Năm mới, sự bùng phát của Coronavirus (hay nCoV) là một tai họa cho Trung Quốc năm 2020. Nó không chỉ là khủng hoảng về vi sinh học và y học, mà còn là khủng hoảng hệ thống chính trị Trung Quốc, làm bộc lộ những tử huyệt của họ. Việt Nam cũng bị vạ lây vì "cùng chung vận mệnh", thậm chí còn nguy hiểm hơn vì hệ lụy "hội chứng Đồng Tâm".
Tàu điện ngầm chật kín người thường ngày ở Bắc Kinh giờ đây vắng vẻ tựa như bỏ hoang vì dịch bệnh hoành hành
Tính đến 21/2/2020, ở Trung Quốc đã có 76.000 người mắc dịch và 2.236 người chết. Theo Bộ y tế, ở Việt Nam đã có tổng số lên 16 trường hợp nhiễm cúm Covid-19. Việt Nam đã tuyên bố tình trạng khẩn cấp về y tế, và ngừng tất cả các chuyến bay đến/từ Trung Quốc (nhưng vẫn chưa đóng cửa biên giới).
Sau ba thập kỷ phát triển nóng, Trung Quốc như người khổng lồ trỗi dậy thành siêu cường kinh tế, vượt Nhật và chỉ đứng sau Mỹ. Nhưng Trung Quốc không "trỗi dậy hòa bình" như Mỹ và Phương Tây mong đợi, mà con rồng Trung Quốc phủ bóng đen của nó lên Biển Đông, bắt nạt các nước láng giềng và độc chiếm Biển Đông như cái ao của họ.
Tập Cận Bình thấy cơ hội đã đến nên từ bỏ chính sách "dấu mình chờ thời" của Đặng Tiểu Bình, và củng cố quyền lực độc tài cá nhân (như thời Mao). Trong nước, Tập bóp nghẹt tự do dân chủ và triển khai "hệ thống cho điểm xã hội". Ngoài nước, Tập triển khai kế hoạch "Vành đai Con đường" để thao túng các nước bằng "bẫy nợ".
Để đối phó với Trung Quốc trỗi dậy, Chính quyền Mỹ mà người đứng đầu là Tổng thống Donald Trump đã điều chỉnh chiến lược, từ bỏ chính sách cộng tác của các chính quyền trước, chuyển sang ngăn chặn và đối đầu như "chiến tranh lạnh kiểu mới". Mỹ phát động chiến tranh thương mại và dùng thuế quan như vũ khí kinh tế làm suy yếu Trung Quốc tại vùng Indo-Pacific.
Trong khi Trung Quốc phân hóa và thao túng ASEAN (như Philippines và Campuchia) thì các nước khác bắt đầu phản ứng (pushback) với kế hoạch "Vành đai Con đường" và "bẫy nợ".
Đối thoại Mỹ-Triều và thay đổi chính phủ ở Malaysia phản ánh xu thế thoát Trung. Những biến động gần đây tại Hong Kong và Đài Loan đang cảnh báo Trung Quốc.
Đó là bối cảnh những thách thức to lớn mà Trung Quốc phải đối mặt như "phúc bất trùng lai", khi xảy ra dịch Corona thì như "họa vô đơn chí".
Trong thế giới bất ổn đó, những biến số khó lường đe dọa làm bộc lộ những tử huyệt của hệ thống chính trị. Sự bùng phát và lây lan của Coronavirus làm người dân nhiều nước tẩy chay Trung Quốc như tội đồ.
Theo Minxin Pei giáo sư về khoa học chính trị tại Đại học Claremont McKenna Hoa kỳ thì "Cơ hội vàng" đã bị mất, Trung Quốc không rút được kinh nghiệm qua đại dịch SARS (2002-2003) và nay tiếp tục không đối phó kịp thời với Virus Corona (2019-2020).
Khi dịch Coronavirus bùng phát tại Vũ Hán, chính quyền địa phương đã bất lực và lãnh đạo thành phố phải trốn ra đảo, trong khi 5 triệu dân đã sơ tán khỏi thành phố.
Theo Giáo sư Minxin Pei, Bắc Kinh không có khả năng xử lý một đại dịch như vậy. Kể từ thời có dịch SARS (2003), Bắc Kinh vẫn chưa có sự đổi mới cơ bản nào về năng lực xử lý khủng hoảng.
Trong vòng một tháng (từ giữa tháng 12/2019 đến giữa tháng 1/2020) là giai đoạn sống còn gọi là "cửa sổ cơ hội vàng" đã bị mất, khi chính quyền tra hỏi và kỷ luật 8 bác sĩ ở Vũ Hán vì "tung tin đồn nhảm". Trong mấy tuần đó (đến 20/1/2020), số người bị mắc dịch đã nhanh chóng tăng lên gấp đôi, làm cho chính quyền giật mình.
Du khách Trung Quốc tràn vào Việt Nam ngay giữa mùa dịch virus corona nguy hiểm
Nguyên nhân chính là "lỗi hệ thống" do thể chế độc tài bưng bít thông tin để thao túng và che dấu sự thật. Khi phát hiện dịch mới tại Vũ Hán (8/12) chính quyền kiểm duyệt báo chí và các trang mạng (WeChat, Weibo), trấn áp các bác sĩ và nhà báo đưa tin. Khi có người chết (11/1) chính quyền vẫn phủ nhận dịch có thể lây lan từ người sang người.
Vì vậy, dịch Corona đã bùng phát và đến nay đã lan ra 28 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Sau khi 5 triệu người dân đã rời khỏi Vũ Hán, sẽ rất khó kiểm soát.
Khi thấy tình hình đã nguy cấp, với hàng ngàn người mắc dịch và nhiều người chết (20/1), chính quyền buộc phải thay đổi thái độ và "chỉ đạo quyết liệt" thì đã quá muộn.
Thường mỗi khi các quan chức chính quyền gặp một vấn đề, họ thường phân ra là "kỹ thuật" hay "chính trị". Nếu là chính trị, họ sẽ "đá vấn đề lên trên để chờ quyết định".
Vì vậy, trong hệ thống tập trung cao đó, quá trình ra quyết định rất lâu.
Nhưng khi đã quyết thì họ lại hành xử như thời chiến, mà Giáo sư Minxin Pei gọi là "quân sự hóa chính quyền".
Hậu quả kinh tế của Coronavirus sẽ rất nặng nề đối với Trung Quốc, cũng như các nước phụ thuộc vào họ. Sau kỳ nghỉ Tết Nguyên Đán, Shanghai composite giảm 7,7%, và Shenzhen Component Index giảm 8,5%.
Khi không thể bưng bít được nữa, chắc nội bộ sẽ bị phân hóa. Lần đầu tiên, dịch Corona dám thách thức quyền lực của Tập Cận Bình.
Trong kinh tế có môn "kinh tế chính trị học". Nhưng nếu người ta lạm dụng để chính trị hóa một cách toàn diện và triệt để các lĩnh vực dân sự (kể cả dịch vụ y tế) nhằm duy trì độc quyền thì sẽ tạo ra ách tắc, như các khối u trong cơ chế quốc gia. Khi phải đối phó với tình thế khủng hoảng như dịch SARS hay Corona, cơ chế đó sẽ bộc lộ những tử huyệt.
Tuy nói chuyện Trung Quốc, nhưng cần liên hệ tới Việt Nam, vì đó là "quan hệ nhân quả". Coronavirus càng làm bộc lộ những yếu kém của một hệ thống chính trị bất cập và lỗi thời.
Vì vậy, ông Trần Quốc Vượng có lý khi phát biểu (25/12/2019) "Cơ đồ ta xây dựng 75 năm nay sụp đổ hay không cũng do chúng ta thôi, chẳng phải do kẻ thù đâu. Chẳng ai xâm lược mình… chẳng ai lật đổ chúng ta đâu. Ta không làm tốt thì tự ta lật đổ ta thôi".
Trong bối cảnh hiện nay, khả năng kiểm soát và xử lý khủng hoảng của Việt Nam còn yếu kém vì thể chế lạc hậu và bưng bít thông tin.
Việt Nam đã bỏ visa đối với người Trung Quốc, nên biên giới hai nước hầu như bỏ ngỏ. Tuy dịch Corona đã bùng phát và WHO đã ban bố tình trạng y tế khẩn cấp toàn cầu, Việt Nam vẫn chưa đóng cửa biên giới với Trung Quốc.
Trong cuộc họp Chính phủ do Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chủ trì (30/1/2020), Phó Thủ tướng/Ngoại trưởng Phạm Bình Minh lý giải chưa đóng cửa biên giới là do "Việt Nam và Trung Quốc có ký kết hiệp ước, nếu liên quan an ninh và dịch bệnh thì có thể đóng cửa nhưng phải có thỏa thuận giữa hai bên chứ Việt Nam không thể đơn phương".
Nay chính phủ chỉ đạo quyết liệt thì đã muộn (như chém gió). Sau Tết có nhiều lễ hội đông người, ngành du lịch và các địa phương không thấy hết nguy cơ, nên "trên bảo dưới không nghe". Hệ thống y tế Việt Nam yếu kém vì quá tải nên khó đối phó với dịch đã bùng phát.
Tại Việt Nam, dịch Coronavirus (hay nCoV-Covid-19) xảy ra gần đồng thời với biến cố Đồng Tâm, như "khủng hoảng kép". Tuy hai sự kiện có những biến số khác nhau nhưng lại có hằng số về cơ bản giống nhau. Đó là hai trường hợp điển hình chứa đựng nhiều ẩn số cần phải nghiên cứu thêm để làm rõ.
Có người nói trong cơn sốc Corona, "biến cố Đồng Tâm gần như chìm vào quên lãng" và Hiệp định Thương mại Tự do EU-Việt Nam (EVFTA) sẽ được Nghị viện Châu Âu quyết định vào 11/02/2020, "chỉ như chuyện của một hành tinh khác".
Đó là nói theo logic hình thức để thấy Coronavirus cấp bách hơn, nhưng thực ra đó là "quan hệ nhân quả".
Theo Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc công bố, ngày 17/2, Bắc Kinh quyết định trì hoãn "lưỡng hội" (Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc và Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Toàn quốc) vốn dự định tổ chức vào đầu tháng Ba. Thực tế, lần này Đảng cộng sản Trung Quốc trì hoãn tổ chức lưỡng hội, nguyên nhân chủ yếu là phòng chính biến hơn là phòng dịch bệnh.
Từ khi dịch viêm phổi Covid-19 bùng phát đến nay, dư luận Trung Quốc theo dõi 2 vấn đề :
1) Nguồn gốc virus là từ đâu ?
2) Vì sao Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc chỉ đạo kéo dài, làm lỡ thời cơ tốt nhất để phòng ngừa kiểm soát dịch bệnh, từ đó dẫn đến dịch bệnh mất kiểm soát toàn diện.
Ngoài truy trách nhiệm cho người liên quan ở Hồ Bắc, ông Tập Cận Bình sao lại không bị truy trách nhiệm ?
Điều càng làm chính quyền sợ hãi là gần đây, liên tiếp lan truyền trên mạng xuất hiện các bài viết khuyên ông Tập Cận Bình nên thoái chức hạ đài.
Để có một câu trả lời cho tất cả, ngày 15/2, ông Tập Cận Bình đã công bố một bài viết có tiêu đề "Phát biểu tại Hội nghị nghiên cứu công tác ứng phó dịch viêm phổi virus corona mới của Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị". Bài viết này đã sử dụng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất – "tôi" một cách hiếm thấy. Nội dung chủ yếu là ông Tập tự biện giải cho mình trong việc tiến hành công tác xử lý dịch bệnh.
Ông Tập nói : "Sau khi bùng phát viêm phổi Covid-19, ngày 7/1, khi tôi đã đề xuất yêu cầu về công tác phòng ngừa và kiểm soát đối với dịch viêm phổi Covid-19.
Ngày 20/1, tôi đặc biệt phê chỉ thị đối với công tác phòng ngừa và kiểm soát dịch. Ngày 22/1, xét thấy dịch bệnh lây lan nhanh chóng, tôi đã yêu cầu rõ ràng tỉnh Hồ Bắc thực thi quản lý và kiểm soát kiêm ngặt toàn diện đối với người ra ngoài tỉnh".
Ngày 15/1, Đài Phát thanh Quốc tế Pháp (RFI) đưa tin, ngày 7/1, ông Tập Cận Bình đã biết tình hình dịch ‘viêm phổi Vũ Hán’, đồng thời triệu tập hội nghị và đưa ra yêu cầu đối với công tác phòng ngừa kiểm soát dịch, có thể thấy ông Tập rất coi trọng vấn đề này.
Vậy vì sao ngày 11 – 17/1, Hồ Bắc vẫn còn tiếp tục triệu tập "lưỡng hội" cấp tỉnh ?
Vì sao ngày 18/1 Chính quyền tỉnh Hồ Bắc vẫn tổ chức bữa tiệc linh đình "Vạn gia yến" với hơn 40.000 hộ gia đình tham dự ? Vì sao ngày 21/1, lãnh đạo tỉnh Hồ Bắc còn cùng các giới trên toàn tỉnh cùng nhau xem biểu diễn văn nghệ mừng năm mới ? Lẽ nào tỉnh Hồ Bắc có ý đối kháng với Trung ương ? Vì sao ngày 23/1 Bắc Kinh vẫn còn tổ chức đoàn thăm viếng năm mới ?
Tuy nhiên, tờ Apple Daily tại Hồng Kông có bài viết nói, khi Tân Hoa Xã đăng bài vào ngày 7/1, hoàn toàn không hề đề cập đến dịch bệnh tại Vũ Hán, phát biểu của ông Tập Cận Bình từ đầu đến cuối đều là nói về vấn đề tình hình chính trị khác, thậm chí khi phát biểu với đoàn viếng thăm năm mới ngày 23/1, ông Tập không hề có chữ nào nhắc đến "dịch bệnh Vũ Hán".
Điều càng khiến cho ông Tập Cận Bình khó xử là Thị trưởng Vũ Hán Chu Tiên Vượng trong cuộc trả lời phỏng vấn của CCTV hôm 27/1 có nói : "Ngày 27/12 chúng tôi phát hiện trường hợp đầu tiên, đồng thời đã có báo cáo đầu tiên đối với cơ quan hữu quan Bắc Kinh, trong tình huống chưa được trao quyền, thành phố Vũ Hán không có quyền công bố dịch bệnh".
Ý của ông Thị trưởng Vũ Hán Chu Tiên Vượng rất rõ ràng : Trách nhiệm trì hoãn công bố dịch bệnh không phải nằm ở địa phương. Đài phát thanh Trung ương cũng có bài viết ám chỉ ông Tập Cận Bình đang "đẩy trách nhiệm".
Trong tình hình hiện nay, nhiều mũi nhọn của các bài viết trên truyền thông chỉ trích trực tiếp vào việc ông Tập Cận Bình không làm gì. Có thể thấy, nội bộ Đảng cộng sản Trung Quốc có rất nhiều người bất mãn với ông Tập Cận Bình. Đây cũng là nguyên nhân bức bách buộc ông Tập Cận Bình phải đăng bài tự biện giải cho mình.
Từ khi dịch bệnh ‘viêm phổi Vũ Hán’ bùng phát đến nay, thế lực chống đối với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trong nội bộ đảng vẫn luôn gây rối. Nếu triệu tập "lưỡng hội" vào đầu tháng Ba, không chỉ có rủi ro khiến dịch bệnh lan rộng, mà cục diện chính trị cũng có khả năng xuất hiện nhân tố bất ổn. Đây mới là nguyên nhân thực sự khiến "lưỡng hội" trì hoãn.
Hiện tại ông Tập Cận Bình đã rơi vào hoàn cảnh vô cùng nguy ngập, ông Tập cần nhanh chóng khởi động cải cách chính trị, vứt bỏ gánh nặng Đảng cộng sản Trung Quốc, không nên tiếp tục đàn áp nhân quyền, trả lại tự do ngôn luận và tự do tín ngưỡng cho người dân, để Trung Quốc khôi phục lại xã hội chính thường không có Đảng cộng sản Trung Quốc.
7 năm trước, ông Tập Cận Bình có 3 con đường có thể đi : Thượng sách là cải cách chính trị, đi con đường lớn dân chủ hiến chính, là anh minh ; trung sách là tiếp tục duy trì đường lối của Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào, là trung dung ; hạ sách, ngược lại là đi theo đường lối Mao Trạch Đông, là hại nước hại dân.
Nhưng ông Tập Cận Bình vẫn nhiều lần do dự không quyết đoán, bỏ qua thời cơ.
Ông cho rằng duy trì sự thống trị của Đảng cộng sản Trung Quốc là bảo vệ quyền lực của mình, nhưng cuối cùng dân Trung Quốc đang chờ đợi ông trở thành "con dê thế tội" cho Đảng cộng sản Trung Quốc, với kết cục bi thảm.
Hoàng Lan (Hà Nội)
Nguồn : Thoibao.de, 22/02/2020
Đại dịch Vũ Hán đã khiến nhiều người giận dữ với cách bưng bít thông tin, khống chế dư luận bằng bạo lực của chính quyền Trung Quốc. Ngay khi mới xảy ra dịch, một bác sĩ tại Vũ Hán là Li Wenliang đã cố gắng nhắn tin trong một group chat với các bạn học trường y về tình trạng lây nhiễm tại đây. Ngay trong đêm hôm đó, Cơ quan Y tế địa phương đã khiển trách bác sĩ Li vì việc chia sẻ thông tin như vậy. Ba ngày sau, công an địa phương đã yêu cầu bác sĩ này viết bản thú nhận rằng hành vi chia sẻ tin nhắn này là một hành vi vi phạm luật pháp [1].
Hình minh họa. Hình chụp hôm 16/5/2013 : sinh viên Nguyễn Phương Uyên (thứ hai bên phải) và Đinh Nguyên Kha (giữa) tại một phiên tòa ở tỉnh Long An. AFP
Thói quen che giấu thông tin
Đặc biệt, công an thành phố Vũ Hán đã phát lệnh truy tố tổng cộng 8 bác sĩ vì đã truyền đi thông điệp về dịch bệnh, trong khi nhà chức trách đang muốn giấu [2].
Nhiều người cảm thấy bất bình, vì việc thông tin sự thật về bệnh dịch sao lại là "hành vi vi phạm pháp luật" ? Điều đó cho thấy sự không bình thường của việc thi hành luật pháp ở đất nước này.
Tuy nhiên, đây không phải là trường hợp đầu tiên và duy nhất mà Trung Quốc có cách hành xử như vậy.
Bắt bớ và cầm tù
Vào đầu tháng 11 năm 2019, cơ quan công an Trung Quốc đã bắt giữ và bỏ tù 6 tháng một sinh viên Trung Quốc đang theo học bên Mỹ tên là Luo Daiqing vì hành vi anh ta có đưa một số tấm hình biếm hoạ về chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình lên Twitter lúc anh ta còn đang ở Mỹ [3].
Ngày 15/10/2019, nhà chức trách Trung Quốc cũng câu lưu một nhà nghiên cứu hậu tiến sĩ gốc Hoa tên là Zhan Wang. Chuyên gia này đang nghiên cứu khí tượng học tại Học Viện Khí tượng Phần Lan (Finnish Meteorological Institute). Nhà chức trách Trung Quốc cáo buộc nhà nghiên cứu khí tượng học này "âm mưu lật đổ chế độ", tuy nhiên họ lại không chính thức thừa nhận hoặc cung cấp bất cứ bằng chứng nào về hành vi này của Zhan Wang [4]. Truyền thông Trung Quốc mô tả rằng anh này muốn kêu gọi độc lập cho vùng Mãn Châu Lý. Hiện nay Zhan Wang đang đối mặt với khả năng ngồi tù 10 năm [5]. Đây chỉ là một vài ví dụ cho các hành động này từ phía Trung Quốc.
Hình minh họa. Tranh biếm họa về Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và tự do cho Hong Kong và Tân Cương Rebel Pepper
Một Báo cáo với tựa đề "Những cản trở đối với sự ưu tú : Tự do học thuật và sự tìm kiếm các đại học đẳng cấp thế giới của Trung Quốc" do tổ chức Scholars at Risk thực hiện từ/12/2017 đến tháng 6/2019 đã cho biết nhiều điều [6].
Tất cả các cơ sở nghiên cứu, đào tạo dù ở Trung Quốc lục địa, Hong Kong hay Macao đều bị chính phủ Trung Quốc "quản lý" gắt gao. Và không có chuyện tự do học thuật hay tự do ngôn luận ở đây. Thậm chí, chỉ cần đụng tới những đề tài "nhạy cảm" hay "cấm kị" như "Sự kiện Thiên An Môn" hay đụng tới các vấn đề mà lãnh đạo Trung Quốc cho là "không được phép" thì sinh viên đó rất có thể đối mặt với bắt bớ, giam cầm và tù đày.
Đặc biệt, các sinh viên Trung Quốc gốc Tây Tạng, Tân Cương hay Nội Mông… luôn bị theo dõi chặt chẽ. Bất cứ nghiên cứu hay hành động của các sinh viên này luôn bị áp đặt, thậm chí là cưỡng bức, đe dọa.
Đó là đối với các sinh viên học tập và nghiên cứu dưới quyền quản lý trực tiếp của chính quyền Trung Quốc đã đành. Các sinh viên Trung Quốc theo học ở nước ngoài cũng không phải là ngoại lệ. Một Báo cáo của Trung tâm Willson với tựa đề "Một nghiên cứu sơ bộ về sự can thiệp và ảnh hưởng của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào các hoạt động của giáo dục sau đại học ở Hoa Kỳ" [7] đã cho biết họ đã phát hiện dựa trên bằng chứng về việc một số nhân viên ngoại giao và sinh viên Trung Quốc đã xâm phạm tới quyền tự do học thuật và an toàn cá nhân, trong khi những quyền này được pháp luật Hoa Kỳ bảo vệ.
Khống chế tư tưởng ở Việt Nam
Việt Nam có hệ thống chính trị tương tự như Trung Quốc, cho nên "ông thầy" có bài gì thì "học trò" có bài đó. Trong cuốn "Tư duy kinh tế Việt Nam", Đặng Phong đã mô tả cách thức mà hệ thống chính trị Việt Nam "nhồi sọ" toàn bộ các cán bộ, công chức và người dân. Nếu là cán bộ, công chức thì gần như 100% sẽ phải trở thành đảng viên của Đảng cộng sản. Từ khi chuẩn bị trở thành đảng viên, người đó sẽ phải học lớp cảm tình đảng, rồi khi thành đảng viên lại phải học nghị quyết hàng năm. Muốn giữ chức vụ cao hơn thì phải đi học trung cấp chính trị, rồi cao hơn nữa là cao cấp chính trị. Tiếng là đi học các hệ khác nhau như vậy, nhưng nội dung chẳng có gì khác nhau, và cũng chẳng có gì gọi là học thuật ở đây. Việc cứ tụng đi tụng lại chừng đó mớ lý thuyết giáo điều khiến nó "ám thị" và tạo thành thói quen tư duy cho cán bộ, công chức chung một bài.
Còn đối với các trường đại học hoặc các cơ quan khác thì cơ quan đảng luôn luôn quyết định những vấn đề quan trọng nhất. Cách đây vài năm, mâu thuẫn giành chức chủ tịch Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh khiến ông Nguyễn Đăng Trừng bất bình bởi vì kết quả các luật sư thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bỏ phiếu cho ông, nhưng cơ quan đảng là Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh can thiệp không công nhận kết quả này, yêu cầu cuộc bỏ phiếu chọn người khác. Mặc dù, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh là một tổ chức hoàn toàn độc lập, không hề nằm trong thẩm quyền quản lý của Thành uỷ.
Tranh biếm họa về Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và tự do báo chí ở Việt Nam Rebel Pepper
Ở Việt Nam, cơ quan đảng sẽ thay mặt tất cả, kể cả toà án để quyết định mọi việc. Vụ tranh chấp cổ đông tại trường Đại học Hoa Sen là một trường hợp như vậy. Tranh chấp kéo dài nhiều năm giữa các cổ đông của nhà trường. Cuối cùng, Bí thư Thành uỷ Đinh La Thăng "ra tay" chuyển đổi từ nhóm cổ đông này sang nhóm cổ đông khác theo quyết định của ông ta, thay vì toà án, cho dù đây là một trường đại học tư thục.
Ở mỗi trường đại học, bên cạnh cơ quan đảng còn có ít nhất một nhân viên an ninh phụ trách. Nhân viên an ninh này theo dõi về "văn hóa tư tưởng". Nếu thấy có vấn đề gì về tư tưởng hơi lạ sẽ bị coi là "chống phá chế độ" và cơ quan an ninh sẽ ra tay ngay. Nhưng nếu trong trường có tham nhũng, hủ hóa, thậm chí là kiện cáo nhau… an ninh lại mặc kệ. Nhiều vụ bắt giữ bỏ tù các sinh viên đã xảy ra, như vụ bắt giữ sinh viên Nguyễn Phương Uyên hay Đinh Nguyên Kha dù họ bị kết tội với những tội danh và bằng chứng hết sức mơ hồ giống như bên Trung Quốc "lật đổ chính quyền nhân dân". Những sinh viên bé nhỏ không một tấc sắt, sao có thể lật đổ được một chính thể có cả công an, quân đội trong tay ?
Vụ bắt giữ Luật sư Lê Công Định cũng là một vụ mâu thuẫn chính trị giữa các phe nhóm hay còn gọi là "Ba - Tư đại chiến" nhưng đã được thổi phồng thành một "âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân". Một luật sư như Lê Công Định, không có vũ khí, không có tiền bạc, không có người, lấy đâu mà lật đổ chính quyền ngoài dăm ba bài viết phản biện đăng đâu đó.
Ngay trong đại dịch virus Vũ Hán này, nhiều nghệ sĩ tên tuổi ở Việt Nam cũng bị "mời lên làm việc" khi họ chỉ đưa thông tin về bệnh dịch như những lời cảnh báo cá nhân [8].
Kết luận
Không phải ngẫu nhiên mà mới đây tờ báo Người quan sát đã có bài viết với tựa đề : "Thế giới phải trả giá cho sự cai trị độc đoán ở Trung Quốc" [9]. Bài báo đó có chi tiết đáng lưu ý khi mô tả : "Các nhà độc tài thường đưa ra những quyết định tồi tệ bởi họ không nhận được thông tin chính xác : Khi áp chế những tiếng nói độc lập, họ chỉ nhận được lời tâng bốc và tin tức tốt đẹp từ những người xung quanh".
Việt Nam và Trung Quốc đều nằm trong một thể chế tương tự nhau nên cách hành xử cũng tương tự nhau. Và để dễ bề cai trị, họ đã thực hiện chính sách "khống chế tư tưởng". Điều này đi ngược lại cách quản lý ở một đất nước văn minh. Không có sự tự do học thuật và tư tưởng thì làm gì có sáng tạo và phát triển. Và vì thế, người dân cứ mãi nằm trong vòng luẩn quẩn của u mê và nghèo đói.
Nguyễn Hoàng Quân
Nguồn : RFA, 03/02/2020
[1] https://www.nytimes.com/2020/02/01/world/asia/china-coronavirus.html
[2] http://www.rfi.fr/vi/châu-á/20200130-virus-corona-tòa-án-trung-quốc-8-bác-sĩ
[4] https://www.scholarsatrisk.org/report/2019-10-15-finnish-meteorological-institute/
[5] https://www.scholarsatrisk.org/report/2019-10-15-finnish-meteorological-institute/
[7] https://www.wilsoncenter.org/sites/default/files/prc_political_influence_full_report.pdf
[9] http://nghiencuuquocte.org/2020/02/02/the-gioi-tra-gia-cai-tri-doc-doan-o-trung-quoc/
Một trong những sự kiện đáng chú ý nhất trong thời sự Việt Nam năm 2019, đó là áp lực ngày càng tăng của Trung Quốc đối với Việt Nam trên Biển Đông, thể hiện qua vụ Bắc Kinh đưa tàu khảo sát xâm nhập khu vực Bãi Tư Chính, nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Trong năm 2019, Trung Quốc ngày càng tăng áp lực với Việt Nam trên Biển Đông
Trong khoảng thời gian từ ngày 04/07 đến 24/10/2019, Trung Quốc đã điều tàu Hải Dương Địa Chất 8 đến tiến hành bốn cuộc khảo sát địa chất trong vùng biển 200 hải lý của Việt Nam, có lúc tiến gần bờ biển tỉnh Phú Yên khoảng hơn 65 hải lý. Trong cùng thời gian đó, tàu Hải Cảnh 35111 của Trung Quốc quấy nhiễu hoạt động của giàn khoan Nhật Bản Hakyryu-5 do một công ty liên doanh Việt - Nga sử dụng tại Lô 06.01 nằm cách bờ biển Việt Nam 190 hải lý.
Đối với Hà Nội, rõ ràng đây là một mưu toan của Bắc Kinh nhằm biến "vùng biển không tranh chấp" thành "vùng biển tranh chấp", lấy cớ để ngăn chặn các nước ven bờ hợp tác với các công ty dầu khí quốc tế trong khu vực này.
Căng thẳng chỉ giảm bớt sau khi Trung Quốc cho rút tàu khảo sát ra khỏi vùng biển Việt Nam hôm 23/10. Sau đó, vào cuối tháng 11, một phái đoàn do thứ trưởng ngoại giao Lê Hoài Trung dẫn đầu đã qua Bắc Kinh để thảo luận về những vấn đề quan hệ song phương, trong đó có Biển Đông. Bản thông cáo cho biết là phía Việt Nam đã "nêu rõ lập trường" của mình về Biển Đông, nhưng xác định rằng hai bên nhất trí "xử lý thỏa đáng các bất đồng" để duy trì ổn định trong khu vực. Bản thông cáo cũng không đề cập đến vụ Bãi Tư Chính.
Trong bài viết đề ngày 06/12/2019, đăng trên trang mạng East Asia Forum, ông Đỗ Thanh Hải, Học viện Ngoại giao Việt Nam, nhận định về căng thẳng Biển Đông năm 2019 :
"Việt Nam chưa bao giờ loại trừ giải pháp quân sự để phòng thủ, nhưng rõ ràng dùng đến vũ lực có nghĩa là thất bại về ngoại giao. Mặc dù lực lượng quốc phòng đang trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, nhưng chính sách của Hà Nội là tận dụng các biện pháp hòa bình. Các quan chức Việt Nam đã gởi hàng chục công hàm phản đối cho phía Trung Quốc. Trong khi các đối tác ASEAN im hơi lặng tiếng về mặt ngoại giao, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã ra 4 tuyên bố công khai lên án Trung Quốc vi phạm Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển UNCLOS".
Về đối sách của Việt Nam đối với Trung Quốc trong vụ Tư Chính, nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp, Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore nhận định :
"Nhiều người cho rằng trong trường hợp này, Việt Nam tương đối đã kiềm chế và phản ứng có vẻ yếu ớt hơn rất nhiều so với vụ Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam năm 2014. Cũng đã có những chỉ trích nhất định đối với cách ứng xử của Việt Nam.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào phản ứng của hai bên và so sánh với năm 2014, chúng ta có thể hiểu được ít nhiều tại sao lần này Việt Nam lại hành xử như vậy và không có những phản ứng quyết liệt như vào năm 2014.
Trong trường hợp này, chúng ta có hai lựa chọn. Thứ nhất là điều các tàu Việt Nam ra ngăn chặn, cản trở các hành vi vi phạm của phía Trung Quốc, như trong trường hợp năm 2014. Thứ hai là dùng các biện pháp phản đối ngoại giao và kiên nhẫn chờ Trung Quốc rút tàu vì một lý do nào đó. Có lẽ Việt Nam đã cân nhắc thiệt hơn và cho rằng chọn phương án thứ hai thì hợp lý hơn, vì những lý do như sau :
Nếu sử dụng phương án thứ nhất thì sẽ đẩy căng thẳng lên cao và có thể dẫn tới các phản ứng tiêu cực, như các cuộc biểu tình, bạo loạn chống Trung Quốc năm 2014. Đây là điều Việt Nam rất muốn tránh.
Thứ hai là, trong trường hợp Việt Nam đưa các tàu ra đâm, va vào tàu của Trung Quốc, do tương quan lực lượng thì Việt Nam yếu hơn, số lượng tàu ít hơn, cho nên có thể gây ra các thiệt hại cho lực lượng Việt Nam, mà lại không nhất thiết dẫn đến các kết quả mà Việt Nam mong muốn.
Thứ ba, tôi nghĩ cũng là nguyên nhân quan trọng, đó là so với vụ Trung Quốc năm 2014 hạ đặt giàn khoan trên vùng biển của Việt Nam, trường hợp tàu khảo sát của Trung Quốc, mặc dù đi ra đi vào rất là ngang nhiên, trắng trợn, nhưng hành động khảo sát ấy không nghiêm trọng bằng việc hạ đặt giàn khoan, không tới mức mà Việt Nam phải hành động cứng rắn.
Như chúng ta đã thấy, sau hơn 3 tháng thì Trung Quốc đã rút tàu khảo sát và tình hình đã trở lại nguyên trạng như lúc trước khi xảy ra vụ việc. Mặc dù vậy, rất có nhiều khả năng là trong thời gian tới, phía Trung Quốc sẽ tiếp tục có những hành động gây hấn, xâm phạm vùng biển Việt Nam. Việt Nam cũng phải suy nghĩ thêm những cách đối phó khác hiệu quả hơn những sự vi phạm trở lại của Trung Quốc đối với các vùng biển của Việt Nam".
Căng thẳng Việt Trung đã lên cao đến mức mà vào đầu tháng 11/2019, thứ trưởng ngoại giao Việt Nam Lê Hoài Trung đã tuyên bố, nếu các nỗ lực ngoại giao thất bại, chính phủ Việt Nam có thể sẽ sử dụng các cơ chế pháp lý quốc tế để ngăn chặn đà bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông. Đây cũng là đòi hỏi của công luận Việt Nam trong những tháng qua. Thế nhưng, vì sao Hà Nội chưa đưa vấn đề ra trước tòa án quốc tế, nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp giải thích :
"Đưa Trung Quốc ra một tòa trọng tài quốc tế để phân xử vẫn là lựa chọn mà Việt Nam đang suy nghĩ, cân nhắc và tôi hiểu là cũng cần có một sự chuẩn bị nhất định. Tuy nhiên, trong vụ Tư Chính cũng như trong các vụ việc khác, Việt Nam vẫn kiềm chế và chưa áp dụng biện pháp này.
Thứ nhất, kiện về vấn đề nào, kiện ở tòa án nào vẫn là vấn đề còn gây nhiều tranh cãi và có thể là chưa có sự đồng thuận trong phía Việt Nam để làm sao phương án này mang lại hiệu quả tối ưu cho Việt Nam, đồng thời giảm thiểu những hệ lụy về mặt chính trị, về mặt pháp lý mà Việt Nam có thể phải gánh chịu.
Thứ hai, biện pháp pháp lý, cho dù có thể mang lại chiến thắng cho Việt Nam, nhưng tác dụng thực tế có thể không như mong đợi. Chúng ta có thể nhìn vào vụ Philippines kiện Trung Quốc. Mặc dù Philippines thắng kiện, nhưng điều đó không mang lại tác dụng tích cực, tức thì cho phía Philippines và Trung Quốc vẫn tiến hành các vi phạm như chưa từng có phán quyết đó.
Trong trường hợp của Việt Nam cũng vậy, nếu Việt Nam thắng kiện thì chưa chắc đã đảo ngược được tình thế và Trung Quốc sẽ tiếp tục làm ngơ phán quyết đó và tiếp tục vi phạm các vùng biển của Việt Nam. Trong khi đó, nếu Việt Nam kiện Trung Quốc thì sẽ khiến quan hệ song phương xấu đi rất nhiều. Tôi nghĩ phía lãnh đạo Việt Nam chưa sẵn sàng chấp nhận quan hệ căng thẳng hơn với Trung Quốc, vì nó có thể gây ra nhiều hệ lụy, nhiều tác động, mà có thể phía Việt Nam chưa lường trước được hoặc chưa sẵn sàng để đối phó.
Việt Nam vẫn tiếp tục cân nhắc hành động pháp lý, nhưng đang trì hoãn thời điểm để thực hiện biện pháp đó và có thể sử dụng trong tương lai, khi mà thời điểm đã chín muồi hoặc là khi mà Việt Nam không có lựa chọn nào khác khả dĩ hơn để đối phó với các vi phạm của Trung Quốc".
Sách trắng Quốc phòng mới của Việt Nam được công bố vào tháng 11 cũng phản ánh mối lo ngại về nguy cơ Trung Quốc xâm lăng, như nhận định của chuyên gia phân tích cao cấp Lê Thu Hương, thuộc Viện Chính Sách Chiến Lược Úc (ASPI) trong một bài viết đăng trên trang mạng Foreign Policy ngày 06/12/2019.
Theo nhận xét của bà Lê Thu Hương, Sách trắng Quốc phòng đầu tiên từ 10 năm qua không nêu chi tiết về những thay đổi trong cơ cấu và tổ chức lực lượng quân sự Việt Nam, nhưng điều đáng quan tâm nhất đó là Sách trắng này nói rõ về bối cảnh chiến lược và chiến lược quốc gia để bảo vệ Tổ quốc.
Sách trắng Quốc phòng 2019 của Việt Nam nhấn mạnh tranh chấp Biển Đông là một trong những yếu tố đe dọa đến ổn định, hòa bình và thịnh vượng của khu vực. Chuyên gia Lê Thu Hương còn ghi nhận một điểm mới trong Sách trắng Quốc phòng 2019 : "Việt Nam không chấp nhận hợp tác quốc phòng dưới áp lực hoặc dưới những điều kiện áp đặt nào".
Điều này có nghĩa là Việt Nam bác bỏ mọi quan hệ đối tác bất lợi cho mình và khẳng định quyền tự chủ trong quyết định về các mối quan hệ quốc phòng và về các lợi ích an ninh, nhưng vẫn để mở cửa cho các hợp tác thân thiện để bảo vệ biên giới trên biển cũng như trên bộ. Lập trường này ngầm bác bỏ lập trường của Trung Quốc về Biển Đông, vốn chỉ muốn giải quyết tranh chấp trên cơ sở song phương, không chấp nhận các giải pháp đa phương, cũng như sự can dự của một nước thứ ba, như Hoa Kỳ.
Việc Trung Quốc gia tăng áp lực lên Việt Nam càng khiến Hà Nội xích gần lại Washington, nhưng Việt Nam trong thời gian tới sẽ vẫn duy trì chính sách "ba không" (không tham gia liên minh quân sự ; không liên kết với nước này để chống nước kia ; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác), theo nhận định của nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp :
"Theo tôi, Việt Nam vẫn kiên trì chính sách "ba không", như Sách trắng Quốc phòng 2019 vừa đề cập. Nhưng đó là về mặt chính thức, còn trên thực tế Việt Nam không để cho chính sách "ba không" ràng buộc, trói tay mình trong việc phát triển quan hệ hợp tác với các đối tác khác, để giúp Việt Nam có một ưu thế chiến lược tốt hơn trên Biển Đông và có thể cân bằng lại các sức ép của Trung Quốc. Chính vì vậy, trong thời gian qua, một mặt Việt Nam vẫn duy trì và tuyên truyền chính sách "ba không", mặt khác vẫn kiên trì mở rộng và làm sâu sắc hơn hợp tác quốc phòng với một số cường quốc chủ chốt, có chung các lợi ích chiến lược với Việt Nam trên hồ sơ Biển Đông, đặc biệt là Hoa Kỳ và Nhật Bản.
Cả hai nước này đều đã hỗ trợ Việt Nam rất nhiều trong việc xây dựng năng lực hàng hải để giúp Việt Nam đối phó tốt hơn với Trung Quốc trên Biển Đông. Những nước này cũng hỗ trợ Việt Nam rất nhiều trên mặt trận ngoại giao, cung cấp cho Việt Nam những sự hỗ trợ cần thiết khi Trung Quốc o ép Việt Nam trên Biển Đông.
Tôi nghĩ là trong thời gian tới, xu hướng này sẽ tiếp tục. Việt Nam sẽ cố gắng thúc đẩy hơn nữa hợp tác chiến lược với các cường quốc này, đặc biệt Nhật và Mỹ. Tuy nhiên, do Việt Nam vẫn muốn giữ sự cân bằng giữa Trung Quốc với Mỹ và các cường quốc khác, cũng như do các cam kết của Việt Nam với chính sách "ba không", mặc dù thúc đẩy quan hệ với các cường quốc, nhưng Việt Nam sẽ cố gắng thận trọng về tốc độ, cũng như phạm vi hợp tác, để làm sao vừa nâng cao vị trí chiến lược của mình, đặc biệt là trên Biển Đông, vừa bảo đảm là không bị Trung Quốc nhìn nhận là đã từ bỏ chính sách "ba không" hoặc chọn nghiêng về phía Mỹ và các đồng minh để chống lại Trung Quốc.
Đây sẽ là xu hướng tiếp diễn trong những năm tới và là một sự lựa chọn không hề đơn giản, sẽ có nhiều khó khăn, thử thách đối với Việt Nam trong thời gian tới".
Nhưng Hà Nội cũng ngày càng gặp khó khăn trong việc giữ thế cân bằng giữa hai siêu cường quốc đối địch, đó là nhận định của tờ Asia Times trong một bài viết đăng ngày 04/12/2019.
Lý do là vì, theo Asia Times, Trung Quốc rõ ràng là gây áp lực ngày càng mạnh để buộc Việt Nam từ bỏ các yêu sách chủ quyền trên Biển Đông, và ngưng thăm dò dầu khí tại các vùng đang tranh chấp. Nhưng đồng thời, Hoa Kỳ cũng phản ứng mạnh mẽ hơn trước những mưu đồ bành trướng của Bắc Kinh ở khắp vùng Châu Á - Thái Bình Dương. Trong các Sách trắng Quốc phòng do Lầu Năm Góc công bố, Trung Quốc ngày càng bị chỉ đích danh là kẻ thù của Mỹ.
Nếu Hà Nội không còn giữ tư thế trung lập và ngả theo Trung Quốc nhiều hơn thì họ gần như chắc chắn là sẽ phải từ bỏ một số yêu sách chủ quyền ở Biển Đông, và đổi lại Bắc Kinh chắc là sẽ hứa gia tăng đầu tư và trao đổi mậu dịch với Việt Nam.
Cũng theo Asia Times, về mặt chính trị, ngả hoàn toàn theo Trung Quốc sẽ làm xấu đi hình ảnh của đảng đối với người dân, vốn có tinh thần chống Trung Quốc ngày càng mạnh. "Chơi với Mỹ mất chế độ, chơi với Trung Quốc mất nước". Nhưng theo Asia Times, ngả hẳn theo Trung Quốc thật ra sẽ khiến chế độ cộng sản sụp đổ nhanh hơn là ngả hẳn theo Mỹ.
Tuy nhiên, Hà Nội chắc là vẫn nghi ngại không biết Hoa Kỳ có sẽ bảo vệ Việt Nam trong trường hợp xung đột vũ trang với Trung Quốc hay không. Nhiều người trong khu vực vẫn còn nhớ là vào năm 2012, Washington đã không có phản ứng gì khi Bắc Kinh chiếm bãi cạn Scarborough từ Philippines, một đồng minh đã ký hiệp định phòng thủ với Hoa Kỳ.
Thanh Phương
Nguồn : RFI, 31/12/2019
Một nước muốn độc lập, tự chủ với một nước khác trước hết phải độc lập, bình đẳng về kinh tế. Ngược lại là bán nước cho giặc.
Một nước muốn độc lập, tự chủ với một nước khác trước hết phải độc lập, bình đẳng về kinh tế. Ngược lại là bán nước cho giặc.
Trung Quốc đã, đang xâm lược Việt Nam cả bằng vũ khí "cứng" và "mềm".
- Cứng : Năm 1978 Trung Quốc tài trợ kinh tế, vũ khí, cố vấn cho Polpot đánh phá biên giới tây nam đốt phá nhiều làng mạc giết hại hàng nghìn dân ta. Năm 1979 Trung Quốc xua 60 vạn quân xâm lược 6 tỉnh biên giới phía bắc triệt hạ hầu hết làng mạc, phố sá, tàn sát man rợ hàng vạn dân, quân ta như thời trung cổ.
Năm 1999 Trung Quốc "kiếm" được nhiều vùng lãnh thổ biên giới phía bắc, ải Nam Quan, 1/2 thác Bản Giốc, đã chiếm toàn bộ Hoàng Sa, phần lớn Trường Sa, liên tục quấy phá xâm phạm các vùng đặc quyền kinh tế của ta trên biển đông, đang tiến tới chiếm toàn bộ biển đông theo đường "lưỡi bò". Ở sát biên giới phía bắc Việt Nam, Trung Quốc đã, đang bố trí những trận địa hợp thành các quân, binh chủng khổng lồ, tên lửa tầm trung mang đầu đạn hạt nhân chĩa vào Hà Nội và các thành phố của Việt Nam. Ở phía tây bằng con mồi kinh tế, Trung Quốc đã khống chế Lào, thiết lập những công trình thủy điện trên sông Mekong phá hoại đồng bằng sông Cửu Long, ở tây nam, Trung Quốc viện trợ, đặt căn cứ quân sự ở Campuchia sẵn sàng thọc sau lưng Việt Nam. Phía đông Trung Quốc thiết lập các căn cứ quân sự bao vây, quấy phá biển đông từ đảo Hải Nam đến bãi Tư Chính…
- Mềm : Trung Quốc dùng ít nhất 30% vốn đầu tư ban đầu đút lót các quan chức tham nhũng đưa vào Việt Nam các dự án công nghệ lạc hậu, độc hại, dây dưa tiến độ tăng khống vốn đầu tư bào mòn nền kinh tế Việt Nam. Trong 12 dự án thua lỗ hàng trăm, nghìn, vạn tỷ như đạm Ninh Bình, Hà Bắc, gang thép Thái Nguyên, đường sắt Cát Linh-Hà Đông… hầu hết là vay tiền và nhà thầu từ Trung Quốc. Đặc biệt họ nhái, làm giả các loại hàng tiêu dùng từ cái kim, sợi chỉ đến máy móc, quần áo, xe cộ, thiết bị… của nước ngoài và Việt Nam tuồn vào nước ta bán với giá rẻ mạt làm suy yếu và tê liệt nhiều ngành sản xuất trong nước. Trung Quốc cũng in tiền giả liên tục tuồn vào Việt Nam phá hoại nền tài chính nước ta. Họ nghiên cứu chế tạo ma túy đá, chất bảo quản, gia, hương vị độc hại để đám thương nhân Việt Nam tham lam, bất nhân tuồn về nước đầu độc nòi giống Việt Nam… Các đặc khu kinh tế ở Trung Quốc, tam giác vàng ở ngã ba biên giới Myanma, Bò Tèn ở Lào… là những sào huyệt sản xuất ma túy đá đầu độc các nước xung quanh.
Đặc biệt trong lĩnh vực mậu dịch Trung Quốc dùng tiền bạc đút lót mua rẻ các nguyên liệu, khoáng sản Việt Nam với giá bèo và tuồn sang Việt Nam hàng hóa kém chất lượng giá rẻ để vùi dập nền kinh tế Việt Nam, biến nước ta hành nơi chứa rác thải của Trung Quốc.
Năm 2018 mỗi ngày trung bình Việt Nam xuất sang Trung Quốc 11.000 tấn quặng (chưa tính xuất lậu, khai gian) và nhập than của Trung Quốc với giá đắt nhất thế giới. Mỗi năm Việt Nam thặng dư mậu dịch với Mỹ cỡ 35 tỷ USD chưa đủ bù đắp cho nhập siêu với Trung Quốc. Từ 2013-2018 thâm hụt của Việt Nam với Trung Quốc 150 tỷ USD. Trên lĩnh vực biên mậu, Trung Quốc luôn "đánh bẫy", phá hoại kinh tế Việt Nam bằng cách mua đắt hàng hóa, nông sản của Việt Nam một thời kỳ để dân ta chúi mũi sản xuất rồi bất ngờ không mua nữa, gây khó khăn việc thông quan ở các cửa khầu làm cho hàng hóa Việt Nam ùn ứ, hư hỏng hoặc phải bán cho thương nhân Trung Quốc giá bèo. Họ còn vung tiền mua các loại sản phẩm để phá hoại kinh tế, môi trường Việt Nam như mua giun, đỉa,các loại rễ, lá cây, móng trâu…
Chiến lược thôn tính, tiến tới xóa sổ Việt Nam của độc tài toàn trị Trung Quốc không còn phải bàn cãi.
Thế nhưng xem ra Việt Nam chưa có ý thức gì về việc này mà cứ coi kẻ xâm lược là "đối tác chiếc lược" đối xử với họ bình đẳng như với các đối tác văn minh khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, EU… Ngày 14/11/2019 bộ trưởng Giao thông và vận tải Nguyễn Văn Thể còn tuyên bố : "Hợp tác Việt Nam-Trung Quốc sắp tới trong lĩnh vực giao thông và vận tải chắc chắn sẽ có nhiều kết quả tốt đẹp hơn nữa" và "Việt Nam đang hoàn tất các tuyến cao tốc nối liền với Trung Quốc…".
Thật đau đớn khi đường sá các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long vựa lúa, cá của cả nước với 20 triệu dân thì đường sá quá thiếu thốn nhưng ưu tiên làm đường nối với kẻ xâm lược ? Do là "đối tác chiến lược" dẫn đến Trung Quốc luôn thắng thầu trong các cuộc đấu thầu các dự án trọng yếu để họ phá phách nền kinh tế Việt Nam. Đặc biệt Việt Nam còn cho lưu hành tiền Trung Quốc ở các tỉnh biên giới (thực tế là cả nước) càng tăng thêm việc phụ thuộc Trung Quốc. Nhà chức trách Việt Nam để thương nhân Trung Quốc tung hoành trên lãnh thổ, thị trường Việt Nam. Họ mua nhà, "cài cắm" người, camera gián điệp của Trung Quốc được lắp ở khắp hang cùng ngõ hẻm Việt Nam...
Bề ngoài quan hệ biên mậu với Trung Quốc một bộ phận nông dân ta bán được lượng nông sản nhưng rất bấp bênh. Cỡ 2/3 thị phần hàng tiêu dùng ở Việt Nam là của Trung Quốc chất lượng thấp giá rẻ trước mắt làm giảm lạm phát cho nền kinh tế Việt Nam nhưng phá hoại môi trường và làm suy yếu, bóp chết nhiều ngành sản xuất trong nước, cuối cùng là bao nhiêu ngoại tệ Việt Nam thu được từ các thị trường khác vào túi Trung Quốc. Nói chung quan hệ thương mại với Trung Quốc chỉ có hại cho nền kinh tế Việt Nam. Đặc biệt nguy hiểm là khi nào Trung Quốc muốn chiếm cứ toàn bộ Việt Nam thì trước hết chỉ cần cấm vận kinh tế sẽ lập tức làm kinh tế-xã hội Việt Nam hốn loạn. Bài học nhãn tiền tháng 4/2014 tàu HD 981 của Trung Quốc xâm phạm biển đông dân ta phản đối, một bộ phận khách Trung Quốc rút khỏi thị trường du lịch Việt Nam lập tức làm các chuyến bay, chuyến tàu, nhà hàng, khách sạn… trống rỗng, ngành dịch vụ lao đao.
Vì vậy, nền kinh tế Việt Nam từ từ tách khỏi sự đô hộ của nền kinh tế Trung Quốc tìm những đối tác văn minh, bình đẳng ở những thị trường khác là sự sống, còn của Việt Nam.
Một nước muốn độc lập, tự chủ với một nước khác trước hết phải độc lập, bình đẳng về kinh tế. Ngược lại là bán nước cho giặc.
Có thể khẳng định những ai chủ trương tăng cường kinh tế với Trung Quốc là ngu dốt hoặc "tay trong" của kẻ xâm lược.
Nguyễn Đình Ấm
Nguồn : VNTB, 20/11/2019
Trong khi Hà Nội đe dọa kiện Trung Quốc ra Tòa trọng tài tại The Hague, Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền trên biển của họ bắt nguồn từ "sự kiện lịch sử".
Vừa ăn cướp vừa la làng
Trung Quốc đang tăng áp lực cho Việt Nam ở Biển Đông, kêu gọi Hà Nội tránh kiện ra tòa trọng tài quốc tế về vấn đề tranh chấp lãnh thổ.
Cảnh Sảng, một phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc, ngày 8/11 cho biết, Việt Nam cần tránh các hành động có thể làm phức tạp vấn đề hoặc phá hoại hòa bình và ổn định ở Biển Đông cũng như quan hệ song phương.
Cảnh Sảng cũng tuyên bố rằng Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự thật lịch sử, mà theo ông ta có lẽ có nghĩa là Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với các đảo và nơi tranh chấp ở Biển Đông từ nhiều thế kỷ trước.
Về phần mình, Việt Nam gần đây đã phát đi tín hiệu có thể tìm kiếm trọng tài và thậm chí là kiện tụng nếu các cuộc đàm phán song phương không sớm đưa ra một giải pháp được hai bên thống nhất.
Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Lê Hoài Trung mới đây cho biết các tranh chấp của họ, bao gồm cả Bãi Tư Chính nơi hai bên đã đối đầu kéo dài nhiều tháng, nên được giải quyết theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS).
Tất nhiên, vấn đề là Trung Quốc sẽ không công nhận bất kỳ phán quyết trọng tài quốc tế nào được coi là không tương đồng với lợi ích của họ. Bắc Kinh đã đưa ra lập trường rõ ràng vào tháng 7 năm 2016 khi Tòa án Trọng tài Thường trực (PCA) có trụ sở ở Hague phán quyết có lợi cho Philippines hơn là cho Trung Quốc.
Theo phán quyết mang tính bước ngoặt đó, bản đồ Trung Quốc, còn được gọi là bản đồ đường lưỡi bò, bao gồm gần 90% Biển Đông, không có giá trị theo luật quốc tế, bao gồm cả UNCLOS. Trung Quốc bỏ qua thực tế là họ đã ký và phê chuẩn UNCLOS, và thẳng thừng từ chối phán quyết.
Phản ứng đánh giá lại của Trung Quốc đối với các động thái của Philippines và Việt Nam đã đặt ra câu hỏi về vấn đề lớn hơn đối với Bắc Kinh trong việc tuân thủ các quy ước quốc tế, cũng như các cam kết đã nêu.
Lính hải quân Trung Quốc PLA trên một tàu chiến ở Biển Đông. Ảnh : Twitter
Tiền hậu bất nhất
Vào tháng 9 năm 2015, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đứng bên cạnh Tổng Thống Mỹ lúc đó là Barack Obama tại Vườn hồng bên ngoài Nhà Trắng ở Washington và tuyên bố long trọng rằng Trung Quốc không có ý định theo đuổi quân sự hóa Biển Đông.
Ngày nay, Trung Quốc đã biến một số bãi cạn và rạn san hô thành những hòn đảo có trang bị radar, đường băng cho máy bay quân sự, nơi trú ẩn cho tàu chiến và cơ sở hạ tầng cho tên lửa nhằm đã mở rộng tầm với của quân đội Bắc Kinh. trong chiến lược hàng hải.
Các nhà quan sát ngoại giao trong khu vực cũng nhắc lại rằng người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lục Khảng vào tháng 6 năm 2017 đã bác bỏ các điều khoản của Tuyên bố chung Trung-Anh năm 1984 về tương lai của Hồng Kông, theo đó thuộc địa của Anh sẽ trao lại cho Trung Quốc vào năm 1997.
Theo thỏa thuận, được ký kết tại Bắc Kinh bởi thủ tướng Triệu Tử Dương và thủ tướng Anh Margaret Thatcher, Hồng Kông sẽ vẫn tự trị và không có gì thay đổi trong 50 năm sau khi bàn giao.
Nhưng, vào năm 2017, Lục Khảng đã tuyên bố rằng "bây giờ Hồng Kông đã trở về hai mươi năm nay thì Tuyên bố chung Trung-Anh không còn có ý nghĩa thực tế nào nữa vì đó là một tài liệu lịch sử . Tôi hy vọng các bên liên quan sẽ lưu ý đến thực tế này".
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte trong bữa tiệc chiêu đãi tại Dinh Tổng thống Malacanang ở Manila, ngày 20 tháng 11 năm 2018. Ảnh : AFP / Pool / Mark R Cristino
Bằng chứng lịch sử ?
Đối với các sự kiện lịch sử của Trung Quốc ở các đảo mà họ tuyên bố ở Biển Đông, các sự kiện đã từng bị tòa PCA The Hague từ chối, những người vẽ bản đồ Trung Quốc cổ đại không nghi ngờ gì về sự tồn tại của chúng.
Nhưng nhà thám hiểm và thương nhân thế kỷ 15 Trương Cáp ( Zhang He) đã được Trung Quốc đã đề cập đến để chứng thực tính hợp pháp lịch sử đối với các yêu sách của Bắc Kinh, đã không đến thăm, hoặc thậm chí không đề cập đến những hòn đảo này.
Các tài khoản và bản đồ chi tiết được biên soạn bởi Trịnh Ông phụ tá Ma Huân liệt kê hơn 700 địa điểm ở Đông Nam Á và Ấn Độ Dương, trong số đó có các đảo và cảng xa xôi ở Andamans, Nicobars, Maldives và Lakshadweep, nhưng không phải là một vùng đất ở Biển Đông.
Lý do khá đơn giản : các tính năng hiện đang được đề cập không thực sự là các hòn đảo, mà là các bãi cạn tồi tàn và các rạn san hô dưới nước mà hải quân cổ đại, bao gồm cả hạm đội gỗ của Trịnh Hòa, đi vòng qua để tránh bị đắm tàu.
Nhưng điều đó đã không ngăn cản Bắc Kinh đưa ra những khẳng định xét lại và gần đây nhất là củng cố những tuyên bố đó bằng cách biến những bãi cát và đá ngầm thành những hòn đảo nhân tạo. Trong khi đó Bất kỳ quan điểm đối lập nào đều được Bắc Kinh coi là sự can thiệp vào các vấn đề nội bộ của Trung Quốc.
Coi thường nước nhỏ
Sự coi thường vượt bậc của Trung Quốc đối với các điều ước quốc tế sẽ không được cộng đồng quốc tế gồm các nước nhỏ hơn, ít mạnh hơn chấp nhận. Nhưng các nhà phân tích cho biết, Trung Quốc - một cường quốc mới nổi có thể và thường xuyên phô trương sức mạnh, cho đến nay vẫn có thể thoát ra được.
Derek Grossman, một nhà phân tích cao cấp của Rand Corporation có trụ sở tại Hoa Kỳ, nói với các nhà báo Philippines ở Washington vào ngày 9 tháng 11 rằng quyết định gần đây của Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte có thể tham gia thăm dò dầu khí chung với Trung Quốc ở Biển Đông có thể được hiểu là một phần thưởng cho việc bỏ qua phán quyết của năm 2016 của PCA.
Cuộc thăm dò chung sẽ diễn theo "điều khoản" của Bắc Kinh, và trên thế giới "dưới sự bảo trợ của Trung Quốc", ông Gross Grossman tuyên bố trong cuộc phỏng vấn báo chí. Đặc biệt là Duterte đã có năm chuyến công du Trung Quốc kể từ khi đảm nhận nhiệm kỳ tổng thống vào giữa năm 2016, và không có chuyến nào tơi quốc gia đồng minh truyền thống của Philippines là Hoa Kỳ.
Hải quân Trung Quốc và Philippines đã đối đầu với nhau gần các hòn đảo đang tranh chấp vào năm 2012, dẫn đến việc Manila đã đệ trình vụ án với PCA vào năm sau và phán quyết ba năm sau đó (2016).
Nhưng, vào đầu tháng 11 năm nay, Manila đã nhượng bộ các yêu sách của Trung Quốc bằng cách đồng ý một lần nữa đóng dấu hộ chiếu Trung Quốc với bản đồ đường chín đoạn, công nhận bản đồ chính thức của khu vực Trung Quốc.
Trong số tất cả các quốc gia có yêu sách chồng lấn với Trung Quốc ở Biển Đông, trong đó có Việt Nam, Malaysia, Philippines, Brunei và Đài Loan, chỉ có Việt Nam đứng lên để phản đối sự bành trướng của Trung Quốc trong khu vực.
Một binh sĩ hải quân Việt Nam quan sát một vụ thử tên lửa ở Biển Đông năm 2016. Ảnh: Facebook
Vào tháng 10, một tàu khảo sát dầu của Trung Quốc đã rời khỏi vùng biển do Việt Nam kiểm soát sau khi hải quân kéo dài ba tháng đối với Bãi Tư Chính đang tranh chấp. Vào thời điểm đó, Bộ Ngoại giao Hà Nội đã cáo buộc tàu Trung Quốc và tàu hộ tống vi phạm chủ quyền của Việt Nam.
Hà Nội không quên rằng quân đội Việt Nam và Trung Quốc đã đụng độ gần các đảo Biển Đông vào năm 1988. Bị hải quân Trung Quốc tấn công, Việt Nam buộc phải rút lui và sự cố chết chóc kết thúc với việc Trung Quốc chiếm giữ sáu rạn san hô mà trước đây không kiểm soát được.
Người Việt Nam tiếp tục nói rằng họ thích giải quyết tranh chấp thông qua các cuộc đàm phán song phương, mặc dù đã có lựa chọn kiện ra tòa án trọng tài quốc tế.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng gần đây đã khẳng định rằng cốt lõi của vấn đề Biển Đông là Việt Nam và các nước yêu sách khác đã xâm chiếm và chiếm giữ các đảo Trung Quốc.
Khánh Anh dịch
Nguồn : VNTB, 18/11/2019
Nêu tên Trung Quốc còn không dám thì làm sao ngồi ghế Chủ tịch ASEAN ?
Với quốc tế, cái cảnh những con tàu mang tên Hải Dương quần đảo ở Bãi Tư Chính và còn có thể áp sát đất liền Việt Nam đã trở nên nhàm chán. Càng nhàm chán hơn khi gã chủ nhà câm như hến mà không dám kêu cứu khi bị kẻ cướp xông vào nhà.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Thủ tướng Lý Khắc Cường (Trung Quốc)
Tại Hội nghị cấp cao ASEAN 35 vào tháng 11 năm 2019 ở Thái Lan, sau khi thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc "nêu rõ vừa qua, có những vụ việc nghiêm trọng vi phạm luật pháp quốc tế xảy ra trên vùng biển khu vực và Việt Nam, tuy mới chấm dứt gần đây nhưng để lại những bài học sâu sắc cho ASEAN", nhưng vẫn không một từ dám đả động đến Bãi Tư Chính và cái tên Trung Quốc, đã chẳng có bất kỳ ý kiến nào từ các nước trong ASEAN bày tỏ ‘ủng hộ Việt Nam’, bất chấp Việt Nam sẽ là chủ tịch luân phiên của khối này vào năm 2020.
Đây không phải lần đầu tiên Thủ tướng Phúc ‘câm như thóc’ trước Trung Quốc.
Vào ngày 4/9/2019 trong một cuộc họp Chính phủ thường kỳ tháng 8 tại Hà Nội, lần đầu tiên ông Phúc có một phát ngôn về tình hình ở Biển Đông kể từ khi Trung Quốc đưa tàu Hải Dương 8 vào hoạt động tại khu vực Bãi Tư Chính từ ngày 3/7/2019. Thế nhưng vẫn chỉ là "Chúng ta đã kiên trì, kiên quyết đấu tranh bằng mọi biện pháp đối với các hoạt động của nước ngoài vi phạm chủ quyền trên biển của ta" mà không hề dám nhắc đến vụ khủng hoảng Bãi Tư Chính và cái tên Trung Quốc.
Cho tới nay, người ta chỉ nhìn thấy một thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc luôn ‘tự sướng’ với lới ca tụng bất tận những thành tích điều hành kinh tế của ông ta về mức tăng trưởng GDP thần kỳ, bất chấp bị dư luận lên án là căn bệnh ‘giả số liệu’ mà Phúc đã chỉ đạo Tổng cục Thống kê ‘kiến tạo’, hoặc cái cách Thủ tướng Phúc năng nổ đi nhiều tỉnh thành với câu nói đầu môi chót lưỡi ‘mỗi tình là một đầu tàu kinh tế’…
Tất cả chỉ nhằm nâng cao ‘hình ảnh và uy tín’ của Nguyễn Xuân Phúc để ông ta lao vào trận tranh giành cái ghế tổng bí thư, hoặc ghế đúp tổng bí thư - chủ tịch nước tại đại hội 13 của đảng cầm quyền vào năm 2021, nếu còn có đại hội đó.
Toàn bộ chứng tự kỷ chính trị câm nín ấy diễn ra trong bối cảnh đã gần bốn tháng kể từ ngày Trung Quốc điều tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8 và các tàu hộ vệ cho tàu này xâm phạm Bãi Tư Chính như vào chốn vô chủ quyền, nhưng lực lượng cảnh sát biển và hải quân Việt Nam vẫn chưa một lần dám nổ súng cảnh cáo. Trong khi đó, toàn bộ chóp bu Việt Nam từ Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Xuân Phúc, Nguyễn Thị Kim Ngân trở xuống vẫn kiên định ‘câm như hến’ mà không một lần dám nêu tên Trung Quốc, càng không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy giới ‘văn dốt, võ dát’ này dám kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế.
Rốt cuộc, thói câm nín khiếp nhược toàn diện của giới chóp bu Việt Nam đã tặng cho Trung Quốc những món quà lớn về mặt ngoại giao quốc tế : tại Hội Nghị Các Bộ Trưởng ASEAN diễn ra ở Thái Lan vào cuối tháng Bảy, đầu tháng Tám 2019, bất chấp phía Việt Nam đã tìm cách vận động các quốc gia ASEAN để phản đối xâm phạm Bãi Tư Chính nói riêng và rộng hơn là Biển Đông, tuyên bố của Hội nghị đã chỉ đề cập khá chung chung và "quan ngại" về tình hình Biển Đông mà không hề nhắc đến cái tên Trung Quốc.
Về thực chất, Bắc Kinh đã đạt được thắng lợi bước đầu khi dần biến Bãi Tư Chính từ ‘vùng chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam’ thành ‘khu vực tranh chấp’, trước khi nhốt thẳng cánh vùng biển dồi dào dầu khí phục vụ ngân sách nuôi đảng này vào ‘vùng chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc’.
Chỉ vừa tròn một tuần lễ sau khi tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc rút khỏi khu vực Bãi Tư Chính, hai tàu khác - mang tên Hải Dương Thạch Du 618 và Hải Dương Thạch Du 620 (Haiyang Shiyou) - đã trám ngay vào khoảng trống Biển Đông, đi qua đường phân định trên biển và đi sâu vào vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam, cách bờ biển Quảng Bình khoảng 65km.
Nhưng mối nguy hiểm vào lần này đối với ‘đảng em’ Việt Nam còn lớn hơn gấp bội so với vụ Hải Dương 8, vì cả hai tàu Hải Dương Thạch Du 618 và 620 đều có nhiệm vụ hỗ trợ cho việc hạ đặt, thăm dò, khai thác cho các giàn khoan dầu khí.
Còn với quốc tế, cái cảnh những con tàu mang tên Hải Dương quần đảo ở Bãi Tư Chính và còn có thể áp sát đất liền Việt Nam đã trở nên nhàm chán. Càng nhàm chán hơn khi gã chủ nhà câm như hến mà không dám kêu cứu khi bị kẻ cướp xông vào nhà.
Tất cả vẫn chỉ là ‘ngư dân bám biển, hải quân bám bờ’ !
Nêu tên Trung Quốc còn không dám thì làm sao dám kiện Bắc Kinh ra tòa án quốc tế ?
Và làm sao chóp bu Việt Nam ngồi được ghế Chủ tịch ASEAN năm 2020 ?
Thường Sơn
Nguồn : VNTB, 07/11/2019
Có phải câu chuyện tập trung quyền lực Trung Quốc là bài học cho Việt Nam ?
Đến nay, chính trường Việt Nam đặt ra một câu hỏi mang tính thực tiễn đối với chính Đảng cộng sản Việt Nam và bản thân nền xã hội : tập trung quyền lực cá nhân là lâu dài hay ngắn hạn ?
Tập Cận Bình và Nguyễn Phú Trọng nâng ly chúc mừng tình đồng chí giữa hai Đảng cộng sản - Ảnh minh họa
Khi là lâu dài, thì hệ quả sẽ như thế nào ? Và nếu ngắn hạn thì tương lai chính trị Việt Nam có thể diễn biến ra sao ? Vai trò của ông Nguyễn Phú Trọng sẽ thế nào ?
Câu hỏi trên sẽ giải quyết luôn câu hỏi về việc, có hai không việc tách hai chức danh (Chủ tịch nước, Tổng bí thư) sau kỳ Đại hội Đảng vào năm 2021 ?
Trong câu chuyện của CNBC vào ngày 28/9 bàn về quyền lực của Tập Cận Bình đã diễn đạt rằng : Trung Quốc đạt những cơ hội và thách thức thông qua tập trung quyền lực tối đa vào tay một người.
Vào tháng 3/2018, Hiến pháp Trung Quốc loại bỏ giới hạn nhiệm kỳ cho Chủ tịch nước, và kết quả, Tập Cận Bình có thể nắm giữa ba vai trò quan trọng ở đất nước này, ít nhất cho đến năm 2027, bao gồm Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch Nhà nước Trung Quốc, và Chủ tịch Quân ủy Trung ương Giải phóng Quân Trung Quốc.
Tập Cận Bình về mặt lý thuyết lẫn thực tế đã trở thành một ông vua, ngồi cạnh Mao Chủ tịch.
Điều tích cực mà tập trung quyền lực mang lại cho Tập Cận Bình là chiến dịch chống tham nhũng đã tăng tốc và thu được những thăng lợi đáng kể. 1,5 triệu quan chức Trung Quốc bị trừng phạt.
Vào ngày 1/10 tới, Trung Quốc sẽ có quyền tự hào về thành quả chấn chỉnh Đảng dưới bàn tay quyền lực của ‘Tập Cận Bình vĩ đại’, và các biểu ngữ lẫn chương trình kỷ niệm 70 năm ra đời của nhà nước Cộng sản Trung Quốc được CNBC diễn giải là, ‘vừa vừa thể hiện sức mạnh quốc gia vừa là phương tiện để nhấn mạnh sự lãnh đạo cá nhân vô song, quyết đoán của Tập’.
Trong ngày diễn ra kỷ niệm thành lập nước, các nhân vật nhạy cảm bị gác cửa hoặc dẫn đi nơi khác ; máy bay, bóng bay, chim bay sẽ ‘tạm dừng hoạt động’. Và một số thành phố của Trung Quốc đang cấm các quan chức tiêu thụ rượu trong thời gian diễn ra cuộc diễu bình.
Tuy nhiên, Trung Quốc dưới bàn tay của ‘Tập đại đế’ lại đối mặt với những vấn đề khó khăn : già hóa dân số, nền kinh tế chậm lại, các cuộc biểu tình ở Hồng Kông tiếp tục, Mỹ tăng cường hỗ trợ cho chủ quyền của Đài Loan trước cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 1/2020 và sự thiếu hiệu quả không thể tránh khỏi trong kiểm soát của đảng.
Tập quyền lực, nhưng lại trở thành người dễ bị tổn thương, khi những vấn đề không thể lường trước được đang ập tới Trung Quốc.
Elizabeth cho CNBC biết : sự kiểm soát đảng quá nhiều với bàn tay quyền lực của Tập đã góp phần trì trệ kinh tế Trung Quốc. Hay củng cố kiểm soát nhà nước trong nền kinh tế khiến khu vực kinh tế tư nhân trở nên kém năng động hơn, làm gia tăng các mối nghi ngờ ở khối doanh nghiệp FDI, khi mà sự thâm nhập sâu rộng của đảng vào hoạt động kinh doanh của Trung Quốc đã khiến cho tất cả các công ty Trung Quốc trở thành vũ khí mở rộng của Đảng Cộng sản.
Đó là câu chuyện của Trung Quốc, còn Việt Nam thì sao ?
Mới đây, The Diplomat đăng tải một nhận định của David Hutt về sức khỏe của Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng. Bài viết mô tả vai trò đáng kinh ngạc của sức khỏe nhà lãnh đạo này, trong hoạt động nâng cấp quan hệ với Mỹ, và trong giữ trật tự nội bộ Đảng cộng sản Việt Nam không rơi vào tình trạng bất ổn định.
Cũng giống như Tập, ông Trọng nhận trong tay ‘quyền lực tối đa’ với ba chức vụ tương đương, và hàng loạt quan chức cao cấp phải hầu tòa và vào tù vì những hành vi tham nhũng trước đó. Ông Trọng cũng tăng cường vai trò đảng trong nền kinh tế, bao gồm khuyến khích thành lập chi bộ đảng trong các cơ sở kinh tế tư nhân.
Điểm khác, có vẻ như là cách nhìn của ông Trọng đối với nền kinh tế tư nhân, khi vào tháng 5, trong phát biểu khai mạc Hội nghị T.Ư 10 (khóa XII), ông đã tuyên bố, 'đừng kỳ thị kinh tế tư nhân, và nơi nào làm tốt thì phải phong danh hiệu anh hùng.' Và thời kỳ hiện nay, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng khá tốt so với thời kỳ của nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Tổng bí thư Nông Đức Mạnh.
Chiến lược ôm ấp ‘kinh tế tư nhân’ được hiểu như sắp xếp lại vai trò trọng yếu của các thành phần kinh tế theo thời cuộc, và đảm bảo một nền kinh tế hiệu quả, nhằm nạp thêm ngân khố trong tình trạng kiệt quỹ sau năm 2016.
Việt Nam cũng không có vấn đề mà Trung Quốc gặp phải, thậm chí thương chiến Trung – Mỹ còn góp phần đẩy khối doanh nghiệp FDI sang Việt Nam. Đối với các cảnh báo của Tổng thống Donald Trump, Việt Nam linh động giải quyết bằng 5 tỷ USD để mua hàng hóa của Mỹ nhằm xóa gánh nặng thâm hụt thương mại giữa hai quốc gia.
Thế nhưng, dưới bàn tay chỉ đạo của ông Nguyễn Phú Trọng, đó là sự cân đối hài hòa các lợi ích trong tổng thể nhóm người cầm quyền, và việc tranh giành quyền lực không diễn ra. Tuy nhiên, đúng như David Hutt nhận định, sức khỏe yếu đi của người đứng đầu Đảng và Nhà nước Việt Nam sẽ khiến chính trị Việt Nam mất tính ổn định lẫn cơ hội cho quốc gia.
Một là, nâng cấp quan hệ Mỹ-Việt thiếu vắng người đứng đầu. Và hai là, phát sinh nhu cầu chiếm giữ quyền Chủ tịch nước kiêm Tổng bí thư trong nhóm nhân vật chính trị hàng đầu của Việt Nam, vì ai cũng thể hiện nhu cầu được ‘thăng cấp’ trong chính trị.
Nền chính trị Việt Nam ổn định ở quyền lực cá nhân tuyệt đối sẽ trở nên tổn thương bởi sức khỏe của người nắm quyền lực đó.
Bản thân một nền chính trị từ chối ‘cá nhân hóa quyền lực’ cũng sẽ lúng túng trước câu chuyện liên quan đến tách hay vẫn giữ kiêm nhiệm hai chức danh Chủ tịch nước và Tổng bí thư ? Bởi lẽ, sự kiêm nhiệm đem lại quyền lực theo quy trình để giải quyết nhanh gọn các vấn đề liên quan đến tham nhũng, nhưng kéo đi lâu dài là điều mà bản thân các chính trị gia nằm trong Bộ chính trị khó chấp nhận được. Một ‘lãnh tụ Hồ Chí Minh’, hay ‘nhà lãnh đạo Lê Duẩn’ dường như là quá đủ, đặc biệt ông Lê Duẩn và quyền lực tối đa nắm trong tay với những hệ lụy kinh tế là một bài học không nhỏ đối với Đảng cộng sản Việt Nam.
Trong ngắn hạn, nền chính trị Việt Nam vẫn bất ổn trong màng phủ ổn định, và ông Nguyễn Phú Trọng buộc phải ‘gồng gánh’ và kéo dài sức khỏe ‘ổn định’ cho đến khi Đại hội sắp tới (2021) diễn ra thành công tốt đẹp. Đồng thời từ đây đến khi Đại hội diễn ra, ông Nguyễn Phú Trọng phải quyết định chính chức danh kiêm nhiệm, hoặc tách ra để cuộc chiến chống tham nhũng giảm bớt sức răn đe, hoặc tiếp tục nhập vào và kỳ vọng một nhà lãnh đạo kế nhiệm ‘tài và đức’. Nhưng ở vế hai, để tìm ra một người ‘tài đức’ trong hệ thống bầu bán theo mô hình ủy nhiệm trong đảng (thay vì trong dân), thì rất khó để tìm ra một người có tầm nhìn và định hướng như thế.
Việc duy trì thành tựu chống tham nhũng nếu tách lại hai chức danh như cũ, nếu dựa trên Bộ quy tắc mới được cung bố gần đây (Quy định 2015/2019 về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền), thì tính răn đe có giới hạn, bởi từng có nhiều bộ quy tắc được ban ra bởi Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam, nhưng hầu hết, bằng cách này hay cách khác, trở nên vô hiệu với đội ngũ cán bộ sơ-trung-và cao cấp.
Hệ thống quyền lực độc tôn đưa đến suy thoái độc tôn.
Trong khi đó, những thụ hưởng từ thương chiến Mỹ - Trung, nguồn dân số ‘vàng’… có thể dễ dàng bị đánh mất nếu như chính trị Việt Nam không nhạy bén theo thời cuộc.
An Viên
Nguồn : VNTB, 30/09/2019
Tình hình Biển Đông hiện nay đang xuất hiện ba xu hướng : Trung Quốc tăng cường xâm lấn chủ quyền của Việt Nam ; Hà Nội lúng túng ; và người dân Việt phần lớn bày tỏ sự lãnh đạm.
Gấu sao Trung Quốc độc chiếm Biển Đông - Tranh biếm họa
Trung Quốc và an ninh năng lượng dầu khí
Vào ngày 22/9, Global Times xuất bản nội dung bài viết, cho biết thành công của một tập đoàn năng lượng nước này trong làm chủ công nghệ để tìm kiếm, thăm dò dầu khí nước sâu ở Biển Đông. Tập đoàn dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc (CNOOC), đã thiết lập một lý thuyết về tích tụ khí đốt tự nhiên ở vùng nhiệt độ và áp suất cao của lưu vực Ying-qiong, một khu vực khí mới được phát hiện ở vùng biển gần đảo Hải Nam.
Bài viết dẫn lời ông Lin Boqiang, Giám đốc trung tâm nghiên cứu kinh tế năng lượng Trung Quốc tại Đại học Hạ Môn, ca ngợi những bước đột phá là một đóng góp quan trọng cho an ninh năng lượng và phát triển kinh tế và xã hội của Trung Quốc.
Lin Boqiang khẳng định, phát triển công nghệ khai thác biển ở Biển Đông là một trong những giải pháp khả thi để giải quyết cuộc khủng hoảng năng lượng và đảm bảo an ninh năng lượng trong tương lai.
Như vậy, những tiến triển trong công nghệ thăm dò của Trung Quốc có thể trở thành một trong những nền tảng cơ sở để Bắc Kinh tiến tới thăm dò và khai thác dầu khí mở rộng tại vùng Biển Đông. Và điều này, cùng với đẩy mạnh hiện đại hóa quốc phòng đã khiến vùng Bãi Tư Chính trở nên phức tạp hơn lệ thường.
Trong một thông tin có liên quan, Alexia Frangopoulos trong một bài viết trên Harvard Politics, cho biết, Trung Quốc đang tiến hành hiện đại hóa nhanh quân đội như là một bước tiến nhanh đạt được tham vọng bá quyền của nước này. Ngoài hạm đội tàu ngầm, Bắc Kinh sở hữu hành lang dài 5.000km, với hàng trăm ICBM hạt nhân.
Năm 2019, ngân sách quốc phòng hàng năm của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc là 177,5 tỷ USD, tăng 7,5% so với ngân sách quốc phòng năm ngoái. Trung Quốc đang phân bổ số tiền ngày càng tăng cho các chương trình và sáng kiến làm tăng số lượng và chất lượng vũ khí quân sự. Bộ Quốc phòng Trung Quốc tuyên bố rằng một trong những phát triển gần đây nhất của nước này chính là tàu khu trục tên lửa dẫn đường Type 055 mới - gần giống với tàu khu trục biển của Washington.
Ngoài ra, PLA đang phát triển kho dự trữ vũ khí hạt nhân. Dean Cheng, một chuyên gia trong quân đội Trung Quốc trong một cuộc phỏng vấn với HPR rằng lực lượng ICBM của Trung Quốc hiện đang rất hạn chế, ở ngưỡng 50. Nhưng có những báo cáo cho thấy Trung Quốc đang đẩy mạnh chương trình hiện đại hóa để mở rộng số lượng vũ khí hạt nhân mà nó khai thác.
Vào tháng 4/2017, Bắc Kinh tuyên bố rằng một trong những tàu sân bay của nước này đã đạt đến giai đoạn thử nghiệm cuối cùng, và hai chiếc tương tự đang được sản xuất. Điều đó sẽ mang lại cho Trung Quốc tổng cộng bốn tàu sân bay vào năm 2022.
Một phần lý do của tiến trình quân sự hóa PLA là nhằm duy trì quyền lực ở Biển Đông.
Biển Đông là con đường trung gian nối kết Bắc Kinh với châu Phi và Âu châu, và nước này có hơn 40% lượng hàng hóa thương mại được vận chuyển qua khu vực này. Đây cũng là tuyến đường giúp Bắc Kinh nhập dầu vào Trung Quốc, với hơn 80% lượng dầu nhập khẩu.
Biển Đông không chỉ hỗ trợ thương mại - nó cung cấp một nguồn tài nguyên quý giá mới như khí đốt và dầu mỏ. Các nhà khoa học ước tính rằng có từ 11 đến 22 tỷ thùng dầu dưới biển.
Trung Quốc phát triển lực lượng hải quân, nhằm mục đích kiểm soát phần còn lại của Biển Đông.
Trong khi đó, Mỹ với vai trò trở lại ở Châu Á – Thái Bình Dương đã tìm cách duy trì các căn cứ quân sự ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc và Singapore. Căn cứ hải quân Singapore, nằm cạnh bờ Biển Đông, đảm bảo Mỹ duy trì một vị trí thường trực trong khu vực, ngăn chặn tốc độ mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc. Nước này cũng có căn cứ tương tự tại Nhật Bản, nơi có 54.000 quân đồn trú.
Quay trở lại với vấn đề hiện đại hóa quân đội Trung Quốc. Vào năm 2017, Tập Cận Bình cam hiện đại hóa quân sự vào năm 2035. Đến năm 2050, Tập mong đợi một quân đội có khả năng chiến thắng các cuộc chiến tranh trên nhiều mặt trận, đặc biệt là thông qua công nghệ quốc phòng.
Trung Quốc đang tiến dần hoạt động ra phía Bắc ?
Trong khi đó, theo Dự án Đại sự ký Biển Đông, nhóm Hải Dương Địa Chất 8 thì vẫn đang đan áo sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam như thường lệ, và đang dịch dần lên hướng bắc. Điều này càng gia cố quan điểm, Bắc Kinh đang tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu bất ổn và Biển Đông là khu vực được lựa chọn. Và những diễn biến ở Bãi Tư Chính với hoạt động của nhóm tàu Hải Dương Địa Chất 8 càng đưa Hà Nội vào thế khó xử. Tính đến thời điểm hiện nay, ngoài những phản đối về mặt ngoại giao có liên quan, với mức độ ‘mạnh mẽ’ hơn so với trước đó (bao hàm yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền Việt Nam ở Biển Đông của Phó Thủ tướng Việt Nam - Vũ Đức Đam), Hà Nội vẫn chưa cho thấy những động thái kế tiếp.
Ông Nguyễn Phú Trọng, người đứng đầu tổ chức Đảng cộng sản Việt Nam, và Nhà nước Việt Nam vẫn giữ 'quyền im lặng' cho đến hiện nay.
Facebooker Ngọc Trần bày tỏ : chính quyền Việt Nam đang được đưa vào thế khó xử, bởi chính chính sách đu dây của mình. Chính sách đã khiến cho Mỹ và các quốc gia Tây phương trở nên dè dặt trong hợp tác trong những trường hợp mà chủ quyền quốc gia bị xâm phạm.
Quan điểm của Ngọc Trần phản ánh quan điểm chung của người dân, đặc biệt là giới trí thức Việt Nam hiện tại, đó là Việt Nam đang cô đơn trên mặt trận quốc tế, nơi mà Việt Nam không có một đồng minh thực tế hỗ trợ mình trước mối đe dọa của Bắc Kinh. Những đồng minh truyền thống như Nga, Cuba,… thực sự ‘vô dụng’ trong trường hợp này, khi một ‘cường quốc lỗi thời’ như Nga chỉ thuần túy là con buôn vũ khí, còn Cuba – người anh em thân thiết Tây Bán Cầu vẫn chật vật với nền kinh tế yếu ớt, và tiếng nói không có trọng lượng trên trường quốc tế. Còn đối với những quốc gia lên tiếng mạnh mẽ nhất như Úc, Nhật, Mỹ, Anh,… lại là những quốc gia chưa bao giờ được Hà Nội coi là đồng minh. Và đó là lý do vì sao, chuyến thăm lịch sử của Thủ tướng Úc Scott Morrison đến Hà Nội, vấn đề Biển Đông chỉ thể hiện qua tuyên bố mang tính chung chung, và cái tên Trung Quốc đã không được nhắc đến. Bắc Kinh – đồng minh của Hà Nội trong quá khứ, mối quan hệ đặc biệt trong cấp độ ngoại giao của Việt Nam, và quốc gia đồng ý thức hệ lại đang gia tăng ‘quấy rối, xâm lấn’ chủ quyền quốc gia của Việt Nam.
Điều đáng báo động hơn cả những đe dọa từ bên ngoài là vấn đề cảm xúc của xã hội Việt Nam về sự kiện nay. Khi dư luận Việt Nam cũng thể hiện sự lãnh đạm với sự kiện Bãi Tư Chính, một trong những biểu hiện liên quan đến điều này bao gồm lời kêu gọi nhà nước Việt Nam kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế và đẩy mạnh hợp tác quốc phòng với các nước có chung quyền lợi hợp pháp trên biển đông do trang Bauxite tiến hành đến nay chỉ thu hút được 9 tổ chức tham gia, và 683 cá nhân ký tên. Hiện tượng này được cho là đến từ phản ứng đối với những chính sách và chủ trương của Hà Nội trong ứng xử chủ quyền trước đó. Cụ thể là bưng bít về mặt thông tin liên quan đến tình hình Biển Đông và những hoạt động xâm lấn Biển Đông của Trung Quốc, và điều động lực lượng vũ trang, bán vũ trang trong trấn áp người biểu tình. Đó là lý do vì sao, một bài viết với nội dung rất bình thường của báo Tuổi Trẻ ngày 22/9, với tiêu đề ‘Cảnh Sảng, đừng ngụy biện nữa !’, lại được ‘hoan hô’ như một bài viết thẳng thắn bởi ‘công khai thông tin để người dân thấy bộ mặt thật của Trung Quốc’.
Phải chăng, Việt Nam đang chết dần bởi chính sách duy ý chí của mình về ngoại giao - quốc phòng, với chính sách ba không ? Và việc giữ gìn chủ quyền quốc gia vẫn dựa vào yếu tố mang tính thiếu bền vững - ‘đại cục quan hệ tốt đẹp’ ?
Nguyễn Hiền
Nguồn : VNTB, 24/09/2019
Liên minh với Trung Quốc và hệ lụy
Trước sức ép ngày càng ngông cuồng và trắng trợn của Trung Quốc đe dọa chủ quyền Việt Nam, nhà cầm quyền Việt Nam bây giờ không còn chỗ lùi nữa. Họ cần dứt khoát, cương quyết và cứng rắn hơn, đồng thời phải rạch ròi trong mối quan hệ với Trung Quốc. Đó là mối quan hệ vốn không dựa trên nền tảng vững chắc nào. Nó nhập nhằng giữa tình đồng chí, đồng ý thức hệ, tình anh em láng giềng mà chữ tình nào cũng chỉ là vờ vịt để lợi dụng lẫn nhau. Những thứ đó chỉ là lớp sơn cho ra vẻ bên ngoài mà cả hai phía đều tự biết. Về thực chất, nó là quan hệ thôn tính của kẻ mạnh đối với kẻ yếu, quan hệ hàm ơn và chịu ơn, quan hệ của một bên đầy tham vọng còn một bên thì cố trông chờ vào "thiện chí" hoặc ít ra thì cũng trông chờ vào sự có giới hạn về tham vọng của bên kia.
Mối quan hệ với Trung Quốc là quan hệ thôn tính của kẻ mạnh đối với kẻ yếu, quan hệ hàm ơn và chịu ơn
Kể từ khi Việt Nam bước vào thời kỳ độc lập tự chủ năm 939, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc luôn luôn là quan hệ không bao giờ hữu nghị mà cao điểm là những cuộc chiến tranh xâm lược và đi liền là những cuộc kháng chiến chống xâm lược. Kết thúc của các cuộc chiến tranh ấy là cha ông ta đã chiến thắng và giữ vững bờ cõi. Cho đến giai đoạn cộng sản thì mối quan hệ này phức tạp hơn nhiều. Nó không đơn thuần và rạch ròi bởi khái niệm xâm lược và bị xâm lược nữa và xen vào đấy là một thứ chủ nghĩa quốc tế vô sản mơ hồ và dẫn đến sự nhập nhằng như vừa nhắc trên đây.
Trong các quốc gia cộng sản thì Trung Quốc là bẩn thỉu nhất, ghê tởm nhất nhưng quan hệ với Việt Nam lại sâu sắc nhất. Nó sâu sắc nhất so với các mối quan hệ của Trung Quốc với các nước cộng sản khác và với 13 nước láng giềng khác của Trung Quốc. Đây là mối quan hệ bất bình đẳng, chỉ trừ thời kỳ Lê Duẩn dám hiên ngang chống Trung Quốc và xác định dứt khoát Trung Quốc là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất.
Cũng chính thời kỳ cộng sản, nước ta bắt đầu mất dần lãnh thổ và biển đảo : Mất những điểm cao và đất liền vùng biên, mất quần đảo đảo Hoàng Sa, một phần quần đảo Trường Sa, một phần Vịnh Bắc Bộ. Số phận của những hòn đảo ở Trường Sa do bộ đội Việt Nam đang canh giữ cũng rất mong manh, luôn bị Trung Quốc đe dọa sẽ đánh chiếm bất cứ lúc nào nếu Việt Nam không "biết điều". Còn bây giờ, nguy cơ trước mắt là Bãi Tư Chính.
Trong quan hệ với Trung Quốc, nhân dân Việt Nam không hề được lợi mà chỉ có thiệt hại. Đảng cộng sản Việt Nam sinh ra trên đất Trung Quốc, được Trung Quốc đào tạo giúp cán bộ, truyền bá kinh nghiệm và nuôi dưỡng. Có thể nói, nếu không có đảng cộng sản Trung Quốc thì sẽ không có đảng cộng sản Việt Nam. Vì vậy, họ chịu ảnh hưởng của đảng cộng sản Trung Quốc rất sâu sắc. Trong quan hệ, Đảng cộng sản Việt Nam tự nhận là em và tôn Trung Quốc làm anh.
Nếu có ân nghĩa thì chỉ có đảng cộng sản Việt Nam chịu ơn Trung Quốc chứ nhân dân Việt Nam thì không. Vì sao vậy ? Nếu không có sự giúp đỡ của Trung Quốc thì đảng cộng sản Việt Nam không thể tiến hành hai cuộc chiến tranh : chiến tranh chống Pháp và chiến tranh Nam - Bắc. Không có Trung Quốc, cũng sẽ không có cuộc cải cách ruộng đất đau lòng ở Việt Nam... Điều bao trùm nhất là nếu không có Trung Quốc thì sẽ không có chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam và đất nước ta giờ đây đã khác, không còn lẹt đẹt ở vũng trũng trong khu vực và thế giới.
Những lợi ích mà Đảng cộng sản Việt Nam có được từ sự giúp đỡ của Trung Quốc chỉ là những lợi ích hẹp hòi của một nhóm người trong đảng cộng sản Việt Nam. Nó không phải là lợi ích của nhân dân Việt Nam. Đó là quyền thống trị và những lợi ích được sinh ra từ đấy.
Nếu không có quan hệ sâu nặng với Trung Quốc, Trung Quốc không dễ gì bắt nạt được Việt Nam. Không phải bây giờ, Việt Nam mới "dọn nhà" đến làm láng giềng của Trung Quốc, không chỉ Việt Nam mới là làng giềng của Trung Quốc, không chỉ Việt Nam mới là nước nhỏ so với Trung Quốc và không phải quốc gia láng giềng nào cũng để Trung Quốc bắt nạt.
Tất cả luận điệu rằng Việt Nam là nước nhỏ, không ai chọn được láng giềng, rằng Trung Quốc nó mạnh lắm chống nó sao được... đều chỉ là ngụy biện. Cay đắng hơn, tôi từng nghe những luận điệu cho rằng lên tiếng bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc là kích động chiến tranh hoặc sự nhân nhượng về chủ quyền của Tổ quốc là "đổi đất lấy hòa bình". Tôi biết những luận điệu ấy từ tuyên giáo mà ra và đã ăn vào não trạng của nhiều người Việt Nam.
Tất cả những gì mà nhân dân Việt Nam, đất nước Việt Nam đang phải chịu là hậu quả của việc những người dẫn dắt đất nước này trong gần 1 thế kỷ qua đã đi với ma quỷ. Đi với ma quỷ tất có ngày phải trả giá. Ta thường đọc những tin tức về các băng nhóm giang hồ thanh toán nhau. Tại sao chúng lại thanh toán nhau ? Vì chúng đã từng liên minh với nhau, dựa vào nhau để hành động, biết rõ sở trường sở đoản của nhau, nắm được bí mật của nhau và tất yếu là chán nhau. Có khi nào giang hồ tìm đến một người không quen biết để thanh toán ?
Tôi dùng từ "nhau" để chỉ mối quan hệ ngang hàng. Với quan hệ phụ thuộc như quan hệ Việt Nam - Trung Quốc còn tồi tệ hơn.
Đảng cộng sản Việt Nam lựa chọn thế nào ?
Trở lại câu chuyện ở Bãi Tư Chính. Ngày 18/9 vừa qua, Cảnh Sảng, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc láo xược nói rằng, Trung Quốc có quyền chủ quyền và quyền tái phán đối với Bãi Tư Chính. Y yêu cầu Việt Nam dừng ngay lập tức dừng các hoạt động mà y gọi đã vi phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích của Trung Quốc.
Cho đến nay, phía Việt Nam chưa có ý kiến gì về phát ngôn của Cảnh Sảng.
Kể từ khi Trung Quốc chiếm đảo Gạc Ma của Việt Nam thì việc vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở bãi Tư Chính từ ngày 3/7/2019 đến nay là nghiêm trọng nhất và thể hiện quyết tâm cao nhất của Trung Quốc trong mưu đồ độc chiếm Biển Đông.
Lúc này cũng là lúc nhà cầm quyền Việt Nam đơn độc nhất khi thiếu vắng sự ủng hộ của người dân. Việc Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa dẫn đến các cuộc biểu tình vào tháng 12/2007 ở Hà Nội và Sài Gòn. Vụ Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh dẫn đến hàng chục cuộc biểu tình vào mùa Hè năm 2011 tại Hà Nội và Sài Gòn. Vụ giàn khoan HD 981 xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam dẫn đến những cuộc biểu tình trên khắp cả nước vào Tháng 5/2014. Thế nhưng lần này, vụ Trung Quốc xâm phạm Bãi Tư Chính đã không có biểu tình xảy ra. Điều này nói lên người dân đã quay lưng với nhà nước trong vấn đề chủ quyền của đất nước, để "đảng và nhà nước lo" như họ thường nói.
Giờ đây, trước tham vọng và sức ép ngày càng gia tăng từ phía Trung Quốc, họ buộc phải đứng trước một sự lựa chọn. Hoặc là tiếp tục nhân nhượng, hoặc là phải dứt khoát trong quan hệ với Trung Quốc. Điều này đối với họ là vô cùng khó khăn. Một thứ quan hệ sâu nặng và phụ thuộc khiến họ không dám có một tư thế đàng hoàng, đĩnh đạc và ngang hàng.
Không phải bây giờ, những người cộng sản Việt Nam mới thấy được dã tâm của Trung Quốc. Họ đã biết từ rất lâu nhưng phải nín nhịn. Theo Diễn đàn Doanh nghiệp thì ông Lê Văn Cương nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược, Bộ Công an chỉ ra rằng, Trung Quốc đã 5 lần bán đứng Việt Nam.
Giờ đây, nhà cầm quyền phải lựa chọn, hoặc là nhân dân và Tổ quốc, hoặc là "tình hữu nghị viển vông" với Trung Quốc. Trong khi lựa chọn, họ cần lưu ý rằng, khi cố giữ cái tình hữu nghị ấy, họ cũng không thể yên thân.
Điều mà họ cần phải biết mà người Việt Nam ai cũng biết là, Trung Quốc đã giúp Đảng cộng sản Việt Nam rất nhiều trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chiến tranh Nam - Bắc nên họ phải chịu ơn. Trong khi đó, họ tuyên truyền đế quốc Mỹ xâm lược, đã gây bao nhiêu tội ác với nhân dân Việt Nam. Nhưng trớ trêu thay, giờ đây, gần như 100 % người Việt Nam (trừ họ) ghét Trung Quốc và coi Mỹ là người bạn tốt, cần nhất cho Việt Nam lúc này. Đấy là một nghịch lý, nghịch cảnh và đủ mọi thứ nghịch, chỉ có ở đất nước khốn khổ này.
Mâu thuẫn giữa hai đảng và hai nhà nước Việt Nam - Trung Quốc lên đến đỉnh cao nhất dẫn đến nổ ra cuộc chiến tranh biên giới 1979. Đó là cơ hội để Đảng cộng sản Việt Nam dứt khoát với Trung Quốc nhưng tiếc rằng điều đó đã không xảy ra mà sau đó lại dấn sâu vào quan hệ lệ thuộc Trung Quốc.
Bây giờ lại là một cơ hội nữa để đoạn tuyệt với Trung Quốc. Đảng cộng sản Việt Nam sẽ lựa chọn như thế nào ?
Nguyễn Tường Thụy
Nguồn : RFA, 23/09/2019 (nguyentuongthuy's blog)
"Chúng ta đã kiên trì, kiên quyết đấu tranh bằng mọi biện pháp đối với các hoạt động của nước ngoài vi phạm chủ quyền trên biển của ta" - Thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc hé miệng vào ngày 4/9/2019 trong một cuộc họp Chính phủ thường kỳ tháng 8 tại Hà Nội, nhưng vẫn không hề dám nhắc đến cái tên Trung Quốc.
Nêu tên Trung Quốc còn không dám thì làm sao dám kiện ?
Đó là lần đầu tiên ông Phúc có một phát ngôn về tình hình ở Biển Đông kể từ khi Trung Quốc đưa tàu Hải Dương 8 vào hoạt động tại khu vực Bãi Tư Chính từ ngày 3/7/2019.
‘Bản lĩnh Nguyễn Xuân Phúc’ thậm chí còn tệ hơn cả cấp dưới là Phó thủ tướng kiêm bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh. Bởi trước đó, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã ba lần lên tiếng cáo buộc tàu Trung Quốc vi phạm chủ quyền và thềm lục địa của Việt Nam. Lời ‘lên tiếng’ của Thủ tướng Phúc xảy ra trong bối cảnh tàu Hải Dương 8 thậm chí còn lấn tới sát vùng biển Phan Thiết, trong lúc không có một tài hải quân nào của Việt Nam ra ngăn chặn.
Thật đúng là ‘ngư dân bám biển, hải quân bám bờ’ !
Nêu tên Trung Quốc còn không dám thì làm sao dám kiện Bắc Kinh ra tòa án quốc tế ?
Cho tới nay và rất tương đồng với tinh thần "hèn với giặc, ác với dân" của năm 2014 và tại nhiều thời điểm khác, chính quyền và giới quân sự Việt Nam vẫn "rúc mặt" mà không dám hành động mạnh mẽ trước Trung Quốc.
Nếu khả năng tàu Trung Quốc kéo dài vụ xâm nhập bãi Tư Chính xảy ra, mà xác suất của khả năng này đang được giới phân tích chính trị cho là ngày càng lớn, Việt Nam sẽ phải đối phó ra sao ? Tiếp tục phát cờ cho ngư dân để "thuyền ra biển lớn" và làm rộ lên câu vè dân gian "Chống giặc bằng cờ, chống ngập bằng lu, đứa nào nói đảng ngu là thằng phản động" ? Hay tiếp tục kêu gọi quốc tế mau chóng can thiệp ? Liệu Hải Quân Việt Nam có dám nổ súng nếu tàu Trung Quốc gây hấn ? Và nếu nổ súng, Bộ Quốc Phòng Việt Nam đã chuẩn bị ra sao cho những kịch bản đen tối không thể tránh khỏi cho một cuộc xung đột quân sự ở quy mô nhỏ hoặc vừa, hay thậm chí là chiến tranh thực sự với Trung Quốc ?
Thói ươn hèn mãn tính là tác nhân của căn bệnh nhũn não dài hạn và mất đứt lãnh thổ.
Cứ mỗi năm ở Biển Đông, mỗi tháng ở Hoàng Sa và mỗi ngày ở bãi Tư Chính trôi qua, cơ hội của "đảng em" Việt Nam để kiện "đảng anh" Trung Quốc ra tòa án quốc tế lại càng thêm ít ỏi và khó thắng.
Cũng cho tới nay, người ta chỉ nhìn thấy một thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc luôn ‘tự sướng’ với lới ca tụng bất tận những thành tích điều hành kinh tế của ông ta về mức tăng trưởng GDP thần kỳ, bất chấp bị dư luận lên án là căn bệnh ‘giả số liệu’ mà Phúc đã chỉ đạo Tổng cục Thống kê ‘kiến tạo’, hoặc cái cách Thủ tướng Phúc năng nổ đi nhiều tỉnh thành với câu nói đầu môi chót lưỡi ‘mỗi tình là một đầu tàu kinh tế’…Tất cả chỉ nhằm nâng cao ‘hình ảnh và uy tín’ của Nguyễn Xuân Phúc để ông ta lao vào trận tranh giành cái ghế tổng bí thư, hoặc ghế đúp tổng bí thư - chủ tịch nước tại đại hội 13 của đảng cầm quyền vào năm 2021, nếu còn có đại hội đó.
Thường Sơn
Nguồn : VNTB, 07/09/2019