Những cái nhìn khác nhau của người Việt hải ngoại về đối tác chiến lược Việt-Mỹ
Cuối tháng hai 2019, nhân chuyến đi đến Việt Nam đàm phán với Bắc Triều Tiên, Tổng thống Mỹ Donald Trump mời Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng sang thăm Hoa Kỳ trong năm nay.
Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo (trái) hội kiến Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh tại Bộ Ngoại giao ở Hà Nội, ngày 9 tháng 7, 2018.
Ngày 3/4/2019, một số quan chức Mỹ, Việt sẽ tổ chức hội thảo về hợp tác chiến lược Mỹ-Việt tại thủ đô nước Mỹ.
Cộng đồng người Việt hải ngoại nhìn khả năng quan hệ Việt-Mỹ sắp tới đây được nâng lên mức chiến lược như thế nào ?
Góc nhìn của người Việt hải ngoại
Góc nhìn của người Việt hải ngoại khá khác nhau về quan hệ Việt-Mỹ, thay đổi từ nhận xét tích cực cho đến xem việc đó là điều chỉ làm lợi cho Đảng Cộng sản cầm quyền mà thôi.
Từ bang Maine, Giáo sư Ngô Vĩnh Long, khoa lịch sử tại Đại học Maine nói với đài RFA :
"Tôi thấy đối tác chiến lược với Mỹ rất quan trọng. Đặc biệt hiện nay Trung Quốc càng ngày càng lấn tới ở Biển Đông".
Như vậy Giáo sư Long đặt quan hệ ngoại giao Mỹ-Việt trong bối cảnh phải kềm chế Trung Quốc tại khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên ông cũng nêu lên một sự lo lắng rằng nếu Việt Nam chỉ đơn phương làm chuyện xích lại gần với Mỹ trong khu vực Đông Nam Á thì sẽ phải hứng chịu nhiều áp lực từ Bắc Kinh. Ông cho rằng Việt Nam nên tập hợp các nước Đông Nam Á để thực hiện mục đích của mình.
Ông Nguyễn Gia Kiểng, người thành lập một tổ chức chính trị của người Việt hải ngoại là Tập hợp dân chủ đa nguyên, cũng có nhận xét tích cực về sự xích lại gần nhau giữa hai nước Mỹ, Việt :
"Việc chế độ cộng sản Việt Nam tìm cách thắt chặt quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ là một dấu hiệu tốt thôi, mặc dù Việt Nam vẫn còn lệ thuộc Trung Quốc nhiều lắm. Mình có thể nhận định là họ có cố gắng xích lại gần với Mỹ, giảm sự lệ thuộc vào Trung Quốc".
Cũng trong nhóm có nhận xét tích cực về sự phát triển quan hệ Mỹ Việt là luật sư Vũ Đức Khanh, từ Canada.
"Mối quan hệ đó trải qua nhiều khó khăn, tuy nhiên hai bên đã có những quyết tâm chính trị rất cao, để nâng quan hệ lên tầm chiến lược, đây nó cũng phù hợp với nguyện vọng và quyền lợi của hai nước".
Bình luận về sự trở ngại về thể chế trong mối quan hệ này, giữa một bên là nhà nước cộng sản, bên kia vốn là nơi dẫn đầu các cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cộng sản, Luật sư Vũ Đức Khanh thấy không có trở ngại nào, thậm chí ông nhận xét rằng chế độ và xã hội Việt Nam hiện nay không còn mang tính chất cộng sản nữa mặt dù vẫn là một chế độ độc tài.
Ông Vũ Đức Khanh ủng hộ sự phát triển quan hệ ngoại giao Việt-Mỹ lên mức chiến lược.
Cùng ủng hộ việc phát triển mối quan hệ này là ông Đoàn Viết Hoạt, cựu tù chính trị Việt Nam hiện sống tại Mỹ :
"Tôi ủng hộ việc nâng quan hệ này lên mức chiến lược dù rằng chế độ hiện nay tại Việt Nam vẫn là chế độ cộng sản, vì chuyện này tốt cho Việt Nam. Tôi nghĩ dù là cộng sản hay quốc gia thì với cái vị trí địa chiến lược của Việt Nam, lúc nào cũng cần Mỹ như là một siêu cường".
Ông Đoàn Viết Hoạt cho rằng vì là mang tên cộng sản nên các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng khó lòng lên tiếng đối đầu trực diện với Trung Quốc, nên quan hệ chiến lược với Mỹ càng quan trọng hơn.
Từ một góc nhìn khác, ông Phạm Dương Đức Tùng, sống tại Pháp cho rằng quan hệ đối tác chiến lược Mỹ-Việt chỉ là một trò chơi lừa bịp, một bên là chính quyền ông Donald Trump ra rả tuyên bố muốn tiêu diệt chủ nghĩa xã hội trên thế giới, còn một bên là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn đeo lá bùa hộ mạng 4 tốt mười sáu chữ vàng với Trung Quốc để sống còn.
Ông Tùng nhấn mạnh là Việt Nam mong muốn hội nhập mậu dịch với thế giới nhưng lại sợ nguy cơ Đảng Cộng sản đối diện với nguy cơ sống còn.
Cũng nhấn mạnh đến sự lo ngại về vai trò của Đảng Cộng sản bị mất đi, là ông Lý Thái Hùng, sống tại Mỹ, hiện là Tổng bí thư đảng Việt Tân :
"Tôi nghĩ là việc cộng sản Việt Nam ngày hôm nay tìm cách tiếp cận với Mỹ để giải quyết vấn đề Biển Đông, kể cả tạo cái thế tay ba với Hoa Kỳ và Trung Quốc, là để duy trì quyền lợi của đảng Cộng sản, sự tồn tại của họ trên đất nước Việt Nam".
Tuy vậy ông Lý Thái Hùng cũng có nhận xét giống ông Ngô Vĩnh Long là những người lãnh đạo Việt Nam hiện nay đang tìm cách sử dụng Mỹ để giải quyết vấn đề Biển Đông, và điều này đang gặp thuận lợi vì Mỹ cũng đang tìm kiếm sự ủng hộ để chống lại Trung Quốc, nhưng việc này còn phụ thuộc vào Trung Quốc nữa, ông Lý Thái Hùng nhấn mạnh.
Ông Nguyễn Đình Hùng, Tổng thư ký Liên đoàn lao động Việt, sống tại Úc thì không nói rằng ông chống hay không chống quan hệ đối tác chiến lược Việt Mỹ, mà lại nói đến việc dùng quan hệ đó để thúc ép Việt Nam thực hiện những cam kết :
"Quan điểm của Liên đoàn Lao động Việt là trong đối tác chiến lược phải có yêu cầu của các đối tác quốc tế phải bắt buộc Việt Nam theo đúng các công ước quốc tế mà họ đã ký".
Ông Nguyễn Đình Hùng nhấn mạnh đến các công ước buộc các quốc gia đã ký phải để cho công nhân của mình quyền thành lập nghiệp đoàn tự do. Ông Nguyễn Đình Hùng cho rằng quyền tự do của người công nhân rất là quan trọng vì họ tạo ra của cải cho quốc gia về lâu dài.
Cũng nhấn mạnh đến việc phát triển lâu dài, ông Nguyễn Gia Kiểng cho rằng có thể chính quyền hiện nay của ông Donald Trump lơ là với các vấn đề dân chủ hóa, nhưng ông ví chính quyền này như một dầu ngoặc đơn, rồi sẽ phải khép lại, Việt Nam vẫn phải có dân chủ hóa mới có thể có quan hệ bền lâu với nước Mỹ.
Kính Hòa
Nguồn : RFA, 02/04/2019
Trung Quốc đã áp dụng trong vài năm nay một hệ thống theo dõi người dân để qua đó nhà nước có thể đánh giá hạnh kiểm của người dân rồi đưa ra biện pháp chế tài.
Có 17 triệu 500 ngàn người Trung Quốc bị xếp hạnh kiểm kém trong năm 2018. Đường phố Bắc Kinh, 1/2017 - AFP
Đã có những ý kiến cho rằng sẽ áp dụng trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam để đánh giá công dân tốt.
Hệ thống hạnh kiểm của Trung Quốc là gì ? Liệu Việt Nam sẽ áp dụng điều đó ?
Ông Hồ Như Ý, một dịch giả tiếng Trung Quốc, sống ở Hà Nội nói với Đài RFA rằng sự hình thành của hệ thống chấm điểm công dân của Trung Quốc đã bắt đầu từ năm 2013 với những bảng hướng dẫn thực hiện cho các cơ quan hành chính, sau đó Bắc Kinh mới bắt đầu đưa hệ thống này kết hợp với hệ thống mạng điện tử của nước này mà nhà nước kiểm soát hoàn toàn :
"Bắt đầu từ năm 2014 họ bắt đầu phối hợp với các công ty mạng. Đến 2018 họ bắt đầu công bố danh sách những người bị điểm số kém. Họ bị cấm tham gia vào những hoạt động cộng đồng như mua vé tàu xe, máy bay, chọn trường cho con. Năm 2018 có tổng cộng 17 triệu 500 ngàn người bị xếp loại là tín dụng đen, tức là không được tham gia những hoạt động cộng đồng đấy".
Theo ông Ý, hệ thống này đã được sử dụng trước nhất để kiểm soát những người dân thiểu số thuộc sắc tộc Duy Ngô Nhĩ tại Tân Cương.
Hệ thống này áp dụng việc sử dụng trí khôn nhân tạo, các kỹ thuật tiên tiến về hình ảnh để giám sát hành vi hàng ngày của công dân, để nhận biết là một công dân vi phạm những lỗi lầm gì để trừ điểm.
Theo ông Hồ Như Ý, mới gần đây, Bắc Kinh vừa đưa ra một phần mềm ứng dụng mới để theo dõi sinh viên. Những sinh viên gian lận thi cử, hay là phát biểu trái với đường lối của Đảng Cộng sản Trung Quốc trên mạng sẽ bị trừ điểm.
Điều quan trọng nhất làm cho hệ thống này bị chỉ trích là không ai được biết nhà nước Trung Quốc đưa ra những tiêu chuẩn gì để xếp loại công dân của họ.
"17 triệu 500 ngàn người này chỉ biết điểm hạnh kiểm của họ khi họ đi mua vé tàu xe hay lên máy bay. Sau đó họ hỏi cơ quan công quyền thì được chỉ cho là họ đã phạm những cái ngớ ngẫn như là có người viết một bài thơ, có người đi thưa kiện bị thua, có người lên mạng câm biếm chỉ trích cái này cái kia".
Cuối trung tuần tháng 3/2019, tại Việt Nam xuất hiện bài báo trên tờ báo mạng Vietnamet về trí khôn nhân tạo, người ta đọc thấy một đoạn như sau :
Đáng chú ý trong số này là bài thuyết trình của ông Nguyễn Anh Tuấn - CEO Diễn đàn Toàn cầu Boston về một xã hội trí tuệ nhân tạo, nơi mà các công dân được đánh giá bằng hệ thống thang điểm xã hội còn chính phủ tạo ra các chuẩn mực chung để dẫn dắt người dân.
Ông Nguyễn Anh Tuấn, nguyên là Tổng biên tập của tờ Vietnamnet, nay sống ở Boston, đứng đầu một tổ chức thường có những hoạt động ở Việt Nam.
Bài viết này của ông Tuấn làm dấy lên lo ngại rằng Việt Nam sẽ bắt chước Trung Quốc thiết lập một hệ thống chấm điểm đạo đức của công dân Việt Nam.
Nhà hoạt động xã hội bất đồng chính kiến Nguyễn Tiến Trung nói với RFA :
"Nếu đó là một hệ thống như Tàu thì hết sức là bậy bạ. Trước tiên là con người cũng còn không được phép đánh giá xếp loại người khác, huống hồ gì là một cổ máy. Quản lý quốc gia phải bằng pháp luật, chứ không phải bằng hệ thống thông minh nhân tạo như vậy được".
Tiến sĩ Nguyễn Quang A, nhà hoạt động xã hội tại Hà Nội nói thông minh nhân tạo nếu được dùng thì chỉ được dùng ở những khía cạnh kỹ thuật, như làm sao điều chỉnh giao thông, tránh kẹt xe, chứ không thể được ứng dụng để đụng đến quyền tự do của con người, như thế thì tuyệt đối không được làm.
Việc nghiên cứu trí tuệ nhân tạo tại Trung Quốc cũng thường hay bị chỉ trích rằng nhà cầm quyền Trung Quốc đã toàn quyền thu thậm dữ liệu cá nhân của công dân để làm chuyện này, và đó là một hành động vi phạm nhân quyền.
Trước sự phản ứng khá mạnh mẽ trên mạng xã hội, ông Nguyễn Anh Tuấn đã viết một bài khác cũng trên Vietnamnet, trong đó ông trần tình rằng sáng kiến mà ông đưa ra sẽ không đụng chạm đến sự riêng tư của công dân, chính phủ cũng không thu thập dữ liệu cá nhân, không đánh giá cá nhân, mà những thông tin về cống hiến xã hội của bản thân, hoặc ghi nhận cống hiến qua các cơ quan truyền thông, báo chí, các tổ chức có uy tín.
Tiến sĩ Nguyễn Lương Hải Khôi từ Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, bình luận rằng hệ thống của ông Tuấn nếu cứ cho là khác của Trung Quốc thì nếu đặt vào Việt Nam thì cũng sẽ khúc xạ trở thành giống như Trung Quốc.
Hai nước Trung Quốc và Việt Nam hiện đang theo một chế độ chính trị giống nhau, các cơ quan truyền thông đều do nhà nước kiểm soát.
Chúng tôi có tìm cách liên lạc với ông Nguyễn Anh Tuấn nhưng không được.
Trở lại với việc áp dụng hệ thống chấm điểm công dân bên Trung Quốc, ông Hồ Như Ý nhận xét rằng sự phản kháng của người dân Hoa Lục với hệ thống này là không đáng kể, vì họ đã cam chịu sự đàn áp của Đảng Cộng sản bấy lâu nay.
Tiến sĩ Nguyễn Quang A chia sẻ nhận định này :
"Trước kia người Trung Quốc cũng rất là mạnh mẽ nhưng đáng tiếc là trong độ khảng 15 năm trở lại đây thì sự áp bức nó lên đến nỗi làm cho người ta bị thui chột cái tinh thần phản kháng. Tôi tin rằng nếu chính phủ Việt Nam có muốn bắt chước thì cũng vô ích vì người dân Việt Nam không chịu cái đấy".
Ông Hồ Như Ý bổ sung rằng ngoài ra Việt Nam không giống như Trung Quốc, Việt Nam yếu kém hẳn về cơ sở hạ tầng để có thể thiết lập một hệ thống chấm điểm công dân tích hợp những tiêu chuẩn đạo đức của đảng với siêu máy tính, với hệ thống nghe nhìn,… để có thể kiểm soát người dân.
Ông Nguyễn Tiến Trung so sánh hệ thống chấm điểm công dân này với hệ thống hộ khẩu vẫn còn đang tồn tại tại Việt Nam và Trung Quốc :
"Cũng là một hình thức như sổ hộ khẩu, để ràng buộc công dân, để ban phát ân huệ của nhà cầm quyền. Nếu anh nghe nhà cầm quyền thì được điểm cao, phản đối, phản biện thì sẽ được điểm thấp. Điều đó rất là bậy bạ".
Một người Việt Nam sống tại Mỹ bình luận trên Facebook của ông Nguyễn Anh Tuấn rằng ở những quốc gia văn minh thì chỉ có người dân mới có quyền chấm điểm nhà cầm quyền chứ không phải là ngược lại.
Kính Hòa
Nguồn : RFA, 29/03/2019
Việt Nam và Hoa Kỳ chính thức tái lập quan hệ ngoại giao vào năm 1995, hai mươi năm sau cuộc chiến Việt Nam kết thúc. Trong vòng hai mươi năm đó cũng có các cố gắng tái lập bang giao giữa hai bên nhưng đều không thành.
Chủ tịch Nguyễn Phú Trọng (giữa) bắt tay tiễn Tổng thống Donald Trump sau hội đàm tại Phủ Chủ tịch, Hà Nội, 27/2/2019. AFP
Tuy nhiên quan hệ hai nước lại có vẻ tăng tốc trong ba, bốn năm gần đây với hàng loạt các chuyến thăm qua lại cấp cao của các nhà lãnh đạo hai nước : Trương Tấn Sang, Obama, Nguyễn Xuân Phúc, Trump, Nguyễn Phú Trọng… Đó là chưa kể đến các cấp bộ trưởng bên dưới.
Trong tiến trình tăng tốc ngoại giao đó, người ta thấy một cuộc hội thảo mang chủ đề Khắc phục hậu quả chiến tranh : Chặng đường hòa giải và hợp tác tương lai giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, được tổ chức tại Viện Hòa Bình Hoa Kỳ, thủ đô Washington DC, do hai Bộ quốc phòng hai nước đồng tổ chức, vào ngày 26/3/2019.
Nơi diễn ra hội thảo chỉ cách bức tường đen ghi tên 58 ngàn binh sĩ Mỹ chết trận chỉ vài phút lái xe.
Trong đoàn Việt Nam có Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ quốc phòng.
Phía Mỹ có ông Joseph Felter, trợ lý Thứ trưởng Bộ Quốc phòng phụ trách khu vực Đông Nam Á.
Đây là một cuộc hội thảo rất hữu nghị kéo dài trọn ngày. Hai bên bày tỏ ý nguyện hợp tác với nhau giải quyết các vấn đề hậu quả chiến tranh như là rà phá bom mìn và khử chất độc da cam tại Việt Nam, tìm kiếm các quân nhân Mỹ, Việt bị mất tích trong chiến tranh. Và hai bên đều đồng ý rằng việc hợp tác đó sẽ thúc đẩy quan hệ ngoại giao giữa hai nước, một quan hệ mà nhiều người nói rằng phát triển rất ngoạn mục, rất đặc biệt, từ thù thành bạn.
Tuy vậy có một vấn đề mà hai bên đề cập đến khác nhau.
Đó là Trung Quốc.
Một diễn giả Mỹ đã nói trong buổi hội thảo rằng đây là một con voi trong phòng, ý nói rằng nó hiện ra một cách hiển nhiên nhưng người ta lại tránh nói tới.
Nhưng thực ra người Mỹ không tránh nói tới. Những diễn giả và người đặt câu hỏi người Mỹ đã đề cập đến Trung Quốc 5 lần, thậm chí nói đến việc Trung Quốc đang bành trướng lãnh thổ.
Đáp lại phía Việt Nam chỉ có đề cập đến Trung Quốc 1 lần, trong câu trả lời của Đại sứ Hà Kim Ngọc :
"Nhiều người trong chúng ta đề cập đến Trung Quốc, nhưng tôi nghĩ rằng chúng ta còn nhiều chuyện nữa để làm".
Người Mỹ không chỉ đề cập đến Trung Quốc, mà còn đề cập tới một khái niệm gọi là Ấn Độ Thái Bình Dương, được xem như một chiến lược mới của Mỹ, nhằm liên kết các quốc gia trong vùng là Nhật Bản, Ấn Độ, Úc, để kềm chế Trung Quốc.
Khái niệm này được người Nhật đưa ra từ lâu, nhưng mới được dùng trở lại như một chiến lược toàn cầu của Washington trong hai năm gần đây.
Các diễn giả Mỹ đề cập đến Ấn Độ Thái Bình Dương 12 lần, trong đó có cả những người làm việc cho cơ quan chuyên về phát triển là USAID.
Người Mỹ cho rằng Việt Nam nằm ở trọng tâm việc phát triển chiến lược Ấn Độ Thái Bình Dương của họ.
Phía Việt Nam không một lần nào đề cập đến.
Dường như phía Mỹ mong muốn có một sự đáp trả tích cực hơn từ phía Việt Nam cho chiến lược toàn cầu của họ.
Ông Hoàng Việt, một chuyên viên nghiên cứu về Biển Đông tại Việt Nam bình luận về sự khác biệt này với RFA :
"Nói cho cùng thì Trung Quốc cũng là một cường quốc. Việt Nam mà phát biểu những câu chuyện liên quan tới Trung Quốc thì chắc chắn là sẽ khó khăn cho những người trong chính phủ Việt Nam sau này phải làm việc với Trung Quốc. Vì thế Việt Nam tránh đưa ra những bình luận về Trung Quốc ở chổ công khai".
Phía Mỹ thâm chí đề cập đến cả công ty viễn thông Hoa Vi của Trung Quốc đang bị cáo buộc làm gián điệp tại phương Tây. Công ty này đang hy vọng đạt được những gói thầu lớn về thiết bị Viễn thông tại Việt Nam. Đại sứ Hà Kim Ngọc trả lời về sự quan ngại của các diễn giả Mỹ về Hoa Vi rằng Việt Nam lúc nào cũng buộc các đối tác tôn trọng chủ quyền của Việt Nam.
Ông Hà Hoàng Hợp, một nhà nghiên cứu làm việc tại Singapore nói với RFA :
"Việt Nam ủng hộ Ấn Độ Thái Bình Dương đấy, nhưng chưa có một hành động cụ thể nào cả. cho nên họ không muốn nói nhiều đến. Cái thứ hai là cái Ấn Độ Thái Bình Dương ấy thuộc quyền nghiên cứu của một nhóm của tướng Vịnh. Nhưng họ đi Mỹ lần này là chỉ nói về quan hệ Việt Mỹ, chứ thực ra họ không bỏ qua cái Ấn Độ Thái Bình Dương".
Về mặt chính thức, cố Chủ tịch nước Việt Nam, ông Trần Đại Quang cũng từng lên tiếng ủng hộ Ấn Độ Thái Bình Dương, trong chuyến thăm Ấn Độ của ông vào tháng 3/2018. Trong cùng phát biểu đó, ông Trần Đại Quang cũng có đề cập đến đại dự án Vành đai con đường của Trung Quốc, ông ca ngợi tất cả các sáng kiến hợp tác, dù là của Mỹ hay Trung Quốc, hay Nhật Bản.
Sáng kiến Vành đai con đường của Trung Quốc được xem như một đại dự án phát triển thế lực và ảnh hưởng của Bắc Kinh ra toàn thế giới mà các quốc gia phương Tây, trong đó có Mỹ không ít lần lên tiếng chỉ trích.
Qua những phát biểu chính thức trong vài năm gần đây, Việt Nam lên tiếng tham gia tất cả các định chế do phương Tây hay Trung Quốc đề ra, từ dự án hơp tác phát triển xuyên Thái Bình Dương, gồm 11 quốc gia không có Trung Quốc, cho đến Ngân hàng phát triển cơ sở hạ tầng do Trung Quốc sáng lập.
Những hành động ngoại giao của Việt Nam trong các quan hệ với Mỹ và Trung Quốc được giới quan sát xem là một hành động đu giây giữa hai siêu cường để tránh sự xung đột.
Trong năm 2019 này, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng lại có một chuyến thăm nước Mỹ, người ta đang trông chờ một chuyến đi của ông hay một viên chức cao cấp nào đó đến Bắc Kinh trước, hay sau chuyến đi Mỹ.
Ông Hà Hoàng Hợp nói thêm rằng Việt Nam sẽ tận dụng mọi cái mà các nước lớn đưa ra để giải quyết tốt việc tranh chấp trên Biển Đông.
Biển Đông là vấn đề rất quan trọng đối với người dân Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền, trong đó Hoàng Sa đã bị Trung Quốc chiếm đóng hơn 40 năm nay.
Xung đột với Trung Quốc trên Biển Đông, nơi Bắc Kinh cho rằng có 90% diện tích là của mình, luôn là vấn đề người Việt Nam quan tâm đến. Có thể nói Biển Đông là lợi ích sống còn của người Việt Nam.
Biển Đông cũng được xem là nơi Mỹ rất cần có sự hiện diện để bảo vệ con đường lưu thông Đông Tây của mình và các đồng minh. Vào năm 2010, bà Ngoại trưởng Mỹ lúc đó là Hillary Clinton tuyên bố rằng Hoa Kỳ có lợi ích tại Biển Đông. Và trong ba năm trở lại đây Hoa Kỳ liên tục tổ chức tuần tra trong Biển Đông, thách thức sự đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc.
Theo ông Hà Hoàng Hợp, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh là người phụ trách đối ngoại của quân đội Việt Nam, và người ta thấy rằng cuộc hội thảo tại Viện Hòa bình không phải là lần đầu tiên ông xuất hiện trên đất Mỹ.
Dù không nói đến Trung Quốc, không nói đến Ấn Độ Thái Bình Dương, nhưng tướng Vịnh có hai lần nhấn mạnh rằng Việt Nam và Hoa Kỳ có những lợi ích quốc gia chung.
Kính Hòa
Nguồn : RFA, 28/03/2019
Khách mời : Nguyễn Gia Kiểng, Hồ Như Ý, Nguyễn Trang Nhung
Kính Hòa thực hiện
Nguồn : RFA, 14/03/2019
Lại thêm một quyển sách nữa về sông Mekong được xuất bản. Lần này là quyển Last Days of The Mighty Mekong, tạm dịch : Những ngày cuối của Mekong vĩ đại. Tác giả là ông Brian Eyler, một nhà nghiên cứu người Mỹ có nhiều năm làm việc tại vùng Vân Nam, Trung Quốc, đồng thời ông cũng có nhiều chuyến làm việc tại các quốc gia thuộc lưu vực sông Mekong, trong đó có Việt Nam.
Một nông dân đang lấy nước ngầm ở tỉnh Sóc Trăng, trong vụ hạn hán lịch sử tại Đồng bằng Sông Cửu Long 2015-2016. 3/2016. AFP
Loạt bài sau đây xin điểm lại khái quát những đe dọa mà con sông lớn hàng thứ sáu trên thế giới đang phải hứng chịu, đặc biệt là những gì liên quan đến Việt Nam.
Bài thứ nhất viết về những tổn hại vật chất, môi trường của con sông này.
Bài thứ hai sẽ nói về những xáo trộn xã hội văn hóa lớn đang diễn ra tại vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, và bài cuối sẽ nói về những xung đột, can thiệp quyền lực để thống trị con sông này.
Sông Mekong, những ngày tàn lụi !?
Sông Mekong dài hơn 4300 cây số, xuất phát từ cao nguyên Tây Tạng, và đổ ra Biển Đông. Con sông này tạo nên Đồng bằng Sông Cửu Long, vựa lúa lớn nhất Việt Nam.
Có ba nguồn lợi lớn nhất mà con sông này đem lại cho cư dân sống trong lưu vực của nó :
Tiềm năng thủy điện ở thượng nguồn và vùng trung lưu thuộc các quốc gia Trung Quốc, Lào.
Cung cấp cá nước ngọt cho cư dân Lào, Campuchia, Thái Lan, Việt Nam.
Cung cấp phù sa cho vùng đồng bằng Sông Cửu Long, khu vực sản xuất lúa gạo cây trái lớn nhất Việt Nam.
Điều trớ trêu ở đây chính là nguồn lợi thứ nhất, tiềm năng thủy điện, là nguyên nhân chính đưa đến việc hủy hoại hai nguồn lợi tiếp theo, và qua đó dẫn tới lời cảnh báo như tựa đề của quyển sách The Last Days of The Mighty Mekong của ông Brian Eyler.
Theo số liệu của ông Eyler, hiện nay trên đoạn sông Mekong chảy qua Trung Quốc, còn có tên gọi là Lan Thương, có tất cả sáu con đập khổng lồ đang hoạt động trong tổng số 19 con đập lớn nhỏ được hoạch định, và theo lời ông Eyler trong buổi ra mắt cuốn sách này tại thủ đô Hoa Kỳ hôm 19/2/2019, những con đập này ngăn cản đến một nửa lượng phù sa đổ về hạ nguồn.
Xuôi xuống vùng trung lưu thuộc nước Lào, những con đập khổng lồ cũng đã và đang được xây dựng, gây nên những tranh cãi giữa Lào với hai nước hạ lưu là Campuchia và Việt Nam, khi Lào tiến hành xây những con đập lớn là Pak Beng, Don Sahong, Xayaburi.
Những con đập vùng trung lưu sông Mekong đang đe dọa hủy diệt nguồn thủy sản của con sông này vì chặn mất dường di chuyển của các loài cá khiến chúng bị diệt vong. Nguồn thủy sản sông Mekong là nguồn dinh dưỡng quan trọng nhất cho cư dân dọc hai bờ sông từ Lào, sang Campuchia cho đến Việt Nam.
Tiến sĩ Lê Anh Tuấn, làm việc tại Trung tâm biến đổi khí hậu, thuộc Đại học Cần Thơ nói với Đài RFA về dự án Pak Beng :
"Hầu hết các chuyên gia lo ngại là các đập đó sẽ giữ lại phần lớn phù sa và bùn cát ở thượng nguồn, không đi về phía hạ lưu được, làm thay đổi về mặt dòng chảy và một phần làm ảnh hưởng đến nguồn cá và các hệ sinh thái...Có nhiều vấn đề lắm. Tại vì dự án này không đánh giá đầy đủ qua những tác động của nó lên vùng hạ lưu, rất mờ nhạt. Do đó, hầu hết chuyên gia đều phản bác dự án này".
Ngoài lượng phù sa bị chận lại, nước cũng bị các con đập ở thượng nguồn giữ lại, và đây là một trong những nguyên nhân chính được cho là đã gây nên trận hạn hán lịch sử mùa khô 2015-2016 tại Đồng bằng Sông Cửu Long.
Lượng phù sa, bùn cát bị giữ lại, cộng với việc khai thác cát ồ ạt cho nhu cầu phát triển kinh tế gây ra một tai ương khác là nạn xói lở tại Đồng bằng Sông Cửu Long.
Một chuyên gia về sông Cửu Long là Tiến sĩ Dương Văn Ni, từ Cần Thơ, nói với đài RFA :
"Mấy năm gần đây, do nhu cầu phát triển của khu vực, từ Lào. Thái Lan, qua Campuchia, qua Việt Nam, bùng nổ, quá lớn. Quốc gia nào cũng tranh thủ khai thác cát. Khi mùa lũ tới, dòng nước không còn cát cản để tiêu hao năng lượng, bèn xói vô bờ làm lở bờ sông".
Việc xói lở bờ sông Cửu long tại Việt Nam đã trở thành một hiện tượng thường xuyên, cuốn trôi nhà cửa, ruộng vườn của cư dân ở đây.
Ngoài những nguyên nhân mà người Việt Nam không chủ động chế ngư được như những con đập trên thượng nguồn, còn có những nguyên nhân do chính họ tạo ra đã góp phần gây nên cái mà ông Brian Eyler gọi là Đồng bằng Cửu Long lụi tàn, Whither the Mekong Delta.
Đầu tiên phải kể đến việc đắp đê bao ngăn nước lũ, trái với qui luật tự nhiên của vùng đất này để có thể có thêm vụ lúa thứ ba trong năm. Điều này dẫn đến chuyện đất bị bạc màu do không tiếp xúc với nước lũ hàng năm. Sau nhiều lần cảnh báo, nhiều khu vực tại đồng bằng Cửu Long bắt đầu phá bỏ đê bao. Tiến sĩ nông học Võ Tòng Xuân, từ Cần Thơ nói với RFA :
"Mình phải biết làm kinh tế, chứ mấy ông lãnh đạo cứ đè dân xuống cho họ làm ra thêm lúa để được thăng quan tiến chức. Bỏ đê bao đi mình làm hai vụ, vụ kia để cho phù sa vào mình nuôi trồng thủy sản trong vụ mùa mưa".
Tuy nhiên việc làm muộn màng này theo Tiến sĩ Lê Anh Tuấn, lại một lần nữa làm xáo trộn cuộc sống của người dân vùng đồng bằng.
Do thiếu nước ngọt vì các đập giữ lại trên thượng nguồn, đối diện với nhu cầu dân số tăng lên, người dân vùng Đồng bằng Sông Cửu Long đã phải tăng cường việc khai thác nước ngầm. Việc khai thác nước ngầm này đã vượt quá sự bổ sung nước một cách tự nhiên của lòng đất, tạo nên những chổ rỗng, làm cho đồng bằng bị sụt lút. Theo con số mà ông Brian Eyler đưa ra trong quyển sách của mình, trong 25 năm qua Đồng bằng Sông Cửu Long sụt xuống trung bình 18cm, có nơi Sóc Trăng, Bạc Liêu đến 30cm.
Thiếu nước ngọt ở bề mặt, sụt lún do khai thác nước ngầm, cộng với hiện tượng nước biển dâng lên trên toàn cầu, làm cho nước biển tràn vào gây nên nhiễm mặn trầm trọng. Tất cả những điều này, theo ông Eyler đã biến Đồng bằng Sông Cửu Long trở thành một vùng Châu thổ đứng hàng thứ ba trên thế giới về mức độ dễ thương tổn, có thể làm biến mất vựa lúa lớn nhất của đất nước, công trình khai phá hàng trăm năm nay của người Việt Nam.
Kính Hòa
Nguồn : RFA, 21/02/2019
Cuộc chiến biên giới 1979 giữa Trung Quốc và Việt Nam, tuy ngắn ngủi nhưng được nhiều nhà quan sát cho rằng đã tạo đà cho Trung Quốc vươn lên trên mọi lĩnh vực kinh tế, ngoại giao, chính trị, quân sự,… mặc dù họ bị xem là bị một tổn thất lớn về quân sự.
Đặng Tiểu Bình (phải) gặp Brzezinski tại Bắc Kinh ngày 23/5/1978. Ngày 17/2/1979 Trung Quốc tấn công Việt Nam. AFP
Ngược lại, sau cuộc chiến đó Việt Nam lại đắm chìm trong suy thoái, sa lầy, bị cô lập đến gần một thập kỷ sau.
Trong những ngày kỷ niệm 40 năm cuộc chiến, trong bối cảnh quan hệ quốc tế thay đổi nhanh chóng, nhiều người Việt Nam đặt câu hỏi : Bài học 1979 là gì ?
Ông Đinh Kim Phúc, một nhà nghiên cứu sử học và xung đột Biển Đông, vào năm 1979 là một quân nhân quân đội Việt Nam. 40 năm sau nhìn lại, ông nói về bài học mà Việt Nam đã rút ra từ sự xung đột với Trung Quốc :
"Theo tôi bài học lớn nhất của cuộc chiến biên giới Tây Nam và phía Bắc 1979 là không đi với một kẻ này để đánh kẻ khác, tức là không được tham gia các khối liên minh quân sự, kinh tế bất lợi cho các nước láng giềng".
Trong năm 1978, trước khi cuộc chiến biên giới do Trung Quốc phát động nổ ra, Việt Nam tham gia hai hiệp ước quân sự và kinh tế. Tháng 6/1978 Việt Nam chính thức là thành viên của Hội đồng tương trợ kinh tế do Liên Xô đứng đầu, bao gồm tất cả các quốc gia cộng sản trừ Trung Quốc, Bắc Hàn, và Cam Pu Chia do Khmer Đỏ cai trị.
Tháng 11/1978 Việt Nam ký hiệp định với Liên Xô, trong đó có đề cập đến sự giúp đỡ nhau về quân sự.
Tuy nhien Giáo sư Ngô Vĩnh Long, từ Đại học Maine, Hoa Kỳ, lại cho rằng chuyện liên minh của Việt Nam với Liên Xô không phải là nguyên nhân quan trọng nhất. Ông cho rằng trong nguyên nhân của cuộc chiến tranh đó phải kể đến vai trò của Mỹ :
"Mỹ và Trung Quốc cố tình đánh Việt Nam như là một cuộc chiến tranh qui ước để chống Liên Xô. Khi Đặng Tiểu Bình gặp Carter và Brzezinski thì Brzezinski nói rõ muốn Trung Quốc đánh Việt Nam như là một cuộc chiến tranh qui ước".
Jimmy Carter và Zbigniew Brzezinski là Tổng thống và Ngoại trưởng Mỹ lúc đó, còn Đặng Tiểu Bình là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, mới lên nắm quyền lực.
Giáo sư Ngô Vĩnh Long cho rằng Trung Quốc đang có nhu cầu vốn đầu tư từ các quốc gia như Mỹ và Nhật, cho nên khi tiến đánh Việt Nam vào năm 1979, Trung Quốc đã làm một hành động như là trích máu ăn thề với Mỹ.
Từ những năm 1970 Mỹ đã bắt đầu một cách tiếp cận mới để tấn công khối cộng sản Liên Xô, đó là tái lập quan hệ với Trung Quốc, chia rẽ khối này, thay vì tiến hành một cuộc chiến ngăn chận như cuộc chiến Việt Nam.
Giáo sư Long kết luận là hiện nay nếu nhìn lại giai đoạn xung đột với Trung Quốc nếu không nêu ra vai trò của Mỹ là một sự thiếu sót.
Song, dù nguyên nhân là gì đi nữa, thì theo ông Đinh Kim Phúc, Việt Nam đã rút ra được một bài học về quan hệ đối ngoại và theo một cách tiếp cận ngoại giao mới, gọi nôm na là "đu giây giữa các cường quốc".
Việt Nam rút ra khỏi Cam Pu Chia, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, tuyên bố không liên minh quân sự với bất cứ quốc gia nào.
Theo ông Đinh Kim Phúc, chính sách này đến nay là thành công.
Giáo sư Ngô Vĩnh Long không hoàn toàn đồng ý :
"Nó không thành công nhưng không làm cho vấn đề tồi tệ quá. Biển Đông thì Trung Quốc lấn chiếm như vậy cũng không làm gì được. Vấn đề biên giới trên bộ thì tạm ổn. Tôi không biết có phải là đu giây hay không, hay là sợ bị Trung Quốc đánh ?".
Đó là những phân tích và quan điểm về nguyên nhân của cuộc xung đột 40 năm trước. Còn hiện nay dường như Việt Nam lại đứng giữa những xung đột mới, đó là xung đột thương mại và kể cả quân sự giữa Mỹ và đối tác cũ Trung Quốc.
Có những ý kiến cho rằng đây là cơ hội để Việt Nam dứt khoát thoát khỏi sức ép của Trung Quốc.
Nhà hoạt động xã hội Nguyễn Anh Tuấn viết trên trang cá nhân rằng có những việc cụ thể nên làm hiện nay như là : hoan ngênh sự can dự quân sự của phương Tây vào Biển Đông, ngưng gửi cán bộ sang Trung Quốc đào tạo…
Ông Đinh Kim Phúc nhận xét về những đề nghị này :
"Tôi nghĩ lúc này chỉ riêng chuyện cắt đứt quan hệ về ý thức hệ với Trung Quốc cũng hết sức khó khăn. Những cán bộ gửi sang Trung Quốc đào tạo trong thời gian gần đây cũng không hẳn là những cán bộ sẽ nắm bộ máy đảng và nhà nước. Tiềm lực kinh tế, thế đứng của Việt Nam chưa đủ vững để đối chọi hoàn toàn với các âm mưu của Trung Quốc".
Ở tầm mức cao hơn, đặt Việt Nam vào giữa xung đột Mỹ và Trung Quốc hiện nay, Giáo sư Ngô Vĩnh Long bình luận :
"Xung đột Mỹ Trung Quốc hiện nay chỉ là chuyện nhỏ, không phải lớn. Tôi nghĩ là chỉ một hai tuần nữa thì họ giải quyết được chuyện gọi là chiến tranh thương mại thôi. Quyền lợi của các nhóm tư bản ở Mỹ gắn rất sát với Trung Quốc. Họ chỉ làm ầm ĩ vậy mà Việt Nam ngã về phía Mỹ cũng rất là khó, tôi nghĩ Việt Nam phải rất cẩn thận trong vấn đề này".
Ông Đinh Kim Phúc cũng có những suy nghiệm về ván cờ mà các quốc gia lớn đang chơi với nhau, và Việt Nam phải biết nhận ra cuộc chơi đó :
"Việt Nam phải nhìn nhận đúng tình hình quốc tế, phân tích đánh giá đúng sự phát triển của các siêu cường trên bàn cờ thế thế giới như thế nào, còn nếu Việt Nam đánh giá một cách thiển cận sai lầm như sau năm 1975 thì sẽ phải trả giá".
Ngày 14/2/2019, có một nhóm nhân sĩ trí thức Việt Nam trong và ngoài nước ký một lá thư gửi đến Tổng thống Mỹ Donald Trump, trình bày những nguy hại của Trung Quốc tại khu vực, cũng như những gì Việt Nam đang cần sự ủng hộ của Hoa Kỳ để chống lại mối nguy từ Trung Quốc.
Vài ngày sau đã có 2000 chữ ký.
Một chuyên gia về quan hệ quốc tế mà chúng tôi không nêu danh tánh, sống tại Mỹ nói với chúng tôi rằng lá thư không thể hiện sự độc lập của Việt Nam.
Giáo sư Ngô Vĩnh Long cho biết ông đã từng ký nhiều lá thư kiến nghị về những vấn đề dân chủ nhân quyền trong nước, nhưng ông không ký lá thư 14/2 nêu trên, vì theo ông nó giống như một sự xin cho.
Kính Hòa
Nguồn : RFA, 19/02/2019
Đúng tháng 2, cách đây 40 năm cuộc chiến tranh giữa hai người anh em cộng sản Việt Nam, Trung Quốc diễn ra ngắn ngủi nhưng đẫm máu.
Tù binh Trung Quốc bị Việt Nam bắt giữ. 2/1979. AFP
Chủ đề này thường bị giới chỉ trích tại Việt Nam nói rằng báo chí nhà nước đã né tránh suốt một thời gian dài vừa qua.
Nhưng tháng 2/2019, các bài viết về cuộc chiến tranh này rất khác so với những năm trước đây.
Báo Tuổi Trẻ, một trong những tờ báo có lượng phát hành lớn nhất nước, thực hiện một loạt bài mang tên 40 năm cuộc chiến vệ quốc, 1979. Tựa đề này được đưa lên trang nhất trong những bản in trên giấy trong những ngày trước 17/2/2019, ngày mà đúng 40 năm về trước Trung Quốc xua quân tấn công biên giới phía bắc của Việt Nam.
Loạt bài này kể lại những câu chuyện các cựu chiến binh trong trận chiến 40 năm trước đây. Trong loạt bài phóng sự này cụm từ Trung Quốc xâm lược được dùng rất rõ ràng.
Báo Thanh Niên, một nhật báo lớn khác, cũng phát hành trong cả nước cho đăng bài kể về một trận đánh ở Lào Cai, trong đó gọi lính Trung Quốc là ‘tên’ lính Trung Quốc (Tổ thám báo Trung Quốc gồm 8 tên.)
Báo mạng Vietnamnet đăng bài phỏng vấn một nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam tại Mỹ, mang tên Biên giới tháng 2/1979 : Sòng phẳng với lịch sử. Trong bài phỏng vấn này người được phỏng vấn là ông Vũ Minh Hoàng nói rõ Việt Nam đã không học được bài học từ cuộc chiến 1979 với Trung Quốc.
Bài phỏng vấn này năm trong loạt bài gọi là Chuyên đề cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc 1979. Loạt bài này bắt đầu bằng một bài viết tổng hợp diễn tiến của cuộc chiến tranh biên giới 1979, có sử dụng nhiều tài liệu nước ngoài, đặt cuộc chiến tranh này trong bối cảnh xung đột và bình thường hóa quan hệ Trung Quốc và Liên Xô.
Trên tờ báo mạng VnExpress, có đăng bài phỏng vấn Thiếu tướng Nguyễn Hồng Quân, trong đó vị tướng này cho biết trong cuộc chiến 1979, Trung Quốc dự đoán đúng rằng Liên Xô sẽ không can thiệp dù đã ký hiệp định liên minh quân sự với Việt Nam trước đó. Đây là điều lần đầu tiên được báo chí Việt Nam đưa ra.
Nhà báo Mai Phan Lợi, từng làm ở báo Thanh Niên nói với RFA rằng ông thấy ngôn ngữ thẳng thắn mà báo chí Việt Nam dùng khi viết về cuộc chiến 40 năm trước :
"Tôi quan sát thấy đưa tin rất ồ ạt, các cơ quan có chuẩn bị kỹ càng, các cơ quan lớn như VTV cũng đều có đưa cả. Ngôn ngữ rất thẳng, tố cáo mạnh mẽ, nêu đích danh luôn. Thì đây cũng là điều đặc biệt, là một hiện tượng có thể nói là mới so với mọi năm".
Tuy nhiên ông Lợi cũng nói rằng do không còn làm việc trong hệ thống báo chí chính thống, ông không biết là loạt bài kỷ niệm 40 năm cuộc chiến 1979 này đã được định hướng như thế nào, hay là không có định hướng như mọi năm.
Một nhà báo hiện vẫn làm việc trong hệ thống báo chí chính thống nói với RFA rằng trong loạt bài kỷ niệm 40 năm cuộc chiến tranh với Trung Quốc, vẫn có sự kiểm duyệt cẩn thận của cấp trên, được hiểu là Ban Tuyên giáo Trung ương, cơ quan nắm toàn bộ giới báo chí Việt Nam. Nhà báo này cũng nói với RFA là loạt bài kỷ niệm cuộc chiến 40 năm này đã chuẩn bị rất kỹ càng từ vài tháng trước đây.
Quan hệ Việt Nam Trung Quốc vốn được báo Việt Nam trước đây đưa tin với từ ngữ rất thận trọng, đôi khi không nêu cả đích danh Trung Quốc.
Giáo sư Hoàng Dũng, Đại học Sư phạm Sài Gòn, trích nguồn riêng của ông, nói với RFA :
"Theo thông tin của bạn bè làm báo của tôi thì Ban Tuyên giáo đã dỡ barrier ra để cho bà con có thể nói được. Ở Việt Nam ai cũng biết là những chuyện nhạy cảm như thế này thì báo chí không thể tự quyết định được".
Chuyện nhạy cảm là từ ngữ mà báo chí Việt Nam hay dùng để nói đến những việc không được bàn tán nhiều một cách công khai. Theo cách hiểu như vậy, thì quan hệ với Trung Quốc trên mọi lĩnh vực, từ ngoại giao, quân sự, Biển Đông, cắm cột mốc biên giới, hàng hóa nhập siêu,… từng là những chuyện nhạy cảm ít được báo chí chính thống của nhà nước nhắc tới.
Nhưng những chuyện nhạy cảm trong quan hệ với Trung Quốc dường như đã được nới lỏng rất nhiều trong thời gian qua.
Một trong những người có nhận xét đó là kỹ sư Phạm Ngọc Hưng, chuyên viên nghiên cứu thị trường, sống tại Sài Gòn. Ông Hưng nói với RFA :
"Trong năm vừa rồi Trung Quốc tập trận ở biên giới, Hà Nội có quan điểm cứng rắn trong đàm phán COC ở Biển Đông, rồi bây giờ báo chí lại được nói về chiến tranh biên giới, tất cả những cái đó nó tạo thành một chuỗi, làm mình suy luận rằng có một sự thay đổi về thái độ của Hà Nội với Bắc Kinh".
COC là tên viết tắt cho Bộ Qui tắc Ứng xử trên Biển Đông mà các quốc gia ASEAN, trong đó có Việt Nam đang cố gắng đưa Trung Quốc tham gia vào bằng một hình thức có ràng buộc về luật pháp, điều mà giới quan sát cho rằng Bắc Kinh không muốn để có thể tận dụng thế mạnh quân sự của mình.
Kỹ sư Phạm Ngọc Hưng cho biết thêm là theo ông những gì báo chí Việt Nam viết thì người Trung Quốc đều theo dõi kỹ càng, cho nên việc đưa ra những loạt bài về chiến tranh biên giới 1979 với ngôn ngữ mạnh mẽ, chứng tỏ Hà Nội không còn ngại Bắc Kinh như trước.
Giáo sư Hoàng Dũng nói với RFA rằng ông cũng có cảm nhận giống như kỹ sư Phạm Ngọc Hưng. Ông nói tiếp khi đã cho phép ồ ạt như vậy thì khó có thể thay đổi ngược trở lại về thời kỳ tránh né như xưa. Nhưng bên cạnh đó ông cho rằng từ việc cho phép báo chí đưa bài viết thẳng thắn về Trung Quốc, cho đến thoát hẳn ảnh hưởng của Trung Quốc lên Việt Nam là một chặng đường còn xa.
Kính Hòa
Nguồn : RFA, 13/02/2019
Báo chí Việt Nam những ngày sau Tết gọi sân bay Tân Sơn Nhất (Tân Sơn Nhất) là một chảo lửa để chỉ cảnh kẹt xe liên tục tại sân bay này.
Sân golf nằm trong khu vực sân bay Tân Sơn Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh ngày 14 tháng 4 năm 2015. (Ảnh minh họa)
Những thông tin chính thức còn nói đến việc máy bay phải lượn vòng nhiều lần để chờ đáp, vì số lượng chuyến bay đi và đến Tân Sơn Nhất ngày càng nhiều.
Kế hoạch mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất đã được đưa ra từ lâu, nhưng giới báo chí trong nước đặt câu hỏi là tại sau kế hoạch đó vẫn không được thực hiện ?
Quyết định cao cấp nhất liên quan đến việc mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phú đưa ra vào tháng tư 2017, đồng ý cho mở rộng sân bay về cả hai hướng Bắc và Nam của sân bay này.
Trước đó người ta chỉ nói đến việc mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất về phía Nam, vì phía Bắc là một sân golf do quân đội quản lý.
Tuy nhiên việc quân đội cản trở việc mở rộng sân bay lại được báo chính công khai chỉ trích, cho nên sau đó đã dẫn đến quyết định của Bộ Quốc phòng Việt Nam là sẵn sàng trao đất lại cho sân bay Tân Sơn Nhất khi cần. Điều đó đã dẫn đến quyết định ký điều chỉnh việc mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.
Nhưng tại sao gần hai năm đã trôi qua mà không thấy việc mở rộng này được bắt đầu ?
Tháng 3/2018, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc lặp lai một lần nữa chuyện mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất về cả hai hướng bắc và nam. Đến cuối năm 2018, văn phòng của ông Nguyễn Xuân Phúc lại ra công văn thúc giục các bên có liên quan tiến hành việc mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất.
Tiến sĩ Phạm Chí Dũng, một nhà quan sát độc lập tại Sài Gòn, theo dõi rất kỹ những diễn tiến xung quanh việc mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất cho đài RFA biết :
"Đất thì có sẵn rồi, vấn đề là có muốn mở rộng hay không ? Có tiền mở rộng hay không ? Quả bóng hiện nay nằm trong chân Bộ Quốc phòng. Tôi cho rằng đây là một sự chậm trễ rất cố ý. Kể từ tháng 5/2017 đến nay, chính phủ đã chỉ đạo nhưng mọi việc dậm chân tại chổ".
Đó là nói về phần mở rộng về phía bắc, liên quan đến khu đất hiện do Bộ Quốc phòng quản lý.
Còn phần mở rộng về phía Nam,theo ông Phạm Chí Dũng sẽ phải giải tỏa rất nhiều khu dân cư tốn rất nhiều tiền.
Tiến sĩ kinh tế Lê Đăng Doanh cho đài RFA biết rằng ông không nắm chi tiết về kế hoạch mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất, nhưng ông cũng cho rằng vấn đề tiền vốn để đầu tư vào kế hoạch này là một vấn đề quan trọng.
Nhưng lý do quan trọng nhất cản trở việc mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất, theo ông Phạm Chí Dũng, là sự tồn tại của một đại dự án tên gọi là sân bay Long Thành.
Dự án này nằm cách Sài Gòn vài chục ây số, được xem sẽ là sân bay quốc tế chính cho khu vực phía Nam. Dự án này được quyết định từ tận năm 2005, tức là cách đây gần 15 năm.
Tiến sĩ Phạm Chí Dũng nhận định về sự liên quan giữa đại dự án sân bay Long Thành và việc sân bay Tân Sơn Nhất không được mở rộng :
"Đây là nguyên nhân thâm sâu nhất, tôi cho rằng từ năm 2017 đến nay Bộ Quốc phòng và Bộ Giao thông vận tải, và cả những nhóm lợi ích tìm cách câu giờ để tiến hành xây dựng sân bay Long Thành. Khi xây dựng sân bay Long Thành rồi thì sẽ không mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất nữa".
Ông Phạm Chí Dũng nói thêm rằng khi đó, những khoảnh đất hiện nay là sân golf sẽ được sử dụng thương mại đem lại rất nhiều lợi nhuận cho Bộ Quốc phòng cũng như các nhóm lợi ích.
Nhưng việc khởi động đại dự án sân bay Long Thành không hề dễ dàng.
Đã có rất nhiều chỉ trích từ giới chuyên gia cho rằng đại dự án này quá tốn kém. Số vốn được tính toán hiện nay cho dự án này là 5.4 tỉ đô la Mỹ, theo báo Tuổi trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, số ra ngày 11/2/2019. Và theo một số chuyên gia, thời gian khởi công đại dự án này có khả năng bị lùi lại 5 năm, và khi đó số vốn đầu tư có khả năng tăng lên đến 10 tỉ đô la Mỹ.
Ông Phạm Chí Dũng cho rằng dù tốn kém như vậy nhưng đại dự án Long Thành cũng được đề ra vì hai lý do, thứ nhất là giới qui hoạch Việt Nam trước đây dự tính là sẽ có vốn viện trợ phát triển với lãi suất ưu đãi của nước ngoài (ODA) nhưng hiện nay vốn đó không còn nữa. Lý do thứ hai là các nhóm lợi ích muốn đưa ra dự án này để đẩy giá đất xung quanh khu vực Long Thành, mà họ đã chiếm dụng lên cao.
Hành lang phía trước sân bay Tân Sơn Nhất. Photo : RFA
Theo ghi nhận của báo chí Việt Nam, vào tháng 7/2018, trong một buổi làm việc tổng kết một giai đoạn dài dùng vốn ODA ưu đãi, Phó Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Việt Nam, ông Phạm Bình Minh cho biết, những đồng vốn ưu đãi về lãi suất đó sẽ không còn nữa.
Cũng theo báo chí Việt Nam ghi nhận, vào tháng 8/2017, giá đất tại Long Thành đã tăng đến 60%.
Tuy vậy theo Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, việc xây mới sân bay Long Thành và mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất đều là những chuyện phải làm. Ông nói với đài RFA :
"Theo tôi thì trước nhất nên mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất, tận dụng những phương tiện của sân bay Tân Sơn Nhất đến mức tối đa, trên cơ sở đó dần dần tiến đến việc xây dựng sân bay Long Thành. Tình hình hiện nay là thiếu vốn thì khó mà xây dựng được sân bay Long Thành".
Như vậy câu hỏi do giới báo chí Việt Nam đặt ra tại sao không mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất có thể được trả lời dễ dàng rằng hiện không có vốn để thực hiện. Bên cạnh đó, việc trì hoãn này cũng có thể do những nhóm lợi ích không muốn mở rộng Tân Sơn Nhất, để hòng chiếm cứ những khoảnh đất vàng tại đây.
Theo thông tin của báo chí Việt Nam, sự tăng trưởng của riêng các hãng hàng không Việt Nam hiện nay đã là 8-10%, sự tăng trưởng này sẽ đè nặng lên sân bay Tân Sơn Nhất, làm cho nó càng quá tải hơn. Tiến sĩ Lê Đăng Doanh lo ngại thêm rằng sắp tới đây việc hợp tác hàng không với Hoa Kỳ thành hiện thực thì sân bay Tân Sơn Nhất sẽ đón nhận một áp lực rất lớn.
Như vậy hình ảnh chảo lửa mà báo chí Việt Nam dùng để tả cảnh sân bay Tân Sơn Nhất, được hứa hẹn không chỉ là những hình ảnh trong ngày Tết mà sẽ là thường trực ở thành phố Sài Gòn lớn nhất nước này.
Kính Hòa
Nguồn : RFA, 11/02/2019
Theo một số thông tin được công bố thì mức thu nhập trung bình đầu người của Việt Nam vào năm 2008 đạt xấp xỉ 1000 đô la Mỹ.
Cửa hàng bán điện thoại thông minh Samsung và những người bán hàng rong trên vỉa hè. Hà Nội 2003. AFP
Mức thu nhập này được xem như là mức thu nhập trung bình, và bắt đầu từ lúc đó nhiều nhà quan sát kinh tế chính trị đã cảnh báo rằng Việt Nam sẽ bị rơi vào một cái bẫy gọi là bẫy thu nhập trung bình, trong đó nền kinh tế chủ yếu dựa vào việc khai thác sức lao động rẻ và giản đơn.
Đầu năm 2019, một viên chức cao cấp của Việt Nam là ông Nguyễn Chí Dũng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch- Đầu tư lặp lại lời cảnh báo đó với tình trạng Việt Nam hiện nay nằm trong bốn cái bẫy : chi phí lao động thấp, sản xuất có giá trị thấp, có công nghệ thấp, và thu nhập trung bình.
Thực ra trong bốn điều vừa nêu thì điều thứ tư bao gồm ba điều còn lại gắn chặt với nhau, vì với lao động rẻ, giản đơn, chỉ có thể thao tác máy móc công nghệ thấp, hoặc không có máy móc, và vì thế tạo ra những sản phẩm không có giá trị cao.
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế ở Hà Nội, nhận xét về tình trạng thu nhập trung bình của Việt Nam hiện nay :
"Chúng ta đã đạt được cái mức trung bình trong một thời gian khá dài rồi. (Năm nay) là xấp xỉ 2500, nhưng để đạt được mức 12000 đô la một đầu người, lại là một quá trình rất dài và khó khăn".
Mức 12000 đô la một người một năm được xem như thu nhập của một quốc gia đã trở nên giàu có.
Theo một chuyên gia kinh tế khác là Tiến sĩ Nguyễn Huy Vũ, từ Na Uy, để cho một quốc gia thoát khỏi cái bẫy thu nhập trung bình, không còn nghèo nữa thì cần ba điều sau đây :
"Thứ nhất là trình độ khoa học kỹ thuật của dân chúng phải cao, các công ty phải có sự sáng tạo, và thứ ba là thể chế của nhà nước phải tạo điều kiện cho sự sáng tạo đó".
Ông dẫn ra ví dụ là Malaysia, một quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, láng giềng với Việt Nam đang được dự báo là sẽ thoát ra khỏi bẫy thu nhập trung bình để trở thành một nước giàu có sắp tới đây.
Khi được hỏi là nếu so sánh với Malaysia thì Việt Nam có một dân số quá đông đúc cần phải giải quyết việc làm ngay lập tức cho số lao động giản đơn, thì liệu chuyện thoát bẫy trung bình đó có khó khăn hơn hay không ?
Ông Nguyễn Huy Vũ cho rằng trong bất cứ quốc gia nào cũng có hai lĩnh vực công nghiệp song song, một lĩnh vực chiếm dụng công lao động nhiều, một lĩnh vực khác cần kỹ thuật và kiến thức nhiều hơn. Theo ông Vũ, sự đầu tư vào lĩnh vực thứ hai sẽ làm cho nền kinh tế từ từ dịch chuyển ra khỏi khu vực chỉ sử dụng sức lao động giản đơn.
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh cũng đề cập đến việc phải thay đổi thể chế để thoát ra khỏi bẫy thu nhập trung bình. Ông nhấn mạnh rằng trong tình hình Việt Nam hiện nay sự hình thành các nhóm lợi ích có quyền lực chính trị kinh tế lớn sẽ ngăn cản sự thay đổi thể chế đó :
"Các nước bị mắc bẫy thu nhập trung bình thì có nhiều lý do, trong đó có thể chế với các nhóm tư lợi, tham nhũng. Ví dụ như những nhóm này khống chế việc khai thác tài nguyên, xuất nhập khẩu, họ không cần quan tâm gì cả đến việc đầu tư phát triển công nghệ để đưa đất nước đi lên".
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh nói thêm là sự thay đổi chính sách, thể chế có thể khuyến khích sự đầu tư tư nhân, tạo nên một chuỗi sản xuất thoát khỏi tình trạng một sản phẩm được sản xuất tại Việt Nam nhưng có rất ít giá trị là được tạo tại Việt Nam. Ông lấy ví dụ như ngành công nghiệp dệt may tại Việt Nam hiện nay, giá trị của một chiếc áo có khi chỉ có 50% là được tạo ra tại Việt Nam.
Một số ngành thoạt nhìn thì có thể nghĩ là có nhiều giá trị được tạo ra thay vì chỉ là lao động giản đơn, như sản xuất điện thoại thông minh tại Việt Nam, nhưng theo ông Nguyễn Huy Vũ, thực tế có thể không phải như vậy.
Hiện nay Việt Nam trở thành quốc gia sản xuất điện thoại thông minh Samsung lớn nhất thế giới, và xuất khẩu điện thoại của hãng này chiếm đến ¼ xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2018, theo hãng Reuters.
Tuy nhiên ông Vũ cho rằng những công ty như Samsung có cơ sở nghiên cứu, thiết kế ở các quốc gia phát triển như Châu Âu, Bắc Mỹ, còn tại Việt Nam là nơi được đầu tư để sử dụng sức lao động lắp ráp giá rẻ mà thôi.
Song song với việc thay đổi thể chế, để nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật của dân chúng, còn một điều quan trọng nữa để thoát bẫy thu nhập trung bình, là ông Nguyễn Huy Vũ nhấn mạnh việc phải có tự do dân chủ hơn :
"Cuối cùng phải cải cách về dân chủ, vì khi người dân có được sự suy nghĩ dân chủ, khác biệt, thì họ mới sức sáng tạo, mới đổi mới được".
Đối với giáo sư Ngô Vĩnh Long, từ Đại học Maine, vấn đề giáo dục là vấn đề sẽ cản trở Việt Nam phát triển :
"Vấn đề là có chính sách tốt hay là không. Có chính sách tốt thì không lọt vào cái bẫy thu nhập trung bình đó. Mà chính sách tốt là vấn đề giáo dục. Việt Nam không có giáo dục tốt nên không thể đầu tư cái gì cả. Thành ra chỉ có thể làm công cho Samsung thôi, chứ còn hơn nữa thì không đủ trình độ cũng như kỹ năng để theo kịp".
Giáo sư Ngô Vĩnh Long cho biết từ những năm 1980 ông đề nghị các giới chức Việt Nam chú ý đến việc giáo dục, nhất là các cấp tiểu học và trung học, nhưng không được lắng nghe, vì Việt Nam mong muốn có cái gọi là đi tắt đón đầu, chú ý vào việc phát triển đại học.
"Đào tạo đại học để có thầy giỏi thì cũng tốt, nhưng cứ chú ý vào cái đó thì không đúng. Ông Nguyễn Thiện Nhân lên lại đưa ra chuyện trong bao nhiêu năm đào tạo 20 ngàn tiến sĩ. 20 ngàn tiến sĩ làm việc như thế nào được trong khi lẽ ra nên đào tạo vài triệu em cấp ba có trình độ để học tiếp để phát triển thêm".
Giáo sư Ngô Vĩnh Long đưa ra ví dụ về Hàn Quốc, ngay cả dưới thời chế độ độc tài trước đây, họ đã bắt đầu chú ý đến giáo dục, bắt đầu trước tiên ở những cấp thấp nhất.
Hàn Quốc là quốc gia được xem là đã tăng tốc thành công vượt qua khỏi tình trạng thu nhập trung bình để trở thành một nước công nghiệp phát triển giàu có, nơi sản sinh ra tập đoàn Samsung hùng mạnh đầu tư vào Việt Nam để sử dụng sức lao động rẻ tại đây.
Kính Hòa
Nguồn : RFA, 07/02/2019
Phong trào giới trẻ mong muốn là chỗ dựa tinh thần cho các bạn trẻ đấu tranh trong nước
Sáng ngày 22/1/2019 có khoảng 300 người Việt biểu tình trước tru sở Hội đồng nhân quyền Liên Hiệp Quốc tại Geneva nhằm phản đối những đàn áp nhân quyền trong nước.
Cuộc biểu tình ở Geneva, chống đàn áp nhân quyền tại Việt Nam và Tân Cương. 22/1/2019. Trần Kiều Ngọc
Một trong những người tổ chức cuộc biểu tình là Luật sư Trần Kiều Ngọc, Chủ tịch Phong trào giới trẻ thế giới vì nhân quyền.
Sau cuộc biểu tình, Luật sư Trần Kiều Ngọc cho đài RFA cuộc phỏng vấn sau đây từ thành phố Adelaide, nước Úc.
Trần Kiều Ngọc : Tổ chức Phong trào giới trẻ vì nhân quyền của chúng tôi là một tổ chức còn non trẻ, mới thành lập vào năm 2016 thôi. Mục đích của chúng tôi ngay từ đầu là qui tụ các bạn trẻ có mối quan tâm với tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Đặc biệt đối với giới trẻ hải ngoại thì chúng tôi mong dấy lên được lòng yêu nước, cội nguồn, để làm sao các bạn trẻ đó có thể cùng đến với nhau, đóng góp cho quê hương Việt Nam của chúng ta có được nhân quyền.
Đối với giới trẻ ở quốc nội thì chúng tôi cũng mong muốn là trên hành trình đấu tranh cho dân chủ nhân quyền ở Việt Nam thì các bạn trẻ đó không cảm thấy cô đơn trên con đường dấn thân của mình. Chúng tôi hy vọng rằng có thể qui tụ được các bạn trẻ trong nước để các bạn trẻ đó có điểm tựa về tinh thần, có sự hỗ trợ quốc tế một cách cụ thể.
Đó là mục tiêu chính của phong trào Giới trẻ vì nhân quyền của chúng tôi thưa anh.
Kính Hòa : Cuộc sống ở hải ngoại và Việt Nam khác nhau nhiều lắm, vậy khi một người trẻ ở hải ngoại quan tâm đến chuyện bên trong Việt Nam thì họ có khó khăn gì không ?
Trần Kiều Ngọc : Cảm nhận của tôi là làm sao dấy lên được cái tinh thần, cái mối quan tâm về Việt Nam, về cội nguồn của các bạn, nhưng mà khi các bạn có sự quan tâm đến tình hình đất nước mà các bạn muốn dấn thân thì cái tôi cảm nhận là các cô chú bác cộng đồng chúng ta đã nổ lực rất nhiều nhưng tôi thấy vẫn chưa đủ tạo một môi trường cho các bạn trẻ có cơ hội tham gia, dấn thân, để mà hoạt động một cách tích cực và dễ dàng hơn.
Bởi vì theo tôi thấy thì khi chúng tôi dấn thân vào sinh hoạt cộng đồng thì thấy những sinh hoạt đó rất là tốt, chúng ta luôn duy trì nét văn hóa truyền thống của chúng ta, điều đó rất là tốt, nhưng mà cơ hội để cho các bạn dấn thân cho dân chủ nhân quyền ở quê hương Việt Nam vẫn chưa đủ để cho các bạn tham gia, để các bạn đóng góp hết khả năng của các bạn.
Ngoài ra còn có những khó khăn khác mà ai cũng thấy là đa số các bạn rất say mê đeo đuổi ước mơ sự nghiệp của mình, vì vậy mặc dù các bạn rất quan tâm, nhưng cuộc sống ở đây gây khó cho các bạn tìm thêm được thời gian để mà mình hoạt động. Vấn đề gia đình và sự nghiệp cũng là một trở ngại rất lớn cho các bạn trẻ cho công cuộc này.
Kính Hòa : Luật sư có nói đến việc mặc dù có sự hoạt động tốt của các thế hệ trước nhưng chưa tạo được sự tham gia củ các bạn trẻ, vậy có phải chăng là cách tiếp cận vấn đề Việt Nam của các thể hệ đi trước và các bạn trẻ như thế hệ của luật sư, có khác nhau không ?
Trần Kiều Ngọc : Theo tôi nghĩ thì chuyện đó là có nhưng nó cũng rất là hiển nhiên, bởi vì các cô chú bác sinh ra trong thời bình, trải qua chiến tranh, rồi biến cố năm 75, cả một quá trình tan thương bi đát của đất nước, rồi vượt biên với hai bàn tay trắng, làm lại từ đầu.
Kinh nghiệm từng trả cuộc sống như vậy rất khác so với thế hệ thứ hai thứ ba của chúng tôi đây, về cả ngôn ngữ sử dụng, vì vậy có thể gây ra những mâu thuẫn giữa hai thế hệ, khó mà hiểu nhau thấu đáo. Phải nói là số đông các bạn trẻ đã gặp phải. Khi mà các bạn trẻ khó hiểu được cha mẹ của mình, mà không đủ kiên nhẫn, hoặc là các bậc trưởng thượng không đủ kiên nhẫn thì đôi bên dễ gây ra những mâu thuẫn.
Tuy nhiên trong thời gian qua tôi cũng rất là vui mừng vì thế hệ thứ nhất, các cô chú bác đã rất là kiên nhẫn, sãn sàng dung hòa, biết lắng nghe cảm nghĩ của chúng tôi.
Luật sư Trần Kiều Ngọc, Chủ tịch Phong trào Giới trẻ vì nhân quyền.Trần Kiều Ngọc
Kính Hòa : Cái khó khăn nhất của tổ chức của luật sư hiện nay là gì ?
Trần Kiều Ngọc : Dạ thưa tôi nghĩ rằng là bất cứ tổ chức hội đoàn nào cũng có những khó khăn rất là giống nhau, tức là trong những hoạt động của mình mà mình không có tài chánh và không có nhân sự thì mình không làm được gì hết.
Điều khó khăn đối với tổ chức non trẻ của chúng tôi là chúng tôi không có tiền, rồi sau đó là chúng tôi bắt đầu từ con số không chỉ gồm bốn năm bạn trẻ, phải nói là đi thuyết phục hết nước miếng để các các bạn trẻ them gia, rồi tài chánh nhân sự, rồi thời gian nữa. Ba yếu tố khó khăn đó chiếm hết công sức thời gian.
Cái nữa là như tôi có trình bày với anh lúc nãy là cái khoảng cách thế hệ. Có thể cái cách làm việc của chúng tôi khác với các cô các chú các bác, mà các cô chú không hiểu và làm ngơ, thì cái đó làm chúng tôi rất dễ nản lòng.
Như việc tổ chức của chúng tôi ngay trong năm đầu tiên đã tổ chức Đại hội giới trẻ thế giới tên là Việt Nam con đường nhân bản, chúng tôi nghĩ là chúng tôi tổ chức thành công, gây được tiếng vang. Nhưng sau đó thì chúng tôi tuy nhận được rất nhiều lời khen nhưng cũng có búa rìu và những chống phá.
Tôi nghĩ đó là sự không hiểu nhau giữa các thế hệ thôi, không thể ngồi xuống với nhau được. Điều đó là một khó khăn và chúng tôi rất buồn.
Nhưng mới đây chúng tôi tổ chức được hai cuộc biểu tình ở Geneva, chúng tôi đã tha thiết kêu gọi các tổ chức hội đoàn thuộc về thế hệ thứ nhất, và chúng tôi nhận được rất là nhiều sự hỗ trợ, đó là một niềm khích lệ rất lớn lao đối với chúng tôi.
Có thể nói là sự an ủi, sự nâng đỡ của thế hệ đi trước đối với chúng tôi là niềm khích lệ, một động lực rất lớn. Tôi nghĩ là nếu các cô chú bác nhận ra được, chúng tôi nhận được sự hổ trợ đó thì chúng tôi sẽ phát triển rất là nhiều trong tương lai.
Kính Hòa : Luật sư nhận xét chung thế nào về cộng đồng Việt Nam hải ngoại ? Nhất là cộng đồng tại Úc, Châu Âu, Bắc Mỹ ?
Trần Kiều Ngọc : Tôi nghĩ là cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản của chúng ta trải qua ba giai đoạn. Thứ nhất là ra đi với hai bàn tay trắng, phải ổn định cuộc sống với đồng hương, phải hội nhập với cuộc sống mới.
Thứ hai khi đã hôi nhập vào quê hương thứ hai của đất nước tự do, thì cộng đồng của mình thấy cái nhu cầu bảo vệ văn hóa của mình tiếng nói của mình.
Bên cạnh đó cộng đồng của chúng ta rất khác với các cộng đồng các sắc tộc di dân khác, là chúng ra đi nhưng có một đất nước vẫn sống dưới chế độ độc tài của đảng cộng sản. Cho nên mình muốn làm chuyện lớn lao hơn nữa là tiếp tục con đường đấu tranh cho đất nước của chúng ta có dân chủ và nhân quyền đích thực.
Sự đóng góp của giới trẻ thế hệ thứ hai thứ ba vào cuộc đấu tranh rất là quan trọng. Cộng đồng người Việt hải ngoại khắp nơi nên tạo một môi trường cho giới trẻ dấn thân hơn cho đất nước của chúng ta. Nếu chúng ta liên kết tạo một mô hình cụ thể trên khắp thế giới thì tiếng nói của chúng ta, thông điệp của chúng ta sẽ đến với thế giới xa hơn và mạnh hơn.
Kính Hòa : Câu hỏi cuối cùng xin luật sư nói về mình một chút, nhất là khả năng tiếng Việt tuyệt vời của luật sư như thế này.
Trần Kiều Ngọc : Thưa anh đây là câu hỏi tôi rất thường nhận được khi đi nói chuyện khắp nơi, và cũng là câu hỏi mà tôi nhận được rất nhiều lời khen và cũng rất nhiều đánh phá tơi bời vì câu hỏi này nữa, vì nói về người khác thì dễ những nói về mình thì rất là khó.
Tôi rất yêu tiếng Việt, ngay từ bé tôi đã say mê đọc truyện tranh, truyện cổ tích trước khi đi học. Tôi sang Úc lúc 7 tuổi, sang rồi tôi nhớ tiếng Việt quá nên tôi hay tìm tòi đọc rất nhiều sách mặc dù đọc mạt chữ vậy thôi chứ không hiểu nội dung là gì. Ba mẹ tôi cũng rất khó, ở nhà tôi và các chị không được nói tiếng Anh. Cho nên tôi còn giữ được tiếng Việt cho đến giờ, dù không xuất sắc lắm (cười) nhưng cũng tại dùng được phải không anh ?
Kính Hòa : Cám ơn Luật sư Trần Kiều Ngọc cho chúng tôi cuộc trao đổi thú vị như thế này.
Kính Hòa thực hiện
Nguồn : RFA, 30/01/2019