Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Ngư dân Việt Nam tại ngư trường Hoàng Sa trước dân quân biển Trung Quốc

Huyền Trân, BBC, 22/01/2024

Chủ tịch Hội Nghề cá Việt Nam và tỉnh Đà Nẵng cho BBC News tiếng Việt biết các ngư dân đang phải tránh xa vùng ngư trường Hoàng Sa vài chục hải lý để đảm bảo an toàn trước những tàu dân quân biển và tàu chấp pháp của Trung Quốc.

hoangsa1

Một ngư dân tại đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi vào năm 2022

Ông Trần Văn Lĩnh, Chủ tịch Hội Nghề cá Đà Nẵng, cho biết trong khoảng hai đến ba năm trở lại đây, tần suất tấn công của ngư dân Trung Quốc với tàu bè ngư dân ở Đà Nẵng "có giảm mạnh về tần suất, số lần tấn công và quy mô".

Cụ thể, các tàu đánh bắt xa bờ của ngư dân Đà Nẵng là những tàu lớn trên 17 mét, hoạt động đánh bắt quanh năm, kéo dài 15-20 ngày hoặc cho đến vài tháng.

Đà Nẵng có chưa đến 100 tàu như vậy và mỗi tàu thường có năm đến bảy người, theo ông Lĩnh, người đã gắn bó với bà con ngư dân trong bốn thập kỷ qua.

"Mặc dù Việt Nam nói là chủ quyền của mình, nhưng khi tàu mình vô thì bị rượt đuổi như thường. Vì thế trong hai năm trở lại đây, tàu bị xua đuổi thì có, nhưng bị cướp cá, cướp lưới, hay sát thương ngư dân như trước đây thì không còn. Khu vực Trung Quốc xua đuổi cũng bị thu hẹp lại. Đây chỉ là tình hình đối với tàu Đà Nẵng thôi".

"Thỉnh thoảng xảy ra ngư dân bị tàu Trung Quốc rượt đuổi, trước đây có khi kéo dài cả chục tiếng đồng hồ, chủ yếu Trung Quốc muốn khiến ngư dân sợ và bỏ chạy thôi", ông Lĩnh cho biết.

Theo truyền thông nhà nước Việt Nam, gần đây vẫn còn trường hợp ngư dân Việt Nam bị tàu Trung Quốc tấn công, xịt vòi rồng khi đánh bắt ở ngư trường Hoàng Sa, cụ thể là tàu của ngư dân tỉnh Quảng Ngãi.

Ông Nguyễn Việt Thắng, Chủ tịch Hội nghề cá Việt Nam, cựu Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, đánh giá sự tấn công của Trung Quốc nhằm vào ngư dân Việt Nam "nhìn chung vẫn cao".

"Cả năm 2023, vẫn có tàu chấp pháp Trung Quốc ở Trường Sa, Hoàng Sa xua đuổi tàu ngư dân Việt Nam. Bà con bị cản phá, cản trở, rồi có trường hợp đâm va, lên tàu cướp tài sản…"

"Theo số lượng thống kê sơ lược [chưa đầy đủ] của hội thì mỗi tỉnh xảy ra vài chục vụ ngư dân Việt Nam bị tàu Trung Quốc cản phá trong năm 2023, nhìn chung vẫn cao", ông Thắng nói.

Tránh vùng ‘nhạy cảm’

hoangsa2

Tàu cảnh sát biển Trung Quốc phun vòi rồng vào tàu kiểm ngư của Việt Nam vào ngày 2/6/2014 sau khi giàn khoan HD 981 xuất hiện tại vùng biển Hoàng Sa

Về tình hình ngư dân Đà Nẵng ra khơi, ông Lĩnh cho biết hiện nay bà con được trang bị bản đồ, thiết bị vệ tinh, nhưng phải tránh những vùng bị xem là "nhạy cảm".

"Bà con căn cứ theo bản đồ ngư trường mà Cục Thủy sản Việt Nam công bố và cả kinh nghiệm để ra khơi. Bản đồ chính phủ thì vẫn ghi Hoàng Sa là của Việt Nam, nhưng ngư dân thì đâu dám tới".

"Các ngư dân Đà Nẵng cũng là người làm thuê thôi, ông chủ tàu thì không có đi, nên ngư dân cũng tránh những vùng bị cho là nhạy cảm".

"Ngư dân thường tránh ngư trường Hoàng Sa khoảng 15 hải lý. Khi vào từ 15 hải lý trở xuống thì họ sẽ bị tàu Trung Quốc xua đuổi hoặc phát cảnh báo, nên ngư dân không tha thiết gì vào, vì chưa chắc có cá, mà cũng nguy hiểm nữa", ông Lĩnh nói thêm.

Không những rủi ro bị tàu Trung Quốc tấn công hay xua đuổi, sinh kế của hàng ngàn ngư dân ở Việt Nam còn bị ảnh hưởng trước lệnh cấm đánh bắt cá thường niên của Trung Quốc tại vùng biển phía bắc vĩ tuyến 12 trở lên, từ ngày 1/5 đến 16/8 hàng năm.

Lệnh cấm này đã được Bắc Kinh đơn phương ban bố từ năm 1999 đến nay. Bất chấp sự phản đối thường xuyên từ Việt Nam và các nước, Bắc Kinh vẫn không cho thấy bất kỳ sự nhượng bộ nào.

Hội Nghề cá Việt Nam, hiện đã đổi tên thành Hội Thủy sản Việt Nam từ tháng 10/2023, đã nhiều lần đề nghị cơ quan chức năng phải có biện pháp quyết liệt để "bảo vệ an toàn cho ngư dân Việt Nam khi sản xuất trên vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia".

Ông Lĩnh nói tâm tư của bà con ngư dân Đà Nẵng hiện nay là "không vững tâm vì phải vừa đánh bắt, vừa ngó chừng coi có bị tàu Trung Quốc rượt đuổi hay không, rồi còn phải đi theo đàn cá nữa".

Ông cũng nhấn mạnh là chính quyền Việt Nam "luôn rất sẵn lòng hỗ trợ bà con về mặt kỹ thuật, kinh tế". Còn về mặt an ninh, ông cho biết hội có ký hợp đồng với cảnh sát biển, hải quân để khi có nguy cấp thì có thể bảo vệ hoặc ngư dân thấy gì lạ thì báo cho họ.

"Làm nghề biển vừa phải chịu thiên tai với tần suất ngày một nhiều hơn, thời gian để trở về bờ cũng ngày càng dài hơn. Còn thêm nhân tai nữa, đó là sự xua đuổi của Trung Quốc một cách không thể lường trước được. Có thể thấy hoàn cảnh ngư dân ngày càng trở nên khó khăn hơn".

"Cuộc sống mưu sinh buộc họ phải ra đi, không dám đi ra xa, ngư trường thu hẹp lại.

Ngư trường đến mùa khai thác thì Trung Quốc tràn xuống, dùng nhiều tàu, móc lưới nhỏ, đèn cực sáng, làm cho tài nguyên cạn kiệt".

"Ngư dân không yên tâm vì không biết yên lành được bao nhiêu ngày, bao nhiêu năm.

Cảnh sát biển thì khi ngư dân báo thì chuyện cũng đã xảy ra rồi, lực lượng kiểm ngư thì làm sao lúc nào cũng có mặt cạnh ngư dân được", ông Lĩnh nói thêm.

Về vấn đề này, ông Thắng cho biết Hội nghề cá Việt Nam "đã động viên bà con phải theo tổ đội, có tổ chức, thường xuyên giữ liên lạc với cơ quan chức năng như đồn biên phòng…"

"Ngư dân đánh cá thì hiện nay đều theo tổ đội, nghiệp đoàn đánh cá địa phương, trong hội có chủ tàu này kia. Bà con đều đa số không hoạt động đơn lẻ".

"Khi có tổ chức tổ đội thì phải có ý thức bảo vệ nhau, để đảm bảo an toàn trên biển. Dù đi đánh cá theo tổ đội, nhưng cách nhau hàng chục hải lý nên khi chuyện xảy ra cũng đã xảy ra rồi", ông Thắng chia sẻ.

Nhận diện dân quân biển Trung Quốc

Chủ tịch Hội Nghề cá Đà Nẵng cũng đề cập đến lực lượng dân quân biển rất đông đảo của Trung Quốc qua các câu chuyện được bà con ngư dân về kể lại.

"Lực lượng này đi có chiến dịch. Hết mùa cấm biển thì lao xuống vùng biển Việt Nam rất đông. Bà con ngư dân mình thấy mà sợ luôn, vì họ đi rất là đông, cả trăm, ngàn tàu và càn quét ngư trường của mình rất dữ dội".

"Việt Nam không có tổ chức đánh cá như Trung Quốc, chẳng hạn có dân quân biển, cảnh sát biển đi kèm. Ngư dân phải tự lo, thường đi đánh bắt thành các tổ đội, cùng ngành nghề, đi gần nhau, có gì báo cho biên phòng, cảnh sát biển để tiếp ứng. Phần lớn bà con đi đông thì an tâm hơn".

"Đây là điều mà ngư dân rất quan tâm vì Trung Quốc đánh bắt kiểu tận diệt vậy thì còn cá gì cho mình nữa. Tôi không kết luận được ý này có đúng hay không, nhưng theo tôi âm mưu của Trung Quốc còn là triệt tiêu luôn động lực đánh cá, ý chí của ngư dân mình", ông Lĩnh nhận định.

Ông Lĩnh nói thêm là ông chỉ biết Việt Nam hiện chỉ có lực lượng tự vệ biển.

"Lực lượng này không có trang bị vũ khí gì, theo tôi biết. Do đó, ngư dân khi bị rượt đuổi thì phải thả bớt cá để nhẹ tàu hơn. Còn về dân quân biển Trung Quốc, tôi nghe bà con kể lại là có súng ống đầy đủ trên đó. Bà con cũng không có ảnh gì chụp về dân quân biển Trung Quốc".

Ông Nguyễn Việt Thắng, Chủ tịch Hội Nghề cá Việt Nam, nói với BBC thêm về lực lượng này nhưng cho biết đây chỉ là câu chuyện từ ngư dân. Từ vai trò hội của ông thì không nhận được thông tin chính thức nào về lực lượng này.

"Bà con cũng phản ánh chuyện đội tàu dân quân trên biển của Trung Quốc. Theo một số thông tin thì ở Trung Quốc từ Quảng Đông, Quảng Tây trở xuống có 10 cảng, có các đội tàu này, lên đến hàng trăm chiếc, có mã lực lớn, chạy tốc độ cao, 16, 18, 20 hải lý/giờ".

"Đội tàu này gọi là đội tàu xanh, được sơn xanh, chủ yếu dùng để cản trở ngư dân Việt Nam bắt cá tại các đảo bị Trung Quốc chiếm đóng, tôn tạo. Cho đến nay, chúng tôi chưa có thông tin chính thống về đội tàu này, chỉ bà con ngư dân chứng kiến trên biển và kể lại cho các hội thủy sản địa phương".

"Nhiều trường hợp bà con phải tránh, hiện chưa có khuyến cáo chính thức và bà con báo với nhau tránh mà thôi. Bà con ngư dân cũng kể lại có những tàu dùng ánh sáng rất lớn, không phải đánh bắt cá vì mục đích kinh tế. Họ án ngữ khu vực rộng lớn. Những con tàu này sau vài ngày hiện diện trên vùng biển đó thì khi bà con ngư dân mình đi đến thì không còn cá nữa", ông cho biết.

hoangsa3

Hình ảnh cho thấy tàu của Trung Quốc mà Philippines cho là "dân quân biển Trung Quốc" gần đảo Thị Tứ trên Biển Đông vào ngày 1/12/2023

Dân quân biển Trung Quốc (People's Armed Forces Maritime Militia - PAFMM) từ lâu là một lực lượng giúp Quân đội Nhân dân Trung Quốc thực thi những tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông. Thời điểm lực lượng này được biết đến rộng rãi là từ năm 1950, theo một nghiên cứu  năm 2020 từ Rand Corporation.

Trong Hải chiến Hoàng Sa 1974, dân quân biển cũng đóng vai trò quan trọng giúp Trung Quốc đánh bại Việt Nam Cộng Hòa để chiếm toàn bộ quần đảo này.

Một nghiên cứu  từ Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) của Hoa Kỳ năm 2021 chỉ rõ : "Nhờ khoảng cách thuận tiện của các tiền đồn Trung Quốc trên quần đảo Trường Sa, các tàu dân quân thường tham gia cùng lực lượng chấp pháp Trung Quốc để chống lại hoạt động đánh bắt và khai thác hydrocacbon (dầu khí) của các quốc gia Đông Nam Á có tranh chấp chủ quyền tại khu vực nằm trong yêu sách đường chín đoạn mơ hồ của Trung Quốc. Với lực lượng dân quân đóng vai bề ngoài là tàu đánh bắt thương mại, Bắc Kinh có quyền phủ nhận trách nhiệm trong khi sử dụng lực lượng này để gây áp lực lên các quốc gia tranh chấp khác với chi phí thấp".

Giáo sư Alexander L Vuving từ Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á - Thái Bình Dương (Daniel K. Inouye Asia-Pacific Center for Security Studies) thuộc Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ cho biết lực lượng này nằm trong chính sách ‘tằm ăn dâu’ (‘cắt lát salami’) của Trung Quốc.

Giáo Vuving cho rằng lực lượng này phục vụ cho mục đích của Trung Quốc là không có chiến tranh trên Biển Đông mà thay vào đó dần dần thiết lập những thực tế mới.

"Theo tôi nhận định thì cho đến nay, lợi ích của Trung Quốc là không có chiến tranh ở Biển Đông. Vì 40% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu Trung Quốc đi qua con đường hàng hải trên Biển Đông. Hậu quả cuộc chiến tranh trên Biển Đông là khôn lường, không đơn thuần là xung đột Việt Nam và Trung Quốc hay Philippines và Trung Quốc. Đám lửa có thể bùng lên tới mức không ai kiểm soát được".

"Do đó, chiến lược tốt nhất của Trung Quốc là ‘tằm ăn dâu’, tức là dần dần đẩy đuổi Việt Nam, Philippines… rồi biến thành điều gọi là ‘bình thường mới’, và dần dần ép các nước chấp nhận thực tế mới của Trung Quốc. Đây là chiến lược tương đối hữu hiệu của Trung Quốc".

"Và trong chiến lược này, Trung Quốc đã sử dụng mọi lực lượng. Đi trên tuyến đầu là hải cảnh (cảnh sát biển), rồi dân quân biển, các loại tàu chấp pháp khác. Hải quân thì ở xa hơn, nằm ở các căn cứ".

Việt Nam cũng có lực lượng dân quân tự vệ biển, thuộc lực lượng dân quân tự vệ Việt Nam. Lực lượng này được chia thành đại đội, hải đội, tiểu đoàn, hải đoàn.

Theo luật pháp Việt Nam thì dân quân tự vệ biển "là lực lượng thuộc dân quân tự vệ nòng cốt được tổ chức ở cấp xã ven biển, xã đảo và cơ quan, tổ chức có phương tiện hoạt động trên biển để làm nhiệm vụ trên các vùng biển Việt Nam".

Đánh giá về lực lượng dân quân biển Việt Nam, giáo sư Vuving nói :

"Việt Nam cũng nhìn rõ chiến lược đó của Trung Quốc, cũng sử dụng ‘toàn dân đánh giặc’, ‘chiến tranh nhân dân trên biển’, hải quân không bao giờ đi ra tuyến đầu. Ngoài ra, cho ngư dân ra đánh bắt cá, vừa mưu sinh, vừa bảo vệ chủ quyền. Đây là phương thức của Việt Nam để tránh đụng độ, sử dụng lực lượng phi quân sự để thực thi chủ quyền. Tóm lại, hai lực lượng quan trọng của Việt Nam là kiểm ngư và ngư dân".

"Dân quân biển Việt Nam không thể nào so với dân quân biển Trung Quốc về sức mạnh được. Việt Nam đang bảo vệ luật pháp quốc tế và cũng để bảo vệ cho mình, do đó là dân quân biển thì không trang bị vũ khí được, chỉ có vũ khí tự vệ ở mức độ nhất định thôi. Thế nhưng, Trung Quốc thì dân quân biển chỉ là vỏ bọc và được trang bị đầy đủ vì Bắc Kinh đang muốn phá vỡ luật pháp quốc tế để áp đặt luật lệ và ý chí của Trung Quốc liên quan đến vấn đề Biển Đông. Đây là sự khác biệt lớn nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc", chuyên gia về an ninh quốc tế nói với BBC.

Huyền Trân

Nguồn : BBC, 22/01/2024

Published in Diễn đàn

Chính phủ Việt Nam cần chọn giải pháp nào cho vấn đề Hoàng Sa ngoài những tuyên bố ngoại giao ? Từ Hoa Kỳ, nhà khoa học không gian Thái Văn Cầu gửi cho BBC News tiếng Việt bài viết dưới đây.

haichien1

Tiến sĩ Trịnh Khắc Mạnh thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, một cơ quan thuộc chính phủ Việt Nam, giới thiệu bản đồ liên quan tới quần đảo Hoàng Sa trong một sự kiện vào tháng 6/2014

Người viết đã có nghiên cứu về hành xử chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa (chủ quyền) của Việt Nam qua các thời đại, từ vua chúa nhà Nguyễn đến khi đất nước thống nhất, và về tư cách quốc gia của Việt Nam trong thời gian chiến tranh. Nghiên cứu cho thấy học giả phương Tây có lập luận khác nhau về hai đề tài này.

Tiêu biểu cho nhóm có lập luận dựa trên chứng cứ lịch sử và luật pháp quốc tế, thuận lợi cho Việt Nam, là Monique Chemillier-Gendreau, Bill Hayton ; tiêu biểu cho nhóm có lập luận dựa trên thông tin không rõ ràng, đầy đủ, chính xác, thuận lợi cho Trung Quốc, bất lợi cho Việt Nam, là Marwyn Samuels, Greg Austin.

Theo Google Scholar, sách của Samuels và Austin được trích dẫn 491 lần ở phương Tây trong hàng chục năm qua nhưng không có phản biện nghiêm túc từ Việt Nam.

Để bù đắp cho khoảng trống này, bài viết này tập trung đánh giá về một số lập luận sai lầm của Austin, chủ yếu dựa vào Samuels. Bài cũng nhận định về giới hạn của phản đối ngoại giao, biện pháp thường được sử dụng trong tranh chấp chủ quyền.

Biển Đông yên tĩnh từ ngàn xưa cho đến thế kỷ 20. Trong nửa đầu thế kỷ 20, đã có những trao đổi ngoại giao về chủ quyền, phần lớn giữa chính quyền Pháp và Trung Hoa.

Tình hình thay đổi khi Trung Hoa trở thành nước cộng sản năm 1949.

Tại Hội nghị San Francisco năm 1951, đề nghị của Liên Xô để Nhật Bản trao chủ quyền cho Trung Quốc bị 48 nước trong 51 nước tham dự hội nghị bác bỏ. Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu tuyên bố chủ quyền trước toàn thể hội nghị, với sự hiện diện của các nước lớn Anh, Pháp, Mỹ, và Liên Xô ; không nước nào phản đối.

Theo hiệp ước ký ở hội nghị, Nhật Bản từ bỏ mọi yêu sách chủ quyền.

Khi Pháp rời Việt Nam sau Hiệp định Genève 1954, lợi dụng khoảng trống quyền lực, Trung Quốc đưa quân chiếm giữ những đảo phía đông Hoàng Sa năm 1956 ; Đài Loan đưa quân chiếm giữ đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa.

Đầu tháng 6 năm 1956, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng Hòa Vũ Văn Mẫu lên tiếng khẳng định chủ quyền.

haichien2

Cụm Lưỡi Liềm thuộc quần đảo Hoàng Sa, nơi xảy ra trận hải chiến vào năm 1974

Sau khi Mỹ rời Việt Nam sau Hiệp định Paris 1973, một lần nữa lợi dụng khoảng trống quyền lực, Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa ngày 19/1/1974, khiến 75 chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa hy sinh.

Cuối thập niên 1980, khi Liên Xô, đồng minh then chốt của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong hai cuộc chiến tranh nhiều năm trước đấy, thay đổi chính sách đối ngoại, chủ trương không can thiệp, Trung Quốc đi bước kế tiếp trong chiến lược Biển Đông : đánh chiếm một số đảo đá ở Trường Sa ngày 14/3/1988, khiến 64 chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam hy sinh.

1. Lập luận sai lầm của Austin

Austin đưa ra các lập luận chính sau :

Vì Công hàm 1958 của Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng công nhận chủ quyền của Trung Quốc, và vì Việt Nam là kế thừa của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Việt Nam bị estoppel về chủ quyền.

Vì sự thụ động của phong kiến Trung Hoa về hành xử chủ quyền từ thế kỷ 13 cho đến thế kỷ 19, Trung Hoa đánh mất chủ quyền Hoàng Sa có từ trước. Vì sự thụ động của Pháp và Việt Nam trong 30 năm đầu thế kỷ 20, Việt Nam đánh mất chủ quyền Hoàng Sa có từ năm 1816.

Trong nghiên cứu của người viết, các chứng cứ sau được nêu lên :

Theo Hiệp định Genève năm 1954, hành xử chủ quyền thuộc Việt Nam Cộng Hòa, chính quyền phía nam vĩ tuyến 17.

Đầu năm 1957, Liên Xô đề nghị Liên Hiệp Quốc thu nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Nam Cộng Hòa làm thành viên. Đề nghị không thành nhưng trong gần 20 năm kế tiếp, lần lượt hơn 120 nước thành viên Liên Hiệp Quốc, bao gồm Liên Xô, Trung Quốc và Mỹ, công nhận có hai Việt Nam, hội đủ những quy định về tư cách quốc gia trong Công ước Montevideo năm 1933 : Việt Nam Cộng Hòa và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ở phía nam, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở phía bắc vĩ tuyến 17.

Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sáp nhập thành một Việt Nam thống nhất năm 1976. Theo luật pháp quốc tế, vì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không phải là quốc gia có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc trong giai đoạn 1954-1976, không hành động nào của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có thể ảnh hưởng đến chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.

Sau khi sáp nhập, Việt Nam chọn hành xử chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, thể hiện trong công hàm Đại sứ Hà Văn Lâu gửi Liên Hiệp Quốc năm 1979.

Các chứng cứ trên bác bỏ lập luận của Austin về Công hàm 1958 và estoppel (không được nói ngược).

haichien3

Công hàm Phạm Văn Đồng đã để lại nhiều hệ lụy trong lập luận về chủ quyền đối với Việt Nam

Cũng trong nghiên cứu của người viết, các chứng cứ sau được nêu lên :

Theo nguồn tài liệu cổ của Việt Nam và của phương Tây, Việt Nam hành xử chủ quyền ở Hoàng Sa muộn nhất là từ thời chúa Nguyễn đầu thế kỷ 17. Năm 1816, vua Gia Long tuyên bố chủ quyền Hoàng Sa.

Theo Trung Quốc, năm 1883, nhà Thanh "phản đối" nhóm khảo sát Hoàng Sa-Trường Sa của Đức khiến họ phải ngưng. Thực tế là nhóm này khảo sát Hoàng Sa, không phải Trường Sa, và họ đã công bố kết quả cuộc khảo sát.

Năm 1898, chính quyền Quảng Châu lại nói do Hoàng Sa là "đất không chủ", họ không có trách nhiệm về vụ cướp phá hai tàu ngoại quốc bị đắm ở Hoàng Sa của ngư dân Trung Quốc.

Theo Trung Quốc, năm 1909, quan chức hải quân nhà Thanh đến thăm Hoàng Sa trong một ngày để "xác nhận" chủ quyền. Thực tế là triều đình nhà Nguyễn hành xử chủ quyền Hoàng Sa cho đến giữa thế kỷ 19 thì đất nước đối diện với chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp. Hoàng Sa hầu như bị quên lãng cho đến thập niên 1920.

Theo Trung Quốc, năm 1921, chính quyền Quảng Đông tuyên bố sáp nhập Hoàng Sa vào đảo Hải Nam. Thực tế là chính quyền Quảng Đông không được chính quyền trung ương của Trung Hoa hay các nước lớn công nhận.

Năm 1925, sau khi Thượng thư Bộ Binh (tương đương với bộ trưởng Bộ Quốc phòng ngày nay) Thân Trọng Huề của nhà Nguyễn xác nhận chủ quyền Hoàng Sa, Toàn quyền Đông Dương tuyên bố chủ quyền.

Theo luật pháp quốc tế, sự kiện triều đình nhà Nguyễn dưới sự đô hộ của thực dân Pháp không tích cực hành xử chủ quyền Hoàng Sa trong một thời gian không cấu thành yếu tố Hoàng Sa bị Việt Nam từ bỏ chủ quyền.

Các chứng cứ trên bác bỏ lập luận của Austin về Việt Nam mất chủ quyền vì sự thụ động của Pháp và Việt Nam trong 30 năm đầu thế kỷ 20.

2. Giới hạn của phản đối ngoại giao trong tranh chấp

Trong khoảng 10 năm nay, qua người phát ngôn chính phủ và qua công hàm gửi Liên Hiệp Quốc, Việt Nam và Trung Quốc đã có hàng chục lần lên tiếng phản đối các hoạt động của nhau trên Biển Đông. Do tầm quan trọng của nó, giới hạn của phản đối ngoại giao (phản đối) là điều rất cần được xem xét.

Trước thế kỷ 20, ngoài việc dùng vũ lực hay chiến tranh để cản trở chiếm giữ hay giành lại đất đai bị chiếm giữ bởi nước khác, phản đối là biện pháp cuối cùng để bảo vệ chủ quyền trong tranh chấp.

Sau khi Tòa án Thường trực Công lý Quốc tế được thành lập năm 1920, và nhất là sau khi tòa án này được thay thế bởi Tòa án Công lý Quốc tế, cơ quan tài phán thuộc Liên Hiệp Quốc năm 1945, điều này không còn đúng.

Trong hơn 50 năm qua, chuyên gia phương Tây (Levi Carneiro, D.H.N. Johnson, Yehuda Z. Blum, v.v.) đã nói về biện pháp kế tiếp sau phản đối : sử dụng hệ thống tòa án quốc tế để giải quyết tranh chấp. Nếu không, theo họ, với thời gian, phản đối sẽ trở thành "phản đối giấy", "phản đối hình thức", "vô dụng", v.v. Khi một nước chỉ dùng biện pháp phản đối trong tranh chấp, chủ quyền đất đai bị nước khác chiếm giữ có khả năng mất hẳn.

Tại hội thảo quốc tế ở Đà Nẵng vào tháng 6 năm 2014, đã có ít nhất hai tham luận đề nghị Việt Nam sử dụng hệ thống tòa án quốc tế. Dù Trung Quốc không đồng ý tham gia, đây là bước cần thiết trong giải quyết tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc.

Tham luận 1, của Jerome A. Cohen, giáo sư Khoa Luật Đại học New York, có đoạn :

"Bằng cách bác bỏ phán quyết khách quan của những định chế đối với tất cả các tranh chấp và nhấn mạnh vào đàm phán song phương như là phương tiện duy nhất để giải quyết những tranh chấp mà họ công nhận, Trung Quốc, quốc gia mạnh hơn nhiều so với bất cứ nước láng giềng Đông Nam Á nào, đang tìm cách tận dụng lợi thế có được trong quyền lực chính trị, kinh tế và quân sự của họ và giảm thiểu sự thích đáng của luật pháp quốc tế".

Tham luận 2, của người viết, có đoạn :

"Khi sử dụng luật pháp quốc tế để giải quyết tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc, Việt Nam không chỉ giải quyết vấn đề chủ quyền lãnh hải giữa riêng hai nước mà còn giúp mang lại an ninh và ổn định cho tất cả các nước phụ thuộc vào giao thông hàng hải ngang qua một khu vực quan trọng hàng đầu thế giới. Cách hành xử như trên chứng minh mạnh mẽ cho thế giới thấy rằng Việt Nam là một nước tôn trọng luật pháp và có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế".

Trong giai đoạn 1947-1923, đã có hơn 190 tranh chấp giữa các nước được đưa ra Tòa án Công lý Quốc tế. Hơn 10 năm trước, chính quyền Nhật Bản và Philippines đã công khai kêu gọi Trung Quốc để hệ thống tòa án quốc tế đưa phán quyết trong tranh chấp.

Tóm lại, do giới hạn của phản đối trong 100 năm qua, đặc biệt là sau khi Liên Hiệp Quốc thành lập cơ quan tài phán sau Thế chiến II, sử dụng hệ thống tòa án quốc tế là biện pháp hòa bình cuối cùng để Việt Nam thể hiện sự tin tưởng vào công lý, sự tin tưởng vào bản lãnh, quyết tâm của chính mình, và để Việt Nam thoát khỏi cái bẫy "thời gian" của Trung Quốc trong nỗ lực bảo vệ chủ quyền, bảo vệ quyền lợi đất nước.

Trong 2.000 năm qua, đất nước nhiều lần phải đối diện với tham vọng bành trướng và xâm lược của phong kiến Trung Hoa. Khó khăn, thử thách gấp nhiều lần hơn so với khó khăn, thử thách trong tranh chấp Biển Đông, nhưng tiền nhân đã vượt qua được. Vì thế, giải quyết tranh chấp qua hệ thống tòa án quốc tế là trách nhiệm của chính quyền hôm nay, 50 năm kể từ khi Trung Quốc chiếm giữ toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.

Nó không thể là trách nhiệm của thế hệ mai sau, như lập luận một số người đưa ra.

Thái Văn Cầu

Nguồn : BBC, 20/01/2024

Tác giả Thái Văn Cầu là nhà khoa học không gian từ Hoa Kỳ.

************************

Bc Vit Nam, Vit Cng t chi xác nhn ch quyn Hoàng Sa 50 năm trước

VOA, 21/01/2024

Năm mươi năm trước, Trung Quc chiếm quyn kim soát qun đo Hoàng Sa t tay Vit Nam Cng Hòa trong mt cuc chiến kéo dài ch vn vn hai ngày. Nó đánh du mt trong nhng cuc xung đt vũ trang đu tiên liên quan ti tranh chp ch quyn Bin Đông.

vietcong1

"Min bình lun" - các quan chc cng sn ca Vit Cng và Bc Vit Nam liên tc tr li trong mt cuc hp báo vào ngày 19/1/1974 khi được hi ai s hu qun đo Hoàng Sa.

Đến nay, Bc Kinh vn nm toàn quyn kim soát qun đo Hoàng Sa và thm chí còn m rng tuyên b ch quyn xung qun đo Trường Sa và xa hơn na v phía nam. Và h không ngn ngi đi đu vi các nước láng ging khác có tuyên b ch quyn chng chéo, trong đó có Vit Nam.

Vit Nam tuyên b ch quynkhông th tranh cãi đi vi hai qun đo này và rng đây là mtlp trường nht quán đã được duy trì t lâu. Nhưng 50 năm trước, Bc Vit Nam và các đng minh cng sn ca h min Nam Vit Nam t chi bình lun khi được hi v ch quyn ca Hoàng Sa vào lúc chiến s đang din ra.

Ngày 19/1/1974, ti mt cuchp báo vi các phóng viên quc tế Sài Gòn, các quan chc Vit Cng ln Bc Vit Nam đu hai ln tr li "Min bình lun" khi được hi ai s hu qun đo Hoàng Sa, gia lúc Trung Quc tn công các v trí mà các binh sĩ Vit Nam Cng Hòa nm gi trên các đo này.

Cui cùng, khi câu hi được lp li ln th ba, quan chc Vit Cng, Tướng Hoàng Anh Tun, tr li qua người thông dch : Tôi tin rng Min bình lun là đ ri", theo t Times.

Mtbn tin khác ca nht báo này vào ngày 25/1/1974 cho biết mt s quan chc M lưu ý rng Bc Vit Nam đã không nói gì v tranh chp gia Nam Vit Nam và Trung Quc. H cho rng s im lng đó "cho thy Bc Vit Nam lâm vào thế khó là không mun lên tiếng ng h vic Trung Quc chiếm đo mà lâu nay Vit Nam tuyên b ch quyn nhưng li không th ch trích Trung Quc".

V phn mình, Vit Nam Cng Hòa n lc kháng c cuc tn công ca Trung Quc trên bin và lên tiếng trước cng đng quc tế, nhưng cui cùng phi chp nhn tht bi. Bc Kinh đã tiến hành mt cuc "tn công tàn khc" khiến Sài Gòn b áp đo ngay t đu.

Nguồn : VOA, 21/1/2024

Published in Diễn đàn

50 năm Hải chiến Hoàng Sa : Câu chuyện ứng xử với 74 tử sĩ và các di sản Việt Nam Cộng Hòa

Bùi Thư, BBC, 17/01/2024

Một số nhà trí thức trong nước đề nghị nhà nước vinh danh 74 quân nhân Việt Nam Cộng Hòa tử trận trong Hải chiến Hoàng Sa 1974.

haichien2

Một người tham gia tưởng niệm tại Hà Nội vào năm 2014, trong dịp kỷ niệm 40 năm Hải chiến Hoàng Sa

Chúng tôi gặp tiến sĩ Nguyễn Nhã, năm nay đã 85 tuổi, tại nhà riêng của ông trong một con hẻm ở quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. Chỉ cần đóng lại cánh cổng chính, đặt chân vào khoảnh sân nhà ông là như được bước vào một không gian khác, tách biệt hoàn toàn với xe cộ ồn ào ngoài kia.

Gian bên phải ngôi nhà của vị tiến sĩ có một nơi trưng bày tư liệu, hình ảnh và mô hình về Hoàng Sa, Trường Sa.

Phòng khách nhà ông cũng có thêm góc Vọng gác Trường Sa cùng bức ảnh chụp cụm tượng đài Đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải ở huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.

Trong giai đoạn năm 1966 - 1975, Tiến sĩ Nguyễn Nhã là chủ nhiệm kiêm chủ bút Tập san Sử Địa của Đại học Sư phạm Sài Gòn. Vào năm 1975, tập san này đã xuất bản cuốn "Đặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa" dày 350 trang, phát hành 5.000 cuốn, giá 980 đồng, giá cao kỷ lục của tạp chí hồi đó.

haichien3

Tập san Sử địa về Hoàng Sa và Trường Sa số 29 dày 350 trang, phát hành 5.000 cuốn, giá 980 đồng

Sự chia rẽ ‘phe nọ, phe kia’

Lời đề tựa cuốn Tập san Sử địa số 29 về Hoàng Sa và Trường Sa có đoạn trích từ bài "Đúng ba trăm năm trước" của giáo sư Hoàng Xuân Hãn :

"Ngày nay, vụ quần đảo Hoàng-sa bị chiếm là triệu chứng cụ thể của những thiệt hại gây nên bởi sự bất hòa giữa dân ta. Hoàng-sa là đất Việt Nam, là đất của nước Việt Nam thống nhất. Khi nước Việt-Nam còn chia đôi thì khó lòng điều-đình đề Hoàng-sa trở lại đất ta, tuy rằng nhiều chứng xưa nay, trong ngoài bảo rằng đó là đất Việt".

Tiếp theo, tập san mở đầu bằng bài viết nhan đề : "Thử đặt vấn đề Hoàng Sa…", trong đó nêu rõ việc Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa "đã, đang gieo vào lòng người Việt Nam những khắc khoải, uất hận về thân phận nhược tiểu trong khi anh em trong nhà thiếu đoàn kết".

Chia sẻ với BBC News tiếng Việt, Tiến sĩ Nguyễn Nhã kể lại rằng thời điểm trận chiến xảy ra vào ngày 19/1/1974, lòng yêu nước trong ông cũng như những trí thức khác dâng trào nên ông quyết tâm phản đối những gì, những ai không tôn trọng sự thực lịch sử. Vì lẽ đó, ông quyết định sẽ ra số đặc khảo nghiên cứu về sự thật chủ quyền ở Hoàng Sa nhưng đã có nhiều người "can gián".

Do đó, ông đã đợi đến dịp kỷ niệm một năm hải chiến mới quyết định xuất bản cuốn đặc san này.

Trận hải chiến Hoàng Sa nổ vào ngày 19/1/1974 tuy ngắn ngủi nhưng để lại cho người dân Việt Nam nói chung một mất mát lớn : 74 quân nhân Việt Nam Cộng Hòa tử trận, Trung Quốc chiếm trọn Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng Hòa.

haichien4

Tiến sĩ Nguyễn Nhã bên bức hình chụp cụm tượng đài Hải đội Hoàng Sa ở đảo Lý Sơn

Một năm sau, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ. Dưới thể chế mới, sự kiện Hoàng Sa dần bị trôi vào quên lãng. Mãi tận gần 40 năm sau, thông tin về cuộc hải chiến mới bắt đầu rục rịch được công khai trên báo đài trong nước.

Vào thời điểm cuối năm 2013, người đứng đầu Chính phủ Việt Nam lúc bấy giờ là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có cuộc gặp với đại diện Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam. Trong buổi làm việc, thông tin cho biết ông Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định phải kỷ niệm các sự kiện Hoàng Sa năm 1974 và chiến tranh biên giới 1979, vốn bị cho là các chủ đề "tế nhị".

Theo phát biểu của ông Dũng được trích dẫn lại thì "Bộ Ngoại giao đang soạn thảo đề án kỷ niệm sự kiện biên giới phía Bắc và Hoàng Sa".

"Kỷ niệm thế nào cho vừa đạt yêu cầu đối nội, vừa đạt yêu cầu đối ngoại. Đó cũng là lợi ích của nhân dân. Bộ Chính trị rất quan tâm đến việc kỷ niệm này", ông nói.

Vào đầu năm 2014, Văn phòng Chính phủ đã ra Thông báo 24, trong đó nêu rõ : "Giao Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao, Ban Tuyên giáo Trung ương và các cơ quan liên quan nghiên cứu, đưa vấn đề Biển Đông và chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vào sách giáo khoa các cấp học với nội dung, mức độ, phạm vi và hình thức phù hợp khi triển khai xây dựng Đề án Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông".

Tuy nhiên, tới thời điểm hiện tại, trận hải chiến Hoàng Sa 1974 vẫn không xuất hiện trong sách giáo khoa lịch sử.

Tiến sĩ Nguyễn Nhã lý giải rằng câu chuyện chính trị đã làm cho sự công nhận về sự kiện Hoàng Sa bị ảnh hưởng. Thời gian đầu, vấn đề về Hoàng Sa khá thống nhất trong người dân lẫn chính quyền nhưng dần về sau lại "chia rẽ một cách kỳ cục".

Theo ông, nguyên nhân là bởi "về chính trị thì có sự phân chia người của phe nọ với phe kia và người ta không thống nhất với nữa".

Ông cho rằng sự thực là Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa, có thể là vì vậy nên có người trong chính quyền hiện nay không muốn nhắc tới.

haichien5

Người biểu tình chống Trung Quốc vào năm 2014 ở Hà Nội cầm biểu ngữ với chân dung hạm trưởng HQ-10 Ngụy Văn Thà, người nằm trong số 74 lính Việt Nam Cộng Hòa tử trận trong Hải chiến Hoàng Sa ngày 19/1/1974

Trong cuộc trò chuyện trước thềm kỷ niệm 50 năm cuộc hải chiến 1974, tiến sĩ Nguyễn Nhã luôn xúc động khi nhắc đến tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa.

"Theo tôi, người chết vì nước nếu được tôn trọng và nói lên cái sự thực đó thì giá trị rất lớn. Chính quyền hiện nay dù là có thân Trung Quốc hay không thân, nếu mà có lòng yêu nước thì phải tôn trọng sự thực".

"Thế còn thái độ của mình đối với đồng chí Trung Quốc đó thì mình vẫn hòa hoãn, đừng để ông ta tức giận. Đừng để tức giận thôi chứ làm sao vừa lòng được", ông nói.

Hồi năm 2012, tại Đại học Harvard, Mỹ, một buổi hội thảo về Biển Đông đã được các nghiên cứu sinh trẻ người Việt tổ chức. Phát biểu tại sự kiện đó, tiến sĩ Nguyễn đã khóc khi nhắc đến Hải chiến Hoàng Sa 1974.

Ông giải thích với BBC : "Tại sao cứ nhắc tới là tôi khóc ? Là bởi vì tôi là người yêu sự thực lịch sử và khi càng yêu mà cái sự thực lịch sử bị cản trở thì tôi không cầm lòng được".

"Điều tôi luôn quan tâm là làm sao để giới trẻ biết về Hải chiến Hoàng Sa, biết được sự thực lịch sử ấy".

‘Cần được vinh danh’

Năm 2014, báo chí Việt Nam bất ngờ công khai đề cập rầm rộ về Hải chiến Hoàng Sa 1974. Lúc bấy giờ, trung tướng Nguyễn Quốc Thước, nguyên Tư lệnh Quân khu 4, qua trích dẫn của báo chí trong nước, đã nói rằng cần tôn vinh tinh thần yêu nước của người lính Việt Nam Cộng Hòa chống ngoại xâm trong Hải chiến Hoàng Sa.

Phát biểu của ông Thước do báo Thanh Niên ghi lại sau đó đã bị gỡ khỏi website của tờ báo này và ông Thước cũng có lần lên tiếng phủ nhận mình từng phát biểu như vậy. Vào thời điểm đầu năm 2024, BBC đã kiểm tra trang Archive.org thì vẫn còn lưu trữ bài báo trên.

haichien6

Bài báo dẫn lời ông Nguyễn Quốc Thước, nguyên Tư lệnh Quân khu 4, khi ấy nói rằng cần tôn vinh tinh thần yêu nước của lính Việt Nam Cộng Hòa nhưng sau đó ông phủ nhận phát ngôn này

Khi được hỏi về cách mà Chính phủ Việt Nam ứng xử với các tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa, Tiến sĩ Nguyễn Nhã nói rằng chính quyền hiện nay mà yêu nước thì cần vinh danh các chiến sĩ chết vì Hoàng Sa, chết vì bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa, Trường Sa.

Ông đánh giá sự chậm trễ, cũng như thiếu sót thông tin về trận chiến, về những gì diễn ra vào ngày 19/1/1974 trên quần đảo Hoàng Sa, là một trong những nguyên nhân lớn gây ra sự thiếu hiểu biết và thờ ơ của giới trẻ về vấn đề chủ quyền biển đảo. Ở đây, vị tiến sĩ muốn nói đến sự thiếu vắng thông tin từ báo chí chính thống cũng như từ nguồn chính thức của chính phủ.

Cũng trước dịp kỷ niệm 50 cuộc hải chiến, Giáo sư Nguyễn Khắc Mai từ Hà Nội nói với BBC rằng 74 chiến sĩ Hải quân Việt Nam Cộng Hòa hy sinh trong một nỗ lực bất thành để bảo vệ Hoàng Sa trước quân xâm lược Trung Quốc năm 1974 là sự kiện "rất oai hùng".

"Đó không phải là chuyện riêng của miền Nam hay miền Bắc mà là của người Việt Nam nói chung", ông nói.

haichien7

Người biểu tình chống Trung Quốc tụ họp trước tượng vua Lý Công Uẩn ở trung tâm thành phố Hà Nội để kỷ niệm 40 năm ngày Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa

Từ năm 2014, Giáo sư Mai đã tổ chức hội thảo công khai nói về vấn đề Hoàng Sa ở Hà Nội và mời bà Huỳnh Thị Sinh, vợ của cố Hạm trưởng HQ-10 Ngụy Văn Thà, ra Hà Nội để dự buổi tưởng niệm.

"Chúng tôi đã tôn vinh trận hải chiến cũng như những chiến sĩ đã hy sinh để bảo vệ đất nước, bảo vệ chủ quyền biển đảo của ta. Điều này rất được dư luận trong và ngoài nước hoan nghênh",Giáo sư Nguyễn Khắc Mai nói.

Còn nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc từ Sài Gòn nói với BBC rằng chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã chấm dứt vào lúc 11g30 giờ ngày 30/04/1975, nhưng di sản của Việt Nam Cộng Hòa để lại, nhất là trong vấn đề bảo vệ chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên Biển Đông là quan trọng.

"Nó thuộc về công pháp quốc tế, chứ không chỉ là quan điểm về chính trị hay là ý thức hệ. Những việc làm của Việt Nam Cộng Hòa trong việc bảo vệ chủ quyền của mình là nằm trong tiến trình đấu tranh về mặt công pháp quốc tế. Chúng ta nên đặt vấn đề sự thực thi liên tục chủ quyền quốc gia chứ không nên cắt khúc giữa Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Việt Nam Cộng Hòa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay.

"Chính vì vậy, bất cứ một công dân Việt Nam nào, bất cứ một người con của Việt Nam nào ngã xuống cho sự độc lập, thống nhất đất nước và toàn vẹn lãnh thổ đều phải được trân trọng như nhau", ông Đinh Kim Phúc nói.

Bùi Thư

Nguồn : BBC, 17/01/2024

***************************

50 năm Trung Quc chiếm Hoàng Sa, Hà Ni nay bt li nếu kin Bc Kinh

Trương Nhân Tuấn, VOA, 17/01/2024

Nhiu người Vit dùng mng xã hi trong nhng ngày gia tháng 1/2024 làm nơi đ tưởng nim s kin Hoàng Sa b Trung Quc chiếm cách đây gn tròn 50 năm. Trong s h, có nhng người đ ngh Hà Ni kin Bc Kinh. Mt nhà nghiên cu cho rng Vit Nam thế rt bt li, nhưng có th s dng mt cách vn đng pháp lý đem li kết qu "t thng đến hòa".

haichien8

Theo quan sát ca VOA, nhng người được theo dõi rng rãi trên mng như tiến sĩ Nguyn Xuân Din, các nhà hot đng Nguyn Văn Đài, Lê Anh Hùng, cu nhà báo Chu Vĩnh Hi, cùng mt s đáng k các Facebooker khác, bên cnh đó là các din đàn Chân Tri Mi Media, Nhóm Chúng Tôi Ghét La Di đăng nhiu ý kiến, hình nh trong my ngày nay v s kin Hoàng Sa.

Đim chung ca các bài đăng là nhc nh rng sp tròn na thế k k t ngày xy ra ni đau không th nào quên là qun đo Hoàng Sa - lãnh th, lãnh hi thiêng liêng ca Vit Nam - b rơi vào tay Trung Quc, cũng như kêu gi người dân và chính quyn Vit Nam không bao gi được quên đi trách nhim phi đòi li qun đo.

Vào ngày 19/1/1974, Trung Quc điu nhiu tàu tiến hành cưỡng chiếm nhng đo thuc quyn kim soát ca Vit Nam Cng Hòa (Việt Nam Cộng Hòa) qun đo Hoàng Sa. Hi quân Việt Nam Cộng Hòa đã chng tr nhưng không gi được. Trong trn hi chiến này, 74 quân nhân Việt Nam Cộng Hòa t trn. Trung Quc kim soát Hoàng Sa t đó đến nay.

Việt Nam Cộng Hòa nin nam Vit Nam chm dt tn ti t ngày 30/4/1975 sau khi quân đi ca Vit Nam cng sn chiếm Sài Gòn, giành thng li chung cuc trong Chiến tranh Vit Nam. T năm 1976, nước Vit Nam thng nht có tên chính thc mi là Cng hòa Xã hi Ch nghĩa Vit Nam.

Chính quyn Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Vit Nam k t đó nhiu ln lên tiếng khng đnh ch quyn đi vi hai qun đo Hoàng Sa và Trường Sa Bin Đông, bao gm c vic lp các đơn v hành chính hay đt tên đường ph Hà Ni, thành ph H Chí Minh, Đà Nng, nhưng chưa có hành đng pháp lý c th nào đ đòi li Hoàng Sa.

Mt s trong nhng người hin đang tưởng nim 50 năm s kin Hoàng Sa t ý thúc gic chính quyn khi kin Trung Quc ra tòa án quc tế.

Bt li nếu kin v hi phn

Tuy nhiên, nhà nghiên cu k cu Trương Nhân Tun Pháp bình lun vi VOA rng Vit Nam khó có th kin Trung Quc v bt c điu gì liên quan đến Hoàng Sa và Trường Sa.

Trước hết, nhà nghiên cu này lưu ý rng iu kin tiên quyết" trong th tc kin tng các tòa án quc tế v ch quyn mt vùng lãnh th có tranh chp là "phi có s đng thun gia hai bên tranh chp".

"Tc là nếu Trung Quc không đng thun thì s không có v kin. Ngoài ra, Trung Quc còn có nhng bo lưu pháp lý, theo đó, h loi tr các phương cách gii quyết tranh chp ch quyn lãnh th và phân đnh bin bng trng tài hay bng mt tòa án quc tế", ông Tun cho hay.

"V tranh chp hi phn, Vit Nam không th đ đơn nh mt tòa quc tế nào đó, như Tòa án Quc tế v Lut Bin (ITLOS) hay Tòa Công lý quc tế (ICJ) đ phân x, vì Trung Quốc đã bo lưu, không chp nhn phương cách gii quyết tranh chp bng trng tài", nhà nghiên cu này nói thêm.

Ngoài ra, ông Tun ch ra rng hai nước đã ký kết "Tha thun v nhng nguyên tc cơ bn ch đo gii quyết vn đ trên bin Vit Nam-Trung Quc", theo đó, các tranh chp gia hai bên trên Bin Đông s được hai bên gii quyết "thông qua hip thương hu ngh". Như vy, Trung Quc có th vin vào điu ước này đ ngăn cn Hà Ni kin Bc Kinh trước mt tòa quc tế, v bt c ni dung nào, ông Tun nhn đnh.

Mt vn đ na, theo ông Tun, là Vit Nam có th vướng "estoppel", tc nguyên tc "không được nói ngược", do hu qu t công hàm ngày 14/9/1958 do c Th tướng Phm Văn Đng ký. Phía Trung Quc tng nhiu ln dn ra công hàm như là bng chng cho thy Vit Nam đã công nhn ch quyn ca Trung Quc ti Hoàng Sa và Trường Sa.

Nhà nghiên cu Pháp nhn mnh rng Vit Nam gp bt li và có th thy rng vì điu đó mà h đã "im lng" trước công hàm ca Trung Quc đ ngày 17/4/2020 gi y ban ranh gii thm lc đa thuc Liên Hiệp Quốc.

Công hàm này có đon nói rng ch quyn ca Trung Quc đi vi Hoàng Sa và Trường Sa - mà Bc Kinh đt tên là Tây Sa và Nam Sa - ược cng đng quc tế công nhn rng rãi" và "chính ph Vit Nam cũng đã công nhn nó mt cách rõ rt". Công hàm ca Trung Quc cũng mt ln na vin dn công hàm do Th tướng Vit Nam Phm Văn Đng ký năm 1958.

Tp quán quc tế nhìn nhn s im lng ca mt quc gia trước mt vn đ buc quc gia đó phi lên tiếng như là s ng thun mc nhiên", nhà nghiên cu Trương Nhân Tun lưu ý.

Liên h đến vic Vit Nam đã im lng t 4 năm nay trước mt vn đ thuc ch quyn lãnh th bt buc quc gia phi lên tiếng, ông Tun cho rng "Vit Nam đã mc nhiên nhìn nhn nhng cáo buc ca Trung Quc theo ni dung công hàm 17/4/2020 là đúng, không có điu gì phi bàn cãi".

Con đường khác : vn đng pháp lý

Theo ông Tun, do nhng điu nêu trên, Vit Nam ch có th đơn phương kin Trung Quc v mt s vn đ liên quan đến vic gii thích và cách áp dng Lut Bin mà thôi, nhưng vi điu kin không b vướng "estoppel".

C th v Hoàng Sa, Vit Nam có th kin Trung Quc theo phương pháp mà Philippines đã kin và nhn được phán quyết ca Tòa Trng tài Thường trc (PCA) hi năm 2016, ông Tun ch ra.

Đi vào chi tiết, ông nói rng da trên Ph lc VII ca UNCLOS (Công ước Liên Hip Quc v Lut Bin), Vit Nam có th đơn phương kin, không nhm mc đích thng thua, mà ch yêu cu tòa phán quyết liu cách áp dng Lut Bin ca Trung Quc khu vc Hoàng Sa có phù hp vi Lut Bin hay không.

"Vit Nam có th vn dng mt dng c pháp lý, kiu không kin mà thng kin, đ gim thiu nhng tai hi t công hàm 1958, hay t nhng yêu sách phi lý v ranh gii, hi phn, v quyn lch s ca Trung Quc ti Bin Đông. Đó là phương cách vn đng th thut actio popularis đ có mt phán quyết có hiu lc bt buc cho tt c các bên erga omnes’", ông Tun gi ý.

"Actio popularis" là mt thut ng Latin chuyên ngành lut nói v s tham gia t tng ca mt bên th ba trong tranh chp gia hai bên. "Erga omnes" có th hiu là mt phán quyết có giá tr ph quát toàn cu.

Theo nhà nghiên cu Pháp, cách vn đng này "không có thua mà ch có t thng cho đến hòa" song vn đ đt ra là "Vit Nam có đ uy tín ngoi giao đ làm được vic này hay không ?".

Nhiu nước chung li ích

Ông Tun phân tích rng "actio popularis" là mt "dng c" pháp lý, có th s dng đơn phương, tc mt quc gia, hay đa phương, nhiu quc gia, vi mc đích đưa mt vn đ trước mt trng tài quc tế nhm bo v "li ích" chung ca các quc gia này. H qu ca "actio popularis" có th là mt phán quyết có giá tr "erga omnes", tc là có hiu lc pháp lý bt buc chung cho các bên.

Mt lot quc gia gm M, Anh, Đc, Pháp, Nht, Úc và các nước thuc khi ASEAN có "li ích chung" Bin Đông, như "quyn t do hàng hi và không lưu" đó, ông Tun ch ra. Quyn này hin đang b Trung Quc đe da, qua vic xây dng và quân s hóa các đo Trường Sa, chưa k đến tham vng ca nước này mun lp Vùng nhn dng phòng không (ADIZ) Bin Đông.

Mt khác, các nước trong khu vc gm Vit Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia chu chung mi đe da ca Trung Quc vi các yêu sách phi lý v bin đo Bin Đông, vn theo quan sát ca nhà nghiên cu.

"Nếu ngoi giao ca Vit Nam có uy tín và bn lĩnh, Vit Nam có th vn đng các quc gia này hp nhau li, đng tên chung, cùng đ đơn lên Tòa Công lý quc tế, yêu cu Tòa ra phán quyết rng phán quyết ca Tòa Trng tài Thường trc (PCA) có giá tr pháp lý ràng buc erga omnes cho tt c các bên", ông Tun nhn đnh.

"Làm được điu này, Vit Nam không kin mà thng kin. Vit Nam vượt qua mi tr ngi đến t Công hàm 1958 hay vn đ estoppel. H qu phán quyết s gim đến mc ti đa các yêu sách ca Trung Quc ti Bin Đông", nhà nghiên cu nhn mnh.

VOA liên lc vi B Ngoi giao Vit Nam v vn đ này nhưng chưa nhn được hi đáp.

Nguồn : VOA, 17/01/2024

*****************************

Quần đảo Hoàng Sa tròn 50 năm bị Trung Quốc cưỡng chiếm và ý kiến chuyên gia

Diễm Thi, RFA, 16/01/2024

Ngày 19/1/1974, Hải quân Trung Quốc đã dùng vũ lực tấn công hoàn tất công cuộc chiếm hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa từ phía Việt Nam Cộng Hòa lúc bấy giờ.

haichien9

Hình ảnh nhìn từ trên không thành phố Tam Sa trên một hòn đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc cưỡng chiếm ngày 19/1/1974. Ảnh chụp ngày 27/7/2012. AFP

Một số nhà nghiên cứu cho rằng, tình hình an ninh Biển Đông chịu ảnh hưởng rất nhiều từ khi quần đảo Hoàng Sa thuộc quyền kiểm soát của Trung Quốc. Nhà nghiên cứu Thái Văn Cầu, hiện đang ở Hoa Kỳ nêu nhận định với RFA :

"Theo tôi, Biển Đông quan trọng cho thế giới và Việt Nam. Biển Đông là nơi có khoảng 5.000 tỷ USD hàng hóa của thế giới đi qua mỗi năm. Biển Đông cũng là nơi có nguồn tài nguyên dầu và khí đốt lớn lao. Riêng Việt Nam, với đường bờ biển dài hơn 3.200 km và với tiềm năng to lớn của nó, Biển Đông được xem như là cánh cửa đi vào tương lai của Việt Nam.

Trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974 và tham vọng thống trị Biển Đông của Trung Quốc trong hơn 20 năm qua đã thay đổi tất cả. Do vị thế chiến lược của nó, Trung Quốc đã biến Hoàng Sa thành một căn cứ quân sự hiện đại, trang bị với máy bay chiến đấu tàng hình, tên lửa siêu thanh, tàu sân bay… Lần đầu tiên trong lịch sử, từ Hoàng Sa, Trung Quốc có thể trực tiếp đe dọa an ninh quốc phòng của Việt Nam, từ Hà Giang cho đến Cà Mau. Trung Quốc cũng có thể kiểm soát mọi di chuyển hàng hải trên Biển Đông".

Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc nêu quan điểm của ông với RFA :

"Cuộc hải chiến Hoàng Sa cách đây 50 năm mở ra một thời kỳ tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Đó là Trung Quốc sẵn sàng dùng vũ lực để giải quyết tất cả vấn đề mà họ cho rằng thuộc chủ quyền của họ. Mới hôm 4/1/2024, ông Uông Văn Bân, phát ngôn nhân của Bộ ngoại giao Trung Quốc một lần nữa khẳng định, Trung Quốc kiên quyết bảo vệ chủ quyền và quyền lợi trên biển. Và một lúc nào đó, khi thời cơ thuận lợi, khi tình hình thế giới có lợi cho Trung Quốc thì Trung Quốc sẽ ra tay nuốt trọn Biển Đông. Trung Quốc cũng từng tuyên bố không sợ bất cứ thế lực nào trên Biển Đông vì họ là cường quốc số hai trên thế giới".

Cưỡng chiếm Hoàng Sa được coi là sự kiện khởi đầu để Trung Quốc bước vào giai đoạn dùng vũ lực để mở rộng lãnh thổ, lãnh hải. 14 năm sau khi mất Hoàng Sa, Việt Nam lại mất đảo Gạc Ma ở quần đảo Trường Sa vào tay Trung Quốc. Trong trận thảm sát vào ngày 14/3/1988, Trung Quốc dùng trọng pháo và súng phòng không tiêu diệt 64 chiến sĩ Công binh và Hải quân Việt Nam trên đảo.

Từ đó đến nay, Việt Nam chưa mất thêm phần biển đảo nào vào tay Trung Quốc. Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc lý giải :

"Năm 1988, khi Việt Nam đang mắc kẹt vấn đề Campuchia, Việt Nam đang bị thế giới bao vây, cấm vận ; đang phải giải quyết nhiều khó khăn về bài toán kinh tế ; khi Liên Xô có những dấu hiệu cho thấy họ sắp sụp đổ, tan rã thì Trung Quốc nhân cơ hội đó đánh chiếm một phần quần đảo Trường sa của Việt Nam với sự kiện Gạc Ma.

Khi mà mất một phần Trường Sa vào năm 1988, Nhà nước Việt Nam có thái độ rất kiên quyết trong vấn đề bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải của mình. Kể từ sau năm 1988, Việt Nam không mất thêm một thực thể nào trên Biển Đông. Và từ những thực thể chiếm đóng ban đầu sau 30/4/1975, ngày nay Việt Nam đã chiếm đóng trên 20 thực thể và có 33 điểm đóng quân trên Biển Đông. Trung Quốc có gây khó khăn, đôi lúc lên đỉnh điểm nhưng Trung Quốc không chiếm thêm quần thể nào. Tôi thấy đó là sự thành công của chính phủ Việt Nam trong thời gian vừa qua. Mà phải nói rằng việc đó là nhờ sự vận động của tất cả các nhà đấu tranh cho chủ quyền của Việt Nam trong cũng như ngoài nước đã đánh động dư luận quốc tế. Đã lên tiếng kêu gọi quốc tế phải có thái độ trước nhà cầm quyền Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông.

Và chính những điều kiện trong mối quan hệ quốc tế đó mà Trung Quốc chưa ra tay nuốt trọn Biển Đông như tham vọng của họ. Tôi thấy đây là một bài học cho Việt Nam trong tương lai, để làm sao giữ vững được những phần đất còn lại không bị Trung Quốc chiếm và không bị Trung Quốc ức hiếp. Việt Nam tránh những giải pháp làm lợi cho Trung Quốc trong mối quan hệ song phương cũng như đa phương".

haichien10

Phóng viên quay phim, chụp ảnh tài liệu Hán Nôm thế kỷ 17-18 về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa trên Biển Đông trong buổi họp báo do Viện Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức (VASS) ngày 3/6/2014 tại Hà Nội. AFP

Cuối năm 2022, Giám đốc Tổ chức Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á, ông Greg Poling xác nhận với RFA ban tiếng Anh rằng :"Trung Quốc đã không chiếm đóng một thực thể mới kể từ tháng 12 năm 1994 và không xây dựng bất cứ thứ gì mà họ chưa chiếm giữ".

Theo các tài liệu lịch sử, Đội Hoàng Sa - Lực lượng chuyên trách thực thi chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa được thành lập từ thế kỷ 17, thời Chúa Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687). Đội Hoàng Sa hoạt động từ những thập kỷ đầu thế kỷ 17 cho đến những thập kỷ đầu thế kỷ 19. Trong những năm đầu thế kỷ 20, quần đảo Hoàng Sa do người Pháp quản lý. Trong Đệ nhị thế chiến từ năm 1941 đến năm 1945, người Pháp phải rút quân khỏi Đông Dương, người Nhật quản lý quần đảo Hoàng Sa.

Tại Hiệp ước hòa bình San Francisco năm 1951, người Nhật tuyên bố từ bỏ chủ quyền với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tuyên bố quản lý toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Năm 1958, Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa tuyên bố quản lý toàn bộ quần đảo Hoàng Sa.

Tuy Việt Nam đã mất Hoàng Sa 50 năm, Chính phủ Việt Nam luôn khẳng định Việt Nam có đầy đủ chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp các quy định của luật pháp và thực tiễn quốc tế. Việt Nam cũng xây dựng một số nhà trưng bày để lưu giữ, triển lãm những tư liệu liên quan Hoàng Sa, Trường Sa. Một trong số đó là Nhà trưng bày Hoàng Sa được khánh thành vào ngày 28/3/2018. Nơi đây có khu trưng bày tư liệu, hình ảnh quần đảo Hoàng Sa trong thư tịch cổ của Việt Nam trước thời nhà Nguyễn ; bằng chứng chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa từ năm 1945 đến năm 1974 và bằng chứng chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa từ năm 1974 đến nay.

Tại cuộc đối thoại với các nhà khoa học Việt Nam vào sáng 17/5/2014, Phó thủ tướng Vũ Đức Đam khẳng định : "Hoàng Sa là của Việt Nam. Trung Quốc đã dùng vũ lực để chiếm Hoàng Sa và nhất định chúng ta phải đòi lại. Đời tôi, đời các bạn chưa đòi được thì con cháu chúng ta sẽ tiếp tục đòi lại".

Nhận định về việc chính phủ Việt Nam cần làm gì để thế hệ trẻ nung nấu ý chí đòi lại Hoàng Sa, Nhà nghiên cứu Thái Văn Cầu nói với RFA :

"Một mặt, xây dựng nhà trưng bày tư liệu chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa là việc làm đáng khích lệ. Mặt khác, khẳng định chủ quyền, phản đối ngoại giao là điều kiện "cần" nhưng không "đủ" để bảo vệ chủ quyền. Không ai phủ nhận sự khó khăn trong giải quyết tranh chấp Hoàng Sa với Trung Quốc. Trong lịch sử hàng ngàn năm, Việt Nam đã nhiều lần bị phong kiến Trung Quốc đe dọa hay xâm chiếm. Người dân và lãnh đạo đã phải đối diện với khó khăn gấp nhiều lần hơn so với vấn đề Hoàng Sa. Tuy nhiên, từ Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Lê Lợi, Quang Trung cho đến thế hệ gần đây, không có vị tiền nhân nào để nỗ lực bảo vệ chủ quyền, bảo vệ quyền lợi đất nước cho thế hệ tương lai giải quyết".

Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc thì cho rằng, xét trong thế và lực hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc thì Việt Nam không tài nào có thể lấy lại Hoàng Sa từ tay Trung Quốc. Ông nói tiếp :

"Thứ nhất, cuộc hải chiến Hoàng Sa cách đây 50 năm là cuộc chiến tranh chống xâm lược dù dưới bất cứ chính thể nào, dù là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa hay Việt Nam Cộng Hòa. Cuộc hải chiến này có 75 vị anh hùng đã vị quốc vong thân đáng phải được tôn thờ, đáng phải được nhắc nhở hàng ngày, đáng phải được đưa vô sách giáo khoa và phải có tượng đài tưởng niệm. Có như thế thì thế hệ trẻ mới nhìn thấy gương của tiền nhân mà sẵn sàng hy sinh xương máu của mình để bảo vệ đất mẹ Việt Nam.

Nếu chúng ta không làm được chuyện đó, chúng ta coi 75 vị anh hùng đó là ngụy quân ngụy quyền thì rõ ràng không thể nào giáo dục được thế hệ trẻ hiện nay, và họ sẽ làm ngơ khi cha ông họ đã làm ngơ một sự kiện, một biến cố cách đây 50 năm".

Từ nhiều năm qua, Trung Quốc nhiều lần gây hấn trong vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam, gây căng thẳng trên Biển Đông. Trung Quốc cũng bị cho là đã tiến hành hàng loạt hành động phi pháp với mục đích nuốt trọn Biển Đông kể từ khi cưỡng chiếm Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974. Một số nhà nghiên cứu và một số đại biểu Quốc hội từng đề nghị chính phủ Việt Nam cần vận dụng công cụ pháp lý để bảo vệ chủ quyền biển đảo, cụ thể là nộp đơn kiện Trung Quốc theo Phụ lục VII Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển.

Vậy, nếu Việt Nam kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế thì tài liệu về chủ quyền của Việt Nam có đứng vững về mặt công pháp quốc tế hay không ? Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc nhận định :

"Nói về mặt lịch sử, Việt Nam có đầy đủ các thư tịch, có đầy đủ các văn kiện của các nhà nước phong kiến trước đây, cũng như thời kỳ quản lý quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thời Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng khi ra tòa án công lý quốc tế, người ta sẽ xét trên những điều kiện thực tế. Về luật pháp người ta không xét đến quan điểm. Nếu như Việt Nam không có một bộ hồ sơ hoàn chỉnh về chủ quyền của mình dựa trên công pháp quốc tế thì tôi e rằng nếu Trung Quốc có đồng ý ra tòa thì chưa chắc Việt Nam sẽ thắng. Mà đã kiện về chủ quyền lãnh thổ, không thắng thì chỉ có thua, chỉ có mất trắng.

Nói gì thì nói, Công hàm Phạm Văn Đồng vẫn là một khúc xương khó gặm nhất trong bộ hồ sơ chủ quyền của Việt Nam. Trong vấn đề bảo vệ chủ quyền lãnh thổ lãnh hải như thế nào thời Việt Nam Cộng hòa cũng phải được chính thức thừa nhận thì như thế Việt Nam mới có khả năng thắng tại tòa án công lý quốc tế.

Phải hoàn chỉnh một bộ hồ sơ pháp lý. Và tôi nói thẳng, trình độ của các nhà lập pháp hiện nay, của các nhà luật học hiện nay không xây dựng nổi một bộ hồ sơ về chủ quyền đâu. Phải nhờ đến các luật sư nổi tiếng có kinh nghiệm trên thế giới cố vấn, như bộ hồ sơ Phillipines kiện Trung Quốc hồi năm 2013".

Nhà nghiên cứu Thái Văn Cầu nói với RFA :

"Tôi có nghiên cứu về hành xử chủ quyền của Việt Nam qua các thời đại từ xưa đến nay. Dựa trên nghiên cứu của các chuyên gia và nghiên cứu cá nhân, tôi đánh giá cơ sở pháp lý và chứng cứ chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam vững chắc hơn của Trung Quốc. Đấy là lý do Trung Quốc làm áp lực để Việt Nam không kiện Trung Quốc.

Theo án lệ tòa án và chuyên gia luật pháp quốc tế, chỉ khẳng định chủ quyền hay phản đối ngoại giao không bảo vệ được chủ quyền, không đòi lại được Hoàng Sa. Dù Trung Quốc không đồng ý, khi khởi kiện, Việt Nam chứng minh sự chân thành, nghiêm túc và thiện chí của mình trước hệ thống tòa án và trước dư luận quốc tế.

Hơn 10 năm trước, tôi có làm việc với một số quan chức nhà nước để giúp họ củng cố chứng cứ chủ quyền Hoàng Sa. Vào đầu năm 2016, họ ngưng nỗ lực này sau khi có sự thay đổi lãnh đạo.

Vào tháng 4/2016, tôi làm việc với trí thức trong nước cho một thư ngỏ có tên "Thư gởi lãnh đạo Việt Nam về Biển Đông". Thư này do 54 người ký, trong đó có Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh - nguyên Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc từ năm 1974 đến 1987, và nhiều nhân sĩ trí thức trong và ngoài nước khác".

"Thư gởi lãnh đạo Việt Nam về Biển Đông" có đoạn : "Chúng tôi, những người ký tên dưới đây, mạnh mẽ và nghiêm túc yêu cầu lãnh đạo Nhà nước Việt Nam công khai kêu gọi Trung Quốc tiến hành đàm phán hòa bình với các nước có tranh chấp trên Biển Đông, hay đồng ý cùng Việt Nam đưa tranh chấp ở Hoàng Sa - Trường Sa ra hệ thống tòa án quốc tế để giải quyết. Nếu kêu gọi này không được Trung Quốc đáp ứng, Việt Nam sẽ tích cực sử dụng các biện pháp hòa bình, theo luật pháp quốc tế, bao gồm cả chính thức khởi kiện Trung Quốc trong thời gian sớm nhất".

https://youtu.be/Y-RkC-8gBAI

Diễm Thi

Nguồn : RFA, 16/01/2024

*****************************

50 năm Hải chiến Hoàng Sa : Bài học lớn cho Việt Nam

Toshi Yoshihara, Mỹ Hằng, BBC, 16/01/2024

Có bốn bài học lớn mà giáo sư Toshi Yoshihara từ Đại học Georgetown, Mỹ, chỉ ra khi nhìn lại sự kiện Hải chiến Hoàng Sa 50 năm trước khiến 74 chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa tử trận và Hoàng Sa nằm dưới sự kiểm soát của Trung Quốc cho tới nay.

haichien11

Bốn tàu chiến Việt Nam Cộng Hòa tham gia Hải chiến Hoàng Sa năm 1974

BBC News tiếng Việt kết hợp thông tin từ cuộc phỏng vấn với giáo sư Toshi Yoshihara và nghiên cứu của ông mang tên ‘Hải chiến Hoàng Sa 1974 : Đánh giá về chiến dịch’ xuất bản năm 2016 để đưa ra cái nhìn chi tiết hơn về bốn bài học này.

Vai trò của bên thứ ba

Hiệp định Paris năm 1973 và cuộc rút quân của Mỹ khỏi miền Nam Việt Nam đã làm giảm sự tham gia của Mỹ vào số phận của Sài Gòn. Gánh nặng khi đó đổ lên vai Sài Gòn : tự lo liệu an ninh chủ quyền, giáo sư Toshi chỉ ra trong nghiên cứu năm 2016.

Dù vậy, Sài Gòn vẫn là đồng minh của Mỹ. Bất kỳ hỗ trợ ngoại giao hoặc quân sự nào của Mỹ cho Việt Nam Cộng Hòa gần như chắc chắn sẽ làm thay đổi cục diện chiến lược và cán cân quyền lực trong khu vực. Tầm quan trọng của việc giữ chân Mỹ ở ngoài, ngay cả khi sự tham gia của Mỹ được coi là khó xảy ra, có lẽ đã định hình việc Trung Quốc hành động như thế nào ở quần đảo Hoàng Sa.

Các tài liệu gần đây của Trung Quốc cho thấy những người ra quyết định ở Bắc Kinh đã cân nhắc cẩn thận nguy cơ Mỹ can thiệp ở quần đảo Hoàng Sa bởi họ đã nghiền ngẫm từng động thái, giáo sư Toshi viết trong nghiên cứu.

Theo Đô đốc Khổng Chiếu Niên, khi đó là Phó Tư lệnh Hải quân Trung Quốc, nguyên tắc không nổ súng trước phần nào phản ánh những lo ngại của nước này về sự can thiệp của bên thứ ba.

Bằng cách để Hải quân Việt Nam Cộng Hòa nổ súng trước, Trung Quốc có thể biến Việt Nam Cộng Hòa thành kẻ gây hấn, từ đó đẩy Mỹ vào thế khó về ngoại giao. Trung Quốc vì thế đã luôn tuyên truyền về cuộc hải chiến như một ‘cuộc tự vệ phản kích’. Ngược lại, nếu Trung Quốc nổ súng trước thì việc này có thể cho Mỹ một lý do rõ ràng hơn để ủng hộ Sài Gòn.

Sự thận trọng như vậy của Trung Quốc kéo dài đến sau cuộc hải chiến. Lúc bấy giờ, trên đà chiến thắng, Trương Nguyên Bồi, tư lệnh Hạm đội Nam Hải, đã ra lệnh cho tàu chiến đuổi theo và đánh chìm tàu Việt Nam Cộng Hòa đang bỏ chạy, nhưng Tư lệnh Quân khu Quảng Châu Hứa Thế Hữu đã phản đối chỉ thị này do lo ngại phản ứng từ Mỹ sẽ dẫn đến sự leo thang trong khu vực.

Bối cảnh địa chính trị khi đó trao cho Trung Quốc cơ hội chiến lược, theo giáo sư Toshi.

Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam năm 1973 nhưng trước đó đã bắt đầu mối quan hệ với Trung Quốc vào năm 1972. Thời điểm đó, Washington và Bắc Kinh đều rất mong lôi kéo bên kia vào một tình hữu nghị để thúc đẩy các mục tiêu chung trong thế đối trọng với Liên Xô. Mỹ đồng thời đang muốn rút khỏi Chiến tranh Việt Nam.

Trao đổi với BBC News tiếng Việt, giáo sư Toshi rút ra kết luận : "Việc không có sự can thiệp từ bên thứ ba là yếu tố quyết định đến thành công chiến lược của Trung Quốc trong Hải chiến Hoàng Sa.

"Bài học ở đây là đánh giá của Bắc Kinh về can thiệp của bên thứ ba, đặc biệt là Mỹ, sẽ có ảnh hưởng lớn đến tính toán của họ trong các quyết định về việc sử dụng vũ lực".

Cách phản ứng với tàu Trung Quốc

Từ kết cục của Hải chiến Hoàng Sa, giáo sư Toshi cho rằng các nước đối thủ cùng tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông cần cẩn trọng về các phản ứng của họ đối với tàu thăm dò của Trung Quốc.

So sánh hành vi của Trung Quốc trong vụ Bãi cạn Scarborough tranh chấp với Philippines năm 2012, giáo sư Toshi nhận xét "giống hệt với hành vi của nước này trong trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974 với Việt Nam".

Trong cả hai trường hợp, Bắc Kinh đều dùng các tàu cá làm mồi nhử và đều đợi phía bên kia vượt qua lằn ranh đỏ trước khi ‘ra tay’ hành động theo hướng có lợi cho mình, giáo sư Toshi phân tích trong nghiên cứu năm 2016.

Liệu Trung Quốc có tìm cách để dẫn dụ đối thủ hành động trước hay không vẫn chưa rõ ràng. Nhưng khi ‘hành động sau’, Trung Quốc đặt mình ‘trên cơ’ về mặt đạo đức để đạt thêm các tham vọng lãnh thổ, giáo sư Toshi phân tích.

"Năm 1974, Trung Quốc đã khiến Nam Việt Nam nổ súng trước, việc này trao cho giới lãnh đạo Trung Quốc cái cớ để phản công. Bài học ở đây là các nước đối thủ cần cẩn trọng, không phản ứng thái quá, hoặc không phải ứng theo cách có thể cho Bắc Kinh cái cớ để leo thang xung đột.

"Sự kiềm chế và kỷ luật về mặt chiến thuật là đặc biệt quan trọng bởi Trung Quốc rất muốn leo thang thống trị đối với các đối thủ yếu hơn", ông Toshi nói với BBC.

Bên yếu hơn vẫn có thể thắng

So sánh chiến thắng của Trung Quốc trước Việt Nam với chiến thắng của David bé nhỏ trước người khổng lồ Goliath trong Kinh Thánh chỉ bằng một cái ná bắn đá và một con dao găm, giáo sư Toshi chỉ ra rằng lực lượng của Trung Quốc trong Hải chiến Hoàng Sa 1974 thực ra yếu thế và dễ tổn thương hơn của Việt Nam Cộng Hòa.

Chẳng hạn, tàu khu trục Nam Ninh, một tàu chiến cũ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được cải tạo lại, đã quá hạn sử dụng. Ba tàu khu trục Type 065 chưa sẵn sàng cho các nhiệm vụ trên biển.

Các tàu tấn công nhanh có phạm vi hoạt động hạn chế. Chỉ có tàu săn tàu ngầm và tàu quét mìn mới sở hữu tầm hoạt động đủ để có thể thực hiện nhiệm vụ tuần tra biển.

Tàu săn tàu ngầm lớp Kronshtadt, tàu quét mìn và tàu săn ngầm lớp Hải Nam lần lượt có tải trọng chỉ 310, 500 và 500 tấn. Tất cả đều chỉ được trang bị pháo với cỡ nòng nhỏ hơn tàu Việt Nam. Ngay cả tàu lớn nhất của hải quân Trung Quốc cũng nhỏ hơn tàu nhỏ nhất của Việt Nam Cộng Hòa.

Trong khi đó, Hải quân Việt Nam Cộng Hòa thực sự vượt trội về quy mô và hỏa lực so với Hải quân Trung Quốc.

HQ-4 có tải trọng gần 1.600 tấn và được trang bị hai khẩu pháo 76 ly ; HQ-5 và HQ-16 mỗi tàu có tải trọng 1,766 tấn và được trang bị một khẩu pháo 127 ly ; HQ-10 có tải trọng 650 tấn, pháo 76 ly.

Thế nhưng Trung Quốc vẫn thắng.

Thành công này có được là nhờ phần lớn từ sự kém cỏi và sai lầm của Việt Nam và từ sự điêu luyện trong chiến thuật của Trung Quốc, theo nhận định của giáo sư Toshi.

Theo giáo sư Toshi, một số nhà phân tích Trung Quốc đã chỉ ra sai lầm của Hải quân Việt Nam Cộng Hòa khi chia nhỏ đội tàu của mình trong lần tiếp cận đầu tiên vào sáng 19/1/1974.

Nếu Việt Nam Cộng Hòa tập trung lực lượng và hỏa lực thì họ đã có thể lần lượt hạ gục các tàu chiến của Trung Quốc. Đồng thời, quyết định tấn công các vị trí của Trung Quốc từ cự ly gần là thiếu thận trọng. Khoảng cách gần phát huy thế mạnh của đối thủ trong khi làm giảm lợi thế của hải quân Việt Nam Cộng Hòa về tầm bắn và hỏa lực.

Nếu Việt Nam Cộng Hòa tấn công quân Trung Quốc từ khoảng cách xa hơn (cứ cho là các thủy thủ đoàn sở hữu các kỹ năng bắn súng cần thiết), họ có thể đã tránh được trận cận chiến vốn mang lại lợi thế hơn cho Trung Quốc. Nói cách khác, một đối thủ có năng lực hơn và phối hợp tác chiến tốt hơn có thể đã làm thay đổi kết cục trận chiến, giáo sư Toshi chỉ ra trong nghiên cứu của ông.

"Số lượng tàu rất quan trọng. Tuy nhiên, ngoài năng lực vật chất, điều quan trọng không kém là việc sử dụng thận trọng, kỷ luật và thông minh những nguồn lực có hạn", giáo sư Toshi nói với BBC.

Xu hướng chiến tranh hỗn hợp

Giáo sư Toshi cảnh báo rằng nhiều khả năng Trung Quốc sẽ dùng mọi công cụ trên biển, bao gồm cả lực lượng dân quân và bán quân sự - mà cách gọi trong thời hiện đại là ‘chiến tranh hỗn hợp’ - để đạt được các mục đích về lãnh thổ.

"Năm 1974, các tàu cá và dân quân Trung Quốc đóng một vai trò quan trọng trong toàn bộ các giai đoạn của cuộc hải chiến", ông nói.

Dẫn chứng hai ví dụ tương tự - Trung Quốc tiếp tục sử dụng các công cụ phi hải quân để gây áp lực không ngừng lên Philippines quanh Bãi Cỏ Mây và lên Nhật Bản quanh quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, giáo sư Toshi cho rằng các nước "nên sẵn sàng trước khả năng Trung Quốc sẽ sử dụng các công cụ phi quân sự như một lựa chọn đầu tiên trong các xung đột tương lai trên Biển Đông".

Cụ thể, trong nghiên cứu xuất bản năm 2016, giáo sư Toshi nêu chi tiết cách thức Trung Quốc phối kết hợp lực lượng dân quân và tàu cá góp phần vào chiến thắng trong Hải chiến Hoàng Sa 1974.

Theo đó, lực lượng dân quân Trung Quốc đóng trên đảo Phú Lâm đã hành động ngay khi có lệnh vào phút chót.

Giống một lực lượng phản ứng nhanh, dân quân Trung Quốc tràn vào các hòn đảo phía đông nam của nhóm đảo Lưỡi Liềm dưới màn đêm, đánh phủ đầu biệt kích Việt Nam Cộng Hòa đang cố gắng chiếm các đảo này vào ngày tiếp theo.

Khả năng hành động nhanh chóng và hiệu quả của lực lượng dân quân đã trao cho quân đội chính quy Trung Quốc thêm thời gian để huy động lực lượng trên đất liền. Chính lực lượng này đã tham gia vào việc chiếm giữ các đảo Hữu Nhật và Hoàng Sa, giúp đảm bảo quyền kiểm soát của Trung Quốc đối với toàn bộ quần đảo Hoàng Sa.

Trên biển, các tàu cá 402 và 407 hoạt động như các đội phản ứng nhanh. Trước trận hải chiến nhiều tháng, các tàu cá này luôn hiện diện ở quần đảo Hoàng Sa và cắm cờ trên các đảo. Các tàu này cũng gửi cảnh báo sớm cho đầu não trên bờ khi tàu chiến Việt Nam Cộng Hòa mới tiến vào quần đảo Hoàng Sa.

Các chỉ huy trên tàu cung cấp thông tin tình báo chiến thuật cho chỉ huy của Hải quân Trung Quốc trên biển. Số tàu này giúp đưa lực lượng dân quân lên các đảo Quang Hòa, Duy Mộng và Quang Hòa Tây vào đêm trước trận chiến và là phương tiện để quân Trung Quốc đổ bộ lên các đảo mà Việt Nam nắm giữ sau khi tàu chiến của Việt Nam Cộng Hòa bỏ chạy.

Ngược lại với sự hiện diện của hải quân có thể bị nhìn nhận là hiếu chiến, các tàu cá mang lại cho Trung Quốc một phương tiện kín đáo để củng cố yêu sách lãnh thổ.

Tính chất dân sự ‘bề ngoài’ của các tàu cá này đã củng cố thêm luận điểm ngoại giao của Bắc Kinh rằng Sài Gòn là kẻ xâm lược. Thực vậy, một báo cáo tình báo Hoa Kỳ chỉ ra "phản ứng quân sự của Sài Gòn đối với việc ngư dân Trung Quốc đi vào nhóm đảo Lưỡi Liềm" như "một bước quan trọng dẫn đến sự leo thang".

Nhận định này có thể phù hợp với câu chuyện mà Trung Quốc muốn kể, giáo sư Toshi phân tích trong nghiên cứu của ông.

Thách thức phía trước

Mỹ và các đối tác trong khu vực đang đối đầu với một môi trường biển ngày càng cạnh tranh. Hải quân Trung Quốc ngày nay có sức mạnh không thể sánh được so với năm 1974, theo giáo sư Toshi trong nghiên cứu năm 2016.

Về mặt chiến lược, các vai trò đã bị đảo ngược một cách kịch tính : Lực lượng của Trung Quốc vượt trội các nước láng giềng Châu Á, bao gồm Việt Nam, với khoảng cách đáng kể.

Hạm đội Nam Hải hiện đóng ở đảo Hải Nam, là nơi neo đậu của các tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo hạt nhân và tàu ngầm tấn công hạt nhân.

Đảo Phú Lâm đã phát triển từ một tiền đồn sơ khai cách đây bốn thập kỷ thành nơi các tàu chiến và máy bay chiến đấu xuất phát.

Xa hơn về phía nam, một nhóm đảo nhân tạo mới được tạo ra có đường băng và bến cảng có thể là nơi đồn trú các lực lượng không quân và hải quân Trung Quốc.

Nhìn chung, Trung Quốc hiện sở hữu sức mạnh quân sự để buộc Hoa Kỳ phải trả giá cho những điều mà các lãnh đạo Trung Quốc chỉ có thể nằm mơ vào năm 1974.

Các tàu khu trục, khinh hạm, tàu tấn công nhanh, tàu ngầm hiện đại của Trung Quốc được trang bị tên lửa hành trình chống hạm tầm xa có thể tấn công từ khoảng cách xa.

Các máy bay, tàu và tên lửa đạn đạo có thể vươn sâu vào Biển Đông, tạo ra vỏ bọc bảo vệ cho các đơn vị hải quân.

Hiệu quả của chiến thuật này cho thấy Trung Quốc có thể lại sử dụng chúng cho các cuộc đối đầu trong tương lai ở Biển Đông.

Mỹ và các nước Châu Á nên cảnh giác với viễn cảnh này, giáo sư Toshi cảnh báo trong cuộc trao đổi với BBC.

Mỹ Hằng

Nguồn : BBC, 16/01/2024

Giáo sư Toshi Yoshihara là thành viên cấp cao tại Trung tâm Đánh giá Chiến lược và Ngân sách (CSBA). Trước đây ông giữ chức Chủ tịch John A. van Beuren về Nghiên cứu Châu Á-Thái Bình Dương và là giáo sư về chiến lược tại Đại học Chiến tranh Hải quân Hoa Kỳ. Ông từng là giáo sư thỉnh giảng tại Trường Luật và Ngoại giao Fletcher, Đại học Tufts ; Trường Chính sách và Chiến lược Toàn cầu, Đại học California, San Diego ; và Khoa Chiến lược, Đại học Chiến tranh Không quân Hoa Kỳ.

***************************

50 năm Hải chiến Hoàng Sa : 'Ukraine và Đài Loan là bài học cho Việt Nam'

Huyền Trân, BBC, 16/01/2024

Từ bài học Đài Loan và Ukraine, Việt Nam nên tham gia vào một hợp tác an ninh song phương để đối phó với Trung Quốc trên Biển Đông, theo chuyên gia.

hoangsa01

Cộng đồng người Việt ở Đức phản đối Trung Quốc ở Biển Đông. Ảnh : Minh Đức.

Từ Đài Loan, Tiến sĩ William C. Chung, nhà nghiên cứu tại Viện Chính sách An ninh và Phát triển (Institute for Security and Development Policy), Phó Giáo sư Đại học Quốc phòng Đài Loan, nói về trận Hải chiến Hoàng Sa năm 1974 và đưa ra nhận định của ông trong việc Việt Nam nên chọn cách thức giải quyết tranh chấp trên Biển Đông trong tình hình địa chính trị xoay chuyển như hiện nay.

Trước câu hỏi của BBC News tiếng Việt về việc Việt Nam Cộng Hòa bị thất thủ tại quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974, tiến sĩ William Chung nhắc lại chính sách hòa hoãn (détente) của Ngoại trưởng, Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ Henry Kissinger.

Cú bắt tay lịch sử Mỹ-Trung năm 1972

Nhà ngoại giao hàng đầu của Mỹ Henry Kissinger từng đánh giá sự hòa giải dần dần giữa Trung Quốc và Mỹ đã làm "cả thế giới phấn khích".

Tuy nhiên, chính sách này đã khiến Kissinger bị chỉ trích là "đi đêm", khi bắt tay được lãnh đạo Trung Quốc Mao Trạch Đông vào năm 1972 thì "buông tay" Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu năm 1973.

"Tôi nghĩ trong cuộc hải chiến tại Hoàng Sa vào năm 1974, nước Mỹ đã đưa ra lập trường trung lập. Tôi nghĩ Trung Quốc hiểu Tổng thống Richard Nixon, Ngoại trưởng Kissinger, chính sách toàn cầu của Washington và chính sách hòa giải dần dần quan hệ Trung-Mỹ. Tôi nghĩ nếu chính phủ Mỹ có lập trường mạnh mẽ hơn với phía Trung Quốc thì tình hình đã khác".

"Tôi cho rằng chính sách ngoại giao của Henry Kissinger vào thời điểm đó là có thể hiểu được, vì ông ấy muốn dùng Trung Quốc để chống Liên Xô. Washington không muốn đối đầu với Trung Quốc mà muốn có nhiều đối tác để đối phó với mối đe dọa chính là Liên Xô".

hoangsa1

Tổng thống Mỹ Richard Nixon và Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai vào ngày 26/2/1972 trong chuyến thăm Trung Quốc của ông Nixon

Thời gian qua, Trung Quốc thường xuyên nhắc lại Thông cáo chung Thượng Hải giữa Tổng thống Mỹ Richard Nixon và Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai hồi năm 1972, trong đó có nội dung Mỹ thừa nhận "một Trung Quốc", "Đài Loan là một phần của Trung Quốc" và "chính phủ Mỹ không thách thức lập trường này".

Tiến sĩ William C. Chung đánh giá, "Tôi nghĩ Kissinger muốn lôi kéo Trung Quốc vào phe mình và ông ta bỏ rơi Đài Loan. Xét về khía cạnh này, lẽ ra Kissinger nên có sự hỗ trợ khác cho Trung Quốc mà không đi kèm điều kiện, hơn là bỏ rơi Đài Loan", ông nói.

Sau giai đoạn này, Mỹ đã thiết lập quan hệ chính thức với Trung Quốc và không còn giữ quan hệ ngoại giao chính thức với Trung Hoa Dân Quốc, tức Đài Loan.

Mỹ, Châu Âu và nhiều nước vẫn theo chính sách ‘Một Trung Quốc’, chỉ công nhận một chính phủ Bắc Kinh.

Vào năm 1979, Mỹ thông qua Đạo luật quan hệ Đài Loan có nội dung cung cấp phương tiện để hòn đảo này tự vệ trong trường hợp bị tấn công.

Việt Nam nên suy nghĩ lại chiến lược 'hedging' tại Biển Đông

"Hedging" hay "phòng bị nước đôi", theo định nghĩa của chuyên san Quan hệ Quốc tế Châu Á-Thái Bình Dương (International Relations of the Asia Pacific), là "một sự pha trộn các thành tố hợp tác và đối đầu. Chiến lược này thường tương phản với cân bằng (balancing) hoặc phù thịnh (bandwagoning), các khái niệm được phát triển trong kỷ nguyên Chiến tranh Lạnh để phản ánh các chiến lược khác, bao gồm chống lại hoặc chiều theo một siêu cường quá mạnh hoặc mang tính đe dọa".

Việt Nam đã theo đuổi chính sách "đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ đối ngoại", được gọi là nền ngoại giao "cây tre" và luôn khẳng định  "dĩ bất biến, ứng vạn biến" ; là cách ứng xử "biết mình, biết người", "biết thời, biết thế", "biết tiến, biết thoái", "biến dừng, biết biến"…

Trước sự đối đầu Mỹ-Trung và căng thẳng địa chính trị hiện nay, tiến sĩ William Chung đánh giá Việt Nam cần phải xem xét lại chiến lược hedging liên quan đến vấn đề tranh chấp trên Biển Đông.

"Đương nhiên một quốc gia không thể hoàn toàn dựa theo một nước nào khác, nhưng phải nhìn thấy bức tranh tổng thể. Sự đối đầu Mỹ và Trung Quốc giờ đây không thể nào đảo ngược và bối cảnh địa chính trị quốc tế đã thay đổi".

"Cho đến nay, không hề thấy sự thỏa hiệp nào của Trung Quốc liên quan đến vấn đề Biển Đông. Tôi nghĩ khi Việt Nam và Philippines sử dụng chiến lược [hedging] thì phải biết phân biệt ai là bạn, là thù và đâu là mối đe dọa nghiêm trọng nhất".

Trung Quốc cho đến nay vẫn tiếp tục thể hiện thái độ ngày càng xác lập liên quan đến Biển Đông.

Đô đốc Đổng Quân, tân Bộ trưởng Quốc phòng của Trung Quốc, là người đầu tiên trong hải quân nắm giữ chức vụ này và từng là Phó Tổng tư lệnh Chiến khu Nam bộ, chiến khu phụ trách miền nam Trung Quốc, bao gồm các hoạt động trên Biển Đông, nơi Trung Quốc thường thể hiện tham vọng của mình bằng bản đồ đường chữ U cũng như các hoạt động trên thực địa.

Đánh giá về diễn biến sắp tới trên Biển Đông với chuyển biến nhân sự mới nhất này, tiến sĩ William Chung đánh giá Hải quân Trung Quốc sẽ được tăng cường sức mạnh trong thời gian sắp tới.

"Tôi nghĩ việc bổ nhiệm ông Đổng cho thấy Hải quân sẽ trở nên quan trọng hơn trong Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa và sẽ được tăng cường nguồn lực trong thời gian tới. Tôi nghĩ Trung Quốc đủ khôn ngoan để hiểu rằng eo biển Đài Loan và Biển Đông là các điểm nóng".

"Theo tôi, đây cũng chưa phải là lý do để Chủ tịch Tập Cận Bình chọn ông Đổng làm tân Bộ trưởng Quốc phòng. Nhưng động thái này cho thấy mối tập trung của Tập Cận Bình về Biển Đông, muốn biến Trung Quốc trở thành một cường quốc biển thật sự", ông đánh giá.

hoangsa2

Nhóm tác chiến tàu sân bay USS Ronald Reagan của Hải quân Mỹ cập cảng Tiên Sa, Đà Nẵng từ ngày 25 đến 30/6/2023

Việt Nam nên kết đồng minh với Mỹ ?

Giới quan sát cho rằng căng thẳng với Trung Quốc đã đẩy Philippines ngày càng xích lại gần hơn với Mỹ.

Có thể thấy trong ASEAN, Philippines đang ngày càng thể hiện thái độ cứng rắn nhất với Trung Quốc liên quan đến vấn đề Biển Đông, cùng với mối quan hệ nồng ấm hơn giữa Washington với Manila dưới thời Tổng thống Ferdinand Marcos Jr.

Theo tiến sĩ William Chung, Việt Nam phải xác định được điểm cốt yếu, nếu không có thì Trung Quốc sẽ từng bước một sử dụng sự đối đầu vùng xám hết lần này đến lần khác.

"Thật không may là Việt Nam phải đưa ra lựa chọn trong bối cảnh địa chính trị hiện nay vì là nước có tranh chấp chủ quyền với phía Trung Quốc. Chiến lược hedging cần phải phân biệt có sự khác nhau giữa nước có và không có tranh chấp chủ quyền với Bắc Kinh, cụ thể trong ASEAN thì Việt Nam phải khác Singapore", ông lập luận.

Cho đến nay, Hà Nội luôn nhấn mạnh về chính sách "Bốn không", bao gồm không tham gia liên minh quân sự, không liên kết với nước này để chống nước kia, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

Xét về khía cạnh chiến lược an ninh sắp tới, tiến sĩ William Chung cho rằng Hà Nội nên cân nhắc đến việc có các hợp tác an ninh song phương với quốc gia, mà theo ông, "có khả năng đối đầu với Trung Quốc là Mỹ".

Và sau đây là hai yếu tố về quốc phòng và an ninh mà ông cho rằng có thể giúp Việt Nam "quốc tế hóa" được cuộc xung đột trên Biển Đông, tránh được việc "đơn thương độc mã" đối chọi với láng giềng khổng lồ phương bắc.

"Tôi nghĩ có hai giải pháp là mạng lưới phòng vệ, tôi nghĩ là các quốc gia trong khu vực như Việt Nam thì phải phát triển sức bền phòng vệ. Sau đó đi xa hơn là các phòng tuyến, tiếp đó là hợp tác an ninh song phương, chẳng hạn với quân đội Mỹ để kiểm soát và cân bằng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa trong khu vực. Tôi nghĩ điều này rất quan trọng", ông đánh giá.

Ngoài Mỹ, tiến sĩ William Chung đánh giá Việt Nam cũng nên cân nhắc đưa lực lượng quân sự của Nhật Bản, Úc, Mỹ, thậm chí NATO vào khu vực Biển Đông để cùng ngăn chặn chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc.

"Tôi nghĩ Việt Nam phải suy nghĩ là nếu xảy ra đụng độ quân sự khi Trung Quốc dùng phương tiện quân sự để kiểm soát toàn bộ Biển Đông. Nếu Việt Nam xem Biển Đông là lợi ích cốt lõi thì phải cân nhắc đưa Mỹ đứng về phía của mình. Để làm được điều này, Việt Nam phải cho thấy khả năng và độ tin cậy để Mỹ ủng hộ".

"Mỹ sắp tới có thể khác hơn năm 1974 và Việt Nam phải làm rõ cam kết nào về sự hỗ trợ mà Mỹ có thể mang đến trong trường hợp xảy ra xung đột đó. Ukraine không phải thành viên NATO, cũng không có hiệp ước an ninh nào với Mỹ, thế mà Mỹ vẫn viện trợ Ukraine".

"Tuy vậy, tôi không nghĩ trong tương lai Việt Nam sẽ có một hiệp ước an ninh với Mỹ. Bởi nói cho cùng thì Việt Nam là quốc gia cộng sản, xét về mặt ý thức hệ", ông đánh giá.

>hoangsa3

Tàu cảnh sát biển Trung Quốc di chuyển gần tàu cảnh sát biển Việt Nam vào ngày 14/5/2014 khi căng thẳng dâng cao liên quan đến việc Bắc Kinh đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam

Đài Loan và Ukraine là bài học cho Việt Nam

Thế giới bước sang năm 2024 với những điểm nóng mới xuất hiện. Ngoài cuộc chiến Ukraine, Gaza có thể kéo dài, gần đây Biển Đỏ cũng nóng lên với cuộc tấn công của lực lượng Houthi do Iran hậu thuẫn.

Giới quan sát cũng đang theo dõi chặt chẽ tình hình của Đài Loan.

Tiến sĩ William Chung đánh giá Đài Loan và Biển Đông là hai "điểm nóng" tiềm tàng và "có quan hệ chặt chẽ". Ông đánh giá nếu Đài Loan bị đánh chiếm thì tiếp theo sẽ là Biển Đông hoặc ngược lại.

"Tôi nghĩ tới cột mốc năm 2027 về khả năng nổ ra Chiến tranh Đài Loan, đó là do Đảng cộng sản Trung Quốc (CCP) trong văn bản Đại hội Đảng nêu vào năm 2027, Quân Giải phóng Nhân dân sẽ [...] chiến thắng một cuộc chiến trong nước".

"Vậy một cuộc chiến tranh trong nước nghĩa là gì ? Đài Loan, hoặc cũng có thể là Biển Đông".

"Đối với Đài Loan, đây là một cuộc đấu sống còn. Chúng ta có thể thấy Đài Loan có một sự liên kết mạnh mẽ với cộng đồng quốc tế vì Đài Loan đóng vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu".

Ngoài ra, ông đánh giá cuộc chiến Ukraine cho thấy một bài học rất quan trọng, không những cho Đài Loan, mà còn cho những nước Đông Nam Á như Việt Nam, Philippines...

"Đó là, từ nhãn quan quân sự, các quốc gia nhỏ cũng có cơ hội ngang bằng để chiến thắng quốc gia lớn hơn. Tôi nghĩ Trung Quốc cũng đã học được bài học này và khiến Bắc Kinh phải suy nghĩ lại khi muốn giải quyết vấn đề về mặt quân sự".

"Do đó, nếu xảy ra kịch bản tệ nhất là chiến tranh trên Biển Đông, chưa chắc Việt Nam hay Philippines sẽ bại trận", ông William Chung đánh giá.

Huyền Trân

Nguồn : BBC, 16/01/2024

***************************

50 năm Hải chiến Hoàng Sa : 'Việt Nam Cộng Hòa đã bị hy sinh'

Huyền Trân, BBC, 15/01/2024

Từ Hoa Kỳ, Đại tá Carl Schuster lý giải vì sao Việt Nam Cộng Hòa bại trận trong Hải chiến Hoàng Sa 1974 và bài học lịch sử rút ra từ biến cố này.

haichien12

Đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa năm 2016

"Tôi đã nhận thấy những dấu hiệu chắc chắn đầu tiên cho thấy nước Mỹ bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa", Đại tá Carl Schuster chia sẻ trong cuộc trao đổi với BBC News tiếng Việt trước thời điểm 50 năm Hải chiến Hoàng Sa.

Ông Carl Schuster đã có 25 năm phục vụ trong Hải quân Mỹ. Ông từng cộng tác trên các tàu chiến và từ năm 1980 chuyển sang lĩnh vực tình báo hải quân, trong đó có vai trò chuyên viên phân tích hoạt động của Hải quân Trung Quốc.

Vị trí cuối cùng mà ông đảm trách trước khi rời quân ngũ vào năm 1999 là chủ nhiệm Phòng Tác chiến thuộc Trung tâm Tình báo hỗn hợp Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương.

Thời gian còn là chuyên gia phân tích tình báo, ông có thể tiếp cận các tài liệu được giải mật từ phía Mỹ.

Hiện ông đang giảng dạy quan hệ quốc tế, lịch sử và nhân văn tại Đại học Hawaii Pacific.

Tháng 6/2017, ông có bài viết "Cuộc chiến giành quần đảo Hoàng Sa" (Battle for Paracel Islands) gây chú ý trên tờ Vietnam Magazine.

Hạm đội 7 không hành động

Trả lời BBC News tiếng Việt, Đại tá Schuster đã giải thích bối cảnh lịch sử xảy ra trận hải chiến khiến Việt Nam mất quần đảo Hoàng Sa vào tay Trung Quốc.

Theo ông, cần phải nhắc đến cuộc Cách mạng Văn hóa do Chủ tịch Mao Trạch Đông khởi xướng vào tháng 5/1966 và kết thúc sau khi ông qua đời năm 1976.

Trung Quốc đã trải qua một thập kỷ hỗn loạn với chiến dịch thanh trừng nhằm trừ khử các đối thủ chính trị của Mao trong nội bộ Đảng cộng sản.

Hải chiến Hoàng Sa xảy ra vào thời điểm Cách mạng Văn hóa gần kết thúc và Đại tá Schuster đánh giá hải quân Trung Quốc khi đó "hầu như không thể ra biển".

"Cách mạng Văn hóa hầu như đã khiến Trung Quốc đánh mất năng lực hậu cần. Do thiếu hụt phụ tùng, chỉ khoảng 10% số tàu của họ có thể đi biển và đa số gặp các vấn đề về trang thiết bị. Mao chỉ có thể dựa vào dân quân biển".

"Đây là những nhóm bán quân sự, được bộ phận quân huấn huấn luyện chút ít và có thể nhận lệnh từ Hải quân. Thời điểm đó, lực lượng dân quân biển đã bắt đầu hoạt động quanh quần đảo Hoàng Sa", ông nói.

Ông đã nhắc lại việc Mỹ và Trung Quốc "bắt tay để hy sinh" Việt Nam Cộng Hòa trong trận hải chiến như thế nào và ông đánh giá Chủ tịch Mao Trạch Đông "hiểu lúc bấy giờ Mỹ không có ý chí chính trị để bảo vệ Việt Nam Cộng Hòa".

"Khi tìm hiểu kỹ Hải chiến Hoàng Sa, tôi nhận thấy những dấu hiệu chắc chắn đầu tiên cho thấy nước Mỹ đã bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa".

"Các tàu chiến Nam Việt Nam đã gửi yêu cầu trợ giúp đến Hạm đội 7. Nhưng Hạm đội 7 được lệnh không can dự gì với Trung Quốc. Thế nên Hạm đội 7 đã từ chối".

haichien13

Hình ảnh Hạm đội 7 của Hoa Kỳ vào năm 1968 khi chuẩn bị các cuộc không kích nhằm vào Bắc Việt

Theo thông tin từ Hạm đội 7 , trong Chiến tranh Việt Nam, hạm đội này thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu như điều máy bay không kích, bắn yểm trợ, đổ bộ, tuần tra và tác chiến sử dụng mìn.

Sau Hiệp định Paris 1973, Hạm đội 7 thực hiện các hoạt động chống mìn trên vùng biển gần bờ ở Bắc Việt.

"Không có sự hỗ trợ của Mỹ, quân đội Việt Nam Cộng Hòa phải đánh cận chiến nhưng binh lính lại không được huấn luyện tốt, kỹ năng tác xạ rất kém. Họ chịu tổn thất lớn và nhiều binh sĩ bỏ mạng. Nam Việt Nam để mất nhóm đảo Lưỡi Liềm và nước Mỹ đã không phản đối", ông nói với BBC.

Có 74 quân nhân Việt Nam Cộng Hòa tử trận khi Hải chiến Hoàng Sa nổ ra vào ngày 19/1/1974.

Ông Schuster đánh giá rằng nếu Hạm đội 7 có mặt thì tình hình đã khác. "Nhưng do đã hứa [với Trung Quốc], nước Mỹ chọn đứng ngoài cuộc", ông nói.

Vai trò của Kissinger

Đại tá Schuster cũng đề cập đến vai trò của Henry Kissinger, người giữ chức Ngoại trưởng Mỹ giai đoạn 1973 - 1977 và Cố vấn An ninh Quốc gia cho Tổng thống Richard Nixon từ năm 1969 đến tháng 11/1975.

Với vai trò Cố vấn An ninh Quốc gia và Ngoại trưởng, ông này đã theo đuổi mạnh mẽ chính sách hòa hoãn (détente), giúp làm tan băng quan hệ giữa Mỹ với Liên Xô và Trung Quốc.

Ngày 9/7/1971, Henry Kissinger đã gặp Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai để sắp xếp chuyến viếng thăm lịch sử đến Bắc Kinh của Tổng thống Richard Nixon vào tháng 2/1972.

Tài liệu giải mật của Bộ Ngoại giao Mỹ về cuộc trao đổi  giữa ông Kissinger với Đại sứ Hàn Tự, Quyền Trưởng Văn phòng liên lạc Trung Quốc, có ghi rõ đoạn này. Cuộc nói chuyện diễn ra tại Washington vào ngày 23/1/1974, tức chỉ vài ngày sau Hải chiến Hoàng Sa.

"Nước Mỹ không ủng hộ Nam Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với những đảo này. Tôi cũng muốn nói rõ điều đó", Kissinger trấn an Hàn Tự.

vào ngày 26/4/2016, ông Kissinger cũng nói Hoàng Sa không quan trọng bằng các vấn đề khác vào thời điểm ấy.

Ông Kissinger đã trả lời như sau trước câu hỏi từ một nhà báo VOA rằng có phải Hoa Kỳ đã đồng ý để Trung Quốc chiếm Hoàng Sa vào năm 1974 hay không :

"Lập trường của Mỹ liên quan đến quần đảo ấy là chúng tôi không giữ lập trường về chủ quyền đối với những đảo này. Vào năm 1974, trong tâm điểm vụ Watergate và cuộc chiến ở Trung Đông, tôi có thể nói rõ với quý vị là quần đảo Hoàng Sa không phải là ưu tiên trên hết trong tâm trí chúng tôi. Nhưng không có thỏa thuận nào được ký mà trong đó chúng tôi trao quyền cho Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa cả, người Trung Quốc cũng chưa từng tuyên bố như vậy".

haichien14

Henry Kissinger đã giữ chức Ngoại trưởng Mỹ giai đoạn 1973 - 1977 và Cố vấn An ninh Quốc gia cho Tổng thống Richard Nixon từ năm 1969 đến tháng 11/1975

Bình luận về vai trò của Kissinger, Đại tá Schuster nói, "Chúng ta không biết được Kissinger đã đưa ra những đảm bảo gì vì ông ấy không bao giờ thừa nhận. Kissinger nhận ra rằng Quốc hội Mỹ sẽ không ủng hộ việc tiếp tục nỗ lực chiến tranh và tâm lý của dân Mỹ khi đó là hãy chấm dứt tổn thất và thoát ra".

"Tôi nghĩ Mao Trạch Đông nắm được điều đó. Ông ta không phải là một nhà chiến lược quân sự giỏi nhưng ông ta hiểu lúc bấy giờ Mỹ không có ý chí chính trị để bảo vệ Việt Nam Cộng Hòa. Hãy nhớ rằng Kissinger đã bỏ rơi Đài Loan bởi ông ấy nghĩ Mỹ cần một Trung Quốc mạnh để đối phó với Liên Xô".

"Và kết quả là chính quyền Nam Việt Nam đã bị hy sinh cho mục tiêu lớn hơn của Kissinger, cho việc thiết lập một Trung Quốc thịnh vượng và mạnh mẽ mà Kissinger cho rằng sẽ trở thành đồng minh của Mỹ trong thế kỷ 20", Đại tá Schuster nói.

Bài học lịch sử

Sau năm 1974, Hải chiến Hoàng Sa và vai trò của quân lực Việt Nam Cộng Hòa trong sự kiện này ít được đề cập trên các kênh thông tin chính thống của nhà nước tại Việt Nam. Phải đến năm 2014, nhân dịp kỷ niệm 40 năm, Hải chiến Hoàng sa mới được báo chí chính thống đề cập rầm rộ.

Tiếp đó là sự kiện Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 hoạt động trong vùng biển gần Hoàng Sa gây căng thẳng trầm trọng với Việt Nam.

Lúc bấy giờ, các cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc đã nổ ra nhiều nơi, lớn nhất là tại Hà Nội và quanh Thành phố Hồ Chí Minh. Bạo loạn tại một số khu công nghiệp ở tỉnh Bình Dương vào tháng 5/2014 đã gây thiệt hại cho các công ty không chỉ của Trung Quốc mà còn của Đài Loan và Singapore.

Giới quan sát trong nước đánh giá rằng Trung Quốc luôn chớp thời cơ tốt để hành động, như 19/1/1974 tấn công Hoàng Sa, 17/2/1979 tấn công biên giới phía bắc Việt Nam và 14/3/1988 tấn công cụm đá Gạc Ma tại Trường Sa. Đấy là các thời điểm Việt Nam mất cảnh giác và suy yếu nhất. Đây là một bài học quan trọng cho Việt Nam trước sự bành trướng ngày càng mạnh mẽ của Bắc Kinh.

Về ý này, Đại tá Schuster gợi ý rằng để đối phó, Việt Nam cần phải có càng nhiều đối tác càng tốt.

"Tôi nghĩ lý do Chủ tịch Tập Cận Bình đưa ra nhiều lợi ích kinh tế cho Việt Nam trong chuyến thăm vừa qua là bởi ông ấy lo ngại việc Mỹ cũng đưa ra giống như vậy cho Việt Nam".

"Càng nhiều đối tác thì càng tốt. Đừng bao giờ phụ thuộc vào một đối tác để làm đối trọng vì bạn không bao giờ biết nó có thể biến mất lúc nào".

"Nếu là lãnh đạo quốc gia, bạn có dám đặt cược vận mệnh tương lai quốc gia mình vào một người nào đó không ?"

Chuyên gia về an ninh quốc phòng này cho rằng Ấn Độ sẽ là đối tác quan trọng cho Việt Nam trong công nghệ quốc phòng và Nhật Bản cũng là "đồng minh tự nhiên".

"Tôi nghĩ việc củng cố quan hệ với Ấn Độ là điều mà Việt Nam có thể cân nhắc đưa vào bài toán. Công nghiệp quốc phòng Ấn Độ rất phát triển".

'Sau mùa hè 2025'

haichien15

Hình ảnh Đá Xu Bi do Trung Quốc kiểm soát trong quần đảo Trường Sa vào năm 2022

Về viễn cảnh nào cho tình hình Biển Đông và những điểm nóng nào có thể bùng phát, Đại tá Carl Schuster nói với BBC rằng ông Tập Cận Bình sẽ muốn chiến thắng trên Biển Đông mà không phải nổ phát súng nào, đồng thời dự đoán nếu xảy ra sự kiện lớn nào đó thì phải sau mùa hè năm 2025.

"Tôi nghĩ Tập Cận Bình phải cân nhắc rất kỹ về sức mạnh ý chí của nước Mỹ.

Có nhiều người Mỹ, tinh hoa chính trị và doanh nhân, nghĩ là nước Mỹ nên thỏa hiệp với Trung Quốc bởi hai nền kinh tế đã có sự gắn kết. Tôi nghĩ Tập Cận Bình coi điều đó là có lợi. Ông ta xem nỗ lực dàn xếp của Mỹ với Trung Quốc là một điểm có thể khai thác".

"Tập Cận Bình sẽ càng thể hiện rõ hơn ý chí của mình. Nhưng tôi không nghĩ điều đó sẽ diễn ra trước cuộc bầu cử tổng thống Mỹ 2024 vì có thể bất lợi cho Trung Quốc. Nhưng sau 2024, Tập sẽ có dịp thử phản ứng của tân tổng thống và tân quốc hội. Nếu ông Joe Biden tái đắc cử thì Tập Cận Bình sẽ tiếp tục lợi dụng điều mà ông ta xem là ‘điểm mù’ của Biden, người tin rằng đối thoại là biện pháp tốt nhất để giải quyết mọi vấn đề. Vấn đề là với những kẻ áp bức và độc tài, họ xem đối thoại là biểu hiện của yếu đuối. Tôi nghĩ vấn đề lớn có xảy ra thì phải sau mùa hè năm 2025".

"Năm 2027, theo tôi, cũng là một năm khó khăn. Tập Cận Bình có thể muốn chiến thắng trên Biển Đông mà không phải nổ phát súng nào".

Năm 2027 là mốc thời gian mà các lãnh đạo quân sự và tình báo Mỹ cho rằng Trung Quốc có thể xâm lược Đài Loan. Lý do là khi đó quân đội Trung Quốc đã đủ sức mạnh sau quá trình hiện đại hóa.

Người ta cũng dùng khái niệm "luộc ếch", tức đun nóng từ từ, để mô tả cách mà Bắc Kinh thực hiện chiến lược Đài Loan. Nói cách khác, Bắc Kinh chọn kế "bất chiến tự nhiên thành", theo binh pháp Tôn Tử, là không cần ra quân mà Đài Loan cuối cùng sẽ về theo Trung Quốc sau vài chục năm chịu sức ép.

Về phía Mỹ, chuyên gia Schuster cho rằng chính quyền sắp tới tại Washington phải "mạnh tay" hơn trước sự bành trướng của Trung Quốc.

"Từ góc độ chính sách ngoại giao, hành động mạnh, phòng vệ ngăn chặn bằng quân sự, hành động kinh tế và ngoại giao mạnh, để Trung Quốc biết là phải trả giá thì sẽ khiến họ tính toán lại, còn nếu chỉ có nói thôi thì Trung Quốc sẽ leo thang, sẽ đẩy và giật cho đến khi nào đạt được mục đích thì thôi".

"Nếu Mỹ để Trung Quốc bắt nạt Philippines thì tiếp theo sẽ là Việt Nam, Indonesia và Malaysia… Khi con voi chĩa vòi vào lều của bạn, nếu bạn chỉ vỗ nhẹ vào vòi thì sau đó nó sẽ chui hẳn vào căn lều", ông ví von.

Huyền Trân

Nguồn : BBC, 15/01/2024

Published in Diễn đàn

Người dân kỷ niệm trận hải chiến Hoàng Sa bất chấp sự ngăn cản của chính quyền (RFA, 19/01/2019)

Khoảng chưa đến 20 người dân ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh hôm 19/1 đã tổ chức các lễ tưởng niệm nhỏ những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã tử trận trong cuộc chiến bảo vệ Hoàng Sa vào năm 1974 trong trận hải chiến với Trung Quốc, bất chấp những ngăn cản từ chính quyền.

haichien1

Tượng đài Lý Thái Tổ hôm 19/01/2019 : Người dân Hà Nội tưởng niệm các chiến sĩ tử trận trong hải chiến Hoàng Sa với Trung Quốc năm 1974 - Courtesy FB Dũng Trương

Tại Hà Nội, 13 người chia làm hai nhóm đã tới tượng đài vua Lý Thái Tổ ở trung tâm thành phố để thắp hương tưởng niệm 74 chiến sĩ đã ngã xuống.

Trong khi đó, ở thành phố Hồ Chí Minh, chỉ có 4 người thuộc câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng đến được tượng Trần Hưng Đạo để thắp hương tưởng niệm.

Trước đó, một số facebookers và các nhà hoạt động cho đài Á Châu Tự Do biết họ đã bị an ninh ngăn chặn không cho đi ra ngoài để làm lễ kỷ niệm cuộc hải chiến Hoàng Sa. Có người cho biết họ bị an ninh gọi điện trực tiếp, khuyên không nên đi, có người cho biết họ bị an ninh canh gác trước cửa nhà mấy ngày liền.

Từ Hà Nội, facebooker Lã Việt Dũng, người đã tìm cách đến được tượng đài vua Lý Thái Tổ để thắp hương vào ngày 19/1 cho Đài Á Châu Tự Do biết : "Theo mình thấy, thứ nhất đây là một nỗi sợ hãi vô cớ của chính quyền. Họ sợ hãi đến mức mà thấy người dân tụ tập ở đâu là họ tìm cách ngăn cản. Cái thứ hai là những vấn đề đẩ động đến Trung Quốc họ đều tìm cách ngăn cản và né tránh".

Từ vài năm trở lại đây, nhiều người dân Việt Nam hàng năm đều tổ chức các buổi tưởng niệm các cuộc chiến bảo vệ lãnh thổ trước Trung Quốc như hải chiến Hoàng Sa năm 1974, hải chiến Trường Sa năm 1988 và cuộc chiến Biên giới 1979. Tuy nhiên, các buổi tưởng niệm này thường bị công an, an ninh tìm cách ngăn cản.

Những cuộc biểu tình chống Trung Quốc của người dân cũng thường bị ngăn cản, có người thậm chí bị bắt giữ, truy tố với các tội danh như gây rối trật tự công cộng hay chống người thi hành công vụ, điển hình như trong các cuộc biểu tình phản đối dự luật đặc khu của hàng ngàn người dân vào tháng 6/2018. Người dân lo ngại dự luật sẽ cho phép người Trung Quốc vào chiếm đất của Việt Nam.

Theo ông Trương Dũng, một người dân ở Hà Nội đã đến tượng đài vua Lý Thái Tổ hôm 19/1, ông đã bị một nhân viên an ninh tấn công.

Việt Nam và Trung Quốc hiện vẫn có tranh chấp về chủ quyền các đảo ở Biển Đông. Trung Quốc đã gây chiến và chiếm Hoàng Sa từ Việt Nam vào năm 1974 và chiếm Gạc Ma ở Trường Sa vào năm 1988.

Một vài năm trở lại đây, chính quyền Việt Nam đã cho phép báo chí đăng một số bài viết về cuộc hải chiến Hoàng Sa năm 1974, tuy nhiên hiếm có báo nào dám nói đến vai trò của Việt Nam Cộng Hòa trong việc bảo vệ quần đảo này.

*****************

Chủ quyền Hoàng Sa : cần nhìn nhận vai trò của Việt Nam Cộng Hòa (RFA, 18/01/2019)

Khoảng hơn một tuần nay, một số tờ báo trong nước đã cho đăng tải các bài viết về sự kiện Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam vào ngày 19/01/1974, trong đó có một số bài nhấn mạnh đến thái độ "ngang ngược" của Trung Quốc với "mưu đồ bành trướng ra toàn bộ Biển Đông". Động thái này của truyền thông trong nước có ý nghĩa gì đối với mối quan hệ Việt-Trung, vấn đề vốn được xem là nhạy cảm trong mắt của chính phủ Việt Nam từ trước đến nay ?

haichien2

Người dân trong một cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa ngày 19/01/1974 được tổ chức tại Hà Nội vào năm 2017. AFP

Phản ánh thẳng thắn, mạnh dạn

Sáng 17/01/2019, tờ Thanh Niên trong nước cho đăng tải bài viết nhan đề 45 năm Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa của Việt Nam : Mưu đồ độc chiếm Biển Đông của tác giả Khánh An được sự ủng hộ của hàng ngàn lượt chia sẻ trên mạng xã hội.

Một số mạng báo khác hôm 18/01/2019 cũng đồng loạt đăng tải các bài viết cùng chủ đề với tựa như Trung Quốc âm mưu thôn tính Hoàng Sa từ Hội nghị Geneva 1954 ? Trước đó trong tuần, báo Tuổi Trẻ cũng cho phát hành nhiều bài liên quan đến Hoàng Sa như Người Việt Nam vẫn luôn khắc cốt ghi tâm về ngày 19/01, Nghe Tổ quốc gọi tên mình bằng tiếng sóng Hoàng Sa, Trường Sa hay Nhà trưng bày Hoàng Sa là điểm hành hương về lòng yêu nước.

Nhận định về động thái này của truyền thông trong nước, Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên trưởng Ban Biên giới Chính phủ cho biết :

Đây là một hiện tượng đáng ghi nhận và một điều hết sức cần thiết. Sự kiện Hoàng Sa 1974, Gạc Ma 1988, thậm chí việc Trung Quốc gây ra cuộc Chiến tranh Biên giới 1979, và Chiến tranh Biên giới Tây Nam cũng vào thời điểm đó cần phải được đề cập. Đứng về mặt lịch sử phải khách quan. Đúng sai như thế nào ? Ai là kẻ xâm lược ? Ai đứng lên bảo vệ lãnh thổ của mình thì phải rõ ràng.

Tiến sĩ Trần Công Trục nhấn mạnh đây là một dấu hiệu tốt để đánh giá đúng bản chất các vấn đề, cũng như rút ra bài học của các sự kiện để Việt Nam sẽ có ứng xử tốt cho tương lai, giữ được hòa bình, hợp tác không chỉ ở Biển Đông và ở cả các khu vực khác trên thế giới.

Trả lời RFA tối 18/01/2019, nhà báo Võ Văn Tạo, một cựu chiến binh cộng sản, chia sẻ :

Thực ra thì không phải đến năm nay báo chí mới nói đến sự kiện Hoàng Sa mà tôi nhớ năm 2014, báo Thanh Niên cũng đã đề cập tới chuyện này. Trong các tờ báo của Việt Nam phản ánh sự kiện này, tôi thấy báo Thanh Niên tương đối có một lối trình bày thẳng thắn, mạnh dạn mà báo Tuổi Trẻ không bằng được. Mặc dù số lượng phát hành của báo Tuổi Trẻ nhiều hơn báo Thanh Niên, nhưng độ can đảm không bằng trong vấn đề đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông.

Bài viết của tờ Thanh Niên đăng tải hôm 17/01/2019 khẳng định Trung Quốc đã có "hàng loạt hành động phi pháp" kể từ khi "ngang ngược cưỡng chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa" và đưa ra một loạt bằng chứng các hành động tuyên bố chủ quyền, quân sự hóa các đảo nhân và nói thẳng Trung Quốc muốn "tiếp tục bành trướng Biển Đông".

Trả lời câu hỏi về vai trò của Ban Tuyên giáo đối với bài viết trên của tờ Thanh Niên, nhà báo Võ Văn Tạo nói :

Về vấn đề báo chí, nhà nước Việt Nam trong chừng mực nào đó cũng có những nới lỏng nhất định. Nhưng lỏng ở chỗ này thì chật ở chỗ khác, nhưng không phải lỏng hoàn toàn đâu. Tôi cho rằng đây chủ yếu là do quan điểm, cách thức làm việc của tờ Thanh Niên.

Bộ Thông tin và truyền thông Việt Nam tháng 7/2017 công bố cho biết có khoảng 1000 cơ quan báo, tạp chí được cấp phép hoạt động tại Việt Nam với hơn 17 ngàn nhà báo được cấp thẻ hành nghề.

Quyền Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng mới đây vào hôm 11/10/2018 tại Hội nghị Giao ban Quản lý Nhà nước yêu cầu Cục Báo chí cần nắm chắc cơ sở dữ liệu cụ thể về số lượng phóng viên, cộng tác viên để "đo lường tin tốt, tin xấu". Báo trong nước trích lời ông Hùng cho rằng "nếu tỷ lệ thông tin tiêu cực dưới 10% tổng số tin thì không cần bận tâm, 20% thì cảnh báo, 30% thì phải bắt đầu hành động".

Vì sao ?

Mối quan hệ Việt – Trung, trong đó vấn đề chủ quyền Biển Đông từ trước đến nay vốn là một trong những đề tài nhạy cảm đối với chính phủ Hà Nội.

haichien3

Một cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa ngày 19/01/1974 được tổ chức tại Hà Nội vào năm 2017. AFP

Tình trạng người dân xuống đường biểu tình phản đối Trung Quốc vì tranh chấp các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa diễn ra từ nhiều năm trước thường xuyên bị đàn áp và bỏ tù. Năm 2007, cô Phạm Thanh Nghiên bị bắt và tuyên 4 năm tù vì ngồi tọa kháng tại nhà với biểu ngữ "Trường Sa, Hoàng Sa, Việt Nam". Năm 2014, hàng nghìn công nhân ở Bình Dương xuống đường phản đối Trung Quốc đặt giàn khoan trái phép HD 981 trên cùng biển Việt Nam đã trở thành bạo loạn khiến 28 người bị khởi tố và 6 người bị án tù.

Việt Nam và Trung Quốc hiện nay vẫn đang có tranh chấp ở khu vực Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông. Quần đảo Hoàng Sa do Việt Nam Cộng Hòa cai quản đã bị Trung Quốc bắt đầu cưỡng chiếm từ những năm 1950 và chiếm toàn bộ vào ngày 19/01/1974. Hải quân Trung Quốc vào ngày 14/03/1988 cũng đã tấn công đảo Gạc Ma của Việt Nam ở Trường Sa giết chết 64 thủy thủ và chiếm đóng từ đó đến nay.

Tuy nhiên, các trận hải chiến nói trên giữa hai phía chỉ đến trong các năm gần đây mới được truyền thông trong nước chính thức mổ sẻ.

Nhà báo Võ Văn Tạo phân tích nguyên nhân :

Quan hệ Hà Nội – Bắc Kinh phụ thuộc vào hành xử của hai bên, nhất là sau khi sự kiện dàn khoan HD 981 vào tháng 5/2014 đã đẩy mâu thuẫn của hai nước lên mức mới. Ban lãnh đạo Ba Đình ở Hà Nội cũng nhìn nhận ông bạn láng giềng với bộ mặt hung hăng, dữ tợn hơn so với trước đây.

Sau Hội Nghị Thành Đô giữa Việt Nam và Trung Quốc ký kết vào tháng 9/1990, hai nước đã bình thường hóa quan hệ trên cùng cơ sở nền tảng chính trị xã hội chủ nghĩa. Giới quan sát chính trị Việt Nam cho rằng kể từ đó, quan chức Hà Nội có đôi lúc phải nhún nhường trước các hành động lấn lướt của Trung Quốc.

Tuy nhiên, nhà báo Võ Văn Tạo cho rằng năm 2014 đánh dấu sự tỉnh ngộ của các lãnh đạo cao cấp của đảng và nhà nước Việt Nam :

Ở cương vị đó, những lãnh đạo cán bộ cao cấp của Việt Nam mà không lên tiếng có thái độ dứt khoát với Trung Quốc thì chính họ cũng đánh mất tính chính danh đối với các cán bộ đảng viên trong bộ máy của họ, cũng như đối với quần chúng nhân dân. Điều đó có thể cũng là nguyên nhân khiến chế độ của họ không tồn tại được lâu dài.

Vai trò của Việt Nam Cộng Hòa

Thực tế cho thấy các bài viết về sự kiện Hoàng Sa 1974 của báo chí trong nước hiện nay vẫn chưa đề cập đến vai trò của chính phủ và các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, như lời của nhà báo Võ Văn Tạo :

Nếu tìm hiểu kỹ về trận đánh chớp nhoáng ngày 19/01/1974 thì thấy rằng ý chí của Việt Nam Cộng Hòa cũng đẩy lên rất cao để bảo vệ lãnh thổ ; nhưng vì tương quan lực lượng quá chênh lệch cho nên việc giữ được Hoàng Sa là bất khả thi, thất bại. Cuối cùng dẫn đến mất cả quần đảo Hoàng Sa về tay Trung Quốc là rất đáng tiếc. Lẽ ra cũng phải nói đúng vai trò của quân lực Việt Nam Cộng Hòa, cũng như chính phủ Việt Nam Cộng Hòa trong nỗ lực giữ gìn giang sơn của cha ông để lại. Tôi cho rằng hệ thống tuyên truyền của nhà nước Việt Nam hiện nay làm chưa tốt vấn đề này.

Đồng quan điểm với nhà báo Võ Văn Tạo, Tiến sĩ Trần Công Trục chia sẻ quan điểm :

Tôi nghĩ tất cả những động thái đấu tranh trên phương diện ngoại giao, đấu tranh trên phương diện quân sự, và những người lính Việt Nam Cộng Hòa ra đó để chiến đấu bảo vệ đất nước dù tương quan lực lượng và những khó khăn như chúng ta đã biết đều có ý nghĩa về mặt pháp lý. Và giá trị về mặt pháp lý nghĩa là họ đã đại diện cho nhà nước Việt Nam trong việc quản lý chủ quyền thiêng liêng của nước Việt Nam nói chung đối với mảnh đất Trường Sa và Hoàng Sa.

Nói với RFA, nhà báo Võ Văn Tạo bày tỏ sự nuối tiếc và cho rằng tính "kiêu ngạo cộng sản" đến tận giờ vẫn còn ẩn vào trong đầu của nhiều người trong hệ thống tuyên truyền Việt Nam.

********************

Báo chí Việt Nam đưa tin kỷ niệm 45 năm mất Hoàng Sa nhưng tránh nhắc đến Việt Nam Cộng Hòa (RFA, 18/01/2019)

Báo chí nhà nước trong 2 ngày 17 và 18/01/2019 rầm rộ đưa tin kỷ niệm 45 năm ngày Trung Quốc dùng vũ lực cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa nhưng tránh nhắc đến chế độ Việt Nam Cộng Hòa.

haichien4

Hình minh họa. Những người biểu tình phản đối Trung Quốc ở Hà Nội hôm 14/3/2016 nhân kỷ niệm trận chiến 1988 ở Trường Sa - AFP

Các tờ báo lớn hiện nay của Việt Nam như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Sài gòn Giải phóng, Giáo dục… đều có bài liên quan đến chủ đề này nhưng không dòng nào nhắc về Việt Nam Cộng Hòa, chế độ trực tiếp quản lý quần đảo Hoàng Sa.

Chỉ duy nhất tờ báo Infonet, chuyên trang của tờ Vietnamnet là gọi đúng và đủ cuộc giao tranh vào ngày 19/01/1974 giữa Hải quân Việt Nam Cộng Hòa và Trung Quốc khiến ít nhất 74 lính Việt Nam Cộng Hòa tử trận.

Trên báo Thanh Niên có bài viết "45 năm Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa của Việt Nam : Mưu đồ độc chiếm Biển Đông".

Tờ báo là Diễn đàn của Hội liên hiệp Thanh niên Việt Nam nêu rõ, từ sau khi Trung Quốc cưỡng chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa năm 1974, nước này liên tục ngang ngược tiến hành hàng loạt các biện pháp nhằm củng cố hiện diện dân sự lẫn quân sự phi pháp tại Hoàng Sa, nhất là trong những năm gần đây, bất chấp sự phản đối quyết liệt của Việt Nam và làn sóng lên án từ cộng đồng quốc tế.

Mạng báo Tuổi trẻ Online thì có bài viết với tiêu đề "Người Việt Nam vẫn luôn khắc cốt ghi tâm về ngày 19-1" mô tả lại cuộc viếng thăm của Chủ tịch UBND huyện Hoàng Sa, Đà Nẵng đến với gia đình các nhân chứng từng sinh sống, làm việc tại quần đảo Hoàng Sa.

Bài báo nêu tên các nhân chứng như : Trần Văn Sơn, Nguyễn Văn Cúc và Nguyễn Văn Dữ và Lê Điều (đã mất) từng sinh sống và làm việc tại Hoàng Sa, nhưng không nói rõ thời gian nào và làm công việc gì.

Báo Sài Gòn Giải Phóng thì nêu rõ sự việc hơn, như nói ông Trần Văn Sơn từng công tác ở Hoàng Sa vào năm 1973 với nhiệm vụ canh giữ, bảo vệ biển đảo ; hay ông Nguyễn Văn Dữ là người từng tham gia lính địa phương quân thuộc Tiểu khu Quảng Nam và ngày 27/01/1973, ông xuống chiến hạm Trần Khánh Dư rời Đà Nẵng ra Hoàng Sa làm nhiệm vụ canh giữ, bảo vệ biển đảo.

Tờ báo trực thuộc Đảng bộ đảng Cộng sản Việt Nam TPHCM này còn cho biết thêm là ông Nguyễn Văn Cúc (sinh năm 1952, hiện nay ở An Hải Bắc, quận Sơn Trà), một trong những người bị Trung Quốc bắt giữ sau khi dùng vũ lực cưỡng chiếm Hoàng Sa vào ngày 19/01/1974.

Ngày 9/01/2019 vừa qua, Bộ Ngoại giao Việt Nam lên tiếng về vụ khu trục hạm của Mỹ - USS McCampbell thực hiện hoạt động tuần tra "tự do hàng hải" áp sát các đảo ở Hoàng Sa đầu năm mới 2019 thách thức yêu sách chủ quyền của Trung Quốc.

Bà Lê Thị Thu Hằng, Phát ngôn nhân của Bộ Ngoại giao lặp lại tuyên bố : "Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế".

Trước đó, ngày 3/1, Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lục Khảng khẳng định, việc tàu công vụ của nước này đâm các tàu cá của Việt Nam là "hành động chấp pháp bình thường" nhưng Việt Nam đến nay chưa có phản ứng gì.

Quần đảo Hoàng sa vốn do chế độ Việt Nam Cộng Hòa quản lý bị Trung Quốc cưỡng chiếm và chiếm đóng phi pháp từ ngày 19/01/1974.

Năm 2012, Trung Quốc ngang nhiên thành lập thành phố Tam Sa, tỉnh Hải Nam để quản lý hai quần đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi Tây Sa) và Trường Sa (Trung Quốc gọi Nam Sa) cùng với bãi cạn Scarborough (Trung Sa - Trung Quốc gọi).

Published in Việt Nam

hoangsa1

Hiện Trung Quốc đang nắm giữ toàn bộ quần đảo Hoàng Sa

Ngày 19/1/1974 Trung Quốc tấn công quân đội Việt Nam Cộng Hòa đồn trú tại quần đảo Hoàng Sa và chiếm trọn quần đảo này từ ngày đó đến nay.

Hành động tấn công này là đỉnh điểm của nhiều bước đi và toan tính từ trước, cũng như mang lại những hệ quả về sau.

Có một số điều có thể điểm lại để tham khảo ngày hôm nay :

Thứ nhất, điểm đặc biệt của hành động này là tính dễ nhận thấy, rất lộ liễu so với các hành động thù địch của Bắc Kinh đối với Việt Nam nói chung và Bắc Việt nói riêng trước đây.

Những hành động thôn tính hay gây ảnh hưởng thực chất đã diễn ra từ trước 1949 kéo dài đến Hiệp định Geneva 1954, Cải cách Ruộng đất 1956, song tất cả đều không phải dễ nhận thấy với mọi người - ít nhất trong điều kiện thông tin thời trước.

Riêng việc xâm chiếm Hoàng Sa đã là một điển hình xâm lăng rõ ràng và không thể chối cãi.

Sự kiện Hoàng Sa thực sự đã phơi bày hành vi xâm lăng ở mức hiển nhiên và nghiêm trọng.

Đây cũng là một điều đáng quan tâm đối với giới khoa học và quân sự của Việt Nam.

Thứ hai, hành động chiếm đóng Hoàng Sa đã mang một nhận thức mới đến người Việt Nam ở các quan điểm chính trị khác biệt rằng không có tình đồng chí ý thức hệ, không có tình chiến hữu thế giới tự do, chỉ có sự ưu tiên vì lợi ích dân tộc vượt lên trên và lắng đọng tại cột mốc lịch sử này.

hoangsa2

Nhiều làn sóng biểu tình đã nổ ra tại Việt Nam để phản đối các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông

Từ đó, những nhà hoạch định chính sách có đánh giá mới về Trung Quốc, Hoa Kỳ và tương quan lực lượng của Việt Nam giai đoạn hậu Thông cáo Thượng Hải 1972, khi Henry Kissinger và Richard Nixon cùng Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai nâng cốc thỏa thuận trên đầu hai nước Việt Nam.

Ưu tiên cho lợi ích dân tộc từ sự kiện Hoàng Sa 1974 cũng chính là khuynh hướng mới trong vận hành những cỗ máy chính trị dù dưới màu áo nào đi nữa.

Lợi ích dân tộc một mặt sẽ quyết định tính chính danh của nhà cầm quyền và mặt khác là ngọn lửa dễ bùng dậy dẫn đến chủ nghĩa dân tộc cực đoan.

Thứ ba, xâm chiếm Hoàng Sa, Trung Quốc có một tiền đồn có vị trí địa lý quan trọng có thể tận dụng dòng chảy-khí hậu biển Đông : dòng hải lưu Luzon-Đài Loan mang cá, tôm, ấu trùng cá con, san hô vào đến khu vực Hoàng Sa. Một phần tụ bám lại đây, phần còn lại trôi về Nam Trung Bộ Việt Nam tạo nên sự đa dạng sinh học biển, ngư trường và cảnh quan.

Vị thế tàu bè Bắc Nam của Việt Nam khi đi qua khu vực này hầu như sẽ dễ bị kiểm soát.

Thứ tư, bài học thất thủ Hoàng Sa đã được tiếp nhận nhiều chiều và nhưng không hẳn là thấu suốt. Bài học này gợi ý cho Bắc Việt tiếp quản Trường Sa thật nhanh ngày 4/4/1975 song nước Việt Nam thống nhất vẫn sảy chân tại Gạc Ma 18/3/1988, mất cảnh giác tại Bauxite Tây Nguyên, rừng đầu nguồn, bãi biển Đà Nẵng và những vị trí địa chiến lược khác, vốn không dễ thấy và dễ biết như việc Hoàng Sa thất thủ.

Trung Quốc luôn tấn công Việt Nam với yếu tố bất ngờ vào các thời điểm lễ Tết 19/1/1974, 17/2/1979 và 18/3/1988 và khi nội bộ Việt Nam suy yếu, mất cảnh giác nhất.

hoangsa3

Quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc gọi là Tây Sa

Việc xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa cho Trung Quốc một lợi thế chiến lược quan trọng nhưng đồng thời cũng làm lộ rõ ý đồ của Bắc Kinh và cảnh tỉnh thế giới.

Nó là mắt xích quan trọng trong chiến lược của Trung Quốc : xác lập đường chữ U và các hành động bành trướng tại Trường Sa sau này.

Vấn đề Hoàng Sa và Biển Đông cho thấy mưu đồ tranh thủ thời gian, truyền thông, tiến hành cuộc chiến tiêu hao sinh lực và tinh thần của nước khác mà Trung Quốc đang tiến hành.

Cũng vì hành động đó, Trung Quốc sẽ phải giải quyết câu chuyện Hoàng Sa với người Việt Nam sau này và mãi mãi.

Lê Vĩnh Trương, Quỹ Nghiên cứu Biển Đông

Nguồn : BBC tiếng Việt, 18/01/2017

***********************

Tưởng niệm tử sĩ Hoàng Sa (RFA tiếng Việt, 18/01/2018)

hoangsa4

Người dân tưởng niệm những chiến sĩ hải quân bỏ mình trong trận hải chiến Hoàng Sa 19/1/1974 với hải quân Trung Quốc. Ảnh chụp hôm 19/1/2014 tại Hà Nội. AFP photo

Cách đây đúng 43 năm, ngày 19/01/1974, quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam bị rơi vào tay Trung Quốc sau khi lực lượng Hải quân Việt Nam Cộng Hòa thất thủ trước đợt tấn công từ phía hải quân Trung Quốc.

Suốt một thời gian dài, trận hải chiến lịch sử đó không được nhà cầm quyền Hà Nội đề cập đến một cách chính thống. Trong mấy năm gần đây, một số nhân sĩ, trí thức và giới hoạt động trong nước công khai tưởng niệm tri ân 75 chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa phải bỏ mình trong cuộc chiến giữ biển đảo của tổ quốc đó. Tuy nhiên hoạt động vinh danh những người lính anh dũng hy sinh vì lãnh thổ quốc gia như thế không những không được ủng hộ mà còn bị cản phá mạnh mẽ.

Ngày 14 tháng 1, nghệ sỹ Kim Chi công khai trên mạng xã hội Facebook thư ngỏ kêu gọi cả nước tham gia những hoạt động nhằm tưởng nhớ đến những anh hùng tử sĩ đã hi sinh mạng sống để bảo vệ đất nước qua ít nhất ba cuộc chiến gần nhất là hải chiến Hoàng Sa, cuộc chiến biên giới phía bắc và trận Gạc Ma.

Tại khu vực miền nam, sau đó không lâu cũng có thông báo thắp hương cho các tử sĩ hy sinh tại Hoàng Sa năm 1974.

Nghệ sĩ Kim Chi trình bày lý do công khai thư ngỏ :

"Chúng ta không biết ơn những người ngã xuống thì còn biết ơn ai ? và khi chúng ta tôn vinh những người đó có nghĩa là nhắc nhớ con cháu, những người nối tiếp phải tiếp tục sự nghiệp đó, nên tôi nghĩ đã là người Việt Nam uống nước phải nhớ nguồn do đó xuất phát từ tinh thần chúng tôi làm thư ngỏ kêu gọi tinh thần đó".

Cựu chiến binh Phan Trọng Khang cũng có ý kiến về việc cần phải có cuộc tưởng niệm như thế.

"Dù ai chăng nữa, đảng phái nào chăng nữa đã là người Việt Nam thì phải biết trân trọng những tính mạng xương máu của đồng bào mình đã hy sinh vì sự trọn vẹn của tổ quốc chúng ta".

Tuy nhiên, các hoạt động nhằm tưởng nhớ công ơn của những người lính đã hi sinh để bảo vệ Hoàng Sa cũng như nằm xuống trong những trận chiến bảo vệ tổ quốc khác thường bị phía nhà cầm quyền cản trở.

Nữ nghệ sĩ Kim Chi kể lại thực tế xảy ra đối với buổi lễ tưởng niệm, vào năm ngoái ở Hà Nội.

"Tôi, chính tôi từng đi những cuộc như thế ở Hà Nội và từng bị các dư luận viên đánh phá xấc xược nhảy vào nói láo nói bậy, rồi giằng những khẩu hiệu băng rôn của chúng tôi".

Chính quyền lo sợ gì ?

Nhận định về lý do vì sao cơ quan chức năng lúc đầu cử những nhóm được mệnh danh là ‘dư luận viên’ đến phá ; và gần đây chính công an sắc phục ra mặt ngăn chặn các nhóm tổ chức lễ tưởng niệm chiến sĩ hy sinh vì tổ quốc trong ba cuộc chiến Hoàng Sa, biên giới phía bắc và Gạc Ma ; anh Nguyễn Chí Tuyến nói :

"Sau khi Hội nghị Thành Đô 1990 thì phía nhà cầm quyền không muốn nhắc đến những cuộc chiến tranh chống lại sự xâm lược cũng như bành trướng của nhà cầm quyền Trung Quốc, nên nhà cầm quyền Việt Nam hiện tại đều có những động thái là không muốn cho người dân làm những việc như vậy, mặc dù những việc đó theo quan điểm cá nhân tôi cũng như nhiều người dân là việc chính đáng".

Nhà hoạt động Lã Việt Dũng cũng có nhận định :

"Tôi cho rằng họ rất sợ các nhà hoạt động dân sự mà họ không kiểm soát được nên họ ngăn chặn họ tìm cách dẹp ngay từ đầu bởi vì những hoạt động xã hội dân sự đó một sẽ xảy ra biểu tình, hai gắn kết mọi người và những người khi lên tiếng phản đối họ nhiều quá thì họ khó cai trị đất nước".

Tương tự là ý kiến của cựu chiến binh Phan Trọng Khang :

"Họ muốn ngăn chặn này là tạo ra ranh giới giữa những người Việt Nam ở chính quyền khi xưa và những người Việt Nam hiện nay đang ở trong nước, hay nói khác đi là không trân trọng sự hy sinh của đồng bào chiến sĩ của Việt Nam mình dù bất kể ở chiến tuyến nào mà người ta lo cho đất nước Việt Nam thì đây là điều không chính đáng".

Trước biện pháp ngăn chặn của chính quyền Hà Nội và cơ quan chức năng đối với những nhân sĩ, trí thức và giới hoạt động xã hội trong những hoạt động vinh danh anh hùng- liệt sĩ bỏ mình để bảo vệ tổ quốc, nữ nghệ sĩ Kim Chi đưa ra cảnh báo về nguy cơ đang hiện rõ :

"Trong suy nghĩ của tôi, một chế độ mà sử dụng những con người không có tấm lòng không có trình độ thì tôi rất mừng vì sự tồn tại đó không được lâu nữa đâu, khi xử dụng những con người như thế để bảo vệ một chế độ".

Vào ngày 17 tháng 1, chỉ hai hôm trước ngày kỷ niệm trận hải chiến Hoàng Sa ; một số nhà hoạt động tại Sài Gòn đến Nghĩa Trang Bình An ở Bình Dương làm lễ tưởng niệm những anh hùng bỏ mình cho đất nước, họ bị lực lượng công an đến gây khó như thường gặp bấy lâu nay.

Thông tín viên Việt Nam

Published in Diễn đàn
vendredi, 30 décembre 2016 10:39

Trận Hải Chiến Hoàng Sa 1974

Lời nói đầu : Trận hải chiến Hoàng Sa diễn ra vào năm 1974, tuy nhỏ nhưng nó đóng một vai trò lịch sử quan trọng. Nó mở đầu cho sự bành trướng ra biển của Trung Quốc mà đến nay người ta mới bắt đầu thấy rõ. Cho đến nay người ta cũng còn chưa biết đến nhiều về những chi tiết của cuộc hải chiến này, nhưng những tài liệu vừa đươc giải mật gần đây của phía Trung Quốc cho thấy một chiến dịch phức tạp nhiều hơn là người ta nghĩ. Nó cho thấy Trung Quốc dùng một hỗn hợp các lực lương chính quy và bán chính quy để đạt đến những mục tiêu chiến tranh mà họ muốn. Và đó chính là chiến thuật mà Trung Quốc còn áp dụng lúc gần đây tại Viễn Đông chống lại các nước láng giềng kể cả Việt Nam, Philippines và Indonesia.

Nó cũng cho thấy hải quân Việt Nam Cộng Hòa đáng lẽ phải thắng trong cuộc đụng độ này, nhưng tiếc thay có lẽ sự khinh địch và thiếu kinh nghiệm hải chiến đã làm cho ta bị thua một trận đánh không đáng thua. Tuy nhiên vì thiếu những tài liệu về phía Việt Nam Cộng Hòa, bài này phải dùng các tài liệu của Trung Quốc - mà sự chủ quan cũng như khuyếch đại thành tích của mình và bôi nhọ đối thủ là một điều hầu như mọi nhà nghiên cứu đều đã biết - cùng với một số nhỏ hồi ký của các sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa có tham gia vào cuộc chiến này thành ra có thể có nhiều thiên lệch.

Lê Mạnh Hùng

 

***********************

hoangsa1

Bản đồ Hải chiến Hoàng Sa 1974. Các chiến hạm Việt Nam Cộng Hòa (ảnh nhỏ, góc trên)

Trận chiến Hoàng Sa là bước đầu tiên trong một cố gắng kéo dài nhiều thập niên của Trung Quốc trong việc thiết lập và mở rộng sự kiểm soát của mình trên Biển Đông. Năm 1988, Trung Quốc đã chiếm thêm sáu bãi cạn và đảo san hô tại quần đảo Trường Sa sau một đợt đụng độ mới với Việt Nam tại Đá Gạc Ma (Johnson South Reef). Cuối năm 1994, Trung Quốc bắt đầu xây dựng các công trình trên Đá Vành Khăn (Mischief Reef). Kể từ đó đến nay Trung Quốc đã xây dựng những công trình khổng lồ trên nhiều đảo mình chiếm với các phi đạo dài và kiên cố đủ để dùng cho các máy bay quân sự, bến cảng nước sâu khiến tầu chiến lớn có thể cập bến, cơ sở cho quân trú phòng và những cơ sở yểm trợ khác. Tổng số công trình xây dựng lên đến hàng ngàn mẫu tây.

Tất cả những điều đó bắt đầu từ trận hải chiến Hoàng Sa cho Trung Quốc đủ tự tin để tiến ra biển khơi. Như các tài liệu Trung Quốc nhấn mạnh, trận hải chiến Hoàng Sa là trận hải chiến đầu tiên mà hải quân Trung Quốc thực hiện chống lại một kẻ địch bên ngoài. Và nó cũng là lần đầu tiên mà hải quân Trung Quốc hiện đại hoạt động xa bờ đến như vậy. Thành ra đối với Trung Quốc nó đã được huyền thoại hóa như là điều phục hồi vinh quang của hải quân Trung Quốc (lần chót mà hải quân Trung Quốc đụng độ với một đối thủ bên ngoài là trận hải chiến năm 1895 tại Bột Hải ngoài khơi bán đảo Triều Tiên, hạm đội Trung Quốc đã bị thua thê thảm, hầu như toàn bộ bị Nhật đánh chìm).

Bối cảnh địa chính trị

Quần đảo Hoàng Sa (Anh ngữ : Paracel ; Hoa ngữ : Tây Sa 西沙) nằm hầu như chính giữa Việt Nam và Trung Quốc, cách Du Lâm (Hải Nam) 300 km về phía nam và cách Đà Nẵng 370 km về phía đông. Quần đảo này bao gồm nhiều đảo san hô, cồn cát và bãi cạn và đưa chia thành hai nhóm đảo. Về phía đông bắc là nhóm An Vĩnh (Amphitrite ; Tuyên Đức 宣德) trong đó đảo Phú Lâm (Woody ; Vĩnh Hưng永兴) là đảo lớn nhất. Về phía tây nam là nhóm Lưỡi Liềm (Crescent ; Vĩnh Lạc永乐bao gồm ba đảo lớn Hoàng Sa (Pattle ; San Hô 珊瑚),Quang Ánh (Money ; Kim Ngân金银), Hưu Nhật (Robert ; Cam Tuyền甘泉) ở phía tây và đảo Duy Mộng (Drummond ; Tấn Khanh晋卿về phía đông. Khoảng 80 km đường biển ngăn cách hai nhóm đảo An Vĩnh và Lưỡi Liềm.

Hoàng Sa có một tầm quan trọng chiến lược tại Biển Đông. Tuyến đường hàng hải nối liền đông bắc Á với châu Âu và vùng Trung Đông đều phải đi qua gần quần đảo này. Đối với Trung Quốc nó lại càng quan trọng. 

Bộ quân sử chính thức của hải quân Trung Quốc viết :

"Tây Sa (Hoàng Sa) là bình phong bảo vệ tự nhiên cho Trung Quốc và là tiền đồn. Các đường hàng không và hàng hải đi từ Trung Quốc đến Singapore và Jakarta đều phải đi qua vùng này".

Với vị trí cách quần đảo Pratas 660 km về phía tây nam, cách bãi đá Scarborough 550 km về phía tây và quần đảo Trường Sa 700 km về phía tây bắc Hoàng Sa được các nhà chiến lược Trung Quốc coi như là hòn đá đầu tiên không thể thiếu được của tiến trình xâm chiếm các đảo khác tại Biển Đông.

Trước chiến tranh thứ hai, các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bị Nhật chiếm vào năm 1938. Sau thế chiến thứ hai, hai quần đảo này trở thành mục tiêu tranh chấp giữa các nước chung quanh, quan trọng nhất là giữa Việt Nam và Trung Hoa. Năm 1947, chính quyền Quốc Dân Đảng tại Hoa Lục chiếm nhóm đảo An Vĩnh ở phía bắc trong lúc Pháp, nhân danh chính quyền Việt Nam tại Đông Dương chiếm đảo Hoàng Sa và nhóm đảo Lưỡi Liềm tại đầu kia quần đảo. Khi Cộng Quân đánh chiếm đảo Hải Nam, một trong những căn cứ địa cuối cùng của Quốc Dân Đảng tại Hoa Lục khiến việc chiếm giữ nhóm đảo An Vĩnh trở thành không thể được, quân Quốc Dân Đảng rút khỏi quần đảo này. Trung Quốc chiếm dảo Phú Lâm vào năm 1950. Tại hội nghị San Francisco năm 1951 lập lại hòa bình với Nhật Bản, Nhật tuyên bố từ bỏ mọi đòi hỏi về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nhưng để việc giải quyết ai có chủ quyền trên hai quần đảo này trống. Trong hội nghị này, thủ tướng TrầnVăn Hữu, nhân danh chính phủ Quốc Gia Việt Nam, tuyên bố xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo này. Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được chính thức sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam vào năm 1956 dưới thời của Tổng thống Ngô Đình Diệm.

Trong những năm sau đó, Trung Quốc và miền Nam Việt Nam tiếp tục cai trị hai nửa của quần đảo Hoàng Sa. Năm 1955, một công ty quốc doanh Trung Quốc bắt đầu khai thác phân chim tại đảo Phú Lâm. Đầu năm 1959, hải quân Việt Nam bắt giữ và trục xuất một nhóm ngư dân Trung Quốc tại đảo Quang Hòa (Duncan) chính thức xác định chủ quyền của Việt Nam trên nhóm Lưỡi Liềm. Trong suốt thập niên 1960, một tình trạng cân bằng mong manh chế ngự hai nửa của quần đảo này với hai bên xây dựng một số cơ sở trên các đảo này và cho tầu tuần tiễu chung quanh các đảo của mình. Sự hiện diện của hải quân Mỹ có lẽ là một trong những răn đe chính khiến Trung Quốc không dám có âm mưu đánh chiếm các đảo này của Việt Nam.

Tình hình bắt đầu đổi khác sau hội nghị Paris và với triển vọng tìm thấy dầu hỏa tại Biển Đông. Vào giữa năm 1973, Sài Gòn bắt đầu cung cấp giấy phép thăm dò dầu hỏa tại Biển Đông và thực hiện những cuộc thăm dò địa chất tại vùng biển chung quanh nhóm đảo Lưỡi Liềm. Cũng năm đó Bắc Kinh công khai tuyên bố đòi chủ quyền tại những vùng biển chung quanh con đường chín đoạn bọc quanh Biển Đông và trên các tài nguyên nằm dưới đáy biển vùng này. Tháng 12/1973, Bắc Kinh bắt đầu khoan một giếng thăm dò dầu hỏa trên đảo Phú Lâm.

Thế là sự hội tụ giữa kinh tế, chính trị, địa lý và tranh chấp chủ quyền đã lôi kéo Trung Quốc và Việt Nam Cộng Hòa vào một cuộc đối đầu bằng vũ lực.

Tác chiến tiền tịch

Vào mùa hè 1973, một loạt các cuộc khiêu khích và trả đũa đã dẫn hai bên đến con đường đối đầu trực tiếp. Tháng 10, hai tầu đánh cá vũ trang Trung Quốc - số 402 và 407 - xuất hiện tại nhóm đảo Lưỡi Liềm và bắt đầu đánh cá tại đây. Đám dân đánh cá này cũng cắm cờ Trung Quốc trên những đảo mà Việt Nam đã xác lập chủ quyền và lập một căn cứ tiếp tế trên đảo Quang Hòa (Duncan) mà trước đó hơn một thập niên đã bị Việt Nam trục xuất. Tháng 11, tầu Hải quân Việt Nam Công Hòa từ Đà Nẵng được gởi tới Hoàng Sa và bắt đầu ngăn chặn và bắt giữ các ngư dân Trung Quốc. Một số ngư dân Trung Quốc bị đưa về Đà Nẵng và buộc phải thú nhận là đã vi phạm chủ quyền Việt Nam.

Ngày 10 tháng giêng 1974, Trung Quốc cho xây một nhà máy chế biến hải sản trên đảo Hưu Nhật (Robert). Ngày hôm sau Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố khẳng định chủ quyền "bất khả chối cải" của Trung Quốc trên các quần đảo Hoàng Sa (Paracel ; Tây Sa), Trường Sa (Spratly ; Nam Sa) và bãi cạn MacClesfield (Trung Sa).

Bốn ngày sau, Việt Nam Cộng Hòa cử khu trục hạm HQ-16 (Lý Thường Kiệt) đến nhóm đảo Lưỡi Liềm. Khi gặp hai tầu cá Trung Quốc, HQ-16 ra lệnh cho hai tầu này phải dời ngay khu vực và bắn cảnh cáo qua đầu họ, HQ-16 cũng pháo kích đảo Hữu Nhật giật đổ cờ Trung Quốc treo tại đây. Ngày 17 tháng giêng khu trục hạm HQ-04 (Trần Khánh Dư) đến tăng cường thêm cho HQ-16. Biệt hải trên HQ-04 đổ bộ xuống các đảo Hữu Nhật (Robert) và Quang Ánh (Money) phá bỏ các cờ Trung Quốc treo tại đây. Đồng thời, Đề đốc Lâm Ngươn Tánh, tư lệnh phó hải quân Việt Nam Cộng Hòa, bay ra Đà Nẵng để chỉ huy toàn bộ lực lượng tham chiến của Việt Nam tại Hoàng Sa. Hai chiến hạm HQ-05 và HQ-10 cũng được gởi tăng cường ra cho Hoàng Sa với HQ-05 làm soái hạm với Đại tá hải quân Hà Văn Ngạc trên tầu chỉ huy toàn bộ hải đoàn (chỉ huy trưởng HQ-05 là Trung tá Phạm Trọng Quỳnh)

Ngày hôm sau, khi thấy tầu Trung Quốc không chịu đi, HQ-04 và HQ-16 đâm vào tầu cá 407 gây thiệt hại cho tầu này. Về phía Trung Quốc, sau khi nhận được tin từ các tầu cá 402 và 407 rằng hải quân Việt Nam đã đến Hoàng Sa, lập tức có báo cáo về Quảng Châu và Bắc Kinh.

Đêm 17 tháng 1 năm 1974, Chu Ân Lai nhận báo cáo tình hình Hoàng Sa từ Trường Lý Lực, Cục phó Cục tác chiến Bộ Tổng tham mưu Giải phóng quân nhân dân. Sau đó Chu Ân Lai cùng với Diệp Kiếm Anh viết báo cáo gửi Mao Trạch Đông đề nghị phái quân ra quần đảo Hoàng Sa. Mao Trạch Đông phê vào bản báo cáo của Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh : "Đồng ý !", và nói rằng, "trận này không thể không đánh". Mao Trạch Đông giao cho Diệp Kiếm Anh và Đặng Tiểu Bình trực tiếp chỉ huy trận đánh tại quần đảo Hoàng Sa. Đây là trận đánh đầu tiên của Đặng Tiểu Bình khi mới được phục chức sau 7 năm đi "cải tạo".

Trước đó, hạm đội Nam Hải của Trung Quốc ra lệnh cho hai tầu săn ngầm lớp Kronstadt số 271 và 274 đến đảo Phú Lâm. Ngày 16 hai tầu này rời căn cứ hải quân Du Lâm (Hải Nam) với một lực lượng dân quân hàng hải (maritime militia) và tới đảo Phú Lâm vào ngày hôm sau. Hai tàu này sau đó tiến tới nhóm đảo Lưỡi Liềm. Đồng thời từ Quảng Châu, hải quân Trung Quốc cũng gởi hai trục lôi hạm viễn dương (oceangoing minesweeper) số 386 và 389 xuống tăng cường cho hai chiếc 271 và 274. Ngoài ra Bắc Kinh cũng gởi thêm hai chiếc tầu săn mìn lớp Hải Nam 281 và 282 từ Sơn Đầu đến tăng cường cho bốn tầu trên.

Sự kiện Trung Quốc phải phái tầu từ ba nơi đến Hoàng Sa cho thấy cuộc Cách Mạng Văn Hòa đã ảnh hưởng thế nào đến lực lượng hải quân Trung Quốc. Nó cũng thể hiện qua việc các chiến hạm hiện đại nhất của hạm đội Nam Hải Trung Quốc, khu trục hạm lớp-065 đã phải nằm ụ vì những vấn đề kỹ thuật.

Tương quan lực lượng :

Việt Nam

HQ-16 (Lý Thường Kiệt)  HQ-05 (Trần Bỉnh Trọng) khu trục hạm hộ tống lớp Barnegal : tầm choán nước 2.800 tấn, vận tốc tối đa : 18 knots (33,7 km/h), 1 đại bác ở mũi cỡ 127mm, 2 súng cối đa năng 81mm, 10 đại bác 40mm liên thanh, gồm 4 khẩu 2 nòng quanh đài chỉ huy và 2 khẩu hai bên sau. Ngoài ra còn có thêm 6 đại bác 20mm bắn nhanh.

HQ-04 (Trần Khánh Dư) khu trục hạm hộ tống lớp Edsall tầm choán nước 1.590 tấn, vận tốc tối đa 21 knots (39 km/h). Tầu có 3 tháp súng, mỗi tháp súng có 1 đại bác 76,2mm nạp đạn tự động (bắn nhanh 20 phát/phút). Ngoài ra tàu có 2 đại bác 40mm bắn nhanh, 8 súng liên thanh 20mm. HQ-4 được trang bị radar trinh sát (DER - Destroyer Escort Radar) kết nối với 3 khẩu đại bác 76,2 ly nạp đạn tự động và có radar điều khiển (radar control) với khả năng tự dò tìm góc độ và tầm xa để "khóa chặt" (lock on) mục tiêu,

HQ-10 (Nhật Tảo) trục lôi hạm lớp Admirable tầm choán nước 650 tấn, vận tốc tối đa 14 knots (27,4 km/h). Trang bị 1 đại bác 76mm, 4 ổ 40mm, 6 ổ 20mm.

(theo Jane’s Fighting Ships, 1975-76)

Trung Quốc

Tầu săn ngầm (Submarine hunter/chaser) số 271 và 274 lớp Kronstadt ; tầm choán nước 310 tấn ; tốc độ tối đa 20,5 Knots (38 km. giờ). Vũ khí trang bị : 1 đại bác 85 mm đa năng ; 2 cỗ 37 mm ; 6 đại liên "Colt Browning" 12,7 mm.

Tầu vớt mìn viễn dương (Ocean minesweeper) số 389 và 396 Lớp 010 (Thự Quang) ; tầm choán nước 580 tần ; tốc độ tối đa 14 knots (27,4 km/giờ) vũ khí trang bị : 2 đại bác 37mm ; 2 ổ pháo đôi 25mm ; 2 ổ đôi đại liên 14.5 mm.

Tầu săn ngầm số 281 và 282 lớp Hải Nam mức choán nước 500 tần ; vũ khí trang bị : 2 đại bác 76,5mm. Hai tầu này đến Hoàng Sa sau khi trận đánh kết thúc thành ra không tham gia.

Diển biến trận đánh

Sáng ngày 19 tháng Giêng hải đoàn Việt Nam tiến gần đến hải đoàn Trung Quốc từ hai phía. HQ-04 và HQ-05 đi vòng qua đảo Quang Ánh (Money) và bãi ngầm Sơn Dương (Antelope Reef) từ phía nam tiến tới các đảo Quang Hòa Đông và Quang Hòa Tây (Palm và Duncan) trong lúc HQ-10 và HQ-16 đi băng qua vũng san hô trung ương của nhóm đảo Lưỡi Liềm từ phía Tây bắc. Phía Trung Quốc cử hai tầu 271 và 274 theo dõi HQ-04 và HQ-05 trong lúc hai tầu 396 và 398 ngăn chặn HQ-10 và HQ-16.

Sau một thời gian hai bên vờn nhau, không ai khai hỏa trước, nhằm phá vỡ thế tắc nghẽn, HQ-16 lấn vào băng qua giữa hai tầu Trung Quốc và thả hai đội biệt hải xuống hai đảo Quang Hòa Đông và Tây. Nhưng cả tại hai đảo này các toán biệt hải đều bị quân Trung Quốc đóng trên đảo đẩy lui phải rút về tầu. Tại đảo Quang Hòa Tây, một binh sĩ Việt Nam tử trận và ba người khác bị thương. Trong lúc vận hành để đổ bộ quân, HQ-16 húc vào tầu số 389 của Trung Quốc làm tầu này bị thiệt hại.

Cho đến lúc đó, cả hai bên đều chưa bắn môt phát nào vào nhau vì cả hai bên đều đợi bên kia khai hỏa trước theo lệnh trên. Nhưng khi thấy không thể dùng cách nào khác để đuổi được đối thủ ra khỏi vùng biển của mình, các chiến hạm Việt Nam chuyển sang đội hình tác chiến và bắt đầu khai hỏa vào tầu Trung Quốc.

Những loạt đạn đầu khiến cho chính ủy tầu 247 của Trung Quốc tử trận và làm tầu 389 bốc cháy và bắt đầu bị ngập nước. Phía Trung Quốc phản pháo và áp dụng chiến thuật tiến sát lại gần để đánh cận chiến (tiếng Hán贴身战 chiêm thân chíến) chống lại tầu Việt Nam lớn hơn nhưng khó điều khiển hơn và bắn chậm hơn. Mục tiêu của chiến thuật này là tiến gần đủ để cho hải pháo chính của tầu Việt Nam bắn vượt qua mục tiêu làm triệt tiêu ưu thế về tầm bắn và công phá của tầu Việt Nam. Tuy rằng hai tầu Viêt Nam tìm cách rút lui ra xa hơn nhưng các tầu Trung Quốc đã cắt ngắn khoảng cách giữa hai bên từ vài cây số đến chỉ còn vài trăm mét tầm mức mà ngay cả đại liên 12,7 mm cũng có thể tham dự, với các tầu 271 và 274 tập trung tấn công vào HQ-04 và 396 và 389 tấn công vào HQ-16. Pháo của tầu Trung Quốc tập trung và hệ thống chỉ huy liên lạc và radar nhằm làm mù và điếc tầu Việt Nam. Sau một loạt hỗn chiến HQ-04 bắt đầu bị bốc khói. Về phía bắc sau khi 396 và 389 đẩy lui HQ-16 chúng tập trung tấn công vào HQ-10. Trong lúc hổn chiến, hầm đạn của HQ-10 bị trúng một phát trực tiếp và nổ tung. Vào lúc này các tầu hai bên chỉ còn cách nhau có vài chục thước. Với tầm gần như vậy, thuyền trưởng tầu HQ-10 bị trúng đạn đại liên và tử trận.

Sau nhiều cố gắng để giải cứu cho HQ-10 bị chặn lại, cuối cùng HQ-16 phải rút ra vùng biển sâu. Và sau vài đợt trao đổi pháo kích khác, cuối cùng cũng rút ra khơi để lại HQ-10 đối đầu với 4 chiếc tầu Trung Quốc. Tuy nhiên tầu Trung Quốc 389 cũng bị thiệt hại nặng và phải nhờ hai tầu cá 402 và 407 kéo vào bãi cạn trên đảo Quang Hòa Đông để khỏi bị đắm. Vào lúc đó hai tầu tăng viện của Trung Quốc 281 và 282 cũng từ đảo Phú Lâm tới và thay thế các tầu kia của Trung Quốc tấn công vào HQ-10. Sau ba lần bị tấn công, cuối cùng HQ-10 bị đánh chìm vào lúc trưa tại phía nam bãi ngầm Sơn Dương. HQ-16 và HQ-04, HQ-05 lúc đó vẫn còn quanh quẩn tại phía tây nhóm đảo Lưỡi Liềm nhưng không tìm cách tái giao chiến với các tầu Trung Quốc nữa.

Với các chiến hạm của hải quân Việt Nam rút ra khỏi quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc đã mau chóng lợi dụng cơ hội để đánh chiếm các đảo còn lại của Việt Nam đặc biệt là đảo Hoàng Sa vốn có một trung đội binh sĩ Việt Nam trấn giữ. Ngoài ra, e ngại Việt Nam có thể gửi hải quân tăng viện để lấy lại, bộ tư lệnh Trung Quốc ra lệnh động viên một frigate, năm tầu phóng lôi và tám tầu tuần duyên để chuẩn bị chống lại nếu Việt Nam có tìm cách trở lại.

Khi trận chiến kết thúc, kết quả thắng thua đã thấy rõ. Phía Trung Quốc đã đánh đắm một chiến hạm và gây thiệt hại cho ba chiến hạm khác của Việt Nam, đánh chiếm ba đảo có quân của Việt Nam trấn giữ và kiểm soát toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Phía Việt Nam đánh hỏng một tầu Trung Quốc và gây thiệt hại cho ba tầu khác, nhưng để bãi chiến trường lại cho Trung Quốc và mất các đảo của quần đảo Hoàng Sa của mình.

Diển biến sau trận đánh

Ngay sau khi trận hải chiến kết thúc, phía Việt Nam đã chuẩn bị phục thù. Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam gởi hai khu trực hạm ra tăng cường cho Đà Nẵng và ra lệnh cho 6 chiến hạm khác chuẩn bị ra Hoàng Sa. Bộ tư lệnh quân lực Việt Nam cũng ra lệnh cho các đơn vị hải và không quân chuẩn bị cho chiến tranh. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đích thân bay ra Đà Nẵng để coi sóc việc chuẩn bị đồng thời yêu cầu sự trợ giúp của Hạm đội 7 của Mỹ nhưng bị Mỹ từ chối.

Phía Trung Quốc cũng e ngại một cuộc phục thù của Việt Nam và đặt toàn bộ các lực luợng tại đây trong tình trạng báo động. Hải quân Trung Quốc cũng điều động ba khụ trục hạm mang hỏa tiển đạn đạo lớp Thành Đô từ hạm đội Đông Hải xuống tăng cường cho hạm đội Nam Hải. Trang bị loại hỏa tiển tuần du (cruise missile) chống hạm SY-1, các chiến hạm này có một khả năng tác chiến vượt quá khả năng của các tầu của hạm đội Nam Hải cũng như của Việt Nam. Để rút ngắn thời gian, Mao Trạch Đông đích thân ra lệnh cho các tầu này thay vì đi ven biển hãy đi thẳng băng qua eo biển Đài Loan (con đường ngắn nhất đến Hoàng Sa) bất chấp mọi e ngại rằng các lực lượng Quốc Dân Đảng trên đảo Đài Loan và Bành Hồ quần đảo có thể phục kích các tầu này trên đường đi qua eo biển. Tiếng bạc của Mao thành công và ba tầu này đến Hoàng Sa bình yên. Hạm đội Nam Hải cũng động viên bốn tầu ngầm lớp Romeo đi tuần quanh Hoàng Sa và vùng biển giữa Đà Nẵng và Hoàng Sa (theo phía Trung Quốc, mặc dầu Hạm đội Mỹ từ chối không chịu giúp Việt Nam, nhưng tầu ngầm họ cũng phát hiện một tầu ngầm hạch nhân Mỹ loại tấn công theo dõi họ trong tất cả các hoạt động này).

Tuy nhiên mặc dầu tất cả những chuẩn bị, cuối cùng phía Việt Nam Cộng Hòa cũng bỏ việc tìm cách lấy lại Hoàng Sa, một phần là vào lúc đó tình hình trong nước cũng bắt đầu khó khăn hơn với việc gia tăng hoạt động của Cộng Sản trong nước và viện trợ Mỹ ngày một giảm sút.

Lượng định trận đánh

Vì sao Việt Nam Cộng Hòa với một lực lượng chiến thuyền tham chiến hùng mạnh hơn nhiều so với Trung Quốc lại bị thua trong trận hải chiến này ?

Phía Trung Quốc tự hào là chiến thắng này của họ nhờ vào tinh thần chiến đấu dũng cảm và khả năng tác chiến của sĩ quan và thủy thủ của họ, cũng như là chiến thuật cận chiến của Mao Trạch Đông tiến sát lại gần đối thủ để triệt tiêu ưu thế về hỏa lực của địch. Thế nhưng điều này không thể giải thích được thất bại của Việt Nam Cộng Hòa và chiến thuật cận chiến của Mao sau này khi áp dụng trong cuộc chiến Việt Trung năm 1979 đã chứng tỏ thất bại một cách thảm hại.

Về phía Việt Nam Cộng Hóa, Trung tá Lê Văn Thự, chỉ huy chiến hạm HQ-16 bị thiệt hại nặng nhất trong trận này (sau HQ-10) bị đánh chìm đã cực lực chỉ trích những khuyết điểm dẫn đến thất bại của hải quân Việt Nam. Ông viết : "Trong trận hải chiến Hoàng Sa, Hải Quân Việt Nam không có loại tàu thích hợp cho trận chiến. HQ-5, HQ-16, HQ-10 là loại tàu cồng kềnh, vận chuyển chậm, súng quay bằng tay nên theo dõi mục tiêu khó khăn cũng như nhịp bắn chậm. Chỉ có HQ-4 là tối tân, các súng đều điều khiển bằng điện, tốc độ bắn nhanh, radar có tầm xa, vận tốc chiến hạm cao. Nhưng HQ-4 lại gặp trở ngại kỹ thuật nên rút lui ngay từ đầu. Thêm vào đó, hải đội của Việt Nam Cộng Hòa tham chiến trận Hoàng Sa không có kế hoạch hành quân. Chỉ huy HQ-16 chỉ nhận được một lệnh duy nhất từ đại tá Ngạc đổ quân lên đảo Quang Hòa bằng bất cứ giá nào. Ngoài ra ông không biết gì về hoạt động của HQ-4 và HQ-5 cũng như nhiệm vụ của họ. Khi trận chiến diễn ra, ông cũng không biết đại tá Ngạc đã chia Hải đoàn thành hai phân đoàn : phân đoàn I gồm HQ-4 và HQ-5, phân đoàn 2 gồm HQ-10 và HQ-16. Vì không có kế hoạch hành quân nên máy truyền tin bị Trung Quốc phá sóng không liên lạc được mà không có tần số dự trù thay thế nên hạm đội phải dùng máy PRC-25 liên lạc với nhau vì thế việc liên lạc không được liên tục, ổn định".

Trung tá Thự cũng chỉ trích đặc biệt hai tầu HQ-04 và HQ-05 được phân công là chủ lực nhưng lại không tích cực chiến đấu mà chỉ đứng bên ngoài chờ đợi rồi "bắn vào lòng chảo năm bảy phát trước khi rút lui". Thành ra hai tầu HQ-16 và HQ-10 tuy rằng trên nguyên tắc chỉ đóng vai trò yểm trợ lại phải giao chiến với 4 tầu Trung Quốc nên thiệt hại nặng.

Còn Đại tá Hồ văn Ngạc, chỉ huy trưởng hải đội tại Hoàng Sa, thì công nhận rằng trong cuộc hải chiến Hoàng Sa ông đã bị "bị bất ngờ về chiến thuật của địch, có sự sai lầm về ước tính tình báo và nhầm lẫn về chiến thuật điều quân".

Theo giáo sư Toshi Yoshihara của trường Đại học Hải Quân Hoa Kỳ (Naval War College) trong bài nhận định về hải chiến Hoàng Sa thì chiến thắng của Trung Quốc phần lớn nhờ vào những sai lầm của Việt Nam. Theo ông sai lầm lớn nhất là hải quân Việt Nam đã chia lực lượng cùa mình thành hai phân đội trong giai đoạn tiến gần tới trận đánh. Nếu phía Việt Nam tập trung lục lượng và hỏa lực thì có thể lần lượt đánh chìm các tầu Trung Quốc. Ngoài ra việc HQ-16 lấn vào giữa các tầu Trung Quốc là một hành dộng thiếu thận trọng vì nó đánh vào đúng ưu điểm của Trung Quốc trong lúc triệt tiêu ưu thế của Việt Nam về hỏa lực và tầm bắn. Nếu phía Việt Nam đứng từ xa bắn vào thì họ có thể tránh được tình trạng cận chiến vốn làm lợi cho đối thủ của họ rất nhiều. Phía Trung Quốc cũng được lợi nhờ vào thời tiết tốt. Cuộc chiến xảy ra đúng vào mùa gió mùa đông bắc nơi mà những đợt gió có tộc độ trên 40 hải lý có thể đổ vào Viễn Đông bất cứ lúc nào. Nếu một trận bão như vậy xảy ra thì các tầu nhỏ của Trung Quốc khó có thể hoạt động được trong lúc biển động như vậy.

Nói tóm lại nếu gặp phải một đối thủ khác và một thời tiết khác thì kết quả cũng sẽ khác hẳn. Thành ra Trung Quốc có thể đã rút ra một bài học sai lầm cho trận đánh, mà họ coi như là một chiến thắng vẻ vang. Đối diện với một hải quân có khả năng hải chiến thực sự, lực lượng Trung Quốc khó mà chiến thắng.

Lê Mạnh Hùng

Tài liệu tham khảo :

Việt Nam :

Đỗ Kịểm & Julie Kane, Counterpart : A South Vietnamese Naval Officer’s War (Annapolis, Md. : Naval InstitutePress, 1998)

Hà Văn Ngạc, Tường thuật trận hải chiến lịch sử Hoàng Sa, Nguyệt San Đoàn Kết, Austin, Texas

Lê Văn Thự, Sự Thật Về Trận Hải Chiến Hoàng Sa, báo Thời Luận, Los Angeles, 3/2004

Trung Quốc

Vương Chuyên Hữu, Hồ Diên Ba và Quách Hồng Bân : 海防安全论 (Hải phòng an toàn luận)Beijing : Haiyang, 2007, pp. 86-88

Phương Công Lợi, Dương Học Quân và Tương Vỹ : 中国人民解放军海军60 (1949-2009) (Trung Quốc Nhân Dân Giải Phóng Quân 60 Niên (1949-2009), Qingdao, Qingdao 2009

Anh Ngữ

Hayton, W The South China Sea : The Struggle for Power in Asia (New Haven, Conn. : Yale Univ. Press, 2014)

 

Yoshihara. Toshi : The 1974 Paracels Sea Battle : A Campaign Appraisal Naval War College Review, Spring 2016 pp 41-65

Published in Diễn đàn