cornell University Press, 1971. tr. 31-32 ; Hai bản tiếng Việt in trong tác phẩm của Dương Trung Quốc và tác phẩm của Nguyễn Vỹ hơi khác nhau về ngôn từ nhưng hoàn toàn giống nhau về nội dung. David G. Marr trong Vietnam 1945, The Quest for Power (Berkeley : University of California Press, 1995), trang 71 có nói tới bản tiếng Việt và tiếng Pháp ở văn khố Pháp và bản đăng trên tờ Dân Báo, ngày 12 tháng 3. Vũ Ngự Chiêu cũng nói tới tờ Tin Mới, nhưng nhất thời nguời viết bài này chưa đến được các nơi cần đến để tìm kiếm.
(5) S.M. Bao Dai, Le dragon d’Annam, đã dẫn, tr. 104.
(6) Taboulet, Georges. La teste Francaise en Indochine, histoire par les textes de la France en Indochine des origines à 1914, tome II. Paris, Adrien-Maisonneuve, 1956. Tr. 809-812 ; Phan Khoang, Việt Nam Pháp thuộc sử, 1884-1945. Sài Gòn, 1961, tái bản ở Hoa Kỳ, tr. 322-328.
(7) Phạm Hồng Tung, "Trao đổi về một số ý kiến liên quan đến lịch sử Nội các Trần Trọng Kim và Cách mạng tháng Tám" trong Nghiên Cứu Lịch Sử, Số 8 (424), 2011, tr. 55.
(8) Phạm Khắc Hoè. Từ Triều đình Huế đến Chiến khu Việt Bắc. Huế : Thuận Hóa, 1987, tr. 16.
(9) Nguyễn Kỳ Nam, Hồi ký "1925-1964". Sài Gòn, 1964, tr. 168-169.
(10) Phạm Khắc Hoè, Từ Triều đình Huế…, đã dẫn, tr. 16-17.
(11) Giáo sư Viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn chủ biên, Lữ Huy Nguyên sưu tầm biên soạn. Hà Nội : Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1980, tr. 812 – 823.
(12) Hà Nội : Éditions en Langues Étrangères, 1971, tr. 51.
(13) S.M. Bao Dai. Le Dragon…, tr. 103.
(14) Võ Nguyên Giáp. "Những năm tháng không thể nào quên", trong Tổng tập Hồi ký. Hà Nội : Nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân, 2006, tr. 255.
(15) Phạm Khắc Hoè. Từ Triều đình Huế…., tr. 76.
(16) Phùng Quán. Ba Phút Sự Thật. Thành Phố Hồ Chí Minh : Nhà xuất bản Văn Nghệ, 2006, tr. 114-115.
(17) Hồ Chí Minh. Tuyên ngôn Độc lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Hà Nội : Nhà xuất bản Sự Thật, 1976, tr. 13. Nguyễn Khánh Toàn và Lữ Huy Nguyên, Tổng tập Văn học Việt Nam, Tập 36. Hà Nội, 1980, tr. 812-823.
(18) nt, tr. 134.
(19) Patti, Archimedes L.A. Why Vietnam ? Prelude to America’s Albatoss. Berkeley ; University of California Press, 1980, tr. 223.
(20) Thụy Khuê, Nói chuyện với Hoàng Xuân Hãn và Tạ Trọng Hiệp. California : Văn Nghệ, 2002, tr. 180-181.
(21) Trần Thanh Hiệp và Trương Giang. "Một bản Tuyên ngôn phi nhân quyền", Nhật báo Người Việt, số 7940, ngày Thứ Hai, 3 tháng 9 năm 2007.
(22) Sĩ quan này là Trung úy Dan Phelan, người đã nhảy dù xuống gặp Hồ Chí Minh trong chiến khu của ông này. Xin xem : Fenn, Charles, Ho Chi Minh, A Bibliographical Introduction, New York : Scribner’s Sons, 1973, tr. 81-82 ; Duiker, William J. Ho Chi Minh. New York :Hyperion, 2000, tr. 301 ; Against Japan. Lawrence, Kansas : University of Kansas, 2006, tr. 243-244 ; bản dịch tiếng Việt của Lương Lê Giang nhan đề OSS và Hồ Chí Minh, Đồng minh bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật. Hà Nội : Nhà xuất bản Thế Giới, 2007, tr. 367-368. Xin để ý : trong nhan đề tiếng Việt người dịch đã thêm hai chữ phát xít vào danh xưng Nhật.
(23) Số 1 (278), (I- II), 1995, tr. 186. Vì sao giới trẻ Mỹ nay thích chủ nghĩa xã hội ?
----------------------------------------
Tác giả Phạm Cao Dương, Giáo sư Tiến sĩ Sử học, cựu Giáo sư các trường đại học Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975. Sau 1975, ông là Giáo sư chuyên vế Văn hóa và Lịch sử Việt Nam tại một số đại học Mỹ, trước khi nghỉ hưu.
Đọc lại những bài viết của các cố vấn Tầu ở Việt Nam trong chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946 - 1954)
Đây là những bài viết được ghi là của "một số lão đồng chí đã từng cộng tác trong Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tại Việt Nam đầu những năm 50 của thế kỷ 20" theo lời của Nhóm biên tập của tập tài liệu có nhan đề : Ghi chép thực về việc đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp (Hồi ký của những người trong cuộc) do Nhà xuất bản Lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc ấn hành ở Bắc Kinh năm 2002, bản dịch tiếng Việt của Trần Hữu Nghĩa và Dương Danh Dy (cũng là người hiệu đính).
Hồ Chí Minh và Đoàn cố vấn Trung Quốc, trong đó có tướng Trần Canh (giữa), tại chiến dịch Biên giới năm 1950
Bản dịch này không ghi nơi xuất bản cũng như tên nhà xuất bản với lý do được nêu là tài liệu lưu hành nội bộ và được gửi từ trong nước ra hải ngoại qua thư điện tử. Cũng vậy, ghi là nội bộ nhưng sách cũng không ghi rõ là nội bộ của cơ quan nào. Dương Danh Dy là một nhà nghiên cứu được nhiều người tin cậy. Ông đã từng giữ chức Tổng Lãnh sự Việt Nam ở Quảng Châu, Trung Quốc.
I. Nội dung của tài liệu
Tập tài liệu này dày 280 trang qua thư điện tử và gấp đôi tức trên dưới 560 trang theo khổ sách in nhỏ, gồm tổng cộng 10 bài, thêm hai trang Lời cuối sách. Tác giả đầu tiên là La Quý Ba, người được Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc bí mật cử sang Việt Nam đầu năm 1950 làm đại diện liên lạc giữa Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc và Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương, sau này là Đại sứ đầu tiên của cộng sản Trung Quốc ở Việt Nam. Bài này ngắn và có tính cách tổng quát, được viết để tưởng nhớ Mao Trạch Đông.
Tác giả thứ hai là Trương Quảng Hoa. Ông này xuất thân làm công tác ở văn phòng cố vấn quân sự của Đoàn, lo về thống kê nên nắm vững tình hình "giao nhận vật tư" để báo cáo cho lãnh đạo của Đoàn. Trương Quảng Hoa có cả thảy bốn bài, đồng thời giữ vai trò sửa chữa và hiệu đính, kể cả sửa chữa và hiệu đính cho phần "Đại Sử Ký" tức phần niên biểu các sự kiện chính ở cuối sách, trong đó có bài viết tổng quát và một bài viết về vai trò có tính cách quyết định của tướng Trần Canh trong trận Đông Khê-Thất Khê. Chủ trương của Trần Canh cũng như của các cố vấn Tàu đối nghịch với chủ trương ban đầu của các chỉ huy trưởng Việt Minh, trong đó có các Trung đoàn trưởng Trung đoàn 102 Nguyễn Hữu An và Trung đoàn 88 Thái Dũng.
Người có bài thứ ba là Vu Hóa Thuần, viết về Vi Quốc Thanh trong cả hai trận Đông Bắc và Điện Biên Phủ, một vai trò cũng quyết định giống như vai trò của Trần Canh trong chiến dịch Đông Bắc.
Vương Nghiên Tuyền nguyên ở trong ban tham mưu của tướng Trần Canh và là cố vấn cho Đại đoàn 308 trong thời chiến tranh chống Pháp, năm 1956 lại trở sang Việt Nam làm tổ trưởng Tổ Chuyên gia Quân sự cho đến năm 1957. Ông này có hai bài dài và coi như nòng cốt của tập sách.
Tiếp theo là các bài của Độc Kim Ba và của Như Phụng Nhất mà tiểu sử không được ghi dù là gián tiếp.
Cuối cùng là một niên biểu liệt theo ngày tháng tiến trình hoạt động của Đoàn cố vấn Trung Quốc từ ngày được thành lập, từ tháng Giêng và tháng Hai năm 1950 cho đến trung tuần tháng Ba năm 1956.
Viện trợ và Trung Quốc
Nói tới Chiến tranh Pháp-Việt Minh (1946-1954) không ai là không biết tầm quan trong của viện trợ của cộng sản Trung Quốc cho cộng sản Việt Nam kể từ sau khi Đảng cộng sản Trung Quốc chiếm được toàn thể Trung Quốc lục địa, hay chậm hơn và đúng hơn chút nữa là từ trung tuần tháng 8 năm 1950, khi hai đoàn cố vấn quân sự, một do Vi Quốc Thanh và Đặng Dật Phàm cầm đầu từ Quảng Tây và một do Trần Canh hướng dẫn từ Vân Nam đến bộ chỉ huy tiền phương của Việt Minh ở Quảng Uyên, Cao Bằng và được Võ Nguyên Giáp và Trần Đăng Ninh đón tiếp và thuyết trình.
Đây là thời điểm then chốt. Nó mở đầu cho một giai đoạn mới trong lịch sử Chiến tranh Đông Dương Lần thứ nhất, trong đó viện trợ của Trung Quốc đóng vai trò quyết định. Sau thời điểm này quân đội của tướng Giáp không còn phải "chiến đấu trong vòng vây", không còn chỉ đánh du kích nữa mà đã chuyển sang vận động chiến, rồi sau đó là công kiên chiến để đánh bại địch quân, theo sách lược của Mao Trạch Đông và kinh nghiệm của Quân đội nhân dân Trung Quốc.
Hồi ký của các nhà lãnh đạo Việt Minh trong đó có tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tư lệnh Quân đội, có Đặng Văn Việt, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 174, con Hùm Xám của Đường số 4, đều nói tới nguồn viện trợ duy nhất và thiết yếu này nhưng lại tương đối ít. Những chiến thắng của Việt Minh từ các trận Đông Khê và Cao Bằng trong chiến dịch Việt Bắc tới trận Điện Biên Phủ theo các chỉ huy người Việt này là do sự hoạch định chiến lược và chiến đấu của chính người Việt.
Các cố vấn Trung Quốc trong tập Ghi Chép Thực kể trên đã gần như nói ngược lại. Không những thế họ còn viết nhiều hơn nữa, không riêng về quân sự như cung cấp dư dả súng ống, đạn dược, quân trang, quân dụng, soạn thảo tài liệu huấn luyện, tái tổ chức lại quân đội với chủ trương đặt nặng vai trò của chính trị trong quân đội, thành lập và võ trang những đại đơn vị mới như các Đại đoàn 316, 320, 325, 351 và một Trung đoàn công binh bên cạnh các Đại đoàn 304, 308, 312 và một số trung đoàn đã có từ trước, mà còn giúp Việt Minh giải quyết những khó khăn về kinh tế, tài chánh, đặc biệt là về tiền tệ, lương thực để Việt Minh từ thế gần như thụ động, bị bao vây trên nhiều mặt trận, sang chủ động làm chủ chiến trường. Các cố vấn Tàu còn cho biết họ đã soạn thảo các chiến lược và trực tiếp tham gia chiến trận cùng với quân đội của tướng Giáp từ đó đã giúp cho cộng sản Việt Nam toàn thắng.
II. Đảng cộng sản Việt Nam đã bắt đầu bị lệ thuộc vào Đảng cộng sản Trung Quốc từ bao giờ ?
Hồ Chí Minh và các thành viên trong Đoàn công tác tại Trung Quốc, tháng 1/1950. Ảnh tư liệu/ Bảo tàng Hồ Chí Minh.
Một cách tóm tắt, khi đọc tài liệu này ta có thể ghi nhận được những dữ kiện sau đây :
1. Thứ nhất : Hai chuyến đi bí mật sang Nga của Hồ Chí Minh bị thất bại. Viện trợ của cộng sản Tàu cho cộng sản Việt Nam là do sự thỏa thuận từ trước của Stalin, Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai.
Những sự kiện này đã xảy ra tiếp theo hai chuyến đi bí mật của Hồ Chí Minh sang Bắc Kinh vào đầu tháng Giêng năm 1950 và vào mùa đông năm 1951. Lần đi thứ nhất, khi Hồ Chí Minh đến Bắc Kinh thì Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai đã đi riêng tới Moscow để ký Hiệp ước Tương trợ Đồng minh Hữu nghị Trung-Xô từ trước nên họ Hồ chỉ được Lưu Thiếu Kỳ đón tiếp rồi sau đó được Lưu Thiếu Kỳ thu xếp để sang Moscow.
Câu hỏi được đặt ra là trước khi đi, Mao và Lưu có biết là Hồ sẽ sang Bắc Kinh hay không ? Câu hỏi này được đặt ra nhưng câu trả lời phần nhiều là có. Nếu vậy tại sao hai người lại không đợi Hồ Chí Minh sang Bắc Kinh để rồi cùng đi ? Câu trả lời phần nào có thể được thấy nếu người ta theo dõi những gì đã xảy ra sau đó.
Thứ nhất là trong buổi tiệc do Bộ Chính trị Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô tổ chức để khoản đãi Hồ Chí Minh khi họ Hồ mới tới Moscow tối ngày 6 tháng Hai năm 1950, Stalin đã không đến dự và Stalin chỉ tiếp ông này nhiều ngày sau đó và tiếp ở phòng làm việc của mình với sự có mặt của nhiều ngưới khác trong đó có cả Vương Gia Tường là đại sứ Trung Quốc ở Liên Xô.
Thứ hai là trong buổi tiếp tân chiêu đãi trọng thể dành cho Mao Trạch Đông, Châu Ân Lai và toàn thể các đoàn viên phái đoàn Trung Quốc, Hồ Chí Minh cũng được mời, có thể là không chính thức vì chuyến đi của ông là bí mật. Lợi dụng cơ hội này và khi Stalin rất vui, Hồ Chí Minh đã ngỏ ý xin được ký một hiệp ước tương tự như hiệp ước Trung-Xô, Mao Trạch Đông đã ký với Stalin trước đó. Stalin đã từ chối. Trương Quảng Hoa đã kể lại cuộc đối thoại giữa hai người như sau :
Stalin rất vui, trong bữa tiệc luôn luôn trò chuyện với khách. Hồ Chí Minh nắm lấy thời cơ này cười hỏi Stalin : "Đồng chí còn có chỉ thị gì nữa đối với công tác của Việt Nam chúng tôi không ?", Stalin cười : "Tôi làm sao có thể chỉ thị cho đồng chí, đồng chí là Chủ tịch nước, quan còn to hơn tôi mà !".
Hồ Chí Minh lại nói : "Các đồng chí đã ký hiệp ước với Trung Quốc, nhân tôi ở đây, chúng tôi cũng muốn ký một hiệp ước !", Stalin nói : "Thế người ta hỏi đồng chí từ đâu ra ? Chúng tôi giải thích như thế nào ?".
Hồ chí Minh nói : "Điều đó rất dễ, đồng chí cho chiếc máy bay chở tôi lượn một vòng trên trời, sau đó cho người ra sân bay đón tôi, đưa một tin trên báo, không được sao ?".
Stalin cười lớn nói : "Đó là quá sức tưởng tượng đặc biệt của người phương Đông các anh" (trang 21).
Họ Trương ghi tiếp là : "Rất nhiều người dự tiệc cũng đều cười vang lên". Chi tiết này chứng tỏ cuộc đối thoại giữa Hồ Chí Minh và Stalin là công khai trước mặt mọi người. Nhưng xét toàn bộ người ta thấy Stalin tỏ ra rất lạnh nhạt, không tôn trọng Hồ Chí Minh, đã mỉa mai khi trả lời những câu hỏi nghiêm chỉnh và quan trọng của họ Hồ. Không những thế, Stalin còn đem những đề nghị của Hồ ra làm trò cười cho những người có mặt trong buổi chiêu đãi và thẳng thừng từ chối những lời yêu cầu của họ Hồ, trong đó có đề nghị ký một hiệp định là điều họ Hồ rất mong muốn.
Tại sao vây ? Theo Trương Quảng Hoa, Stalin lo lắng Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc, là Ti Tô thứ hai. Nhưng đọc kỹ chi tiết hơn, người ta thấy hai điều. Một là Stalin có chủ trương muốn Hồ Chí Minh đẩy sớm hơn và mạnh hơn cách mạng xã hội và kinh tế thay vì chỉ lo đánh Pháp để sớm tiến tới chủ nghĩa vô sản và hai là Stalin đã cùng Mao Trạch Đông, và ngay cả trước đó không lâu, Lưu Thiếu Kỳ trong một chuyến đi bí mật sang Nga, đã từng thảo luận và đồng ý với nhau về vai trò viện trợ cho cộng sản Việt Nam của Trung Quốc rồi.
Đây là lý do chính và Hồ Chi Minh khi được các lãnh đạo cộng sản Trung Quốc thu xếp cho sang Nga chỉ là để nghe một chuyện đã được sắp xếp rồi.
Riêng về cá nhân Hồ Chí Minh, xuyên qua cuộc đối thoại này, người ta thấy phần nào bản chất thực tế, kiên nhẫn, chịu đựng, quyền biến đến độ lì lợm, sẵn sàng dùng những biện pháp lừa dối như ông đã thường làm ở Việt Nam của ông. Cuối cùng thì chuyến đi Liên Xô của Hồ Chí Minh hoàn toàn thất bại, không giành được gì trực tiếp từ phía Liên Xô, không được Stalin coi trọng như Mao Trạch Đông để từ đây Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam phải nghe và hoàn toàn trông cậy vào viện trợ của Trung Quốc.
Vận mệnh của Đảng cộng sản Việt Nam nói riêng và vận mệnh của dân tộc Việt Nam cũng như lãnh thổ Việt Nam nói chung, có thể đã được quyết định ngay từ chuyến đi của Hồ Chí Minh này. Nói như vậy là vì khi làm cố vấn cho Đảng cộng sản Việt Nam, các chuyên gia Trung Quốc bắt buộc phải nghiên cứu địa hình, địa diện, các cao điểm chiến thuật, chiến lược, trục lộ giao thông cùng các tiềm năng khác có thể khai thác… bằng chính tai mắt và khối óc của mình. Chưa kể, họ còn vạch biên giới làm đường để vận chuyển khí giới, quân trang quân dụng vượt qua biên giới, chở sang cho Việt Minh. Các cao điểm chiến lược, các cột mốc biên giới hẳn khó lọt qua con mắt của các chuyên gia quân sự Trung Quốc ngay từ thời điểm này để chuyển về cho Trung ương Đảng của họ, không cần phải đợi tới bốn chục năm sau.
Về chủ trương giữ bí mật cho những chuyến đi của Hồ Chí Minh và sau này là Đoàn cố vấn Trung Quốc cũng là điều người ta cần chú ý.
Phía nào thực sự chủ trương giữ bí mật và tại sao phải giữ bí mật ? Câu hỏi cần phải được đặt ra, cũng như Hồ Chí Minh có hứa hẹn gì với Mao Trạch Đông và các nhà lãnh đạo khác của Trung Quốc để đánh đổi lấy viện trợ của Trung Quốc không ?
Cũng vậy, có thật viện trợ này là không hoàn trả và hoàn toàn vô vị lợi dựa trên nghĩa vụ quốc tế giữa các đảng cộng sản hay không hay ngược lại, có liên hệ gì tới sự nhượng bộ của cộng sản Việt Nam đối với cộng sản Trung Quốc sau này không ?
Về điều này người đọc nên để ý tới sự gợi ý của Stalin là Trung Quốc giúp cho Việt Nam một con gà thì Việt Nam có thể trả lại cho Trung Quốc một trái trứng. Con gà là quân sự, là kinh tế, tài chính, là lương thực, là tiền tệ, còn trái trứng là cái gì ?
Cũng vậy, sự giữ bí mật này có liên hệ gì tới cách giải thích sự thỏa hiệp với Pháp của Hồ Chí Minh hồi năm 1946 trước đó, đại khái là : "Thà ngửi c… thằng Tây ít năm còn hơn là làm nô lệ thằng Tàu thêm một ngàn năm nữa", hay những gì họ Hồ và Đảng cộng sản đã lên án phía Việt Quốc, Việt Cách mấy năm trước đó ? Hay giữ bí mật theo yêu cầu của Nga và của Tàu, hay tất cả ?
Người viết sẽ trở lại vấn đề này trong một bài khác. Cũng cần phải để ý tới sự kiện là thời điểm của cuộc viếng thăm là đầu năm 1950, lúc Liên Xô sau thế chiến thứ hai chưa đủ mạnh và Đảng cộng sản Trung Quốc chỉ mới lên cầm quyền ở Trung Quốc Lục Địa không được bao lâu. Cả hai lúc đó đều không muốn gây chuyện trực tiếp với Pháp và gián tiếp với Hoa Kỳ.
2. Thứ hai : Viện trợ cho Việt Nam không phải chỉ vì nhu cầu của Việt Nam mà cho cả Trung Quốc, vì Trung Quốc cũng có nhu cầu đánh đuổi quân Pháp nhằm bảo đảm biên giới phía Nam của mình chống lại tàn dư của Trung Quốc Quốc Dân Đảng.
Điều này cũng được các tác giả dẫn thượng nói tới. Chiến dịch Đông Bắc và sau này đánh Tây Bắc và sang Lào thay vì đồng bằng sông Hồng mà các cố vấn Trung Quốc đã bắt ép các nhà chỉ huy quân sự Việt Minh phải chấp nhận cũng nhằm mục tiêu này.
Khác biệt về chiến lược và chiến thuật giữa các bộ chỉ huy quân sự Việt Minh và Trung Quốc
3. Thứ ba : Có một sự khác biệt về chủ trương chiến lược và chiến thuật giữa các cố vấn Trung Quốc và các tướng tá Việt Minh và phía Việt Minh bị bó buộc phải nghe theo.
Có nhiều khác biệt về chủ trương chiến lược và chiến thuật giữa các cố vấn Trung Quốc và các tướng tá Việt Minh và phía Việt Minh bị bó buộc phải nghe theo trong đó có mục tiêu tấn công như :
- Đánh để tiêu diệt địch hay đánh để chiếm các cứ điểm hay các thị trấn ?
- Địa điểm tấn công, đánh nơi nào trước, Cao Bằng hay Đông Khê, đồng bằng sông Hồng hay Lai Châu, Tây Bắc và Lào ?
- Đánh nhưng vẫn phải lưu tâm tới hoàn cảnh của các chiến sĩ anh em, đồng bào của mình hay đánh để thắng với bất cư giá nào ?
Các cố vấn Trung Quốc, sau khi không thuyết phục được các tướng tá Việt Minh, đã báo cáo về cho Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc và Mao Trạch Đông, để Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc liên lạc với Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh. Cuối cùng các cố vấn Trung Quốc đã luôn luôn thắng thế. Chủ trương của họ đã được Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam chấp nhận, đồng thời may mắn cho họ, kết quả đã là chiến thắng.
Đọc các bài viết của người Trung Quốc người ta có cảm tưởng là các chiến thắng của Việt Minh từ Đông Bắc đến Điện Biên Phủ hoàn toàn là do công lao của các cố vấn Trung Quốc, từ đầu đến cuối, từ hoạch định chiến lược, lựa chọn địa điểm để đánh, đến trực tiếp tham gia theo dõi, chỉ huy trận đánh và trực tiếp can thiệp ngay khi cần. Các tướng tá Việt Nam đều bị coi là thiếu kinh nghịêm, nhút nhát, không dám chấp nhận gian khổ.
Chẳng hạn như trong chiến dịch Việt Bắc, Trần Canh và Vi Quốc Thanh đã nghiên cứu tỉ mỉ phòng tuyến Quốc lộ 4 của Pháp để đưa ra đề nghị đánh Đông Khê trước thay vì Cao Bằng. Đề nghị này đã được Hồ Chí Minh lúc đó lên thị sát mặt trận, trực tiếp phê chuẩn thay vì qua Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Họ Hồ còn chỉ thị thêm rằng : "Chiến dịch này chỉ được thắng, không được thua !" đúng như chủ trương của Trần Canh. Lý do là vì Hồ đã quen biết Trần Canh từ lâu trước đó, trong những năm 1925-1926, đã yêu cầu Mao Trạch Đông cử Trần Canh sang giúp và tin cậy ở Trần Canh, đồng thời biết rõ nhu cầu Trung viện.
Chỉ được thắng, không được thua, hay thắng bằng bất cứ giá nào, bất kể sự hy sinh của binh sĩ là chủ trương của Trần Canh, khác với chủ trương của Võ Nguyên Giáp và của Trung đoàn trưởng Trung đoàn 174 Đặng Văn Việt. Trong trận Đông Khê, khi vị Trung đoàn trưởng này, vì bộ đội của mình bị thương vong quá nhiều, định rút lui, Vi Quốc Thanh đã điện thoại cho cố vấn Trương Chí Thiện của trung đoàn này, thúc đẩy vị chỉ huy của trung đoàn này, điều chỉnh bố trí và đánh tiếp. Giữa Trần Canh và Võ Nguyễn Giáp tối ngày 4 tháng 10 năm 1950 cũng đã tranh cãi nặng nề qua điện thoại, khi quân Việt Minh tấn công chiếm núi Cốc Xá sau ba ngày liên tiếp và bị thiệt hại nặng, Bộ chỉ huy Tiền phương Việt Minh ra lệnh cho bộ đội tạm ngưng tấn công để nghỉ ngơi chỉnh đốn.
Tranh cãi nặng nề qua điện thoại đến độ Trần Canh có lúc đã nói to : "Nếu trận này không đánh nữa thì tôi xin cuốn gói chuồn" và nói tiếp : "Vào giờ phút then chốt này, bộ chỉ huy mà dao động thì chôn vùi thời cơ rất tốt để chiến dịch thắng lợi", đồng thời dập mạnh điện thoại xuống.
Nhưng rồi sau đó Trần Canh đã liên lạc thẳng với Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Trung Quốc. Kết quả là Hồ Chí Minh đã ra lệnh cho bộ đội tiếp tục, còn Mao Trạch Đông thì khuyến cáo phải nhanh chóng tiêu diệt địch cho dù thương vong quá lớn cũng không nên quá lo, không nên dao động (trang 41).
Vệ quốc đoàn và quân đội nhân dân Việt Nam
4. Thứ tư : Trong việc giúp Việt Minh huấn luyện và tổ chức lại quân đội, các cố vấn Trung Quốc còn giúp và rất có thể đã áp lực các nhà lãnh đạo của đảng này thực hiện một cuộc chỉnh huấn với chữ dùng trong tài liệu là "chỉnh quân chính trị". Danh xưng Vệ quốc đoàn bị bãi bỏ và bị thay thế bằng danh xưng Quân đội nhân dân theo Tàu.
Công tác này đã được các cố vấn Trung Quốc lưu ý từ ngay những ngày đầu, nhưng mãi đến mùa hè và mùa thu năm 1953 mới trở thành qui mô toàn diện. Nó nằm trong chủ trương cách mạng căn bản của Mao Trạch Đông và luôn cả của Stalin, qua khuyến cáo của Stalin khi Stalin tiếp Hồ Chí Minh hồi đầu năm 1950, với những dấu hiệu đầu tiên đã lộ rõ qua những nhận xét của các cố vấn Trung Quốc về các cấp chỉ huy của bộ đội Việt Minh khi họ thấy những vị chỉ huy này có trình độ học vấn cao, ghi chú nhanh, học giỏi, nhưng nặng đầu óc tư sản, nhút nhát, sợ gian khổ, sợ khó khăn, không có tầm nhìn chiến lược… trong khi các binh sĩ cấp dưới ít học và không được thăng thưởng.
Những ngôn từ như "tố khổ, giác ngộ giai cấp"… đã được Vu Hóa Thuần nhắc tới trong bài viết của tác giả này (trang 63). Chiến dịch "chỉnh huấn quân sự, chính trị" qui mô này đã được phối hợp với phong trào cải cách ruộng đất, lúc này đang được tiến hành ở các căn cứ địa của Việt Minh ở Việt Bắc. Những sĩ quan xuất thân là sinh viên, học sinh, những thành phần trí thức, quan lại, tư sản đã tham gia Vệ quốc đoàn từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến do Việt Minh lãnh đạo, thuần túy chỉ vì yêu nước, không còn được phục vụ như xưa nữa. Ngay danh xưng Vệ quốc đoàn, một danh xưng mang nặng tinh thần quốc gia, cũng bị phế bỏ.
Một giai đoạn trong cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Minh, nói riêng, của cuộc chiến 30 năm đã đi qua, kèm theo với tất cả những gì đẹp đẽ nhất và lãng mạn, nhuốm nặng tình yêu nước nhất của nó. Trung đoàn trưởng Đặng Văn Việt, Con Hùm Xám của Đường số 4, thay vì trở thành tướng như nhiều thuộc cấp của ông sau này, vì đã đánh bại không phải một mà hai đại tá của quân Pháp theo tiêu chuẩn của Hồ Chí Minh khi ông này phong cấp đại tướng cho Võ Nguyên Giáp, đã bị gửi qua Trung Quốc làm tân khóa sinh của một trường sĩ quan. Cũng may là họ Đặng vẫn còn tốt phước do cha mẹ ông bà để lại, được để cho sống sót.
Trong sinh hoạt văn học nghệ thuật phải chăng vì danh xưng Vệ quốc đoàn không còn dược dùng nữa, thay thế bằng danh xưng Quân đội nhân dân giống như Quân đội nhân dân Trung Quốc. Tất cả đều được quan niệm và tổ chức theo khuôn mẫu của Quân đội nhân dân Trung Quốc. Những bài hát tràn ngập lòng yêu nước thời đó, đại loại như của Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu, chỉ còn là kỷ niệm :
Đoàn Vệ Quốc Quân một lần ra đi
Là có mong chi đâu ngày trở về.
Ra đi, ta đi bảo tồn sông núi.
Ra đi, ra đi thề chết chớ lui.
Cờ bay phất phới, ngời màu Lạc Hồng.
Kèn reo vang tiếng, gọi dòng Lạc Hồng
Cùng Vệ Quốc Quân.
Ra đi ra đi theo hồn sông núi,
Thù bao năm xưa có bao giờ nguôi.
Hay những bài thơ đẹp và đầy không khí vui tươi của một tác giả nào đó mà người viết bài này có dịp học thuộc lòng hồi còn nhỏ theo mẹ đi tản cư về Thái Bình hay vào Thanh Hóa đến bây giờ vẫn còn nhớ, như:
Đoàn Vệ Quốc áo đen
vượt qua sườn Tam Đảo
Sau những ngày dông bão.
Việt Bắc giặc lui rồi
Lũ tàn quân xơ xác
Chiến sĩ ta reo cười
Chim rừng vang tiếng hát.
Các anh như bầy chim,
Nẻo rừng sâu bay tới.
Huyện Tam Dương im lìm
Bỗng dưng vào đại hội.
và của Hoàng Cầm :
Đêm liên hoan đầu người nhấp nhô
như sóng biển ngang tàng.
Ta muốn thét cho vỡ toang lồng ngực
vì say sưa tình thân thiết Vệ quốc đoàn.
Sau những năm hào hùng này không còn được ai sáng tác nữa, hay có sáng tác cũng chẳng bao giờ được phổ biến vì khi các lãnh đạo chủ trương "phá tan biên cương" với ảo vọng "loài người sống thân yêu", tất cả đều bị cấm. Còn lại chỉ là một hoài vọng để cho những người lính già lâu lâu ngồi nhớ lại, kể cho nhau nghe hay viết cho nhau đọc. Chỉ tiếc rằng cái đẹp vừa hào hùng vừa lãng mạn của thời trai trẻ, mà chính họ cũng như thời thế đã tạo được cho họ, đã không toàn vẹn như cái đẹp của người lính già thuở Bình Mông ngày trước:
Bạch đầu quân sĩ tại
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong
Lính già phơ tóc bạc,
Kể chuyện thủa Nguyên Phong
Trần Nhân Tông
Xuân Nhật Yết Chiêu Lăng
Ngô Tất Tố dịch
Trên đây chỉ là một vài dữ kiện quan trọng mà người đọc tài liệu này (Ghi Chép Thực Về Việc Đoàn Cố Vấn Quân Sự Trung Quốc Viện Trợ Việt Nam Chống Pháp) đọc được và chia sẻ với độc giả. Hy vọng tác phẩm này được phổ biến rộng rãi hơn và được nhiều người đọc hơn, nhất là những người được các tác giả, rõ hơn các cố vấn Tàu do Mao Trạch Đông và Đảng cộng sản Tàu phái sang giúp Đảng cộng sản Việt Nam thực hiện cuộc cách mạng vô sản theo khuôn mẫu của họ, thời đầu thập niên năm mươi của thế kỷ trước, bằng cách này hay bằng cách khác nói tới, hầu có thể đóng góp thêm sự thực về một giai đoạn cực kỳ khó khăn, cực kỳ phức tạp và tế nhị nhưng không phải là không có những nét đẹp riêng của lịch sử Việt Nam trước khi mọi sự trở thành đen tối, đến độ nhiều người coi như là tuyệt vọng, như người ta thấy sau này.
Để kết luận, ta có thể nói rằng đối chiếu những gì các cố vấn Tầu kể lại với những gì Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam thực hiện không lâu sau chuyến đi bí mật của Hồ Chí Minh sang Nga đầu thập niên 1950.
Trong số này, đặc biệt có Phong Trào Tố Khổ và Cuộc Cải Cách Ruộng Đất, cuộc "Chỉnh Quân Chính Trị" loại trừ các thành phần tiểu tư sản, sự kiện bãi danh xưng Vệ Quốc Đoàn bị bãi bỏ, thay thế bằng danh xưng Quân đội nhân dân theo mẫu của cộng sản Tầu, kèm theo với các chức chính ủy được đặt ra trong quân đội vân vân…
Trong lúc cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp còn đang tiếp diễn và đòi hỏi một sự đoàn kết toàn dân về đủ mọi mặt thì những việc làm theo lệnh Trung Quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam cho người ta thấy rõ hơn vai trò quốc tế và sự lệ thuộc Trung Quốc và Liên Xô của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam đã bắt đầu ngay từ thời này.
Đối với những người cộng sản Việt Nam thì độc lập dân tộc chỉ là cái cớ bề ngoài, không bao giờ được coi là quan trọng bằng nghĩa vụ quốc tế cách mạng. Họ sẵn sàng tuân theo mệnh lệnh của các cố vấn nước ngoài hơn là tiếng gọi dù là thiêng liêng của Tổ Quốc.
Phạm Cao Dương
______
Tác giả Phạm Cao Dương : Tiến sĩ Lịch sử, cựu Giáo sư các trường Đại học thời Việt Nam Cộng Hòa trước 1975. Ông cũng là Giáo sư Sử học và Văn hóa Việt Nam tại một số trường Đại học Hoa Kỳ ở California trước khi nghỉ hưu.