Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Bản chất của mối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ vẫn chủ yếu là một cuộc hôn nhân vì lợi ích, dựa trên sự cần thiết chứ không phải là một tình bạn sâu sắc hay mối quan hệ đối tác lâu dài dựa trên các giá trị chung.

vietmy1

Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ vẫn chủ yếu là một cuộc hôn nhân vì lợi ích - Ảnh minh họa hai ông Tô Lâm và Joe Biden trao đổi bên lề Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ngày 25/09/2024

Ngày 25/09/2024, Chủ tịch nước kiêm Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Tô Lâm và Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden gặp mặt bên lề kỳ họp lần thứ 79 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc tại New York, Hoa Kỳ. Cả hai nhà lãnh đạo tái khẳng định rằng Việt Nam và Hoa Kỳ là "bạn và đối tác chiến lược toàn diện". Tuy nhiên, thực tế lại phức tạp hơn so với những tuyên bố đầy thiện chí này. Bản chất của mối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ vẫn chủ yếu là một cuộc hôn nhân vì lợi ích, dựa trên sự cần thiết chứ không phải là một tình bạn sâu sắc hay mối quan hệ đối tác lâu dài dựa trên các giá trị chung.

"Ngoại giao cây tre" và sự cân bằng mỏng manh

Trung tâm của mối quan hệ Việt – Mỹ hiện tại là chiến lược ngoại giao "cây tre" hay còn gọi là chính sách "đu dây" của Hà Nội, khi Việt Nam cố gắng cân bằng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Chính sách đối ngoại quốc phòng của Việt Nam với "bốn không"—không liên minh quân sự, không đứng về phe này chống lại phe kia, không cho phép đặt căn cứ quân sự nước ngoài, và không sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế—nhấn mạnh cam kết của Việt Nam đối với sự trung lập và không liên kết.

Chính sách "đu dây" này giúp Việt Nam thu được lợi ích từ cả Hoa Kỳ và Trung Quốc mà không phải đối đầu trực tiếp với bất kỳ bên nào. Tuy nhiên, đây là một chiến lược mỏng manh và tiềm ẩn rủi ro. Khi các cường quốc như Hoa Kỳ, Trung Quốc, và Nga cuối cùng sẽ phải tìm ra cách chung sống hòa bình, Việt Nam có thể rơi vào tình thế cô lập. Lúc đó, Hà Nội có thể phải trả giá đắt cho việc không cam kết với những giá trị phổ quát mà cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các nền dân chủ, coi trọng.

Sự thực dụng trong quan hệ Hoa Kỳ – Việt Nam

Hoa Kỳ xem việc thắt chặt quan hệ với Việt Nam như một phần trong chiến lược kiềm chế ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Việt Nam, với vị trí chiến lược và nền kinh tế đang phát triển, là một đối tác quan trọng. Tuy nhiên, quan hệ này vẫn mang tính thực dụng và ngắn hạn.

Về kinh tế, thương mại song phương giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã vượt mốc 100 tỷ USD trong những năm gần đây. Việt Nam được hưởng lợi từ cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung khi các doanh nghiệp Mỹ chuyển sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam. Tuy nhiên, sự gắn kết này, dù có giá trị, vẫn chỉ là giao dịch ngắn hạn. Việt Nam vẫn phụ thuộc mạnh mẽ vào Trung Quốc, đối tác thương mại lớn nhất của mình, và vào Nga trong lĩnh vực mua sắm vũ khí. Điều này khiến Hà Nội không thể hoàn toàn chuyển hướng phụ thuộc vào Hoa Kỳ về mặt kinh tế hay quân sự.

Khác biệt về giá trị và ý thức hệ

Một yếu tố quan trọng cản trở sự phát triển sâu rộng của quan hệ Hoa Kỳ – Việt Nam là khác biệt về giá trị và ý thức hệ. Việt Nam vẫn là một quốc gia cộng sản với chế độ độc đảng, không có ý định áp dụng nền dân chủ phương Tây. Chính quyền Việt Nam tiếp tục đàn áp các quan điểm bất đồng, hạn chế quyền tự do ngôn luận và kiểm soát chặt chẽ xã hội dân sự.

Những khác biệt này đặt ra một thách thức lớn cho mối quan hệ Việt – Mỹ. Hoa Kỳ, mặc dù ưu tiên các lợi ích chiến lược, vẫn dựa vào các giá trị dân chủ, nhân quyền và pháp quyền. Việc thiếu cam kết từ phía Việt Nam đối với các giá trị phổ quát này có thể giới hạn khả năng hợp tác sâu rộng và lâu dài giữa hai nước.

Con đường khả thi cho Việt Nam

Để tránh những rủi ro dài hạn từ chính sách "đu dây", Việt Nam cần xem xét một con đường khác. Một Việt Nam tự do, dân chủ và tuân thủ các chuẩn mực quốc tế về nhân quyền có thể không chỉ củng cố mối quan hệ với Hoa Kỳ mà còn giúp Việt Nam trở thành một đối tác đáng tin cậy trong khu vực và trên toàn cầu.

Nếu Việt Nam sẵn sàng thực hiện những cải cách chính trị và xã hội cần thiết, họ không chỉ được hưởng lợi từ sự hỗ trợ mạnh mẽ hơn từ phương Tây mà còn có thể trở thành một mô hình chính trị mà Trung Quốc có thể quan sát. Một Việt Nam thành công trong quá trình chuyển đổi dân chủ có thể là tiền đề để Trung Quốc xem xét các cải cách chính trị trong tương lai, đặc biệt khi mà Bắc Kinh đang đối mặt với nhiều thách thức trong nước và quốc tế.

Sự phụ thuộc quá mức vào một vài đối tác, dù là Trung Quốc hay Nga, không phải là chiến lược bền vững. Thay vào đó, Việt Nam nên dựa vào những giá trị phổ quát như dân chủ, pháp quyền, và nhân quyền, những giá trị đã giúp các quốc gia nhỏ và trung bình vươn lên mạnh mẽ trên trường quốc tế. Bằng cách xây dựng một mối quan hệ đối tác dựa trên các lợi ích và giá trị chung, Việt Nam không chỉ có thể bảo vệ lợi ích quốc gia mà còn đảm bảo sự ổn định và thịnh vượng dài hạn.

***

Thay lời kết, mối quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ hiện tại có thể được mô tả như một cuộc hôn nhân vì lợi ích, nơi cả hai bên đều tìm kiếm lợi thế ngắn hạn. Tuy nhiên, nếu Việt Nam không sớm nhận ra rằng chính sách ngoại giao "đu dây" không thể mang lại sự ổn định và an toàn lâu dài, họ có thể bị bỏ lại trong cuộc chơi quyền lực toàn cầu.

Việc lựa chọn con đường dựa trên các giá trị phổ quát và xây dựng một xã hội tự do, dân chủ không chỉ giúp Việt Nam thắt chặt quan hệ với các cường quốc dân chủ mà còn định vị họ như một nhân tố quan trọng trong khu vực, mang lại lợi ích lâu dài cho cả quốc gia và nhân dân Việt Nam.

Vũ Đức Khanh

Nguồn : VNTB, 01/10/2024

Additional Info

  • Author Vũ Đức Khanh
Published in Diễn đàn

Đối tác chiến lược toàn diện : Kỷ nguyên mới trong quan hệ Việt-Mỹ

La Croix ngày 11/09/2023 nhận định "Joe Biden thăm Việt Nam để ngăn chặn Trung Quốc". Từ khi lập quan hệ ngoại giao năm 1995, hai mươi năm sau khi chiến tranh kết thúc, tất cả tổng thống Mỹ đều đã đến Việt Nam, bắt đầu là tổng thống Bill Clinton năm 2000. Chuyến thăm lần này của tổng thống Joe Biden là một bước tiến lớn với việc nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện.

vietmy1

Tổng bí thư Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và tổng thống Mỹ Joe Biden duyệt hàng quân danh dự tại Phủ Chủ tịch ở Hà Nội, ngày 10/09/2023. AP - Luong Thai Linh

Bức hiếp láng giềng, Trung Quốc đẩy Việt Nam về phía Hoa Kỳ

Tiến sĩ Lê Thu Hường, Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) khẳng định đây là một tiến triển quan trọng. "Sau khi đối địch trong một cuộc chiến đẫm máu, hai bên đã hòa giải để trở thành đối tác thân thiết". Đối với cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ, chuyến công du này "là một giai đoạn ngoạn mục". Cho đến nay, Việt Nam chỉ dành cấp độ cao nhất này cho Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc và Trung Quốc, và chính là Trung Quốc mà Joe Biden nhắm đến trong chuyến đi.

Ông Biden tiến hành những hoạt động ngoại giao dồn dập trên khắp châu Á nhằm đối đầu với cường quốc kinh tế thứ nhì thế giới. Tuy vậy, nhà nghiên cứu Hạnh Nguyễn ở Úc cho rằng đây không phải là một "liên minh" nhằm khống chế Trung Quốc, vì cũng đang có những cuộc thảo luận để tăng cường quan hệ với Singapore và Indonesia. Cựu đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ Nguyễn Quốc Cường nói với AFP, Việt Nam "luôn nói rằng không đứng về bên nào, không chọn lựa giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Người Mỹ biết rõ điều này". 

Nhưng tổng thống Mỹ tin rằng Việt Nam vẫn hướng về phía Washington, vào lúc những yêu sách của Bắc Kinh trên Biển Đông là nguồn gốc gây căng thẳng thường xuyên cho khu vực.Bà Lê Thu Hường nhấn mạnh "Tôi tin rằng sự cưỡng bức của Trung Quốc là yếu tố đẩy nhanh sự xích gần lại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ". Một đại lộ đã mở ra giữa đôi bên trong việc hợp tác về quốc phòng, chiến hạm quá cảnh, huấn luyện và cả tập trận chung. Joe Biden đang vận động tái tranh cử, cũng nghĩ về kinh tế. Ông muốn lập một chu trình kỹ nghệ thế giới ít lệ thuộc vào Trung Quốc và như vậy Biden cần Việt Nam, quốc gia đang tìm kiếm đối tác và vốn đầu tư để nâng cấp về công nghệ.

Kinh tế Việt Nam đang bùng nổ, mỗi ngày có thêm những món đầu tư mới mà thường thì dành cho Hoa lục. Joe Biden cho biết sẽ nêu ra vấn đề gai góc là tự do tín ngưỡng.Trên The Diplomat, giáo sư Jonathan London nhận thấy trong cả lĩnh vực kinh tế và an ninh, lợi ích chiến lược của Hoa Kỳ và Việt Nam gắn kết vô cùng chặt chẽ với nhau. Nhà nghiên cứu gọi đây là một "kỷ nguyên mới" mang ý nghĩa sâu sắc, không chỉ cho Hoa Kỳ, Việt Nam mà còn cho khu vực và thế giới. Giai đoạn mới trong quan hệ Mỹ-Việt sẽ tăng thêm sức mạnh cho các nỗ lực đa phương nhằm thúc đẩy một trật tự Ấn Độ-Thái Bình Dương dựa trên luật pháp. 

Elon Musk, nhân tố thất thường trong chiến tranh Ukraine

Le Monde chạy tựa trang nhất "Elon Musk, nhân tố thất thường trong cuộc chiến tranh Ukraine". Nhà tỉ phú Mỹ hồi năm 2022 đã từ chối kích hoạt mạng lưới liên lạc vệ tinh Starlink, trước một cuộc tấn công quan trọng của Ukraine vào Crimea. Vụ này được nhà báo Mỹ Walter Isaacson tiết lộ trong cuốn tiểu sử ra mắt vào ngày 12/09, được ông chủ SpaceX cho phép.

Theo đó, hồi tháng 9/2022 Ukraine định tấn công hạm đội Nga ở Hắc Hải bằng "sáu drone hải chiến chứa đầy chất nổ". Được điều khiển từ xa bằng liên lạc vệ tinh, những drone này không bao giờ đạt đến mục tiêu vì bị ngắt kết nối Starlink khi tiến gần Crimea. Ông Isaacson cho biết trước đó Elon Musk đã trao đổi với đại sứ Nga ở Washington, ông này đe dọa sẽ đáp trả bằng vũ khí hạt nhân. Nhà tỉ phú bèn bí mật yêu cầu các kỹ sư, không được kích hoạt mạng lưới trong vòng bán kính 100 kilomet xung quanh Crimea. Musk cũng nói chuyện với tổng tham mưu trưởng quân đội Mỹ, tướng Mark Milley và cố vấn an ninh quốc gia Jake Sullivan. Nhà Trắng không trả lời Le Monde về vấn đề này.

Elon Musk khẳng định chính quyền Ukraine đề nghị kích hoạt khẩn cấp Starlink đến tận Sevastopol, "rõ ràng định đánh đắm đa số hạm đội Nga", nhưng ông không muốn leo thang xung đột. Theo nhà báo Isaacson, Musk lo ngại Kiev tiến hành một vụ "Trân Châu cảng mini" và rồi Moskva trả đũa bằng nguyên tử. Khi thông tin trên vừa được đưa ra, Kiev cực lực tố cáo : "Khi không cho drone Ukraine phá hủy một bộ phận hạm đội Nga (…) Elon Musk đã để cho hạm đội này bắn hỏa tiễn hành trình Kalibr vào các thành phố Ukraine. Hậu quả là thường dân và trẻ em bị sát hại". Một trong các cố vấn tổng thống, Mykhailo Podoliak nhận định : "Đó là cái giá của một hỗn hợp gồm sự thiếu hiểu biết và cái tôi quá lớn". Cuốn sách tiểu sử cho thấy sự tự cao và tính cách thất thường của nhà tỉ phú.

Isabelle Dufour, giám đốc nghiên cứu chiến lược của Eurocrise nhận định, lệ thuộc vào một nhân tố bên ngoài rất dễ tổn thương, nhưng quân đội không thể làm được tất cả. "Một quân đội hoàn toàn tự chủ chưa bao giờ hiện hữu trong lịch sử cận đại". Elon Musk khẳng định Starlink không được chế tạo để liên can đến chiến tranh. Tuy nhiên Le Monde lưu ý là SpaceX thường xuyên tham gia triển lãm các thiết bị Starlink tại các hội chợ vũ khí

Vì sao Bỉ không chuyển F-16 cho Kiev ?

Về quyết định của Bỉ không chuyển giao chiến đấu cơ F-16 cho Ukraine, Le Monde cho biết nhiều chuyên gia tỏ ra hoài nghi trước lý do được đưa ra là các phi cơ này đã quá cũ. Theo trung tướng Frédéric Goetynck, không thể đặt sinh mạng phi công Ukraine trong vòng nguy hiểm. Tuy nhiên các quân nhân Ukraine sẵn sàng tiếp nhận những máy bay đã ở cuối vòng đời, họ đang sử dụng nhưng chiếc Sukhoi, MiG cổ lỗ sĩ từ thời Liên Xô, và huy động kỹ nghệ để tu bổ những phi cơ được các nước khác giao cho.

Chuyên gia Joseph Henrotin nhấn mạnh những tiêu chí thải loại là do phương Tây đặt ra, nên để Ukraine tự ấn định tiêu chí riêng của họ. Hơn nữa, những chiếc F-16 nào quá cũ vẫn có thể tận dụng để lấy phụ tùng, thiết bị thay thế. Dân biểu đối lập Georges Dallemagne tỏ ý tiếc vì những F-16 vào cuối đời vẫn có thể bay thêm 1.000 giờ nữa, có nghĩa là kéo dài được 5 năm – theo Lockheed Martin. Được biết tất cả F-16 của Bỉ không thể bay kể từ 2028, trong khi F-35 được giao sớm nhất là 2030. Có ý kiến cho rằng thật ra chỉ vì chính quyền Bruxelles lo ngại các F-35 không đến kịp để thay thế.

Bầu cử ở Moskva : Tổng diễn tập cho Putin

Tại Nga cuối tuần qua diễn ra "những cuộc bầu cử, nhưng không một lời về chiến tranh". Theo Les Echos, "Việc Sobianin được bầu lại ở Moskva là một cuộc tổng diễn tập trước cuộc bầu cử của Putin ở Kremlin". Sergey Sobianin là đô trưởng Moskva liên tục từ 2010 tới nay. Với những đồng đô la từ dầu lửa, thủ đô nước Nga được đổ tiền vào hiện đại hóa đô thị, tạo tiện nghi cho cư dân. Là người thân cận của Kremlin, Sobianin giữ im lặng trong suốt 19 tháng chiến tranh với Ukraine, chỉ có những phát biểu tối thiểu khi drone Ukraine tấn công vào thủ đô nước Nga.

Để kích thích người dân đi bầu, Le Monde cho biết tòa đô chánh Moskva tiếp tục chiến dịch "Một triệu giải thưởng", coi bầu cử như một giải tombola, người tham gia có thể trúng thưởng. Có 2,4 triệu giải với phiếu mua hàng giá trị từ 1.000 đến 4.000 rúp (9,5 đến 38 euro). Các cuộc bỏ phiếu cũng được tổ chức tại bốn vùng đất của Ukraine bị Moskva sáp nhập bất hợp pháp, mà truyền hình Nga nói rằng "Cử tri những vùng đất mới đi bầu lần đầu tiên tại tổ quốc lịch sử, với trái tim đầy xúc động", tuy Liên Hiệp Châu Âu cảnh cáo về hậu quả.

Đồng minh truyền thống Armenia của Nga quay sang phương Tây

Trong khi đó "Armenia đứng ra xa khỏi Nga". Le Figaro cho biết do cảm thấy không được đồng minh truyền thống bảo vệ trước Azerbaijan, Erevan quay sang với phương Tây – một sự kiện chưa từng thấy.

Những ngày gần đây, chính phủ Armenia loan báo ít nhất năm quyết định chứng tỏ muốn giữ khoảng cách với Nga, cựu thực dân đang là "đối tác chiến lược", nước duy nhất bảo đảm an ninh cho Armenia từ 1991. Đến nỗi nhiều quan sát viên tự hỏi phải chăng Moskva đang mất đi một trong những đồng minh thân cận nhất thuộc Liên Xô cũ, trong khi tuyên truyền Nga đả kích "sự phản bội". Chỉ trong một tuần lễ, Erevan đã 1) Thông qua thủ tướng Nikol Pachinian, tuyên bố sự lệ thuộc của Armenia vào Moskva là một "sai lầm chiến lược" 2) Triệu hồi đại diện thường trực ở Tổ chức Hiệp ước An ninh Tập thể, một mini NATO do Nga thống trị 3) Loan báo tập trận chung với Hoa Kỳ từ 11 đến 20/09 4) Lần đầu tiên viện trợ nhân đạo cho Ukraine 5) Cho biết phu nhân thủ tướng sẽ tham gia "hội nghị thượng đỉnh các đệ nhất phu nhân" tại Kiev.

Một loạt các thông báo trên đây, đa số đã được chuẩn bị từ nhiều tháng, do "các dấu hiệu cho thấy Azerbaijan tập trung quân tại đường tiếp xúc ở Thượng Karabakh và biên giới Armenia" - theo ông Panichian. Erevan lo ngại chiến tranh tái diễn, Bakou dùng vũ lực chiếm Thượng Karabakh, vùng đất người Armenia sinh sống đã ly khai khỏi Azerbaijan sau khi Liên Xô sụp đổ, và Bakou tái chiếm một phần trong cuộc chiến mùa thu 2020. Tuy Nga đã đưa gần 2.000 quân sang sau khi ngưng bắn, nhưng lại không hành động gì khi Azerbaijan phong tỏa hành lang Latchine khiến 120.000 người Armenia tại đây có nguy cơ "hoặc chết đói, hoặc phải di tản".

Cứu trợ nạn nhân động đất, cơ hội hòa giải với Maroc ?

Báo chí Pháp hôm nay dành trọng tâm cho vụ động đất ở Maroc (Morocco) làm hơn 2.000 người chết. Le Figaro chạy tựa "Maroc : Xúc động và tương trợ sau động đất". Libération đưa ảnh một nạn nhân với hàng tựa "Xin hãy giúp đỡ, kẻo chúng tôi sẽ chết đi trong im lặng". Trang nhất La Croix đăng ảnh các nhân viên cứu hộ đang làm việc, chạy tít "Maroc, thời điểm cần cấp cứu". Xã luận của La Croix kêu gọi "trợ giúp lâu dài", Libération nói về "Nỗi đau", Le Figaro nhận xét "Hòa giải trên những hoang tàn".

Sự xúc động của người Pháp về tầm cỡ thảm họa ở Maroc và làn sóng tương trợ là điều dễ hiểu, khi hai nước có mối quan hệ lịch sử và văn hóa lâu đời. Pháp hiện có 1,5 triệu người Maroc cư ngụ, trong đó phân nửa mang hai quốc tịch, trên 50.000 công dân Pháp sinh sống ở Maroc, 4 triệu du khách Pháp sang du lịch mỗi năm. Nhưng mối quan hệ của các nhà lãnh đạo hai nước đang nguội lạnh. 

Kể từ xì-căng-đan Pegasus, tên một phần mềm Israel được tình báo Maroc cài vào điện thoại cá nhân của ông Emmanuel Macron, tổng thống Pháp và quốc vương Mohamed VI không còn nói chuyện với nhau suốt hai năm qua. Trước thiên tai, nguyên thủ Pháp đề nghị giúp đỡ nhưng vua Maroc chỉ chấp nhận nhỏ giọt, do bất đồng về đông Sahara và việc Paris xích gần lại với Algeria. Nhưng ngay cả đối thủ Alger của Maroc cũng đã lên tiếng muốn hỗ trợ "nước anh em", và Le Figaro cho rằng nếu những bàn tay chìa ra trên những đổ nát được nắm lấy, sẽ là khởi đầu cho quá trình hòa giải.

Chile tiếp tục chia rẽ, 50 năm sau đảo chánh

La Croix nhận thấy nửa thế kỷ sau khi Dinh tổng thống bị dội bom, bóng ma của nhà độc tài Augusto Pinochet và tổng thống cánh tả Salvador Allende vẫn ám ảnh Santiago. Những cuốn sách viết về ông Allende bán rất chạy, trên truyền hình, những bộ phim nhiều tập và phim tư liệu về vụ đảo chánh của Pinochet liên tục được chiếu, với các cuộc tranh luận giữa những nhà sử học. Nhật báo thiên tả Libération dành nhiều trang cho sự kiện này, nhấn mạnh trước năm 2001, khi nói về "ngày 11 tháng Chín" là của năm 1973, về Chile, cái chết bi kịch của Allende. Trước 2001, khi nói về "ngày 11 tháng Chín", Hoa Kỳ chưa phải là mục tiêu của khủng bố.

Ngày 11/09/1973, trú ẩn tại Moneda tức Dinh tổng thống nằm ở trung tâm Santiago bị không quân Chile oanh tạc, Salvador Allende lên tiếng trong một bài diễn văn đầy xúc động trên Radio Magallanes : "Đây chắc chắn là cơ hội cuối cùng tôi nói chuyện với quý vị". Tổng thống phe xã hội biết rằng thế là hết : tướng Augusto Pinochet đảo chánh, cảng chính Valparaiso trong tay quân nổi dậy, những đài phát thanh chủ chốt sẽ tắt tiếng. Ông quyết định tự sát trong dinh thự đang bị xe tăng và bộ binh bao vây, nhưng kêu gọi phe cấp tiến "giữ hy vọng". Chilê bắt đầu chế độ độc tài đẫm máu, và 50 năm sau, tuy còn 1.200 người mất tích, nhưng đất nước này vẫn chia rẽ giữa những người ủng hộ và chống đối Pinochet.

Thụy My

Additional Info

  • Author Thụy My
Published in Việt Nam

 

Dự báo của các chiến lược gia ở Việt Nam dường như đã diễn ra sớm hơn. Sau chuyến thăm Hà Nội của Phó Tổng thống Mỹ và trước Quốc khánh 2/9 năm nay của Việt Nam, Bắc Kinh đã yêu cầu tàu nước ngoài bắt buộc phải khai báo trước khi đi vào cái gọi là "lãnh hải" (đường lưỡi bò) của Trung Quốc. Có thể thấy rõ, Việt Nam càng nhân nhượng, Trung Quốc càng lấn tới.

dotpha4

Phó Tổng thống Mỹ Kamala Harris tại họp báo ở Hà Nội hôm 26/8/2021 - Reuters

Vấn đề cấp bách sau chuyến thăm của bà Phó Tổng thống Harris là hiện thực hóa "Chương trình thúc đẩy quan hệ đối tác toàn diện Việt – Mỹ". Thúc đẩy "cái đà", nói chữ là "động lực" (momentum) trong quan hệ Mỹ – Việt, là bứt phá để Việt Nam có thể mạnh lên, trước hết là về kinh tế. Tuyên bố ngày 29/8 của Bắc Kinh liên quan đến "đường lưỡi bò", cũng như cuộc "giải phẫu" về lập trường của Trung Quốc, nhân tố cản trở khiến Việt – Mỹ chưa tuyên bố nâng cấp mối bang giao, chắc sẽ còn tiếp diễn. Điều này càng giúp chúng ta luận giải tại sao phải gấp rút xoay chuyển tình thế.

Không để cho cơ hội đảo chiều

"Cái đà" hay "động lực" (momentum) là những khái niệm cơ bản có thể dùng để đánh giá sức mạnh của các xu hướng cả trong quan hệ quốc tế nói chung, đặc biệt liên quan đến bang giao Việt – Mỹ. Các nhà hoạch định chiến lược thường phân tích các thông số ẩn chứa sức mạnh, sự tiếp diễn hay đảo chiều của các xu hướng ấy. "Cái đà" hay "động lực" của bang giao Việt – Mỹ sau chuyến thăm Hà Nội của Phó Tổng thống Kamala Harris nằm ngay trong phần mở đầu của "Chương trình thúc đẩy" nhằm tăng cường quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước. "Chuyến công du của Phó Tổng thống tới Việt Nam thể hiện cam kết sâu sắc của Hoa Kỳ không chỉ đối với khu vực, mà còn đối với mối quan hệ Việt – Mỹ. Trong các cuộc gặp song phương với các nhà lãnh đạo Việt Nam, Phó Tổng thống Harris tái khẳng định cam kết của Hoa Kỳ cho một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng và độc lập, cũng như một khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở, mạnh mẽ và kiên cường" [1].

Chính sự cởi mở đối với thương mại và đầu tư đã biến Việt Nam trở thành mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Điều này đã tạo ra sự bùng nổ đáng kể và kéo dài. Việt Nam là một trong năm quốc gia phát triển nhanh nhất trên thế giới trong 30 năm qua. Thật vậy, mối liên hệ sâu rộng với chuỗi cung ứng toàn cầu và mức đầu tư nước ngoài cao khiến Việt Nam có vẻ giống Singapore. Kể từ năm 1990, Việt Nam đã nhận được dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trung bình trị giá 6% GDP mỗi năm, gấp hơn hai lần mức toàn cầu. Tuy nhiên, sau một thời gian phát triển, hiện nay, việc duy trì tăng trưởng nhanh chóng từ xuất khẩu của các công ty nước ngoài ngày càng trở nên khó khăn. Sự căng thẳng giữa mở cửa với đầu tư nước ngoài và thúc đẩy các tập đoàn lớn trong nước trở nên gay gắt hơn. Tất cả điều này khiến cho việc cải cách khu vực tư nhân trong nước và hệ thống tài chính là điều tối quan trọng. Một nghiên cứu của các học giả từ Trường Kinh tế London cho thấy, mức tăng năng suất trong năm năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2007 đáng ra có thể cao hơn 40%, nếu không có các doanh nghiệp nhà nước [2].

Khoảng cách ngày càng lớn giữa các doanh nghiệp nước ngoài với trong nước đang đặt ra mối đe dọa cho quá trình phát triển tới đây của Việt Nam. Đất nước phụ thuộc quá nhiều vào đầu tư và xuất khẩu từ các công ty nước ngoài, trong khi các công ty trong nước hoạt động kém hiệu quả. "Chương trình thúc đẩy" sẽ giúp Việt Nam tái cân bằng và củng cố mô hình phát triển của mình. Việt Nam cần có cơ hội để phát triển thêm các tập đoàn tầm cỡ như Vingroup. Các tập đoàn hàng đầu đang hoạt động trong các lĩnh vực truyền thống như dầu mỏ và điện, hoặc trong các ngành công nghiệp chính để thực hiện mối quan hệ đối tác như vậy sẽ đòi hỏi sự thay đổi chính sách có tầm nhìn xa từ cả hai chính phủ. Nếu theo đúng "lộ trình", Mỹ sẽ giúp nâng cao chất lượng nông sản đủ điều kiện xuất sang các thị trường đòi hỏi chất lượng cao. Chỉ và duy nhất chỉ hợp tác với Mỹ và phương Tây, Việt Nam mới có thể sản xuất nguyên phụ liệu phục vụ cho sản xuất, kinh tế mới thoát khỏi sự lệ thuộc vào thị trường Trung Quốc. Tránh tình trạng bị bắt bí như hiện nay, Trung Quốc dừng nhập khẩu thanh long qua cửa khẩu biên giới, trái cây, nông sản Việt không thể xuất qua Trung Quốc. Trong khi đó, hoạt động nhập khẩu nông sản từ Vân Nam qua các địa phương biên giới Việt Nam vẫn diễn ra với khoảng 400 xe hàng mỗi ngày.

Việc xác định bang giao Việt – Mỹ "hậu Harris" sẽ nằm trong xu hướng nào (tăng hay giảm), xu hướng ấy đã bắt đầu và đang tiếp diễn hay sắp kết thúc để chuẩn bị chuyển sang một xu hướng mới, là những đánh giá cực kỳ cần thiết mà các đối tác nước ngoài có thể sử dụng để tiếp cận một cách kịp thời và bền vững. Độ mạnh hay lực đẩy của xu hướng ấy chính là momentum. "Làm sao để Việt Nam trở thành một đồng minh kinh tế hùng cường của Mỹ ?" Đây là một câu hỏi hết sức thiết yếu và thời sự được nhà phân tích Noah Smith nêu ra trên tờ "Washington Post" ngày 29/8/2021 [3]. Đây cũng không phải lần đầu tiên các chuyên gia quốc tế đặt vấn đề để Việt Nam trở thành đồng minh của Mỹ, cho dù chỉ hạn chế là "đồng minh về kinh tế".

dotpha5

Phó Tổng thống Mỹ Kamala Harris và Thủ tướng Phạm Minh Chính ở Hà Nội hôm 25/8/2021. Reuters

Phát huy chức năng "kép" của kinh tế

Hoa Kỳ đã thiết kế được sự kết nối hữu cơ giữa kinh tế với an ninh trong "Chương trình thúc đẩy", mặc dù yêu cầu hàng đầu trong quan hệ đối tác với Việt Nam là an ninh. Vừa an ninh cho bản thân, cho khu vực lẫn toàn cầu với tư cách một siêu cường. Việt Nam, ngược lại, bức bách nhiều hơn đối với nhân tố kinh tế, nhưng cũng không hề xem nhẹ yếu tố an ninh trong làm ăn với Mỹ. Trong cục diện cấp thời, vì ở vào thế yếu hơn Trung Quốc, nên mỗi bước đi với Mỹ, Việt Nam không thể không dè chừng Trung Quốc. Cứ xem cách ứng phó với sự vô lối của Bắc Kinh trong thời gian Hà Nội đón các phái bộ cấp cao của Mỹ từ trước đến nay thì rõ. Ở đây, sự liên thông giữa lợi ích của hai bên nằm ở khâu thúc đẩy chức năng "kép" của nhân tố kinh tế. Cho dù không gian sinh tồn và lợi ích sống còn của Việt Nam là Biển Đông và sông Mekong, nhưng bố trí chiến lược và sức mạnh của Mỹ lại tập trung cho Đông Á (an ninh của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan). Nhưng mẫu số chung ở đây vẫn là Trung Quốc, vì vậy, chức năng "kép" của kinh tế trong quan hệ đối tác có mối liên hệ rất đặc biệt.

dotpha6

Thủ tướng Phạm Minh Chính bắt tay Đại sứ Trung Quốc Hùng Ba ở Hà Nội hôm 23/8/2021, ngay trước chuyến thăm của Phó Tổng thống Mỹ Kamala Harris. Hình : Báo Chính Phủ

Như đã thấy, trước, trong và sau chuyến thăm lịch sử của ông Austin và bà Harris, Trung Quốc đã có những phản ứng ngoại giao rất thô bạo. Việt Nam cảm nhận rõ "chiến lược cái nêm" của Bắc Kinh nhằm "thọc gậy bánh xe" quan hệ đối tác Việt – Mỹ [4]. Ngay cả khi Bắc Kinh đả kích công khai chuyến thăm Việt Nam của Phó Tổng thống Mỹ, thậm chí trong thời gian ấy, Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội gọi việc chiếm đóng Hoàng Sa và Trường Sa là "quyền lợi hợp pháp" [5]. Mặc ! Việt Nam vẫn nhẫn nhịn và hầu như đều đều bỏ qua các phản ứng kiểu "xỉa xói" ấy [6]. Nhưng trước Quốc khánh 2/9 của mình mà Bắc Kinh yêu cầu ngư dân Việt Nam bắt buộc phải khai báo mỗi khi đi vào cái gọi là "lãnh hải" của Trung Quốc ở Biển Đông, thì câu chuyện không còn đơn giản chỉ là "xỉa xói" nữa. Vấn đề càng trở nên nghiêm trọng hơn khi Hoa Kỳ và cộng đồng quốc tế, đặc biệt là "Bộ Tứ" Châu Á và "Bộ Tứ" Châu Âu sẽ phản ứng, vì nó liên quan đến FONOP.

Chính vào thời điểm từ dịch bệnh Covid-19 đến khủng hoảng Afghanistan, Bắc Kinh toan tính uy tín và sức mạnh của Mỹ đang xuống, nên Trung Quốc quyết lấn tới. Để đối phó với Trung Quốc trên Biển Đông, Việt Nam cần tận dụng tối đa chức năng "kép" của nhân tố kinh tế trong "Chương trình thúc đẩy". Thứ nhất, đầu tư và thương mại có thể có tác động lên chính trị mạnh mẽ hơn hành động quân sự (Kế hoạch Marshall của Mỹ sau chiến tranh thế giới thứ hai đã gạt được ảnh hưởng của Liên Xô). Tương tự, đầu tư vào Đông Nam Á có thể tạo ra một vùng đệm khả dĩ chống lại hai nguy cơ song hành là chủ nghĩa bành trướng Đại Hán và chủ nghĩa Hồi Giáo cực đoan. Cả hai nguy cơ này đều được kích hoạt mạnh mẽ bởi cuộc rút quân của Mỹ khỏi Afghanistan. Thứ hai, sau khi Việt Nam mạnh về kinh tế, trở thành "con cá lớn", lúc bấy giờ mới có thể triển khai các bước tiếp theo của đối tác toàn diện. Để bảo vệ các lợi ích biển của mình trước chiến thuật vùng xám của Trung Quốc, Việt Nam cần phải sử dụng các biện pháp tổng hợp cả về kinh tế, ngoại giao, pháp lý và trên thực địa [7].

Nhà nghiên cứu có thâm niên David Brown phân tích : "Xem xét suy đoán trước chuyến thăm (của bà Harris) trên một số phương tiện truyền thông Mỹ và các thông cáo sau đó trên báo chí Việt Nam, độc giả có thể kết luận rằng Kamala Harris đến Việt Nam với một đề xuất có điều kiện rằng quan hệ song phương nên được nâng lên thành 'đối tác chiến lược' – điều này tốt để đối phó với tham vọng về chủ quyền Trung Quốc đối với Biển Đông. Trong khi đó thì các nhà lãnh đạo số hai và số ba của Đảng – Nhà nước trả lời : "Không hẳn như thế, thưa bà Harris, chúng tôi cho rằng 'quan hệ đối tác toàn diện' hiện tại của chúng tôi với Hoa Kỳ là tuyệt vời rồi". Lo ngại phía Hoa Kỳ chưa hiểu hết đầy đủ lập trường của bên chủ nhà, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc bổ sung : "Việt Nam coi Hoa Kỳ là một trong những đối tác quan trọng hàng đầu" [8].

*

Căn cứ phản ứng muộn màng của Việt Nam và các "Bộ Tứ" đối với tuyên bố ngang ngược của Trung Quốc ngày 29/8 có thể đưa ra phán đoán về giới hạn của các loại quan hệ đối tác giữa Việt Nam với các nước này. Chắc chắn sẽ không có bất cứ đối tác nào – dù là "toàn diện" như Mỹ, hay "chiến lược" như sáu nước trong cả hai "Bộ Tứ" (Nhật, Ấn, Úc, Pháp, Đức và Anh) – có thế thay thế Việt Nam trong sứ mệnh bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh hải và lãnh thổ. Sứ mệnh ấy đặt trên vai quân và dân Việt Nam. Việt Nam cũng không thể trung lập khi Trung Quốc gây hấn trên Biển Đông. Liệu giá trị "đồng minh kinh tế" như Giáo sư Noah Smith đề xuất, sẽ đủ để "giải cứu" Việt Nam ? "Lòng Dân Việt Nam" thì quá rõ, đến hơn 90% người dân Việt Nam thích làm ăn với Mỹ [9]. Vấn đề là "Ý Đảng cộng sản Việt Nam" trong trường hợp này như thế nào ?

Đinh Hoàng Thắng

Nguồn : RFA, 01/09/2021

Additional Info

  • Author Đinh Hoàng Thắng
Published in Diễn đàn

Mỹ đã thực sự từ nhiệm vai trò lãnh đạo thế giới

Như chúng tôi đã phân tích và nhận định, vai trò lãnh đạo thế giới dân chủ của Mỹ thực sự chấm dứt khi Donald Trump đắc cử tổng thống năm 2016 với khẩu hiệu "Nước Mỹ trước hết" (America First). Việc Joe Biden, một chính khách đầy kinh nghiệm và thiện chí trở thành tổng thống Mỹ cũng không thể làm tiến trình này thay đổi. Việc Mỹ tháo chạy khỏi Afghanistan vội vã, gây ra một tâm lý hoảng loạn khiến chính quyền Kabul sụp đổ nhanh chóng trước Taliban, dù bất ngờ nhưng không làm ai ngạc nhiên.

Việc Mỹ trở thành lãnh đạo thế giới có nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan. Thế chiến Hai đã làm suy yếu nước Anh, vốn là siêu cường số một khi đó. Cũng vì Thế chiến Hai mà các cường quốc Châu Âu đều kiệt quệ. Trong khi đó trọng lượng của nền kinh tế Mỹ chiếm đến 52% thế giới. Ngày hôm nay trọng lượng kinh tế của Mỹ chỉ còn 25% và các nước Châu Âu đã trỗi dậy mạnh mẽ, nhiều nước đã bắt kịp Mỹ, thậm chí vượt qua Mỹ. Việc Mỹ làm lãnh đạo thế giới vì thế không còn cần thiết và phù hợp.

Khi Mỹ từ nhiệm vai trò lãnh đạo thế giới và "nhường" trọng trách đó cho khối G7 thì tiếng nói của các nước G7 sẽ có trọng lượng hơn và đi kèm đó là trách nhiệm lớn hơn. Một Liên minh dân chủ như vậy sẽ tạo ra một khối thống nhất, đoàn kết và mạnh mẽ hơn. Trước đây các nước dân chủ luôn chờ lệnh của Mỹ một cách thụ động và thường thì họ chấp nhận mọi quyết định của Mỹ. Nay thì họ sẽ chia sẻ trách nhiệm và chủ động trong các vấn đề quan trọng của thế giới. Cũng giống như trong các tập đoàn kinh tế lớn, để giữ chân nhân sự cấp cao, các công ty đã chia cổ phần cho họ nhằm biến họ từ người làm thuê thành chủ nhân của công ty.

1233392727

Mỹ đã từ nhiệm và nhường vai trò lãnh đạo thế giới cho nhóm G7 - Các nhà lãnh đạo của Canada, Hội đồng Châu Âu, Mỹ, Nhật Bản, Anh, Ý, Pháp, Ủy ban Châu Âu và Đức chụp ảnh chung ngày 14/06/2021 tại hội nghị thượng đỉnh G7 tổ chức tại Corbis Bay, Cornwall, Anh Quốc. Nguồn : AFP qua Getty Images

Mỹ sẽ đối xử với Nga và Trung Quốc như thế nào ?

Việc Mỹ từ nhiệm vai trò lãnh đạo thế giới không hề mâu thuẫn với việc Mỹ kiềm chế Nga và Trung Quốc, hai cường quốc độc tài muốn nổi lên thay thế Mỹ. Dù Mỹ không còn là lãnh đạo thế giới nhưng vẫn là siêu cường số một hiện nay. Mỹ không thể nào để vị trí bá chủ thế giới lọt vào tay các cường quốc khác ý thức hệ với mình là Nga và Trung Quốc. Mỹ sẽ làm tất cả để điều đó không xảy ra. Mỹ sẽ lùi lại đằng sau và hỗ trợ tối đa cho G7, một liên minh dân chủ là đồng minh ý thức hệ với Mỹ. Điều này cũng giống việc nước Anh nhường vai trò lãnh đạo thế giới cho Mỹ sau thế chiến Hai. Nếu việc chuyển giao này diễn ra giữa hai nước khác ý thức hệ thì chiến tranh tất yếu phải xảy ra như nó đã từng xảy ra trong lịch sử thế giới.

Chính vì lý do đó mà Mỹ vẫn quyết tâm lôi kéo Việt Nam và các nước trong khu vực về phía các nước dân chủ nhằm bao vây và cô lập Trung Quốc. Việt Nam là quốc gia đặc biệt quan trọng vì liên quan và ảnh hưởng lớn nhất trên Biển Đông, cửa ngõ duy nhất để Trung Quốc vươn ra thế giới. Một mặt Trung Quốc cố gắng tìm mọi cách để chiếm lấy Biển Đông, mặt khác Mỹ và các nước dân chủ cũng sẽ làm mọi cách để điều đó không xảy ra. Các cuộc tập trận rầm rộ của Mỹ và các nước dân chủ cũng như Trung Quốc tại Biển Đông thời gian qua phản ánh rõ quyết tâm của cả hai phía.

Nước Nga, ngoài kho vũ khí ra thì nền kinh tế của họ quá yếu để gây chiến với thế giới. Putin dù không muốn nhưng cũng phải nhường vai trò lãnh đạo khối độc tài chống Mỹ cho Trung Quốc.

Việt Nam cần hợp tác toàn diện với Mỹ

Bất chấp những khó khăn trong nội bộ, chính quyền Joe Biden vẫn cố gắng nâng cấp quan hệ với Việt Nam. Việc Mỹ hỗ trợ hào phóng cho Việt Nam để chống đại dịch, việc Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Lloyd Austin ghé thăm Việt Nam hôm 29/7/2021 và sắp tới đây là chuyến thăm chính thức của bà Phó tổng thống Mỹ Kamala Haris nhằm nâng cấp quan hệ hai nước từ "đối tác toàn diện" lên thành "đối tác chiến lược" là những minh chứng.

Đây là một cơ hội vàng cho Việt Nam. Việt Nam cần hợp tác một cách đầy đủ và toàn diện với Mỹ tối đa trên mọi lĩnh vực. Với tiềm lực hùng mạnh trên mọi lĩnh vực, Mỹ hoàn toàn có thể giúp Việt Nam phát triển. Chúng tôi chia sẻ với ý kiến của tác giả Đinh Hoàng Thắng trong bài viết "Cơ hội mới liệu có bị bỏ lỡ một lần nữa ?" rằng :

"Có thể nói, với nhân dân, họ đã có sự lựa chọn của mình rồi. Quan hệ đối ngoại, một khi được xác lập lấy lợi ích quốc gia làm nền tảng, sẽ trở nên bộ phận cấu thành của nguồn lực chính trị, kinh tế, quân sự của quốc gia. Vấn đề là, thay vì bám giữ nhận thức cũ trước đây khi tách bạch nội lực và ngoại lực, người làm chiến lược cần tính toán, tận dụng nguồn lực đặc biệt này sao cho tối ưu hóa nó ở mức cao nhất".

Cũng đừng quên một điều là Mỹ rất thiếu kiên nhẫn. Sự giúp đỡ đơn phương của Mỹ dành cho Việt Nam sẽ kết thúc khi Trung Quốc không còn là mối đe dọa cho an ninh và hòa bình thế giới. Bà Kamala Harris sẽ đề cập đến vấn đề nhân quyền với Hà Nội nhưng cũng chỉ qua loa như mọi khi và Việt Nam có thể đáp lễ bằng cách trả tự do cho một vài tù nhân chính trị.

Việt Nam không cần liên minh quân sự với Mỹ vì mấy lý do. Một là Mỹ sẽ không đem quân tham chiến ra bên ngoài nữa trừ khi thực hiện trách nhiệm trong khuôn khổ của liên minh G7. Thứ hai Việt Nam không cần khiêu khích Trung Quốc. Dù rằng Trung Quốc sẽ không gây chiến với Việt Nam nhưng khiêu khích họ là việc không nên làm. Thứ ba là Mỹ không đáng tin cậy. Bài học Việt Nam Cộng Hòa trước đây và Afghanistan hiện nay vẫn còn đó. Thứ tư, Mỹ luôn hành động vì quyền lợi của họ (trong ngắn hạn). Dù Việt Nam và Mỹ không ký kết hiệp ước liên minh với nhau nhưng nếu cần Mỹ vẫn can thiệp để bảo vệ Việt Nam (như trường hợp Mỹ bảo vệ Đài Loan) và Mỹ sẽ bỏ chạy khi thấy không còn cần thiết nữa dù có cam kết đồng minh (như trường hợp Afghanistan).

my2

Việt Nam cần hợp tác toàn diện với Mỹ trong mọi lĩnh vực

Việt Nam xoay trục nhưng vẫn cố giữ chế độ chính trị

Đảng cộng sản Việt Nam đã chọn "bỏ Tàu theo Mỹ" từ lâu. Đó là một lựa chọn đúng, không chỉ cho đất nước mà còn cho cả Đảng cộng sản. Họ cũng không còn lựa chọn nào khác. Muốn theo Trung Quốc để giữ Đảng cũng không được vì Trung Quốc đang trên đà suy thoái. Trong khi đó kinh tế Việt Nam hoàn toàn phụ thuộc vào Mỹ các nước dân chủ. Tuy nhiên Đảng cộng sản luôn đặt quyền lợi của Đảng và Ban lãnh đạo đảng lên trên quyền lợi quốc gia. Mặc dù đã xoay trục sang Mỹ nhưng Đảng cộng sản không hề có một bất cứ lộ trình nào để dân chủ hóa đất nước. Họ vẫn đàn áp các tiếng nói bất đồng và duy trì bộ máy toàn trị.

Đảng cộng sản có thể đang âm thầm chuẩn bị cho kế hoạch "dân chủ hóa đất nước một mình" sau khi "dọn dẹp" hết các lực lượng mà họ cho là nguy hiểm hoặc có thể cản trở họ. Tuy nhiên xác suất thành công của Đảng cộng sản là số không. Chưa có một đảng cộng sản nào trên thế giới có thể chuyển hóa thành công về dân chủ, vì bản chất của hai thể chế độc tài và dân chủ trái ngược nhau hoàn toàn. Đảng cộng sản có thể sẽ "kết hợp" với một vài tổ chức dân chủ cuội do chính họ dựng lên để nắm thế chủ động trong tiến trình chuyển hóa về dân chủ nhưng Đảng cộng sản sẽ sớm khám phá ra rằng các cá nhân và các tổ chức như vậy chỉ làm tình hình trở nên hỗn loạn và phức tạp chứ không giúp được gì cho họ.    

Đảng cộng sản sẽ rất khó khăn và lúng lúng khi "xoay trục" sang Mỹ và các nước dân chủ vì sự khác biệt thể chế chính trị. Dù Mỹ hứa không thay đổi chế độ chính trị tại Việt Nam và chắc họ sẽ thực hiện đúng như thế thì tình cảnh của Đảng cộng sản cũng rất bi đát. Một điệu nhạc không thể nhảy theo hai kiểu khác nhau. Chế độ chính trị độc đảng và toàn trị của Việt Nam mâu thuẫn với các nước dân chủ và mâu thuẫn với sự phát triển.

Đại dịch Covid-19 đang tàn phá đất nước

Đại dịch Covid-19 là một thảm kịch của đất nước và cho cả Đảng cộng sản. Chính quyền hoàn toàn bị động và bất lực trong việc dập dịch. Hậu quả rất nghiêm trọng khi nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ bị phá sản, các công ty của nước ngoài đầu tư vào Việt Nam cũng gặp khó khăn khi chuỗi sản xuất bị đứt gãy do phải đóng cửa để chống dịch. Các công ty này sẽ giảm bớt đầu tư vào Việt Nam hoặc chuyển nhà máy sang nước khác hoặc họ phải gây sức ép, buộc chính quyền phải công khai minh bạch trong việc phân phối và tiêm chủng vắc-xin. Việc xử lý kém cỏi của chính quyền khiến hàng triệu người lao động từ thành phố Hồ Chí Minh và các khu công nghiệp trọng điểm ở Đồng Nai, Bình Dương bỏ chạy tán loạn về quê. Việc này sẽ gây ra tình trạng thiếu hụt lao động nghiêm trọng khi đại dịch kết thúc và gây sức ép về công ăn việc làm tại các địa phương.

Cũng như Trung Quốc, Đảng cộng sản Việt Nam chỉ còn dựa trên một sự chính đáng duy nhất là "phát triển kinh tế". Khi kinh tế khủng hoảng thì sự phẫn nộ của người dân sẽ tăng lên và có thể gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng. Một cuộc khủng hoảng kinh tế có thể dẫn đến xáo trộn về chính trị. Các phe nhóm trong Đảng cộng sản sẽ có lý do để đấu đá và thanh trừng lẫn nhau.

Chiến dịch đốt lò của ông Nguyễn Phú Trọng sẽ gia tăng trong thời gian tới, bất chấp đại dịch. Vừa thu hồi tài sản từ đám quan chức tham nhũng ngã ngựa để bổ sung cho ngân sách đang gặp khó khăn, vừa nhằm mục đích loại bỏ phe thân Trung Quốc của Nguyễn Tấn Dũng. Vụ khởi tố ông Nguyễn Duy Linh, cựu Phó tổng cục trưởng Tổng cục tình báo, con trai thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng, một người thân cận của Nguyễn Tấn Dũng làm dấy lên nhiều đồn đoán. Thường thì trước mỗi lần chuyển trục, Đảng cộng sản đều âm thầm tiêu diệt những thế lực có nguy cơ cản đường họ. Lần này những quan chức cấp cao thân Trung Quốc sẽ là đối tượng bị đàn áp bởi chiến dịch đốt lò, nhân danh chống tham nhũng.

my3

Đại dịch Covid-19 là một thảm kịch của đất nước và cho cả Đảng cộng sản - Ảnh minh họa : Xót xa cảnh người dân vượt trăm cây số, ăn bờ ngủ bụi, nặng trĩu hành trang về quê tránh dịch

Cơ hội nào cho phong trào dân chủ Việt Nam ?

Cuộc đối đầu không tiếng súng giữa Mỹ và các nước dân chủ với Trung Quốc ngày càng dứt khoát và không khoan nhượng. Tình hình rất có lợi cho tiến trình dân chủ hóa Việt Nam. Phong trào dân chủ Việt Nam sẽ được hậu thuẫn không chỉ mỗi nước Mỹ mà còn tất cả các cường quốc dân chủ khác như Đức, Anh, Pháp, Úc, Canada. Hai nước Nhật và Hàn quốc cũng sẽ gây sức ép không nhỏ lên Đảng cộng sản vì họ đã đầu tư rất nhiều vào Việt Nam, chỉ có điều là họ tế nhị chứ không công khai như Mỹ. Các nước G7 cũng đã bắt đầu nhận người Việt Nam tị nạn chính trị và họ sẽ ngày càng công khai chỉ trích Đảng cộng sản vi phạm nhân quyền.

Cơ hội dân chủ hóa Việt Nam ngày càng lớn nhưng chỉ với một điều kiện để đất nước không rơi vào hỗn loạn : Phải có một vài tổ chức chính trị đối lập đứng đắn và có tầm vóc để làm đối trọng với Đảng cộng sản. Trí thức Việt Nam nếu muốn đất nước có dân chủ thì phải tham gia hoặc ủng hộ cho một tổ chức nào đó.

Việt Hoàng

(18/08/2021)

Additional Info

  • Author Việt Hoàng
Published in Quan điểm

Hỗ trợ chống Covid, sự ủng hộ của chính quyền Biden đối với phán quyết của Tòa trọng tài quốc tế năm 2016 về vấn đề Biển Đông cũng như những ưu tiên của Mỹ trong vấn đề biến đổi khí hậu và dân chủ nhân quyền… là những diễn biến mới có ảnh hưởng tới quan hệ song phương Việt – Mỹ. Nhân kỷ niệm 26 năm ngày bình thường hóa quan hệ giữa hai nước (11/7/1995), RFA đã có cuộc trò chuyện với Giáo sư Carl Thayer từ Đại học New South Wales – Canberra xung quanh những vấn đề này.

vietmy1

Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội trao tặng các thiết bị xét nghiệm Covid-19 cho Bộ Quốc phòng Việt Nam ngày 6/72021 - Ảnh : Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội

Vẫn còn vấn đề về niềm tin

RFA : Thời gian gần đây, chúng ta đã chứng kiến việc Mỹ gia tăng hỗ trợ chống covid cho Việt Nam trong đó có việc chuyển hai triệu liều vắc-xin của hãng Moderna và trao thiết bị xét nghiệm trong tuần này. Ông có cho rằng giúp đỡ một người bạn đang gặp khó khăn là một cách thức tốt để gia tăng niềm tin và đưa hai nước ngày một gần hơn với mối quan hệ đối tác chiến lược ?

Carl Thayer : Tôi cho rằng việc Mỹ gia tăng hỗ trợ chống dịch bệnh Covid-19 giúp vun đắp niềm tin giữa hai nước. Tuy nhiên quan hệ đối tác chiến lược lại là một vấn đề riêng biệt.

Sau khi ông Antony Blinken được khẳng định là Ngoại trưởng ở Mỹ, ông đã điện đàm với Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh và thảo luận của họ đã đề cập tới việc hỗ trợ và hợp tác trong vấn đề chống covid. Trong tháng 7 này, chính quyền Biden đang hỗ trợ nhiều triệu liều vắc-xin cho các nước trên thế giới. Việt Nam là đối tác toàn diện gần gũi và nằm trong danh sách các nước ưu tiên nhận vắc-xin của Mỹ nhưng trong khu vực Đông Nam Á, ngoài Việt Nam, Campuchia và Lào, Mỹ còn tặng vắc-xin cho Philippines, Indonesia, Malaysia và Thái Lan. Cuộc chiến chống covid phải được thực hiện trên toàn cầu để không còn điểm nóng nào và Mỹ đã cung cấp vắc-xin một cách thiện ý và là một phần hoạt động nhân đạo của họ.

Việt Nam đang cố gắng gia tăng và đa dạng hóa nguồn cung vắc-xin, không phải dựa vào Trung Quốc. Việt Nam đã yêu cầu Mỹ hỗ trợ và bây giờ nhận được hỗ trợ, vì vậy, điều này giúp tăng cường niềm tin giữa hai nước.

Quan hệ đối tác chiến lược, tôi nghĩ là một vấn đề riêng biệt. Cả hai vị Đại sứ Mỹ tại Việt Nam và Đại sứ Việt Nam tại Mỹ gần đây đều nói rằng mối quan hệ giữa hai nước về bản chất đã mang tính chiến lược và việc nó được gọi như thế nào không tạo ra sự khác biệt. Và quan hệ đối tác chiến lược này có nhiều lĩnh vực hợp tác bao gồm cả y tế.

vietmy2

Hai triệu liều vắc-xin Moderna Mỹ trao tặng thông qua chương trình Covax đã đến Việt Nam vào ngày 9/7/2021. Ảnh : Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội

RFA : Một số ý kiến cho rằng tuy đã đạt được một bước tiến dài nhưng niềm tin giữa hai nước đôi khi vẫn là một thách thức vì Đảng Cộng Sản Việt Nam (Đảng cộng sản Việt Nam) cho rằng Mỹ vẫn thực hiện các hoạt động diễn biến hòa bình nhằm lật đổ sự lãnh đạo của Đảng này. Vậy ông nghĩ gì về vấn đề niềm tin giữa hai nước hiện nay ?

Carl Thayer : Đại hội toàn quốc lần thứ 13 của Đảng cộng sản Việt Nam và một bài báo gần đây của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng viết về vấn đề đi theo con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, chỉ ra bốn nguy cơ Việt Nam phải đối mặt, trong đó nguy cơ thứ tư là diễn biến hòa bình [thường can thiệp vào vấn đề nội bộ của Việt Nam thông qua các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo… - PV].

Việt Nam không phải là một khối ý kiến thuần nhất. Trong giới tinh hoa, có những nhóm muốn hiện đại hóa và có quan hệ thân thiết hơn với Mỹ (nhưng không phải là đồng minh). Những người khác thì theo chủ nghĩa dân tộc, tự chủ và họ phản đối bất kỳ sự chỉ trích nào đối với Việt Nam về nhân quyền và dân chủ.

Và cũng có một nhóm khác rất hài lòng với việc là đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam và đang nắm quyền bởi họ được hưởng lợi từ hệ thống. Họ nói bất cứ điều gì như mở cửa và cải cách đang làm mất ổn định hệ thống và lập luận rằng Trung Quốc là đối trọng vì Trung Quốc không can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam như cách Hoa Kỳ làm.

Một nghiên cứu lớn sắp được công bố bởi một học giả thông thạo tiếng Việt mà tôi vừa có dịp đọc nhưng chưa thể nêu tên, chỉ ra rằng trong quan hệ Việt-Mỹ, cứ mỗi khi vấn đề nhân quyền xuất hiện, nó lại làm gián đoạn nhiều sáng kiến ​​mà các nhà lãnh đạo cao nht ca c hai nước mun theo đui và làm cho mi quan h tht lùi tr li.

Hiện tại, chính quyền Mỹ chưa tập trung vào vấn đề dân chủ nhân quyền vì họ còn đang bận rộn với nhiều vấn đề khác. Nhưng Đạo luật Sáng kiến ​​Tái đảm bo Châu Á (Asia Reassurance Initiative Act - ARIA) - mt tài liu định hướng v chính sách Châu Á mi ca M - đã đề cp đích danh đến Vit Nam trong phn nói v nhân quyn. Đáng lưu ý là đạo lut này có th kêu gi trng phạt nếu có các vi phạm.

Thông thường, trước thời kỳ covid, mỗi khi có chuyến thăm cấp cao của một lãnh đạo Việt Nam đến Mỹ, cộng đồng người Mỹ gốc Việt, những người ủng hộ dân chủ và nhân quyền thường ở Mỹ đều gia tăng biểu tình và chỉ trích và điều này thường làm ảnh hướng tới thành công của các chuyến thăm tới Washington.

Trong thời kỳ covid, tất cả các cuộc họp bàn giữa hai nước đều được tổ chức trực tuyến vì thế đã không thể bị gián đoạn. Tuy nhiên, chúng ta vừa thấy một hai bình luận ngắn của Mỹ về các bloggers bị bắt ở Việt Nam và đây là dấu hiệu cho thấy Bộ Ngoại giao Mỹ đang theo dõi vấn đề này. Và vì thế, một lúc nào đó trong thời gian tới khi vấn đề dân chủ nhân quyền nổi lên và trở thành một sự khó chịu trong quan hệ hai nước thì vấn vấn đề "diễn biến hòa bình" cũng xuất hiện trở lại trong nội bộ Đảng cộng sản Việt Nam.

vietmy3

Nhiều người Mỹ gốc Việt biểu tình phản đối chuyến thăm Mỹ của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tại thủ đô Washington vào ngày 31/5/2017. Ảnh : Saigontimesusa.com

Những mong muốn khác nhau trong vấn đề đối tác chiến lược

RFA : Những khác biệt trong vấn đề dân chủ, nhân quyền đã tồn tại nhiều năm nay trong quan hệ Việt- Mỹ. Nhìn tổng thể, ông có lạc quan về mối quan hệ song phương và triển vọng thiết lập quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước ?

Carl Thayer : Tôi lạc quan nhưng thận trọng khi dự đoán về việc vấn đề quan hệ đối tác chiến lược giữa Việt Nam và Mỹ. Cả hai nước đã có mong muốn xây dựng quan hệ đối tác chiến lược từ thời ngoại trưởng Hillary Clinton nhưng họ có những quan niệm khác nhau về vấn đề này.

Mỹ thiên về khía cạnh an ninh quân sự - một điều vô cùng nhạy cảm với Việt Nam. Về phần mình, Việt Nam mong muốn phát triển các lĩnh vực hợp tác như giáo dục, khoa học, công nghệ, kinh tế… chứ không phải những vấn đề khó như dân chủ, nhân quyền.

Một bài nghiên cứu gần đây của các chuyên gia thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế Mỹ (CSIS) cho rằng ưu tiên hàng đầu của người Mỹ là có được một quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam. Tôi có xu hướng phê phán quan điểm này vì thứ nhất, trong tình huống đang đàm phán, không nên để lộ bài. Thứ hai, như tôi đã chỉ ra, có sự đồng sàng dị mộng giữa hai nước. Một số người ủng hộ quan điểm này luôn nói vấn đề an ninh quân sự, trong đó yếu tố chống Trung Quốc. Và đó không phải là cách có được Việt Nam vì Việt Nam muốn độc lập và tự chủ trước những áp lực đó.

Tôi thấy hai bên đang hợp tác thiết thực, không có vấn đề hận thù hay ý thức hệ. Mỹ có lợi ích khi Việt Nam trở thành một tác nhân tích cực mạnh mẽ về kinh tế cũng như đóng góp vào sự ổn định của khu vực. Hai quốc gia không cần phải là đồng minh theo nghĩa chính thức nhưng Mỹ có thể tin tưởng Việt Nam hành động độc lập và mang tính xây dựng và như vậy là đủ tốt.

Việt Nam đã có 17 quan hệ đối tác chiến lược và Việt Nam sử dụng chúng để duy trì sự độc lập của mình và các quốc gia đối tác của Việt Nam được hưởng lợi từ vai trò độc lập của nước này. Tóm lại, tôi cho rằng nỗ lực có được quan hệ đối tác chiến lược nhằm có được Việt Nam và chống lại Trung Quốc là khó có kết quả và vấn đề quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước cần được đàm phán dần dần và cẩn trọng.

vietmy4

Chuyến thăm Đà Nẵng của tàu hải quân Mỹ USS Curtis Wilbur ngày 28/7/2004. Ảnh : AFP

Mỹ ủng hộ - Việt Nam có nên kiện Trung Quốc lúc này ?

RFA : Cũng vào đầu tháng 7 này, trong cuộc điện đàm với Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh, Cố vấn An ninh quốc gia Mỹ Jake Sullivan đã bày tỏ sự ủng hộ của Mỹ đối với phán quyết của tòa trọng tài năm 2016 về vấn đề Biển Đông. Ông nghĩ gì về động thái này ?

Carl Thayer : Việt Nam và Mỹ đều cho rằng yêu sách của Trung Quốc đối với các quyền lịch sử mà Tòa trọng tài phán quyết là không có chỗ đứng trong luật pháp quốc tế. Nước Mỹ dưới thời Trump và tôi tin rằng cả dưới thời chính quyền Biden đều đã đưa ra đề nghị hỗ trợ chống lại sự uy hiếp và bắt nạt của Trung Quốc.

Qua động thái này, Mỹ nói với Việt Nam rằng Mỹ đồng thuận với công hàm của Việt Nam gửi tới Ủy ban Ranh giới về Thềm lục địa của Liên Hợp Quốc năm 2020 đồng thời quan điểm pháp lý của Việt Nam và phán quyết của tòa cần được giữ vững.

Về phần mình, tôi nghĩ điều Việt Nam muốn thấy từ Chính quyền Biden là sự tái khẳng định điều mà cựu Ngoại trưởng Pompeo đã chỉ ra [vào tháng 7 năm 2020- PV] đó là Bãi Tư Chính là của Việt Nam và Trung Quốc không có quyền khai thác dầu ở đó.

RFA : Theo ông, với sự ủng hộ này của Mỹ, Việt Nam có nên hành động dứt khoát hơn để giải quyết tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc trên Biển Đông, ví dụ tiến hành khởi kiện Trung Quốc chẳng hạn ?

Carl Thayer : Về các vấn đề chủ quyền, không thể buộc một bên tranh chấp ra trọng tài quốc tế trừ khi có sự đồng ý của bên đó. Công ước Luật Biển của Liên hợp quốc (UNCLOS) không giải quyết các tranh chấp chủ quyền. Vì vậy Việt Nam không thể đơn phương đưa vấn đề quyền sở hữu quần đảo Hoàng Sa ra tòa trọng tài theo UNCLOS mà cần phải được Trung Quốc đồng ý cũng như đồng ý chấp nhận kết quả và điều này là không thể có.

Cách mà Philippines làm là hỏi tòa trọng tài đâu là những quyền lợi của chúng tôi. Để làm điều này, trong trường hợp Việt Nam, Việt Nam nói rằng chúng tôi có một bờ biển dài và chúng tôi được hưởng quyền trong khu vực đặc quyền kinh tế 200 hải lý và không có gì có thể chồng lấn với vùng đặc quyền đó. Vậy chúng tôi có quyền tìm kiếm dầu ở Bãi Tư Chính mà không bị gây hấn và bắt nạt ? Tòa có thể phán quyết về vấn đề này nhưng lại thiếu khả năng thực thi pháp luật.

vietmy5

Phiên điều trần tháng 7/2015 tại Cung điện Hòa bình, thành phố La Hay - Vụ Philippines kiện Trung Quốc Biển Đông. Ảnh : Tòa Trọng tài Thường trực (PCA).

Đáng chú ý nếu Việt Nam đưa vụ việc này ra tòa sẽ nhận được các câu hỏi : Các bạn và Trung Quốc đã đàm phán để giải quyết tranh chấp này chưa ? Và làm thế nào để chứng minh hai bên đã đàm phán mọi lý lẽ và rơi vào bế tắc ?

Hiện tại khó có thể chứng minh được điều này vì có ba nhóm làm việc liên quan tới các vấn đề về biển giữa Trung Quốc và Việt Nam vẫn đang diễn ra. Một nhóm về vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ. Một nhóm khác tham vấn về cùng hợp tác phát triển trên biển và nhóm thứ ba hợp tác trong các lĩnh vực kém nhạy cảm hơn, có liên quan về biển. Và nhóm làm việc thứ nhất đã có 15 cuộc họp, nhóm thứ hai có 12 cuộc và nhóm thứ ba có 13 cuộc họp và đều có họp trong năm nay.

Bên cạnh đó, Hiến chương Liên Hợp Quốc đưa ra một danh sách các hoạt động hòa giải, trọng tài và nói rằng các quốc gia hãy tiến hành các hoạt động này một cách hòa bình.

Cuối cùng, để tiến hành vụ kiện, Việt Nam sẽ phải tìm một vụ việc quan trọng khiến cuộc tranh chấp này trở nên nguy hiểm. Gần đây, hai nước chỉ có xung đột vào năm 2019. Cân nhắc các vấn đề nêu trên, tôi cho rằng nếu đi theo hướng của Philippines vào thời điểm này sẽ làm xấu đi mối quan hệ Việt Nam với Trung Quốc. Thêm vào đó, cũng cần nói thêm rằng, Mỹ chỉ có thể hỗ trợ về mặt chính trị bởi vì Mỹ không phải là một quốc gia phê chuẩn Công ước UNCLOS. Trước kia khi Philippines tiến hành vụ kiện của mình, Mỹ đã yêu cầu được tham gia với tư cách quan sát viên nhưng bị từ chối vì nước này không phải thành viên UNCLOS. Vì vậy Mỹ chỉ có thể hỗ trợ về chính trị, ngoại giao nhưng không thể hỗ trợ về mặt pháp lý.

Biến đổi khí hậu - lĩnh vực hợp tác nhiều triển vọng

RFA : Biến đổi khí hậu là một trong những ưu tiên hàng đầu của Chính quyền Biden và gần đây Mỹ đã có khá nhiều hành động và quyết sách mới. Trong khi đó, Việt Nam lại là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất bởi biến đổi khí hậu. Ông có cho rằng hợp tác của Mỹ với Việt Nam trong lĩnh vực này sẽ gia tăng trong thời gian tới ?

vietmy6

Ông John Kerry, Đặc phái viên Biến đổi khí hậu của Chính phủ Mỹ, thăm Đồng bằng Sông Cửu Long ngày 14/1/2017 khi ông còn là Ngoại trưởng Mỹ. Ảnh : AFP

Carl Thayer : Câu trả lời của tôi là chắc chắn. Tổng thống Biden đã bổ nhiệm cựu Ngoại trưởng John Kerry làm Đặc phái viên về Biến đổi khí hậu và ông Kerry cũng đã có các liên lạc với các đồng nghiệp ở Việt Nam. Tôi nghĩ Việt Nam có thể trông đợi sự gia tăng quan tâm và hợp tác từ phía Mỹ trong lĩnh vực này vì Việt Nam là một trong năm quốc gia trên thế giới bị ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu và ông Kerry lại là một cựu chiến binh Việt Nam - một người rất hiểu Việt Nam. Thêm nữa, trong nội bộ Đảng Dân chủ trong chính quyền Biden, Việt Nam được xem là một quốc gia đóng góp tích cực quan trọng cho an ninh khu vực, vì vậy Mỹ có lợi ích khi giúp Việt Nam giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu cũng như chia sẻ các dữ liệu khoa học …

Cũng phải nói rằng, biến đổi khí hậu là vấn đề được nêu ra tại Đại hội toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 13 và là vấn đề Việt Nam đang tìm kiếm những đột phá nhằm giúp đạt được mục tiêu của các kế hoạch phát triển trong 5 năm tới cũng như các kế hoạch tới năm 2030 và 2045, vì vậy mối quan tâm của hai quốc gia có sự tương đồng và trùng khớp ở đây. Nhìn ở khía cạnh toàn cầu, biến đổi khí hậu là ưu tiên tiếp theo sau vấn đề covid và vấn đề này sẽ ngày càng trở nên quan trọng.

RFA : Xin trân trọng cảm ơn Giáo sư !

Nguồn : RFA, 11/07/2021

Additional Info

  • Author Carl Thayer
Published in Diễn đàn

Vi vic Hoa K có mt chính quyn mi khi tân Tng thng Joe Biden bước vào Nhà Trng hôm 20/1 trong khi Đảng cộng sản Vit Nam sp quyết đnh đường hướng lãnh đo cho 5 năm ti ti Đi hi Đng 13, mt câu hi đt ra là mi quan h gia hai quc gia cu thù s đi theo chiu hướng nào và Vit Nam cn làm gì đ tránh kh năng b trng pht tr đũa m ng t chính quyn Tng thng Donald Trump

quanhe1

Mt ph n đi qua poster qung bá Đi hi Đng 13 sp ti ti Hà Ni. Vit Nam sp chn ra nhng lãnh đo mi trong lúc M va có chính quyn mi sau khi ông Joe Biden bước vào Nhà Trng.

Đi hi 13 ca Đảng cộng sản Vit Nam trong vài ngày ti s khai mc đ chn ra nhng nhà lãnh đo mi và đưa ra nhng chính sách cho 5 năm tiếp theo. Trng tâm ca đường li chính sách ca Hà Ni, theo các nhà quan sát, là đi phó vi nhng thách thc trong vic cân bng mi quan h gia Trung Quc và M, mà trong đó Vit Nam đã tr thành mt đi tác chiến lược quan trng.

Theo mt s kch bn được nhiu người nói ti và đã được thông qua ti Hi ngh Trung ương 15 va ri mà Tiến s Lê Hng Hip ca Vin Nghiên cu Đông Nam Á ISEAS-Yusof Ishak Singapore cho biết thì "Tng bí thư Nguyn Phú Trng s được ng hi đ li thêm ít nht mt thi gian na" trong khi "Th tướng Nguyn Xuân Phúc cũng được s ng h trong Trung ương Đng đ li tiếp đ tiếp qun cương v Ch tch nước".

Theo d đoán ca Tiến sĩ Hip, dàn lãnh đo ca Vit Nam theo kch bn này s "va cũ va mi" khi có hai gương mt mi trong t tr gm Trưởng ban T chc Trung ương Đng Phm Minh Chính được đ c gi chc th tướng trong khi Phó Th tướng Vương Đình Hu được đ c vào chc ch tch Quc hi.

Giáo sư Carl Thayer ca Đi hc New South Wales Úc, mt nhà phân tích chính trường Vit Nam, cũng có nhn đnh tương t v 4 v trí cao nht ca dàn lãnh đo Vit Nam có th s được bu chn ti Đi hi Đng 13, d kiến din ra t 25/1 đến 2/2.

Dù có th có s chuyn giao quyn lc sau Đi hi 13, theo Tiến sĩ Hip và Giáo sư Thayer, thì điu này cùng vi s thay đi chính quyn ca M s không có nhiu nh hưởng ti xu hướng phát trin ca quan h song phương gia hai nước, hin đang gn kết nhiu hơn v kinh tế và quc phòng.

"Lý do cơ bn đy là quan h song phương hin ti đã được đnh hình ch yếu bi li ích quc gia ch không phi bi các li ích đng phái M hay bi quan đim ca cá nhân lãnh đo Vit Nam", Tiến sĩ Hip nói và cho rng Vit Nam và M có s song trùng v li ích trong nhiu lĩnh vc khác nhau, đc bit v chiến lược trong s đi phó vi Trung Quc và x lý tranh chp trên Bin Đông".

Vit Nam là mt trong nhng quc gia mà Washington mun tht cht quan h an ninh quc phòng, theo như Khung chiến lược kim tỏa ca M va được gii mt, vì là mt trong nhng nước Đông Nam Á đóng vai trò trung tâm ca khi ASEAN trong cu trúc khu vc. T thi Tng thng Barack Obama, Vit Nam đã tr thành mt trng tâm trong chiến lược Xoay trc v châu Á, mà sau này là Tm nhìn n Đ Dương-Thái Bình Dương dưới thi Tng thng Trump, trước s bành trướng sc mnh ca Trung Quc.

Nhn đnh v kh năng gn kết ca chính quyn mi ca M vi Vit Nam, Giáo sư Thayer cho rng chính quyn Biden s tiếp tc theo đui các mi quan h vi Vit Nam trong khuôn kh tuyên b chung năm 2013 v quan h đi tác toàn din được thông qua dưới thi Tng thng Obama mà lúc đó ông Biden là phó tng thng. "Chính quyn Trump đã đng ý m rng quan h đi tác toàn din và Chính quyn Biden s làm theo", Giáo sư Thayer nói.

M ng trng pht

Cùng vi s song trùng v li ích ngày càng tăng cao gia Hà Ni và Washington, quan h gia hai nước cũng ngày càng nng m, nht là t khi Tng thng Obama d b lnh cm bán vũ khí sát thương cho Vit Nam khi ti thăm Hà Ni năm 2016. Nhưng hai quc gia cu thù gn đây đã vướng vào nhng tranh chp thương mi, được cho là xut phát t vic chính quyn Trump mun gim thâm ht thương mi ngày càng ln gia M và Vit Nam.

Trong khi s thay đi trong chui cung ng toàn cu do cuc chiến thương mi ca cu Tng thng Trump vi Trung Quc gây ra đã mang li li ích cho các nhà xut khu Vit Nam, thì ban lãnh đo ca Đng sp ti phi đi mt vi s giám sát gia tăng ca M và chính quyn mi trong Nhà Trng, theo nhn đnh ca gii quan sát.

Thâm ht thương mi vi Vit Nam ca M gia tăng đáng k và nhanh chóng dưới thi chính quyn Trump và B Tài chính M đã coi Vit Nam là nước "thao túng tin t", làm tăng trin vng áp thuế ca Hoa K đi vi hàng hóa Vit Nam. Thâm ht thương mi tăng lên 63 t USD vào năm ngoái, so vi 47 t USD vào năm trước đó.

Giáo sư Thayer nhn đnh rng mt trong nhng tr ngi mà các lãnh đo Vit Nam phi vượt qua là di sn ca Tng thng Trump đ li v nguy cơ b áp thuế và các trng pht do thao túng tin t.

Ch vài ngày trước khi Tng thng Trump mãn nhim, Cơ quan Đi din Thương mi M (USTR) dưới chính quyn ông đã đưa ra kết lun v điu tra thao túng tin t đi vi Vit Nam nhưng không đ xut bt k hành đng tr đũa nào như nhng lo ngi trước đó. Tuy nhiên cơ quan này nói h s tiếp tc đánh giá các la chn hin có trước nhng đng thái và chính sách mà h cho là "không công bng" ca Vit nam "gây thit hi cho lao đng và doanh nghip M".

"Vic Chính quyn Trump, c th đây là Cơ quan Đi din Thương mi Hoa K đưa ra kết lun Vit Nam có thao túng tin t nhưng chưa có hành đng trng pht c th thì tôi nghĩ đây là mt hành đng khôn ngoan", Tiến sĩ Hip nói. "Nếu M có các bin pháp trng pht Vit Nam ngay lp tc thì nó s gây tn hi quan h song phương và điu này không có li trong bi cnh M đang mun tăng cường hp tác vi Vit Nam vì các mc tiêu chiến lược đc bit trong vic đi phó vi Trung Quc và kim soát s gia tăng nh hưởng ca quc gia này trong khu vc, trong đó có Bin Đông".

Vit Nam hôm 16/1 đã lên tiếng "hoan nghênh kết lun" ca USTR đng thi cho rng quyết đnh này "có ý nghĩa tích cc đi vi quan h thương mi song phương".

Tuy nhiên Tiến sĩ Hip cho rng vic USTR đưa ra kết lun và đ ng kh năng s có mt s hành đng nào đó trong tương lai s "trao cho Hoa Kỳ mt đòn by đ đàm phán vi Vit Nam không nhng ch trong vn đ kinh tế thương mi mà c nhng lĩnh vc khác na". Theo nhà nghiên cu ca ISEAS, điu này có th to ra áp lc "khuyến khích Vit Nam đáp ng mt s yêu cu hoc mong mun ca phía Hoa Kỳ".

Chính quyn Biden gi đây s có toàn quyn quyết đnh gii quyết các tranh chp thương mi này. Mc dù chm tr trong vic công nhn ông Biden đc c Tng thng M sau chiến thng trước ông Trump nhưng các nhà lãnh đo Vit Nam đã nhanh chóng chúc mng ông ngay sau khi v tng thng th 46 ca Hoa K nhm chc hôm 20/1.

"Trong thi gian ti Vit Nam cn phi có nhng đi sách phù hp đi vi vn đ này, làm sao va đ duy trì được quan h tt vi Hoa K đ phc v các li ích v mt kinh tế cũng như chiến lược, va có th tránh được mt s sc ép t phía Hoa K mà có th h mun đt ra nhng đòi hi mà Vit Nam khó có th đáp ng được", Tiến sĩ Hip nói. iu đó đòi hi mt s khéo léo trong vic ng x ca Vit Nam trong mi quan h vi Hoa K".

Nguồn : VOA, 22/01/2021

Additional Info

  • Author VOA tiếng Việt
Published in Diễn đàn

Dấu mốc 25 năm

Trước biến cố 30 tháng 4 năm 1975, Hoa Kỳ là đồng minh của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam. Sau ngày cuộc chiến kết thúc, Mỹ cấm vận kinh tế Việt Nam và Hà Nội xem Washington là kẻ thù lâu dài. 

vietmy1

Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Warren Christopher và Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm ký thỏa thuận thiết lập quan hệ ngoại giao ở Hà Nội hôm 5/8/1995 AP

Ngày 11 tháng 7 năm 1995, Tổng thống Mỹ Bill Clinton và Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt tuyên bố bình thường hóa quan hệ hai nước.

Ngày 16 đến ngày 19 tháng 11 năm 2000, Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton thăm chính thức Việt Nam. Ông là Tổng thống Mỹ đầu tiên đến thăm Việt Nam sau chiến tranh.

Ngày 21 tháng 6 năm 2005, Thủ tướng Phan văn Khải gặp Tổng thống George Bush ở Washington, đánh dấu lần đầu tiên lãnh đạo cấp cao Hà Nội đến Mỹ sau chiến tranh. Hai nước ký kết các hợp đồng kinh tế và Mỹ trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.

Từ ngày 17 đến 20 tháng 11 năm 2006, Tổng thống George W. Bush có chuyến thăm Việt Nam và tham dự Hội nghị Cấp cao APEC.

Ngày 22 tháng 6 năm 2008, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng thăm Mỹ. Hoa Kỳ ủng hộ chủ quyền, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

Ngày 24 tháng 7 năm 2013, Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang qua thăm Hoa Kỳ. Lúc đó Tổng thống Barack Obama đồng ý nâng tầm quan hệ lên đối tác toàn diện với Việt Nam.

Từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 7 năm 2015, ông Nguyễn Phú Trọng có chuyến thăm Hoa Kỳ. Đó là lần đầu tiên Hoa Kỳ tiếp một tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam tại Nhà Trắng.

Ngày 22 đến 24 tháng 5 năm 2016, Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam. Trong đó, hôm 23 tháng 5, Tổng thống Barack Obama tuyên bố Hoa Kỳ dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận bán vũ khí sát thương đối với Việt Nam.

Ngày 29 đến 31 tháng 5 năm 2017, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc thăm chính thức Hoa Kỳ.

Ngày 11 đến 12 tháng 11 năm 2017, Tổng thống Hoa Kỳ Donald J. Trump thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam và dự Hội nghị Cấp cao APEC.

Ngày 27 tháng 2 năm 2019, Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng tiếp và hội đàm với Tổng thống Donald Trump và Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc hội kiến Tổng thống Donald Trump dịp Việt Nam tổ chức Thượng đỉnh Hoa Kỳ - Triều Tiên lần thứ hai tại Hà Nội.

Trong những năm qua, các quan chức Mỹ cũng thường xuyên đến thăm Việt Nam để củng cố và phát triển mối quan hệ hai nước. Nhưng những chuyến thăm liên tiếp của các quan chức cấp cao đến Việt Nam lại gây sự chú ý không chỉ trong nước mà còn trên trường quốc tế.

vietmy2

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc tiếp Ngoại trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo ở Hà Nội hôm 30/10/2020. AFP

Từ ngày 29 tới ngày 30 tháng 10 năm 2020, theo lời mời của Phó thủ tướng - Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh, Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo đã có chuyến thăm chính thức Việt Nam. Chuyến đi của ông Pompeo được cho biết nhằm đánh dấu kỷ niệm 25 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Mỹ - Việt Nam.

Chỉ ba tuần sau khi Ngoại trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo đến thăm Việt Nam, đến lượt Cố vấn An ninh Quốc Gia Hoa Kỳ Robert O’Brien ghé Việt Nam trong hai ngày 20 và 21 tháng 11 năm 2020. Chuyến đi của ông O’Brien được cho biết nhằm "tái khẳng định sức mạnh của các mối quan hệ song phương giữa hai nước và thảo luận về hợp tác an ninh khu vực.

Thật ra không đợi đến tháng 7 năm 2020 hai nước mới kỷ niệm 25 năm bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Hôm 18 tháng 12 năm 2019, tại lễ khởi động 25 năm quan hệ Việt - Mỹ, Ngoại trưởng Mike Pompeo đã khẳng định thiết lập quan hệ ngoại giao hai nước là ‘bước tiến mang tính lịch sử'. Đây cũng là nhận định của Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp với RFA vào tối 15 tháng 12. Ông Hợp nhân tiện phân tích thêm về động thái của Hoa Kỳ với các chuyến thăm Việt Nam liên tiếp gần đây :

"Kỷ niệm 25 năm thì thực ra họ đã kỷ niệm từ đầu năm đến giờ rồi chứ không đợi đến chuyến đi Việt Nam của ông Robert O'Brien. Cái nội dung của nó rất rõ là hai bên muốn cụ thể hóa các hành động trong khuôn khổ chính sách Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và rộng mở. Đấy mới là cái quan trọng chứ kỷ niệm 25 năm chỉ là bình thường thôi.

Cái thứ hai, Mỹ nhận thấy Việt Nam đang có vai trò quan trọng trong Liên Hiệp Quốc khi Việt Nam hiện là ủy viên không thường trực của Hội đồng Liên Hiệp Quốc năm 2020-2021. Họ muốn tranh thủ lúc này để bàn với Việt Nam các thao tác cụ thể để tận dụng vai trò của Liên Hiệp Quốc trong việc xử lý các vấn đề về an ninh cũng như các vấn đề về pháp lý trong khu vực.

Ngoài ra, Việt Nam vừa rồi cũng là Chủ tịch luân phiên của ASEAN. Chính sách của nước Mỹ là khuyến khích và khích lệ ASEAN đoàn kết để chống lại những tuyên bố chủ quyền không đúng luật pháp của Trung Quốc. Đó là tất cả những cái mình có thể thấy được.

Không có bất kỳ một yếu tố nào hay một dữ kiện nào, một dấu hiệu nào nói rằng nước Mỹ dưới thời ông Donald Trump lấy lòng Việt Nam hay xúi Việt Nam đứng về phía Mỹ cả".

Vẫn ở tầm đối tác toàn diện 

Mười lăm năm sau chiến tranh kết thúc, Việt Nam đã có một bước tiến lớn trong quan hệ quốc tế ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Đó là vào ngày 29 tháng 9 năm 1990, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam lúc bấy giờ là ông Nguyễn Cơ Thạch đã gặp Ngoại trưởng Hoa Kỳ lúc đó là ông James Baker tại New York. Đến ngày 9 tháng 4 năm 1991, Chính phủ Hoa Kỳ đề xuất với Chính phủ Việt Nam "Lộ trình 4 bước" bình thường hóa quan hệ. Ngày 28 tháng 1 năm 1995, hai nước mở Văn phòng liên lạc.

Nhà quan sát chính trị Việt Nam từ Canada, Luật sư Vũ Đức Khanh nêu nhận xét của ông về chặng đường 25 năm qua trong mối quan hệ giữa Hà Nội và Washington, đặc biệt là những năm gần đây :

"25 năm qua, từ khi hai nước thiết lập bang giao chính thức, chúng ta không thể ngờ là Việt Nam và Hoa Kỳ đã có được mới quan hệ như ngày hôm nay. Họ đi từ kẻ thù trở thành bạn rồi trở thành đối tác toàn diện theo những văn kiện chúng ta thấy.

Tháng 6 năm 2016, khi Tổng thống Obama đến Việt Nam vào cuối nhiệm kỳ và 4 năm qua dưới thời Tổng thống Trump, chính sách của Hoa Kỳ đối với Việt Nam vẫn đang đi đúng hướng cả về chiều sâu lẫn chiều rộng dựa trên văn kiện hai bên đã ký vào năm 2013 giữa Tổng thống Obama và Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang, thiết lập quan hệ đối tác toàn diện.

Bốn năm qua dưới chính quyền của Tổng thống Trump đã có sự tăng tốc rất lớn trong quan hệ với Việt Nam về kinh tế cũng như những hợp tác về quân sự và những lãnh vực có tính chiến lược như giáo dục, môi trường, năng lượng.

Tuy nhiên có một điều đáng tiếc là Chính phủ Việt Nam chưa bao giờ tỏ thái độ sẵn sàng chia sẻ những giá trị nền tảng trong mối quan hệ này.

Hà Nội vẫn coi Hoa Kỳ như một đối tác để đổi chác nhiều hơn là để xây dựng. Nhân quyền và pháp trị vẫn là hai cái gai chưa thể đưa mối quan hệ hai nước lên tầm mới".

vietmy3

Cố vấn An ninh Quốc Gia Hoa Kỳ Robert O’Brien và Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc tại Hà Nội hôm 20/11/2020. Reuters

Trong lần trả lời phỏng vấn RFA về vấn đề liên quan vào tháng 12 năm ngoái, Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp nhận định rằng, vấn đề nhân quyền có lúc là bước cản trong quan hệ song phương, có lúc lại không vì không có sự nhất quán về vấn đề này giữa Chính phủ và Quốc hội Mỹ. Ông nói :

"Lâu nay vấn đề nhân quyền trong quan hệ Việt Nam có xu hướng cản trở quan hệ song phương. Tuy nhiên, chúng ta phải nhìn nhận là từ phía Mỹ có sự không nhất quán. Một mặt, phía chính quyền thường xuyên thúc đẩy quan hệ, và có xu hướng xem nhẹ vấn đề nhân quyền. Tuy nhiên, phía Quốc hội lại nhấn mạnh hơn tới vấn đề nhân quyền. Cho nên vấn đề nhân quyền có tác động tới đâu trong quan hệ song phương còn tùy thuộc nhiều hơn vào tiếng nói của Quốc hội.

Dưới thời của ông Trump, chúng ta thấy là tiếng nói của Quốc hội vẫn còn nhưng có vẻ suy yếu đi so với trước đây. Có thể là điều này xuất phát từ việc chính quyền Trump coi trọng hợp tác kinh tế nhiều hơn".

Chính sách của Việt Nam những năm tới

Việt Nam về mặt lý thuyết tiếp tục kiên trì theo định hướng xã hội chủ nghĩa và là một nước cộng sản. Mặt khác, chính quyền Hà Nội vẫn thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước trên thế giới không đồng quan điểm chính trị. Việt Nam cũng bị cho là nước có chính sách ‘ngoại giao đu dây’ giữa Mỹ và Trung Quốc.

Điều này được cho là khiến cả Mỹ và Trung Quốc phải cạnh tranh để giành được ảnh hưởng với Việt Nam, và để các tranh chấp được giải quyết thông qua các cuộc đàm phán có lợi cho cả đôi bên.

Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp cho rằng, Việt Nam ở vào thế không thể chọn một và đó cũng là quan điểm của Việt Nam. Ông phân tích :

"Quan điểm của Chính quyền Việt Nam họ nói rất rõ ràng là họ không muốn đứng về phía bên nào cả. Dĩ nhiên họ nói thế thì cái nội hàm của nó khác hẳn cái nội hàm của nhiều nước ở trong ASEAN này. Nó khác hẳn là bởi vì nếu giữa Trung Quốc với Mỹ thì Việt Nam không thể đứng về phía Trung Quốc vì Trung Quốc đang cướp đất, cướp biển của Việt Nam. Việt Nam không có cách gì để đứng về phía Trung Quốc cả. Đứng về phía Trung Quốc có nghĩa là bán nước nên không bao giờ có.

Đứng về phía Mỹ cũng không thể được vì nước Mỹ ở quá xa Việt Nam. Một nước ở xa như thế thì không thể cáng đáng được cho Việt Nam hay cho khu vực này về vấn đề an ninh ở mức tối đa. Do đó, cách chọn duy nhất của Việt Nam là đứng về phía luật pháp quốc tế".

Năm 2020 ít nhiều cũng là một năm đặc biệt với Việt Nam trong quan hệ với Mỹ, bởi vừa kỷ niệm 25 năm bình thường hóa quan hệ, vừa là năm Hoa Kỳ bầu cử tổng thống. Vậy mối quan hệ giữa hai nước có ảnh hưởng gì khi hoa Kỳ có tổng thống mới ? 

Luật sư Vũ Đức Khanh nhận định :

"Hiện Washington đang chuẩn bị cho chính quyền của Tổng thống đắc cử Joe Biden và Hà Nội cũng đang ráo riết chuẩn bị cho đại hội 13. Sự chuyển đổi quyền lực này về mặt cơ bản không có ảnh hưởng lớn trong hướng quan hệ Việt Mỹ, tức là sẽ tiếp tục tăng tốc cả về chiều sâu lẫn chiều rộng.

Tuy nhiên, nếu mối quan hệ này chỉ dựa trên sự chia sẻ về quyền lợi mà không xây dựng được niềm tin dựa trên nền tảng của những giá trị chung mà hai quốc gia theo đuổi thì tôi hơi quan ngại cho tương lai. Khi khu vực và thế giới có những biến động lớn thì mối quan hệ này có thể bị ảnh hưởng không nhỏ".

Luật sư Vũ Đức Khanh nói thêm rằng, Hà Nội đang đánh mất đi rất nhiều cơ hội, ít nhất là trong 25 năm vừa qua, để có thể chứng minh cho Hoa Kỳ và cộng đồng thế giới thấy rằng Hà Nội thực sự muốn trở thành một đối tác có trách nhiệm chia sẻ những giá trị chung trong cộng đồng thế giới.

Tại cuộc họp báo kết quả hội nghị cấp cao ASEAN hôm 15 tháng 11 năm 2020, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc phát biểu về quan hệ hai nước sau bầu cử Tổng thống Mỹ :

"Dù ai là người thắng cử, ông Joe Biden hay ông Donald Trump, Mỹ vẫn là người bạn có quan hệ tốt đẹp với Việt Nam trên tinh thần hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau. Việt Nam tôn trọng quyết định của người dân Mỹ".

Diễm Thi

Nguồn : RFA, 18/12/2020

Additional Info

  • Author Diễm Thi
Published in Diễn đàn
mercredi, 08 juillet 2020 23:47

Sau 25 năm, Mỹ-Việt ở đâu ?

Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Daniel Kritenbrink : "Không cá lớn nuốt cá bé".

25nam1

Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Daniel Kritenbrink

"Ngày 11/07/1995 : Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton và Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt thông báo quyết định bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa 2 nước".

Với quyết định lịch sử này, Hoa Kỳ và Việt Nam cộng sản đã ghi dấu "gác lại quá khứ, hướng tới tương lai" được 25 năm vào ngày 11/07/2020.

Nhưng thời gian 1/4 thế kỷ bang giao Mỹ-Việt đã đem lại những bài học nào cho hai nước cựu thù, hay Mỹ và Việt Nam cộng sản vẫn còn những cách biệt không hàn gắn được ?

Về phía Mỹ, người kế nhiệm ông Clinton, Tổng thống Cộng hòa George W. Bush (20/01/2001 – 20/01/2009) đã mở đường cho Việt Nam với cam kết : "Hoa Kỳ sẽ ủng hộ "chủ quyền, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam".

Phía Việt Nam hứa : "Việt Nam kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, sẵn sàng làm bạn và đối tác tin cậy của tất cả các quốc gia trên thế giới".

Về sau, kể từ chuyến thăm Hoa Kỳ lần đầu tiên của Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam, Nguyễn Phú Trọng, từ 6/7 đến chiều 8/7/2015, trong đó có cuộc họp lịch sử tại Tòa Bạch Ốc với Tổng thống Barack Obama trưa 7/7, hai nước Việt-Mỹ đã mở rộng cam kết : "Tôn trọng Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế ; tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thể chế chính trị của nhau".

Khi thăm chính thức Việt Nam từ ngày 11 đến 12/11/2017, sau Hội nghị APEC tại Đà Nẵng, Tổng thống Donald Trump cũng đã tái khẳng định những điều này như một biểu tượng thống nhất quan điểm về Việt Nam giữa các đời tổng thống Mỹ, bất kể là người của đảng nào lên cầm quyền.

Thành công

Về hợp tác kinh tế-thương mại, theo Tạp chí Công thương của Việt Nam thì :

"Sau 25 năm bình thường hóa quan hệ, hiện nay, Việt Nam hiện là đối tác thương mại lớn thứ 16 của Hoa Kỳ và đang mong muốn ở top 10 đối tác thương mại của Hoa Kỳ.

Ở chiều ngược lại, Hoa Kỳ cũng là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam. Theo nhận định của các chuyên gia, Việt Nam - Hoa Kỳ còn nhiều tiềm năng hợp tác toàn diện và đang thúc đẩy thương mại song phương theo hướng cân bằng hơn để đảm bảo sự phát triển bền vững của cả hai quốc gia" (Tạp chí Công thương, 12/06/2020)

Tạp chí Công thương trích lời ông Nguyễn Hồng Dương - Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường Châu Âu - Châu Mỹ (Bộ Công thương) cho biết : "Năm 2019, kim ngạch xuất khẩu Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt hơn 66,6 tỷ USD, tăng hơn 35% so với năm 2018, chiếm khoảng 25% tổng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này".

Việt Nam đã xuất cảng sang Mỹ hàng dệt may, da giày, điện thoại, nông - thủy - hải sản và đồ gỗ. Trong khi nhập khẩu từ Mỹ các loại máy móc, thiết bị công nghệ cao, thiết bị hàng không.

Về giáo dục, theo báo cáo chính thức, tính đến tháng 3/2019, có hơn 30.900 sinh viên Việt Nam đang học tập các ngành tại Mỹ, đứng thứ nhất trong khối ASEAN (các nước Đông Nam Á).

Thực tế

Tuy nhiên, đa phần du học sinh là con ông cháu cha và con cháu các nhà "tư bản đỏ". Con cái nhà dân, phần đông phải đi lao động nước ngoài hay lao động làm thuê với đồng lương rẻ mạt từ 3 đến 6 USD/ngày cho các doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam.

Vì vậy mức thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam vẫn lẹt đẹt đàng sau nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á, ngoại trừ Campuchea và Lào.

Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (International Money Fund-IMF), "GDP bình quân trên người của Singapore năm 2018 đạt hơn 100.345 USD mỗi năm (ước khoảng 2,3 tỷ đồng), đứng thứ 3 thế giới. Trong khi đó, GDP bình quân trên người của Việt Nam chỉ đạt hơn 2.540 USD (gần 60 triệu đồng), mỗi người, một năm.

Dựa vào con số trên, thu nhập bình quân trên đầu người của Singapore cao gấp gần 38 lần so với thu nhập bình quân của người Việt. Nguyên nhân xuất phát từ số dân, Việt Nam hiện nay có số dân ước đạt hơn 95 triệu người, trong khi dân số của Singapore mới chỉ đạt khoảng 5,6 triệu người (Dân Trí, 29/05/2019)

Về tình hình kinh tế giữa nạn dich Vũ Hán (Covid 19), một báo cáo trong 6 tháng đầu năm 2020 của chính phủ Việt Nam cho biết : "Tăng trưởng kinh tế năm 2020 dự báo ​​sẽ giảm xuống 3-4% so với tỉ lệ 6, 5% được dự báo trước khủng hoảng".

Theo Tạp chí Tài chính thì : "Tại Việt Nam, dịch Covid-19 xuất hiện từ cuối tháng 01/2020 đã gây tác động lớn đến tình hình sản xuất kinh doanh và việc làm của người lao động, khiến tình trạng tham gia thị trường lao động giảm, thất nghiệp và thiếu việc làm tăng lên".

Tạp chí Tài chính viết tiếp : "Kết quả Điều tra lao động việc làm quý I/2020 cho thấy, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động ghi nhận mức thấp kỷ lục trong vòng 10 năm qua với khoảng 75,4% dân số từ 15 tuổi trở lên tham gia lực lượng lao động, giảm từ 1, 2 đến 1, 3 điểm phần trăm so với quý trước và so với cùng kỳ năm trước.
Thất nghiệp tăng lên, tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi ở mức cao nhất trong vòng 5 năm gần đây. Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, tỷ lệ thất nghiệp trong quý I/2020 là 2, 22%, tăng 0, 07% so với quý trước và 0, 05% so với cùng kỳ năm trước.

Có khoảng 84,8% doanh nghiệp được khảo sát cho biết gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Trong đó, doanh nghiệp quy mô lớn và quy mô vừa chịu tổn thương nhiều hơn với tỷ lệ 90% trong 4 tháng đầu năm 2020" (theo Tạp chí Tài Chính, 24/04/2020).

Tương lai về đâu ?

Như vậy, cuộc sống của người dân giữa mùa dịch Vũ Hán sẽ đi về đâu ở Việt Nam khi hai nước Việt-Mỹ chuẩn bị bước vào năm thứ 26 của nền ngoại giao vẫn còn ở mức "toàn diện", chứ chưa lên được cấp "chiến lược", hoặc cao nhất ở mức "chiến lược toàn diện" ?

Ở mỗi mức độ ngoại giao, các nước đối xử với nhau tùy thuộc phần lớn vào sự tin cậy, nương nhờ và sự trong sáng của mỗi nước.

Cho đến nay, theo Bách khoa toàn thư mở thì Việt Nam "đã thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với 3 quốc gia gồm : Trung Quốc (2008), Nga (2012), Ấn Độ (2016)".

Quan hệ Đối tác chiến lược với 13 quốc gia gồm : "Nhật Bản (2006), Hàn Quốc, Tây Ban Nha (2009), Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland (2010), Đức (2011), Ý, Pháp, Indonesia, Thái Lan, Singapore (2013), Malaysia, Philippines (2015) và Úc (2018)".

Và quan hệ Đối tác toàn diện với 13 quốc gia gồm : "Nam Phi (2004), Venezuela, Chile, Brasil (2007), New Zealand (2009), Argentina (2010), Ukraine (2011), Hoa Kỳ, Đan Mạch (2013), Myanmar và Canada (2017), Triều Tiên (2018), Brunei và Hà Lan (2019)".

Nhưng tại sao, cho đến bây giờ, Việt Nam cộng sản vẫn chưa yêu cầu nâng cấp ngoại giao "chiến lược" với Mỹ, hay Mỹ vẫn còn e dè Việt Nam là cánh tay nối dài của Trung Quốc ?

Hồi tháng 2/2019, khi có mặt ở Hà Nội hội đàm với lãnh tụ Kim Jong-un (Kim Chính Ân) của Bắc Triều Tiên về giải thể vũ khí nguyên tử, Tổng thống Donald Trump đã chính thức mời ông Nguyễn Phú Trọng thăm Mỹ, nhưng ông Trọng phải hoãn vì bị tai biến mạch máu não trong chuyền thăm Kiên Giang trong 2 ngày 13 và 14/4/2019.

Sau đó, khi thấy ông Trọng bình phục, ăn nói bình thường thì ở Hà Nội đã rân ran có tin ông Trọng sẽ đi Mỹ vào tháng 9/2019 để nâng cấp ngoại lên hàng "chiến lược" với Mỹ.

Cuối cùng chuyện này vẫn không xẩy ra. Năm nay, 2020 là năm có bầu cử Mỹ nên chuyện ông Trọng thăm Mỹ coi như không thực hiện được, vì chưa biết giữa ông Trump và đối thủ, nguyên Phó Tổng thống Joe Biden của đảng Dân chủ, ai sẽ thắng cử vào ngày 3/11/2020.

Ai nuốt ai ?

Chung quanh chuyện này, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam, bà Lê Thị Thu Hằng đã nói với báo chí ở Hà Nội ngày 2/7 (2010) rằng :

"Sau 25 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, 6 năm thiết lập và triển khai quan hệ Đối tác toàn diện, quan hệ Việt Nam - Mỹ chứng kiến những bước phát triển tích cực, thực chất trên tất cả các lĩnh vực và trên cả bình diện song phương và đa phương.

Quan hệ của 2 nước cũng được thiết lập trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thể chế chính trị của nhau… Thời gian tới, hai bên sẽ tiếp tục hợp tác nhằm làm sâu sắc hơn nữa quan hệ Việt Nam - Mỹ, góp phần duy trì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực và trên thế giới" (Thanh Niên, 02/07/2020).

Tuy nhiên, bà Hằng đã không bình luận trực tiếp vào việc liệu 2 nước có nâng cấp quan hệ ngoại giao trong năm nay, hay không.

Nhưng cũng vào chiều cùng ngày (2/7/2020), theo Thanh Niên, "Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Daniel Kritenbrink cũng đã có cuộc gặp với báo chí Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 25 năm quan hệ ngoại giao, và cũng nhận được câu hỏi về việc liệu 2 nước có nâng cấp quan hệ.

Theo đó, Đại sứ cho biết ông cũng không có thông tin cụ thể về việc bao giờ quan hệ ngoại giao giữa 2 nước sẽ có một cái tên mới, nhưng Đại sứ nhấn mạnh quan hệ thực chất không phụ thuộc vào tên gọi".

Ông Đại sứ Kritenbrink được báo chí trích lời nói rằng : "Quan hệ Việt Nam và Mỹ chưa bao giờ tốt đẹp như hiện nay, với nhiều thành tựu trên tất cả các lĩnh vực. Hai nước cam kết sẽ tiếp tục duy trì mối quan hệ này và hợp tác trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, chia sẻ những giá trị chung về một trật tự thế giới dựa trên luật lệ, cởi mở, thịnh vượng, không cá lớn nuốt cá bé".

Nhưng tại sao, bỗng dưng ông Đại sứ Mỹ lại phải thanh minh thanh nga rằng Mỹ "không cá lớn nuốt cá bé". Hay là ông muốn bắn tiếng nói xéo người láng giềng Trung Quốc của Việt Nam vào lúc Bắc Kinh bất ngờ gia tăng các hành động khống chế, chiếm đóng và bao vậy Việt Nam ở Biển Đông ?

Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa xưa

Nhưng đối với nhân dân Việt Nam Cộng Hòa, những người thiếu may mắn bị Cộng sản miền Bắc chiếm đất và mất cuộc sống hòa bình sau chiến tranh thì Mỹ có còn trách nhiệm gì không, hay nước Mỹ đã quên béng chuyện đã bỏ rơi đồng minh để ngày nay, nhiều nước đã không dám nâng cấp lòng tin là bạn của Hoa Kỳ ?

Vậy có ai dám tin vào chế độ cộng sản Việt Nam không, khi mà, sau 25 năm làm bạn, hòa giải với cựu thù Mỹ thì 43 năm sau cuộc chiến, đảng cộng sản cầm quyền ở Việt Nam vẫn chỉ muốn đoàn kết, hòa giải với những người của đảng, do đảng và vì đảng. Những nhóm chữ "tự do, dân chủ và nhân quyền" được lãnh đạo cộng sản nhắc đến chỉ ở đầu môi, chót lưỡi để tuyên truyền và lòe bịp dư luận.

Nhân dân Việt Nam Cộng Hòa xưa vẫn bị đối xử như công dân hạng hai, sau những "công dân cộng sản", hay "công dân kháng chiến cũ".

Các bản Hiến pháp, tuy quy định tất cả các quyền cơ bản của con người, nhưng nhà nước nắm quyền "xin-cho". Nhà nước độc quyền báo chí, kiểm soát dư luận, độc tài lãnh đạo, ngăn cấm chính trị đối lập và khống chế các tôn giáo không chịu khép mình trong vòng nô lệ nhà nước.

Hiến pháp đã công nhận quyền biểu tình và lập hội nhưng Đảng, Nhà nước và Quốc hội đã toa rập để trì hoãn không biểu quyết Luật. Do đó nhân dân tiếp tục bị đàn áp, dù đi khiếu kiện, kêu oan đòi công lý, hay biểu tình chống xâm lược Trung Quốc.

Các cơ quan Hiến định như Hội đồng nhân dân và Quốc hội, tuy có nhiệm vụ là đại diện của dân, nhưng lại là bù nhìn của đảng bảo đâu đánh đó.

Các tổ chức chính trị, xã hội, được khoác cho chiếc áo là tiếng nói của đại chúng, nhưng phải nằm trong chiếc rọ Mặt trận Tổ quốc như Hội Nhà văn, Hội nhà báo nên cũng chỉ cá mè một lứa, ngậm miệng ăn lương để làm tay sai cho chế độ.

Đáng ngạc nhiên là cả Đảng cộng sản Việt Nam, Quân đội và Công an cũng là "thành viên" của Mặt trận Tổ quốc thì có khác gì hai ta là một mà chục tổ chức cũng chỉ là một con số của đảng, do đảng và vì đảng mà thôi.

Đối với nước Mỹ, dù cuộc chiến đã lùi về phía sau, nhưng những con số 58.220 quân nhận thiệt mạng, 1.587 người mất tích và 305.000 bị thương ở Việt Nam vẫn còn ray rứt và bị ám ảnh cho đến bây giờ.

Nhiều người Mỹ vẫn thắc mắc tại sao một cường quốc đứng đầu thế giới đã không giữ lời hứa bảo vệ Việt Nam Cộng Hòa khi Hà Nội vi phạm Hiệp định Paris.

Tổng thống Richard Nixon đã cam kết sẽ đánh trả quân Bắc Việt vi phạm Hiệp định bằng giấy trắng mực đen ghi trong Thư riêng gửi Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu, trước khi ông Thiệu bằng lòng ký Hiệp định Paris.

Nhưng không những chỉ riêng ông Nixon mà cả nước Mỹ đã quay lưng làm ngơ để cho quân xâm lược cộng sản miền Bắc cưỡng chế Việt Nam Cộng Hòa.

Rất tiếc, sau 20 năm chiến tranh huynh đệ tương tàn, Đảng cộng sản Việt Nam cũng chỉ được cái danh là kẻ thắng trận, nhưng lại thất bại trong hòa bình khi lòng người nát tan và hận thù dân tộc vẫn chồng chất trên đói nghèo và lạc hậu.

Ngày nay, dù hai cựu thù Mỹ-Việt đã tay bắt mặt mừng với trang sử mới, nhưng những oan hồn người Việt trong chiến tranh và thuyền nhân (Boat People) sau ngày 30/4/1975, vẫn sống tức tưởi ở khắp mọi nơi, kể cả ở Thủ đô Hoa Thịnh Đốn, nơi ngự trị của quyền lực chính trị cao nhất Hiệp chủng Quốc và cả Thế giới.

Phạm Trần

(08/07/2020)

Additional Info

  • Author Phạm Trần
Published in Diễn đàn

Báo chí thế giới bắt đầu gọi cuộc đối đầu Mỹ-Trung bằng cụm từ quen thuộc "Chiến tranh Lạnh". Không ít người lo ngại sẽ xảy ra đối đầu quân sự giữa hai cường quốc. Quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ đang ngày càng xấu đi là điều ai cũng có thể thấy. Nước Mỹ của Donald Trump đang thoái lui với chủ trương "America First" (nước Mỹ trước hết), cũng đồng nghĩa với "America Alone" (nước Mỹ một mình) và Trung Quốc thì có vẻ muốn lấp vào chổ trống mà Mỹ bỏ lại. Liệu chiến tranh có xảy ra giữa Mỹ và Trung Quốc để khẳng định ngôi vị bá chủ thế giới không ?

Đầu tiên, thế nào là "Chiến tranh Lạnh" ? Đây là cuộc chiến về ý thức hệ giữa hai khối "Cộng sản - Dân chủ" (Xã hội chủ nghĩa - Tư bản chủ nghĩa) do Liên Xô và Mỹ lãnh đạo sau thế chiến 2. Tuy hai siêu cường Mỹ và Liên Xô không trực tiếp giao chiến với nhau nhưng cả hai đều đã ủng hộ và giúp đỡ tận tình cho các nước đồng minh giao tranh với nhau trên toàn thế giới như Việt Nam, Triều Tiên, Indonesia, Afghanistan, Nicaragoa, Bolivia, Cuba… Các cuộc chiến đó không hề Lạnh chút nào mà rất Nóng. Trong cuộc chiến Triều Tiên (1950-1953) thì cả Trung Quốc và Mỹ đều đã trực tiếp tham chiến. Chiến tranh Việt Nam cũng vậy, Mỹ và quân đồng minh đã trực tiếp đổ quân vào miền Nam, Trung Quốc và Liên Xô cũng gửi chuyên gia và cố vấn đến miền Bắc. Hàng triệu người Việt Nam đã thiệt mạng trong cuộc chiến. Gần 8 triệu tấn bom đã thả xuống Việt Nam (gấp 2 lần số bom được dùng trong thế chiến 2) chưa kể 7,5 triệu tấn đạn dược và 75 triệu lít chất độc hóa học...

coldwar1

Chiến tranh Lạnh có xảy ra giữa Mỹ và Trung Quốc không ?

Chiến tranh Lạnh kéo dài hơn 40 năm với tất cả quyết tâm hạ gục lẫn nhau của hai khối cộng sản và dân chủ. Cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân và chinh phục không gian đã làm Liên Xô kiệt quệ. Chiến tranh Lạnh kết thúc khi bức tường Berlin sụp đổ năm 1989.

Có thể thấy hiện nay Mỹ và Trung Quốc không hề có mâu thuẫn đối kháng về ý thức hệ như hồi Chiến tranh Lạnh dù hai chế độ có khác nhau về thể chế chính trị. Mỹ dưới thời Donald Trump đã từ nhiệm vai trò lãnh đạo thế giới. Khối các nước dân chủ đang bối rối và chưa kịp trở tay trước sự rút lui đột ngột của Mỹ. Donald Trump gây hấn với tất cả các nước dân chủ, từ Châu Âu cho đến Châu Á trong khi lại tỏ ra thân thiết với Nga, Bắc Triều Tiên, Việt Nam...

Trung Quốc cũng vậy, họ gây hấn với tất cả thế giới kể cả với một quốc gia đàn em có cùng ý thức hệ độc tài cộng sản là Việt Nam. Mỹ công khai từ nhiệm vai trò lãnh đạo khối dân chủ và Trung Quốc cũng gây gổ để rút lui và co cụm lại như nhận định của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên (Tập Hợp). Cả hai đều không chuẩn bị cho chiến tranh vì họ không hề lôi kéo hay tranh thủ đồng minh. Rõ ràng là cả Mỹ và Trung Quốc đều không có ý định gây chiến với nhau.

Trong Chiến tranh Lạnh cả Mỹ và Liên Xô đều xông lên tuyến đầu và hai khối "Cộng sản - Dân chủ" đã hình thành hai chiến tuyến rất rõ ràng. Hiện nay cả Mỹ và Trung Quốc đều cô đơn. Không chỉ thế cả hai đang gặp phải nhiều vấn đề nghiêm trọng trong nội bộ. Tại Mỹ, chủ nghĩa phóng khoáng đang bị khủng hoảng khi tự do được đẩy lên quá cao trong lúc liên đới xã hội và bình đẳng bị bỏ lại phía sau. Donald Trump là một tổng thống dân túy nên chỉ càng làm cho nước Mỹ chia rẽ sâu sắc hơn thay vì đoàn kết lại. Người dân tức giận và phẫn nộ trước sự bất bình đẳng ngày càng sâu sắc. Các cuộc biểu tình và bạo loạn sau cái chết của người Mỹ da đen George Floyd đã chứng minh cho điều đó.

coldwar2

Mỹ và Trung Quốc, hai cường quốc cô đơn ?

Trung Quốc đang gây hấn để co cụm như phân tích của Tập Hợp. Họ đang phải đối đầu với làn sóng chống đối quyết liệt của người dân Hồng Kông. Bất lực và sợ đám cháy Hồng Kông lan rộng nên Trung Quốc đã lấy một quyết định cứng rắn là xóa bỏ quyền tự trị của Hồng Kông khi thông qua "Đạo luật an ninh quốc gia" đối với Hồng Kông. Trung Quốc và các nước độc tài còn lại sẽ vô cùng khốn đốn sau đại dịch Covid-19. Nền kinh tế khổng lồ của Trung Quốc đang đứng trước bờ vực khủng hoảng và đổ vỡ. Mỹ và Liên Hiệp Châu Âu (EU) sẽ tìm cách rút các nhà máy ra khỏi Trung Quốc sang các nước khác để bao vây và cô lập Trung Quốc. Một đồng thuận trên toàn thế giới (chứ không riêng mỗi chính quyền Donald Trump) là xem Trung Quốc như mối đe dọa cho hòa bình thế giới khi Trung Quốc phát triển nhưng vẫn từ chối công nhận các quyền cơ bản của con người.

Đó là bề chìm, còn bề nổi thì chúng ta đang chứng kiến các cuộc khẩu chiến ngày càng gay gắt giữa Mỹ và Trung Quốc. Mỹ đã hủy bỏ những ưu đãi kinh tế dành cho Hồng Kông và mới nhất là việc ngoại trưởng Mỹ đã gửi công hàm lên Liên Hợp Quốc bác bỏ yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông. Tàu chiến Mỹ hiện diện ngày càng nhiều hơn ở khu vực này. Liệu có xảy ra đụng độ ở Biển Đông hay không ? Câu trả lời là có thể có, có thể không.

coldwar3

Biển Đông sẽ là nơi xảy ra xung đột Mỹ-Trung ?

Trung Quốc bị vây bọc tứ phía trên biển, biển Hoa Đông thì có Nhật trấn giữ, rồi đến Đài Loan và sau đó là Biển Đông. Việc Trung Quốc hù dọa tấn công Đài Loan là chuyện khó xảy ra vì không quân của Đài Loan được giới chuyên gia nhận định là tinh nhuệ nhất thế giới. Nhật Bản lại càng không thể, như vậy chỉ có Biển Đông là yếu nhất. Philippines và Việt Nam đều không phải là đối thủ của Trung Quốc, trình trạng pháp lý nơi đây không được rõ ràng và đang có tranh chấp giữa nhiều quốc gia. Nếu cần một cuộc giao chiến trên biển thì chắc chắn Trung Quốc sẽ chọn Biển Đông. Tuy nhiên như đã phân tích, Trung Quốc không sẵn sàng cho một cuộc chiến với Mỹ và EU. Tương quan lực lượng giữa hai bên quá chênh lệch.

Chính quyền Donald Trump đang khiêu khích và gây gỗ với Trung Quốc trên mọi mặt trận vì chống Trung Quốc là lá bài cuối cùng của Trump trong cuộc bầu cử tháng 11 tới. Chúng ta hy vọng là Trung Quốc không mắc mưu Mỹ khi khai chiến ở Biển Đông. Tất nhiên là Trung Quốc sẽ không nhằm vào quân đội Mỹ mà sẽ nhắm vào Việt Nam vì vậy chính quyền Việt Nam cũng cần cảnh giác, tránh khiêu khích hay chọc giận Trung Quốc để họ có cớ tấn công, chiếm đóng các đảo của Việt Nam. Đồng thời phải chuẩn bị để đối phó các cuộc tấn công từ Trung Quốc. Việt Nam phải kiên quyết giữ các đảo đến cùng vì nếu mất đi sẽ không bao giờ lấy lại được. Nên gửi đến Trung Quốc một thông điệp là Việt Nam sẵn sàng biến một xung đột khu vực thành xung đột quốc tế. Với thái độ chống Trung Quốc như hiện nay trên thế giới thì Bắc Kinh sẽ mất nhiều hơn là Hà Nội. Bài học từ Ukraine vẫn còn đó. Nga lấy được bán đảo Crimea nhưng bị Mỹ và EU cấm vận, Ukraine thì mất đất. Chỉ có Mỹ là được lợi khi có cớ cấm vận và làm suy yếu nước Nga.

Nếu Trung Quốc vì bị khiêu khích hay vì một lý do (điên rồ) nào đó mà quyết định gây ra một cuộc hải chiến nhỏ, cho dù có kềm chế, trên Biển Đông thì hậu quả Trung Quốc sẽ bị cấm vận còn Việt Nam sẽ mất đảo và cũng chỉ Mỹ là hưởng lợi. Mỹ sẽ không đánh trả Trung Quốc nếu Trung Quốc không trực tiếp tấn công Mỹ. Khác với Đài Loan, Mỹ cũng không có lý do gì để giúp Việt Nam chiếm lại các đảo nếu bị Trung Quốc xâm chiếm. Quan hệ Mỹ-Việt chưa đủ lớn và đủ độ tin cậy để Mỹ làm điều đó. Hy vọng Donald Trump đánh Trung Quốc hộ Việt Nam chỉ là giấc mơ hoang đường. Cũng may cho Mỹ và thế giới là Donald Trump kém cỏi và vụng về nếu không hậu quả sẽ còn nghiêm trọng hơn rất nhiều.

Theo nhận định của Tập Hợp thì căng thẳng Mỹ-Trung là có thật và ngày càng dâng cao khi mọi thăm dò đều cho thấy Donald Trump đang bị thua điểm Joe Biden trong cuộc đua vào Nhà Trắng tháng 11 sắp tới. Tuy nhiên chiến tranh sẽ không xảy ra dù Nóng hay Lạnh. Mỹ và Trung Quốc không hề đối đầu về ý thức hệ mà chỉ vì lý do kinh tế. Mỹ không còn là lãnh đạo của khối dân chủ mà chỉ là một "chế độ tài phiệt". Trung Quốc cũng không còn là quốc gia cộng sản mà chỉ là chế độ độc tài cá nhân trị. Cả hai nước đều sỡ hữu vũ khí hạt nhân, cả hai đều không dám gây chiến và xung đột, ngoại trừ "khẩu chiến".

Vậy Mỹ và Trung Quốc sẽ làm gì ? Cả hai sẽ ngày càng to tiếng và "ăn miếng trả miếng" với nhau để đổ lỗi và biện hộ cho những thất bại trong đại dịch Covid-19 và khủng hoảng kinh tế. Khả năng cao là Mỹ sẽ có tổng thống mới trong cuộc bầu cử tới đây. Đoàn kết người dân Mỹ, hàn gắn với các đồng minh dân chủ sẽ là nhiệm vụ quan trọng của chính quyền mới. Mỹ cũng cần thời gian để trấn tĩnh và chấn chỉnh lại nền dân chủ của mình.

coldwar4

Khả năng cao là Mỹ sẽ có một vị tổng thống mới biết đoàn kết người dân Mỹ, hàn gắn với các đồng minh dân chủ - Ảnh minh họa Donald Trump và Joe Biden (phải)

Trung Quốc sẽ rút lui và co cụm lại trước khi tan vỡ. Thời gian này có thể kéo dài khoảng 10 năm. Làn sóng bất mãn sẽ gia tăng khi kinh tế Trung Quốc sa sút. Người dân Trung Quốc đã hội nhập sâu rộng với thế giới. Họ làm ăn và đi du lịch khắp thế giới, cuộc sống của họ đã cải thiện rất nhiều, cho nên rất khó để quay lại với cuộc sống nghèo khó như trước. Không chỉ các tỉnh nghèo của Trung Quốc bất mãn mà sắp tới các tỉnh giàu có của Trung Quốc cũng sẽ bất mãn và không muốn chia sẻ gánh nặng với Bắc Kinh. Trung Quốc tan vỡ thành nhiều quốc gia độc lập là điều khó tránh khỏi. Hy vọng là sự tan vỡ đó xảy ra trong hòa bình như Liên Xô hồi trước.

Việt Nam có mọi lý do để lo lắng và thận trọng. Đảng cộng sản Việt Nam rất khó khăn khi bắt buộc phải chọn phe.

"Bỏ Tàu theo Mỹ" là một lựa chọn tình thế nhằm lợi dụng Mỹ trong quan hệ song phương chứ không hẳn vì chia tay ý thức hệ cộng sản. Sự xoay trục nửa vời này có thể sẽ gặp rắc rối với Donald Trump, một tổng thống dân túy bốc đồng. Sau khi Trung Quốc co cụm và rút lui thì vai trò của Việt Nam sẽ giảm đi, những ưu đãi và dễ dãi của Mỹ và EU dành cho Việt Nam cũng không còn. Đảng cộng sản Việt Nam sẽ rất bối rối và khốn đốn trong những ngày tới.

Việt Hoàng

(06/06/2020)

Additional Info

  • Author Việt Hoàng
Published in Quan điểm

Trong lúc dịch Cúm Vũ hán đang diễn biến phức tạp, thì Trung Quốc lại triển khai nhiều hoạt động mới ở Biển Đông ngay sau khi vừa tuyên bố giải quyết xong ổ dịch Vũ Hán.

vietmy1

Tàu kéo Nam Đà – 174 của hạm đội Nam Hải trực bảo vệ căn cứ trên bãi Chữ Thập. Tàu này sẵn sàng ngăn cản, xua đuổi các tàu không phải của Trung Quốc đi gần bãi đá

Việt Nam có thể làm gì trong tình thế này khi cũng đang gồng mình chống dịch và liệu nước Mỹ có đóng góp vai trò gì giúp Việt Nam khi cường quốc này vừa trở thành nước dẫn đầu thế giới về số ca lây nhiễm ?

Mới đây nhất, ngày 26/3, Trung Quốc đã khai thác 861.400 mét khối khí tự nhiên từ khí metan, trong một tháng sản xuất thử nghiệm ở Biển Đông, truyền hình nước này đưa tin.

Giới chức năng lượng Trung Quốc phát biểu rằng đây là bước quan trọng trong tiến trình công nghiệp hóa khí metan.

Metan đã được xác định là một nguồn khí đốt mới tiềm năng cho Trung Quốc và Biển Đông được cho là có chứa một số lượng khí metan dồi dào nhất trên thế giới.

Trung Quốc đã đưa máy bay quân sự tới Biển Đông để diễn tập trong tháng này ở Biển Đông, dường như để đáp trả các cuộc tuần tra qua khu vực này của các tàu chiến Mỹ, theo truyền thông Trung Quốc cho biết.

Mới hồi tháng Hai, tàu sân bay USS Theredore Rosevelt cập cảng Đà Nẵng của Việt Nam, một động thái được cho là nhằm tăng cường quan hệ Mỹ-Việt, khẳng định sự hiện diện của Mỹ ở Biển Đông, nhưng đã khiến Trung Quốc tức giận.

Tiếp đến, đầu tháng Ba, tàu khu trục tên lửa dẫn đường USS McCampbell của Mỹ đã đi vào Biển Đông để thể hiện rằng đây là tuyến đường thủy quốc tế mở thay vì nằm dưới sự kiểm soát của Trung Quốc, theo Reuters.

Đáp lại, giữa tháng Ba, Trung Quốc tập trận chung với Campuchia trên Biển Đông mặc dù có nguy cơ khiến Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác phẫn nộ.

Mới đây, Trung Quốc lại ngang nhiên đưa máy bay quân sự ra quần đảo Trường Sa.

vietmy2

Ảnh chụp vệ tinh của công ty ImageSat International (ISI, Israel) hôm 29/3 cho thấy máy bay vận tải quân sự Y-8 của Trung Quốc hạ cánh trái phép trên đá Chữ Thập trong quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.

Trước đó vào ngày 20/3, Tân Hoa xã ngang nhiên đưa tin Trung Quốc lập 2 trạm nghiên cứu trên hai đá Chữ Thập và Xu Bi, cũng thuộc quần đảo Trường Sa.

Hai cơ sở này sẽ theo dõi, đo đạc các thay đổi về sinh thái địa chất, môi trường tại các vùng biển này. Hai cơ sở này được cho là cùng tổ hợp với một trung tâm nghiên cứu của Trung Quốc xây dựng trước đó ở Đá Vành Khăn ở Trường Sa.

Tuy nhiên, cộng đồng quốc tế không thể tin vào việc Bắc Kinh đưa ra những tuyên bố về việc xây dựng cơ sở ở bãi đá Chữ Thập hay Xu Bi là để nghiên cứu khoa học.

Hôm 24/03, Tiến sĩ Collin Koh Chuyên gia quốc phòng thuộc Trường Nghiên cứu quốc tế S.Rajaratnam, Singapore nhận định : "Hẳn nhiều người nghĩ rằng dịch virus corona đang diễn ra có lẽ sẽ khiến Bắc Kinh không chú ý đến những điểm nóng hàng hải. Thực tế lại không như vậy. Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, bất chấp Dịch Cúm Vũ Hán đang bùng phát".

Tiến sĩ Patrick Cronin (Chủ tịch chương trình An ninh Châu Á – Thái Bình Dương, Viện Nghiên cứu Hudson, Mỹ) cho rằng : "Về mặt lý thuyết, tất cả các quốc gia cần cùng nhau hợp tác cho an ninh biển và tài nguyên, tìm ra cách thức bền vững để các quốc gia ven biển khai thác tài nguyên biển".

Tuy nhiên, ông Cronin cũng đặt vấn đề : "Nhưng điều đó có thể bị đặt niềm tin sai chỗ khi nghĩ rằng Trung Quốc giờ đây muốn bảo vệ hệ sinh thái biển – trong khi thực tế thì nước này suốt nhiều năm qua đã phá hoại hệ sinh thái biển. Không chỉ gây hại cho hệ sinh thái, Trung Quốc còn nhiều lần quấy rối vùng biển và tàu bè của Việt Nam, Malaysia, Philippines, Indonesia…, hay gần đây là chiếu laser vào tàu và máy bay Mỹ. Chính vì thế, cộng đồng quốc tế khó có thể đặt niềm tin vào một quốc gia như Trung Quốc".

Hay nghiên cứu môi trường biển để thu thập thông tin nhằm ẩn nắp tàu ngầm tại những khu vực này. Ở trong lòng biển, nơi tàu ngầm hoạt động, Trung Quốc cần nắm rõ các điều kiện dòng nước để thiết lập hệ thống cảm biến phục vụ cho mạng lưới liên lạc, cập nhật thông tin của tàu ngầm.

Cũng không tin tưởng vào điều mà Bắc Kinh công bố, Tiến sĩ James R. Holmes (chuyên gia chiến lược hàng hải – Đại học Hải chiến Mỹ) cho rằng : "Bằng cách xây dựng cái gọi là trung tâm nghiên cứu dành cho khoa học, nhưng Trung Quốc vô hình trung đã thiết lập sự kiểm soát. Với cách thức này, Bắc Kinh đặt sự đã rồi để các nước khó can thiệp đòi "phục hồi nguyên trạng", yêu cầu người Trung Quốc rời đi bằng đường ngoại giao hay quân sự. "Núp bóng" nghiên cứu khoa học còn khiến các nước khác nếu can thiệp để người Trung Quốc rút đi thì Bắc Kinh lại đổ vấy rằng đó là hành vi "tấn công vào giới nghiên cứu khoa học".

Động thái xây dựng trạm nghiên cứu ở bãi đá Chữ Thập và bãi đá Xu Bi là chiêu trò khá quen thuộc từ Trung Quốc. Bắc Kinh thường xuyên lợi dụng những lúc tình hình phức tạp, các nước có những mối quan tâm khác, thì ra tay hành động.

Phân tích sâu hơn, Tiến sĩ Satoru Nagao (Viện Nghiên cứu Hudson, Mỹ) cho rằng mục đích của việc xây dựng các cơ sở nghiên cứu trên là để phục vụ quân sự.

Cụ thể, theo Tiến sĩ Nagao, Bắc Kinh cần thu thập thông tin để củng cố khả năng kiểm soát ở các thực thể nhân tạo mà họ đang chiếm giữ phi pháp. Điển hình như việc bảo tồn nước ngọt hay hệ sinh thái thực vật là nhằm đảm bảo môi trường sống cho lực lượng binh sĩ mà Trung Quốc đang đồn trú tại đây.

Tương tự, Bắc Kinh cũng muốn cập nhật nhiều hơn thông tin về thời tiết vốn có vai trò quan trọng để triển khai máy bay quân sự. Ba bãi đá Chữ Thập, Xu Bi và Vành Khăn có vai trò quan trọng ở khu vực quần đảo Trường Sa.

Ba bãi đá này hình thành nên 3 cạnh của một tam giác mang tính chiến lược ở khu vực này. Bắc Kinh cũng đã xây dựng đường băng và nhà chứa máy bay tại cả 3 bãi đá này.

Bên cạnh mục tiêu quân sự, theo Tiến sĩ Nagao, thông qua các cơ sở này, Trung Quốc muốn thể hiện với thế giới rằng họ kiểm soát vùng biển tại đây. Việc thu thập các thông tin dữ liệu cũng có thể được Trung Quốc dùng để biện minh rằng họ nắm rõ về vùng biển này, nhằm củng cố cho quyền kiểm soát.

Để chống lại sự đe dọa của Trung Quốc, chiến lược của Mỹ là củng cố các cam kết về quan hệ đối tác và đồng minh đã có, đồng thời mở rộng và làm sâu sắc thêm quan hệ với các đối tác mới cùng chia sẻ quan điểm về tôn trọng chủ quyền, công bằng thương mại và luật quốc tế, theo phân tích của tác giả Mark J. Valencia trên báo Bưu điện Hoa nam buổi sáng.

Chiến lược này nhằm thực hiện tầm nhìn vĩ đại của Mỹ về một Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và cởi mở, bao gồm tự do hàng hải, tôn trọng luật pháp, tôn trọng chủ quyền, doanh nghiệp tư nhân và thị trường mở…
Do tranh chấp trên Biển Đông với Trung Quốc, từ lâu các nhà quan sát đã cho rằng Việt Nam là một nước chống Trung phò Mỹ mạnh mẽ nhất trong toàn khối ASEAN.

Mặc dù vậy giới quan sát cho rằng giữa Việt Nam và Mỹ không hề có sự tin cậy lẫn nhau.

Thực tế là Việt Nam không chia sẻ nguyên lý cốt lõi của một Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và cởi mở – tự do hàng hải cho các tàu chiến mà chính quyền của Tổng thống Donald Trum đang theo đuổi và thực thi trong khu vực.

Việt Nam từ lâu đã có những chính sách hạn chế cho tàu chiến đi vào lãnh hải của mình – tương tự như Trung Quốc. Đặc biệt, Việt Nam có cả đường lãnh hải cơ sở và các nước phải được phép của Việt Nam mới được vượt qua các đường cơ sở này, theo ông Mark J. Valencia – nhà phân tích chính sách hàng hải, nhà bình luận chính trị và nhà tư vấn chính sách Châu Á. Do đó, việc Hoa Kỳ đưa các tàu chiến đi vào trong vùng lãnh hải xung quanh Hoàng Sa không chỉ nhắm vào Trung Quốc mà còn vào Việt Nam.

Hơn nữa, Hoa Kỳ không công nhận các yêu sách của Việt Nam đối với các thực thể nằm dưới mực thủy triều ở Trường Sa, đồng thời phản đối việc quân sự hóa của Việt Nam, cũng giống như với Trung Quốc.

vietmy3

Tàu sân bay Mỹ USS Theodore Roossevelt đã cập cảng Tiên Sa, thăm Đà Nẵng từ ngày 5 đến ngày 9/3/2020 nhân dịp kỷ niệm 25 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước

Sự va chạm trong các diễn giải và các chính sách pháp lý liên quan đến tự do hàng hải là biểu tượng cho sự lệch tông mang tính chiến lược cơ bản giữa Mỹ và Việt Nam.

Ngoài ra, dù chống Trung, Việt-Trung lại có mối quan hệ khăng khít giữa hai đảng Cộng sản, và quan hệ kinh tế lâu năm.

Việt Nam cũng luôn kiên định chính sách ‘ba không’ – không tham gia vào các liên minh quân sự, không có căn cứ quân sự nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam và không phụ thuộc vào một quốc gia để chống lại một quốc gia khác.

Không có điểm chung về văn hóa, ý thức hệ, hệ thống chính trị hay thế giới quan – ngoại trừ mối đe dọa của Trung Quốc. Đó là bản chất của mối quan hệ chiến lược Việt -Mỹ, vẫn theo tác giả Mark J. Valencia.

Trên thực tế, Việt Nam và Mỹ không tin nhau – vì những lý do chính đáng và từ cả hai phía – và điều đó khiến cho việc xây dựng một mối quan hệ chiến lược vững chắc và lâu dài giữa hai bên là không thể, Tiến sĩ Mark J. Valencia bình luận.

Thu Thủy (Thành phố Hồ Chí Minh)

Nguồn : Thoibao.de, 01/04/2020

Additional Info

  • Author Thu Thủy
Published in Diễn đàn
Trang 1 đến 6