Trong lúc con số kiều hối 15,9 tỷ USD về Việt Nam năm 2018 do Ngân hàng Thế giới công bố còn đang gây nghi ngờ rất lớn về tính sai sót thống kê và cả tính trung thực lẫn động cơ chính trị của nó, thì một cơ quan của Việt Nam lại phóng vọt kết quả kiều hối năm 2018 lên tới… 18,9 tỷ USD !
Trong thực tế, kiều hối về Việt Nam đã lập đỉnh vào năm 2015 với 13,2 tỷ USD, sau đó lao dốc chỉ còn 9 tỷ USD vào năm 2016
Nhưng không phải những cơ quan chuyên trách hoặc có lên quan phần hành thống kê kiều hối như Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng nhà nước…, mà cơ quan phát ra con số 18,9 tỷ USD trên lại là Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài (1).
Nhưng cũng tương tự như Ngân hàng thế giới khi công bố số kiều hối về Việt Nam trong hai năm 2017 và 2018, Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài chỉ phát ra con số duy nhất về lượng kiều hối về Việt Nam năm 2018 mà không kèm theo bất kỳ một liệt kê chi tiết nào cần có về cơ cấu khu vực và quốc gia trên thế giới gửi kiều hối về Việt Nam, cơ cấu khu vực và ngành nghề ở Việt Nam nhận kiều hối, phương pháp tính kiều hối của Ngân hàng thế giới…
Độ chênh giữa hai con số của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài và Ngân hàng Thế giới lên tới 4 tỷ USD. Trong khi đó, các cơ quan quản lý kinh tế Việt Nam vẫn ‘câm như thóc’.
Nhưng mới đây, một thống kê của Ngân hàng nhà nước chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh đã công bố trong năm 2018, Sài Gòn nhận được 5 tỷ USD kiều hối. Cơ quan này cũng xác định về cơ cấu địa phương tiếp nhận kiều hối năm 2018: Sài Gòn nhận khoảng 50% trong tổng số kiều hối về Việt Nam.
Như vậy nếu căn cứ vào con số 5 tỷ USD của Sài Gòn và tỷ lệ 50% mà Sài Gòn thường chiếm trong tổng lượng kiều hối của cả Việt Nam, con số tổng kiều hối về Việt Nam trong năm 2018 chỉ vào khoảng 10 tỷ USD chứ không thể lên đến 15,9 tỷ USD như Ngân hàng thế giới công bố hay 18,9 tỷ USD như Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài ‘vẽ’.
Nhưng con số 10 tỷ USD trên vẫn có thể là lạc quan, bởi phản ánh chung của báo chí và giới chuyên gia tài chính là trong những năm gần đây, kiều hối đổ về Việt Nam có khuynh hướng ngày càng tập trung về Sài Gòn - nơi có hàng triệu gia đình có thân nhân ở nước ngoài, chủ yếu từ thị trường Hoa Kỳ (chiếm 55-60% tổng kiều hối từ các nước gửi về Việt Nam), trong khi giảm mạnh ở tỉnh thành khác. Nếu tỷ lệ kiều hối về Sài Gòn vượt trên 50 - 60% nhưng vẫn giữ giá trị tuyệt đối là khoảng 5 tỷ USD thì dĩ nhiên con số tổng kiều hối quốc gia sẽ phải giảm dưới mức 10 tỷ USD.
Một chuyên gia kinh tế độc lập (không nêu tên) bình phẩm: dối trá là ‘nghề của chàng’. Một chế độ mà toàn ‘chế’ ra những con số tô hồng và đánh bóng nhưng chẳng có gì xác thực thì cái chân đứng của chế độ coi như là ‘xong’.
Cho tới nay, khả năng rõ ràng hơn cả là để bảo vệ thành tích ‘năm sau cao hơn năm trước’ của chế dộc độc đảng độc trị, các cơ quan quản lý kinh tế của chính phủ đã đùn đẩy nhau để rốt cuộc không cơ quan nào dám chịu trách nhiệm công bố con số kiều hối tổng của hai năm 2017 và 2018 vì sợ khi công bố sẽ bị báo chí và dư luận xã hội truy vấn về nguồn gốc con số và cách thống kê, mà đẩy trách nhiệm công bố cho một cơ quan bị coi là vô tích sự là Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài.
Trong thực tế, kiều hối về Việt Nam đã lập đỉnh vào năm 2015 với 13,2 tỷ USD, sau đó lao dốc chỉ còn 9 tỷ USD vào năm 2016.
Chuyên gia trên cũng cho rằng số kiều hối về Việt Nam trong hai năm 2017 và 2018 đã giảm thê thảm, có thể chỉ khoảng 7-8 tỷ USD.
Minh Quân
Nguồn : VNTB, 30/01/2019
(1) https://nhipcaudautu.vn/thuong-truong/gan-19-ti-usd-kieu-hoi-do-vao-dau-3327429/
************************
Ông Nguyễn Phú Trọng : ‘Kiều hối gửi về nước gần 16 tỷ đôla’ (VOA, 28/01/2019)
Tổng bí thư kiêm Chủ tịch Nguyễn Phú Trọng hôm 26/01 tiết lộ rằng người gốc Việt sinh sống tại các nước trên thế giới gửi về Việt Nam "gần 16 tỷ đôla" năm 2018.
Một nhân viên ngân hàng đếm các đồng đôla Mỹở Hà Nội.
Ông Trọng nói trong một bài phát biểu tại sự kiện có tên "Xuân quê hương 2019" ở Hà Nội rằng con số đó "tăng gấp hơn 100 lần so với năm 1993".
"Đáng chú ý là, đầu tư từ nguồn kiều hối trong những năm gần đây với khoảng 3.000 dự án tập trung vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao mức sống của nhân dân, trước hết là những gia đình được nhận", ông nói, theo Cổng thông tin của chính phủ Việt Nam.
Nguyên thủ Việt Nam còn được VGP News dẫn lời nói rằng "những đóng góp đáng trân trọng và đầy tự hào của bà con kiều bào ta đối với quê hương, đất nước xuất phát từ chính lòng yêu nước nồng nàn của mỗi người con đất Việt, là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam".
Hiện chưa rõ nguồn gốc con số thống kê gần 16 tỷ đôla mà ông Trọng đề cập trong bài phát biểu trước nhiều người gốc Việt về nước dịp Tết Nguyên đán.
Cũng xuất hiện ý kiến cho rằng "có không ít" người Việt gửi tiền về nước qua "dịch vụ chui lủi" nên con số thực có thể còn cao hơn.
******************
Kiều hối về Việt Nam trong năm 2018 đạt gần 19 tỷ đô la (RFA, 26/01/2019)
Trong năm 2018, người Việt ở nước ngoài chuyển về nước số tiền lên đến 18,9 tỷ đô la, theo số liệu thống kê được Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Thành Phong đưa ra trong buổi gặp mặt hơn 800 kiều bào về quê ăn Tết Kỷ Hợi 2019. Báo Tuổi Trẻ online loan tin này hôm 24/01/2019.
Nhân viên một ngân hàng thương mại đếm đô la tại một chi nhánh ngân hàng ở Hà Nội hôm 26/11/2009 - AFP - Ảnh minh họa
Theo người đại diện Thành phố Hồ Chí Minh, trong số gần 19 tỷ đô la kiều hối, có đến hơn 5 tỷ đô la được chuyển về thành phố Hồ Chí Minh.
Ông Nguyễn Thành Phong đánh giá cao sự đóng góp, cống hiến của cộng đồng người Việt ở nước ngoài đối với sự phát triển của thành phố.
Theo Tuổi Trẻ, tại thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua, đã có hơn 400 trí thức, chuyên gia kiều bào về nước làm ăn dài hạn. Số lượng người Việt ở nước ngoài cư trú tại Việt Nam năm sau luôn cao hơn năm trước. Trong năm 2018 có hơn 42.000 lượt kiều bào nhập cảnh qua sân bay Tân Sơn Nhất.
Giới chức thành phố cho biết đã có gần 3.000 công ty của Việt kiều được cấp giấy phép đăng ký kinh doanh với số vốn điều lệ trên 45.000 tỷ đồng,
Ông Nguyễn Thành Phong kêu gọi kiều bào góp sức với đảng và chính quyền thành phố nhiều hơn nữa để hoàn thành mục tiêu kinh tế xã hội năm 2019.
Việt Nam có một số lượng đông đảo người định cư ở nước ngoài, chủ yếu là từ sau cuộc chiến Việt Nam năm 1975 khi hàng triệu người phải bỏ nước ra đi để tìm kiếm cuộc sống tốt hơn.
Năm 2004, Bộ Chính trị Việt Nam ban hành nghị quyết 36 về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài nhằm huy động tiềm lực kinh tế và trí thức từ cộng đồng người Việt ở nước ngoài, mà Việt Nam gọi là khúc ruột ngàn dặm.
Theo số liệu của Tổ chức Di cư Quốc tế (IOM), từ năm 1990 đến 2015, đã có khoảng hơn 2,5 triệu người Việt Nam di cư từ Việt Nam ra nước ngoài. Trung bình mỗi năm có khoảng gần 100 ngàn người Việt di cư ra nước ngoài. Đích đến của người Việt chủ yếu là các nước phát triển ở Châu Âu, Mỹ và Úc.
Ông Nguyễn Phú Trọng : ‘Kiều hối gửi về nước gần 16 tỷ đôla’ (VOA, 28/01/2019)
Tổng bí thư kiêm Chủ tịch Nguyễn Phú Trọng hôm 26/01 tiết lộ rằng người gốc Việt sinh sống tại các nước trên thế giới gửi về Việt Nam "gần 16 tỷ đôla" năm 2018.
Một nhân viên ngân hàng đếm các đồng đôla Mỹ ở Hà Nội.
Ông Trọng nói trong một bài phát biểu tại sự kiện có tên "Xuân quê hương 2019" ở Hà Nội rằng con số đó "tăng gấp hơn 100 lần so với năm 1993".
"Đáng chú ý là, đầu tư từ nguồn kiều hối trong những năm gần đây với khoảng 3.000 dự án tập trung vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao mức sống của nhân dân, trước hết là những gia đình được nhận", ông nói, theo Cổng thông tin của chính phủ Việt Nam.
Nguyên thủ Việt Nam còn được VGP News dẫn lời nói rằng "những đóng góp đáng trân trọng và đầy tự hào của bà con kiều bào ta đối với quê hương, đất nước xuất phát từ chính lòng yêu nước nồng nàn của mỗi người con đất Việt, là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam".
Hiện chưa rõ nguồn gốc con số thống kê gần 16 tỷ đôla mà ông Trọng đề cập trong bài phát biểu trước nhiều người gốc Việt về nước dịp Tết Nguyên đán.
Cũng xuất hiện ý kiến cho rằng "có không ít" người Việt gửi tiền về nước qua "dịch vụ chui lủi" nên con số thực có thể còn cao hơn.
******************
Kiều hối về Việt Nam trong năm 2018 đạt gần 19 tỷ đô la (RFA, 26/01/2019)
Trong năm 2018, người Việt ở nước ngoài chuyển về nước số tiền lên đến 18,9 tỷ đô la, theo số liệu thống kê được Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Thành Phong đưa ra trong buổi gặp mặt hơn 800 kiều bào về quê ăn Tết Kỷ Hợi 2019. Báo Tuổi Trẻ online loan tin này hôm 24/01/2019.
Nhân viên một ngân hàng thương mại đếm đô la tại một chi nhánh ngân hàng ở Hà Nội hôm 26/11/2009 - AFP - Ảnh minh họa
Theo người đại diện Thành phố Hồ Chí Minh, trong số gần 19 tỷ đô la kiều hối, có đến hơn 5 tỷ đô la được chuyển về thành phố Hồ Chí Minh.
Ông Nguyễn Thành Phong đánh giá cao sự đóng góp, cống hiến của cộng đồng người Việt ở nước ngoài đối với sự phát triển của thành phố.
Theo Tuổi Trẻ, tại thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua, đã có hơn 400 trí thức, chuyên gia kiều bào về nước làm ăn dài hạn. Số lượng người Việt ở nước ngoài cư trú tại Việt Nam năm sau luôn cao hơn năm trước. Trong năm 2018 có hơn 42.000 lượt kiều bào nhập cảnh qua sân bay Tân Sơn Nhất.
Giới chức thành phố cho biết đã có gần 3.000 công ty của Việt kiều được cấp giấy phép đăng ký kinh doanh với số vốn điều lệ trên 45.000 tỷ đồng,
Ông Nguyễn Thành Phong kêu gọi kiều bào góp sức với đảng và chính quyền thành phố nhiều hơn nữa để hoàn thành mục tiêu kinh tế xã hội năm 2019.
Việt Nam có một số lượng đông đảo người định cư ở nước ngoài, chủ yếu là từ sau cuộc chiến Việt Nam năm 1975 khi hàng triệu người phải bỏ nước ra đi để tìm kiếm cuộc sống tốt hơn.
Năm 2004, Bộ Chính trị Việt Nam ban hành nghị quyết 36 về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài nhằm huy động tiềm lực kinh tế và trí thức từ cộng đồng người Việt ở nước ngoài, mà Việt Nam gọi là khúc ruột ngàn dặm.
Theo số liệu của Tổ chức Di cư Quốc tế (IOM), từ năm 1990 đến 2015, đã có khoảng hơn 2,5 triệu người Việt Nam di cư từ Việt Nam ra nước ngoài. Trung bình mỗi năm có khoảng gần 100 ngàn người Việt di cư ra nước ngoài. Đích đến của người Việt chủ yếu là các nước phát triển ở Châu Âu, Mỹ và Úc.
************************
Hơn 700 người vẫn xin vào Hội Nhà Văn dù hội trưởng than nghèo (Người Việt, 27/01/2019)
Trong khi ông hội trưởng than nghèo, phải mượn xe để chạy và sợ nhà nước không tiếp tục nuôi cơm, vẫn có 702 ông bà xin vào Hội Nhà Văn trong năm 2018.
Đủ kiểu sách lậu được bày bán trên vỉa hè thành phố Sài Gòn. (Hình : SGGP)
Tờ Tuổi Trẻ hôm cuối tuần trước thuật lại buổi "trao giải thưởng văn học năm 2018 và kết nạp hội viên mới" của Hội Nhà Văn cộng sản Việt Nam kể rằng, "tổng số đơn xin gia nhập Hội Nhà Văn Việt Nam là 702 đơn. Các hội đồng đưa lên 75 người để Ban Chấp Hành Hội Nhà Văn Việt Nam xem xét, kết nạp gồm cả giới thiệu mới, bảo lưu cũ".
Theo bản thông báo ngày 10 tháng Giêng, 2019, hội nói trên đã "chọn được" 35 tác giả để kết nạp mới gồm : thơ 16 người, văn xuôi 15 người, lý luận phê bình 2 người, văn học dịch 2 người". Năm trước đó, trong số 75 người được "xem xét", chỉ có 29 người được cho "xếp hàng" vào danh sách hội viên kể từ nay, theo bản thông báo đề ngày 25 tháng Giêng, 2018 của Hội Nhà Văn cộng sản Việt Nam đăng tải trên tờ Văn Nghệ.
Lời loan báo đầu năm 2019 kết nạp thêm hội viên mới vào lúc hội nói trên cho hay hai năm qua, "không thể tìm được tác phẩm ở cả 2 thể loại văn xuôi và thơ để trao giải thưởng" dù "đa dạng về bút pháp, phong phú về nội dung, nhưng để thuyết phục, giành được đa số phiếu của hội đồng giải thưởng thì chỉ có ba tác phẩm gồm hai tác phẩm văn học dịch và một tác phẩm lý luận phê bình".
Trong cái Hội nghị toàn thể lần thứ X được tổ chức tại Hà Nội, trong các ngày 7, 8 và 10 tháng Giêng, 2019, ông Hữu Thỉnh, hội trưởng muôn năm của Ban chấp hành Hội Nhà Văn cộng sản Việt Nam khoe rằng ông "vui mừng thông báo là nguồn kinh phí hỗ trợ này chưa bị cắt". Tức là nhà nước vẫn "bao cấp" cho cái hội của ông 85 tỷ đồng (khoảng gần 3,7 triệu USD).
Nhà nước cộng sản Việt Nam dành ra khoảng 400 tỷ đồng (khoảng hơn 17 triệu USD) cấp cho mỗi nhiệm kỳ 5 năm hoạt động của Hội Nhà Văn nhưng năm ngoái, ông thủ tướng khi "làm việc" với Hội Nhà Văn đã hối thúc các ông văn nghệ sĩ tìm cách "xã hội hóa" nguồn tài chính hoạt động thay vì vẫn sống bám vào ngân sách nhà nước.
Trước sự đe dọa bị cắt phầm nuôi cơm, ông Trần Khánh Chương, chủ tịch Hội Mỹ Thuật Việt Nam, một thành viên của Liên Hiệp Các Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam, thành thật kêu ca rằng "Nếu nhà nước không cấp kinh phí nữa thì nghệ sĩ sẽ chạy theo thị trường, không còn ai sáng tác đề tài phục vụ chính trị" về số tiền nhỏ nhoi được nhà nước cấp cho hàng năm.
Lâu nay, nó không phải là ngân sách cố định được "rót xuống" mà hàng năm các ông phải làm dự án, kê khai nhu cầu mới được cứu xét và cấp phát. Bởi vậy, nó có thể trồi sụt nhiều ít và cũng có thể bị cắt luôn. Thêm nữa, Bộ Nội Vụ cộng sản Việt Nam lại còn có "đề án cải tiến phương thức hoạt động của các hội văn nghệ", trong đó quy định hội phải "tự quyết, tự chịu trách nhiệm, tự trang trải kinh phí" khiến các ông cầu đầu thấy bất an.
Ông Chương cho hay, Hội Mỹ Thuật Việt Nam "hiện có khoảng 50 biên chế, trong đó 30 người hưởng lương từ ngân sách nhà nước, còn lại phải tự xoay sở". Trong khi "hội viên chỉ phải đóng hội phí 120.000 đồng mỗi năm, nhưng không thu được bao nhiêu vì có nhiều người không nộp. Vậy nên, ông phải tự tìm nguồn kinh phí trang trải tiền phúng viếng, thăm hỏi, tặng hoa… mỗi năm hơn 100 triệu đồng".
Cùng một giọng kêu khó kêu khổ như ông Trần Khánh Chương, ông hội trưởng Hữu Thỉnh kêu "không có biên chế, không trụ sở, không được hỗ trợ. Tình hình gay go vô cùng". Theo ông Thỉnh cho biết Liên Hiệp Hội có 40.000 hội viên, là những "chiến sĩ giữ yên mặt trận văn hoá tinh thần của đất nước". "Nếu nhà nước cắt kinh phí hỗ trợ thì sẽ mất nhiều hơn được. Bởi nghệ sĩ phải tự lo kiếm sống, xin tài trợ khắp nơi thì không thể giữ vững trận địa tư tưởng văn hoá và có tác phẩm đỉnh cao".
Ồng còn kêu rằng ông không được cấp xe hơi mà phải đi mượn một cái xe rách để chạy dù ông được ăn lương "ngang với trưởng ban của đảng".
Cũng giống như tất cả các hội đoàn khác đặt chung trong cái dù "Mặt trận tổ quốc", Hội Nhà Văn cộng sản Việt Nam đều do các đảng viên cốt lõi của đảng, hoạt động theo nhu cầu phục vụ chính trị của đảng. Chỉ có những người cầm đầu các hội và một ít thành viên được ở trong "biên chế" tức được nuôi cơm, không phải tất cả.
Có vẻ không được vào hội, không được nâng đỡ để xuất bản tác phẩm và không có cái danh tại Việt Nam.
Tư Ngộ
Việt Nam : Top 20 nước đàn áp Thiên chúa giáo tệ hại nhất (VOA, 26/01/2019)
Việt Nam trong top 20 nước đàn áp tín đồ Thiên Chúa giáo nặng nề nhất trên tổng số 50 nước được tổ chức OpenDoors theo dõi và đánh giá trong năm 2018.
Giáo dân thắp nến cầu nguyện trong phiên xét xử hai nhà hoạt động Nguyễn Hữu Vinh và Cấn Thị Thêu tại Nhà thời Thái Hà ở Hà Nội, Việt Nam, ngày 18 tháng 9, 2016. Tư liệu
Phúc trình vừa công bố của cơ quan giám sát toàn cầu chuyên bảo vệ các tín đồ Thiên Chúa giáo bị đàn áp trên thế giới nhấn mạnh vào sự đàn áp đối với hai nhóm tín đồ Thiên Chúa giáo : các sắc tộc thiểu số và những người hoạt động chính trị chống chính quyền.
Báo cáo của OpenDoors nói chính quyền Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo từ cấp trung ương đến cấp địa phương ‘theo dõi các hoạt động của người theo Thiên Chúa giáo và gây áp lực lớn lên các tín đồ’.
OpenDoors ghi nhận trong năm 2018 Việt Nam đã bỏ tù một số nhà hoạt động, blogger Công giáo và mục sư Tin Lành. Báo cáo dẫn ra trường hợp của giáo dân Nghệ An Lê Đình Lượng bị kết án 20 năm tù về cáo buộc ‘hoạt động lật đổ chính quyền’ cùng vụ trục xuất luật sư nhân quyền Nguyễn Văn Đài và thành viên ‘Hội Anh em Dân chủ’ Lê Thu Hà sang Đức. Ông Đài và bà Hà đều là tín đồ Thiên Chúa giáo. Hồi tháng 10 năm 2018, một tín đồ Công giáo khác là blogger nổi tiếng Nguyễn Ngọc Như Quỳnh được phóng thích sau hai năm thụ án với điều kiện phải sang Mỹ sống lưu vong.
Vẫn theo OpenDoors, năm qua có một số giáo xứ và tu viện ở Hà Nội, Huế và Thành phố Hồ Chí Minh bị tấn công và ‘bị áp lực của các côn đồ do chính quyền thuê’, phải chấp nhận bị cưỡng chế thu hồi đất.
Một nhóm con chiên Thiên Chúa giáo khác đặc biệt bị ngược đãi ở Việt Nam là các sắc dân thiểu số, theo OpenDoors. Tổ chức này cho biết đa số người cải đạo sang Thiên Chúa giáo là các dân tộc thiểu số ở vùng sâu vùng xa của Việt Nam và ước tính có đến 80% tín đồ Tin Lành ở Việt Nam là người dân tộc thiểu số.
Phúc trình chỉ ra một số hình thức ngược đãi chẳng hạn như học sinh theo đạo bị phân biệt đối xử ở trường và không được quan tâm như các bạn học khác hay không được chăm sóc y tế. Một số em ‘thậm chí còn không được đi học’. Khi sinh viên người dân tộc ở Tây Nguyên cải đạo sang Thiên Chúa giáo (chủ yếu là Tin Lành), các em bị trường đe dọa đuổi học hoặc bị các thầy cô giáo thuyết phục bỏ đạo.
Sự ngược đãi không chỉ xuất phát từ chính quyền mà còn xảy ra ở chính những người thân, gia đình, cộng đồng, làng xã của người cải đạo, theo báo cáo.
OpenDoors nói khi phát hiện có người mới theo đạo Thiên Chúa ở những nơi mà phong tục tập quán của tổ tiên họ vẫn còn mạnh, để bảo vệ văn hóa của buôn làng, các trưởng tộc sẽ khai trừ người đó ra khỏi làng và xem họ là ‘những kẻ phản bội văn hóa và bản sắc của cha ông’. Ngoài ra, các lãnh đạo buôn làng còn hợp tác với chính quyền để ngược đãi những người cải đạo còn dân làng thì ngăn cản các buổi cầu nguyện của con chiên trong làng.
OpenDoors cho biết những người cải đạo còn bị người thân trong gia đình cắt đứt mọi quan hệ và không cho thừa hưởng gia sản. Trong một số trường hợp, họ còn buộc ly hôn với người vợ hoặc chồng theo Thiên Chúa giáo và không cho họ quyền nuôi con.
Trung Quốc ‘đỡ hơn’
Tổ chức OpenDoor cho biết cứ ba tín đồ Thiên Chúa giáo ở Châu Á thì có một người bị ngược đãi. Trên toàn cầu, tổ chức này ước tính, có 245 triệu tín đồ Thiên Chúa giáo bị ngược đãi, tăng so với 215 triệu người một năm trước đó.
Trên bảng xếp hạng, so với Trung Quốc, Việt Nam hà khắc hơn đối với các tín đồ Thiên Chúa giáo. Quốc gia đông dân nhất thế giới đã đi từ hạng 43 lên hạng 27, tức là đàn áp ngày càng mạnh tay.
Ở Trung Quốc, tình trạng phân biệt đối xử với tín đồ Thiên Chúa giáo, kể cả Công giáo và Tin Lành, là tệ nhất trong vòng một thập niên, theo OpenDoors, với ít nhất 50 triệu người bị các hình thức đàn áp nào đó trong lúc chính quyền Bắc Kinh thắt chặt kiểm sóa t tôn giáo.
Ông Henrietta Blyth, trưởng điều hành của Open Doors Anh và Ireland, dẫn lời một số lãnh đạo Giáo hội ở Trung Quốc cho biết sự ngược đãi trong năm 2018 là ‘tệ nhất kể từ Cách mạng Văn hóa hồi năm 1976’.
Trung Quốc đang trên đà trở thành quốc gia có đông tín đồ Thiên Chúa giáo nhất thế giới vào năm 2030 do dân số khổng lồ của nước này. Hiện ước tính có khoảng 93 cho đến 115 triệu tín đồ Tin Lành và từ 10 cho đến 12 triệu tín đồ Công giáo ở Trung Quốc. Đa phần sinh hoạt với các giáo hội không đăng ký với chính quyền.
Trong năm 2018, chính quyền Bắc Kinh đã đóng cửa hàng trăm nhà thờ không chính thức, bắt giam các linh mục và các tín đồ, hạ thánh giá, cấm bán Kinh Thánh trực tuyến và tăng cường giám sát các hội thánh. Hồi tháng trước, một số trường học và thành phố đã cấm tổ chức Lễ Giáng sinh.
Ông Blyth cho biết sự ngược đãi ở Trung Quốc là do ba yếu tố : sự lãnh đạo về mặt tư tưởng của Chủ tịch Tập Cận Bình, lo lắng của chính quyền về sự gia tăng tín đồ Thiên Chúa giáo và việc sử dụng công nghệ như là một công cụ đàn áp.
Tháng 9 năm ngóa i, Vatican đã ký một thỏa thuận tạm thời với Bắc Kinh về việc bổ nhiệm các giám mục với mục đích làm nồng ấm hơn quan hệ ngoại giao giữa hai bên. Tuy nhiên, một số vị chức sắc trong giáo hội gọi đây là sự phản bội. Hồng y Joseph Zen, cựu Tổng giám mục Hong Kong, nói rằng hậu quả sẽ là ‘thảm họa và kéo dài’ không chỉ đối với giáo hội ở Trung Quốc mà còn là toàn thể giáo hội bởi vì nó hủy hoại uy tín.
Dẫn đầu danh sách các nước đàn áp tín đồ Thiên Chúa giáo mạnh tay nhất là Bắc Triều Tiên. Tiếp theo sau lần lượt là Afghanistan, Somalia, Libya, Pakistan, Sudan, Eritrea, Yemen, Iran và Ấn Độ.
Theo Open Doors, chủ nghĩa dân tộc cực đoan tại Ấn là nguyên nhân làm tăng các vụ tấn công bạo lực của những người Hindu cực đoan nhắm vào các tín đồ Thiên Chúa giáo và nhà thờ.
"Đối với nhiều người Thiên Chúa giáo ở Ấn Độ, cuộc sống thường nhật của họ giờ đây đầy sự sợ hãi, hoàn toàn khác với bốn hay năm năm trước đây", ông Blyth nói.
Mười tám năm liên tiếp Bắc Triều Tiên dẫn đầu danh sách các nước bức hại tín đồ Thiên Chúa giáo. Trong năm 2018, hơn 4.305 tín đồ Thiên Chúa giáo bị sát hại tại quốc gia cộng sản cô lập này chỉ vì đức tin của họ, theo Reuters.
***********************
Tạp chí Time vào ngày 24 tháng 1 có bài viết về Thiền sư Thích Nhất Hạnh với tiêu đề tạm dịch ra tiếng Việt là "Nhà sư dạy chánh niệm cho cả thế giới đang chờ đợi sự kết thúc cuộc sống này".
Thiền sư Thích Nhất Hạnh cầu nguyện cho linh hồn nạn nhân chiến tranh Việt Nam tại một ngôi chùa ở huyện Sóc Sơn, ngoại ô Hà Nội. Ảnh chụp ngày 20/4/2007. AFP
Mở đầu bài viết, tác giả Liam Fizpatrick nhắc đến Thiền sư Thích Nhất Hạnh qua lời ca ngợi ngài là "một trong những nhà lãnh đạo tinh thần có ảnh hưởng nhất trong thời đại chúng ta" mà nữ hoàng truyền hình Oprah Winfrey dành cho Thiền sư Thích Nhất Hạnh.
Trở lại chùa Từ Hiếu ở Huế vào chiều ngày 28 tháng 10 năm 2018 để tịnh dưỡng, Thiền sư Thích Nhất Hạnh cuối cùng cũng đã về lại ngôi chùa nơi ngài đã phát nguyện vào năm 16 tuổi, sau 40 năm lưu đày.
Trao đổi với Đài Á Châu Tự Do, sư thầy Thích Chí Thắng, đệ tử của Thiền sư Thích Nhất Hạnh cho biết về tình trạng sức khỏe của ngài như sau :
"Hiện tại sức khỏe của thiền sư cũng khi khỏe, khi mệt, nhất là trời xứ Huế mùa đông lạnh, do đó sức khỏe của Ngài không được yên ổn lắm. Ngày nào trời nắng tốt Ngài có thể đi thiền hành bằng xe lăn trong sân chùa, trên thiền đường. Còn khi nào lạnh quá Ngài ở trong phòng thôi".
Khi cuộc chiến giữa hai miền Nam – Bắc Việt Nam leo thang, vào năm 1966, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã đi 19 nước để kêu gọi hòa bình. Ông đã nói chuyện với Nghị viện Anh, Canada và Thụy Điển. Ngoài ra, ngài cũng gặp gỡ Giáo hoàng Công giáo Paul VI.
Nhiều tài liệu cho biết, Ngài cũng đã gặp và kêu gọi Mục sư Martin Luther King Jr. công khai lên tiếng chống lại chiến tranh Việt Nam. Do đó, vào năm 1967, ngài được Mục sư Martin Luther King đề cử giải Nobel hòa bình.
Sau đó, Thiền sư Nhất Hạnh định cư tại miền tây nam nước Pháp và biến Tu viện Phật giáo Làng Mai thành lớn nhất Châu Âu, và mở thêm 8 tu viện khác từ Mississippi tới Thái Lan. Ngài trở thành một trong những người có sức ảnh hưởng nhất về Phật giáo tại phương Tây lúc bấy giờ.
Sư thầy Thích Chí Thắng cho rằng Thiền sư Nhất Hạnh đã hoàn thành sứ mệnh của mình :
"Thiền sư Nhất Hạnh đã vâng lời dạy của sư tổ và Ngài đã đi khắp nẻo đường trên thế giới truyền đạt tinh thần của đạo Phật đến với tầng lớp mọi người.
Tuy nhiên, chuyến trở về Việt Nam năm 2005 và 2007 của Thiền sư Nhất Hạnh đã gây nên nhiều tranh cãi trong cộng đồng người Việt tại Hải ngoại.
Thiền sư Nhất Hạnh về tới Chùa Từ Hiếu ở thành phố Huế. Courtesy of giacngo.vn
Nhiều người Việt lưu vong đã vô cùng tức giận vì cho rằng sự hiện diện của Thiền sư Nhất Hạnh ở Việt Nam đã vô tình giúp đỡ đảng Cộng sản có được ấn tượng với quốc tế rằng Việt Nam có quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng, trong khi thực chất tôn giáo bị nhà cầm quyền kiểm sóa t chặt chẽ.
Nhưng thực tế, trong chuyến hồi hương năm 2007, Thiền sư Nhất Hạnh đã yêu cầu Thủ tướng Nguyễn Minh Triết bãi bỏ Ủy ban Tôn giáo, là cơ quan giám sát các nhóm tôn giáo ở Việt Nam.
Theo tạp chí Time, trong bài phỏng vấn vào năm 2013, Thiền sư Nhất Hạnh đã ca ngợi những người bất đồng chính kiến trẻ tuổi tại Việt Nam. Ngài nói rằng nếu đất nước có thể thay đổi, thì đó là nhờ vào sự can đảm của những người này. Ngài cũng cho biết Ngài đang đấu tranh cho quyền tự do ngôn luận.
Bên cạnh đó, tạp chí thường niên Làng Mai năm 2018 đã kêu gọi chính phủ Hà Nội từ bỏ chủ nghĩa cộng sản. Việc này đã khiến hàng trăm tăng ni tại tu viện Bát Nhã ở xã Dambri, thành phố Bảo Lộc vào tháng 9 năm 2009 bị rất đông cảnh sát và côn đồ hành hung, xua đuổi, phải sang Thái Lan lánh nạn.
Ở phương Tây, Thiền sư Nhất Hạnh đôi lúc được gọi là cha của chánh niệm. Ngài nổi tiếng với lời dạy chúng ta có thể là Bồ Tát bằng cách tìm kiếm niềm vui trong những điều đơn giản.
Trong ‘Your true home’, một trong hơn 70 cuốn sách mà Thiền sư Nhất Hạnh đã viết, có đoạn cho rằng "một vị Phật là một người đã giác ngộ, có khả năng yêu thương và tha thứ. Bạn biết rằng nhiều lúc bạn sẽ như vậy. Do đó, hãy tận hưởng khi là một vị Phật".
Thiền sư Nhất Hạnh đã dạy rằng chúng ta không cần mất nhiều năm trên đỉnh núi để lĩnh hội trí tuệ Phật giáo. Thay vào đó, chỉ cần nhận thức hơi thở, thông qua đó đến hiện tại, nơi mà các hoạt động hàng ngày có thể đem đến niềm vui và điều kỳ diệu. Nếu chúng ta có chánh niệm, hoặc hiện diện đầy đủ tại đây và ngay bây giờ, những lo lắng sẽ tan biến và chúng ta có cảm giác vượt thời gian, giúp cho những phẩm cao quý nhất xuất hiện.
Sức ảnh hưởng của Thiền sư Nhất Hạnh đã lan tỏa toàn cầu. Điển hình như bà Christiana Figueres, cựu thư ký điều hành Quy ước khung về Biến đổi khí hậu của Liên Hiệp Quốc, vào năm 2016 đã phát biểu rằng bà không thể thành công Thỏa thuận Paris nếu như bà không có lời dạy của Thiền sư Nhất Hạnh đồng hành cùng bà.
Nhận xét về sức ảnh hưởng của sư huynh, sư thầy Thích Chí Thắng cho rằng :
"Ngài đã hướng dẫn các thiền sinh phương pháp thiền đi vào đời rất nhẹ nhàng và thảnh thơi. Ngài đi đến đâu thì thiền sinh rất đông, mọi người cũng tham khảo về lời dạy của Ngài trên sách vở và rất hâm mộ. Thật sự ảnh hưởng của thiền sư Nhất Hạnh trên thế giới là rất lớn.
Chúng tôi cũng rất hãnh diện khi ở ngay Tổ đình Từ Hiếu có một người hành đạo khắp thế giới như vậy. Chắc chắn rằng thầy chúng tôi cũng rất vui mừng khi có một học trò thay thầy mình, thay chư tổ truyền đạo Phật khắp năm châu".
Nhiều đánh giá cho rằng, những lời dạy của Thiền sư Thích Nhất Hạnh được nhiều người biết đến vì ngài đã đưa ra một "phiên bản đơn giản của Phật giáo, nhưng lại không quá đơn giản" theo lời giải thích của Janet Gyatso, Giáo sư Phật học tại trường đại học Harvard. Vẫn theo cô, triết lý cơ bản này cũng giống với Đức Đạt Lai Lạt Ma, là "chánh niệm và từ bi".
********************
Dự án đại di dân ra khỏi Kinh thành Huế (RFA, 24/01/2019)
Chính quyền tỉnh Thừa Thiên Huế vạch ra dự án dự kiến sẽ di dời 4.200 hộ dân ra khỏi Khu vực I của di tích này với mục đích trả lại không gian nguyên vẹn cho di tích Kinh thành Huế. Có thể nói đây là một trong những dự án lớn nhất của tỉnh Thừa Thiên Huế từ mấy chục năm nay. Dự án được người dân trong diện di dời đón nhận ra sao ?
Kinh thành Huế - Ảnh minh họa - AFP
Lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế cho biết, dự án di dời 4.200 hộ dân, tương đương hơn 150.000 người ra khỏi Khu vực I di tích Kinh thành Huế được tiến hành từ năm 2019 đến năm 2025, qua hai giai đoạn : Giai đoạn 1 (2019-2022), ưu tiên di dời các hộ dân cư trú trên Thượng Thành, các Eo Bầu, hai bên Hộ thành hào, các tuyến phòng lộ…tương ứng với 2.930 hộ dân ; Giai đoạn 2 (2022-2025), di dời các hộ dân sống ven các hồ Tịnh Tâm, hồ Học Hải, đàn Xã Tắc, Lục Bộ, Trấn Bình Đài, Xiển Võ Từ, Khâm Thiên Giám, hệ thống hồ thuộc 4 phường thành nội, tương ứng với 1.200 hộ dân.
Một người đàn ông buôn bán ở vỉa hè đường Hàn Thuyên cho biết, hộ gia đình ông nhận thông báo là thuộc diện phải di dời chia sẻ :
"Cái này là toàn bộ 4.200 hộ nằm ở trong khu này đây, với lại hạng di tích, hạng đặc biệt ở trên khu Thượng Thành. Đợt này là di dời hết 4.200 hộ, tivi thông báo".
Người đàn ông này cho biết thêm, hộ gia đình ông thuộc diện được Nhà nước cấp đất nên khi di dời sẽ được hưởng đền bù, các hộ dân khác nếu không có vấn đề gì cũng sẽ được hưởng đền bù tương tự.
"Không. Ở đây thì họ đền bù chứ. Nói chung ai mà không có vấn đề gì thì họ đền bù".
Dự kiến tổng kinh phí của dự án di dời dân bao gồm cả việc bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng gần 2.800 tỷ đồng được trích từ ngân sách Trung ương. Riêng tỉnh Thừa Thiên Huế sẽ trích kinh phí khoảng 1.360 tỷ đồng để lo đầu tư xây dựng khu tái định cư. Ông Phan Thanh Hải- Giám đốc Trung tâm bảo tồn di tích Cố đô Huế, đây cũng là đơn vị chủ trì của dự án trong một lần trả lời phỏng vấn báo Tuổi Trẻ đã cho biết, tỉnh nhà sẽ trích 1/3 số tiền thu từ việc bán vé tham quan di tích Đại nội Kinh thành Huế cho việc di dân. Tỉnh Thừa Thiên Huế cũng đã cho xây dựng khu tái định cư có diện tích 73ha, với 03 khối nhà chung cư tại đường Nguyễn Văn Linh, thuộc phường Hương Sơ ở phía Bắc thành phố Huế để bố trí chỗ ở mới cho các di dân.
Cũng liên quan đến dự án, vào chiều ngày 24/10/2018, tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã có buổi làm việc với lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế và các ban ngành chức năng đã lưu ý nói tỉnh Thừa Thiên Huế phải dành đất đai có vị trí thuận lợi cho người dân tái định cư để họ tiếp tục sinh sống bằng nghề nghiệp cũ.
Tuy nhiên một cụ bà sinh sống mấy mươi năm ở gần Đại nội Kinh thành Huế chia sẻ :
"Mình cũng không biết nữa. Họp ở trên, mấy ông mới nói ở trên chứ còn ở dưới dân họ đã biết chuyện chi mô. Đây là mình nghe người ni nói người tê nói mình nghe rứa thôi…".
Theo ghi nhận của chúng tôi, hầu hết các hộ dân sinh sống ở Thượng Thành đều có cuộc sống khá khó khăn. Họ chủ yếu là những di dân đến từ những vùng ven của Huế và phía nam tỉnh Quảng Trị, với mục đích chủ yếu ban đầu là nhằm trốn tránh bom đạn chiến tranh vào các năm 1968 và 1972. Ban đầu họ chỉ chiếm dụng những diện tích đất trống trong Kinh thành Huế, sau đó ổn định cuộc sống, sinh con đẻ cái họ lại cơi nới thêm cho đến ngày hôm nay.
Do sống trên đất di tích nên các hộ dân này không được chính quyền chứng nhận quyền sử dụng đất, không được sửa chữa, xây dựng nhà cửa kiên cố mà phải giữ nguyên hiện trạng theo luật Di sản. Cuộc sống của các hộ dân là tạm bợ, lụp xụp kéo dài suốt mấy mươi năm qua hết sức khổ cực. Mùa mưa bão thì họ sợ sập nhà, mùa nắng thì ngột ngạt, không khí ô nhiễm, dịch bệnh…
Một cụ ông sinh sống ở đường Hàn Thuyên, cách không xa khu vực Thượng Thành chia sẻ về điều này :
"Đây thuộc dạng khó khăn chứ không phải giỡn".
Cũng nằm trên diện phải di dời, nhưng nhiều hộ dân ở các Eo Bầu lại có cuộc sống ổn định, khá giả hơn so với các hộ dân ở Thượng Thành cho nên khi nghe đến dự án di dời dân để trả lại không gian nguyên vẹn cho di tích Kinh thành Huế thì họ lại chẳng mấy mặn mà như lời của cụ bà sống gần Đại nội Kinh thành Huế nói với chúng tôi :
"Thì có nhiều người khó khăn, có nhiều người giàu có chứ đâu phải ai cũng giàu hết, ai cũng nghèo hết mô. Đi chỗ nào cũng vậy, có người giàu người nghèo".
Cuộc di dân lịch sử ở Kinh thành Huế - Photo : Tuổi Trẻ
Cụ bà này nói thêm, dự án tỉnh đưa ra là để bảo tồn di tích Kinh thành Huế là đúng nhưng phải có sự đồng thuận của người dân. Người dân lo lắng về nơi ở mới sẽ bị ảnh hưởng đến công việc làm ăn, lo lắng chính sách giải tỏa đền bù có hợp lý hay không ? An ninh –trật tự chổ ở mới có bảo đảm hay không ?…là hoàn toàn chính đáng, không có gì sai cả.
"Có nghe. Có nghe và có nhiều người họ cũng bàn tán, có nghe. Chuyện ấy cũng phải từ trên xuống dưới họp cho tới dân có đồng ý hay là không đã chứ. Chứ còn đó mới chỉ mấy ông trên nói, còn dưới dân chịu hay không đã chứ. Chắc dân họ cũng không chịu đâu vì nhà ở xưa nay đến giờ, từ nhỏ đến giờ mua cái nhà đâu phải xíu tiền anh, ví dụ nhà trị giá một tỷ đồng nếu bồi thường vài tỷ thì may ra họ chịu"
Người đàn ông buôn bán ở vỉa hè đường Hàn Thuyên cũng bày tỏ lo lắng cho những khó khăn mà gia đình phải đối diện khi di dời đến chổ ở mới vì phải chấp hành chủ trương của Nhà nước và Chính phủ đưa xuống.
"Khó khăn nhiều chứ. Mình ở thành phố giờ đi ra, nghe đi ra xa. Nghe nói đi ra ngoài phía Bắc (gần Bến xe phía Bắc thành phố Huế). Khó khăn nhiều".
Vì vậy, số đông người dân khi kết thúc chia sẻ với chúng tôi đều nói, nếu bắt buộc họ phải di dời thì họ mong muốn được các cấp chính quyền bố trí chỗ ở mới ổn định, đừng quá xa nội thành.
"Nguyện vọng của người dân mình thì rõ ràng là họ phải bố trí chổ nào đó cho mình ở là xong thôi"- Lời của cụ ông ở đường Hàn Thuyên.
Trong giai đoạn từ năm 1996-2018, chính quyền tỉnh Thừa Thiên Huế đã cho di dời khoảng hơn 1000 hộ dân ở các di tích Lầu Tàng Thơ, đàn Âm Hồn, đàn Xã Tắc, các eo bầu và khu vực Thượng Thành ở phía nam Kinh thành.
Nếu việc di dời 4.200 hộ dân này thành công sẽ trả lại không gian nguyên vẹn của Kinh thành Huế cổ xưa, làm thay đổi tích cực bộ mặt đô thị và đồng thời sẽ làm động lực phát triển mạnh hơn nữa ngành dịch vụ du lịch. Tuy nhiên, không phải người dân nào cũng có điều kiện tiếp cận trực tiếp, đầy đủ thông tin về dự án, rất nhiều người chủ yếu là nghe truyền miệng.