Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Published in

Việt Nam

16/10/2019

Số liệu tấn công mạng có đáng tin, dịch vụ đòi nợ nên bỏ hay giữ ?

RFA tiếng Việt

Số liệu tấn công mạng tại Việt Nam, nên tin vào đâu ? (RFA, 16/10/2019)

Vào ngày 16 tháng 10 năm 2019, Cục An toàn Thông tin thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam, công bố số liệu cho thấy, có gần 1.470 cuộc tấn công mạng vào hệ thống thông tin tại Việt Nam trong quý 3 năm 2019, giảm gần 40% so với thời gian cùng kỳ năm 2018.

tancong1

Ảnh minh họa. AFP

Loạn thông tin

Cụ thể, Cục An toàn Thông tin ghi nhận, trong 1.466 cuộc tấn công mạng vào Việt Nam thì có đến 1.194 cuộc tấn công lừa đảo (Phising), 145 cuộc tấn công thay đổi giao diện (Deface) và 127 cuộc tấn công cài cắm mã độc (Malware).

Trước đó, Cục An toàn Thông tin cũng cho biết, trong 6 tháng đầu năm 2019, có tổng cộng 3.159 cuộc tấn công mạng vào các hệ thống thông tin tại Việt Nam, giảm 2.684 số lần, tương đương giảm 45,9% so với cùng kỳ năm 2018.

Trong khi đó, vào đầu tháng 10/2019, các tổ chức khác lại đưa ra số liệu các vụ tấn công mạng vào Việt Nam tăng, nghĩa là hoàn toàn khác với số liệu của Cục An toàn Thông tin mới công bố.

Trao đổi với Đài Á Châu Tự Do hôm 16/10 liên quan vấn đề này, ông Nguyễn Tử Quảng, Chủ tịch Tập đoàn Công nghệ BKAV, cho rằng đây cũng là điều bình thường :

"Theo tôi số liệu an ninh mạng lúc tăng lúc giảm cũng là chuyện thường xuyên, nhưng theo tôi cũng có thể có nguyên nhân từ việc tổ chức tốt hơn. Cách đây vài tháng có một chỉ thị của thủ tướng chính phủ, yêu cầu người đứng đầu các cơ quan ban ngành nhà nước, phải chịu trách nhiệm trực tiếp với thủ tướng bảo đảm an ninh mạng của cơ quan họ. Theo tôi với văn bản đó thì chắc chắn hiệu quả sẽ tốt hơn".

Điều ông Nguyễn Tử Quảng nói trùng khớp với thông tin truyền thông trong nước nhận định khi cho rằng thời gian qua, Việt Nam đã đưa ra nhiều giải pháp đảm bảo an toàn, an ninh mạng và được chính phủ quyết liệt triển khai.

Tuy nhiên, chỉ trong vòng 15 ngày mà số liệu báo cáo thay đổi đột ngột từ tăng 113% đến giảm 40% thì xem ra khó có thể khiến dư luận không hoang mang và đặt dấu chấm hỏi…

Ông Diệp Quang Văn, giám đốc công ty công nghệ thông tin ở Bình Dương cho biết nhận định của mình :

"Theo kinh nghiệm của mình cũng như mình quan sát bên ngoài, thì do bảo mật nhiều hơn, nhiều lớp hơn, hay những công ty bị nhiều lần phải tăng cường, như bị trộm quá phải tăng cường ổ khóa xịn hơn, nhiều khóa hơn để hạn chế. Nhưng một vấn đề nữa theo mình, dạo này ít tấn công vì sau khi tấn công chẳng được gì, vì dù bảo mật gì đi nữa thì vẫn làm được, chỉ có nhanh hay chậm thôi".

Trước đó, vào ngày 1/10/2019, CyStack – một công ty công nghệ hoạt động trong lĩnh vực an ninh mạng công bố báo cáo lại trái ngược với thông tin mà Cục An toàn thông tin đưa ra. Theo báo cáo, trong quý III/2019, Việt Nam đứng ở vị trí thứ 10 trên bảng xếp hạng các quốc gia bị tấn công website nhiều nhất thế giới.

tancong2

Ảnh minh họa AFP

Cụ thể theo CyStack, có hơn 2.500 trang mạng có tên miền của Việt Nam bị tấn công trong quý 3 năm 2019. Trong đó, các website có tên miền .com, .vn và .net bị tấn công nhiều nhất.

Các vụ tấn công trang mạng Việt Nam trong quý 3 năm nay được CyStack xác định tăng 113% so với cùng kỳ năm ngoái.

Tiến sĩ Nguyễn Quang A, nguyên Chủ tịch Hội tin học Việt Nam, nhận định về sự trái ngược này :

"Những con số thống kê thì thường nó gắn với từng giai đoạn, còn con số tấn công an ninh mạng thì nó cũng có thể thay đổi theo thời gian, do đó chuyện người ta nói có thể giảm hay tăng là điều không có gì lạ. Nhưng vấn đề ở đây là bản thân cái số liệu do cơ quan nhà nước đưa ra thì người ta thường mắc bệnh thành tích, và như thế số liệu đó không phản ánh thực tế cho lắm, cái gì mà tốt thì hướng lên, cái gì dở thì bớt nó đi. Thành ra có thể nghi vấn số liệu đó (giảm tấn công mạng trong quý 3-pv), mình chỉ có thể tin cậy thông tin của những tổ chức chuyên môn, có tính độc lập, của một hiệp hội nào đó, hay một tổ chức phi chính phủ, thì sẽ chính xác hơn".

Tự bảo vệ mình

Có thể nhìn nhận khách quan rằng, thời gian gần đây, các vị lãnh đạo của Việt Nam thường có những phát ngôn hùng hồn, chủ quan liên quan vấn đề an ninh mạng của Việt Nam như tại Hội thảo quốc tế về An ninh mạng 2019 tổ chức hôm 17/4/2019 tại Hà Nội, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng lại khẳng định ‘Việt Nam có thể thành cường quốc an ninh mạng’ (!?) nhờ có nguồn nhân lực an ninh mạng mà theo ông là loại tốt trên thế giới.

Hay vào ngày 11/7/2019, ông Nguyễn Huy Dũng, Cục trưởng Cục An toàn Thông tin – Bộ Thông tin và truyền thông, mặc dù nhìn nhận Việt Nam vẫn đang ở vị trí là một chấm nhỏ, hết sức khiêm tốn trên bản đồ an toàn, an ninh mạng thế giới, song ông Dũng cho biết một mục tiêu đặt ra trong hai năm 2019 - 2020 là Việt Nam sẽ có 100 doanh nghiệp mạnh về an ninh mạng cùng khoảng 1.000 chuyên gia đầu ngành.

Do đó cũng có thể hiểu vì sao, sau khi CyStack đưa ra những số liệu tiêu cực liên quan an ninh mạng Việt Nam, thì ngay lập tức (15 ngày sau), Cục An toàn Thông tin – Bộ Thông tin và truyền thông phải công bố số liệu trái ngược…

Với thực tế về an toàn thông tin bấp bênh tại Việt Nam như thời gian qua, người sử dụng mạng nên làm gì để tự bảo vệ mình ? Ông Nguyễn Tử Quảng cho biết :

"An ninh mạng là vấn đề toàn cầu, chứ không riêng nước nào hay người sử dụng nào, bất kể ai sử dụng máy tính có kết nối internet là có nguy cơ về an ninh mạng. Chẳng hạn gần đây tại Việt Nam cũng phổ biến việc hackers xâm nhập vào máy, rồi mã hóa máy đấy rồi tống tiền… Thì biện pháp đảm bảo nhất để tránh là dùng phần mềm có bản quyền, thứ hai là sử dụng phần mềm chống mã độc và tuân thủ những nguyên tắc chung về an ninh".

Nghĩa là người dùng nên tự biết cách bảo vệ an toàn cho chính mình, đừng nên tin nhiều vào những phát ngôn của các quan chức trong ngành thông tin truyền thông ? Giải thích nhiều hơn về vấn đề này, ông Diệp Quang Văn cũng đồng tình : cách duy nhất là tự mình bảo vệ mình :

"Công ty mình thì mình chỉ có tăng cường bảo mật lên thôi, các công ty khác thì mình không rõ, cũng nhờ báo chí tuyên truyền nhiều, cơ quan quản lý cũng chỉ tuyên truyền, chứ nhà nước không tác động cá nhân. Công ty mình lấy thông tin từ cơ quan thông tin đại chúng, chứ hoàn toàn không có hỗ trợ nào về tài chánh hay nhân lực từ chính phủ".

Theo Tiến sĩ Nguyễn Quang A, tình hình an toàn thông tin của Việt Nam hiện nay rất kém. Thứ nhất theo ông, là vì các cơ sở nắm giữ thông tin như cơ quan nhà nước, ngân hàng, công ty… chưa ý thức tốt lắm về vấn đề an toàn thông tin. Thứ hai ông cho rằng, phải có quy trình và con người theo dõi và bảo vệ an toàn thông tin, thì Việt Nam cũng chưa làm tốt.

Lẽ ra, theo Tiến sĩ Nguyễn Quang A, Luật an ninh mạng của Việt Nam phải làm những việc đó là chính, như nâng cao nhận thức cho quan chức nhà nước, xây dựng các tổ chức hay bộ phận chuyên lo về an toàn thông tin, của từng cơ quan nhà nước, rồi thì thúc ép các doanh nghiệp cũng phải làm việc đó và cuối cùng là Chính phủ phải có các chính sách, thủ tục kiểm tra giám sát chặt chẽ…

Nhưng đáng tiếc, tuy những vấn đề Tiến sĩ Nguyễn Quang A vừa nêu, cũng có được nhắc đến trong luật an ninh mạng, nhưng theo ông lại không được nhấn mạnh, thay vào đó Chính phủ lại dụng Luật an ninh mạng để chặn các thế lực phản động… điều này hoàn toàn lệch hướng so với trọng tâm của luật an ninh mạng !

*****************

Dịch vụ đòi nợ : nên giữ hay nên bỏ ? (RFA, 16/10/2019)

Trong buổi họp lấy ý kiến về dự án Luật Đầu tư (sửa đổi) diễn ra vào sáng ngày 16/10 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho rằng không nên cấm hoạt động "kinh doanh dịch vụ đòi nợ" mà cần bổ sung quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đòi nợ để đảm bảo quản lý nhà nước chặt chẽ đối với loại hình kinh doanh này.

tancong3

Giẩy quảng cáo cho vay được dán tường. RFA

Đòi nợ hay siết nợ ?

Trao đổi với Đài Á Châu Tự Do, Luật sư Nguyễn Văn Hậu, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài Luật gia Việt Nam giải thích rõ hình thức "kinh doanh dịch vụ đòi nợ" đã có từ năm 2007. Chính phủ và Bộ Tài chính đã có rất nhiều văn bản quy định chỉ có những doanh nghiệp khi có giấy phép kinh doanh đòi nợ mới được phép đòi nợ dưới sự quản lý của Nhà nước. Ông nhận định :

"Đòi nợ thuê không phải là tội phạm như mọi người vẫn lầm tưởng mà nó là một dịch vụ đòi nợ, một dịch vụ có tính chất đặc biệt được pháp luật Việt Nam công nhận và điều chỉnh. Đây là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện thuộc danh mục Ngành nghề kinh doanh có điều kiện trong Luật Đầu tư 2014 của Việt Nam. Hoạt động kinh doanh dịch vụ đòi nợ thì chính phủ ban hành Nghị định 104/2007 có quy định chỉ được thực hiện đối với những khoản nợ khi mà khoản nợ đủ căn cứ để đòi nợ hợp pháp hoặc quá hạn thanh toán".

Vẫn theo Luật sư Hậu, các dịch vụ đòi nợ phải xử lý đòi nợ phù hợp theo các quy định của pháp luật và hoạt động đòi nợ này thực hiện theo hợp đồng giữa người cho vay và người đi vay.

Trước đó, vào đầu tháng 10/2019, Uỷ ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã đề xuất Bộ Tài chính tham mưu Chính phủ đưa loại hình hoạt động đòi nợ thuê vào danh mục ngành nghề cấm kinh doanh vì cho rằng nhiều vụ đòi nợ thuê gần đây đã biến tướng mang tính chất "xã hội đen", khủng bố tinh thần, cưỡng bức con nợ...

Vậy liệu nên giữ hay nên bỏ loại hình kinh doanh thu nợ đang là vấn đề gây nhiều tranh cãi hiện nay.

Từ Hà Nội, Phó giáo sư - Tiến sĩ Ngô Trí Long, chuyên gia tài chính và thị trường cho rằng :

tancong4

Quảng cáo cho vay tín chấp trên mạng. RFA

"Hiện nay vấn đề đòi nợ thuê thì nó gây nhiều vấn đề như mất đi trật tự của xã hội, vi phạm đạo đức. Thế nhưng trong kinh tế thị trường thì nó là một cái nghề. Vậy thì khi nó bị sai như vậy thì phải chấn chỉnh cho đúng, pháp luật phải nghiêm minh trừng trị những vi phạm, về mặt đạo đức và xã hội".

Vẫn theo Phó giáo sư - Tiến sĩ Ngô Trí Long, cần chỉnh sửa lại những văn bản và nghị định cho vấn đề này theo đúng luật pháp vì theo nguyên tắc cung cầu, có cầu thì mới có cung. Do đó cần xem những mặt trái, bất cập để chỉnh sửa, vì nếu không thì những dịch vụ sử dụng "luật rừng" khi đòi nợ sẽ gây mất trật tự xã hội.

Nên có biện pháp chế tài

Giải thích rõ hơn về tình trạng này ở Việt Nam, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương nhận định :

"Trong thực tế hiện nay có một số người chây ì trả nợ và vì vậy chủ nợ phải sử dụng các công ty đòi nợ thuê nhưng rất đáng tiếc là các công ty đòi nợ thuê này hoạt động có những thủ đoạn ngoài pháp luật như khủng bố hoặc có những hoạt động phạm pháp một cách nghiêm trọng".

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh cũng cho rằng rõ ràng là cần phải hạn chế vi phạm pháp luật và tiêu cực của đòi nợ thuê, nhưng cấm hay là nên cho hoạt động trong một khuôn khổ pháp luật được hoàn thiện hơn thì chúng ta nên nghiên cứu từ thực tiễn. Tuy vậy, ông cũng đưa ra giải pháp :

"Theo tôi thì cần có sự tổng kết về thực tế đòi nợ thuê ở Việt Nam hiện nay diễn ra như thế nào và những vấn đề mà nó đã xảy ra, các đụng độ, vấn đề về an ninh. Qua đó cũng nêu lên những hạn chế về pháp luật rồi tổ chức một cuộc hội thảo, sau đó có kiến nghị và ý kiến. Khi có hai luồng ý kiến khác nhau thì tôi nghĩ cách tốt nhất chúng ta nên ngồi lại thảo luận và phân tích một cách khoa học".

Còn theo Đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc, hiện tại trong thông tin ông nhận được hoàn toàn không nói là không nên cấm mà luận chứng của bên trình lên Ủy ban công vụ còn nhiều điểm chưa rõ ràng. Ông tiếp lời :

"Tôi nghĩ việc đòi nợ thuê nếu về lý thuyết thì rất hay, có cơ chế, tổ chức thực hiện. Nhưng trên thực tế đất nước mình trên khá nhiều phương diện mà quản lý xã hội còn lỏng lẻo thì nó dễ trở thành nơi người ta lợi dụng và tính chất mafia có môi trường để nảy sinh. Vì thế tôi cho rằng ý thức của xã hội cũng rất e ngại. Đây là điểm khiến cho nhiều người băn khoăn. Một mặt nếu không có cơ chế ấy thì việc đòi nợ rất khó, nhưng giao phó cơ chế ấy thì người thực hiện có nghiêm chỉnh theo luật không thì đó lại là một câu hỏi chưa thể khẳng định được. Vì thế tôi cho rằng chắc phải tiếp tục được bàn, chứ nói thế không phải loại bỏ kiến nghị ấy".

Hầu hết các chuyên gia khi trao đổi với Đài Á Châu Tự Do đều cho rằng không nên bỏ loại hình kinh doanh đòi nợ. Tuy nhiên, để hạn chế những biến tướng của hình thức kinh doanh này, Việt Nam cần phải bổ sung thêm nhiều điều khoản trong Luật Đầu tư, như đề nghị của Luật sư Nguyễn Văn Hậu :

"Tôi thấy nếu đưa đây vào danh mục cấm đầu tư kinh doanh như cái đề nghị thì nó chưa ổn lắm vì chúng ta phải quy định những điều mà người đi đòi nợ thuê không được làm. Nếu đi đòi nợ mà họ dẫn ra xô xát, đánh nhau hoặc xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, quyền tự do các nhân, quyền tài sản, quyền dân sự khác của khách nợ, đây là những quy định cấm trong hoạt động đòi nợ thuê. Tôi cho rằng nếu quy định có thiều những điều này thì chúng ta phải bổ sung và phải có chế tài nghiêm khắc đối với những người lợi dụng việc này (đòi nợ thuê) để cưỡng đoạt tài sản, gây thương tích thì căn cứ vào quy định tố tụng hình sự để xử những tội này theo quy định Bộ luật Hình sự Việt Nam".

Đại biểu Dương Trung Quốc cũng cho rằng đối với bất kỳ luật nào cũng vậy, bên cạnh cơ chế cho họ quyền hạn thì cũng phải giám sát hết sức chặt chẽ và nghiêm túc vì những việc làm này rất dễ đi đến những thỏa thuận đằng sau luật, kể cả giữa người thuê và người thực hiện hay giữa người nợ và người đòi nợ nên có thể nhiều yếu tố tiêu cực xảy ra. Vì vậy ông cho rằng :

"Tôi nghĩ nó cần phải được nghiên cứu kỹ và nếu rõ ràng không thực hiện được, chưa đủ điều kiện thực hiện thì việc gác lại cũng có khả năng xảy ra như cách đặt vấn đề của TPHCM. Vấn đề còn lại là khắc phục nó bằng cái gì, thực hiện nó bằng cách gì để thay thế ? Có lẽ đây vẫn là bế tắc !"

Quay lại trang chủ
Read 467 times

Viết bình luận

Phải xác tín nội dung bài viết đáp ứng tất cả những yêu cầu của thông tin được đánh dấu bằng ký hiệu (*)