Kỷ niệm 30 năm ngày Mỹ bỏ cấm vận thương mại đối với Việt Nam
VOA, 03/02/2024
Hôm 2/2, Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam tổ chức buổi tọa đàm đánh dấu 30 năm ngày chính phủ Hoa Kỳ bãi bỏ cấm vận thương mại đối với Việt Nam, một cột mốc lịch sử đã đưa hai cựu thù trở thành đối tác thương mại lớn và hợp tác chặt chẽ ở tầm chiến lược trong nhiều lĩnh vực.
Tọa đàm 30 năm ngày Mỹ xóa cấm vận thương mại đối với Việt Nam do Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam tổ chức, ngày 2/2/2024. Photo Facebook US Embassy in Hanoi.
Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Marc Knapper nhận định trong sự kiện được trang Facebook của Đại sứ quán tường thuật trực tiếp rằng việc Washington bãi bỏ cấm vận thương mại đối với Hà Nội 30 năm trước có ý nghĩa rất quan trọng.
"Việc dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại đã mở đường cho tất cả các bước phát triển tuyệt vời trong quan hệ song phương Việt Nam-Hoa Kỳ".
Ông Knapper nói thêm rằng kể từ khi lệnh cấm vận thương mại được gỡ bỏ năm 1994 và hai nước bình thường hóa quan hệ năm 1995, đến năm 2022, kim ngạch thương mại hai song phương giữa Mỹ và Việt Nam đã đạt 139 tỷ USD, tăng gấp 300 lần so với năm 1995.
"Điều này có nghĩa là Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ 8 trên thế giới của Mỹ và đối tác thương mại lớn nhất của Mỹ ở ASEAN. Trong khi đó, Mỹ là đối tác thương mại lớn thứ hai và thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam", vẫn nhà ngoại giao Mỹ phát biểu.
Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam vào ngày 3/2/1994, một bước quan trọng được xem là tháo gỡ rào cản cuối cùng để tiến tới bình thường hóa thương mại, bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Việc chính thức thiết lập lại quan hệ ngoại giao diễn ra vào tháng 7/1995 đánh dấu bằng việc mở lại Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội và Đại sứ quán Việt Nam tại Washington DC.
Sự chuyển vai từ cựu thù thành đối tác ngoại giao này đã tạo tiền đề cho sự hợp tác trong nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm thương mại, giáo dục và an ninh khu vực. Vào tháng 9 năm ngoái, Hoa Kỳ và Việt Nam đã trở thành Đối tác Chiến lược Toàn diện, mức cao nhất trong thang bậc ngoại giao của Hà Nội.
"Tôi nghĩ đó là một quyết định thông minh của Mỹ. Sau khi cấm vận thương mại được dỡ bỏ, các ngân hàng và doanh nghiệp đã đồng loạt vào Việt Nam. Dường như tất cả bọn họ đã mong muốn từ rất lâu và chỉ chờ thời điểm này", trang VOV dẫn lời Tiến sĩ Cấn Văn Lực - Chuyên gia Kinh tế trưởng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), phát biểu tại buổi thảo luận.
Ông Bùi Quang Minh, CEO (Tổng giám đốc điều hành) hệ sinh thái dịch vụ đa ngành Beta Group, nói rằng khi lệnh cấm vận được bãi bỏ ông chỉ là một cậu thiếu niên 11 tuổi ở vùng nông thôn Vĩnh Phúc với môi trường giáo dục nghèo nàn, trường lớp thiếu thốn, nhưng nhờ vậy ông có cơ hội học thạc sĩ ở trường Đại học Harvard ở Mỹ, cũng như ông chứng kiến mối quan Việt-Mỹ ngày càng thắt chặt với nhiều thành quả to lớn ở nhiều lĩnh vực.
"Tôi cảm thấy thật biết ơn khi sống trong một thời kỳ mà mối quan hệ đối tác của chúng ta đem lại cho thế hệ chúng tôi rất nhiều giá trị, những điều mà cách đây nhiều năm có thể không tưởng tượng được", ông Minh phát biểu tại buổitọa đàm.
Vào đầu tháng 2/1994, Tổng thống Bill Clinton đã tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận thương mại kéo dài tới 19 năm mà Washington áp đặt lên Việt Nam, kể từ khi những người cộng sản thắng Việt Nam Cộng Hòa và kết thúc chiến tranh ở đất nước Đông Nam Á vào cuối tháng 4/1975.
Trước Tổng thống Clinton, vào ngày 14/12/1992, Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush tuyên bố bãi bỏ một phần lệnh cấm vận của Hoa Kỳ đối với Việt Nam.
Tổng thống Clinton dỡ bỏ cấm vận Việt Nam chủ yếu để khuyến khích các nỗ lực hợp tác giữa hai nước nhằm tìm kiếm các tù nhân chiến tranh người Mỹ (POW) và những người còn trong danh sách mất tích trong chiến tranh (MIA). Chính quyền Clinton cũng tin tưởng rằng quan hệ thương mại được cải thiện giữa Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ có lợi cho nền kinh tế của cả hai nước, theo Washington Post.
Một tài liệu phục vụ cho Quốc hội Mỹ viết rằng vào ngày 2/5/1975, sau khi Bắc Việt đánh bại đồng minh của Mỹ là Việt Nam Cộng Hòa (tức Nam Việt Nam), Tổng thống Mỹ Gerald Ford đã mở rộng lệnh cấm vận trước đó áp dụng cho Bắc Việt đã có từ năm 1964 của Tổng thống Richard Nixon và áp dụng cho toàn lãnh thổ Việt Nam thống nhất, theo đó các hoạt động thương mại song phương và các giao dịch tài chính đều bị cấm.
Một bản tin đăng trên cổng thông tin củaBộ Quốc phòng Mỹ cho thấy Chính phủ Mỹ tin rằng Việt Nam đã vi phạm Hiệp định Hòa bình Paris, hiệp định chấm dứt chiến tranh năm 1973, và chưa hoàn thành nghĩa vụ giải trình về các tù binh Mỹ, và chính những điều này dẫn đến việc Washington thực hiện lệnh cấm vận toàn quốc đối với Việt Nam.
Trong một cuộc trao đổi với VOA trước đây, ông Chris Runckel, nhà ngoại giao Mỹ đầu tiên đến Việt Nam vào tháng 1/1994, cho biết ông đã có mặt ở Hà Nội khi Tổng thống Clinton tuyên bố xóa cấm vận Việt Nam. Ông cho hay vào thời điểm đó gia đình ông phải ở trong khách sạn suốt 7 tháng ròng rã, chứ chưa được ra ngoài thuê nhà hay căn hộ vì hai bên "cứ gây áp lực cho nhau vì các cuộc đàm phán chưa ngã ngũ".
Ông Runckel nói : "Ban đầu mối quan hệ của cả hai bên là không ai trong chúng tôi thực sự biết nhiều về bên kia. Và đã có rất nhiều nghi ngờ từ cả hai phía".
Nhìn lại chặng đường đã qua, ông Runckel nhận định rằng mối quan hệ giữa hai quốc gia cựu thù tiến triển "rất ấn tượng và đáng ngợi khen". Ông nói : "Từ lúc ban đầu với bao điều nghi kỵ và ngờ vực, nay Washington và Hà Nội là những người bạn".
Tạp chí Đầu tư và Tài chính (Việt Nam Finance) hôm 2/2 có bài viết với tựa đề : "30 năm Hoa Kỳ bỏ cấm vận : Từ cựu thù tới đối tác chiến lược toàn diện", nhận định rằng "dẫu có những nỗ lực ngoại giao từ hai phía để thay đổi tình hình, lệnh cấm vận cuối cũng đã kéo dài gần 20 năm vì nhiều lý do khác nhau". Nhưng điều đáng mừng là "Việt Nam giờ đây đang dần trở thành một đối tác kinh tế quan trọng của Hoa Kỳ".
Nguồn : VOA, 03/02/2024
***************************
Hơn 30 nghị sĩ Mỹ phản đối việc xét công nhận kinh tế thị trường cho Việt Nam
VOA, 03/02/2024
Hai nhóm nghị sĩ Mỹ với hơn 30 người vừa kêu gọi chính quyền Biden không công nhận quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam, giữa lúc giới chức Hà Nội cố gắng vận động Washington để sớm chấm dứt cảnh nhiều thập niên nay Việt Nam bị liệt vào hạng kinh tế phi thị trường.
Trụ sở Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ở Hà Nội
Các yêu cầu của các nghị sĩ được gửi đến Bộ trưởng Bộ Thương mại Mỹ Gina Raimondo trong bối cảnh bộ này đang xem xét lại quy chế cho Việt Nam, dự kiến sẽ hoàn tất vào cuối tháng 7 tới.
Thượng nghị sĩ Elizabeth Warren, đại diện bang Massachusettes, người đứng đầu một lá thư có chữ ký của 8 thượng nghị sĩ, nêu quan điểm trong mộtthông cáo hôm 29/1 : "Việc cấp quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam mà các tiêu chuẩn lao động chưa được cải thiện, bao gồm cả việc bật đèn xanh cho hàng hóa có sử dụng lao động cưỡng bức ở Trung Quốc, sẽ là một sai lầm nghiêm trọng".
Các thượng nghị sĩ nhấn mạnh việc sử dụng lao động trẻ em và lao động cưỡng bức ở Việt Nam cũng như mối quan hệ thương mại ngày càng tăng của nước này với Trung Quốc, đồng thời lập luận rằng việc trao quy chế nền kinh tế thị trường sẽ làm trầm trọng thêm những sự méo mó thương mại đang diễn ra và đe dọa người lao động và các ngành công nghiệp Mỹ, theobức thư đề ngày 28/1.
Bà Warren nói thêm : "Bộ trưởng Raimondo nên lắng nghe mối quan ngại của người lao động Mỹ, không gây nguy hiểm cho an ninh việc làm của họ bằng chính sách thương mại tồi tệ".
Tương tự, 25 dân biểu cũng gửithư chung đến Bộ trưởng Raimondo, lập luận rằng Việt Nam không đáp ứng các yêu cầu về thủ tục để thay đổi tình trạng.
"Chính phủ của chúng ta đã hoàn thành nghiên cứu sâu rộng để xác định rõ vai trò của Việt Nam như là một kênh chuyển tiếp hàng hóa Trung Quốc được buôn bán không công bằng nhằm tránh né luật thương mại đã có từ lâu. Chúng tôi phải đảm bảo luật thương mại của chúng ta không bị xâm phạm", một thông cáo dẫn lại lời của Dân biểu Rose DeLauro, đại diện bang Connecticut.
Thư của 25 dân biểu gửi Bộ Thương mại yêu cầu không cấp quy chế kinh tế cho Việt Nam.
Các nghị sĩ cảnh báo một "quyết định vội vàng … sẽ làm suy yếu việc thực thi luật thương mại và an ninh quốc gia của Hoa Kỳ, chỉ càng khuếch trương và tạo lợi thế cho Đảng cộng sản Trung Quốc và Đảng cộng sản Việt Nam mà thôi", và làm tổn thương các ngành công nghiệp Mỹ cũng như người lao động của họ".
Các nghị sĩ cũng nhắc lại việc Bộ Tài chính Mỹ gửi tờ trình tới Quốc hội lưu ý rằng chưa có đối tác thương mại lớn nào thao túng tiền tệ của Mỹ, nhưng đã đưa Việt Nam trở lại "danh sách giám sát" về chính sách ngoại hối. Bộ Thương mại Mỹ công bố vào tháng 10/2023 rằng họ sẽ xem xét tình trạng nền kinh tế phi thị trường của Việt Nam, quá trình sẽ hoàn tất trong 270 ngày.
Các dân biểu lập luận rằng có bằng chứng rõ ràng cho thấy Việt Nam vẫn là một quốc gia chuyên chế với sự kiểm soát của nhà nước đối với các khía cạnh quan trọng của nền kinh tế. "Bộ Thương mại phải bảo vệ tính hiệu quả của luật thương mại quốc gia bằng cách duy trì tình trạng nền kinh tế phi thị trường của Việt Nam", bức thư viết.
VOA đã liên lạc Bộ Thương mại Mỹ và Bộ Ngoại giao Việt Nam, đề nghị họ cho ý kiến về hai bức thư của các nghị sĩ Mỹ, nhưng chưa được phản hồi.
Gần đây, các lãnh đạo Việt Nam thường xuyên vận động giới chức Mỹ công nhận nền kinh tế thị trường của Việt Nam.
Vào tháng giữa 11/2023, khi phát biểu tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại ở San Francisco, Chủ tịch nước Việt Nam Võ Văn Thưởng kêu gọi Mỹ công nhận Việt Nam là nền kinh tế trường. Ông Thưởng nói rằng việc này cần được thực hiện "bằng quyết sách chính trị" chứ "không nên theo quy định một cách cứng nhắc".
Trước đó, vào tháng 9/2023, Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính đưa ra đề nghị tương tự trong cuộc gặp với Bộ trưởng Thương mại Mỹ Gina Rainmondo và Đại diện Thương mại Mỹ Katherine Tai tại thủ đô Washington của Mỹ.
Phản hồi yêu cầu bình luận của VOA vào tháng 11/2023, Bộ Thương mại Mỹ cho biết họ "sẽ xem xét tình trạng của Việt Nam một cách nhanh chóng nhất có thể, phù hợp với luật pháp Hoa Kỳ".
Nguồn : VOA, 03/02/2024