Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Hoàng Dung - Cõi trời cõi ta

Trịnh Bình An, hocxa.com, 20/6/2023

Hoàng Dung tên thật là Hoàng Xuân Trường. Ông từng là một đại úy Quân y trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Sau khi đến Hoa Kỳ, ông học lại và sau đó hành nghề Y khoa. Hoàng Xuân Trường được nhiều người nói tới như một bác sĩ tận tâm, một người hiền lành và ít nói.

hoangdung1

Nhà văn Hoàng Dung

Tôi đặt nghề nghiệp và tư cách của Hoàng Dung ngay phần mở đầu là có lý do, vì tôi cho rằng chính tấm lòng "lương y như từ mẫu" của tác giả mà "Cõi trời cõi ta"trở thành cuốn sách đặc sắc, đặc sắc đến nỗi tôi phải bỏ hẳn một ngày chủ nhật đầu Xuân tuyệt đẹp, tự giam mình trong phòng để viết những dòng chữ này.

Tôi cho rằng người đọc chỉ có một bổn phận duy nhất, đó là phải làm sao cho mình có được cảm giác thống khoái qua việc đọc sách. Muốn như thế, người đọc phải để cho mình tự do đi theo những cảm xúc hay suy nghĩ của chính mình dù cho đó là những cảm xúc, suy nghĩ điên rồ nhất. Người viết, trái lại, vì muốn truyền đạt ý tưởng của mình đến người đọc nên không thể quá buông thả. Người viết luôn luôn phải cân nhắc, lọc lựa những cảm xúc, suy nghĩ sao cho ý tưởng được chuyển tải gọn ghẽ, rõ ràng, và chính xác. Chính vì lẽ đó mà thường khi người viết chỉ có thể bày tỏ phần nào điều mình muốn nói. Thành thử câu "ý tại ngôn ngoại" cho thấy phần nào sự khổ tâm của người viết.

Vậy nên, khi người đọc để tâm tưởng buông lung là khi người đọc có cơ may đến gần với người viết nhất bởi người đọc đã giúp người viết nói ra những điều người ấy muốn nói mà chưa thể, hay không thể, nói toạc ra. Cứ cho là tôi quá tự tin khi nghĩ như thế, nhưng có hề chi, nếu tôi không tận hưởng cái khoái của việc đọc sách thì tại sao tôi cần đọc sách ? Và tôi đã đọc "Cõi trời cõi ta" bằng cái trí buông thả như vậy.

Trước đây Hoàng Dung đã viết cuốn sách có tựa "Đi về cõi vô cùng" với những đề tài về thiên văn học. Lần này "Cõi trời cõi ta" thì ngoài "trời" ra còn có cả "ta" nữa. Vậy thế nào là "cõi trời", thế nào là "cõi ta" theo Hoàng Dung ?

hoangdung2

Sách "Cõi trời cõi ta", Hoàng Dung, Amazon xuất bản, 380 tr.

Trong "Cõi trời cõi ta", những bài viết như "Thời gian", "Bốn mùa", "Trăng sao và tháng ngày", "Những thăng trầm của trái đất"… trình bày một số hiện tượng tự nhiên trong vũ trụ và trên trái đất. Ở "cõi trời" cái này tạo thành cái kia, cái nọ hủy diệt cái khác theo những quy luật của tự nhiên. Ở "cõi trời" vạn vật tuân theo những định luật ngàn đời mà chuyển biến. Do đó, "cõi trời" tuy bao la vô cùng nhưng lại là một nơi có những nguyên tắc và trật tự hết sức rành mạch, dứt khoát.

So với "cõi trời" thì "cõi ta" cực kỳ bé nhỏ, chỉ là một nhúm homosapien chíu chít trên mặt trái đất. Nhưng cái "cõi ta" ấy sao mà rối rắm quá. "Cõi ta" đầy những tham vọng và ngu dốt, đầy những mơ mộng và yêu thương. Hoàng Dung viết về "cõi ta" ấy với những nhớ nhung quyến luyến trong "Nhớ về một người bạn đã nằm xuống", "Thủy quân lục chiến Việt Nam trong Mùa hè đỏ lửa" ; với những ưu tư trăn trở trong "Tương quan lực lượng Trung Hoa-Việt Nam tại Biển Đông" ; với những băn khoăn thắc mắc trong "Từ kiếm hiệp đến khoa học giả tưởng", "Vài liên tưởng phân tâm học qua thơ Bùi Giáng", "Nguyễn Tất Nhiên và vấn đề tự tử"… Tóm lại, "Cõi ta" của Hoàng Dung là một thế giới rắc rối và khó hiểu vì con người vốn đã khó hiểu và rắc rối.

Hãy cứ tạm cho rằng "cõi trời" là thế giới tự nhiên còn "cõi ta" là thế giới con người, từ đó sẽ thấy tác giả là người thích nghĩ ngợi, khi thì lan man chuyện "cõi trời", khi lại băn khoăn chuyện "cõi ta". Thế nhưng, điểm đặc biệt ở đây là dù đã chia hai "ta" và "trời" riêng rẽ theo từng đề tài nhưng Hoàng Dung vẫn không muốn tách hai cõi này hẳn với nhau, trời riêng trời, ta riêng ta, mà lại thích để cho cõi này chen lẫn vào cõi kia.

Như trong bài "Nguồn gốc và tương lai vũ trụ", lúc nói về thuyết Big Bang, Hoàng Dung đã chen "ta" vào "trời" khi viết :

Vì quan niệm hiện đại về sự khai sinh vũ trụ, hay thuyết Big Bang cũng đề cho là vũ trụ được khai sinh từ "mảy may", từ một điểm rất nhỏ, nhỏ hơn cả một hạt điện tử, nhưng trong đó có chứa một năng lượng vô hạn. Điểm này được gọi là điểm vô cực, nhưng đúng hơn, có thể dùng một từ ngữ trong thơ Mai Thảo là điểm "vô hình tướng" - "Điểm cuối đường sương điểm hiện dần. Hiện cùng điểm mất ở vong thân. Đáy xe, từ điểm vô hình tướng. Chết rũ theo người ở dưới chân". Từ điểm "vô hình tướng" đó, khoảng gần mười lăm tỷ năm trước, một năng lượng cực độ đã nổ bùng và nhanh chóng sinh hóa để trở thành vũ trụ (*).

Loài người của "cõi ta" thường thích nhìn "cõi trời" theo con mắt chủ quan của mình. Cái điểm "mảy may" của vũ trụ có gì là vui, có gì là buồn, nhưng khi trở thành điểm "vô hình tướng" thì thể nào cũng sẽ kèm theo một nỗi buồn man mác. Cách nhìn sự vật tự nhiên theo con mắt chủ quan giúp cho loài người tạo nên một sản vật đặc biệt mà chỉ có loài người mới có, đó là nghệ thuật, trong đó thơ là một.

Một điều dễ thấy, Hoàng Dung rất yêu thơ, dường như bất kỳ hiện tượng tự nhiên nào cũng dễ dàng gợi nhắc ông nhớ tới một câu thơ. Như trong bài "Việt Nam thời kỳ tiền lịch sử", khi nhắc tới sông Mã, ông nhớ ngay đến những câu thơ của Quang Dũng :

Đường tiếp giáp của hai tiểu lục địa này là sông Mã, giòng sông hùng tráng trong thơ Quang Dũng "Áo bào thay chiếu anh về đất. Sông Mã gầm lên khúc độc hành". Nhưng hơn 200 triệu năm trước, sự tiếp giáp giữa hai tiểu lục địa còn mạnh hơn tiếng gầm của dòng sông Mã hàng muôn triệu lần. Đất trời rung chuyển, bờ đất tiểu lục địa Indochina bị dội nên, tạo nên dãy Trường Sơn (*).

Cái cách chen thơ vào kể ra cũng hay, nó giúp cho những kiến thức khoa học bớt khô khan. Người đọc còn có thể "nhìn" ra các hiện tượng tự nhiên qua những hình ảnh sống động của thơ, như "gầm lên" vẽ ra quang cảnh trời đất rung chuyển, còn "điểm cuối đường sương" vẽ ra một điểm rất mờ, rất ảo, đến mức gần như không có. Cái "thấy" của sự tưởng tượng có khi cụ thể và linh hoạt hơn cái thấy của mắt nhìn là thế.

Không chỉ yêu thơ, Hoàng Dung còn yêu cả người thơ. Ông nghĩ nhiều về Bùi Giáng và Nguyễn Tất Nhiên, hai thi sĩ miền Nam nổi tiếng với những bài thơ trữ tình nhất, ảo diệu nhất. Nhưng tới đây Hoàng Dung lại không nằm hẳn trong "cõi ta" để mê đắm trong các vần điệu du dương, chữ nghĩa mật ngọt, tới đây Hoàng Dung lại đứng về bên "cõi trời" - vùng đất của các quy luật tự nhiên - để phân tích và tìm hiểu Bùi Giáng và Nguyễn Tất Nhiên ở góc độ của một người làm khoa học, một bác sĩ y khoa.

Trong bài "Vài liên tưởng phân tâm học qua thơ Bùi Giáng", trước khi đi vào nguyên cớ gây nên chứng điên của Bùi Giáng, Hoàng Dung đưa ra một số ý niệm cơ bản về phân tâm học, đó là Ngã, Siêu Ngã, và Di Ngã.

Nhân cách khác biệt của mỗi chúng ta là do mức độ thăng bằng khác nhau giữa Ngã, Siêu Ngã và Di Ngã. Đời sống tâm linh của con người là một tiến trình liên tục ; một mặt thâu thập những kinh nghiệm, cảm xúc, kiến thức ; mặt khác giải tỏa nhừng ẩn ức, âu lo, những đòi hỏi chất chứa trong bản năng. Sự mâu thuẫn giữa những đòi hỏi vô thức của Di Ngã với những cấm đoán và giới hạn của Siêu Ngã nếu không được giải quyết sẽ tạo nên một cảm giác bất an trong ý thức (Ngã) (*).

Ở một đoạn khác, Hoàng Dung phân tích lý do tại sao nghệ thuật nói chung, thơ nói riêng, có thể đem lại cho ta cảm giác thích thú.

Thú sáng tạo và thưởng ngoạn nghệ thuật được coi như tổng hợp của hai yếu tố : thứ nhất là cảm giác bình yên do sự giải thoát những lo âu, những ký ức bị dồn nén hay chôn kín, và mặt khác là cảm giác khoan khoái tiếp thu được do nhừng thỏa mãn trực tiếp (immediate gratification). Hãy đọc câu thơ của Nguyễn Nhược Pháp : "Yêu nàng bao nhiều người làm thơ". Dĩ nhiên, trong số "bao nhiêu người làm thơ" này chưa chắc có ai được nàng yêu lại, nhưng không ai có thể cấm họ mơ mộng để có những khoảnh khắc hạnh phúc nhất thời. Cái hạnh phúc dựa trên một thực tại giả tạo đó phân tâm học gọi là "những thỏa mãn trực tiếp" (*).

Ngoài ý niệm về Ngã, Siêu Ngã, Di Ngã, "cảm giác bình yên", và "thỏa mãn trực tiếp", Hoàng Dung còn nói về sự "thoái bộ" và "phóng ngoại".

"Thoái bộ" là khi chúng ta bắt gặp trong nội dung bài thơ nhừng ẩn ức nội tâm tương ứng, lúc đó tâm hồn chúng ta tự động trở về (thoái bộ) trạng thái tâm lý ấu thơ, lúc siêu ngã còn yếu kém. Vì thế, tâm hồn chúng ta thường có khuynh hướng hoài vọng về một dĩ vàng mơ hồ. Bùi Giáng là thi sĩ thoái bộ thường xuyên và sâu xa với những câu thơ có các hình ảnh siêu thực như : "Người đi xiêm mỏng xuôi triều nước xanh", hay, "Mai kia có héo đầu ghềnh. Ngó sang trời lạ thấy mình mất thu", v.v.

"Phóng ngoại" là gán những ý nghĩ, cảm xúc của mình ra ngoại giới để giao hòa tâm tư của mình với trời đất, để không còn thấy run sợ trước những điều mình không biết, không hiểu, hay run sợ vì thấy thân phận mong manh của ta trước cái bệnh, cái chết, cái già nua. Vì thế, làm thơ, nói theo Bùi Giáng là "Một cách dìu ba đào về một phương trời khác. Đi vào giữa trung tâm bão động một lúc thì lập tức xô ngôn ngữ thoát ra, phá vòng vây áp bức". Một câu thơ mang tính chất phóng ngoại của Bùi Giáng như : "Cá khe nước cõng lên đồng. Ruộng hoang mang khóc đêm mồng một giêng. Tại từ tháng chạp quay nghiêng. Ầm trong sử lịch thu triền miên trôi".

Với người bình thường như chúng ta, lâu lâu mới có các "cơn" thoái bộ và phóng ngoại (thường được gọi bằng cái tên mỹ miều là "cảm hứng"), nhưng riêng với Bùi Giáng thì ông thoái bộ và phóng ngoại thường xuyên hơn, sâu xa hơn. Kết quả, thơ Bùi Giáng rất lạ thường nhưng chính Bùi Giáng lại trở thành rất bất thường, nói trắng ra là… điên.

Tôi được Uyên Thao kể cho nghe một mẩu chuyện "bất bình thường" của Bùi Giáng. Lúc đó hai người cùng làm cho tờ Giáo Dục Phổ Thông. Khi thấy Uyên Thao sắp viết một bài phê bình thơ Xuân Diệu, Bùi Giáng bảo Uyên Thao rằng khi viết về Xuân Diệu là phải ăn cháo chứ không được ăn cơm, thêm nữa, phải thắp nến chứ không được để đèn điện. Sau đó Uyên Thao viết xong bài, đưa cho thợ sắp chữ. Bùi Giáng thấy vậy bèn hỏi lại Uyên Thao "Mày có làm theo lời tao nói không ?". Uyên Thao đáp "Tao quên mất rồi, tao vẫn ăn cơm và để đèn điện bình thường". Vừa nghe xong, Bùi Giáng nổi giận, vác nguyên cái máy chữ nặng chịch liệng Uyên Thao !

Đó là trường hợp của Bùi Giáng, còn Nguyễn Tất Nhiên thì sao ? Tại sao Nguyễn Tất Nhiên tự tử ? Không nhẽ khả năng "thoái bộ" và "phóng ngoại" của thơ không giúp gì được cho nhà thơ hay sao ?

Để tìm hiểu cái chết của Nguyễn Tất Nhiên, trước tiên Hoàng Dung nhắc đến David Émile Durkheim (1858-1917) , nổi tiếng với những công trình nghiên cứu về xã hội, trong đó có tác phẩm "Suicide". Theo Durkheim, có 4 loại tự tử chính :

Tự tử vì mất phương hướng (anomic suicide) : Xảy ra với những người không thích hợp được với những thay đổi đột ngột của xã hội, lúc đó họ cảm thấy lạc lõng, mất phương hướng và thường xuyên thất vọng. Như Maiakovski tự tử vì thất vọng với chủ nghĩa cộng sản, hay, Mishima (tác giả Kim Các Tự) tự tử vì không chịu nổi sự suy sụp của tinh thần võ sĩ đạo của Nhật Bản.

Tự tử vì bị áp chế (fatalistic suicide) : xảy ra với những người bị áp bức, họ thấy tương lai đen tối không lối thoát, mọi ước mơ đều bị dập tắt. Đây là trường hợp của những tu sĩ Tây Tạng tự thiêu để phản đối sự cai trị tàn bạo của Trung Quốc.

Tự tử vị tha (altruistic suicide) : Xảy ra với những người mà mối quan hệ của họ với xã hội, với cộng đồng quá bền chặt. Những cái chết của Đặng Dung, Hoàng Diệu, Nhất Linh, Nguyễn Khoa Điềm, là những cái chết vị tha. Cuộc đời của họ đã gắn liền với quốc gia, dân tộc, đồng đội. Họ tìm cái chết để giừ gìn khí tiết không nhừng cho bản thân mình mà còn cho tập thể.

Tự tử vị kỷ (egoistic suicide) : Xảy ra với nhừng người gặp khó khăn trong mối giao tiếp với xã hội chung quanh. Ngược lại với "tự tử vị tha", người "tự tử vị kỷ" thường có thích sống co cụm, tách rời xã hội. Nếu căn cứ trên thi văn, cái chết của Nguyễn Tất Nhiên là một cái chết vị kỷ. Nguyễn Tất Nhiên không bao giờ thích ứng được với xã hội xung quanh.

Nguyễn Tất Nhiên luôn sống cô đơn như một tu sĩ : "Vì tôi là linh mục, không mặc chiếc áo dòng. Nên suốt đời hiu quạnh, nên suốt đời lang thang". Nguyễn Tất Nhiên không chỉ gặp khó khăn với những người tình mà còn đối với cuộc đời : "Mỗi cuộc sống phải mua bằng nhục nhã. Mỗi mặt trời, trả giá một hoàng hôn". Từ đó, Nguyễn Tất Nhiên phải thu mình vào chính bản thân, "Khi mòn mỏi, nghe đời mình trắc trở. Hơn lúc nào tôi quá đỗi thương tôi".

Từ những thể hiện như trên và tương tự trong các bài thơ của Nguyễn Tất Nhiên, Hoàng Dung đưa ra nhận định :

Khuynh hướng thu những cảm xúc cay đắng vào chính bản thân này có lẽ là một yếu tố khiến Nguyễn Tất Nhiên lúc nào cũng nghĩ đến "thế nào rồi tôi cũng giết tôi", vì theo phân tâm học, tự tử là hướng cái bản năng hủy phá vào chính bản thân mình (*).

Nguyễn Tất Nhiên cũng dùng thơ như một cách để thoái bộ, trở về thời thơ ấu, hay, hoài cảm : "Tôi có cánh buồm tấp về ký ức. Em có chỗ ngồi quên lãng như mây". Nguyễn Tất Nhiên cũng phóng ngoại, ông không những gán tâm tư mình vào ngoại giới mà còn muốn điều khiển ngoại giới theo ý mình : "Thà như giọt mưa, gieo xuống mặt người, vỡ tan vỡ tan. Nào ta ân hận, bởi còn kịp nghe, nhịp run vồi vội, trên ngọn lông măng, (người từ trăm năm vì ta phải khổ)".

Khi một người vừa hướng bản năng phá hủy vào chính mình, vừa thấy mình có quyền định đoạt số phận chính mình (như giọt mưa vỡ tan), thì kết quả không xa là người ấy sẽ tự mình tìm đến cái chết. Quả thật, khi chỉ mới 20 tuổi, Nguyễn Tất Nhiên đã từng nghĩ tới cái chết của chính mình, "Ta phải khổ cho đời ta chết trẻ. Phải ê chề cho tóc bạc với thời gian. Phải đau theo từng hớp rượu tàn. Phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định". Để rồi, ông ra đi lặng lẽ - khi chỉ mới 40 tuổi - trong một chiếc xe hơi cũ, đúng như những câu thơ định mệnh, "Vì tôi là linh mục, không biết rửa tội người, nên âm thầm lúc chết, tội mình còn thâm vai".

Qua cơn điên của Bùi Giáng và cái chết của Nguyễn Tất Nhiên, Hoàng Dung nhận thấy giữa thơ và phân tâm học có một mối liên hệ tinh tế. "Cõi ta" với những tâm lý phức tạp của con người có thể được làm sáng tỏ bằng những phân tích rành mạch của khoa học của "cõi trời". Ở đây, Hoàng Dung không đọc thơ hoàn toàn như một người thưởng ngoạn nữa mà làm công việc của một bác sĩ, nghe ngóng, suy luận, so sánh, để tìm ra căn bệnh.

Nói cho cùng, ai trong chúng ta mà không có "bệnh". Thường ngày, ta vẫn phàn nàn về người này, người nọ ; vẫn cứ ta thán về những tánh xấu của người chung quanh. Nhưng ta có bao giờ dừng lại một phút để tự hỏi tại sao người đó lại nói như thế, làm như thế. Biết đâu chừng người đó có điều gì đó chìm sâu trong vô thức khiến họ làm ra những hành động kỳ quặc, phi lý mà ngay chính họ cũng không ý thức được. Riêng Hoàng Dung, với kiến thức và tấm lòng của một lương y, ông hiểu được điều ấy, vì thế ông đưa ra trường hợp của Bùi Giáng và Nguyễn Tất Nhiên với mong mỏi khơi gợi một cách xét người dung dị hơn. Ông viết :

Chúng ta quen nghĩ ‘nhân chi sơ, tính bản thiện’. Giờ đây thử nhìn con người trên căn bản vô thức với những bản năng tình dục, bản năng hủy phá và những phương thức tự vệ tâm lý, có thể chúng ta sẽ khách quan hơn, sẽ thông cảm và thương yêu con người nhiều hơn (*).

Hoàng Dung định bệnh Bùi Giáng và Nguyễn Tất Nhiên, thế đến lượt Hoàng Dung thì ai sẽ định bệnh Hoàng Dung ? Bỗng chợt nhớ câu "Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như !".

Trong bài "Từ kiếm hiệp đến khoa học giả tưởng", Hoàng Dung tự kể về mình :

Tôi là người thiếu thực tế, suốt đời thích đọc những truyện viễn mộng. Mới chín mười tuổi, tôi bắt đầu đọc Bồng Lai Hiệp Khách, Giao Trì Hiệp Nữ … Vào Nam, học đệ thất đệ lục, tôi mê với Lục Kiếm Đồng, Không Không Sư Tổ… Lên đến đệ nhị, tôi bắt đầu làm quen với Kim Dung, qua Anh Hùng Xạ Điêu. […] Ra trường, đi lính, đi hành quân hay về hậu cứ, tôi bỏ tiền mướn tháng để đọc tất cả truyện kiếm hiệp mới ra. […] Sang đến đất Mỹ, tôi quay sang đọc truyện khoa học giả tưởng (*).

Hoàng Dung khai "bệnh", rồi loay hoay phân tích :

Nếu so sánh giữa kiếm hiệp và khoa học giả tưởng ta thấy hai trường phái văn học cực kỳ viễn mơ này có những khác biệt căn bản. Người phương Đông thả hồn vào cõi hoang đường bằng cách đắm chìm trong những hoàn cảnh và nhân vật của quá khứ, đồng hóa vào nhừng khả năng phi thường của nhân vật. Trong khi đó, người Tây phương để cho tâm hồn vơ vẩn trong nhừng hoàn cảnh tương lai.

Những khác biệt căn bản kể trên có lẽ bắt nguồn từ những vũ trụ quan và khác biệt trong nội tâm con người. Người Tây phương luôn tìm cách phân tích, giải thích hay làm chủ ngoại giới, còn người Đông phương có khuynh hướng hòa đồng với ngoại giới (*).

Phải chăng tính ưa làm chủ ngoại giới chính là khuynh hướng "phóng ngoại", còn tính thích hòa đồng với ngoại giới lại là khuynh hướng "thoái bộ" như vừa kể ra ở trên. Và Hoàng Dung khi mê say đọc cả truyện kiếm hiệp lẫn truyện khoa học giả tưởng là ông đã tìm cách điều hòa tâm hồn của mình, giúp nó tìm đến một cõi bình yên, dù biết đó chỉ là bình yên thoáng chút.

Bởi vì trái tim Hoàng Xuân Trường, thực ra, không bao giờ bình yên !

Ông vẫn hằng nghĩ tới những giây phút lửa đạn năm nào, tới những đồng đội đã nằm xuống. Đó là nỗi day dứt không nguôi, những câu hỏi không lời giải đáp, vì tại sao "những người bạn hy sinh đầu tiên trong khóa [Quân Y 17] lại là những anh bạn hiền lành dễ thương nhất", hay, xót xa hơn, "Tại sao chúng ta thua trận ?".

Nhưng chính nhờ có những dày vò trăn trở ấy mà "Cõi trời cõi ta" không còn là một cuốn biên khảo khô khan nữa. Đó cũng là lý do tôi muốn nói tới ngay từ lúc mở bài, rằng nếu không nhờ có tấm lòng của một người thày thuốc tận tâm thì cuốn sách không chắc đã làm tôi thích thú.

Nói chung, "Cõi trời cõi ta" không phải là một cuốn sách dễ đọc, nó đòi hỏi sự tĩnh tâm và suy ngẫm. Nhưng làm sao khác được, có ai muốn tìm hiểu cái cao sâu vòi vọi của Cõi Trời và cái chằng chịt chi ly của Cõi Ta mà lại không muốn bận tâm suy nghĩ ? Nhưng đến với "Cõi trời cõi ta" hay nhất có lẽ là cứ buông thả cho mình đi theo những giòng chữ của tác giả, hãy cứ coi tác giả như một người kể chuyện, và hãy để mặc cho các cảm xúc của mình hoặc bay lên trời hoặc lẫn vào ta.

Ta vừa kể chuyện Em nghe

Lòng ta mở mắt, Em che giọt buồn

(Non Sông Hoài Niệm - Vương Đức Lệ) (*)

Trịnh Bình An

Nguồn : hocxa.com, 20/06/2023

Chú thích :

- Những đoạn đánh dấu (*) trong bài là trích nguyên văn trong "Cõi trời cõi ta".

- "Ý tại ngôn ngoại" : Ý ở ngoài lời. Chỉ những điều hàm ý, không nói thẳng ra, người nghe phải tự suy lấy mà hiểu.

- "Bất tri tam bách dư niên hậu. Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ?" : Đây là hai câu kết trong bài thơ "Độc tiểu thanh ký" của thi hào Nguyễn Du, tức Tố Như. Nghĩa là "Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa. Thiên hạ ai người khóc Tố Như ?"

***

hoangdung3

"Đi vào cõi vô cùng", Nhà xuất bản Trẻ (Việt Nam) / Kệ sách Học Xá

- Hoàng Dung đã có 3 cuốn sách được in, "Sau bức màn đỏ" (Tủ sách Tiếng Quê Hương), "Chiến Tranh Đông Dương III" (Nhà xuất bản Văn Nghệ California), riêng cuốn "Đi vào cõi vô cùng" được Nhà xuất bản Trẻ in ngay trong nước.

************************

Hoàng Dung - Đi vào cõi vô cùng 

Nguyễn Xuân Vinh, hocxa.com, 20/06/2023

Lời giới thiệu

Năm 1963, trên quê hương Việt Nam, một thanh niên vừa hoàn tất bậc Trung học như bao thanh niên Việt khác. Vốn kiến thức của anh được căn cứ vào mười hai năm học theo một chương trình để lại từ thời Pháp thuộc, một chương trình tuy đã được nhiều lần sửa đổi, lúc thêm, lúc bớt, nhưng chưa bao giờ được duyệt lại toàn diện cho thích hợp với nền văn minh nhẩy vọt của thế giới trong thế kỷ XX.

hoangdung4

Một quân nhân chụp ảnh kỷ niệm trước cổng Trường Đại học Y khoa Sài Gòn trước 1975 - Ảnh minh họa

Năm 1970, anh trở thành một bác sĩ quân y để rồi những năm sau phục vụ ngoài mặt trận, ngành chuyên môn của anh, sau nhiều năm thụ huấn tại đại học và các bệnh viện ở đô thành, nay được trau giồi và tinh luyện thêm khi anh săn sóc thương binh ngoài chiến trường. Trước đó một năm, vào ngày 21/7/1969, là sứ giả của nhân loại, phi hành gia Neil Armstrong đặt bước chân đầu tiên lên mặt trăng. Giấc mơ của loài người được lên Cung Quảng nhìn tận mắt chị Hằng đã được thực hiện.

Ở Hoa Kỳ và ở nhiều nước văn minh khác trên thế giới, ở những lớp tiểu học, các em bé đã từ lâu tập làm bằng giấy bồi và những quả bóng xốp buộc bằng những sợi dây nhỏ, những mô hình Thái dương hệ với những hành tinh theo thứ tự xa gần từ mặt trời. Sau chuyến bay lên mặt trăng của phi thuyền Apollo 11, Neil Armstrong được cử đi thăm viếng những nước bạn của Hoa Kỳ và đã ghé Sài Gòn, thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa. Vào dịp đó, được đọc những thông tin phổ biến từ Tòa đại sứ Hoa Kỳ, chàng thanh niên nước Việt, nay là bác sĩ quân y Hoàng Xuân Trường, mới chợt nhận thấy những gì thiếu sót trong chương trình trung học nước nhà. Một trong những phần lệch lạc đó là môn Thiên văn học, trước kia được để trong năm học cuối cùng, nhưng không may mắn cho thế hệ của anh, đã bị bãi bỏ từ mấy năm trước. Với một chương trình học không đầy đủ, người thanh niên Việt, sau khi tốt nghiệp bậc trung học, có thể không biết được vị trí của địa cầu trong không gian, và trên trái cầu nhỏ bé trong vũ trụ vô cùng này, với kiến thức hạn hẹp, khi thời thế đưa đẩy mà anh phải ra nước ngoài để tranh đua với các bạn đồng nghiệp ngoại quốc, đứng trên một bình diện, chắc chắn anh sẽ bị thiệt thòi.

Nhưng bác sĩ Hoàng Xuân Trường đã tạo lại được thế đứng của mình giữa các bạn đồng nghiệp ở hải ngoại. Với bản tính hiếu học, kể từ ngày phải buông súng và sau mấy năm phải ở lại để được nếm mùi trại cải tạo, vừa tới được Hoa Kỳ, anh đã lao đầu vào sách đèn và dùi mài kinh sử, trước hết là để lấy lại bằng hành nghề bác sĩ y khoa, và cùng một lúc để học những gì từ xưa anh vẫn khao khát được biết mà nay mới có phương tiện tìm hiểu. Từ gần hai thập niên qua, anh đã đọc thêm được bao nhiêu kinh điển, thấu triệt được thêm những điều gì, có lẽ chỉ mình anh biết được. Nhưng qua những bài anh đã viết và đăng trên sách báo, hoặc ký tên thật, hoặc ký dưới bút hiệu Hoàng Dung, và đặc biệt qua cuốn sách Chiến Tranh Đông Dương III nói về những cuộc chiến Hoa-Việt và Miên-Việt vào những năm 1979, do Văn Nghệ xuất bản năm 2000 và đã được độc giả nồng nhiệt đón nhận, thì ta có thể nói không những anh là một chuyên gia trong y giới, Hoàng Xuân Trường, với bút hiệu Hoàng Dung, nay cũng là một nhà trí thức, hiểu theo đúng ý nghĩa của danh từ này. Vì vậy, tôi không ngạc nhiên sau khi nhận được và đã đọc kỹ bản thảo cuốn sách Đi vào cõi vô cùng , viết về Thiên văn học anh mới viết và đang chuẩn bị cho in.

Hoàng Dung đã tìm tòi trong sách vở, đã đọc và nay đã có một hiểu biết thấu triệt về môn Thiên văn học, môn học ngày xưa không có trong chương trình Tú tài của anh. Hơn thế nữa, không những anh đã học cho mình, mà còn học cho cả thế hệ của anh và cả cho thế hệ trẻ tiếp nối anh bằng cách trình bày thành sách một cách mạch lạc những gì anh hiểu biết về vấn đề này. Với ý nghĩ đó anh đã viết ra cuốn sách Đi vào cõi vô cùng và sau này chắc anh sẽ còn viết tiếp theo nhiều cuốn sách khác với cùng mục đích là chia sẻ những điều anh đã học hỏi và tìm tòi được với những người đọc sách viết bằng tiếng Việt.

Viết mấy lời giới thiệu cuốn sách này, tôi muốn nêu lên một khía cạnh là ít người có thể làm được, hay sẵn lòng làm những điều mà tác giả cuốn sách đã làm. Thứ nhất là người có thiện chí phải bỏ ra nhiều thì giờ tìm tài liệu để nghiên cứu và thấu triệt những vấn đề mình muốn hiểu biết. Sau đó lại cần có can đảm và kiên nhẫn để làm một công việc mà người đời thường gọi là một công việc bội bạc, là viết một cuốn sách tìm hiểu về khoa học khô khan cho một số độc giả hạn hẹp. Hoàng Dung đã có đủ kiến thức, đủ kiên nhẫn và can đảm để làm điều này. Hơn nữa, nhờ lòng say mê văn thơ và biết tận dụng sự hiểu biết của mình, anh đã đưa Thiên văn học tới người đọc như đưa ánh trăng tới Lý Bạch, đưa giấc mơ lên Cung Quảng tới Đường Minh Hoàng. Qua những trang sách anh viết, môn học về trời đất, tinh tú cùng giải Ngân Hà và vũ trụ bao la không còn phải là môn học khô khan nữa, vì theo tác giả : Đọc về Thiên văn học, chính là đọc về Thơ, về triết lý, về ý nghĩa của cuộc tồn sinh, trong đó thời gian đã hòa nhập với không gian, con người đã hòa nhập với vũ trụ.

hoangdung5

"Đi vào cõi vô cùng", bìa trước và sau (Kệ sách Học Xá)

Cuốn Đi vào cõi vô cùng của Hoàng Dung viết thật dễ đọc và dễ hiểu. Anh đã để chen lẫn vào những trang sách giải thích những định luật vạn vật hấp dẫn làm căn bản cho sự chuyển vận các hành tinh, những câu thơ kim và cổ, trích dẫn ra từ những bài thơ đã có giá trị bất diệt với thời gian, để cùng một lúc gây thi vị cho người đọc, tác giả như muốn chứng tỏ rằng chân lý của khoa học và vẻ đẹp của thơ văn đều là những thứ gì vĩnh cửu đối với loài người. Lấy một tỷ dụ là trước khi bàn đến những phương pháp đo những chiều dài và rộng của trái đất, bắt đầu bởi nhà quản thủ thư viện Eratosthenes ở Ai Cập, anh đã đưa ra hai câu thơ của Hồ Xuân Hương để gợi hứng :

Giơ tay với thử trời cao thấp,

Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài

Những trang sách tả những chòm sao trong giải Ngân Hà cũng là những dòng lá thắm để tác giả thả trôi theo những câu thơ, từ những câu thơ bình dân được học từ thuở ấu thơ :

Buồn chông chênh chếch sao mai

Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ ?

cho đến những câu thơ cận đại như của Huyền Kiêu tiễn Nhất Linh sang Tàu làm cách mạng :

Hiu hắt trăng khuya lạnh bốn bề

Ý sầu lên vút tới sao Khuê

Tất cả những điều căn bản cần thiết về Thiên văn học, để biết về chuyển động của trái đất, của mặt trăng và các hành tinh, những độ lớn và những khoảng cách giữa các thiên thể, để hiểu thêm về sự phân chia bốn mùa và thời tiết có ảnh hưởng đến đời sống thực tế của loài người, và đi xa hơn nữa về thuyết tương đối của nhà bác học Einstein và những giả thuyết về nguồn gốc và về tương lai của vũ trụ, cũng rất cần thiết cho cuộc sống tâm linh của chúng ta, đã được tác giả phơi bày trên hơn một trăm trang sách. Lời trình bày giản dị, viết bởi một bác sĩ y khoa, yêu văn thơ, chắc chắn sẽ mang lại thích thú cho người đọc, nhất là khi những trang sách lại luôn luôn được tô điểm đó đây, như những nét chấm phá thủy mặc, bởi những câu thơ của các thi sĩ cổ kim danh tiếng. Những hình vẽ thích hợp cho các trương mục mà tác giả sưu tầm được trong các thư viện vùng Hoa Thịnh Đốn, nay được trình bày lại trên những trang sách cũng làm thêm vui mắt người đọc. Lấy một thí dụ, ngay ở một trong những trang đầu, khi kể lại rằng ngành Thiên văn đã xuất hiện rất sớm ở Trung Hoa, từ thời vua Nghiêu, tác giả đã trích lời ghi của Khổng Tử trong kinh Thư rằng vua Nghiêu đã sai hai họ Hi và họ Hòa quan sát sự chuyển vận của mặt trời, mặt trăng và tinh tú để tiên đoán cho dân biết về thời tiết và, cùng với lời trích dẫn, anh đã kèm theo tranh vẽ cảnh hai họ đang triều kiến để phụng mạng thiên tử.

Viết sách và trình bày một vấn đề khoa học như Thiên văn học như vậy, Hoàng Dung đã đưa hiểu biết lại cho đại chúng, theo đúng truyền thống Lạc Việt của các vị đại sư chúng ta khi xưa. Khi muốn quảng bá cho dân chúng biết rằng từ đời vua Nghiêu (2357-2256 trước công nguyên), vua đã sai hai họ Hi và Hòa làm lịch đặt ra tháng đủ, tháng thiếu, rồi có năm lại phải thêm tháng nhuận để cho ngày tháng năm, khi phân chia theo thời tiết và sự canh tác của người dân, phù hợp theo với sự chuyển động của mặt trăng và mặt trời, từ cửa miệng của những nhà nho thông thái đã đọc ra những câu phong dao thật bình dân :

Ai về trách họ Hi, Hòa

Nhuận năm sao chẳng nhuận vài trống canh

Câu phong dao được truyền miệng nhanh chóng và người dân quê ít đọc sách cũng biết công làm lịch đầu tiên của hai họ Hi và Hòa, cũng một phần nhờ ở câu hát nói đúng lên nỗi lòng của người thiếu phụ đương xuân những mong sao đêm dài thêm một vài canh để còn được nằm trong chăn ấm cùng chồng.

Tôi đã đọc cuốn Đi vào cõi vô cùng một cách thích thú và cùng với lời khen ngợi và chúc mừng thành công tới tác giả, tôi xin gửi lời giới thiệu thật nồng nhiệt cuốn sách tới độc giả.

Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh

Nguồn : Hocxa.com, 20/06/2023

Mục lục

Đi vào cõi vô cùng

Lời giới thiệu  (Nguyễn Xuân Vinh)

Dẫn nhập : Đi vào cõi vô cùng

Chương I : Đại cương về thiên văn học và những định luật vật lý căn bản

Chương II : Những hành tinh trong thái dương hệ

Chương III : Những vì sao và những chòm sao quen thuộc

Chương IV : Thuyết tương đối không - thời gian bốn chiều của Einstein

Chương V : Vật lý lượng tử và ý nghĩa thiền học của vật chất

Chương VI : Chung cuộc những vì sao tiểu bạch, sao trung hòa tử và hố đen

Chương VII : Vấn đề di chuyển trong thời gian

Chương VIII : Nguồn gốc và tương lai vũ trụ

Ghi chú

Những trị số quan trọng

Những hạt điện tử đặc biệt

Sách tham khảo

Cảm tạ

*****************

Ý kiến bạn đọc

Một bạn đọc đã nhận xét "Đi vào cõi vô cùng" như sau :

Sách được trình bày theo một lối rất lạ, không biết trước nay đã có văn bản khoa học nào viết theo kiểu này chưa, nhưng đây là lần đầu em thấy. Mỗi vấn đề đều được liên tưởng với ý văn thơ nào đó. Không một ý tưởng hay nhân vật nào được nói đến mà không được dẫn nhập bằng vài ba câu thơ. Nhưng em thấy lối phân tích của Hoàng Dung để nói về khoa học nghe vui vui hay là... hơi ngây thơ (hihi), không biết có phải do mình bị dị ứng với mấy bài tập làm văn phân tích của cấp 2, 3 không nữa ? Như khi nói về Erasthotonos, người đã đo được bán kính Trái đất qua thí nghiệm dưới 1 cái giếng khô, Hoàng Dung viết :

"Yêu một đời. Nhớ một đời. Hận một đời. Nhưng vẫn cảm tạ trời cao đã dành cho một người để yêu, để hận và để nhớ vì nếu không, cuộc đời sẽ chỉ như một cái giếng khô.

Erasthotonos, sinh vào thế kỉ thứ 2 trước Tây lịch nên không có dịp coi bộ phim Hoàn Châu Cách Cách để biết câu văn trên của Quỳnh Dao, do đó ông đã không thấy cái giếng khô là vô vị…" :

Hay chỗ nói về hiệu ứng Doppler :

"Lâu lâu lúc còi rúc nghe rền rĩ

Hồn của người đi níu kẻ về

Nếu ông (Tế Hanh) để ý nghe kĩ, khi tàu lìa sân ga ra đi, tiếng tàu nghe êm ả rền rĩ hơn là lúc nó tiến gần sân ga. Nhưng lý do không phải như Tế Hanh nghĩ vì "hồn của người đi níu kẻ về" mà còi tàu đã rền rĩ hơn, chính là do tác dụng Doppler" Hoàng Dung đem tư duy lãng mạn để so sánh với 1 lý giải hoàn toàn khoa học nên... : dntknw : On another hand, (thông cảm, chỗ này em không biết dùng từ nào đơn giản mà thích hợp bằng từ này) nếu như Brian Greene trong cuốn Giai điệu dây minh họa cho các lập luận bằng những nhân vật : Geogre, Graice (ko bít nhớ đúng tên hong nữa) bình thường, không gây ấn tượng thì Hòang Dung lại cho Bùi Giáng mời bạn bè đi uống rượu, cho Tế Hanh ra ga xe lửa nhìn những chuyến tàu quay về..., nghe rất thơ, rất Việt Nam. Có đôi khi sự so sánh của ông cũng gây thú vị lắm. "Càng yêu thì càng hận. Yêu càng nhiều thì hận càng sâu". Điều đó có giống định luật 3 Newton không ? (1 lực tác dụng đều có 1 phản lực tương đương) hihi.

Nói đến đây, mọi người có lẽ đã nhận thấy cuốn sách này cũng rất thú vị. Tuy riêng em cảm thấy ở đây có khả nhiều sự so sánh, liên tưởng hơi khập khiễng nhưng "Đi vào cõi vô cùng" là cuốn sách nên đọc. Lý do, cuốn sách nhỏ nhưng lại đề cập đến 1 lượng lớn, rộng thông tin nên chúng chỉ được điểm qua, sơ lược, gây nhiều thắc mắc và kích thích sự tìm tòi sâu hơn : P. Cuốn sách có tính khái quát rất cao, phải nói bác sĩ Hoang Dung là 1 con người hiểu biết rất rộng từ cổ đến kim, từ đông sang tây, từ văn thơ đến khoa học.

"Đi vào cõi vô cùng", nói vậy dường như tác giả khẳng định vũ trụ là vô cùng ??? Nhưng nếu theo Lời bạt, LT cho rằng "nó không phải là cuốn sách giáo khoa, không phải là sách khoa học, cũng không phải sách khoa học giả tưởng" mà là "1 cuốn thơ về vũ trụ" thì ok".

(Trích lời blogger fresa_dulce trong "Đi vào cõi vô cùng", 05/09/2005)

*************************

Hoàng Dung - Cõi trời cõi ta và những gợi nhắc

Uyên Thao, hocxa.com, 20/06/2023

Cõi trời cõi ta là tác phẩm thứ tư của Hoàng Dung sau Chiến tranh Đông Dương 3, Đi vào cõi vô cùng Sau bức màn đỏ.

New view of the Pillars of Creation — visible

Tác phẩm Cõi trời cõi ta  kiến giải về nguyên do hình thành vũ trụ cách đây 15 tỷ năm mà thái dương hệ - dù gồm hàng tỷ mặt trời - vẫn chỉ là một thiên hà trong hàng trăm tỷ thiên hà cách xa nhau có khi tới vài triệu năm ánh sáng

Một thắc mắc có thể đã hiện ra về thế giới chữ nghĩa của tác giả. Bằng cách nào lại lưu tâm được tới diễn biến của những tinh cầu cao thẳm trong cõi vô cùng trong khi bị vây hãm giữa hàng loạt cảnh ngộ gắn liền với mặt đất ? Chiến tranh Đông Dương 3 mở đầu bằng các chi tiết lịch sử hận thù giữa hai dân tộc Miên – Việt để nhìn lại cuộc chiến được đặt tên là Chiến tranh Đông Dương 3. Trong khi đó, Sau bức màn đỏ chấm dứt bằng những dòng tâm sự :

"…Sau năm năm sống trong chế độ xã hội chủ nghĩa, là một người bình thường, giờ đây tôi vẫn cảm thấy ghê sợ tác dụng của nó trên con người và quan hệ giữa con người. Tự nhận là thuộc giai cấp tiền phong, tiên tiến, được "giác ngộ", được "mặt trời chân lý chiếu qua tim", chế độ đã nhồi sọ đảng viên coi người khác như cỏ rác, và càng được lên cao, càng có thái độ duy ngã độc tôn.

Ngoài ra, nhân danh đạo đức cách mạng, nhân danh quyền lợi tối thượng của đảng, chế độ đã cho phép khai thác những khía cạnh đi ngược lại luân lý và phong hóa cũ, khiến con người nhiều khi bị ép buộc và khuyến khích gian dối, nịnh bợ, dòm ngó và làm hại lẫn nhau. Hãy đọc một đoạn trong bài Một nửa thế giới… trên báo Quân Đội Nhân Dân ngày 9/3/2007 ca tụng một người vợ : "Một chị là cơ sở cách mạng nuôi giấu ông (Lê Duẩn) trong phòng ngủ, bất chợt người chồng trở về và nổi cơn ghen khiến ông có nguy cơ bại lộ. Chị cơ sở báo động và xin chỉ thị có cần phải "khử" người chồng hay không.."..

Tôi đã lợm giọng khi đọc những hàng chữ viết về cái tình nghĩa vợ chồng tiến bộ đến mức đó, nhất là bài báo mới được viết hơn bốn tháng trước đây…".

Với tâm cảnh đó, làm sao tác giả có thể nghĩ đến trăng sao để viết nên Đi vào cõi vô cùng và xây dựng tác phẩm Cõi trời cõi ta bằng các kiến giải về nguyên do hình thành vũ trụ cách đây 15 tỷ năm mà thái dương hệ dù gồm hàng tỷ mặt trời vẫn chỉ là một thiên hà trong hàng trăm tỷ thiên hà cách xa nhau có khi tới vài triệu năm ánh sáng với tốc độ chỉ cần một phần 75 giây đồng hồ đã vượt qua 4000 cây số.

Các con số đã mở ra một không gian mà trí tưởng tượng của con người vô phương hình dung nổi về tầm vóc bao la. Nhưng Hoàng Dung không ngừng ở việc mô tả mức vô biên của vũ trụ mà đi sâu hơn tới các dẫn giải về nguyên nhân cùng cách thế hình thành sự sống từ khi bắt đầu có trái đất và các yếu tố đưa đến con người xuất hiện. 10 chương đầu Cõi trời cõi ta tập hợp nhiều luận điểm chủ yếu về nguồn gốc sự sống mà mỗi người có thể đều muốn tìm biết nhưng không phải ai cũng có cơ hội thu góp, tiếp nhận. Dù khó vượt giới hạn khái quát sơ lược, tác phẩm đã giúp mở một tầm nhìn tương đối về nhiều vấn đề liên quan mật thiết tới số phận con người.

Cho đến nay, về nguồn gốc muôn loài trong đó bao gồm cả loài người vẫn chỉ có hai thuyết được biết đến là thuyết Sáng tạo và thuyết Tiến hóa. Thuyết Sáng tạo coi muôn loài hiện hữu trên mặt đất đều do quyền năng của một đấng thiêng liêng, trong khi thuyết Tiến hóa dựa vào tiến trình tự tồn tự diễn từ một mầm sống thô sơ xuất hiện khoảng 4 tỷ năm trước. Cõi trời cõi ta kể về thuyết Tiến hóa với tiến trình tự tồn tự diễn khởi từ các chuỗi DNA hết sức đơn giản do sắp xếp của các nguyên tố chính gồm than (C), khinh khí (H), dưỡng khí (O), đạm khí (N), lưu huỳnh (S), lân tinh (P) là những nguyên tố tràn đầy khắp nơi khi có trái đất. Theo dòng thời gian hàng tỷ năm, những chuỗi DNA ngày càng biến hóa, trở nên phức tạp, nhưng căn bản cấu tạo luôn giữ đặc trưng bất biến gồm bốn loại bậc thang được các khoa học gia đặt tên là Adenine (A), Thymine (T), Guanine (G), Cytosin (C).

Thuyết Tiến hóa chứng minh suốt một tỷ năm đầu sau khi ra đời, trái đất nóng bỏng, sông biển chưa hình thành, những làn hơi độc kia không ngừng luân chuyển trong bầu khí quyển, tạo thành muôn ngàn phân tử hữu cơ liên tiếp hợp tan, tan hợp cho đến một ngày ngẫu nhiên phối kết thành những chuỗi DNA ngắn và đơn giản. Những chuỗi DNA đó tiếp diễn hàng trăm triệu năm dưới tác động của điều kiện khách quan phức biệt đã trải vô vàn phản ứng sinh hóa để cuối cùng tạo ra một chuỗi DNA có khả năng tự sao chép ra một chuỗi DNA giống hệt. Chuỗi DNA này trở thành mầm sống nguyên thủy vì có thể tự sao chép ra những chuỗi DNA tương tự. Từ đây sự sống xuất hiện vì đã có "sinh sản" và "truyền giống" thô sơ. Do quá trình sao chép khó tránh tác động ngoại cảnh cá biệt, đồng thời cũng do các trở ngại bất ngờ tự bản thân gây nên nhiều đột biến khiến từ chuỗi DNA nguyên thủy đã phát sinh vô vàn loài sinh vật khác nhau qua nhiều thời kỳ. Di tích khảo cổ có độ tuổi cao nhất được phát hiện tại Úc châu và Băng Đảo là một loài vi trùng sống cách đây chừng 3 tỷ 800 triệu năm. Dựa trên các di tích, giới khoa học phát giác sau khi xuất hiện, chuỗi DNA phát triển rất chậm suốt 4 tỷ năm đầu để biến thành các loài vi trùng, siêu vi trùng, rong, tảo …

Cách đây 550 triệu năm, chuỗi DNA đó khởi sự bộc phát tạo ra các loài sinh vật như sò, hến, tôm, cá... sống dưới biển. Kế tiếp, cách đây khoảng 400 triệu năm, các loài cây cối trên đất liền rồi các loài côn trùng xuất hiện cùng những sinh vật thuộc loài bò sát.

Khoảng 250 triệu năm trước, một biến cố nào đó đã tiêu diệt mọi loài sinh vật đang có mặt để sau đó nảy sinh các sinh vật mới như loài có xương sống, rồi loài có vú, chủ yếu là loài khủng long cùng cây cỏ, chim chóc. Thời kỳ này kéo dài gần 200 triệu năm thì một tai họa khác lại xảy ra tuyệt diệt loài khủng long cùng khoảng 80 phần trăm các loài sinh vật và cây cỏ.

Không lâu sau, sự sống tái bùng nở với sự xuất hiện nhiều loài vi trùng, cây cối, đặc biệt là nảy sinh các loài ngựa, khỉ, hầu, vượn… và cuối cùng là loài người có mặt cách đây khoảng 5 triệu năm.

Kết quả khảo sát của nhiều thế hệ khoa học gia cho thấy muôn loài từ cỏ cây, hoa lá, côn trùng, súc vật hay con người… đều cấu thành bằng những tế bào. Trong muôn loài, ngoại trừ vi trùng hay siêu vi thuộc loài đơn bào, tất cả đều thuộc loài đa bào tức có thể có từ hàng trăm đến hàng tỷ-tỷ... tế bào. Nhưng dù là đơn bào hay đa bào thì tế bào của muôn loài chỉ gồm 20 loại amino acids và trong nhân mỗi tế bào đều luôn có một chuỗi DNA. Công cuộc khảo sát và các thí nghiệm khoa học phát giác chính chuỗi DNA nằm trong nhân mỗi tế bào đã điều khiển quá trình sinh sản các tế bào và quyết định trách vụ của mỗi tế bào.

Từ đây, chuỗi DNA ngẫu nhiên hình thành 4 tỷ năm trước được coi là tổ tiên chung của muôn loài. Con người thuộc hàng cháu chắt sinh sau đẻ muộn xa thẳm của chuỗi DNA này, vì chỉ mới xuất hiện cách đây cỡ 5 triệu năm. Thực ra, việc ước định thời gian con người xuất hiện gần 5 triệu năm trước chưa hẳn chính xác. Bởi vào thời điểm đó, trái đất chỉ vừa xuất hiện loài sinh vật mà giới khoa học gọi là loài hầu nhân Australopithecus afarensis. Loài sinh vật này nảy sinh từ loài hầu do một sai sót đột biến nào đó trong quá trình sinh sản nên có bộ óc cỡ 600 phân khối và có thể đi đứng bằng hai chân.

Di tích hóa thạch của loài sinh vật này được tìm thấy tại Ethiopia là một bộ xương phái nữ khoảng 20 tuổi, sống cách đây chừng 3 triệu 500 ngàn năm và dấu chân của một đôi nam nữ đi trên một con đường lầy lội cách đây 3 triệu 600 ngàn năm ở Tanzania.

Khoảng 1 triệu năm sau đó, loài sinh vật này biết sử dụng hai tay thuần thục hơn, biết chế tạo các dụng cụ thô sơ nên được coi như con người sơ khai với tên gọi giống xảo nhân – homo habilis – người khéo tay.

Rồi giống xảo nhân vắng bóng và một thời gian sau là sự xuất hiện giống người sơ khai khác với tên gọi giống trực nhân – homo erectus – người đứng thẳng. Qua di tích tìm được, giống trực nhân có não bộ cỡ 900 phân khối, đứng thẳng bằng hai chân đã sống trên hầu khắp các lục địa gần 2 triệu năm và cũng biến mất như giống xảo nhân. Cách đây khoảng 200 ngàn năm, giống trí nhân – homo sapiens – người khôn ngoan xuất hiện với đặc trưng có não bộ 1500 phân khối và chính là tiền nhân của loài người hiện nay.

Truy tìm nguồn gốc từng giống người vẫn là một nan đề. Giới khoa học chỉ có thể dừng lại với xác quyết loài hầu nhân thuộc một chi nhánh trong phân nhánh sinh ra các loài động vật có vú cách đây 500 triệu năm. Thêm một xác quyết kế tiếp là từ loài hầu nhân đã nảy sinh giống xảo nhân cách đây gần 5 triệu năm.

Tới đây, mọi chuyện rơi vào cõi mịt mù khi cần giải đáp dứt khoát về nguồn gốc các giống người có mặt kế tiếp là trực nhân và trí nhân.

Các khoa học gia theo thuyết Tiến hóa Đa Phương từng cho rằng chính từ giống trực nhân đã sinh ra giống trí nhân do diễn trình tiến hóa dài hàng triệu năm khiến bộ óc từ 900 phân khối lớn dần lên thành 1500 phân khối. Nhưng hết thẩy di tích tìm thấy đều không giúp chứng minh lập luận này, bởi không có khối óc trung gian nào có độ lớn giữa hai cỡ 900 và 1500 phân khối ở thời kỳ chuyển tiếp hai giống người trên. Thuyết Tiến hóa Đa phương cuối cùng không được nhìn nhận và xuất hiện thuyết Ngoài cõi Phi châu cho rằng "6 tỷ con người hiện nay bất kể chủng tộc, màu da, đều là con cháu một phụ nữ Phi châu" sống cách đây chưa đầy 200 ngàn năm.

Thuyết Ngoài cõi Phi châu dựa trên nghiên cứu về hai chuỗi DNA đặc biệt luôn có trong mỗi tế bào của muôn loài.

Thứ nhất là chuỗi DNA phụ, rất ngắn, nằm ngoài nhân tế bào được gọi là mDNA chỉ di truyền từ mẹ qua các con và không liên quan tới người cha.

Thứ hai là chuỗi DNA trong nhân tế bào được gọi là nhiễm sắc thể Y chỉ truyền từ cha qua con trai với vai trò quyết định phái tính và không liên quan tới người mẹ.

Kết quả nghiên cứu đã cho biết diễn trình sinh hóa tạo thành các sinh vật khởi từ chuỗi DNA nguyên thủy có khả năng tự sao chép bằng cách một tế bào tự biến thành hai tế bào tương tự. Nhưng sự sao chép này không hoàn toàn tuyệt đối, vì có lúc xảy ra các sai sót bất ngờ do đột biến chủ quan hoặc do tác động khách quan. Chính các sai sót đã hình thành nhiều loài sinh vật khác nhau và giúp sự sống trường tồn khi một loài sinh vật bị tiêu diệt bởi không còn thích nghi với môi trường ngoại cảnh hoặc bởi một lý do nào đó.

Nói cụ thể thì các sai sót đột biến vì mọi lý do có thể khai sinh một dòng sinh vật mới hoàn toàn khác biệt với dòng sinh vật cũ. Suốt mấy tỷ năm, các sai sót đã giúp nảy sinh hàng triệu loài sinh vật, trong số có nhiều loài tồn tại và cũng có không ít loài bị tuyệt diệt. Các sai sót luôn mang tính di truyền nên liên tục lưu lại dấu vết nơi các thế hệ con cháu.

Trên thực tế, khi nghiên cứu chuỗi DNA đặc biệt mDNA, các khoa học gia đã thấy hết thẩy sai sót trong cấu trúc tế bào của con người trên trái đất hiện nay đều có dấu vết di truyền từ mDNA của một phụ nữ sống ở Phi châu khoảng 150 đến 200 ngàn năm trước.

Kết quả tương tự cũng được tìm ra khi các cuộc nghiên cứu về đoạn nhiễm sắc thể Y cho thấy các dấu vết sai sót của hết thẩy đều khởi từ nhiễm sắc thể Y của một nam nhân sống tại Phi châu khoảng 100 ngàn năm trước. Từ đây thuyết Ngoài cõi Phi châu hình thành với luận giải là khoảng 150 đến 200 ngàn năm trước, một sai sót đột biến trong giống trí nhân đã nảy sinh một người nữ còn lưu dấu mDNA đến nay, và khoảng 100 ngàn năm trước cũng do một sai sót đột biến khác từ giống trí nhân đã nẩy sinh một người nam có dấu vết di truyền tương tự về nhiễm sắc thể Y. Dù thời gian xuất hiện của hai người cách biệt khá xa nhưng việc gặp gỡ và phối kết giữa các thế hệ con cháu của họ không là điều khó hiểu.

Cùng thời với người nam và người nữ trên chắc chắn đã có nhiều người khác, nhưng hết thẩy con cháu của những người này đều không còn tồn tại vì các lý do nào đó. Cho nên, thuyết Ngoài cõi Phi châu kết luận tổ tiên của nhân loại hiện nay chỉ là người nữ và người nam đã có mặt và sống tại Phi châu vào hai thời điểm đã kể.

Thuyết Ngoài cõi Phi châu đã giải đáp về tổ tiên chung của 6 tỷ con người đang có mặt nhưng nghi vấn về thủy tổ của giống trí nhân vẫn còn nguyên vẹn cũng như lý do tuyệt diệt các hậu duệ giống trí nhân không thuộc dòng dõi của người nữ và người nam kể trên.

Như thế, loài người hiện nay chỉ mới có mặt khoảng trên dưới 100 ngàn năm và đều chung một nguồn cỗi Phi châu dù mang vóc dáng, sắc diện, màu da, màu tóc… nào. Mọi khác biệt chỉ do sai sót đột biến trong diễn trình sinh hóa và do yêu cầu thích nghi với các vùng đất mới sau khi thiên di khỏi nguyên quán Phi châu. Mọi khác biệt cũng không có ý nghĩa đáng kể khi kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ khác biệt trong DNA của những người khác màu da chỉ ở mức một phần ngàn. Ngoài ra, mức độ dân số hơn 6 tỷ hiện nay không hề quá đáng khi kết luận là con cháu của chỉ hai người trong khoảng thời gian dài 100 ngàn năm tức đã qua hơn 70 ngàn thế hệ tiếp nối.

Qua Cõi trời cõi ta, Hoàng Dung ghi lại những kiến giải đó về nguồn cỗi sự sống cùng sự xuất hiện của con người, nhưng không với chủ tâm nghiên cứu mà chỉ do thúc đẩy từ một nỗi ưu tư :

"…Nhiều loài người đã phát sinh, hiện hữu một thời, như loài xảo nhân chừng 100 ngàn năm, loài trực nhân hai triệu năm, loài Neanderthal ba trăm ngàn năm và tất cả đều đã bị diệt vong.

…Loài trí nhân chỉ mới tồn tại hơn 100 ngàn năm nhưng đã tiến một bước dài trong dòng tiến hóa. Họ hiểu biết nhiều về thiên nhiên, đã tận dụng khai thác thiên nhiên. Họ cũng đang tìm cách biến cải DNA để tác động trên sinh vật và sự sống. Đồng thời, họ cũng phát triển được một khả năng hủy diệt mỗi ngày một tàn khốc. Trái đất đã chứng kiến nhiều đổi thay, nhiều cảnh thương hải tang điền, nhiều loài sinh vật, nhiều loài người. Loài trí nhân chúng ta chỉ là một chặng ngắn trên con đường tiến hóa. Hy vọng trong tương lai xa vài chục ngàn năm sau, loài trí nhân sẽ có thể trở nên loài người "hạnh phúc".

Từ nỗi ưu tư về hướng đường hạnh phúc đã dấy lên nhu cầu nhìn lại cuộc sống con người là điều dễ hiểu. Và việc nhìn lại cuộc sống con người dẫn đến các giới hạn xa thẳm trong tiến trình hình thành và diễn hóa sự sống chỉ là đòi hỏi tự nhiên của nỗ lực tìm biết.

Nội dung 10 chương cuối của Cõi trời cõi ta khẳng định ý hướng này. Cũng từ đây, thắc mắc về thế giới chữ nghĩa Hoàng Dung đã tìm được lời giải qua nỗi xúc động khơi gợi từ nhiều thực cảnh trong đời sống Việt Nam.

hoanglong7

Loài người, có mặt cách đây khoảng 5 triệu năm, đã không ngừng tiến hóa theo thời gian.

Qua các tác phẩm đã hoàn thành hoặc chỉ với riêng Cõi trời cõi ta, Hoàng Dung thực ra không hề phân thân để sống trong hai thế giới cách biệt mà luôn chìm đắm giữa những dằn vặt bởi nhiều cảnh ngộ tang thương từ cuộc sống trước mắt. Việc mở rộng tầm nhìn tới nguồn cỗi sự sống, tới các vùng trời bao la, tới các đại họa thiên nhiên, tới các biến đổi khôn lường về lẽ sinh diệt… không nhắm vun bồi kiến thức mà chỉ biểu hiện con tim luôn bị kích động bởi các thảm cảnh oan khiên phần lớn do chính con người tự tạo cho bản thân và đồng loại trong khung cảnh vũ trụ vô thường :

"…Dù trái đất không bị thiên tai nào ghê gớm, số phận của nó cũng chỉ còn khoảng 4 tỷ năm nữa, vì sự sống trên trái đất cũng như ngay cả trái đất đều phụ thuộc mặt trời, mà mặt trời thì đã tiêu thụ gần nửa số lượng hydrogene trong các phản ứng nổ liên tục… Khi hết hydrogen, mặt trời sẽ phát động phản ứng nổ dữ dội cuối cùng. Vụ nổ kinh hoàng này sẽ tạo một vùng lửa bao trùm khắp Thái dương hệ, hỏa thiêu hết trái đất cùng những hành tinh anh em. Sau vụ nổ, mặt trời sẽ là vì sao chết — sao Tiểu bạch (White Dwarf) không phát ra ánh sáng, thi thể rất nhỏ, rất nặng — còn tro bụi của trái đất có lẽ sẽ là những hạt điện tử tụ thành một đám tinh vân nhỏ không đủ năng lượng và sức nóng để hồi sinh.

Số phận trái đất cũng là số phận con người".

Viễn ảnh diệt vong có thể còn đến sớm hơn qua bằng chứng suốt 5 triệu năm qua từng có nhiều loài sinh vật cũng như nhiều giống người chỉ tồn tại một thời gian ngắn cỡ vài trăm ngàn năm rồi đột nhiên biến mất. Thắc mắc hiện ra không còn là thắc mắc về thế giới chữ nghĩa của Hoàng Dung mà là thắc mắc về nguyên do dẫn đến vô vàn cảnh sống do con người đang phải đối diện, phải gánh chịu hàng ngày, hàng giờ. Lúc lần theo các luận giải về cái viễn ảnh diệt vong sẽ đến với toàn vũ trụ cũng là lúc vô phương ngăn chặn âm vang gợi nhắc về các tình huống do con người tạo dựng ngược hẳn với ước mong tìm về hạnh phúc của chính mình :

Chu Pao rét mướt hờn trong gió

Mỗi thước đường đi một xác người.

Do đâu lại có mâu thuẫn bi thảm đó, nhất là khi sự sống của vũ trụ đã được báo trước là hết sức mong manh ? Từ các trang sách của Hoàng Dung lúc này, mọi lý giải về tiến trình diễn hóa của cõi trời đều nhòa nhạt trước vô vàn hình ảnh quen thuộc với con người, đặc biệt là con người Việt Nam gần một thế kỷ na oà y.

Giữa vô vàn hình ảnh đó là hình ảnh một anh binh nhì chỉ nội 4 ngày phải lãnh 7 vết thương qua lời kể của người cố vấn Mỹ, đại úy Ripley :

"Anh ta cũng là một người lính bị thương vài hôm trước, hôm nay anh lại bị thương và đang dìu một bạn đồng đội đến chỗ an toàn. Chiều hôm đó, cả hai người cùng chết".

Anh binh nhì đó thuộc số người còn sống sót của một đơn vị Thủy quân lục chiến từ Đông Hà rút về Ái Tử vào mùa Hè 1972 sau bảy ngày bị vùi dập giữa mưa pháo bão đạn của kẻ địch có hoả lực mạnh gấp bội.

Đơn vị với quân số 700 khi về tới Ái Tử chỉ còn đúng 200. Nhưng trận đánh vẫn tiếp diễn và anh binh nhì kia đã ngã xuống cùng nhiều đồng đội khác trong hoạt cảnh chiến đấu được ghi lại như sau :

"Chưa đầy một giờ sau, một trung đoàn bộ binh địch cùng xe tăng T.54 và PT.76 xuất hiện. Khi đoàn xe tăng sửa soạn vượt cầu, đại úy Ripley, cố vấn tiểu đoàn kể lại : "Một Thủy quân lục chiến Việt Nam leo ra khỏi hố cá nhân, bò tới đầu cầu phía nam. Anh ta mang trên lưng hai cây súng chống chiến xa M.72 và kéo theo hai thùng đạn rỗng để làm khiên che đạn".

Đó là trung sĩ Lượm, trưởng toán chống xe tăng. Trung tá Turley cũng viết về cảnh đó :

"Cuộc đối đầu giữa một David Á châu và khối thép Goliah bắt đầu. Cảnh một Thủy quân lục chiến hơn bốn chục ký nằm ngay trên đường tiến của một xe tăng bốn chục tấn về phương diện nào đó là một điều điên cuồng. Nhưng về một phương diện khác, nó đã khơi động lòng quả cảm cho lực lượng phòng thủ mong manh. Ít có ai chứng kiến được một hành động thách đố hào hùng như vậy.

Trái đạn M.72 đầu tiên của trung sĩ Lượm bị hụt, trái thứ hai trúng vào pháo tháp, chỉ gây hư hại nhẹ. Nhưng chiếc xe tăng đã dừng lại, và có lẽ vì hoảng sợ, nó lùi ra… rồi cả đoàn xe tăng rút lui. Đợt tấn công như nước vỡ bờ của một lực lượng hơn một trung đoàn bị chận lại do hành động quả cảm của chỉ một cá nhân".

Trận đánh còn kéo dài nhiều ngày để đến phiên trung sĩ Lượm ngã xuống và đơn vị gồm 700 người cuối cùng chỉ còn 52 người, khi được chào đón tại Huế như trung tá Turley kể lại :

"Chỉ có 52 người đứng nhận sự chào đón, lòng biết ơn và sự kính phục của đồng đội. Ít có ai để ý đến lời khen ngợi của vị Tư lệnh Sư đoàn. Những người còn lại quá yếu hay bị thương quây quần với đồng đội. Họ đã phải ngăn những giọt lệ vừa mừng vui vừa sầu thảm. Đối với những người hiện diện, rõ ràng là họ đang nhớ tới 650 người khác. Năm mươi hai người lính đó nay là một tiểu đoàn ít người nhất nhưng cũng hãnh diện nhất…"

Không chỉ với Hoàng Dung mà có thể với mọi người đọc, cõi trời lúc này đã nhòa nhạt hẳn để thay thế bằng những xúc động có lẽ còn kéo dài mãi mãi :

"Đã mấy chục năm qua, sau mùa hè đỏ lửa, nhìn lại tấm hình của những người lính trẻ Thủy quân lục chiến, tôi không khỏi cảm thấy ngậm ngùi. Đó là những tinh hoa của miền Nam, suốt hơn mười năm bị đưa vào những trận đánh khốc liệt nhất, từng bị những tổn thất nặng nề, nhất là khi các cấp chỉ huy cao cấp đưa họ vào những cái bẫy hỏa lực chờ sẵn như ở Hạ Lào hay đẩy họ vào tuyệt địa như ở cửa Thuận An…

Nhưng lúc nào họ cũng luôn hăng say chiến đấu, luôn sẵn sàng hy sinh... Qua bao năm chinh chiến, nét mặt họ vẫn mang những nét vô tư của tuổi trẻ… Điều đó làm tôi kính trọng họ hơn".

Hoàng Dung định tính cho Cõi trời cõi ta là một tập sưu khảo khoa học và nhân văn. Tuy nhiên, sẽ không sai khi khẳng định tác phẩm là những trang tâm bút ghi lại nỗi lòng một lớp người phải nhận chịu thân phận chìm ngập giữa đau thương và cũng rạng ngời không ít nét tự hào, đặc biệt là với một tình cảm thiết tha luôn thao thức trong tim :

Buổi sáng xuất quân về hướng Bắc

Âm thầm sương sớm bóng quân ma.

Qua cầu sông Lũy nhìn quanh quất

Nước đỏ cầu đen chợt nhớ nhà.

Nguyễn Bắc Sơn

Đường ta đi một vòng trời Quảng Trị

Từ C1, C2, Cam Lộ, Gio Linh

Qua Mai Lộc, Làng Cùa về Ái Tử

Đường ta đi cơn lốc lớn đăng trình

………………………………………………

Đường ta đi mênh mang bát ngát

Chiều dừng quân câu vọng cổ xuống xề

Người lính trẻ dựa ba lô ôm súng

Nhìn hoàng hôn và chợt hát vu vơ

Tóc mây trắng ôm núi già bỗng tím

Giải Trường Sơn say nắng lịm hôn mê

Ta đứng lặng nghe giọng ca người lính

Hồn bỗng ngậm ngùi chợt nhớ thương quê

Nguyễn Lê Minh

Cảm giác nhớ thương bất ngờ chợt đến giữa những đoạn đường khói lửa không chỉ là cảm xúc của riêng người lính Nguyễn Bắc Sơn hay người lính Nguyễn Lê Minh. Vì một mái ấm gia đình, một mảnh đất quê hương đã nằm sẵn nơi trái tim hết thẩy con người từ khi mở mắt chào đời nên không thể không nhớ thương khi cách biệt và càng khó tránh trăn trở băn khoăn khi thấy mình phải chấp nhận triền miên đối mặt với tử thần để bảo toàn tình cảm đó.

Từ đây, quả không dễ dàng diễn tả mức đau xót trong cảm xúc nhớ thương khi hết thẩy phải đối diện với hình ảnh nơi trang cuối của Cõi trời cõi ta cũng là một trong vô số hình ảnh não nề kết thúc một đoạn đường của quê hương Việt Nam - hình ảnh đêm 30 tháng Tư qua ngày 1 tháng 5 năm 1975 tại Liên Đoàn 74 Quân Y. Dù mọi hình ảnh chỉ giới hạn trong không gian nhỏ hẹp của một bệnh viện địa phương tại thị xã Cần Thơ nhưng có thể gợi nhắc khá trọn vẹn về toàn bộ sự sống của hết thẩy con người Việt Nam sau những chặng đường ngập ngụa máu xương mở ra từ những ngày Tháng Tám 1945, gợi nhắc về tấn thảm kịch tương tàn phi lý, về những nỗ lực ngăn chống hoài công và về một viễn ảnh tương lai mù mịt bên cạnh những nỗi uất nghẹn khôn nguôi :

"…Khoảng 10 giờ đêm, đột nhiên bác sĩ Lai nhận được một cú điện thoại. Một người nào đó "ở phe bên kia" muốn nhờ bác sĩ Lai trung gian đưa đến gặp thiếu tướng Nam. Một bác sĩ khác ở Liên Đoàn, anh Tựu, tình nguyện lái xe Jeep đưa anh Lai đi. Chúng tôi ngồi lại Liên Đoàn đến khoảng 12 giờ đêm không thấy động tĩnh gì mới kéo nhau về ngủ. Không ai biết diễn tiến cuộc nói chuyện đêm 30 tháng Tư đó ra sao.

Tôi chỉ biết sáng hôm sau, ngày 1 tháng 5, vào Quân Y Viện, bác sĩ Tùng cho biết khoảng 4 giờ sáng, ông nhận được điện thoại, gọi sang bệnh viện Dân sự mổ cho anh Lai, bị trúng đạn ở bụng, còn anh Tựu bị bắn chết, xác bỏ ở một ngã tư đường. Chúng tôi chưa kịp hỏi về chi tiết cái chết của anh Tựu và trường hợp bị thương của anh Lai thì nhận được tin tướng Nam ra lệnh cho toàn thể Quân Đoàn 4 buông súng. Sau đó, có tin tướng Lê Văn Hưng tự bắn vào tim tự tử và khoảng một giờ sau, Quân Y Viện nhận được điện thoại của Quân Đoàn kêu đem xe Hồng Thập Tự đến đưa thi hài tướng Nam vào Quân Y Viện. Ông đã tự bắn vào đầu sau khi nói chuyện với gia đình tướng Hưng và họp các vị chỉ huy cao cấp trong Quân Đoàn. Cách đó hơn trăm cây số, ở Mỹ Tho, tướng Trần Văn Hai, tư lệnh Sư Đoàn 7, cũng uống thuốc độc tự tận.

Tin về cái chết của ba vị tướng cao cấp nhất Quân Đoàn khiến chúng tôi bàng hoàng đau xót.

Không ai bảo ai, binh lính cũng như sĩ quan, bệnh nhân cũng như nhân viên, chúng tôi tự động xếp hàng một, bước đến chào kính thi hài vị tướng tư lệnh Nguyễn Khoa Nam lần cuối.

Thi hài ông được đặt trên một băng ca trắng. Ông bận quân phục thẳng nếp, da ông ngăm đen, nét mặt thanh thản, một vệt máu nhỏ còn sót lại trên vết thương đầu. Chúng tôi lần lượt đứng nghiêm chào kính, nhiều người không cầm được nước mắt.

Bên ngoài, nắng ấm miền Nam vẫn vô tình.

Khoảng giữa trưa, một nhóm tiền phong của Cộng quân vào tiếp thu bệnh viện. Những người này không lon lá và quân phục luộm thuộm. Đứng đầu là một người khoảng hơn 30 tuổi, dáng gầy yếu. Có lẽ họ chỉ là cán bộ cấp thấp nên đã không phản ứng gì khi vị chỉ huy trưởng của tôi, bác sĩ Tùng quí phái như Tây, tập họp quân nhân dưới quyền đứng thành hàng ngũ chỉnh tề để giới thiệu "những người anh em bên kia". Sau đó, ông ra lệnh đứng nghiêm làm lễ hạ kỳ, rồi dõng dạc ra lệnh bắt đầu phút mặc niệm, thương tiếc "một vị anh hùng của chúng ta, thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, vừa mới tuẫn tiết".

Điều ngạc nhiên là "những người anh em bên kia" đứng yên lặng, không biết họ cũng mặc niệm hay là do bị bất ngờ nên không biết phản ứng ra sao… Sau khi hoàn tất công việc bàn giao, vị chỉ huy trưởng của tôi lo việc chôn cất tướng Nam. Hội Hồng Thập Tự Cần Thơ tặng hai cỗ quan tài cho tướng Nam và bác sĩ Tựu.

Chiều hôm đó, trời đổ mưa lớn.

Chúng tôi ở khu độc thân ngoài cổng Quân Y Viện đứng nhìn theo chiếc xe jeep Hồng Thập Tự chở thi hài tướng Nam tới nơi an nghỉ cuối cùng.

Cuộc sống của ông đơn độc, cái chết của ông cũng đơn độc, không một người thân đưa tiễn. Có lẽ trọn đời, gia đình của ông là quân đội, khi cái quân đội đó tan rã, ông cũng ra đi. Riêng bác sĩ Tùng, vì những hành động đã làm và vì câu trả lời khi bị chất vấn về tướng Nam — "Đời ông ấy để lịch sử xử" - đã bị lưu đày ra Bắc nhiều năm.

Hơn 30 năm đã qua, tôi vẫn nhớ mãi hình ảnh chiếc xe đưa xác nhạt nhòa trong mưa chiều, cùng một hình ảnh khác, cái hình ảnh thương tâm của tất cả thương bệnh binh quân đội Cộng Hòa bị đuổi ra khỏi Quân Y Viện vào sáng hôm sau.

Nhớ lại những khuôn mặt hom hem, những tấm thân què cụt mà băng bó còn loang máu đỏ dìu dắt nhau rời Quân Y Viện trong nhục nhằn khiến tôi luôn thấy trạnh lòng …".

*

Một gợi nhắc cũng là một thắc mắc khó tránh hiện ra khi gấp cuốn sách lại : "Bao giờ con người mới thức tỉnh về lẽ diễn hóa vô thường của vũ trụ để ngưng lao vào các nẻo đường u tối hầu giữ vẹn bầu không khí trong lành cho cuộc sống cực kỳ ngắn ngủi mong manh ? " Câu trả lời có thể còn nằm mãi trong chờ đợi và trước mắt tôi bỗng đột nhiên vươn lên hình ảnh tấm thân hóa đá của người chinh phụ vọng phu qua lời thơ Tô Thùy Yên:

Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng

Chờ anh như biển vẫn chờ sông.

Virginia July 01, 2011

Uyên Thao

Nguồn : hocxa.com, 26/06/2023

Published in Văn hóa

Việt Nam : Báo nhà nước cắt bỏ một phát biểu gây xôn xao của thủ tướng Phúc

Phạm Đoan Trang, Nguyễn Quang A, Hoàng Dũng Trọng Thành, RFI, 13/06/2020

Thủ tướng Việt Nam có phát biểu gây xôn xao trong công luận, báo chí nhà nước đồng loạt cắt bỏ ; công an Hà Nội thông báo kết luận điều tra về vụ án Đồng Tâm ; tổng thư ký Liên Hiệp Quốc kêu gọi cộng đồng quốc tế tiếp thu bài học của Thiên nhiên qua đại dịch Covid-19, để thay đổi định hướng phát triển ; một hiệp hội Đài Loan khởi động thủ tục trưng cầu dân ý sửa đổi Hiến pháp, hướng đến độc lập. Trên đây là chủ đề chính của Tạp chí Thế Giới Đó Đây tuần này.

cotden1

Ảnh biếm họa : Ttổng thống Mỹ Donald Trump ra lệnh cho quân đội ngăn chặn cột điện "chạy sang Việt Nam", sau phát biểu của thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc. © Copy d'écran Youtube

Trong những ngày gần đây công luận trong và ngoài nước xôn xao với một phát biểu của thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc. Trong một phiên "thảo luận tổ" về tình hình kinh tế xã hội ngày 08/06/2020, tại Quốc hội, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã dùng một diễn đạt hiếm có để ca ngợi thành tích của chính quyền Việt Nam, trong đại dịch Covid-19 vừa qua. Ông Phúc so sánh tình hình hiện nay, khi "hàng vạn người từ nước ngoài đăng ký về Việt Nam" để tìm nơi an toàn, trong bối cảnh bệnh dịch, với thực tế Việt Nam sau năm 1975, khi người ta thường nói "nếu cái cột điện biết đi thì chạy sang Mỹ hết". Giờ đây, theo ông, tình hình là ngược lại, "nếu cột điện ở Mỹ biết đi thì sẽ về Việt Nam".

Theo nhiều nhà quan sát, phát ngôn mới nhất nói trên cho thấy thủ tướng Phúc chưa rút ra được bài học đắt giá về những lời nói gây ấn tượng, nhưng nông cạn, nhất là khi đề cập đến những vấn đề hết sức "nhạy cảm" như thảm kịch cả triệu người Việt phải vượt biên sau 1975, hàng trăm nghìn người thiệt mạng trên đường tìm nơi tị nạn. Một nhận xét về phát biểu của ông thủ tướng, được nhiều người chia sẻ, là với tư cách một chính trị gia hàng đầu, người đứng đầu chính phủ, phát ngôn như vậy là không chấp nhận được. Phát biểu nói trên cũng cho thấy dường như ông thủ tướng đã không ý thức được xã hội Việt Nam giờ đây không còn là thời kỳ mà báo chí chính thức trong nước ngoan ngoãn chịu sự chỉ bảo của chính quyền, thuần túy là cái loa cho giới lãnh đạo. Hình ảnh "cột điện có chân" cũng trở thành đề tài châm biếm khắp nơi trên mạng Internet. 

Trả lời RFI tiếng Việt, giáo sư ngôn ngữ học Hoàng Dũng, một nhà hoạt động xã hội tại Việt Nam, cho biết nhận định chung của ông :

"Ông Phúc ông ấy nói trong bối cảnh là ông muốn ca ngợi chính phủ của ông, đặc biệt sự ca ngợi ấy đối với ông là rất cần. Vì đây là giai đoạn tiền Đại hội XIII, ông ấy cần phải khoe cái thành tựu của chính phủ ông, trong bối cảnh Việt Nam chống Covid thành công. Người ta chỉ phê phán nặng câu nói ấy là kỳ dị, bởi vì giả định là Mỹ như một địa ngục, Việt Nam như một thiên đường. Đảo lộn hoàn toàn vị thế Việt Nam trước đây và bây giờ.

Tôi nghĩ là dẫu là lỡ lời đi nữa (câu nói này) cho thấy một não trạng là cho đến bây giờ, ông ấy nhìn tình hình Việt Nam bằng con mắt quá lạc quan. Khi lòng tự hào lên cao quá, thì không còn động lực để cho người ta quyết tâm để thay đổi đất nước. Đầu thế kỉ XX, hàng loạt nhà cách mạng Việt Nam đều nói rất nặng lời về Việt Nam. Họ đau đớn vì Việt Nam quá lạc hậu, và cái đau đớn ấy thúc đẩy họ tìm cách cứu nước, tìm mọi cách cho đất nước thịnh vượng. Cho nên chúng ta đọc các bài văn thời đó, chúng ta có một cái hùng tâm để thay đổi đất nước. Tất cả những cái đó không còn nữa trong cái phát biểu có vẻ là lỡ lời của ông Nguyễn Xuân Phúc".

Tự mãn về hiện tại, nhưng lo không thấy đường lên "chủ nghĩa xã hội"

Vào thời điểm này, dư luận tại Việt Nam cũng chú ý đến phát biểu của một lãnh đạo Việt Nam khác : ông Phùng Hữu Phú, phó chủ tịch Hội đồng Lý luận trung ương, tức cơ quan phụ trách soạn thảo văn kiện cho Đại hội Đảng. Ông Phùng Hữu Phú hôm 10/06 dẫn lại câu nói của lãnh đạo Đảng, ông tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Theo đó, cả trăm năm nữa tại Việt Nam, chưa chắc đã có chủ nghĩa xã hội. Ông phó chủ tịch Hội đồng Lý luận cũng đồng thời đặt mục tiêu xác định rõ "thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" kéo dài bao lâu và "qua những giai đoạn nào". Giáo sư Hoàng Dũng phân tích về điểm chung trong hai phát biểu của ông thủ tướng và của ông phó chủ tịch Hội đồng Lý luận, tuy có vẻ rất trái ngược, một tỏ ra tự mãn về hiện tại, một tỏ ra rất lo lắng vì không hề có chiến lược rõ ràng cho tương lai :

"Đặt trong bối cảnh trước Đại hội Đảng XIII, họ có nhu cầu khẳng định hiện tại là họ thành công tốt đẹp, như ông Phúc nói, nhưng một mặt khác họ cần vẽ ra một tương lai khó khăn, như ông Phùng Hữu Phú, phó chủ tịch Hội đồng Lý luận trung ương nói, để họ biện minh cho những chỗ nào làm không được. Mà họ lúng túng thực sự. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, như là ông Phú nhắc đi nhắc lại, tôi thấy chuyện này ngày trước đưa ra người ta còn mất công ngồi phê phán. Bây giờ tôi thấy họ cười là chính. Tiếng cười báo hiệu là nó chết rồi, về mặt lý luận. (Thực ra) họ thực dụng lắm : họ thỏa mãn với hiện tại, vì họ có nhu cầu như thế, họ cần khẳng định hiện tại, là để khẳng định công lao của họ, vị trí của họ, nhất là trong lúc tranh đua vào vị trí cao. Đồng thời họ phải nói là con đường tương lai khó lắm, để biện minh cho những việc họ làm không được. Hai cái có vẻ mâu thuẫn, mà thực ra chẳng mâu thuẫn gì cả".

Vụ Đồng Tâm : Công an công bố kết luận, giới nhân quyền tố cáo điều tra bị thao túng

Vẫn tại Việt Nam, hôm qua 12/06/2020, Cơ quan Cảnh sát Điều tra thành phố Hà Nội công bố kết luận điều tra về vụ án Đồng Tâm. Công an Hà Nội yêu cầu truy tố 29 bị can trong vụ án "giết người, chống người thi hành công vụ" tại xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, khiến 3 công an thiệt mạng. Cơ quan Công an khẳng định "nguyên nhân trực tiếp làm chết 3 cán bộ, chiến sĩ công an" là do bị "đổ xăng xuống hố và châm lửa đốt".

Trả lời RFI, Tiến sĩ Nguyễn Quang A ghi nhận, theo đánh giá của nhiều luật sư, bên công an đã làm rất nhanh điều tra về vụ án phức tạp này, chỉ trong vòng 6 tháng, so với ước tính sẽ phải mất cả năm trời. Tuy nhiên, theo ông, điều đó không có gì lạ, vì cơ quan điều tra công an chỉ làm công việc củng cố các kết luận, mà họ đã đưa ra ngay từ đầu, khi vụ án xảy ra ngày 09/01/2020.

Nhà báo Phạm Đoan Trang, đồng tác giả Báo cáo về Vụ tấn công Đồng Tâm, nhận định : "Tôi nghĩ rằng bà con Đồng Tâm đang ở trong một thời điểm rất đen đủi. Vụ tấn công Đồng Tâm diễn ra ngay sát Tết Nguyên đán. Chúng ta đều biết là chỉ mùng một Tết âm lịch thôi là thông tin về đại dịch Covid bắt đầu đến Việt Nam. Từ đó đến hết tháng Tư, công chúng, phong trào dân chủ đều tập trung vào vấn đề chống dịch. Trong thời gian đó, phía công an vẫn lẳng lặng tiến hành các việc của họ. Ví dụ bắt thêm người, quản lý chặt hiện trường, theo dõi sát những người đến Đồng Tâm, gây khó khăn cho các luật sư, các luật sư không thể dễ dàng tiếp cận người bị bắt ngay. Rất khó tiến hành điều tra độc lập tại hiện trường. Vừa là dịch bệnh, vừa là không đủ nguồn lực, kể cả dân sự lẫn tài chính. Cho nên, tôi nghĩ trong vụ Đồng Tâm, công an rất có thời gian, rất có điều kiện để xử lý, nhào nặn theo ý họ muốn. Bên cạnh đó, cộng đồng quốc tế có quá nhiều vấn đề, những nước mà ủng hộ nhân quyền cho Việt Nam, họ quá bận vì những việc khác. Đầu tiên là dịch bệnh, rồi Hồng Kông, bầu cử ở Mỹ… Nói chung là rất khó để đưa vấn đề Đồng Tâm vào chương trình nghị sự của bất kể quốc gia nào lúc này. Tôi nghĩ đây là thời điểm rất khó khăn cho cả phong trào dân chủ ở Việt Nam nói chung".

Báo cáo về Vụ tấn công Đồng Tâm được soạn bằng tiếng Anh để gửi đến các tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế, và chính giới tại các quốc gia quan tâm đến nhân quyền tại Việt Nam, ngày 16/01/2020, tức ít ngày sau khi vụ án xảy ra.

Về diễn biến mới của vụ án Đồng Tâm, Tiến sĩ Nguyễn Quang A nhấn mạnh : "Vụ Đồng Tâm là một vụ hết sức nghiêm trọng. Một cái vụ mà anh Nguyên Ngọc (nhà văn) nói là "Trời không dung, đất không tha". Sau vụ đó thì có dịch Covid, rồi tình hình quốc tế đủ thứ, bầu cử Mỹ… tất cả những điều đó lấn vụ Đồng Tâm đi. Nhưng với kết luận điều tra này, vụ Đồng Tâm lại bùng trở lại. Tôi nghĩ là đến lúc họ xử án thì lại là một đợt nữa. Và phải đợi ý kiến của công chúng, ý kiến của các chuyên gia, của các luật sư. Tôi nghĩ là vụ Đồng Tâm không thể chìm xuồng được, dầu họ rất muốn như vậy. Và sau vụ xử án, mà tôi cũng lại tin là họ quyết tâm xử rất nặng 29 người này, như bản kết luận điều tra của họ, nhưng mà tôi nghĩ vụ Đồng Tâm sẽ chỉ chấm dứt khi có một Tòa án thực sự kết án những kẻ phạm tội. Thực ra, cái Tòa án đấy phải chờ đến sau chế độ cộng sản chưa biết chừng. Bởi vì một vụ mà dùng hàng ngàn cảnh sát vào ban đêm, tấn công vào người dân, rồi giết người một cách man rợ, rồi phanh thây một cụ già gần 90 tuổi, gần 60 tuổi Đảng, chính Đảng cộng sản Việt Nam, thì là một chuyện mà từ trước đến nay chưa bao giờ có ở nước Việt Nam. Chuyện Trời không dung đất không tha này sẽ không thể chìm xuồng được".

Liên Hiệp Quốc : Đại dịch Covid, "thông điệp rõ ràng" từ Thiên nhiên

Nhân quyền liên quan đến mọi mặt của đời sống. Với đại dịch Covid-19 đang diễn ra, vấn đề quyền của con người được sống trong một môi trường an toàn nổi lên số một. Mà quyền được sống trong môi trường an toàn, quyền sức khỏe được đảm bảo lại liên hệ mật thiết với môi trường thiên nhiên, hiện đang bị nền kinh tế, dựa trên việc khai thác thiên nhiên triệt để tàn phá, ngày một nghiêm trọng.

Tại Ngày Quốc tế về Môi trường ngày 05/06 vừa qua, báo cáo viên đặc biệt của Liên Hiệp Quốc David Boyd nhấn mạnh : "Đại dịch toàn cầu Covid-19 cho thấy các hậu quả trực tiếp và nghiêm trọng của tình trạng môi trường tự nhiên bị suy thoái, đối với khả năng bảo đảm trên diện rộng các quyền con người, đặc biệt là quyền sống, quyền có sức khỏe… Ít nhất 70% bệnh truyền nhiễm hiện nay, như bệnh Covid-19, là truyền từ các động vật hoang dã sang người". 

Theo AFP, Ngày Quốc tế Môi trường năm nay, do Colombia (quốc gia được coi là có hệ đa dạng sinh thái thứ hai hành tinh, sau Brazil) đăng cai, diễn ra qua cầu truyền hình. Cũng tại hội nghị này, tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Antonio Guterres, kêu gọi toàn thể cộng đồng quốc tế thay đổi hướng đi trong giai đoạn chấn hưng hậu Covid, rút ra bài học từ đại dịch, đặt Thiên nhiên ở vị trí hàng đầu trong mọi quyết định. Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc lưu ý : sự xuất hiện của virus corona là "một thông điệp rõ ràng" từ phía Thiên nhiên. Để hóa giải những nguy cơ do lối phát triển mù quáng hiện nay gây ra, xã hội con người cần "xem xét lại" việc tiêu thụ của mình, thay đổi thói quen sử dụng thực phẩm, tổ chức hoạt động kinh doanh hướng đến bảo vệ thiên nhiên.

Phải hành động khẩn cấp, bởi thiên nhiên đang bị tàn phá với tốc độ ghê gớm. Theo tổ chức phi chính phủ Global Forest Watch, trong năm ngoái, đã có 11,9 triệu hecta rừng bị mất, trong đó một phần ba là rừng nguyên sinh. Đa số rừng bị phá để có đất thâm canh cây công nghiệp như đậu nành, cọ hay cacao.

Độc lập cho Đài Loan : Vận động trưng cầu dân ý sửa đổi Hiến pháp

Cùng với việc tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn chính thức nhậm chức lần thứ hai hồi cuối tháng 5, các vận động thúc đẩy cải cách Hiến pháp nhằm khẳng định nền độc lập cho Đài Loan đang bắt đầu chuyển sang một bước mới.

Bà Lâm Nghi Chính (Lin Yi-cheng), giám đốc điều hành của Quỹ vì Hiến pháp mới (Taiwan New Constitution Foundation - TNC) cho Đài Loan cho biết, hai sáng kiến yêu cầu thay đổi Hiến pháp, đã nhận được hơn 3.000 chữ ký ủng hộ, vượt ngưỡng 1.931 chữ ký (tương đương 0,01% số lượng cử tri của cuộc bầu cử tổng thống mới nhất, mà luật về Trưng cầu dân ý đòi hỏi). Một thăm dò dư luận, do TNC thực hiện, công bố hôm 20/05/2020, cho thấy khoảng 80% cử tri ủng hộ việc sửa đổi Hiến pháp để phản ánh "thực trạng" chủ quyền hiện nay của Đài Loan.

Quỹ Taiwan New Constitution Foundation do chính trị gia kỳ cựu Cô Khoan Mẫn (Koo Kwang-ming), sinh năm 1926, sáng lập. Chính trị gia Cô Khoan Mẫn, từng là một đối thủ chính trị của bà Thái Anh Văn trong Đảng Dân Tiến, trước khi trở thành cố vấn của tổng thống.

Theo hãng tin CNA Đài Loan, tổng thống Thái Anh Văn đang đứng trước áp lực của nhóm cứng rắn trong Đảng Dân Tiến, đòi hỏi thực thi việc sửa đối Hiến pháp, chính thức khằng định độc lập cho Đài Loan, như lời hứa tranh cử của bà hồi năm 2015, là "xét lại Hiến pháp để thể hiện đúng thực tế chính trị mới".

Cho đến nay, Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc (tên chính thức của Đài Loan) ra đời năm 1947, trước khi chính quyền Tưởng Giới Thạch chạy sang Đài Loan, đã tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ Hoa lục, có nghĩa là về cơ bản trùng với lãnh thổ của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa hiện nay. Để được phép sửa đổi Hiến pháp, các đề xuất trưng cầu dân ý phải nhận được sự ủng hộ của đa số, với ít nhất 5 triệu phiếu bầu, tức một phần tư tổng số cử tri. Nếu mọi việc suôn sẻ, trưng cầu dân ý sẽ diễn ra vào tháng 8/2021. Giới quan sát lo ngại nếu Đài Bắc chính thức khẳng định độc lập, Bắc Kinh sẽ tấn công Đài Loan.

Theo Taiwan News, mục tiêu sửa Hiến pháp không chỉ là để độc lập với Trung Quốc, mà còn là thúc đẩy nền dân chủ ở Đài Loan. Trong một thông cáo báo chí hôm 20/05, TNC hoan nghênh quyết định của tổng thống, đưa cải cách Hiến pháp vào kế hoạch, nhưng cũng kêu gọi chính quyền cải tổ Hiến pháp để khắc phục nhiều khiếm khuyết hiện nay trong lĩnh vực bảo vệ nhân quyền, cũng như cần xác định rõ hệ thống chính trị tại Đài Loan.

Chủ tịch Quỹ Taiwan New Constitution Foundation Cô Khoan Mẫn, trong cuộc họp báo hôm 11/06, khẳng định để bảo đảm dân chủ bền vững, đất nước phát triển, Đài Loan cần ít nhất hai đảng lớn, như Đảng Dân Tiến và Quốc Dân Đảng hiện nay . Ông kiên quyết chống lại việc một đảng kiểm soát toàn bộ đất nước, cho dù đó là Đảng Dân Tiến. Tuyên bố được đưa ra sau thất bại lịch sử của Quốc Dân Đảng. Thị trưởng thành phố Cao Hùng, lãnh đạo Quốc Dân Đảng Hàn Quốc Du (Han Kuo-yu), thân Bắc Kinh, chỉ nhận được sự ủng hộ của 9,2% cử tri, mức thấp chưa từng có.

RFI tiếng Việt xin cảm ơn nhà báo Phạm Đoan Trang, Tiến sĩ Nguyễn Quang A và Giáo sư Hoàng Dũng.

Trọng Thành thực hiện

Nguồn : RFI, 13/06/2020

***********************

Tại sao cột đèn không biết đi ?

Cánh Cò, RFA, 08/06/2020

Đây là câu hỏi ngớ ngẩn đối với nhân loại nhưng với riêng người Việt Nam thì không ngớ ngẩn chút nào. Người Việt vốn trầm luân khổ ải rất nhiều năm, cả ngàn năm bị Bắc thuộc rồi cả trăm năm bị đô hộ… tất cả nỗi đau dằng dặc ấy cộng lại chưa bằng 70 năm bị cộng sản cai trị. Nỗi uất ức chất chứa trong lòng mọi người khiến họ nhìn đâu cũng thấy bất công, đàn áp.

cotden1

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói : "Trước đây, sau 1975, một thời gian dài, người ta nói : nếu cái cột điện biết đi thì họ chạy sang Mỹ hết. Còn bây giờ, thực tại nước Mỹ những tháng qua và nhiều nước khác, người ta nói : nếu cột điện biết đi ở Mỹ thì nó sẽ về Việt Nam".

Qua lăng kính bất mãn ấy cây cột đèn đối với người Việt cũng bị ức chế, bạc đãi và vì vậy sau giài phóng, hòa vào niềm đau bỏ nước ra đi của người dân miền Nam những cây cột đèn tội nghiệp được sinh ra trước năm 75 cũng ao ước được ra đi tránh bị cộng sản ghim gút, nhưng tiếc rằng chúng không có chân nên người dân miền Nam ý thức rất sớm việc không biết đi của chúng mà nói giùm nỗi lòng của những cây cột đèn… bất hạnh.

Dù chỉ là một câu biếm nhẽ nhưng mấy ai đoan chắc rằng những cây cột đèn miền Nam không "suy nghĩ" như thế ?

Người dân miền Nam "được" giải phóng và rất nhanh chóng sau đó họ được "tặng" nhưng món quá đầy ý nghĩa : Tập trung cải tạo hơn 600 ngàn ngụy quân ngụy quyền. Đưa đi Kinh tế mới hàng trăm ngàn người khác đang sống yên lành tại các thành phố miến Nam. Đánh tư sản mại bản khiến hàng chục ngàn người giàu có tay trắng và sống đời trôi nổi khắp thế giới. Hàng trăm ngàn người bỏ xác trên biển Đông và trong các trại tỵ nạn. Hàng triệu gia đình miền Nam bị bạc đãi, phân biệt, kỳ thị vì lý lịch, nhân thân. Còn bao nhiêu thảm cảnh khác xảy ra trên đất nước sau khi chiếc xe tăng ủi sập cổng đinh Độc lập đã tàn phá tâm hồn, đời sống người ở lại đất nước này.

Và vì tận mắt nhìn thấy đời sống người dân mỗi đêm khi đường phố lên đèn nên những cây cột đèn rất muốn bỏ đi như con người không phải là một ý thức, một phản ứng, một ý muốn rất tự nhiên hay sao ?

Hai câu nói nổi tiếng của miền Nam về chế độ cộng sản đến nay vẫn âm ỉ trong lòng người dân, câu thứ nhất của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu : "Đùng tin những gì cộng sản nói mà hãy nhìn những gì cộng sản làm". Câu thứ hai : "Nếu cái cột đèn biết đi cũng bỏ nước ra đi" đã ăn sâu vào tiềm thức người Việt, nhất là người Việt miền Nam.

Câu thứ nhất không cần bàn cãi, riêng câu thứ hai lại được chính thức lập lại từ miệng một Thủ tướng khi ví von : "Trước đây, sau 1975, một thời gian dài, người ta nói : nếu cái cột điện biết đi thì họ chạy sang Mỹ hết. Còn bây giờ, thực tại nước Mỹ những tháng qua và nhiều nước khác, người ta nói : nếu cột điện biết đi ở Mỹ thì nó sẽ về Việt Nam".

Tờ Thanh Niên lập lại nguyên văn lời nói của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khiến cho ai nghi ngờ đây là fake news sẽ không hết ngạc nhiên. Trong "ví von" này chứa hai vấn đề : Thứ nhất ông Phúc xác nhận người ta nói nếu cái cột điện biết đi thì họ chạy sang Mỹ hết là sự thật chứ không phải là lời tuyên truyền của thế lực thù địch. Vấn đề thứ hai, ông Phúc xác định nước Mỹ những tháng qua và nhiều nước khác, người ta nói : nếu cột điện biết đi ở Mỹ thì nó sẽ về Việt Nam".

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vốn nổi tiếng là người hớ hênh trong các lần phát biểu. Có người tập trung lại những câu nói "để đời" ấy và liệt kê đầy đủ thì hình như tới tỉnh nào Thủ tướng cũng muốn tình ấy là "đầu tàu" của cả nước. Hôm nay Thủ tướng cho rằng có rất nhiều "cột đèn" của Mỹ cũng muốn về Việt Nam thì hình như phát biểu của ông đã vượt mức cho phép của …bộ chính trị khi can đảm nhìn nhận một câu nói "kinh điển" mà chỉ có bọn phản động mới dám nói.

Nhưng dù muốn ví von thế nào thì ông Thủ tướng cũng không giấu nỗi sự thật phía sau câu nói mnag tính hài hước ấy. Trong cùng một bài báo, phía trên báo Thanh Niên "ca tụng" Thủ tướng về cái "cột đèn" thì những câu dưới lại lôi ra cái "đường sắt" Cát Linh Hà Đông ra để xối gáo nước lạnh vào lời vàng ý ngọc của ngài Thủ tướng khi ông nói :

"Chúng ta có nhiều khuyết điểm, nhất là các dự án thua lỗ. Bao nhiêu dự án dầu khí cũ để lại không khắc phục nổi. Rồi thép Thái Nguyên, một đống sắt gỉ bây giờ thì làm sao có thể khắc phục được các đồng chí ? Khó khắc phục", Thủ tướng nhấn mạnh, và cho rằng cần có thời gian để tiếp tục khắc phục, giải quyết.

Dẫn ví dụ đường sắt Cát Linh - Hà Đông, Thủ tướng thông tin, và cho biết cố gắng trước Đại hội Đảng, tàu đường sắt có thể chạy được thì "may mắn".

Nếu những cây cột đèn ở Mỹ có chân và chạy được về Hà Nội tỵ nạn không biết chúng sẽ nghĩ gì nếu được đứng hai bên con đường sắt dài 13 cây số từ Cát Linh về Hà Đông nhưng vĩnh viễn không nghe được tiếng rì rầm, ken két của chuyến tàu nổi tiếng này. Thật là may mắn vì những cây cột đèn của Mỹ không kịp về soi sáng cho đại hội Đảng, nếu không chúng không có cách nào chạy kịp về nơi chúng bỏ đi bởi bị kết án là không soi đủ sáng cho đại hội khiến các vị đại biểu kính yêu vẫn vòng vo với mớ lý thuyết dối trên lừa dưới như ông Thủ tướng.

Cánh Cò

Nguồn : RFA, 08/06/2020 (canhco's blog)

Published in Diễn đàn

Mẹ của tù nhân lương tâm Trần Hoàng Phúc gửi thư cầu cứu tới Tổng thống Trump (RFA, 10/04/2019)

Ngày 23/2 vừa qua, bà Huỳnh Thị Út, mẹ của tù nhân lương tâm Trần Hoàng Phúc, đã gửi một bức thư tới Tổng thống Mỹ Donald Trump, kêu gọi ông can thiệp để kêu gọi chính quyền Việt Nam trả tự do cho Trần Hoàng Phúc.

me1

Bà Huỳnh Thị Út mẹ tù nhân lương tâm Trần Hoàng Phúc. RFA Edited

Trần Hoàng Phúc, 25 tuổi, bị tuyên án tù 6 năm tù giam và 4 năm quản thúc tại gia trong một phiên tòa vòa ngày 31/1/2018 với cáo buộc tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, theo điều 88 Bộ luật Hình sự 1999.

Trong bức thư của mình, bà Huỳnh Thị Út, một giáo viên tại thành phố Hồ Chí Minh, viết rằng Trần Hoàng Phúc, từng là một sinh viên luật và một thành viên nhiệt huyết của nhóm sáng kiến Lãnh đạo trẻ Đông Nam Á – đã luôn dành sự ngưỡng mộ và đặt sự kỳ vọng đặc biệt vào sự vững mạnh, dân chủ và vĩ đại với vị trí siêu cường hàng đầu của Hoa Kỳ đối với sự phát triển và an toàn của nền hòa bình thế giới.

Bức thư của bà Huỳnh Thị Út cũng đề cao Tổng thống Donald Trump là người luôn đề cao các giá trị nhân quyền phổ quát và "sẽ dành sự quan taamm đến vụ án chính trị này và có những sự hỗ trợ dành cho Trần Hoàng Phúc để khôi phục lại những quyền tối cao và chính đáng nhất của một con người".

Luật sư Trịnh Vĩnh Phúc người đại diện cho anh Trần Hoàng Phúc với Đài Á Châu Tự Do :

"Trần Hoàng Phúc là thân chủ của tôi và là một thân chủ rất đặc biệt, một thanh niên rất trẻ, tù nhân chính trị, một bị can bị cáo rất là đặc biệt bởi vì còn trẻ mà rơi vào các nhóm tội liên quan đến xâm phạm an ninh quốc gia, theo các luật sư chúng tôi qua hai cấp toàn thì Phúc không phạm tội vì những việc làm của Phúc nó mang tính cách công khai minh bạch, mỗi người dân quan tâm đến vận mệnh quốc gia".

Gia đình của Trần Hoàng Phúc mới đây cho biết tù nhân lương tâm này sẽ tiếp tục kháng án lên giám đốc thẩm chống lại bản án 6 năm tù đã được tuyên trong các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm trước đó.

******************

Thêm một thành viên của Con Đường Việt Nam sang Mỹ định cư (RFA, 09/04/2019)

Nhà hoạt động nhân quyền Hoàng Dũng, thành viên của phong trào Con Đường Việt Nam, cùng gia đình đang trên đường đến Hoa Kỳ định cư.

me2

Nhà hoạt động Hoàng Dũng. Facebook Hoàng Dũng

Thông tin trên được chính ông Hoàng Dũng xác nhận với Đài Á Châu Tự Do khi đang trên đường đến Hoa Kỳ vào tối ngày 9/4/2019.

Theo một nguồn tin từ người thân của ông Hoàng Dũng, ông Dũng và gia đình sẽ đến sân bay California vào lúc 8 :50 tối ngày 9/4 theo giờ miền Tây Hoa Kỳ.

Con đường Việt Nam là một phong trào được khởi xướng vào ngày 10/6/2012 nhằm giúp cải thiện tình hình nhân quyền ở Việt Nam.

Trao đổi với Đài Á Châu Tự Do, ông Trương Minh Tam, một thành viên trong phong trào Con đường Việt Nam hiện đang sống tại bang Illinois, Hoa Kỳ cho biết ít nhất có hai thành viên của phong trào này là ông và ông Hoàng Dũng được chính phủ Hoa Kỳ bảo trợ.

Ngoài ra, ông Tam cho biết tổng cộng có khoảng 15 thành viên của phong trào đang định cư ở nước ngoài.

Mặc dù con số người thuộc phong trào ở nước ngoài khá đông nhưng ông Trương Minh Tam cho biết, hoạt động của phong trào trong nước vẫn tiếp tục bình thường :

"Toàn bộ hoạt động không bị giới hạn trong một không gian nào cả. Chúng tôi cũng không chĩa mũi nhọn vào nhà nước Việt Nam mà chúng tôi chỉ cổ súy cho người dân Việt Nam thực hiện những quyền con người mà vốn dĩ người dân phải được thụ hưởng. Mỗi một cá nhân ở trong nước hay ở nước ngoài vẫn làm cho mọi người hoạt động bình thường, không ảnh hưởng gì đến hoạt động chung".

Chính quyền Việt Nam thời gian gần đây đã tiếp tục gia tăng đàn áp, bắt bớ các nhà hoạt động xã hội dân sự, những nhà bất đồng chính kiến.

Thống kê của HRW cho thấy trong năm 2018, Việt Nam kết án tù ít nhất 42 bloggers và nhà hoạt động nhân quyền trong nước theo những điều luật hà khắc.

Theo thống kê của Liên Đoàn Nhân Quyền Quốc Tế và Ủy Ban Nhân Quyền Việt Nam, tính đến nay có ít nhất 150 tù chính trị tại Việt Nam.

Dưới áp lực quốc tế, Việt Nam thời gian qua cũng đã trả tự do cho một số tù nhân lương tâm, tuy nhiên lại bắt họ phải ra nước ngoài định cư như Blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Luật sư Nguyễn Văn Đài, hay gần đây nhất là Blogger Mẹ Nấm – Nguyễn Ngọc Như Quỳnh.

Báo cáo nhân quyền thường niên của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ được công bố ngày 13/3/2019 gọi Việt Nam là "đất nước công an trị" và chỉ trích các vi phạm nhân quyền ở quốc gia độc đảng.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng một ngày sau đó đã ra thông cáo đăng tải trên trang thông tin của Bộ Ngoại giao Việt Nam cho rằng bản báo cáo của phía Mỹ "vẫn chứa đựng một số nhận định thiếu khách quan, dựa trên những thông tin không chính xác, không phản ánh đúng tình hình thực tế của Việt Nam.

****************

Việt Nam tử hình ít nhất 85 người trong năm 2018 (RFA, 10/04/2019)

Báo cáo mới được công bố hôm 10/4 của Ân Xá Quốc Tế xếp Việt Nam vào 5 nước thi hành nhiều án tử hình nhất trên thế giới trong năm 2018 với con số người bị thi hành án trong năm 2018 lên đến 85 người.

me3

Bà Nguyễn Thị Loan (bên trá) kêu oan cho con là tử tù Hồ Duy Hải - Ảnh chụp màn hình (SBS video)

Theo báo cáo của Ân Xá Quốc Tế, những nước đứng đầu bảng về thi hành án tử hình cùng với Việt Nam là Trung Quốc với con số người bị tử hình lên đến hàng ngàn người, Iran, Arap Saudi và Iraq. Riêng Trung Quốc, con số người bị tử hình được coi là bí mật quốc gia nên không được cung cấp mà chỉ được ước tính.

Trong báo cáo của mình, Ân Xá Quốc tế phỏng vấn bà Nguyễn Thị Loan, mẹ của tử tù Hồ Duy Hải, người bị tuyên án tử hình hồi năm 2008 nhưng đang kêu oan và vẫn đang phải đối mặt với nguy cơ bị tử hình bất cứ lúc nào.

Bà Nguyễn Thị Loan cho biết, gia đình bà trong suốt 11 năm qua đã phải sống trong nỗi đau khi nghĩ về những chịu đựng của con trai mình trong tù. Bà kêu gọi quốc tế can thiệp giúp cho con bà. Theo bà, can thiệp quốc tế vào lúc này là hy vọng duy nhất của gia đình tử tù Hồ Duy Hải.

Hồi tháng 2 năm 2017, Bộ Công an Việt Nam công bố Báo cáo thi hành án hình sự trong 5 năm (2011-2016) tiết lộ Việt Nam có 1.134 tử tù. 

Cũng theo thống kê này, trong ba năm (2013-2016), có 429 phạm nhân bị tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc và còn một nửa trong số đó chưa thi hành án.

Báo cáo mới của Ân Xá Quốc Tế cũng cho biết trên toàn cầu, con số người bị tử hình trong năm 2018 đã giảm xuống khi nhiều nước đang tiến tới việc xóa bỏ án tử hình.

Tính cho đến cuối năm 2018, đã có 106 nước bỏ án tử hình trong luật cho mọi loại tội và 142 nước bỏ án tử hình hoặc trong luật hoặc trong thực tế.

Published in Việt Nam

Luật An ninh mạng vừa được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 12/06/2018 đã gây ra phản ứng mạnh mẽ trong và ngoài nước. Cư dân mạng đồng loạt thay đổi hình đại diện phản đối, Hoa Kỳ, Canada, RSF kêu gọi hủy bỏ đạo luật này. RFI Việt ngữ phỏng vấn phó giáo sư tiến sĩ Hoàng Dũng, trường Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh về vấn đề đang gây xôn xao dư luận.

luat1

Kết quả bỏ phiếu Luật An ninh mạng tại Quốc hội Việt Nam ngày 12/06/2018.Vietnam News Agency / AFP

RFIKính chào phó giáo sư Hoàng Dũng. Thưa ông, như ông cũng thấy, vừa qua có phong trào rầm rộ hầu như khắp nơi phản đối Luật An ninh mạng. Trên mạng có những người đã than "Hôm nay, chúng ta bước vào bóng tối". Vì sao dân chúng, đặc biệt là trí thức, lại phản dữ dội như vậy ?

Hoàng Dũng : Ngay câu hỏi cũng đã cho thấy thành công của những người soạn thảo luật này. Đặt tên là Luật An ninh mạng, họ cài đặt trong đầu người đọc rằng quan tâm của luật là quyền lợi của người sử dụng, cũng như đề phòng và trừng trị trộm cướp vào nhà.

Thực ra, với mục đích như vậy, thì năm 2015 Quốc hội đã ban hành Luật An toàn thông tin mạng. Cho nên, Luật An ninh mạng có mục đích khác : tạo ra một cái camera trong ngôi nhà mạng của bất cứ người dân nào, và một cái cửa để vào cướp tài sản mạng của họ, từ đó nếu muốn sẽ ra tay trừng trị.

Nói tóm, ta có viễn cảnh hãi hùng trong cuốn 1984 của Orwell : "Big-Brother is watching you" (Anh Cả đang quan sát mày đấy). Trong thế giới của Orwell, nhân danh quyền lợi quốc gia, mọi công dân đều bị giám sát bằng màn hình từ xa (telescreens). Thế giới ấy trở thành hiện thực với Luật An ninh mạng, cũng nhân danh quyền lợi quốc gia !

RFINhưng so sánh với 1984 của Orwell thì liệu có phóng đại quá không ? Nhiều nước trên thế giới cũng có luật tương tự mà ?

Hoàng Dũng : Khi nói tới 1984, là tôi muốn nói đến tinh thần của Luật An ninh mạng, chứ chưa bàn đến kết quả thực tế của nó.

Nói cho đúng, luật nói chỉ chế tài những người nào dùng không gian mạng để "xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân". Nhưng vấn đề là cơ quan nào phán quyết công dân phạm pháp ?

Luật giao cho Công an, chứ không phải Tòa án : Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ mạng phải : "Xác thực thông tin khi người dùng đăng ký tài khoản số ; bảo mật thông tin, tài khoản của người dùng ; cung cấp thông tin người dùng cho lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng thuộc Bộ Công an khi có yêu cầu bằng văn bản để phục vụ điều tra, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về an ninh mạng".

Như thế, ngôi nhà mạng của bất kỳ ai cũng có thể bị xộc vào khám xét, phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cơ quan an ninh. Ngôi nhà mạng rõ ràng kém an toàn hơn rất nhiều so với nhà ở : theo Luật Tố tụng Hình sự, việc khám xét nhà ở chỉ có thể tiến hành nếu được tòa án hay Viện Kiếm sát ra lệnh hay phê chuẩn.

Nói một cách hình ảnh, Luật An ninh mạng cho phép cơ quan an ninh lắp telescreens của Orwell trong nhà mạng của từng cư dân và việc bật công tắc để theo dõi hoàn toàn giao phó cho cơ quan này. Đây chính là điểm khác biệt chủ chốt giữa Luật An ninh mạng Việt Nam với luật của các quốc gia văn minh. Có người nói rằng có đến 18 quốc gia làm Luật An ninh mạng, nhưng thật ra họ làm luật về bản chất rất khác với Việt Nam, chủ yếu ở điều tôi vừa nói.

Việc Quốc hội vội vã thông qua Luật An ninh mạng có lẽ một phần do tác động của các cuộc biểu tình với quy mô lớn nhất từ trước đến nay, xét về địa bàn và số lượng người tham gia biểu tình. Người ta dễ quy nguyên nhân là do mạng xã hội.

Nhận định như thế là nguy hiểm vì nó đổ tội cho người dân và che giấu nguyên nhân đích thực : các cuộc biểu tình là do lòng yêu nước trước viễn cảnh nhượng địa, sự phẫn nộ trước sự dối trá thô bạo. Như ông Bộ trưởng Bộ Kế hoạch – Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nói dự thảo Luật Đặc khu Kinh tế không có một từ "Trung Quốc" nào, nhưng dân mạng nhanh chóng tìm ra luật đặc biệt ưu đãi cho "nước láng giềng có chung biên giới với Quảng Ninh". Và cả những uất ức khác, như nạn ô nhiễm trầm trọng ở Bình Thuận v.v…

RFI : Như vậy thay vì nhắm vào tin tặc, Luật An ninh mạng nhằm đối phó với với dư luận phản kháng nhiều hơn phải không ạ. Nhưng thưa ôngdù sao trong 466 đại biểu, cũng đã có 15 đại biểu Quốc hội bỏ phiếu không tán thành, 28 đại biểu không biểu quyết. Sự kiện này có lẽ phải có một ý nghĩa nào đó chứ ?

Hoàng Dũng : Tất nhiên là có. Nhưng không ít người đã hy vọng số đại biểu không tán thành nhiều hơn, dầu họ vẫn nghĩ chắc chắn dự thảo sẽ được thông qua. Nhà văn Nguyễn Quang Lập, vì thế, đã viết trong một status : "423/466- Không thể tin nổi ! Dù đoan chắc một tỉ lệ áp đảo nhưng khó có thể tin con số này. Kinh hoàng !"

Tôi cũng kinh hoàng nhưng là khi Thượng tướng Võ Trọng Việt, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng - An ninh của Quốc hội, đọc Báo cáo tiếp thu, giải trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Ông đọc Facebook thành Pê-tê-bóc, lại tưởng điện toán đám mây cũng như mây bay trên trời, có thể dịch chuyển đi nơi này nơi nọ.

Ủy ban Quốc phòng - An ninh của Quốc hội là cơ quan chịu trách nhiệm thẩm tra luật An ninh mạng, mà người đứng đầu lại như thế. Nói cho đúng, không ai hiểu được mọi chuyện. Không hiểu thì học. Mà khởi đầu học là hỏi. Chẳng lẽ ông Võ Trọng Việt không hỏi bất cứ chuyên gia nào về vấn đề tối quan trọng của đất nước mà ông có nhiệm vụ thẩm tra hay sao ?

Còn kinh hoàng hơn nữa là tiết lộ của giáo sư tiến sĩ Nguyễn Minh Thuyết (trên Facebook của ông), nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, là đại biểu Quốc hội nhiều khóa. Ông nói rằng lỗi của ông Võ Trọng Việt chỉ là đọc sai tên Facebook. Còn những chuyện khác là lỗi tập thể : đây là ông Võ Trọng Việt đọc một báo cáo đã được duyệt qua nhiều cấp, nhiều lần !

Cho nên, chắc chắn có một tỉ lệ lớn các đại biểu Quốc hội không đủ năng lực bàn và quyết những vấn đề đại sự quốc gia. Một Quốc hội như thế thì không thể kỳ vọng gì nhiều.

RFI Người ta nói nhiều đến việc có sự giống nhau khó hiểu giữa Luật An ninh mạng Việt Nam với Luật An ninh mạng của Trung Quốc. Xin ông cho biết ý kiến về việc này.

Hoàng Dũng : Có một trang mạng đã đối chiếu dự luật của hai bên : có đến bảy điểm giống nhau giữa luật An ninh mạng của hai nước. Muốn hiểu điều đó cần phải đặt trong một bối cảnh rộng hơn.

Lãnh đạo đất nước là Đảng Cộng Sản, chứ không còn cái tên Đảng Lao Động xưa kia. Một khi đã khăng khăng giữ bằng được chủ nghĩa Cộng Sản, thì mặc nhiên lãnh đạo Việt Nam đã gắn vận mệnh của đất nước với Trung Quốc. Phương châm cuối cùng trong bốn phương châm tổng cộng 16 chữ (Thập lục tự phương châm) do Hồ Cẩm Đào đề xướng và được Việt Nam vui mừng chấp nhận, khẳng định hai nước có chung một vận mệnh (vận mệnh tương quan). Đảng Cộng sản Trung Quốc đi đời thì Đảng Cộng Sản Việt Nam làm sao đứng vững ?

Vì thế, chiến lược, sách lược của Việt Nam ở nhiều mặt rất giống Trung Quốc, thậm chí là hàng viện trợ của Trung Quốc là điều không có gì khó hiểu.

Không chỉ Luật An ninh mạng. Lực lượng 47 chuyên đấu tranh trên mạng gồm đến 10.000 người được thành lập trong quân đội dễ nghĩ tới mô hình "Ngũ mao đảng" (Đảng 50 xu, tổ chức của các dư luận viên).

Ngay lời lẽ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, cũng có bóng dáng lãnh tụ Trung Quốc : ngày 22/1/2013, phát biểu trước Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tập Cận Bình đòi "nhốt quyền lực vào lồng chế độ" (Bả quyền lực quan tiến chế độ đích lung tử lý) thì ngày 14/4/2016, nói chuyện với cán bộ chủ chốt của tỉnh Quảng Ninh, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề cập đến chuyện "nhốt quyền lực vào trong cơ chế, thể chế".

Cao hơn nữa, nghị quyết, văn kiện của Trung ương Đảng Cộng sản và Chính phủ nói đến "thế lực thù địch", "kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa". Đó là sản phẩm dịch từ "Địch đối thế lực", "xã hội chủ nghĩa thị trường kinh tế" của Trung Quốc.

Đã "vận mệnh tương quan" thì tất yếu dẫn đến việc nhận viện trợ vũ khí tư tưởng từ Đảng "bạn" !

RFIDù sao luật này cũng đã được Quốc hội thông qua. Theo ông, hậu quả của việc này như thế nào ?

Hoàng Dũng : Câu hỏi này thật ra rất khó. Tôi cho rằng để trả lời một cách tử tế, cần có nghiên cứu định lượng chứ không dừng ở định tính, tức là phải chỉ ra bằng những con số cụ thể.

Tôi không đủ hiểu biết để nói về tất cả hậu quả của Luật An ninh mạng, tuy tôi tin chắc là rất nghiêm trọng. Riêng về kinh tế, theo Hiệp hội Điện toán Đám mây Châu Á, việc hạn chế dòng dữ liệu xuyên biên giới có thể làm Việt Nam tổn thất 1,7% GDP, 3,1% đầu tư trong nước và tổn thất 1,5 tỉ đô la Mỹ giá trị phúc lợi tiêu dùng.

Ngay ngày 12/6, ngày Quốc hội Việt Nam thông qua luật An ninh mạng, thị trường chứng khoán phản ứng tức khắc : các sàn chứng khoán đỏ rực, lao dốc rất nhanh do các nhà đầu tư nước ngoài bán tháo cổ phiếu, thiệt hại đến 3,6 tỉ đô la Mỹ. Nhưng như thế có lẽ còn xa mới lay tỉnh được những đầu óc chủ trương Luật An ninh mạng.

Luật An ninh mạng chỉ như một cố gắng tuyệt vọng be bờ để ngăn dòng chảy cuộc sống. Tất nhiên, nước sẽ chậm lại. Nhưng cuối cùng cuộc sống vẫn cứ lừng lững, làm sao ngăn được !

RFIChúng tôi xin chân thành cảm ơn Phó giáo sư tiến sĩ Hoàng Dũng, trường Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh, đã vui lòng dành thì giờ trả lời phỏng vấn của RFI Việt ngữ.

Thụy My thực hiện

Nguồn : RFI, 16/06/2018

Published in Diễn đàn