Cái tát vào "thế lực thù địch" hay cái tát vào mặt Trí Chính và báo Hà Nội Mới ?
Ngày 12/8/2019, Hanoimoi online có bài viết với cái tít rất "đanh thép" : "Câu trả lời đích đáng cho những luận điệu xuyên tạc", ký tên Trí Chính.
Không biết Hanoimoi có nhà báo, hay nhà tuyên giáo nào đó tên là Trí Chính không. Nhưng thôi, cứ ghi nhận có một bút danh như thế để nhắc tới cho tiện.
Thế lực thù địch chống phá như thế nào ?
Mở đầu bài viết bằng một câu đã thành quen mà ai làm công việc tuyên truyền cũng thuộc nằm lòng :
"Các thế lực thù địch và cơ hội chính trị chưa bao giờ từ bỏ mục tiêu chống phá Đảng, Nhà nước".
Thế lực thù địch ở đây là sản phẩm tưởng tượng chỉ tất cả những người phê phán, chỉ trích những yếu kém của các cấp lãnh đạo trên mọi mặt đối nội và đối ngoại, mong đem lại sự tiến bộ cho đất nước. Họ bị nhà nước cộng sản Việt Nam coi là thù địch, còn về phía ngược lại thì không.
Vì là sản phẩm tưởng tượng nên khi nói đến thế lực thù địch, ai cũng nhủ "chắc nó trừ mình ra" (câu văn của Nam Cao). Tóm lại, đã nhiều chục năm nay, một bên thì cứ chửi đổng, một bên thì không biết nó chửi ai.
Nhưng lần này thì Trí Chính đã nêu đích danh một loạt "nhân vật chống đối chính quyền có thâm niên" như Phạm Thanh Nghiên, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Lân Thắng, Bùi Thị Minh Hằng, Nguyễn Văn Đài, Lisa Nguyen, Bùi Thanh Hiếu... Cả Nguyễn Hữu Vinh (Anh Ba Sàm) mới ra tù được mấy tháng cũng được "vinh dự" liệt vào những phần tử chống đối.
Vậy những người này chống đối như thế nào ? Trí Chính nêu ra như sau :
"đã cung cấp thông tin xuyên tạc, như chính quyền "không nói rõ về tình hình tại khu vực bãi Tư Chính", "không có giải pháp mạnh với Trung Quốc"...
Hoặc :
"hợp tác với một nước khác để giải quyết tình hình, hoặc kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế."...
Ơ hay, họ nói quá đúng đấy chứ, đâu phải là xuyên tạc. Có đúng là chính quyền không thông tin kịp thời và đầy đủ tình hình ở Bãi Tư Chính cho nhân dân được biết không ? Có đúng là nhà nước không có biện pháp cứng rắn với Trung Quốc không ?
Hoặc ý kiến muốn hợp tác với các quốc gia trong vấn đề bảo vệ chủ quyền hay cần kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế có gì sai ? Dù nhà cầm quyền không chấp nhận thì đấy vẫn là những ý kiến tâm huyết, sao gọi là chống đối ?. Trong tư duy cổ hủ của Trí Chính, hễ cứ ai góp ý đúng nhưng trái với ý nhà cầm quyền đều là chống đối hết.
Trí Chính còn quy kết cho các đài RFA, BBC có "mục đích chống phá, lợi dụng tình hình Biển Đông để gây bất ổn bằng cách kích động, kêu gọi người dân tuần hành như đã xảy ra hồi tháng 5/2014" nhưng không dẫn ra được câu nào chứng minh lời anh ta nói.
Trí Chính vơ nhân dân về phía mình để cô lập những người mà anh ta gọi là thế lực thù địch, bất chấp lòng dân nghĩ gì trước tinh thần bạc nhược của nhà cầm quyền :
"Đặc biệt, người dân cả nước vẫn đoàn kết một lòng hướng về biển, đảo của Tổ quốc, với trái tim nóng và khối óc sáng suốt không để thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị lợi dụng kích động để làm mất ổn định tình hình đất nước…".
Đúng là trong thời gian hơn 1 tháng căng thẳng ở Bãi Tư Chính, có nhiều người phê phán nhà nước quá mềm mại trước kẻ thù tới mức nhu nhược. Có cả những ý kiến cần kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế. Nhưng kích động biểu tình thì hoàn toàn không có mà ngược lại chỉ có chuyện họ bảo nhau không xuống đường nữa "vì họ cảm thấy lòng yêu nước đã từng bị chính quyền lợi dụng…".
Sơ qua như thế để thấy rằng, Trí Chính quy chụp hồ đồ như thế nào, chứ tôi không có ý đề cập tất cả những gì anh ta quy kết "thế lực thù địch" trong phạm vi một bài viết.
Sự khôn khéo sáng suốt của đảng buộc tàu Trung Quốc phải rút ?
Thế còn "câu trả lời" mà Trí Chính nhắc tới ở tít bài viết là cái gì, hay nói cách khác cái gì trả lời cho "những luận điệu xuyên tạc" ? Thì ra Trí Chính mượn sự kiện tàu HD8 của Trung Quốc rút ra khỏi bãi Tư Chính hôm 7/8 để làm "câu trả lời đích đáng".
Tàu Trung Quốc rút, Trí Chính được đà té nước theo mưa, nhận ngay đó là nhờ công của đảng. Anh ta khẳng định :
"Rõ ràng, việc kết hợp nhiều biện pháp đấu tranh khôn khéo, cương quyết và luôn dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế ; cả trên lĩnh vực ngoại giao, ở các diễn đàn quốc tế, trên thực địa của nhiều lực lượng, trong đó có sự đồng lòng, đoàn kết của nhân dân cả nước đã trực tiếp buộc Trung Quốc phải rút nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 ra khỏi khu vực bãi Tư Chính của Việt Nam".
Tinh thần đang phấn khích làm Trí Chính không tránh khỏi lộng ngôn :
"Thực tế này khẳng định, âm mưu của các thế lực thù địch, chống phá, hòng thông qua mạng xã hội và một số báo, đài thiếu thiện chí với Việt Nam, để xuyên tạc tình hình thực tế, kích động, lôi kéo gây rối, tiến tới bạo động như đã từng xảy ra hồi tháng 5-2014 đã hoàn toàn thất bại. Đó cũng là "cái tát" mạnh mẽ vào các thế lực thông tin lệch lạc".
Lại còn có cả "thế lực thông tin lệch lạc" nữa. Cái tát ấy, Trí Chính nhằm vào các "thế lực" này, trong đó có những người Chính quy kết mà tôi nhắc tới ở trên. Đó là thái độ bất nhã (nếu không nói là hỗn láo). Anh ta thô lỗ, hung hãn và căm thù những người bất đồng chính kiến tới mức này ư ? Đó không phải là thái độ của người có hiểu biết.
Trí Chính không quên nhân cơ hội tàu Trung Quốc rút đi để ca ngợi chính sách ba không "không liên minh quân sự với nước ngoài, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự để chống lại các nước khác, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực đối với nước khác".
Trong khi đề cao "cách hành xử mềm mỏng nhưng rất cương quyết, tuân thủ đúng luật pháp quốc tế", "những biện pháp "đúng đắn, sáng suốt, cương quyết", hình như Trí Chính đã quên bài học mềm mỏng, nhất định không nổ súng để bảo vệ chủ quyền ở đảo Gạc Ma năm nào.
Bài viết của Trí Chính là sản phẩm của tưởng tượng về cái gọi là "thế lực thù địch", tưởng tượng về sự khôn khéo sáng suốt của đảng.
Một bài viết tham lam, dài lê thê, khó có độc giả nào đủ kiên nhẫn đọc hết. Nó na ná như nhiều bài tuyên truyền khác.
"Ngày vui ngắn chẳng tày gang"
Tuy nhiên, bài viết cũng có một điều đáng nói, đó là Trí Chính cho rằng, tàu Trung Quốc rút đi là nhờ sự đấu tranh khôn khéo của đảng và nhà nước.
Thế nhưng "ngày vui ngắn chẳng tày gang". Khi Trí Chính vừa ba hoa trên Hanoimoi ngày 12/8 thì ngay hôm sau 13/8, hãng Reuters và các đài BBC, RFA, RFI, VOA, báo Người Việt... đồng loạt đưa tin Tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc quay trở lại vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam vào hôm thứ Ba, 13/8, chưa đầy một tuần sau khi rời khỏi khu vực, đúng như các nhà quan sát dự báo.
Và lần này các nhà quan sát cũng dự báo, tàu HD8 quay lại, tình hình có thể căng thẳng hơn so với lần trước.
Cho lúc này, gần hết ngày hôm sau, không thấy báo chí Việt Nam đả động gì đến sự kiện này. Riêng trang báo mạng Phụ Nữ đưa tin nhưng sau đó đã bị gỡ.
Khi tàu Trung Quốc rút, Trí Chính cho rằng nhờ đấu tranh khôn khéo nên buộc nó phải rút. Bây giờ nó quay trở lại thì do ai ? Chắc chắn anh ta không dám nói nhờ sự sáng suốt của đảng. Liệu anh ta có bài viết khác, đổ cho thế lực thù địch kêu gọi nó quay trở lại ?
Ngay sau khi tàu HD8 rút, các nhà quan sát đã cho rằng nó rút đi có thể là quay về tiếp dầu rồi nó sẽ quay trở lại. Dự đoán này thuyết phục, phù hợp với nhận định của nhiều người và quả nhiên nó diễn ra như thế.
Thế mà Trí Chính đã vội ca lên bài ca, ca ngợi đảng và nhà nước, trong khi nhiều tờ báo khác vẫn dè dặt, thận trọng. Nay tàu Trung Quốc quay trở lại và không biết điều gì sẽ xảy ra, tránh sao khỏi tẽn tò. Nhưng biết xấu hổ lại là thái độ của người có liêm sỉ chứ không phải ai cũng biết. Tù nhân lương tâm Phạm Thanh Nghiên cho rằng, Trí Chính và báo Hanoimoi đã lâm vào thế việt vị (bài "Sủa mà cũng việt vị", mời bạn đọc xem ở đây)
Xin nhắc lại, khi tàu Trung Quốc rút, Trí Chính nói "Thực tế này... là "cái tát" mạnh mẽ vào các thế lực thông tin lệch lạc". Bây giờ nó quay trở lại, có phải đó là cái tát mạnh mẽ vào mặt Trí Chính và báo Hà Nội Mới ?
Nguyễn Tường Thụy
Nguồn : RFA, 14/08/2019 (nguyentuongthuy's blog)
Sau nhiều ngày ngang nhiên tung hoành trên Bãi Tư Chính, vào ngày 7/8/2019 tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8 đã rút khỏi khu vực này để đến Đá Chữ Thập thuộc chủ quyền lãnh hải của Việt Nam. Và cũng trong thời gian đó Bắc Kinh cho tập trận rầm rộ ở quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Suốt một tháng qua nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam biểu hiện thái độ "hèn với giặc" khi không dám lên tiếng lúc tàu HD8 của Trung Quốc xâm phạm Bãi Tư Chính trong những ngày đầu, mà chỉ dám lên tiếng một cách yếu ớt mới đây.
Từ Sài Gòn nhà báo Nguyễn Đình Ngọc có cuộc trao đổi với nhà báo Trần Quang Thành về sự việc này. Nội dung như sau, mời quí vị cùng nghe :
Phỏng vấn nhà báo Nguyễn Đình Ngọc
Trần Quang Thành thực hiện
Nguồn : Tiếng Dân Việt Media, 03/08/2019
Người dân nghĩ gì về căng thẳng tại Bãi Tư Chính ? (RFA, 06/08/2019)
Căng thẳng Bãi Tư Chính giữa Việt Nam và Trung Quốc đã kéo dài hơn một tháng qua và ngày một nóng hơn. Báo chí trong và ngoài nước đều đăng tải thông tin này ở những mức độ chừng mực khác nhau. Trên diễn đàn mạng xã hội, nhiều facebooker cũng rầm rộ bàn luận về chủ quyền biển đảo theo cách tìm hiểu riêng của họ. Và, cũng có một đại đa số người dân sẽ không quan tâm nhiều đến thời cuộc bởi họ còn nhiều khó khăn trong cuộc sống thường nhật phải đối mặt.
Tàu Hải Cảnh 3901 - tàu hạng nặng cỡ 12.000 tấn được Trung Quốc đưa tới khu vực phía bắc Bãi Tư Chính. Photo : SCMP
Bãi Tư Chính ra sao ?
Theo Wikipedia thì Bãi Tư Chính là một cụm rạn san hô ở phía nam Biển Đông, cách bờ biển Vũng Tàu 160 hải lý và cách bờ biển Đảo Hải Nam của Trung Quốc hơn 600 hải lý. Theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS 1982), một quốc gia ngoài vùng nội thủy và lãnh hải thì từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải, quốc gia ven bờ được quyền có vùng đặc quyền kinh tế tối đa 200 hải lý.
Ngày 3/7/2019, Trung Quốc điều tàu Hải Dương 8 được hộ tống bởi 4 tàu hải cảnh và một tàu dân binh, trong đó có tàu Hải cảnh 3901 là tàu hạng nặng cỡ 12.000 tấn tới khu vực phía bắc Bãi Tư Chính. Đối mặt với các tàu Trung Quốc vào lúc đó chỉ có 4 tàu cảnh sát biển của Việt Nam.
Giáo sư Carl Thayer thuộc Trường Đại học New South Wales, hôm 3/8/2019 đưa trên Twitter thông tin Trung Quốc đã điều 35 tàu các loại vào vùng biển Việt Nam, có những tàu trang bị vũ khí hạng nặng. Lúc đỉnh điểm số tàu lên đến 80 chiếc.
Người dân Việt Nam hiện nay không ai biết rõ "số phận" Bãi Tư Chính ra sao nên rất nhiều giả thiết được đưa ra và bàn luận trên các diễn đàn mạng xã hội. Người nói còn, người nói mất. Phần đông (theo quan sát của RFA) hồ nghi và cho rằng Bãi Tư Chính sẽ mất nếu Chính phủ Việt Nam không có động thái phản ứng mạnh mẽ hơn trước sự thách thức của Trung Quốc.
Một cựu sĩ quan có thâm niên hơn 10 năm trong quân đội, ông Võ Minh Đức, đưa ý kiến của mình :
"Nếu nói là Tư Chính đã mất thì chưa, nhưng chuyện sắp mất chắc chắn là có nếu chính quyền không có những biện pháp cứng rắn, không có thái độ cương quyết. Tôi nghĩ ở thời điểm này thì nên lấy lại câu nói của Cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là ‘Không chấp nhận đánh đổi chủ quyền lấy tình hữu nghị viển vông’ - dù tôi cũng không thích ông này".
Cho đến bây giờ, tin tức cũng như "số phận" Bãi Tư Chính mà người dân được biết chủ yếu là qua báo đài nước ngoài và dư luận quốc tế. Giáo sư Hoàng Dũng cũng nhìn nhận sự việc qua kênh thông tin như vậy. Ông nói :
"Tôi không nghĩ Tư Chính đã mất. Đến nay tình hình vẫn diễn biến khá phức tạp. Nếu thực sự Tư Chính đã mất thì dư luận thế giới không dừng lại ở đây, bởi chuyện ở bãi Tư Chính hiện nay không chỉ liên quan tới Việt Nam".
Tuy nói vậy nhưng ông cũng đưa giả thiết nếu Bãi Tư Chính đã mất thì cái tội này của nhà cầm quyền Việt Nam không thể né tránh với lịch sử. Bây giờ việc cần làm là phải xét lại toàn bộ chiến lược với Trung Quốc. Ông cho rằng điều đó sẽ thúc đẩy tiến trình dân chủ ở Việt Nam. Và chỉ có cách để cho đất nước dân chủ thì chúng ta mới lấy lại được Tư Chính trong trường hợp "đã mất".
Với giả thiết trên, Nhà báo Nguyễn Ngọc Già bày tỏ :
"Với tư cách là một người dân thì phải nói tôi rất đau lòng nhưng tôi không ngạc nhiên nếu Bãi Tư Chính mất. Đó là một sự tiếp nối như Việt Nam chúng ta đã mất Hoàng Sa, mất Gạc Ma. Nó như một cơn sóng thần. Tuy nhiên sóng thần có vồ hết tất cả tài sản của chúng ta thì chúng ta vẫn có thể gầy dựng lại, còn nếu Bãi Tư Chính mất thì đó là điều rất kinh khủng với dân tộc Việt Nam. Nó càng bộc lộ rõ đó là tội ác không thể dung thứ của cộng sản Việt Nam !"
Thông tin mơ hồ
Tuy chuyện Biển Đông nóng như vậy, có thể nói "ngay cửa nhà mình", nhưng nhiều người dân Việt Nam vẫn như bị bịt mắt, bịt tai không biết gì hết nếu không sử dụng mạng xã hội. Cô Trần Thị Tuyết, một công nhân ở Sài Gòn bất ngờ khi trò chuyện với RFA :
"Vụ Bãi Tư Chính em không biết vì em không thấy báo chí đăng gì hết. Mất nước là do lỗi của những ông lớn, những lãnh đạo đã để Trung Quốc xâm lấn. Em là một người dân mà em có biết gì đâu. Chuyện đó để Nhà nước lo thôi. Mình ở Việt Nam mà, họ làm như thế nào mình cũng phải chịu thôi".
Giáo sư Hoàng Dũng hiện giảng dạy tại Sài Gòn cho rằng đứng trước hình ảnh xâm lược như vậy mà nhà nước không lên tiếng một cách mạnh mẽ để bảo vệ biên cương thì tính chính danh của nhà nước hoàn toàn sụp đổ :
"Tôi thấy nhiệm vụ của chính quyền là phải thông tin cho người dân. Vừa rồi nếu nói nhẹ thì "chính quyền thông tin chậm". Nói nặng thì "chính quyền cố tình giấu diếm thông tin". Vấn đề là tại sao họ lại đưa thông tin chậm như vậy, có thể đó là theo quán tính của cách quản lý cũ, nghĩa là họ nghĩ rằng những thông tin đó chỉ có một số người được biết. Cái thứ hai mà tôi thấy nghiêng về hơn, là nhà nước hiện nay đang rất lúng túng trong việc đối phó với Trung Quốc nói chung và vụ bãi Tư Chính nói riêng".
Tuy nhiên, vào cuối tháng 7/2019, trong cuộc họp kín với người đồng cấp Trung Quốc Vương Nghị tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 52 ở Bangkok, Phó thủ tướng - Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh đã tố cáo Trung Quốc vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam ở Biển Đông.
Trước động thái khá "dũng cảm" của Bộ trưởng Phạm Bình Minh, nhiều người dân tỏ ra vui mừng nhưng cũng không ít người cho rằng cách bày tỏ thái độ của Bộ trưởng Ngoại giao chưa thật sự kiên quyết và cứng rắn.
Ông Huỳnh Ngọc Chênh từ Hà Nội nhận định, vụ Bãi Tư Chính là phép thử của nhà cầm quyền cộng sản. Nếu chính quyền im lặng để cho Trung Quốc cưỡng đoạt có nghĩa họ bảo vệ đảng bằng mọi giá kể cả giá mất nước. Còn nếu chính quyền lên tiếng mạnh mẽ, đồng thời kêu gọi dân chúng và quốc tế lên tiếng phản ứng thì mới thấy rằng họ còn lo cho đất nước. Ông kết luận :
"Đến bây giờ họ vẫn không cho dân biết gì về diễn biến ở Tư Chính có nghĩa là họ sợ dân hơn là sợ kẻ thù. Họ giấu diếm để thỏa hiệp với kẻ thù !"
Mọi việc để chính phủ lo ?
Mạng báo South China Morning Post vào ngày 17 tháng 7 dẫn phân tích của Sáng Kiến Minh Bạch Hàng Hải (AMTI) thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược & Quốc Tế (CSIS) ở thủ đô Washington DC, Hoa Kỳ rằng nguy cơ đụng độ giữa tàu Trung Quốc với tàu của Việt Nam và Malaysia tăng cao tại Biển Đông trong những tuần gần đây khi mà Trung Quốc cố cản trở hoạt động thăm dò dầu khí của hai nước này ở khu vực đó.
AMTI nêu rằng Bắc Kinh cho thấy rõ ý muốn này càng tăng khi sử dụng vũ lực và đe dọa nhằm cản trở mong ước thăm dò dầu khí của các nước láng giềng. Trước sự ngang ngược của Trung Quốc, nhiều quốc gia đã lên tiếng, trong đó có Mỹ khi ngày 29/7/2019, các thượng nghị sĩ Đảng Dân chủ đã viết thư gửi đến ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo phản ứng Trung Quốc vi phạm công ước LHQ về luật biển.
Qua đó có thể thấy tình hình tranh chấp biển Đông và chuyện Bãi Tư Chính không còn là chuyện của riêng Việt Nam, thế nhưng rất tiếc nhiều người dân thừa nhận họ không biết nên làm gì trong lúc này. Ông Võ Minh Đức, một người dân, cho biết :
"Với tư cách là một người dân, nói thật tôi cũng không biết phải làm gì. Những biện pháp biểu tình, phản đối thì người dân mất niềm tin rồi vì nhà nước đàn áp, đánh đập. thậm chí bỏ tù dân…"
Ông Võ Minh Đức bày tỏ sự bất bình khi cùng lúc Trung Quốc xâm lấn chủ quyền biển Việt Nam thì các cấp lãnh đạo vẫn tiếp tục giao hảo với Trung Quốc với chuyến đi của Chủ tịch QH Nguyễn Thị Kim Ngân đến nước này để củng cố 'đối tác chiến lược toàn diện' từ ngày 8 đến 12/7/2019. Tiếp đến là Trưởng Ban Tuyên Giáo Trung ương Võ Văn Thưởng, sang Trung Quốc tham dự hội thảo lý luận lần thứ 15 giữa hai đảng vào ngày 21 và 22/7/2019.
Ở một động thái khác, theo nhận định của một số nhà quan sát thì bản chất việc Trung Quốc có hành động xâm lấn Bãi Tư Chính là tranh chấp Biển Đông và cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung.
Nhà báo Nguyễn Ngọc Già đưa ra những nhận định liên quan :
"Với tư cách là một người Việt Nam, tôi cũng không biết làm gì bởi tôi chỉ là một người dân bình thường. Tôi chỉ mong rằng tình hình đã như thế này thì chỉ có phương pháp "dĩ độc trị độc", cụ thể cuộc thương chiến giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc được đẩy lên cao. Và tôi cũng rất mong Hoa Kỳ có những đòn trừng phạt kinh tế đối với đảng cộng sản Việt Nam, đối với Bộ chính trị và đối với những kẻ tham nhũng.
Tất nhiên khi những đòn đánh kinh tế áp vô cho Việt Nam thì người dân sẽ phải hứng chịu. Tôi hiểu rõ điều đó. Tuy nhiên có gì mà không phải trả giá ? !"
Ông nêu một câu nói phổ biến trên thế giới là "Freedom is not free - Tự do không miễn phí" và liên hệ đến sự trả giá của người dân Việt Nam sau chiến tranh :
"Nếu buộc thì chúng ta phải trả giá như thời kỳ tăm tối lầm than sau 1975 mà người dân Việt Nam còn ở trong nước đã phải trả giá".
Diễm Thi
******************
Vì sao dân Việt ‘ngóng’ hàng không mẫu hạm Mỹ giữa xung đột Biển Đông ? (VOA, 06/08/2019)
Động thái mới nhất của Washington, điều hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan tới Biển Đông, đang được công luận Việt Nam hưởng ứng và chào đón nhiệt tình giữa bối cảnh căng thẳng trong vùng biển tranh chấp vẫn chưa có dấu hiệu "giảm nhiệt". Nhiều ý kiến bày tỏ hy vọng Hoa Kỳ sẽ giúp Việt Nam và các nước trong khu vực kiềm chế những hành động hung hăng của Bắc Kinh và "sớm lập lại trật tự ở Biển Đông".
Hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan trong một đợt diễn tập quân sự với Nhật Bản và Canada ngày 3/11/2018.
Tin tức về sự hiện diện của USS Ronald Reagan, chiếc hàng không mẫu hạm chạy bằng năng lượng hạt nhân của Hạm đội 7 Hoa Kỳ, với sức chứa lên đến hơn 70 máy bay phản lực siêu thanh F18, trực thăng và máy bay trinh sát, trong khu vực Biển Đông hôm 6/8 đã được chia sẻ rộng rãi trên các trang mạng xã hội tại Việt Nam.
"Mừng và hy vọng", Facebooker Thùy Đan bày tỏ, trong lúc Facebooker Đoàn Kiên Giang nói "Chào 500 anh em USS Ronald Reagan ghé Biển Đông chơi" và "chúc team thuận buồm xuôi gió".
Facebooker Mai Nuong To viết "Hy vọng Mỹ đánh cho nó (Trung Quốc) sập luôn chế độ cs (Cộng sản) để dân ko khổ nữa". Còn Facebook Thu Tran thì "Cầu mong sao cho sớm lập lại trật tự ở biển đông".
Lý giải cho sự "ủng hộ nhiệt tình" của công luận Việt Nam đối với sự hiện diện quân sự của Mỹ, nhà báo độc lập Võ Văn Tạo cho rằng có nhiều nguyên nhân khiến người dân Việt Nam ngả về phía Mỹ trước nguy cơ xung đột với Trung Quốc ở Biển Đông.
"Những năm gần đây, khi Trung Quốc tăng cường lấn hiếp ở Biển Đông, Hoa Kỳ đã tỏ thái độ rất rõ, ngay cả từ sự kiện giàn khoan HD-981 năm 2014. Lúc đó, Quốc hội Mỹ đã có nghị quyết phản đối chuyện đó rồi, trong khi Quốc hội Việt Nam thì chưa dám ra nghị quyết",nhà báo cư ngụ tại Nha Trang đưa ra nhận định với VOA.
Tàu thám hiểm "Hải Dương Địa Chất 8" của Cục Khảo sát Địa chất Trung Quốc (Ảnh : China Geological Survey)
Một lý do nữa, theo nhà báo Võ Văn Tạo, là động thái mới nhất của Washington rất có lợi cho Việt Nam và khu vực, giữa bối cảnh đang diễn ra "đối đầu" giữa Việt Nam và Trung Quốc, sau khi Bắc Kinh đưa tàu thăm dò Hải Dương Địa Chất 8 đến hoạt động gần Bãi Tư Chính, khu vực thuộc đặc quyền kinh tế của Việt Nam, kể từ ngày 3/7.
Ông nói : "Tôi cho rằng nhất cử nhất động của các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ, đặc biệt là các hạm đội, mà Hoa Kỳ là một cường quốc đại dương, là rất quan trọng. Họ đưa (tàu) xuống như thế thì dù mình không biết thực chất tàu đó đến Biển Đông nhằm mục đích gì, nhưng dù sao trong bức tranh tổng thể nó vẫn có lợi cho Việt Nam và hòa bình, an ninh khu vực, và cũng làm cho Trung Quốc phải lo lắng, giật mình theo dõi".
Nhà báo độc lập này cho rằng tình hình Biển Đông và mối quan hệ Việt-Trung hiện nay đang khiến cho những người dân am hiểu thời cuộc ở Việt Nam "rất lo lắng".
Ông nói : "Chính sách ‘lấy thịt đè người’ của Trung Quốc, ăn hiếp láng giềng, tìm cách lấn lướt và ăn cướp quyền lợi chính đáng của các nước láng giềng thì đã rõ rồi, nhưng khổ cái là Việt Nam từ những năm trước đây, đặc biệt tính từ Hội nghị Thành Đô vào tháng 9/1990 đến nay, thì rõ ràng quan điểm của Đảng cộng sản, chóp bu của Nhà nước Việt Nam nghiêng hẳn về phía Trung Quốc. Họ nêu lên quan tâm lớn nhất của họ là giữ chế độ, nghĩa là thực ra là giữ quyền lợi cho chóp bu của Đảng cộng sản Việt Nam thôi, còn quyền lợi của quốc gia, dân tộc bị xem nhẹ, nên người dân rất lo lắng trước tình hình đó".
Mặc dù thừa nhận Hà Nội đã "thay đổi quan điểm" và có "bước ngoặt tương đối quan trọng" trong mối quan hệ Việt-Trung sau sự kiện Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 vào Biển Đông năm 2014, nhưng theo nhà báo Võ Văn Tạo, quá trình "thoát Trung" và mở rộng quan hệ với các cường quốc, đặc biệt là với Mỹ, của Việt Nam hiện nay đang diễn ra "quá chậm", khiến cho ông và nhiều người dân "vô cùng sốt ruột".
Sự kiện hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan đến Biển Đông diễn ra chỉ vài ngày sau khi Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Mark Esper lên tiếng chỉ trích Trung Quốc "gây bất ổn" trong khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Trước đó, Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN cũng chỉ trích Bắc Kinh đã có hành động "cưỡng ép" trên Biển Đông.
Trả lời báo chí về thông điệp của sự hiện diện của hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan ở Biển Đông trong bối cảnh đang có nhiều căng thẳng giữa Trung Quốc và các quốc gia láng giềng, trong đó có Việt Nam, Chuẩn Đô Đốc Mỹ Karl Thomas được AP dẫn lời nói sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ là nhằm "giúp mang lại an ninh và ổn định, thúc đẩy các cuộc đàm phán ngoại giao".
Khánh An
******************
Cuộc biểu tình đầu tiên về vụ Bãi Tư Chính trước tòa Đại Sứ Trung Quốc ở Hà Nội (VOA, 06/08/2019)
Cuộc biểu tình đầu tiên liên quan đến đối đầu Việt-Trung ở Bãi Tư Chính diễn ra vào sáng ngày 6/8 trước Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội.
Khoảng 10 nhà hoạt động biểu tình về vụ Bãi Tư Chính ở phía trước Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội, 6/8/2019 (nguồn ảnh : Facebook Lê Hoàng)
Dù chỉ có khoảng 10 người, theo lời thuật lại của nhà hoạt động nữ Nguyễn Thúy Hạnh với VOA, song cuộc biểu tình đang gây tiếng vang lớn trên mạng xã hội, giữa lúc cẳng thẳng về tranh chấp giữa hai nước láng giềng cộng sản chưa có bất cứ dấu hiệu nào sẽ sớm kết thúc.
Hình ảnh và video do bà Hạnh chia sẻ lên mạng xã hội Facebook trong cùng ngày cho hay nhóm biểu tình gồm bản thân bà, cùng với các nhà hoạt động khác là Lê Hoàng, Bùi Tiến Hưng, Thảo Teresa, Hồng Thái Hoàng và bạn bè.
Họ đứng trước cơ quan đại diện ngoại giao cấp cao nhất của Trung Quốc, giơ các biểu ngữ bằng tiếng Việt và tiếng Anh đòi Trung Quốc rút khỏi Bãi Tư Chính, lên án nước này tập trận gần quần đảo Hoàng Sa, đồng thời yêu cầu chính phủ Việt Nam kiện Trung Quốc tại tòa quốc tế.
Các đoạn video cho thấy những người biểu tình hô đến lạc cả giọng những lời phản đối :
"Đả đảo Trung Quốc gây hấn. Đả đảo Trung Quốc xâm lược Bãi Tư Chính của Việt Nam. Đả đảo Trung Quốc xâm lược biển đảo Việt Nam. Đả đảo hữu hảo với giặc Tàu. Trung Quốc cút khỏi Biển Đông. Hoàng Sa – Việt Nam. Trường Sa – Việt Nam".
Nhà hoạt động Nguyễn Thúy Hạnh nói với VOA rằng cuộc biểu tình được tổ chức "một cách bất ngờ" nên phải sau 15 phút kể từ khi họ bắt đầu mới thấy các nhân viên công an Hà Nội xuất hiện. Một số người dân đi đường đã dừng xe, mượn biểu ngữ của các nhà hoạt động, cùng giơ biểu ngữ và hô theo, bà Hạnh kể lại.
Phía nhà chức trách không có động thái can thiệp, cuộc biểu tình diễn ra khoảng 30 phút từ đầu đến cuối, sau đó các nhà hoạt động tự ra về.
Bà Hạnh cho biết thêm :
"Chúng tôi thấy như thế cũng là đủ rồi, không cần thiết phải tạo ra những cuộc bắt bớ nữa, nên là chúng tôi về. Tôi không khẳng định được nếu chúng tôi tiếp tục đứng đấy thì người ta [công an] có bắt hay không. Nhưng trước khi chúng tôi rời khỏi đấy thì thái độ của họ vẫn bình thường".
Thông tin từ một số nhà nghiên cứu có uy tín và các hãng tin lớn trong mấy tuần qua cho hay Trung Quốc điều một tàu khảo sát có nhiều tàu hải cảnh hộ tống tới khu vực Bãi Tư Chính từ ngày 3/7. Bộ Ngoại giao Việt Nam trong những tuần gần đây liên tiếp kêu gọi Trung Quốc rút các tàu đó ra khỏi khu vực này.
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, cũng như một số các quan chức cấp cao trong chính phủ và quốc hội Mỹ đã lên án hành động của Trung Quốc trên Biển Đông, đồng thời bày tỏ ủng hộ đối với Việt Nam giữa lúc vụ đối đầu tại Bãi Tư Chính tiếp diễn.
Tuy nhiên, về mặt đối nội, theo quan sát của VOA, nhà chức trách Việt Nam đang bị giới hoạt động và nhiều người dân chỉ trích trên mạng xã hội vì hầu như không có động thái nào chia sẻ thông tin với người dân về những gì đang diễn ra ở vùng biển có tranh chấp, hoặc đường lối của ban lãnh đạo đảng, nhà nước về vấn đề này là gì.
Hồi tuần trước, ở thời điểm gần tròn một tháng tính từ khi đối đầu về Bãi Tư Chính bắt đầu, vẫn chưa có cuộc biểu tình nào của người dân. Một số nhà hoạt động khi đó nhận định rằng trong các năm trước, người dân từng bày tỏ lòng yêu nước, phản đối Trung Quốc, nhưng đổi lại là sự "ngược đãi" của chính quyền. Vì vậy, giờ đây người dân có thái độ "thờ ơ".
Nhà hoạt động Nguyễn Thúy Hạnh (giữa) cùng bạn bè phản đối các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông, 6/8/2019
Bày tỏ quan điểm về việc tham gia biểu tình trước Đại sứ quán Trung Quốc hôm 6/8, nhà đấu tranh Thảo Teresa viết trên Facebook cá nhân rằng khi thấy Trung Quốc "ngày càng leo thang xâm phạm trắng trợn biển đảo của Việt Nam, bắn giết ngư dân là đồng bào tôi, tôi đã chả thể nào ngồi yên".
Bà Thảo Teresa nhấn mạnh : "Tôi chả quan tâm nhà nước cs [cộng sản] này có muốn chúng tôi biểu tình hay không, cũng chả quan tâm tổ chức hay hội nhóm nào âm mưu toan tính điều gì, tôi chỉ muốn làm theo lương tâm mình mách bảo".
Chung suy nghĩ với bà Thảo, nhà hoạt động Nguyễn Thúy Hạnh chia sẻ với VOA :
"Rất nhiều lần chúng tôi đi biểu tình bị hành hạ, bị bắt bớ, bị làm nhục. Thế nhưng chúng tôi không thể vì thế mà ngồi ở nhà im lặng khi mà Trung Quốc đang giày xéo lên chủ quyền, lãnh hải của Việt Nam. Trước thái độ lúng túng, bất lực của nhà cầm quyền Việt Nam, chúng tôi không thể im lặng".
Giới hoạt động, đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền, tiến bộ xã hội thường bị nhà chức trách và báo chí nhà nước Việt Nam mô tả là những thành phần "phản động", "câu kết với các thế lực thù địch", "xuyên tạc, bôi nhọ" sự lãnh đạo của đảng cộng sản, và "chống phá đất nước".
Nhìn lại cách đối xử của nhà nước với người dân thời gian qua, bà Hạnh đồng ý với quan điểm của một số người hay lên tiếng vì tiến bộ xã hội, như blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh/Mẹ Nấm, danh hài Nguyễn Công Vượng, võ sư kiêm nhà văn Đoàn Bảo Châu, cho rằng lòng yêu nước của nhân dân từng bị chính quyền "làm tổn thương", dẫn tới phản ứng nhất thời từ một số người muốn để mặc cho "đảng, nhà nước tự lo" về việc đối phó với Trung Quốc.
Mặc dù vậy, theo suy nghĩ cá nhân của bà Hạnh, tư tưởng bao trùm trong dân vẫn là "bất cứ con tim yêu nước nào cũng không thể ngồi yên khi đất nước bị dày xéo".
Nhà hoạt động nữ bày tỏ niềm tin vững chắc rằng nếu Trung Quốc "ngang nhiên lấn tới" trong khi nhà cầm quyền Việt Nam "thực sự bỏ mặc, để mất lãnh thổ, lãnh hải", khi đó "người dân sẽ lại xuống đường, người dân sẽ không để yên". Bà Hạnh nói :
"Đấy là truyền thống ngàn đời của người dân Việt Nam. Chính bởi thế mà đất nước hình chữ S này còn tồn tại đến bây giờ".
Đòi hỏi từ giới hoạt động, từ người dân đặt ra lúc này, theo lời nhà hoạt động Nguyễn Thúy Hạnh, là giới lãnh đạo phải thể hiện "thái độ dứt khoát rằng họ có còn coi Trung Quốc là ‘bạn vàng’, họ có còn phụ thuộc vào Trung Quốc, họ có còn ‘đi đêm’ với Trung Quốc hay không".
Gần tròn một tháng kể từ ngày 03/7/2019, khi Trung Quốc cho đoàn tàu hùng hổ vào thăm dò tại Bãi Tư Chính trong thềm lục địa Việt Nam và cứ ở lỳ mãi đó không chịu rút, thậm chí cả khi bị quốc tế lên án.
Sau khi Trung Quốc đưa tàu bè vào xâm lấn vùng lãnh hải Việt Nam tận thềm lục địa, ngày 8/7, Nguyễn Thị Kim Ngân, Chủ tịch quốc hội Việt Nam vẫn cứ tưng tửng đến Trung Nam Hải thăm quan thầy của mình với những hành động cười cợt, giả lả như không có chuyện gì xảy ra
Câu hỏi đặt ra, là vì sao Trung Quốc ngang ngược tiến hành một vụ việc mà nếu quan sát chúng ta sẽ thấy ở đó tư duy bạo lực, bành trướng nước lớn và đối xử trong quan hệ quốc tế theo hình thức "cá lớn nuốt cá bé" trong hoàn cảnh Trung Quốc đang trong cuộc chiến Thương mại với Hoa Kỳ, đối mặt với nhiều thách thức ngay chính trong nước và trên trường quốc tế ?
Chính sách bành trướng của Trung Quốc từ xưa đến nay thì ai ai cũng rõ, cả thế giới đã biết và đúc kết thành kinh nghiệm. Hầu hết các quốc gia láng giềng với Trung Quốc đều đã nếm trải những hành động xâm lược và lấn chiếm từ đời này sang đời khác.
Với dân tộc ta, âm mưu và hành động của kẻ thù dân tộc có truyền thống bành trướng, đã như một sự tất nhiên mà xưa nay cha ông ta trong lịch sử dựng nước và giữ nước đã không coi là chuyện lạ.
Điều mà người ta thấy lo ngại, không hẳn bởi hành động bành trướng xâm lược của Trung Quốc đối với lãnh thổ Việt Nam. Mà chính là thái độ và hành động của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam trước họa xâm lăng, trước vận mệnh của Tổ quốc, trước cơ đồ cha ông để lại sẽ dần dần vào tay bọn xâm lược.
Thông thường, trong mọi cuộc chiến, ý chí và tinh thần đoàn kết là yếu tố có tính chất cốt lõi để mang đến chiến thắng.
Thế nhưng, trong cuộc chiến bảo vệ Tổ Quốc hiện nay, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã thể hiện một tinh thần "Tự thua" rất rõ ràng.
Ngày 2/6/2013, khi chúng tôi đi biểu tình chống Trung Quốc xâm lược và bị nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam bắt vào Trại Lộc Hà, sau khi bằng mọi cách ép chúng tôi lên phòng để "làm việc". Một viên sĩ quan nói : "Các anh nghĩ gì về tình thế hiện nay khi nước ta là nước nhỏ làm sao chống lại Trung Quốc ?" Tôi trả lời : "Chưa bao giờ Việt Nam là đất nước to lớn bên cạnh Trung Quốc, và trong lịch sử, âm mưu bành trướng thôn tính lãnh thổ Việt Nam chưa bao giờ bị từ bỏ. Thế nhưng, trong lịch sử đất nước này, các chế độ chính trị đã qua dù được nhà nước cho là phong kiến thối nát, thực dân xâm lược thì cũng đã động viên được tinh thần yêu nước của người dân. Chính tinh thần yêu nước của người dân đã là cơ sở để bảo vệ chủ quyền đất nước bền vững đến bây giờ. Còn với tình thế này, đất nước này, lãnh thổ này sẽ rơi vào tay giặc là điều chắc chắn".
Viên sĩ quan an ninh hỏi lại : "Tại sao người dân thì yêu nước, chưa chiến tranh mà anh lại nghĩ chúng ta sẽ thất bại ?"
Tôi đáp : "Bởi vì trên đất nước này, chưa bao giờ có một chế độ mà thái độ sợ hãi và nhu nhược đến mức hèn hạ trước thế lực bành trướng như chế độ cộng sản hiện nay. Những cuộc biểu tình hôm nay bị bắt bớ đàn áp, giống như câu chuyện bị láng giềng xâm lấn đất đai, con cái ra phản ứng thì bố mẹ trấn áp, đánh đập và chạy sang hàng xóm để tâng công nịnh bợ kẻ cướp, vậy thì đất đai rơi vào tay hàng xóm là điều hiển nhiên".
Quan sát những ngày qua, người dân đã thấy nhà nước cộng sản Việt Nam đã làm gì trước hành động xâm lăng ?
Trước hết, khi Tổ Quốc bị xâm lăng, người đứng đầu đất nước cần tỏ thái độ hết sức thẳng thắn và coi đó là sự kiện nghiêm trọng hàng đầu. Thế nhưng ở đây, người ta thấy nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã làm điều ngược lại.
Sau khi Trung Quốc đưa tàu bè vào xâm lấn vùng lãnh hải Việt Nam tận thềm lục địa, ngày 8/7, Nguyễn Thị Kim Ngân, người đứng đầu cái gọi là Quốc hội Việt Nam vẫn cứ tưng tửng đến Trung Nam Hải thăm quan thầy của mình với những hành động cười cợt, giả lả như không có chuyện gì xảy ra và thậm chí còn "ăn dầm nằm dề" ở đó cả tuần lễ mà không hề có bất cứ một lời nói nào dám động chạm đến kẻ thù của dân tộc – quan thầy của Đảng cộng sản Việt Nam.
Kế sau đó, 3 tuần sau, từ 21-22/7, Võ Văn Thưởng, ủy viên Bộ chính trị lại tiếp tục sang tận Trung Quốc để tham gia cái gọi là "Hội thảo lý luận" giữa hai Đảng cộng sản.
Như vậy, ít nhất đã có 2 trong số 17 người trong cái gọi là Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam đã khấu đầu trước quan thầy Trung Quốc ngay trong những ngày đất nước đang bị chính Trung Quốc xua quân xâm lược.
Thế rồi Nguyễn Phú Trọng lại lên diễn đàn kêu gọi "Không để người dân, các thế lực thù địch lợi dụng lòng yêu nước của người dân kích động biểu tình…" mà tuyệt nhiên không một lời nói về việc giặc đang xâm lăng bờ cõi.
Điều người ta thấy rất rõ ở những động thái này là : Với Đcộng sản Việt Nam, cơ đồ, lãnh thổ, dân tộc và đất nước không có gì quan trọng bằng chính vị trí cai trị của Đảng cộng sản.
Đảng sẵn sàng bỏ qua tất cả mọi hành động xâm lăng, mọi sự gây hấn, sự xâm lược lãnh thổ, lãnh hải và cuộc sống, tính mạng người dân… Tất cả để tập trung trước hết là sự tồn tại cai trị của đảng.
Quan sát những hành động của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam những ngày qua, chúng ta liên tưởng đến hình ảnh một ông bố nghiện ngập và sa đọa, chỉ biết hút xách và hành hạ vợ con nhằm thỏa mãn thú tính cũng như những nhu cầu bệnh hoạn của mình. Thế rồi hắn bán dần đất đai nhà cửa mà tổ tiên để lại. Khi con cái có ý kiến lập tức hắn dùng roi vọt và bạo lực trấn áp nhằm làm vừa lòng kẻ có mưu đồ ăn cướp gia tài của nhà mình.
Và đám con cái, những người dân thì sao ?
Sau một thời gian dài đảng đẩy họ vào những cuộc gọi là đấu tranh, cách mạng, lao vào chém giết lẫn nhau chỉ nhân danh lòng yêu nước. Những lời đường mật về tinh thần, về lòng yêu nước đã đem lại kết quả là hàng chục, triệu người dân Việt đã bỏ mạng trong những cuộc chiến Nam – Bắc, trong những cuộc chiến với danh nghĩa "Nghĩa vụ quốc tế cao cả", cải cách ruộng đất, cách mạng quan hệ sản xuất, cải tạo… thì kết qủa cuối cùng một hệ thống gông cùm khắc nghiệt, nghiệt ngã nhất đã dành cho họ là hệ thống độc tài cộng sản.
Xương máu của họ, mồ hôi nước mắt và tài sản của họ đổ ra mấy chục năm qua, chỉ nhằm kê cho vững cái ghế độc quyền trên đầu trên cổ người dân Việt Nam nhằm bòn xương, hút máu của họ.
Sau khi cơn bột phát của lòng yêu nước qua đi, nhìn những hành động của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam thời gian qua, người ta thấy nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam tái hiện hình ảnh của gã Mã Giám sinh trong truyện Kiều :
Khi ăn khi nói lỡ làng,
Khi thầy khi tớ xem thường xem khinh.
Khác màu kẻ quý người thanh,
Ngẫm ra cho kỹ như hình con buôn.
Và họ tự rút ra kết luận :
Xem gương trong bấy nhiêu ngày,
Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già.
Và họ biết rằng, lòng yêu nước của họ đã bị lợi dụng và phản bội.
Thế nên, khác với những năm trước đây, khi Tổ Quốc bị xâm lăng, mọi người dân bất chấp đàn áp, bỏ tù hoặc đánh đập để xuống đường biểu tình, phản đối hành động xâm lăng của Trung Cộng. Ngày nay, dù báo chí chỉ đích danh Trung Quốc xâm lược, thậm chí báo đảng còn hô hào : "Huy động toàn dân bảo vệ chủ quyền và phẩm giá dân tộc", thì người dân vẫn hiểu rằng chẳng có dân tộc nào được bảo vệ ở đó, chẳng có phẩm giá nào trong ý niệm của người Cộng sản.
Bởi cái sẽ được bảo vệ, chính là cái ngai vàng của đảng đang trở thành gông cùm của cả dân tộc.
Và họ dửng dưng trước việc đất nước bị xâm lăng như chẳng có điều gì xảy ra.
Và đó là thành công lớn nhất của Đảng cộng sản trong chương trình "Bán nước đúng quy trình".
JB Nguyễn Hữu Vinh
Nguồn : RFA, 01/08/2019
Bãi Tư Chính : Tranh chấp song phương hay đa phương và Việt Nam cần làm gì ?
Trương Nhân Tuấn, BBC, 29/07/2019
Trên BBC có bài phỏng vấn ông Ngô Vĩnh Long, giáo sư đại học Maine ở Mỹ. Giáo sư Long cho rằng "Việt Nam thua ở bãi Tư Chính", mà nguyên nhân là vì Việt Nam không "đa phương hóa Biển Đông". Đây là điều mà Giáo sư Long cho rằng ông đã đã cảnh báo Việt Nam "từ mười mấy năm nay". Dẫn nguyên văn :
Tàu hải cảnh Trung Quốc trong vụ giàn khoan HD-981 hồi năm 2014
"Họ (Trung Quốc) muốn đây là vấn đề song phương, mà vấn đề song phương thì các nước khác không được dính líu vào. Chỉ là giữa Trung Quốc với Việt Nam thôi. Thì vấn đề này Việt Nam phải suy nghĩ, vì trong mười mấy năm qua chúng tôi nói là Việt Nam phải cố gắng đa phương hóa vấn đề Biển Đông".
Điều đáng tiếc là trong bài phỏng vấn, Giáo sư Long đã không cắt nghĩa để độc giả hiểu thế nào là "đa phương hóa tranh chấp ở Biển Đông", đặc biệt ở bãi Tư Chính.
Tranh chấp Tư Chính bắt nguồn từ tranh chấp chủ quyền
Vụ bãi Tư Chính, phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao của cả hai bên lên tiếng phản đối nhau, nội dung xét ra không khác chi nhiều.
Phía Trung Quốc ra tuyên bố : "Việt Nam phải nghiêm túc tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc đối với các vùng lãnh hải liên quan và không có bất kỳ hành động nào làm phức tạp tình hình".
Phía Việt Nam ra tuyên bố : "Việt Nam có chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển ở Biển Đông được xác định theo đúng các quy định của Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 mà Việt Nam và các nước ở Biển Đông đều là thành viên".
Tranh chấp ở Bãi Tư Chính vì vậy là có nguồn gốc từ tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ (chống lấn hải phận, tranh chấp quyền tài phán v.v…).
Câu hỏi đặt ra cho Giáo sư Long là làm thế nào để "đa phương hóa" một tranh chấp vốn có nguồn gốc lâu đời từ "tranh chấp về chủ quyền" ?
Theo tôi Biển Đông có rất nhiều vấn đề, vừa "đa phương" vừa "song phương".
Việc các quốc gia chung quanh Biển Đông phải tôn trọng quyền tự do hải hành của tàu bè các nước là vấn đề "đa phương". Việc các nước ASEAN cùng Trung Quốc thảo luận bộ "qui tắc ứng xử - COC" ở Biển Đông là một vấn đề "đa phương".
Trung Quốc sử dụng nhiều phương tiện khác nhau, trong đó có các tàu 'nghiên cứu' Hải Dương Địa Chất, đưa vào các khu vực đang có tranh chấp ở Biển Đông và khu vực
Tôi không nghĩ tranh chấp Tư Chính sẽ được giải quyết trong khuôn khổ "quyền tự do hải hành" hay theo nội dung "tuyên bố ứng xử COC".
Các việc "song phương",chỉ có thể giải quyết bằng thiện chí giữa hai nước, như việc phân định hải phận giữa hai quốc gia kế cận, hay đối diện trên Biển Đông.
Việt Nam phân định biển với Thái Lan, Malaysia... Việt Nam nộp chung hồ sơ "thềm lục địa mở rộng" với Malaysia… là các vấn đề "song phương", không quốc gia nào có thể "xen vào".
Mọi tranh chấp về "chủ quyền" ở một vùng lãnh thổ đều được giải quyết giữa các bên "có yêu sách chủ quyền". Tranh chấp này có thể được "quốc tế hóa", phân xử bằng một trọng tài quốc tế, như Tòa án Công lý Quốc tế.
Việc phân định biển giữa hai quốc gia chỉ có thể được "quốc tế hóa", tiên khởi với sự đồng thuận của hai bên, bằng một tòa án, hay một trọng tài quốc tế, nếu hai bên tranh chấp không tìm được thỏa thuận trong việc phân định. Bất kỳ quốc gia thứ ba can dự vào các việc này đều có thể qui vào việc vi phạm Hiến chương Liên Hiệp Quốc "không được can dự chuyện nội bộ quốc gia khác".
Tranh chấp Tư Chính : "Đa phương" hay "song phương" ?
Ta hãy xét những hành vi của tàu nghiên cứu địa chất của Trung Quốc đã (và đang) diễn ra ở bãi Tư Chính và lô 6.1.
Bãi Tư Chính Trung Quốc đặt tên là Vạn An Bắc, bao gồm các lô 133, 134, 135, 136, 157, 158, 159 trên "bản đồ dầu khí" của Việt Nam.
Toàn bộ khu vực Tư Chính nằm trong thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam, tính từ điểm cơ bản "Hòn Hải" thuộc cụm đảo Phú Quí.
Trung Quốc phản đối hệ thống điểm (và đường) cơ bản của Việt Nam, vì nó cách xa bờ. Giả sử Việt Nam từ bỏ hệ thống điểm cơ bản, điểm tính bề rộng hải phận 200 hải lý lấy từ ngấn nước cận bờ thì Bãi Tư Chính có một phần nằm ngoài khu vực 200 hải lý.
Lô 6.1 nằm ngoài khu vực Vạn An Bắc, thuộc bãi trầm tích Nam Côn Sơn, hoàn toàn nằm trong thềm lục địa tự nhiên (và pháp lý) của Việt Nam. Lô này hiện do công ty dầu khí lớn nhứt nước Nga là Rosneft khai thác (và phát triển) từ năm 2013 với 2 mỏ Lan Tây, Lan Đỏ. Trước đó lô 6.1 do BP khai thác, từ 2003 đến 2010 (BP rút lui do sức ép kinh tế của Trung Quốc).
Ngay cả khi đặt giả thuyết đảo Côn Sơn không đủ tiêu chuẩn "đảo" theo Điều 121 UNCLOS và Hòn Hải (thuộc cụm đảo Phú Quí) không có tiêu chuẩn để lấy làm "điểm cơ bản", thì lô 6.1 vẫn nằm trong vòng 200 hải lý, tính từ bờ biển Việt Nam (Trà Vinh hay Phan Thiết). Ghi lại các chi tiết này để thấy mọi yêu sách của Trung Quốc chống lại Việt Nam tại lô 6.1 là ngang ngược, phi lý.
"Bản chất" của tranh chấp khu vực Tư Chính là gì tại lô 6.1 là gì ?
Thứ nhứt, ở Bãi Tư Chính, nguyên nhân tranh chấp có thể đến từ sự đối nghịch lập trường giữa Việt Nam và Trung Quốc về việc giải thích nội dung của Luật Biển 1982, như việc giải thích hiệu lực các đảo Trường Sa theo điều 121.
Trung Quốc cho rằng họ có chủ quyền các đảo Trường Sa mà các đảo này có hiệu lực "đảo". Khu vực Tư Chính nằm trong vùng "chồng lấn" giữa các đảo Trường Sa và bờ biển Việt Nam.
Việc này vốn "song phương", đã được giải quyết bằng "quốc tế hóa", trong phán quyết của Tòa Trọng tài 11/7/2016 trong vụ Philippines kiện Trung Quốc, theo đó không có đảo nào ở Trường Sa có hiệu lực "đảo" để có 200 hải lý hải phận kinh tế độc quyền và thềm lục địa.
Thứ hai, tranh chấp Tư Chính có thể đến từ sự áp đặt về "chủ quyền lịch sử" của Trung Quốc, thể hiện qua bản đồ chữ U 9 đoạn.
Khu vực Tư Chính nằm trong vùng "chồng lấn" giữa "vùng nước lịch sử" (bản đồ chữ U) của Trung Quốc và vùng biển đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam tính từ bờ. Đây là một vấn đề vốn "song phương" nhưng đã giải quyết bằng "quốc tế hóa" qua phán quyết của Tòa Trọng tài 11/7/2016 nêu trên.
Theo phán quyết, Tòa cho rằng "biển lịch sử" hay "chủ quyền lịch sử" thể hiện trong bản đồ chữ U là các khái niệm không phù hợp với Luật Biển 1982.
Thứ ba, nếu Trung Quốc không nhìn nhận hệ thống điểm (và đường) cơ bản thì Bãi Tư Chính vẫn nằm trong thềm lục địa pháp lý của Việt Nam (thềm lục địa mở rộng 200+100 hải lý), còn lô 6.1 hoàn toàn nằm trong thềm lục địa địa lý và pháp lý (200 hải lý) của Việt Nam.
Như vậy, bản chất tranh chấp ở bãi Tư Chính là Trung Quốc "ngồi xổm" lên luật lệ, bất chấp phán quyết ngày 11/7/2016 của Tòa Trọng tài. Nội dung phán quyết có mục đích giải thích việc áp dụng Luật Biển 1982 tại Biển Đông. Bản thân của phán quyết vì vậy cũng là "Luật".
Tòa cũng phán rằng các bãi chìm ở Trường Sa, như Bãi Tư Chính, thuộc về thềm lục địa của quốc gia ven bờ (tức của VN). Chúng không phải là đối tượng lãnh thổ để chiếm hữu hoặc tuyên bố chủ quyền.
Trung Quốc cũng bất chấp thực tế pháp lý và lịch sử là Quần đảo Trường Sa chưa bao giờ thuộc về Trung Quốc.
Như vậy tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc ở khu vực Tư Chính là tranh chấp vừa "song phương" vừa có tính "quốc tế".
"Song phương" vì Việt Nam là nạn nhân của thái độ bành trướng ngang ngược, bá quyền ngồi trên luật của Trung Quốc. "Quốc tế" là vì mọi vấn đề liên quan đến việc "tuân thủ luật lệ" thuộc thẩm quyền của tất cả các quốc gia thuộc Liên Hiệp Quốc.
Nhưng ở lô 6.1 thì tuyệt đối không có tranh chấp chi cả.
Trung Quốc "đẩy" Việt Nam cái gì ?
Giáo sư Long có đề cập đến việc tự do thông lưu ở Biển Đông và trường hợp Đài loan để "minh họa" cho nội hàm "đa phương hóa" của mình. Dẫn nguyên văn :
"Là bởi vì nhiều nước trên thế giới đi ngang Biển Đông, nhưng Việt Nam lại rụt rè. Thành ra, Trung Quốc bây giờ càng ngày càng đẩy. Trung Quốc đẩy rất là 'hay', không những ở Biển Đông mà cả ở Đài Loan nữa. Họ đẩy từ từ.
"Ví dụ như Đài Loan, ngày xưa, thỏa thuận giữa Mỹ và Trung Quốc nói rằng là người Trung Quốc ở Đài Loan và người gốc Trung Quốc ở Đài Loan và người Trung Quốc ở lục địa đồng ý là chỉ có một nước Trung Quốc, không có nói gì vấn đề là Đài Loan thuộc về Trung Quốc".
"Nhưng Trung Quốc đẩy từ từ, bây giờ nói là Đài Loan là một tỉnh của Trung Quốc…"
Hết dẫn.
Mục đích "đa phương hóa" của Giáo sư Long, (nếu không lầm), là làm giảm sức "đẩy" của Trung Quốc.
Nhận định của cá nhân tôi, vấn đề "tàu bè nhiều nước qua lại trên Biển Đông" là một "vấn đề quốc tế", thuộc về tập quán quốc tế (Thông luật quốc tế - Droit International Coutumier), được cụ thể hóa qua điều 87 của bộ Luật quốc tế về Biển 1982.
Không ai "đa phương hóa" một vấn đề tự nó đã là một "vấn đề của quốc tế".
Về tự do thông lưu, trên không và trên biển, các đại cường như Mỹ, Pháp, Nhật… cho rằng hải đạo xuyên qua Biển Đông là một hải đạo quốc tế, các quốc gia cận biển phải tôn trọng quyền tự do thông lưu của các quốc gia khác.
Trung Quốc chủ trương "tự do thông lưu", tàu bè được tự do qua lại trong lãnh hải cũng như hải phận kinh tế độc quyền EEZ của Trung Quốc, nhưng điều này không áp dụng cho tàu chiến. Các quốc gia như Mỹ không chia sẻ lập trường này của Trung Quốc, như tại eo biển Đài loan, hay những vùng Trung Quốc mở rộng theo bản đồ chữ U ở Biển Đông.
Trên nguyên tắc, quyền tự do thông lưu thuộc về mọi quốc gia và quyền này được "luật quốc tế" bảo đảm. Mọi hành vi cản trở quyền tự do này đều xâm phạm đến lợi ích của tất cả các quốc gia khác.
Quyền tự do thông lưu trên Biển Đông thực tế chưa bao giờ bị cản trở.
Lo ngại chỉ bắt đầu dấy lên từ khi Trung Quốc hoàn tất việc xây dựng 7 đảo nhân tạo đồng thời "quân sự hóa" chúng (đầu năm 2018). Tuyên bố "vùng nước lịch sử" của Trung Quốc ở Biển Đông qua bản đồ chữ U 9 đoạn có thể đưa vào thực tế. Các quốc gia "nhỏ" chung quanh Biển Đông có nguy cơ bị Trung Quốc sử dụng áp lực kinh tế và quân sự buộc phải nhìn nhận thực tế này.
Để chống lại tham vọng của Trung Quốc, năm 2013 nội các Obama thành lập Chương trình FONOP (Freedom Of Navigation Operation Program) ở Biển Đông nhằm bảo vệ quyền tự do hàng hải và hàng không.
Các chiến hạm Mỹ đã thực hiện chương trình FONOP, có lần đi qua lãnh hải 12 hải lý các đảo thuộc Hoàng Sa như đảo Phú Lâm và đảo Tri Tôn (USS Wilbur Curtis tháng giêng 2016, USS Stenthem tháng 7/2017) nhằm thách thức yêu sách "lãnh hải" và "vùng nước quần đảo" của Trung Quốc tại Hoàng Sa.
Các chiến hạm của Mỹ cũng thực hiện FONOP qua các chuyến đi vào khu vực 12 hải lý những đảo nhân tạo thuộc Trường Sa như đá Chữ Thập (USS W.P. Lawrence tháng 5/2016) , đá Gaven (USS Decatur tháng 9/2018)... nhằm thách thức yêu sách phi lý của Trung Quốc về hải phận của một cấu trúc nhân tạo trên biển.
Về hàng không thì phi cơ dọ thám Poseidon đã bay ngang qua đá Chữ thập để thách thức không phận đảo nhân tạo này (tháng 5/2015)...
Các quốc gia lo ngại rằng, với các bộ luật quốc gia của Trung Quốc hạn chế đáng kể các hoạt động của tàu bè trong một vùng "biển quốc tế", Trung Quốc có thể đơn phương ra tuyên bố vùng nước, vùng trời (như tuyên bố vùng Nhận dạng phòng không ADIZ) khu vực Biển Đông. Mọi phương tiện bay qua không phận Biển Đông, hoặc tàu bè qua lại trên Biển Đông đều phải thông báo hoặc xin phép Trung Quốc.
Vì vậy ta có thể hy vọng rằng chương trình FONOP của hải quân Mỹ vẫn được tiếp tục (mà không lo ngại rằng nội các Tổng thống Donald Trump sẽ bãi bỏ vì lý do "kinh tế" hay trao đổi lợi ích với Trung Quốc).
Hiển nhiên chương trình FONOP của Mỹ trong chừng mực là "quốc tế hóa", "đa phương hóa" Biển Đông mà Việt Nam là một bên có lợi.
Giải pháp nào cho tranh chấp Tư Chính ?
Theo tôi, sở dĩ có những vấn đề như Tư Chính hiện nay, nguyên nhân là do Trung Quốc không tuân thủ luật chơi quốc tế.
Nhiều người gợi ý Việt Nam copy hồ sơ của Philippines để đi kiện Trung Quốc.
Theo tôi, khó khăn của Việt Nam là làm thế nào để phán quyết của Tòa Trọng tài có hiệu lực chớ không phải đi kiện Trung Quốc với mô hình (hồ sơ) của Philippines.
Đi kiện (theo mô hình của Philippines) Việt Nam chắc phần thắng, nhưng hệ quả vẫn là một phán quyết y như phán quyết của Tòa tháng 7/2016.
Trung Quốc không tham gia, không nhìn nhận thẩm quyền của Tòa và dĩ nhiên không công nhận phán quyết của Tòa.
Việt Nam cần phải có "tư duy mới" và cách tiếp cận mới trong những vấn đề Biển Đông.
Mới đây viên chức Mỹ tố cáo Tập Cận Bình đã "bội ước" trong lời hứa "không quân sự hóa các đảo ở Biển Đông".
Theo nội dung bài báo trên VOA ngày 30/5/2019, Tướng Joseph Dunford, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ, nhân phát biểu trong một cuộc trao đổi về quốc phòng ở Viện Brookings tại thủ đô Washington nói rằng : "Mùa thu năm 2016, Chủ tịch Tập Cận Bình đã hứa với Tổng thống Obama là họ sẽ không quân sự hóa các hòn đảo [ở Biển Đông]. Nhưng những gì chúng ta chứng kiến ngày hôm nay đó là các đường băng dài 10 nghìn bộ [hơn 3 nghìn mét], các kho chứa đạn dược, việc thường xuyên triển khai thiết bị có khả năng phòng thủ tên lửa, khả năng hàng không, v.v…".
"Vì thế, rõ ràng họ đã từ bỏ cam kết đó".
Hôm 11/7, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Mỹ, bà Morgan Ortagus, ra tuyên bố lên án Trung Quốc : "việc Trung Quốc quân sự hóa các tiền đồn tại vùng đang tranh chấp ở Biển Đông đã phản bội cam kết năm 2015 của chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình là không tiến hành những hoạt động đó".
Ý kiến của Tập Cận Bình có thể trở thành một "tuyên bố đơn phương" có giá trị pháp lý ràng buộc.
Việt Nam cần đứng đầu trong việc phát động phong trào phản đối, buộc họ Tập tuân thủ lời hứa, Biển Đông phải "phi quân sự" thì các quốc gia chung quanh mới có thể tránh được áp lực gay gắt từ Trung Quốc.
Ngoài ra ta không thể loại trừ giả thuyết ý đồ của Tập Cận Bình khẳng định sự hữu dụng của việc xây dựng 7 đảo nhân tạo. Những chiếc tàu hải cảnh quấy rối Việt Nam đều có ghé qua các đảo Chữ Thập và Subi để lấy nhiên liệu.
Báo South China Morning Post hôm đầu tháng có bài viết nội dung trích dẫn ý kiến của khoa học gia Trung Quốc, cho rằng Trung Quốc đã không nghiên cứu kỹ về địa chất và thời tiết khi xây dựng các đảo nhân tạo. Kiến trúc bằng bê tông ở các đảo này bị hư hỏng sau ba năm (do tia tử ngoại) và khí tài bằng kim khí bị rỉ sét (vì nước biển) sau một năm. Riêng năm 2014 Trung Quốc đã phải chi phí 300 tỉ đô la, tương đương 3% GDP cho việc bảo trì gây ra từ việc rỉ sét (tàu bè, súng đạn, máy móc…).
Nếu các con số này là "sự thật" thì chi phí bảo trì cho các đảo nhân tạo cực kỳ lớn. Các đảo thay vì là các "tiền đồn trên biển" của Trung Quốc nhằm mục đích khẳng định chủ quyền thì trở thành những "cục nợ" mà Tập Cận Bình là thủ phạm.
Việt Nam không thể loại trừ viễn cảnh Trung Quốc sẽ cho tàu bè quấy rối Việt Nam lâu dài và thường xuyên. Tập Cận Bình không chỉ muốn chứng minh cho phe chống đối thấy rằng các đảo nhân tạo hỗ trợ đắc lực cho tàu hải cảnh cản trở công tác khai thác ở lô 6.1, hay các tàu thăm dò địa chấn ở bãi trầm tích Tư Chính (như đã thấy). Mà về lâu về dài, các vị trí quân sự đóng ở các đảo này sẽ can thiệp nhanh chóng để bảo vệ (trong tương lai) các giàn khoan của Trung Quốc hoạt động trong khu vực.
Vì vậy công tác hô hào "Tập Cận Bình phải giữ lời hứa không quân sự hóa các đảo Biển Đông" còn có hiệu quả làm giảm nhịp điệu gây hấn của Trung Quốc.
Nhưng quan trọng hơn cả là làm sao để Trung Quốc tuân thủ luật lệ quốc tế. Phán quyết ngày 11/7/2016 của Tòa Trọng tài thường trực có nội dung diễn giải và hướng dẫn cách thức áp dụng luật Quốc tế về Biển 1982 cho khu vực Biển Đông. Phán quyết vì vậy "cũng là Luật".
Việt Nam thua ở Bãi Tư Chính ?
Giáo sư Long nói "Việt Nam thua ở bãi Tư Chính".
Nói vậy theo tôi là hơi sớm. Thực tế đến nay Trung Quốc chưa "hút" được lít dầu nào ở khu vực này. Điều ta cần tìm hiểu là đàng sau vụ Tư Chính có những chuyện gì xảy ra.
Nếu ta nhớ lại vụ chiếc HD981 năm 2014 hoạt động ngoài khơi đảo Lý Sơn, Trung Quốc cũng không "hút" được lít dầu nào ở khu vực này.
Vấn đề là song song với "biến cố HD981" Trung Quốc cho xây dựng 7 đảo nhân tạo.
Việc Trung Quốc quân sự hóa 7 đảo nhân tạo (vốn chiếm của Việt Nam năm 1988) đã đe dọa an ninh quốc gia Việt Nam cũng như an ninh toàn khu vực.
Nhưng đó vẫn là "nghi vấn". Điều cần thiết, theo tôi Giáo sư Long cần giải thích thêm về nội hàm "quốc tế hóa tranh chấp Biển Đông", đặc biệt trong trường hợp hiện nay Việt Nam và Trung Quốc ở vùng Tư Chính. Điều này sẽ giúp cho giới học giả Việt Nam về Biển Đông thêm cơ hội nghiên cứu để đóng góp vào công cuộc bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ cũng như quyền và lợi ích của Việt Nam ở hải phận EEZ và thềm lục địa của đất nước mình.
Trương Nhân Tuấn
Nguồn : BBC, 29/07/2019
*********************
Bãi Tư Chính – Việt Nam chưa mất đã thua
Thiên Điểu, VNTB, 29/07/2019
"Sự im lặng của người dân đã lọt vào bẫy đúng kịch bản mà Trung quốc mong muốn nhất, đồng thời chỉ ra nguy cơ "chưa đánh đã thua" của chính quyền Việt Nam ít nhất là trên khía cạnh chính trị".
Việc Trung quốc đưa tàu Hải Dương địa chất 8 vào thăm dò ở bãi Tư Chính là khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam đang đặt ra nhiều khả năng nguy hiểm. bản chất của vụ việc là hành vi công khai xâm lược của Trung quốc nhưng đến nay diễn biến vẫn tiếp tục có chiều hướng gia tăng thế đối đầu cho đến khi một bên phải chấp nhận rút lui hoàn toàn. Hành vi xâm lược của Trung quốc không có gì phải bàn cãi, nhưng hành xử của phía chính quyền Việt Nam và thái độ của người dân cho thấy trong vụ việc này Việt Nam đã thua – ít nhất là trên khía cạnh chính trị.
Quay lại thời điểm 2012, khi Trung quốc đưa tàu tới bãi cạn Scarborough do Philippin chiếm giữ. Chính quyền của Philippin đã ngay lập tức có nhiều động thái phản ứng mạnh mẽ về mặt chính trị. Đỉnh điểm là việc khởi kiện Trung quốc ra Tòa án quốc tế và thằng kiện. đây là một chiến thắng pháp lý có ý nghĩa tuyệt đối về mặt chính trị trong vụ tranh chấp chủ quyền tương tự vụ bãi Tư Chính của Việt Nam hiện nay. Dù thua kiện nhưng Trung quốc vẫn đang duy trì kiểm soát khu vực bãi cạn Scarborough, phía Philippin vẫn đang phải tiếp tục đối mặt những thách thức với Trung quốc về xác lập chủ quyền trên thực tế ở Scarborough. Nói cách khác là Philippin chỉ cầm giữ Trung quốc lấn thêm sau phán quyết của Tòa án quốc tế chứ không giành lại được chủ quyền ở khu vực này.
Nguyên nhân chính do cả yếu tố chủ quan và khách quan : Về chủ quan, chính thái độ "xoay chiều" liên tục của chính quyền do Tổng thống Durante đã khiến quốc tế dần quay lưng với vấn đề Scarborough của Philippin. Dư luận và các chính phủ từng ủng hộ Philippin khi khởi kiện Trung quốc đã không còn ủng hộ mạnh mẽ sau những phát biểu và hành động bất nhất của Durate trong quan hệ với Trung quốc sau khi thắng kiện. Đồng minh quan trọng nhất của Philippin dưới thời của Tổng thống Obama vốn đã không mấy cứng rắn trong việc đối ngoại cũng đã im lặng vì thất bại trong thỏa thuận mở lại căn cứ quân sự ở Philippin đã bị chính Tổng thống Durante đóng cửa trước đó. Tất nhiên Mỹ không dại dội nhúng tay vào xung đột khi can thiệp cho một đồng minh đang bắt tay với chính kẻ xâm lược và thọc dao vào hông mình.
Trở lại vụ việc của Việt Nam. Trở lại thời điểm năm 2014. Sau khi bao vây, lấn chiếm bãi cạn Scarborough, đầu tháng 2/2014, Trung quốc đã đưa tàu Hải dương 981 vào thăm dò trong phạm vi thềm lục địa của Việt Nam. Vụ việc cũng được truyền thông mạng xã hội phát hiện từ thông tin từ kênh nước ngoài đăng tải. Sau đó đã thổi bùng lên những cuộc biểu tình của người dân khắp Bắc-Trung-Nam. Do thiếu kinh nghiệm, lại bị cuốn theo đạo diễn của thành phần giấu mặt, cuộc biểu tình đã xuất hiện một số tình huống bạo lực. Tuy vậy, chính thái độ của người dân đã truyền tải cho cả chính quyền Việt Nam lẫn Trung quốc một thông điệp rất rõ ràng : Nếu không rút giàn khoan 981 thì xảy ra chiến tranh là không tránh khỏi ! Kết quả sau hơn 2 tháng Trung quốc đã phải rút về nước.
Lòng dân đã giúp chế độ giành lại thế thắng trong tranh chấp chủ quyền năm 2014 là không thể chối cãi. Nhưng chính quyền Việt Nam sau đó đã bị một điểm lùi nghiêm trọng trong hành xử với người dân đã xuống đường biểu tình. Nếu nói việc xét xử những người biểu tình có hành vi quá khích như đốt, đập phá tài sản là việc "nhạy cảm" nhưng cần làm trên tinh thần pháp luật là có thể chấp nhận thì việc chính quyền Việt Nam bắt giữ, đánh đập nhiều người khác, truyền thông được Tuyên giáo bật đèn để qui chụp tất cả những người tham gia biểu tình chống Trung quốc là "phản động" là "đi biểu tình được 300.000 đồng" … đã khiến người dân nhìn vào chế độ bằng con mắt vừa nghi ngờ, vừa ác cảm. Nó là nguyên nhân chính dẫn đến lần này, Trung quốc đưa tàu Hải Dương địa chất 8 vào sâu hẳn trong vùng thềm lục địa Việt Nam ở bãi Tư Chính với sự tống của tàu quân sự còn nghiêm trọng hơn cả vụ tàu HD 981 năm 2014 rất nhiều nhưng người dân chỉ biểu thị quan điểm trên mạng xã hội. Không có bất cứ lời kêu gọi biểu tình hay động thái nào khác, thậm chí có người bày tỏ rõ quan điểm "để xem nhà nước xử thế nào" (!).
Vụ Trung quốc xâm phạm chủ quyền ở bãi Tư Chính được mạng xã hội cập nhật từ các kênh quốc tế. Truyền thông nhà nước đã im lặng hoàn toàn hơn 10 ngày kể từ khi vụ việc xảy ra. Mặt khác, ngay chính trong khi Trung quốc đưa tàu xâm phạm chủ quyền Việt Nam thì đương kim Chủ tịch Quốc hội đi thăm, làm việc tại Trung quốc đã không có bất cứ động thái hay phát ngôn nào liên quan ; 15 ngày từ khi Trung quốc xâm phạm bãi Tư Chính, thông tin "tàu Haiyang Dizhi 8 đã rút về " được tung ta tuy không xác định được nguồn nhưng rõ ràng là một âm mưu truyền thông nhằm "rút lửa" những ai quan tâm trong khi thực tế tàu Hải Dương địa chất 8 vẫn đang thăm dò, Trung quốc vẫn đang tăng thêm số lượng tàu quân sự trong khu vực bãi Tư Chính.
Một phát biểu của ông Nguyễn Phú Trọng – đương kim Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước – cũng được đem ra mổ xẻ khi chỉ đạo "đề phòng sự lợi dụng của các thế lực thù địch" trước khi truyền thông nhà nước được bật đèn để "kêu gọi toàn dân đoàn kết chống lại mưu đồ xâm phạm chủ quyền Việt Nam của Trung quốc" ; các chi tiết về diễn biến cũng như hành động của quân đội Việt Nam không hề được đưa ra trong khi thông tin một phái đoàn quân sự cấp cao của Việt Nam lại lên đường sang Trung quốc "thảo luận về hợp tác trên biển Đông".. Tất cả những thông điệp ấy đã dẫn đến sự im lặng lạnh lẽo, đầy rủi ro cho bài toán chính trị liên quan.
Chưa có dấu hiệu nào cho thấy sẽ có một kết quả tốt đẹp cho Việt Nam. Nhưng chính việc im lặng của người dân đang cho thấy sự thất bại rõ ràng về mặt chính trị của chế độ. Hậu quả của nó cũng sẽ dẫn đến chính quyền Việt Nam khó tìm được sự ủng hộ của quốc tế khi muốn đấu tranh với Trung quốc bằng giải pháp ngoại giao và quan hệ quốc tế. trong trường hợp phải sử dụng biện pháp quân sự để bảo vệ chủ quyền thì cũng sẽ không có cơ sở nào để khẳng định người dân sẽ tham gia hay ủng hộ mạnh mẽ trước động thái như vậy. điều này cũng khiến cho chính quyền Việt Nam cũng khó mà "mạnh miệng" khi tìm kiếm giải pháp hòa bình với Trung quốc. điều này cũng đương nhiên tạo ra lợi thế cho Trung quốc khi "yên tâm" gia tăng các áp lực và hành động xâm phạm chủ quyền Việt Nam.
Sự im lặng của người dân đã lọt vào bẫy đúng kịch bản mà Trung quốc mong muốn nhất, đồng thời chỉ ra nguy cơ "chưa đánh đã thua" của chính quyền Việt Nam ít nhất là trên khía cạnh chính trị.
Thiên Điểu
Nguồn : VNTB, 29/07/2019
*******************
Sau Haiyang Dizhi 8, Trung Quốc sẽ làm gì ?
Tâm Don, VNTB, 29/07/2019
Đó là một tương lai có thể diễn ra nếu Việt Nam rụt rè và nhút nhát. Nếu tương lai đó diễn ra, Việt Nam sẽ mất 67 lô dầu khí nằm trọn trong đường lưỡi bò- đường chín đoạn do Trung Quốc ngang ngược vẽ ra. Đó sẽ là môt mất mát quá lớn, quá đau đớn và chua xót.
Việt Nam nên tiên liệu tương lai gần của bãi Tư Chính, lô 06.01 và hai lô 136-03, lô 07.03 để có các kịch bản ứng phó có hiệu quả đối với kẻ cướp biển Trung Quốc !
Trong tương lai gần, Trung Quốc sẽ làm gì ở bãi Tư Chính, lô 06.01, lô 136.03 và lô 07.03 ? Đó là một câu hỏi cần được đặt ra.
Vào năm 2017 và năm 2018, Việt Nam đã yêu cầu Repsol ngưng triển khai dự án dầu ở hai lô 136.03 và lô 07.03, chấp nhận mất mát về kinh tế và mất mát về chủ quyền.
Trong tháng 6 và tháng 7/2019, Trung Quốc cho tàu Haiyang Dizhi 8 vào hoạt động địa chấn tại bãi Tư Chính ( Vanguard Bank) và tàu hải cảnh quấy rối tại lô 06.01 thuộc thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Việt Nam đã có động thái phản ứng. Phản ứng này yếu ớt hay khá mạnh mẽ, vẫn là câu hỏi mà cộng đồng mạng chưa có câu trả lời thỏa đáng. Và đây có phải là phản ứng của một kẻ không thể chịu đựng thêm được nữa, không muốn mất mát thêm được nữa ? Rất khó có câu trả lời khi mà chính quyền Việt Nam luôn không công khai và minh bạch về tất cả các vấn đề nóng bỏng, kể cả vấn đề chủ quyền. Mọi diễn giải, mọi phân tích, mọi bình luận đều chỉ là võ đoán, suy đoán, suy diễn và thuyết âm mưu.
Trung Quốc luôn trung thành với chiến lược độc chiếm biển Đông theo cách tằm ăn dâu, theo cách mềm nắn rắn buông. Chắc chắn một điều rằng, phía Trung Quốc sẽ nghiên cứu cẩn thận các hình thức phản đối của Việt Nam trong vụ bãi Tư Chính và lô 06.01 nhằm xác định sự phản đối này nằm ở cấp độ nào : nhẹ nhàng, chiếu lệ hay mạnh mẽ, kiên quyết. Nếu Trung Quốc xác định sự phản đối của Việt Nam là mạnh mẽ và kiên quyết, Trung Quốc sẽ tạm thời để yên cho bãi Tư Chính và các lô nói trên. Nếu Trung Quốc xác định sự phản đối này nhẹ nhàng- chiếu lệ, Trung Quốc chắc chắn sẽ có những bước đi ngang ngược hơn ở lô 136.03, 07.03, bãi Tư Chính và lô 06.01 như hạ đặt giàn khoan để khoan thăm dò dầu khí ở các lô này và bãi Tư Chính, và sau đó là tiến hành triển khai các dự án khai thác dầu và khí. "Với Trung Quốc, khi yếu tố chính trị được đặt cao hơn yếu tố hiệu quả kinh tế, chỉ mất khoảng hai năm thăm dò địa chấn và minh giải tài liệu 3D hoặc 4C, Trung Quốc có thể triển khai ngay các giàn khoan khai thác dầu khí ở các lô này và bãi Tư Chính", một chuyên gia dầu khí ở Vũng Tàu nói với VNTB.
Sáng ngày 28/7, một tiến sĩ chuyên ngành địa chất dầu khí biển có 30 năm làm việc trong ngành công nghiệp khai thác dầu khí Việt Nam đề nghị dấu tên trao đổi với VNTB rằng, căn cứ vào sơ đồ đường đi của tàu Haiyang Dizhi 8 được truyền thông công bố, có thể xác định chắc chắn rằng, tàu Haiyang Dizhi đang sử dụng công nghệ 3D để thăm dò địa chấn. Vị tiến sĩ này cho biết, tàu Haiyang Dhizhi 8 phải mất ít nhất hai tháng cho việc thăm dò địa chấn ở bãi Tư Chính. Sau khi kết thúc thăm dò địa chấn, các chuyên gia của Trung Quốc phải mất từ 11 đến 12 tháng để minh giải tài liệu địa chấn thu được dù được trợ giúp từ những phần mềm chuyên dụng. Minh giải tài liệu địa chấn nhằm xác định các cấu trúc có khả năng chứa dầu, không có khả năng xác định trữ lượng dầu và khí. Sau khi xác định được các cấu trúc có khả năng chứa dầu mới triển khai khoan thăm dò nhằm xác định chính xác trữ lượng dầu và khí để đưa ra quyết định có khai thác thương mại hay không.
Vị tiến sĩ này cũng cho biết, rất khó để khẳng định dữ liệu địa chấn thu được của tàu Haiyang Dizhi 8 có chính xác hay không, vì rằng hoạt động của tàu này có thể bị nhiễu hoặc bị gây nhiễu. Nếu bị nhiễu hoặc bị gây nhiễu, dữ liệu mà Haiyang Dizhi 8 thu được hoàn toàn không khả tín, và sự minh giải sẽ đi vào bế tắc.
Vị tiến sĩ này nhận định rằng, trong vụ tàu Haiyang Dizhi 8, ý chí chính trị của Trung Quốc bao trùm lên tất cả, bất chấp việc không có kết quả chính xác. Ông cho biết : Chúng tôi là những người hiểu sâu về địa chất dầu khí biển, chúng tôi biết đâu là thực, đâu là hư. Vụ giàn khoan Haiyang 981 hạ đặt trong vùng biển Việt Nam vào năm 2014 không phải để khoan thăm dò mà chỉ đơn thuần là thực hiện một ý chí chính trị. Này nhé, Haiyang 981 hạ đặt tại vùng biển Việt Nam vào ngày 01/05/2014 và được kéo đi vào ngày 16/07/2014. Khoảng thời gian hạ đặt chỉ 75 ngày cho biết Haiyang 981 không khoan gì cả. Vì sao ? Vì việc mở một giếng khoan và gia cố giếng khoan đã mất 30 ngày. Để khoan một mũi khoan dầu khí biển, với công nghệ khoan tiên tiến nhất hiện nay cũng mất 70 ngày. Sau khi hoàn thành khoan phải mất thêm 15 ngày cho việc trám giếng khoan. Tổng cộng là 115 ngày. Haiyang 981 chỉ có 75 ngày hạ đặt, đó không phải khoan thăm dò, đó là một hành động biểu hiện ý chí chính trị.
Vị tiến sĩ địa chất dầu khí biển nhận định rằng, từ việc hạ đặt giàn khoan Haiyang 981 vào năm 2014 và vụ tàu Haiyang Dizhi 8 vào thời điểm này, có thể khẳng định rằng, hoạt động dầu khí của Trung Quốc chỉ đơn thuần là một hoạt động chính trị nhằm mục đích chủ quyền. Rất có thể, trong tương lai gần, Trung Quốc sẽ tiến hành khoan thăm dò dầu khí tại bãi Tư Chính, hoạt động địa chấn tại các lô 136.03, lô 07.03 và lô 06.01. Tiếp theo, Trung Quốc sẽ hạ đặt giàn khoan khai thác cố định tại bãi Tư Chính, và tiến hành khoan thăm dò tại các lô 136.03, lô 07.03 và lô 06.01. Nếu Việt Nam không mạnh mẽ và quyết liệt, Việt Nam sẽ mất mát quá nhiều.
Đó là một tương lai có thể diễn ra nếu Việt Nam rụt rè và nhút nhát. Nếu tương lai đó diễn ra, Việt Nam sẽ mất 67 lô dầu khí nằm trọn trong đường lưỡi bò - đường chín đoạn do Trung Quốc ngang ngược vẽ ra. Đó sẽ là môt mất mát quá lớn, quá đau đớn và chua xót.
Việt Nam nên tiên liệu tương lai gần của bãi Tư Chính, lô 06.01 và hai lô 136-03, lô 07.03 để có các kịch bản ứng phó có hiệu quả đối với kẻ cướp biển Trung Quốc !
Tâm Don
Nguồn : VNTB, 29/07/2019
Trung Quốc sẽ đẩy căng thẳng Bãi Tư Chính đến mức độ nào ? (RFA, 26/07/2019)
Trung Quốc có thể đẩy căng thẳng ở Bãi Tư Chính trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông lên mức mới, thậm chí triển khai giàn khoan dầu đến khu vực này, dẫn đến nguy cơ một xung đột vũ trang. Một chuyên gia thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS) ở Singapore nhận định như vậy với Đài Á Châu Tự Do.
Hành trình của tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc ở phía bắc Bãi Tư Chính từ ngày 1/7/2019 đến 15/7/2019 -Courtesy of AMTI
Từ khoảng giữa tháng 6 và đầu tháng 7 vừa qua, Trung Quốc đã điều hàng chục tàu bao gồm các tàu Hải cảnh có trang bị vũ khí hạng nặng, tàu dân quân biển và tàu khảo sát địa chấn Hải Dương 8 ra khu vực Bãi Tư Chính và bắc Bãi Tư Chính nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, quấy nhiễu hoạt động khai thác dầu khí của Việt Nam ở lô 06.1 thuộc bể Nam Côn Sơn. Đây là lô dầu khí liên doanh giữa Việt Nam và công ty Rosneft của Nga.
Đây được coi là hành động mạnh mẽ nhất của Trung Quốc đối với Việt Nam kể từ sau vụ Trung Quốc đưa giàn khoan HD 981 đến vùng biển Việt Nam gần quần đảo Hoàng Sa đang tranh chấp giữa hai nước hồi năm 2014.
Ngày 19/7 và 25/7 vừa qua, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã chính thức lên tiếng yêu cầu Trung Quốc rút toàn bộ tàu khỏi vùng biển Việt Nam, đồng thời gửi công hàm phản đối tới phía Trung Quốc. Tuy nhiên, đến lúc này, hoạt động của các tàu Trung Quốc tại khu vực này vẫn tiếp tục, cho thấy căng thẳng giữa hai bên chưa hề giảm sút. Phía Việt Nam không thừa nhận nhưng cũng không bác bỏ các thông tin được truyền thông quốc tế loan tải rộng rãi cho biết các tàu Cảnh sát biển của Việt Nam nhiều tuần qua đã phải đối đầu với các tàu Hải cảnh của Trung Quốc.
Khi nào Trung Quốc rút tàu ?
Chuyên gia Hà Hoàng Hợp thuộc ISEAS cho rằng sẽ có ba kịch bản xẩy ra giữa Trung Quốc và Việt Nam ở Bãi Tư Chính :
"Có ba kịch bản. Kịch bản thứ nhất là Trung Quốc sẽ rút sớm, trước ngày 15/9, lấy lý do là hoàn thành nhiệm vụ thăm dò thì rút. Thứ hai là Trung Quốc đợi đến đúng ngày 15/9 khi giàn khoan của Nhật thôi không khoan nữa mới rút. Khả năng thứ ba rất xấu là Trung Quốc kéo giàn khoan vào và khoan dầu. Khả năng rút sớm rất khó xảy ra là bởi vì tàu đó được tiếp dầu, nước, lương thực rất nhanh bởi vì nó rất gần các đảo nhân tạo, nhất là đảo Chữ Thập cách đấy mấy chục hải lý".
Hôm 25/7, truyền thông trong nước trích thông báo từ Tổng công ty Bảo đảm an toàn hàng hải miền Nam cho biết giàn khoan Hakuryu-5 của công ty JDC của Nhật Bản sẽ hoạt động tại lô 06.1 đến hết ngày 15/9/2019, tức là lâu hơn 1 tháng rưỡi so với thông báo trước đó.
Theo chuyên gia Hà Hoàng Hợp việc Việt Nam kéo dài thời gian hoạt động của giàn khoan là hoàn toàn bình thường vì thời gian kéo dài có thể lên đến 90 ngày.
Hành trình của tàu Haijing 35111 gần giàn khoan Hakuryu - 5 ở Bãi Tư Chính vào ngày 2/7/2019 Courtesy of AMTI
Tuy nhiên, chuyên gia này không loại trừ khả năng có yếu tố Trung Quốc trong quyết định này.
"Hiện hai bên không kiềm chế được. Bây giờ Việt Nam không muốn để họ mất mặt thì để từ từ cho họ rút ra".
Nói về những lý do mà Trung Quốc có thể viện dẫn về việc rút tàu khỏi vùng biển Việt Nam, chuyên gia Hà Hoàng Hợp cho biết :
"Khả năng rút và tuyên bố hoàn thành nhiệm vụ là rút trong danh dự vì Trung Quốc đưa tàu vào đó không phải là làm gì khác ngoài chuyện dọa nạt Việt Nam, ngoài chuyện khẳng định đó là biển của Trung Quốc, y hệt chuyện năm 2014 khi Trung Quốc đưa giàn khoan vào phía tây bắc Hoàng Sa. Lý do thứ hai là Trung Quốc đang ép Việt Nam phải buộc người Nhật và Nga rút ra, nhưng đó là điều kiện vô lý đối với Việt Nam, thì Trung Quốc không thể rút ra khơi khơi được mà rút ra vào ngày 15/9, giả định là ngày người Nhật khoan xong rồi và rút đi thì họ cũng rút. Điều đó cũng phù hợp với yêu sách của Trung Quốc với Việt Nam".
Hồi năm 2014, Trung Quốc cũng tuyên bố rút giàn khoan dầu HD 981 khỏi vùng biển Việt nam trước một tháng so với thông báo trước đó với lý do đã hoàn thành nhiệm vụ.
Theo đánh giá của các chuyên gia quốc tế, những phản ứng gay gắt của quốc tế và Việt Nam lúc đó góp phần khiến Trung Quốc phải rút giàn khoan sớm hơn dự định.
Nguy cơ xung đột vũ trang
Bãi Tư Chính là một thực thể nằm dưới mặt nước biển và không được coi là đảo, theo luật quốc tế. Bãi này mặc dù nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo quy định của Công ước về Luật Biển của Liên Hiệp Quốc 1982 (UNCLOS), nhưng lại nằm trong đường đứt khúc 9 đoạn mà Trung Quốc vẽ ra trên biển, vốn chiếm đến gần 90% diện tích Biển Đông.
Hồi năm 2016, tòa Trọng tài Quốc tế ở The Hague đã ra phán quyết bác bỏ tính hợp lệ của đường đứt khúc này nhưng Trung Quốc không chấp nhận phán quyết của tòa.
Đây là khu vực quan trọng về năng lượng đối với Việt Nam. Theo Giáo sư Carl Thayer thuộc Đại học New South Wales của Australia, Bãi Tư Chính được ước tính có trữ lượng khoảng 45 triệu thùng dầu và 172 tỷ mét khối khí. Đây cũng là nơi có một loạt các lô dầu khí đang hoạt động của Việt Nam thuộc bể Nam Côn Sơn, cung cấp đến 10% nhu cầu năng lượng cho cả nước.
Đối với Trung Quốc khu vực này còn nằm trong vùng đòi hỏi về chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa và đường đứt khúc 9 đoạn, theo nhận xét của chuyên gia Greg Poling thuộc Sáng kiến Minh bạch Hàng Hải (AMTI) của Mỹ :
"Trung Quốc đưa Bãi Tư Chính vào trong các thực thể thuộc quần đảo Trường Sa, và họ làm tương tự với những bãi cạn khác cả ở Malaysia và đây là do lỗi dịch thuật và hiểu sai ở Trung Quốc từ những năm 1930. Bây giờ Việt Nam khoan thăm dò dầu khí và Trung Quốc phản đối vì lỗi trong quá khứ, và nói rằng Việt Nam đang vi phạm chủ quyền của ở họ, và đó là vấn đề ở Bãi Tư Chính".
Theo AMTI, từ khoảng giữa tháng 6 vừa qua, Trung Quốc đã điều tàu Hải cảnh Haijing 35111 có trang bị vũ khí hạng nặng đến phía tây bắc Bãi Tư Chính, quấy nhiễu giàn khoan Hakuryu-5.
Bãi Tư Chính Courtesy of AMTI
Đồng thời, cũng theo AMTI, vào đầu tháng 7, Trung Quốc điều tàu khảo sát địa chấn Hải Dương 8 cùng các tàu hộ tống đến vùng phía bắc Bãi Tư Chính, nằm trong khu vực 9 lô dầu khí mà Tổng công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc (CNOOC) đưa ra mời thầu hồi tháng 6 năm 2012 nhưng không có công ty nước ngoài nào muốn tham gia vì những quan ngại về hiệu quả kinh tế.
Giáo sư Carl Thayer nhận định hành động mới của Trung Quốc là gây sức ép về đòi hỏi chủ quyền của Bắc Kinh đối với Việt Nam sau những nhượng bộ trước đó của Hà Nội.
"Điều này chỉ ra rằng Trung Quốc đang chuẩn bị để đẩy những đòi hỏi về chủ quyền trên biển vào khi Việt Nam lùi bước…. Việt Nam trước đó đã phải dừng các hoạt động thăm dò dầu khí ở Bãi Tư Chính vào tháng 7 năm 2017 và vào tháng 3 năm 2018 ở mỏ Cá Rồng Đỏ".
Chuyên gia Greg Poling cho rằng, vào thời điểm hiện tại Trung Quốc có khả năng gây sức ép nhiều hơn lên Việt Nam so với năm 2014 vì việc xây dựng các đảo nhân tạo ở Trường Sa và triển khai vũ khí ra các đảo này đã được Trung Quốc hoàn tất cách đây hai năm.
"Việc xây dựng các cơ sở quân sự ở Trường Sa đã cho phép Bắc Kinh có thể triển khai các tàu. Họ có thể triển khai tàu hải cảnh và thậm chí tàu dân quân biển đến các nơi và thường trực ở đó 24 giờ một ngày, 7 ngày một tuần trong toàn bộ khu vực nằm trong đường đứt khúc 9 đoạn. Họ có thể liên tục gây sách nhiễu theo cách mà họ đã không thể làm được vào năm 2015"
Theo chuyên gia Hà Hoàng Hợp, có nhiều khả năng Trung Quốc sẽ rút tàu khỏi khu vực phía bắc Bãi Tư Chính nhưng sẽ ngay lập tức đưa giàn khoan dầu tới đây để khoan.
"Nếu Trung Quốc đưa giàn khoan vào thì sẽ đưa vào những lô nơi Trung Quốc đã đấu thầu trước kia…"
Điều này có thể dẫn đến những xung đột vũ trang giữa hai nước, theo nhận định của chuyên gia Hà Hoàng Hợp :
"Bây giờ không có chuyện dền dứ nhau như hồi 2014. Nó quan trọng là vì ngoài vấn đề quyền chủ quyền và tài phán của Việt Nam bị xâm phạm trắng trợn, nó còn là chuyện năng lượng. Nhưng năng lượng không quan trọng lắm mà vấn đề là một mối quan tâm để chính phủ Việt Nam chứng tỏ trước sau như một cái gì của Việt Nam là của Việt Nam chứ không biến thành của Trung Quốc".
Trong khi những căng thẳng tại Bãi Tư Chính vẫn đang tiếp diễn. Việt Nam đã tìm giải pháp bằng cách quốc tế hóa vấn đề. Bằng chứng là vào ngày 20/7, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã lên tiếng phản đối hành động bắt nạt của Trung Quốc. Tuy nhiên, Hoa Kỳ hiện vẫn giữ thái độ trung lập đối với những tranh chấp về chủ quyền giữa các bên ở Biển Đông.
Cũng có những ý kiến cho rằng Việt Nam nên kiện Trung Quốc ra tòa Quốc tế tương tự như Philippines đã làm hồi năm 2014 và giành thắng lợi sau phán quyết của tòa công bố hồi năm 2016. Philippines đưa ra giải pháp này sau khi Trung Quốc chiếm mất bãi cạn Scarborough hồi năm 2012. Tuy nhiên Trung Quốc đã không chấp nhận phán quyết của tòa và bãi cạn Scarborough hiện vẫn hoàn toàn nằm trong sự kiểm soát của Trung Quốc.
********************
Gia hạn hoạt động giàn khoan ở Bãi Tư Chính, Việt Nam tiếp tục ‘bất tuân’ Trung Quốc ? (VOA, 26/07/2019)
Việt Nam vừa ra thông báo rộng rãi về việc gia hạn thời gian hoạt động của giàn khoan Hakuryu 5 tại Lô 06.1 bể Nam Côn Sơn, phía tây bắc Bãi Tư Chính, một động thái được cho là "bất tuân" tiếp theo của Hà Nội sau khi khước từ yêu cầu của Bắc Kinh hồi tháng 6 là rút lại giàn khoan này, dẫn đến việc Bắc Kinh thực hiện lời đe dọa "hành động mạnh" bằng việc đưa tàu thăm dò Hải Dương Địa Chất 8 đến khu vực, theo tiết lộ của một chuyên gia nghiên cứu với VOA.
Giàn khoan Hakuryu 5 hoạt động trên Biển Đông vào ngày 29/4/2018.
Trong khi các dữ liệu theo dõi cho thấy tàu thăm dò Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc vẫn tiếp tục hoạt động gần khu vực Bãi Tư Chính ở Biển Đông bất chấp phản đối từ phía Việt Nam và chỉ trích của Mỹ, một số nguồn tin cho hay Bắc Kinh đã yêu cầu Hà Nội rút giàn khoan ở khu vực này đi và đổi lại, Trung Quốc sẽ rút các tàu của họ. Nhưng Việt Nam bác bỏ đề nghị này.
Trao đổi với VOA hôm 25/7, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp xác nhận thông tin về những đòi hỏi của Trung Quốc hồi tháng 6.
"Đúng là họ có trao đổi với một số nơi ở Việt Nam điều kiện như thế", Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp khẳng định với VOA. "Họ đòi Việt Nam phải bắt công ty Nhật và công ty Nga phải rút khỏi chỗ đấy. Nếu không rút thì họ sẽ có hành động mạnh".
Trung Quốc đã thực hiện lời đe dọa bằng cách đưa con tàu dài 88 met, rộng 20,4 met, với tổng trọng tải 6.918 tấn đến "thăm dò" trong khu vực gần Bãi Tư Chính kể từ ngày 3/7. Vụ việc đã đẩy căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc lên đến đỉnh điểm kể từ sau vụ Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 vào Biển Đông năm 2014.
Thông báo của Tổng Công ty Bảo đảm An toàn Hàng hải miền Nam, thuộc Bộ Giao thông Vận tải, được truyền thông Việt Nam trích dẫn ngày 25/7 cho biết hoạt động khoan của khu vực Lô 06.1 bể Nam Côn Sơn do công ty Rosneft Việt Nam B.V. (công ty con của Công ty Rosneft của Nga) "dự kiến kéo dài đến hết ngày 15/9/2019".
Trang Twitter IndoPacific_SCS_Info, nơi thường xuyên cập nhật tin tức về Biển Đông, nói rằng hoạt động của giàn khoan Hakuryu 5 lẽ ra chấm dứt vào ngày 30/7 theo như kế hoạch ban đầu, nhưng "Việt Nam không lùi bước".
Theo phân tích của Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, động thái thông báo gia hạn từ phía Việt Nam là "có và không" liên quan đến căng thẳng ở Bãi Tư Chính.
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp nói việc gia hạn là do các công ty khai thác dầu khí của Nga, Nhật thực hiện và Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam ra thông báo là để tàu bè đi lại có thể tránh xa khu vực này.
"Hợp đồng ban đầu nói có khả năng [hoạt động khai thác] kéo dài 60-90 ngày. Mà bắt đầu khoan từ ngày 29/6 tới giờ chưa được một tháng, thì phải khoan thêm thì mới đạt kết quả về mặt kỹ thuật", Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp nói với VOA.
Còn yếu tố "có liên quan", theo ông, là vì Trung Quốc đã từng yêu cầu Việt Nam rút giàn khoan này đi nhưng phía Việt Nam khước từ.
Theo chuyên gia của Viện Nghiên Đông Nam Á ISEAS, động thái thông báo gia hạn hoạt động từ phía Việt Nam tái khẳng định một lần nữa rằng đòi hỏi của Bắc Kinh là "không hợp lý".
"Người Nga đã khai thác ở chỗ đó từ năm 2013, sau khi mua lại cổ phần từ công ty BP của Anh quốc và một cố phần nhỏ của công ty Conoco Philips. Từ đó đến giờ họ làm rất tốt, và ai cũng khẳng định khu vực đó là thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, không tranh cãi được".
Trong một diễn tiến cùng ngày 25/7, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng lặp lại lần thứ 3 rằng Việt Nam "kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền" và đã trao công hàm phản đối cho phía Trung Quốc về hoạt động của Hải Dương Địa Chất 8. Đây được xem là phản ứng mạnh nhất từ trước đến nay từ phía Việt Nam liên quan đến những vụ xung đột căng thẳng với Trung Quốc trên Biển Đông.
Khánh An
**********************
Biển Đông : Việt Nam cưỡng lại áp lực Trung Quốc (RFI, 26/07/2019)
Giàn khoan Nhật Bản Hakuryu-5 tiếp tục hoạt động tại Nam Côn Sơn đến ngày 15/09/2019, thêm một tháng rưỡi so với dự kiến, theo thông báo của Tổng công ty Bảo đảm an toàn hàng hải Việt Nam hôm qua 25/07/2019. Mọi tàu bè qua lại "ngoài khơi thềm lục địa Việt Nam" được yêu cầu tránh xa, trong bối cảnh Trung Quốc đưa tàu hải cảnh vào quấy phá.
Giàn khoan JDC Hakuryu-5 của Nhật ngoài khơi Vũng Tàu. Ảnh chụp ngày 29/04/2018. Reuters/Maxim Shemetov
Theo South China Morning Post, Việt Nam vừa có thêm một cử chỉ không lùi bước trước áp lực Trung Quốc tại Biển Đông. Từ bốn tuần nay, Bắc Kinh đưa nhóm tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 xâm nhập bãi Tư Chính-Vũng Mây, thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và tàu Hải Cảnh trang bị vũ khí nặng đến khiêu khích giàn khoan Hakuryu-5 của Nhật tại lô 06.1, thuộc dự án Nam Côn Sơn của liên doanh Nga-Việt. Thay vì nhượng bộ như nhiều lần trong quá khứ, lần này Việt Nam tỏ ra cứng rắn hơn.
Biện pháp mới nhất là duy trì hoạt động của giàn khoan Nhật Bản thêm sáu tuần lễ, đồng thời kêu gọi Trung Quốc rút tàu hải cảnh vũ trang ra xa khu vực, theo thông cáo của Tổng công ty Bảo đảm an toàn hàng hải Việt Nam.
Phản ứng của Việt Nam trong vụ lô 06.1 thuộc dự án Nam Côn Sơn được xem là thể hiện quyết tâm không lùi trước sức ép của Bắc Kinh. Trong khu vực bãi Tư Chính, tàu cảnh sát biển Việt Nam vẫn tiếp tục đối đầu với tàu hải cảnh vũ trang của Trung Quốc. Chính phủ Việt Nam, qua lời phát ngôn viên bộ ngoại giao Lê Thị Thu Hằng hôm qua, đã khẳng định chủ quyền quốc gia và yêu cầu Trung Quốc rút tàu ra khỏi bãi Tư Chính.
Theo nhà phân tích chiến lược Collin Koh, đại học Singapore, từ sau vụ nhượng bộ Bắc Kinh, hủy bỏ dự án ở bãi Tư Chính với đối tác Tây Ban Nha năm 2018, Hà Nội cảm thấy không thể lui được nữa vì Trung Quốc được đằng chân lân đằng đầu gây thiệt hại cho các dự án dầu khí của Việt Nam ngay trong vùng đặc quyền kinh tế của mình. Đó là lý do cần tỏ thái độ dứt khoát. Lý do thứ hai là, ngoài việc xoa dịu công luận Việt Nam vốn rất căm ghét chế độ Bắc Kinh, giới lãnh đạo Hà Nội cũng cần thu hút sự quan tâm và trợ giúp của cộng đồng quốc tế, cho nên không thể im lặng mãi.
Tú Anh
*****************
Bắc Kinh ca ngợi Duterte hòa hoãn, gợi ý Việt Nam nên noi gương (VOA, 26/07/2019)
Global Times (Hoàn cầu Thời báo), tờ báo theo dân tộc chủ nghĩa do Nhân dân Nhật báo, cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc, quản lý, mới đây đăng một bài xã luận, ca ngợi Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte khi ông bênh vực thỏa thuận với Chủ tịch Tập Cận Bình, cho phép ngư dân Trung Quốc hoạt động trên "Biển Tây Philippines", tức Biển Đông, để đảm bảo chiến tranh không xảy ra tại đây.
Tư liệu : Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, phải, bắt tay Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte đến dự Diễn đàn Vành đai Con đường ở Bắc Kinh vào năm 2017. (Roman Pilipey/Pool Photo via AP)
Tờ báo hôm 23/7 dẫn lời ông Duterte phát biểu trong bài diễn văn về tình trạng đất nước ngày hôm trước, trong đó ông Duterte nói :
"Chiến tranh dẫn tới cảnh vợ mất chồng, con mất cha. Tôi không sẵn sàng, hoặc có xu hướng để mặc cho xảy ra thêm tàn phá, đẩy nhiều phụ nữ vào cảnh góa bụa, nhiều đứa trẻ vào cảnh mồ côi, nếu chiến tranh nổ ra, dù chỉ ở quy mô nhỏ".
Bài xã luận đặt câu hỏi, tại sao ông Duterte giữ lập trường hòa bình, hợp tác và tự chế tại Biển Đông, bất chấp những chỉ trích từ trong nước và những khích động từ Hoa Kỳ ?
Tờ Global Times tự trả lời rằng "bởi vì ông Duterte hiểu ra rằng dẹp tranh chấp sang một bên và mưu tìm hợp tác với Trung Quốc sẽ mang lại nhiều lợi ích nhất cho đất nước ông".
Tờ báo bày tỏ mong muốn rằng các quốc gia như Việt Nam, Malaysia và Indonesia sẽ noi theo gương ông Duterte mà hợp tác với Trung Quốc. Bài báo viết "phát triển quan hệ hợp tác sẽ giảm căng thẳng trong khu vực, và tạo điều kiện để khu vực tiến lên trên con đường hợp tác.
Philippines và Trung Quốc ra tuyên bố chung vào năm 2018, cam kết sẽ từ chế trong các hoạt động có thể làm phức tạp tình hình hay tăng căng thẳng trên Biển Đông, tác động tới hòa bình và ổn định khu vực.
Đưa tin này, tạp chí Forbes của Mỹ nói rằng vấn đề ở đây là "hòa bình" và "hợp tác" theo các điều kiện của Bắc Kinh, trong khi Philippines đã được tòa án trọng tài quốc tế ra phán quyết có lợi cho mình, phán rằng Trung Quốc không có chủ quyền lịch sử trên Biển Đông, và điều đó có nghĩa là bất cứ "dự án phát triển chung" nào trên thực chất, cũng là chia tài sản của Philippines cho Trung Quốc, theo kiểu "cái gì của tôi là của tôi, cái gì của anh là của chúng ta".
Trong khi ca ngợi nhà lãnh đạo Philippines, Bắc Kinh chỉ trích các nước khác trong khu vực vì không đồng quan điểm với viễn kiến của Trung Quốc.
Bài xã luận viết "các nước ấy diễn giải theo kiểu phóng đại" các quyết định của Trung Quốc, tố cáo Trung Quốc "bắt nạt", "gieo rắc chia rẽ" giữa các nước trong khu vực với mục dích hưởng lợi.
Lời chỉ trích đó, theo tạp chí Forbes, rõ ràng nhắm tới Việt Nam, Indonesia và Malaysia, vốn đối đầu thay vì làm thân với Bắc Kinh trên hồ sơ Biển Đông.
*********************
Biển Đông : Bất chấp áp lực Trung Quốc, Việt Nam triển hạn khảo sát dầu khí (RFI, 26/07/2019)
Giàn khoan Nhật Bản Hakuryu-5 tiếp tục hoạt động tại Nam Côn Sơn đến ngày 15/09/2019, thêm một tháng rưỡi so với dự kiến, theo thông báo của Tổng công ty Bảo đảm an toàn hàng hải Việt Nam hôm nay, 26/07/2019. Mọi tàu bè qua lại "ngoài khơi thềm lục địa Việt Nam" được yêu cầu tránh xa, trong bối cảnh Trung Quốc đưa tàu hải cảnh vào quấy phá.
Giàn khoan JDC Hakuryu-5 của Nhật ngoài khơi Vũng Tàu. Ảnh chụp ngày 29/04/2018. Reuters/Maxim Shemetov
Theo South China Morning Post, Việt Nam vừa có thêm một cử chỉ không lùi bước trước áp lực Trung Quốc tại Biển Đông. Từ bốn tuần nay, Bắc Kinh đưa nhóm tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 xâm nhập bãi Tư Chính-Vũng Mây, thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và tàu Hải Cảnh trang bị vũ khí nặng đến khiêu khích giàn khoan Hakuryu-5 của Nhật tại lô 06.1, thuộc dự án Nam Côn Sơn của liên doanh Nga-Việt. Thay vì nhượng bộ như nhiều lần trong quá khứ, lần này Việt Nam tỏ ra cứng rắn hơn.
Biện pháp mới nhất là duy trì hoạt động của giàn khoan Nhật Bản thêm sáu tuần lễ, đồng thời kêu gọi Trung Quốc rút tàu hải cảnh vũ trang ra xa khu vực, theo thông cáo của Tổng công ty Bảo đảm an toàn hàng hải Việt Nam hôm nay.
Phản ứng của Việt Nam trong vụ lô 06.1 thuộc dự án Nam Côn Sơn được xem là thể hiện quyết tâm không lùi trước sức ép của Bắc Kinh. Trong khu vực bãi Tư Chính, tàu cảnh sát biển Việt Nam vẫn tiếp tục đối đầu với tàu hải cảnh vũ trang của Trung Quốc. Chính phủ Việt Nam, qua lời phát ngôn viên bộ ngoại giao Lê Thị Thu Hằng hôm qua, đã khẳng định của quyền quốc gia và yêu cầu Trung Quốc rút tàu ra khỏi bãi Tư Chính.
Theo nhà phân tích chiến lược Collin Koh, đại học Singapore, từ sau vụ nhượng bộ Bắc Kinh, hủy bỏ dự án ở bãi Tư Chính với đối tác Tây Ban Nha năm 2018, Hà Nội cảm thấy không thể lui được nữa vì Trung Quốc được đằng chân lân đằng đầu gây thiệt hại cho các dự án dầu khí của Việt Nam ngay trong vùng đặc quyền kinh tế của mình. Đó là lý do cần tỏ thái độ dứt khoát. Lý do thứ hai, là ngaofi việc xoa dịu công luận Việt Nam rất căm ghét chế độ Bắc Kinh, giới lãnh đạo Hà Nội cũng cần thu hút sự quan tâm và trợ giúp của cộng đồng quốc tế, cho nên không thể im lặng mãi.
Tú Anh
*****************
‘Việt Nam nên kiện Trung Quốc giống như Phillippines’ (VOA, 26/07/2019)
Để ngăn chặn Trung Quốc tiếp tục có các hành vi xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam trên Biển Đông về lâu dài, chính phủ Việt Nam nên có hành động pháp lý đối với Trung Quốc như là Philippines từng làm hồi năm 2013, một chuyên gia của Mỹ nhận định với VOA.
Trung Quốc đã từng xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam và đối đầu với lực lượng chấp pháp của Việt Nam hồi năm 2014
Kể từ đầu tháng 7/2019, các tàu cảnh sát biển Việt Nam đã đối đầu với một tàu thăm dò của Cục Địa chất Trung Quốc với sự hộ tống của lực lượng tuần dương xung quanh Bãi Tư Chính (thuộc quần đảo Trường Sa) vốn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo quy định của UNCLOS (Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển).
Mặc dù Hà Nội đã phản đối Bắc Kinh qua nhiều kênh và yêu cầu Bắc Kinh ‘rút tàu thăm dò ngay lập tức’ nhưng cho đến nay tàu thăm dò Trung Quốc vẫn chưa rời đi mặc dù Bắc Kinh cho đến nay ‘không xác nhận sự hiện diện tàu của họ trong khu vực’, theo AFP.
Hồi năm 2014, một giàn khoan khổng lồ của Trung Quốc cũng đã tiến vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam xung quanh đảo Tri Tôn thuộc Quần đảo Hoàng Sa và chỉ rút đi sau gần ba tháng sau khi Việt Nam có những hình thức phản đối quyết liệt qua các kênh ngoại giao, truyền thông và trên thực địa.
‘Giới hạn đỏ’
Trả lời VOA bên lề Hội nghị Biển Đông thường niên lần thứ 9 do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) tổ chức ở Washington D.C. hôm 24/7 về làm sao Việt Nam có thể ngăn ngừa những vụ xâm phạm tương tự như thế trong tương lai, bà Bonnie Glaser, Giám đốc Chương trình Sức mạnh Trung Quốc tại CSIS, nói bà tin rằng ‘khởi sự kiện Trung Quốc sẽ là một bước đi rất hay’.
"Đó sẽ là một bước đi rất quan trọng và tôi sẽ không đánh giá thấp tác động của nó (đối với Trung Quốc)", bà nói.
Mặc dù Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) được thành lập trong khuôn khổ UNCLOS không thể phán quyết về tranh chấp chủ quyền hay phân định ranh giới trên biển, nhưng họ có thể phán quyết liệu hành động của Trung Quốc có xâm phạm chủ quyền và quyền tài phán của một quốc gia ven biển nào đó hay không. Đó là cách mà Manila chọn để nêu vụ kiện hồi năm 2013 và cuối cùng Tòa ra phán quyết có lợi cho họ.
"Bên cạnh đó Việt Nam nên tăng cường xây dựng năng lực trên biển để làm tăng khả năng răn đe Trung Quốc", bà Glaser nói thêm.
Tuy nhiên, bà cũng lưu ý rằng Việt Nam ‘không thể xây dựng một hạm đội ngang hàng với Trung Quốc’ nên công cụ chủ yếu của Việt Nam là ‘ý chí chính trị để cho Trung Quốc biết rằng Việt Nam sẵn sàng sử dụng công cụ pháp lý để bảo vệ lợi ích của mình’.
Đó cũng là con đường mà Hà Nội nên làm để giải tỏa thế bế tắc hiện nay xung quanh Bãi Tư Chính, bà Glaser khuyên.
"Việt Nam nên làm rõ với Trung Quốc, cho dù là công khai hay kín đáo, rằng nếu họ không rút tàu thì Việt Nam sẽ nghiêm túc cân nhắc kiện Trung Quốc ra tòa", bà nói và cho rằng Hà Nội nên nói rõ với Bắc Kinh ‘đâu là giới hạn đỏ’ mà Bắc Kinh không thể vượt qua.
"Bởi vì khu vực này rất rõ ràng là nằm trong vùng đặc quyền Kinh tế của Việt Nam", bà giải thích. "Tôi nghĩ rằng Việt Nam hoàn toàn có thể thắng kiện. Đó là điều mà tôi nghe từ các luật sư về hàng hải".
Bà nói rằng mặc dù Việt Nam đã phản ứng với Trung Quốc cả về mặt ngoại giao và trên thực địa và dù Mỹ có lên tiếng bằng những ngôn từ mạnh mẽ nhưng điều đó chưa đủ để khiến Trung Quốc rút tàu đi.
Tuy nhiên, hạn chế của việc kiện ra PCA là tòa án này không có cơ chế thực thi phán quyết và Trung Quốc có quyền từ chối tham gia vào vụ kiện như cách họ đã từng làm với vụ kiện của Philippines. Hơn nữa, sau khi PCA ra phán quyết trao chiến thắng cho Manila hồi năm 2016, Bắc Kinh đã tìm đủ cách lung lạc chính phủ của Tổng thống Rodrigo Duterte đến nỗi ông Duterte gần như bỏ lơ phán quyết này.
‘Bắc Kinh không thể ngồi yên’
Khi được hỏi về tính toán của Bắc Kinh khi tung tàu thăm dò vào quấy rối tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vào lúc này, bà Glaser cho rằng giới lãnh đạo Bắc Kinh ‘nghĩ rằng họ không thể ngồi yên không làm gì cả trước dư luận trong nước khi thấy rằng lợi ích của họ bị đe dọa’.
Bà Glaser chỉ ra hành động của Việt Nam hợp tác với công ty dầu khí Rosneft của Nga khoan các giếng dầu mới ở Bãi Tư Chính mà Trung Quốc cũng tuyên bố có ‘chủ quyền lịch sử’ trong đường chín đoạn (quyền này đã bị PCA bác bỏ) ‘đã khiến Trung Quốc tức tối’
"Khi mà COC (Bộ Quy tắc Ứng xử) đang được đàm phán thì không bên nào trong khu vực có những bước đi mới nhất là trong việc khai thác dầu", bà phân tích. "Do đó tôi nghĩ rằng họ (Bắc Kinh) đang tìm cách tỏ dấu hiệu rằng họ không thể bị lợi dụng’.
Bà Glaser nói rằng những nhân tố đằng sau hành động của Bắc Kinh là ‘Việt Nam không có hiệp ước phòng thủ tương hỗ với Mỹ’ và ‘đánh giá rằng Mỹ cũng không thể làm gì được’.
"Có lẽ họ đánh giá thấp phản ứng của người dân Việt Nam vốn từng bị kích động từ hành động của họ mà lẽ ra họ không nên làm", bà nói với ý nhắc đến các cuộc bạo loạn của một số người dân Việt Nam hồi năm 2014 để phản đối sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc.
"Họ cũng có lẽ phần nào cho rằng Mỹ đang bị phân tâm với tình hình Trung Đông với căng thẳng dâng cao giữa Mỹ với Iran", bà nói thêm.
Theo nhà phân tích này, hợp tác chặt chẽ hơn với Mỹ về quân sự là điều Việt Nam nên tính tới nhưng bà không cho rằng Việt Nam nên cân nhắc liên minh quân sự với Mỹ như kiểu của Philippines.
Trả lời câu hỏi có phải Mỹ đang có bước tiến mới về lập trường trên Biển Đông vốn lâu nay vẫn là ‘không chọn phe trong tranh chấp chủ quyền’, chuyên gia cao cấp của CSIS này nói rằng ‘Mỹ không từ bỏ lập trường trung lập trên vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông’.
Bộ Ngoại giao Mỹ đã có những lời lẽ mạnh mẽ lên án hành động của Trung Quốc ở bãi Tư Chính là ‘bắt nạt’, ‘khiêu khích’ và ‘đe dọa an ninh năng lượng khu vực’.
"Những gì mà tôi nhìn thấy Mỹ đang làm là mở rộng phạm vi tuyên bố về lợi ích của Mỹ trong khu vực", bà phân tích.
"Dưới chính quyền Barack Obama và trong giai đoạn đầu của chính quyền Donald Trump chúng ta có thể thấy sự nhấn mạnh vào tự do hàng hải", bà nói thêm và cho rằng đây luôn là ưu tiên hàng đầu của Mỹ.
Điều mà chính quyền Trump giờ đây đang làm là ‘mở rộng phạm vi định nghĩa về lợi ích của Mỹ để nhấn mạnh việc bảo vệ những quyền hợp pháp của các nước trên Biển Đông bất kể nước lớn hay nước nhỏ’ .
Bà Glaser đánh giá rằng đây là một diễn tiến quan trọng đối với các nước như Việt Nam và Philippines bởi vì họ có lợi ích về năng lượng và nguồn lợi thủy sản trong phạm vi 200 hải lý thuộc vùng đặc quyền kinh tế của họ và cũng là một sự ‘mở rộng quan trọng trong lợi ích của Mỹ’.
"Đây là một thách thức trực tiếp đối với tuyên bố của Trung Quốc rằng các nước có tranh chấp phải hợp tác cùng khai thác với Trung Quốc trên Biển Đông và bất cứ sự khai thác đơn phương nào cũng cần có sự đồng ý của Trung Quốc. Điều này [sự ép buộc của Trung Quốc] đã diễn ra nhiều năm rồi", bà Glaser nói.
Ngọc Lễ
********************
Việt Nam tố cáo vi phạm của Trung Quốc ở bãi Tư Chính là ‘nghiêm trọng’ (VOA, 25/07/2019)
Hôm 25/7, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam, bà Lê Thị Thu Hằng nói rằng hành động vi phạm của Trung Quốc những ngày qua trên Biển Đông tại Bãi Tư Chính là ‘nghiêm trọng.’
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng (Twitter MoFAVietNam Spokesperson)
Trả lời câu hỏi về vị trí lô dầu khí 06.1 ở Nam Côn Sơn mà công ty PVN của Việt Nam đang có dự án hợp tác với công ty Rosneft có nằm trong bãi Tư Chính và gần vị trí tàu Hải Dương 8 đang hoạt động hay không, báo Dân Trí trích lời bà Hằng nói :
"Lô 06.1 nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Hành động của Trung Quốc là vụ việc nghiêm trọng".
Trang Người Lao Động dẫn lời bà Hằng nói :
"Như đã nhiều lần khẳng định, Việt Nam kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán như đã được xác lập tại Công ước Liên Hợp quốc về Luật biển 1982 bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Bà Hằng cho biết Việt Nam đã trao công hàm cho Trung Quốc, và yêu cầu Bắc Kinh lập tức rút ra khỏi vùng kinh tế của Việt Nam :
"Việt Nam đã có nhiều biện pháp giao thiệp ngoại giao phù hợp, trao công hàm phản đối cho phía Trung Quốc, yêu cầu rút ngay khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Các lực lượng chức năng của Việt Nam triển khai các biện pháp phù hợp, đúng pháp luật".
"Việt Nam hoan nghênh và sẵn sàng cùng cộng đồng quốc tế nỗ lực đóng góp vào mục tiêu nói trên, vì hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới".
Được biết công ty Rosneft của Nga thuê giàn khoan Hakuryu-5 của Công ty Khoan thăm dò Nhật Bản (JDC) để thực hiện hoạt động thăm dò dầu khí tại Lô 06.1 của Việt Nam ở Biển Đông.
Ông Ryan Martinson, chuyên gia về hải quân Trung Quốc của Trường Hải Chiến Hoa Kỳ, cho VOA biết rằng tính tới ngày 23/7, các tàu hải cảnh của Trung Quốc "vẫn hoạt động gần giàn khoan dầu của Nhật ở phía tây Bãi Tư Chính", trong khi tàu Hải Dương Địa chất 8 (Haiyang Dizhi 8) "tiếp tục tiến hành khảo sát địa chấn tại Vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam ở phía tây quần đảo Trường Sa".
Liên quan tới vụ Bãi Tư Chính, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ hôm 20/7 ra tuyên bố nhắc tới cả Trung Quốc và Việt Nam. Washington mạnh mẽ phản đối mọi hành động "cưỡng ép và đe dọa" và nói rằng Bắc Kinh "nên chấm dứt hành vi bắt nạt và ngưng thực hiện hoạt động gây bất ổn và khiêu khích này".
**********************
Báo giới tiếp tục chất vấn Việt Nam về phản ứng khi bị Trung Quốc quấy nhiễu ở Bãi Tư Chính (RFA, 25/07/2019)
Báo giới tiếp tục chất vấn về phản ứng của Việt Nam khi bị Trung Quốc quấy nhiễu ở Bãi Tư Chính tại cuộc họp báo chiều ngày 25 tháng 7 ở Hà Nội.
Bà Lê thị Thu Hằng, phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Việt Nam - AFP
Trả lời báo giới, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng nhắc lại rằng "Việt Nam đã có nhiều hình thức giao thiệp ngoại giao phù hợp với Trung Quốc"
"Việt Nam kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán như đã xác lập tại Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Cụ thể theo lời bà Lê Thị Thu Hằng thì Việt Nam đã trao công hàm phản đối cho phía Trung Quốc, yêu cầu rút ngay khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Bên cạnh đó các lực lượng chức năng của Việt Nam đã triển khai những biện pháp phù hợp đúng pháp luật.
Trước đó, ngày 19/7 lần đầu tiên cơ quan chức năng Việt Nam thừa nhận có vụ việc xung đột với Trung Quốc ở Biển Đông, phản đối và yêu cầu Bắc Kinh rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam.
Chỉ 3 ngày trước đó, ngày 16/7, cũng trong tuyên bố của mình bà Lê Thị Thu Hằng chỉ đề cập tới việc nước này đã thực hiện các biện pháp hòa bình để bảo vệ chủ quyền vùng biển của mình.
Một ngày hôm sau, Người phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng chỉ đích danh, yêu cầu Việt Nam tôn trọng vùng biển của Bắc Kinh và không có hành động làm phức tạp thêm tình hình.
Vào chiều ngày 12 tháng 7 South China Morning Post loan tin có ít nhất 2 tàu hải cảnh Trung Quốc và 4 tàu Cảnh sát biển Việt Nam đang đối đầu với nhau ở Bãi Tư Chính trong khoảng một tuần rồi, nơi Việt Nam có nhà giàn DK1 do Tiểu đoàn DK1 trực thuộc Bộ Tư lệnh Vùng 2 Hải quân kiểm soát.
Mạng báo tiếng Anh có trụ sở ở Hồng Kông trích dẫn đoạn Tweet của ông Ryan Martinson - Trợ lý giáo sư tại Trường Hải Chiến Mỹ cho hay, hôm 3/7, tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc đã đi vào vùng biển gần rạn san hô do Việt Nam kiểm soát để thực hiện một cuộc khảo sát địa chấn.
Ông Ryan Martinson đăng tải ảnh chụp màn hình về thông tin theo dõi dữ liệu tàu trong một tweet hôm 11/7 chỉ ra, khu vực trên có sự xuất hiện của các tàu hộ tống tàu thăm dò Trung Quốc gồm tàu bảo vệ bờ biển vũ trang 12 ngàn tấn số hiệu 3901 mang theo trực thăng và tàu 2.200 tấn số hiệu 37111.
Vào sáng 11/7, ông Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và các thành viên Chính phủ đột nhiên đi thăm Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển và nói chuyện qua điện thoại vệ tinh với các chiến sĩ làm việc trên các tàu CSB 4031, 4034, 9001, 8002, 4038, 4039. Trong cuộc làm việc ông Phúc nhắc nhở cơ quan này không được để bị động, bất ngờ trước các tình huống xảy ra trên biển.
Cũng vào chiều ngày 11 tháng 7, tại cuộc gặp ở Bắc Kinh giữa bà chủ tịch quốc hội Việt Nam Nguyễn Thị Kim Ngân với ông chủ tịch Nhân Đại Trung Quốc Lật Chiến Thư hai phía lặp lại cám kết sẽ tiếp tục tuân thủ nhận thức chung của hai lãnh đạo cao cấp hai đảng, hai nước ‘thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam- Trung Quốc’.
Theo SCMP, cuộc đối đầu tại Bãi Tư Chính có thể dẫn đến đụng độ lớn nhất trên Biển Đông trong vòng 5 năm trở lại đây và có thể kích động làn sóng chống Trung Quốc chưa từng thấy ở Việt Nam kể từ vụ giàn khoan Hải Dương 981 kéo vào vùng biển nước này.
Bãi Tư Chính là một cụm rạn san hô ở phía nam Biển Đông mà ở đó Việt Nam lắp đặt các cấu trúc thép có tên là nhà giàn DK1 và giao cho Tiểu đoàn DK1 trực thuộc Bộ Tư lệnh Vùng 2 Hải quân kiểm soát.
Việt Nam tuyên bố bãi Tư Chính nằm trên thềm lục địa phía nam, không thuộc quần đảo Trường Sa và bác bỏ sự gán ghép bãi này vào quần đảo Trường Sa.
Đài Loan và Trung Quốc quan niệm bãi này thuộc quần đảo Nam Sa. Khu vực bãi Tư Chính đã nhiều lần là đối tượng tranh cãi giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Năm 1994, tàu vũ trang Việt Nam đã buộc tàu thăm dò Shiyan 2 rời đi sau 3 ngày đối đầu.
Cũng tin liên quan, mạng báo Tuổi Trẻ trong nước vào ngày 25 tháng 7 cho biết giàn khoan Hakuryu-5 tại khu vực lô 06.1 bể Nam Côn Sơn, ngao2i khơi thềm lục địa Việt Nam sẽ tiếp tục hoạt động tiếp cho đến hết ngày 15 tháng 9 tới đây, tức thêm 1 tháng rưỡi nữa so với dự kiến kết thúc vào cuối tháng 7 này.
Tin được dẫn từ thông báo của Tổng Công ty Bảo đảm An toàn Hàng Hải Miền Nam, trụ sở ở Vũng Tàu. Theo thông báo thì những tàu thuyền qua lại ngoài khơi thềm lục địa Việt Nam cần lưu ý đi cách xa giàn khoan Hakuryu-5 nhằm bảo đảm an toàn hàng hải.
Vừa qua tin cho biết phía Trung Quốc đưa tàu cảnh sát biển có trang bị vũ khí hạng nặng Haijing 35111 vào khiêu khích quanh giàn khoan Hakuryu-5 ở lô 06.1 thuộc dự án Nam Côn Sơn liên doanh giữa Việt Nam với Nga.
Tổ chức Sáng Kiến Minh Bạch Hàng Hải (AMTI) thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược và Quốc Tế (CSIS) ở thủ đô Washington DC, Hoa Kỳ cũng cho biết tàu Haijing 35111 của Trung Quốc được điều đến để cản trở hoạt động khai thác dầu khí ở lô 06.1 từ giữa tháng 6. Lô này nằm ở vị trí phía tây bắc Bãi Tư Chính.
******************
Tàu lực lượng bảo vệ bờ biển Nhật Bản cập cảng quốc tế Đà Nẵng (RFA, 25/07/2019)
Tàu huấn luyện Kojima của Lực lượng Bảo vệ bờ biển Nhật Bản đã cập cảng quốc tế Đà Nẵng hôm 25/7 và bắt đầu chuyến thăm xã giao Việt Nam từ 25/7 – 28/7.
Tàu huấn luyện Kojima của lực lượng bảo vệ bờ biển Nhật Bản. AFP
Truyền thông trong nước loan tin cho biết như vừa nêu.
Tàu huấn luyện Kojima của lực lượng bảo vệ bờ biển Nhật Bản gồm 87 sỹ quan, thủy thủ và học viên và do đại tá Hironnobu Tonozaki làm thuyền trưởng.
Chuyến thăm của lực lượng bảo vệ bờ biển Nhật Bản lần này là một trong những hoạt động thỏa thuận giữa cấp lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quốc phòng hai nước nhằm thắt chặt quan hệ hợp tác quốc phòng song phương.
Trong chuyến thăm lần này, nhóm chỉ huy tàu Nhật Bản sẽ đến chào xã giao với ban lãnh đạo Ủy ban Nhân dân thành phố Đà Nẵng, Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Cảnh sát biển vùng 2 và trung tâm tìm kiếm cứu nạn hàng hải khu vực 2.
Đây là lần thứ tư tàu huấn luyện Kojima đến thăm Đà Nẵng kể từ năm 2013. Lần gần nhất là vào tháng 7 năm 2018.
Cũng trong ngày 25/7, tàu hộ vệ tên lửa HQ-016 Quang Trung của lực lượng hải quân Việt Nam đã có chuyến thăm chính thức Liên Bang Nga và tham dự lễ duyệt binh mừng kỷ niệm 323 năm ngày truyền thống hải quân nước này diễn ra từ ngày 17/7 – 7/8 tại thành phố Vladivostok.
Truyền thông trong nước cho biết, tàu HQ-016 Quang Trung của hải quân Việt Nam đã tham gia lễ đón tiếp tại cầu cảng số 33 do tư lệnh Alexander Schwartz chủ trì.
Theo lịch trình, tàu HQ-016 Quang Trung sẽ chào xã giao Bộ Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương, chính quyền thành phố Vladivostok và nhiều hoạt động giao lưu văn hóa thể thao và ẩm thực giữa hai nước.
Được biết tại buổi lễ diễn ra vào 27/7 tới, tàu khu trục Quang Trung sẽ được bố trí vào vị trí duyệt binh để kỷ niệm ngày Hải quân Liên Bang Nga và dự kiến chuyến thăm sẽ kết thúc vào ngày 29/7.
Ngoài ra, trong chuyến đi lần này đại tá Nguyễn Văn Ngân cho biết sẽ kết hợp huấn luyện trên biển dài ngày nhằm nâng cao năng lực và khả năng sẳn sàng chiến đấu và làm chủ vũ khí trên tàu, sẵn sàng ứng phó mọi tình huống trong điều kiện hoạt động trên biển dài ngày.
Căng thẳng Bãi Tư Chính : Lòng yêu nước của người dân bị lợi dụng và phản bội
Cao Nguyên, RFA, 26/07/2019
Hôm 25/7/2019, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thi Thu Hằng lần thứ ba lên tiếng chỉ trong vòng chưa đến 10 ngày để phản đối Trung Quốc vi phạm chủ quyền biển và khẳng định sẽ "kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền", đồng thời tiết lộ đã trao công hàm yêu cầu nước này phải rút ngay tàu Hải Dương 8 ra khỏi vùng biển của Việt Nam.
Biểu tình chống Trung Quốc tại Thành phố Hồ Chí Minh hôm 11/5/2014. AFP
Từ khoảng giữa tháng 6 và đầu tháng 7 đến nay, Trung Quốc đã điều tàu Hải Dương 8 cùng các tàu Hải cảnh vào khu vực bắc Bãi Tư Chính và trong Bãi Tư Chính thuộc vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, quấy nhiễu hoạt động khai thác dầu khí của Việt Nam.
Từ sau tuyên bố thứ hai hôm 19/7 của Bộ Ngoại giao, báo chí nhà nước được thoải mái đưa tin về sự kiện này. Hàng loạt các bài báo, phân tích bình luận được đăng tải mỗi ngày chỉ trích hành động gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông.
Mạng báo VTC có bài "45 năm Trung Quốc leo thang với dã tâm chiếm trọn Biển Đông" điểm lại toàn bộ những sự kiện Trung Quốc đã tấn công vùng biển Việt Nam từ năm 1974 đến nay.
Vietnamnet có tít bài trước khi sửa chữa là "Huy động toàn dân để bảo vệ chủ quyền và phẩm giá của Dân tộc". Không những chỉ thẳng Trung Quốc, những bài viết này sử dụng từ ngữ mạnh như "dã tâm, xâm chiếm, tham vọng bành trướng…" nhằm khơi gợi tinh thần chống Trung Quốc của người dân Việt Nam.
Đây không phải là lần đầu tiên xảy ra căng thẳng trong quan hệ Việt Nam và Trung Quốc liên quan đến tranh chấp chủ quyền Biển Đông trong những năm qua. Tuy nhiên, khác với các năm 2007, 2011, 2012, 2014, lần này người ta không thấy những cuộc biểu tình rầm rộ chống Trung Quốc, biểu lộ lòng yêu nước của đông đảo người dân Việt Nam.
Không cần nhà nước bật đèn xanh
Lý giải về hiện tượng vắng bóng các cuộc biểu tình chống Trung Quốc, nhà hoạt động Nguyễn Lân Thắng, thành viên của đội bóng đá NO-U FC chủ trương chống "đường lưỡi bò" mà Bắc Kinh tự ý vẽ ra trên Biển Đông nhận định :
"Thực ra bây giờ, các bài báo đó không có tác dụng và ảnh hưởng lớn đến phong trào biểu tình chống Trung Quốc và các tổ chức xã hội dân sự nữa. Bởi vì từ trước đến nay, đã có rất nhiều cuộc xuống đường nhưng người tham gia cảm thấy uất ức là bởi vì lòng yêu nước của họ bị lợi dụng thậm chí là bị phản bội. Rất nhiều người bị đàn áp, bị đánh đập hoặc thậm chí là đi tù.
Gần như 100% ý kiến những người hoạt động liên quan đến các hoạt động chống Trung Quốc hay Đường Lưỡi Bò có cùng một ý kiến chung với nhau là bây giờ mọi việc đã như thế thì hãy cứ để cho Đảng và nhà nước lo trước đã.
Chúng ta có lịch sử 1000 năm Bắc thuộc nhưng vẫn giành lại được độc lập, nhưng trong bối cảnh nhập nhèm như bây giờ, nhân dân bảo vệ tổ quốc mà chính phủ lại đi đêm với Trung Quốc. Người dân đang rất quan tâm cần sự minh bạch trắng đen rõ ràng các đường lối chính sách của nhà nước trong tình hình thực tại".
Tàu Hải cảnh của Trung Quốc ở Bãi Tư Chính - Courtesy of Twitter Ryan Martinson
Bà Bùi Thị Minh Hằng, người từng rất nhiều lần tham gia các cuộc biểu tình chống Trung Quốc trong năm 2011 trước khi bị chính quyền Hà Nội bắt giữ, đưa đi cải tạo với thời hạn 5 tháng khẳng định, bà sẽ không xuống đường dù có được chính quyền "bật đèn xanh".
"Bản thân tôi đã nhiều lần bị bắt bớ cho nên nên bây giờ tôi xác định là sẽ không xuống đường theo lời kêu gọi của chính quyền.
Lần này khi Trung Quốc có có hành động xâm lược ở bãi tư chính trong khi bà Ngân - Chủ tịch Quốc hội lại đang thăm viếng Trung Quốc. Vì thế, người dân nghi ngờ rằng đây là một màn kịch.
Những lần trước, nhà cầm quyền Việt Nam hoàn toàn không hề có một động thái gì để bảo vệ chủ quyền đất nước cả. Họ không cần người dân, cũng không vận động quốc tế, cũng không đưa Trung Quốc ra toà giống như một số nước khác đã làm.
Những hành động đó của nhà cầm quyền Việt Nam cho thấy việc kêu gọi người dân bảo vệ chủ quyền đất nước chỉ là một sự mị dân lừa gạt thôi",
Một người dân ở Sài Gòn giấu tên, có quan tâm đến tình hình đất nước, cũng khẳng định với phóng viên RFA rằng, yêu nước không phải theo thời vụ :
"Yêu nước thì phải rõ ràng chứ không phải theo kiểu thời vụ lúc này lúc khác. Yêu nước không cần phải bị định hướng hay không phải hỏi bất cứ ai.
"Tôi thấy mặc dù ban tuyên giáo hay báo đảng đã "bật đèn xanh", hô hào sự xuống đường (tuy họ ko nói trực tiếp nhưng có ý như vậy) nhưng người dân Việt Nam đã đủ tỉnh táo để hiểu rằng yêu nước là vô điều kiện, không cần ai cho phép, không cần ai bật đèn xanh, khi nào thấy cần thiết thì tự khắc xuống đường".
Trả tự do cho những người tù lương tâm để huy động được sức dân
Từ năm 2007 đến nay, đã có ít nhất hàng chục người dân bị tòa án Việt Nam ghép các tội trạng khác nhau vì tham gia phản đối Trung Quốc trên mạng xã hội, hoặc trực tiếp xuống đường.
Năm 2008, nhà văn Phạm Thanh Nghiên bị bắt giữ và tuyên án 4 năm tù giam khi đang tọa kháng tại nhà với hai biểu ngữ yêu cầu chính phủ Hà Nội có thái độ cứng rắn đối với việc Trung Quốc lấn chiếm đảo Trừơng Sa và Hoàng Sa.
Cách đây 5 năm, một số người tham gia biểu tình chống vụ Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD 981 trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam cũng bị lực lượng mặc áo Thanh niên xung phong ở Thành phố Hồ Chí Minh bắt giữ và đánh đập.
Trả lời cho câu hỏi "làm cách nào để chính quyền hiện nay có thể lấy huy động được sức dân nhằm chống lại sự bành trướng của Trung Quốc", người dân Sài Gòn không nêu tên bày tỏ :
"Lúc trước, chính quyền coi những người biểu tình là những kẻ bị xúi giục, phản động, gây rối. Tuy nhiên đến giai đoạn này thì họ dường như lại cần cái sự "phá rối" đó.
Nếu họ thật tâm thật lòng muốn người dân thể hiện sự phản đối chính quyền Bắc kinh. Họ phải làm một điều gì đấy như là thả những người bị bắt vì tham gia biểu tình. Họ phải hành động để người dân tin tưởng. Người dân đâu phải là con rối trong tay chính quyền !".
Ông Nguyễn Lân Thắng, một nhà hoạt động thường chụp ảnh các cuộc biểu tình chống Trung Quốc đưa ra các giải pháp :
"Điều đầu tiên là đất nước này cần phải có sự dân chủ hóa, phải thay đổi Hiến pháp, phải loại bỏ điều 4 Hiến pháp và các điều chẳng hạn như là luật đất đai và lực lượng quân đội phải tách ra khỏi sự chỉ huy của đảng Cộng sản".
Ngoài ra, còn rất nhiều việc khác mà tôi tin trong thời gian sớm thì nhà nước chưa thể làm ngay được. Ví dụ như thả các tù nhân lương tâm, những người lên tiếng chống bất công trong xã hội, những người biểu tình chống Trung Quốc và những người có khác biệt về quan điểm chính trị đã bị bắt giam.
Nếu nhà nước dám dũng cảm thay đổi để hòa giải với nhân dân thì tôi tin là sự tha thứ cũng như rộng lượng của người dân ngay lập tức sẽ thay đổi tất cả".
Theo thống kê của Ân Xá Quốc Tế, Việt Nam hiện vẫn còn giữ ít nhất khoảng 128 tù nhân lương tâm, rất nhiều người trong số này bị bắt giữ vì lên tiếng ôn hòa trên mạng xã hội.
Điểm lại những cuộc biểu tình chống Trung Quốc
Gần như những cuộc biểu tình lớn ở Việt Nam trong những năm gần đây đều có yếu tố Trung Quốc.
Ngày 9/12/2007, hàng trăm người đã tập trung biểu tình chống Trung Quốc tại cả Hà Nội, Sài Gòn phản đối vụ việc Trung Quốc sát nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào đảo Hải Nam của Trung Quốc, lập nên Thành phố Tam Sa.
Tại Sài Gòn, bản Tuyên cáo của người Việt Nam yêu nước được ký tên bởi hơn 3000 người, có sự tham gia của giới văn nghệ sĩ trong đó có nhạc sĩ Tuấn Khanh.
Sáng ngày 29/4/2009, một cuộc biểu tình tại Hà Nội nhằm phản đối sự kiện rước ngọn đuốc Olympics Bắc Kinh đã bị dập tắt nhanh chóng. Nhiều người bị bắt chỉ khoảng 15, 20 phút ngay sau thời điểm bắt đầu.
Biểu tình chống Trung Quốc tại Hà Nội hộm tháng 6, 2011 - AFP
Ngày 5/6/2011, biểu tình nổ ra ở cả Hà Nội và Sài Gòn. Những người tập trung trước tòa đại sứ Trung Quốc, yêu cầu Bắc Kinh tránh xa các vùng biển mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền.
Nguyên nhân là do sự kiện một tàu hải giám Trung Quốc cố ý cắt cáp thăm dò của tàu Bình Minh 02 thuộc Tập đoàn dầu khí Quốc gia Việt Nam khi con tàu đang tiến hành các cuộc khảo sát dầu khí ở Biển Ðông.
Liên tiếp những ngày cuối tuần sau đó, Hà Nội liên tục biểu tình phản đối Trung Quốc cho đến đầu tháng 8/2011, khi mà chính quyền Việt Nam thẳn tay đàn áp, bắt bớ người tham gia biểu tình.
Mùa hè năm 2012, hàng ngàn người đã xuống đường tại Hà Nội và Sài Gòn để phản đối Trung Quốc mời thầu dầu khí trong vùng biển Việt Nam và quyết định để thành phố Tam Sa quản lý cả Hoàng Sa và Trường Sa.
Năm 2014, Các cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc hạ đặt giàn khoan dầu khí HD-981 diễn ra trong tháng Năm tại nhiều tỉnh thành trên cả nước, trong đó có : Hà Nội, Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, Bình Dương, Thanh Hoá… Đa số các thành phố những cuộc biểu tình đã diễn ra ôn hòa, thu hút hàng ngàn người tham gia.
Tuy nhiên, một số cuộc biểu tình tại Bình Dương và Hà Tĩnh đã dẫn đến bạo động, phá hoại tài sản nhắm vào các công ty có tiếng Trung Quốc bao gồm cả Đài Loan, Singapore hay cá biệt là Hàn Quốc đang hoạt động tại Việt Nam.
Sau vụ việc này, chính quyền Việt Nam đã đàn áp thẳng tay những người tham gia biểu tình, bắt bỏ tù ít nhất 3 nhà hoạt động thuộc Hội Anh em dân chủ đang quay phim, chụp hình đoàn biểu tình.
Cao Nguyên
Nguồn : RFA, 26/07/2019
*******************
Vì sao Trung Quốc ưa quấy nhiễu Việt Nam ở Biển Đông ?
Nguyễn Anh Tuấn, RFA, 25/07/2019
Năm năm kể từ khi kéo giàn khoan HD981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Trung Quốc nay lại tiếp tục thử lửa quốc gia láng giềng phương Nam bằng việc vừa gửi đội tàu khảo sát địa chấn vừa triển khai tàu cảnh sát biển trang bị vũ khí hạng nặng quấy rối giàn khoan của Việt Nam.
Tàu thăm dò của Trung Quốc và vị trí đang thăm dò. Courtesy of Ryan Martinson/ RFA Edited
Trước chỉ là khảo sát, thăm dò, nhưng nay đã là quấy nhiễu, cản trở hoạt động khai thác dầu khí bình thường của Việt Nam, cho thấy bước leo thang mới của Trung Quốc trong một khu vực hứa hẹn sẽ còn căng thẳng hơn nữa bởi các tranh chấp chủ quyền phức tạp kéo dài.
Nhưng vì sao trong số 5 quốc gia và vùng lãnh thổ có tranh chấp trong khu vực, Việt Nam lại thường được Trung Quốc chọn để tạo tình huống căng thẳng dù trên danh nghĩa vẫn là đồng minh ý thức hệ ?
Không dễ để có câu trả lời rốt ráo song những nhận định của Derek Grossman, chuyên gia phân tích quốc phòng cấp cao của RAND trong bài viết 2 tháng trước đây có thể phần nào đó gợi ý về lời giải.
Trong bài viết có tựa đề rất khiêu khích Vietnam Is the Chinese Military’s Preferred Warm-Up Fight (Quân đội Trung Quốc ưa đánh khởi động với Việt Nam) [1], Derek Grossman chỉ ra có ít nhất 3 lý do khiến Trung Quốc sẽ chọn Việt Nam, nếu muốn đánh khởi động.
Lý do thứ nhất đến từ nhu cầu của chính Trung Quốc khi mà quân đội nước này đang rất cần nâng cao kinh nghiệm tác chiến của hải quân và không quân. Tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam và Trung Quốc ở Biển Đông là một kịch bản được chuẩn bị sẵn sàng để Giải phóng Quân (PLA) thực hành việc chiếm đảo, phòng thủ cũng như hợp đồng tác chiến trên biển chống lại một kẻ địch khu vực.
Lý do thứ hai có liên quan đến yếu tố Hoa Kỳ. Nếu phải chọn ai đó để khai chiến, Trung Quốc sẽ tránh những quốc gia có thể lôi Mỹ vào cuộc vì dù có nhiều tiến bộ song Giải phóng Quân vẫn chưa chuẩn bị đủ cho một cuộc đụng độ với siêu cường số một thế giới. Với Phillipines, tháng 3 vừa rồi Mỹ đã tái khẳng định một cuộc tấn công vào quân đội Philippines sẽ kích hoạt Hiệp ước Phòng thủ Chung giữa hai quốc gia. Với Đài Loan, dù Hoa Kỳ không duy trì một liên minh an ninh chính thức song Luật Quan hệ Đài Loan lại đòi hỏi Washington phải bảo vệ Đài Loan trước các cuộc tấn công của Đại Lục. Riêng Việt Nam với chính sách 3 Không (không liên minh quân sự, không cho quân nước ngoài đồn trú, không hợp tác nước này chống lại nước khác) chắc hẳn sẽ khiến Trung Quốc an tâm hơn nhiều khi động binh.
Cuối cùng, Trung Quốc ưa thích một cuộc chiến mà họ nắm chắc phần thắng. Quân đội Việt Nam hiện khó có thể duy trì tác chiến lâu dài với Trung Quốc vì thua kém về năng lực, huấn luyện và nhân sự. Thêm nữa Việt Nam cũng chưa có nhiều kinh nghiệm tác chiến trên không và trên biển, đặt ra nghi ngờ ngay cả với việc liệu họ có thể tiến hành hợp đồng tác chiến trên biển nổi hay không ?
Nếu những lập luận của Derek Grossman là đúng thì sẽ không ngạc nhiên chút nào nếu Trung Quốc tiếp tục leo thang khiêu khích Việt Nam ở Biển Đông như những gì diễn ra hiện nay, bởi họ rất muốn, hoặc ít nhất là không ngại coi Việt Nam như bao cát để tập đấm.
Nguyễn Anh Tuấn
Nguồn : RFA, 25/07/2019 (nguyenanhtuan's blog)
[1] https://thediplomat.com/2019/05/vietnam-is-the-chinese-militarys-preferred-warm-up-fight/
Chúng tôi lần lượt trình bày tóm lược diễn biến vụ việc Bãi Tư Chính và đưa ra nhận định về đối sách của nhà đương quyền Việt Nam, sẽ là nội dung bài viết này.
Tàu hải cảnh Việt Nam và Trung Quốc "vờn nhau" ở Biển Đông năm 2014.
I. Diễn biến vụ việc Bãi Tư Chính
Vụ việc khởi sự khi vào ngày 3/7/2019 và trước đó, tàu thăm dò "Hải Dương Địa Chất 8" và các tàu hộ tống cảnh sát biển của Trung quốc đã xuất hiện gần Bãi Tư Chính thuộc quần đảo Trường Sa, trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Sự thể này đã dẫn đến một cuộc đối đầu căng thẳng giữa các tàu của lực lượng hải cảnh Việt Nam và Trung Quốc trong mấy tuần qua vẫn đang tiếp diễn, ở nơi mà một công ty của Nga đang thực hiện hoạt động thăm dò dầu khí tại Lô 06.1 của Việt Nam ở Biển Đông theo hợp đồng ký với Việt Nam. Đó là công ty Rosneft của Nga thuê giàn khoan Hakuryu-5 của Công ty Khoan thăm dò Nhật Bản (JDC). Điều này làm người ta nhớ lại một vụ đối đầu căng thẳng khác vào năm 2014 liên quan đến một giàn khoan của Trung Quốc (Hải Dương 981) xâm phạm chủ quyền lãnh hải phía tây bắc Hoàng Sa của Viêt Nam, gây nên biểu tình bạo động của dân chúng lan rộng khắp Việt Nam.
Thông tin về vụ "đối đầu" căng thẳng giữa các lực lượng hải cảnh của Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu xuất hiện trên truyền thông quốc tế và mạng xã hội từ ngày 12/7, sau khi tờ the South China Morning Post dẫn nguồn tin từ nhà nghiên cứu về hải quân Trung Quốc của Mỹ, Ryan Martinson, dựa trên các dữ liệu theo dõi hàng hải. Theo nguồn tin này, 6 tàu hải cảnh, gồm 2 tàu của Trung Quốc và 4 tàu của Việt Nam, được trang bị kỹ càng đã "vờn nhau" trong suốt một tuần qua khi Bắc Kinh đưa tàu Hải Dương Địa Chất 8 vào khảo sát địa chất gần Bãi Tư Chính, thuộc đặc quyền kinh tế và do Việt Nam kiểm soát ở Biển Đông.
Theo ông Ryan Martinson, chuyên gia về hải quân Trung Quốc của Trường Hải Chiến Hoa Kỳ cho biết, rằng tính tới ngày 23/7, các tàu hải cảnh của Trung Quốc "vẫn hoạt động gần giàn khoan dầu của Nhật ở phía tây Bãi Tư Chính", trong khi tàu Haiyang Dizhi 8 "tiếp tục tiến hành khảo sát địa chấn tại Vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở phía tây quần đảo Trường Sa".
Tình trạng tiếp tục căng thẳng hiện nay, là vì Trung Quốc tiếp tục khẳng định chủ quyền nơi đang có tranh chấp, căn cứ trên "bản đồ 9 đoạn" tự vẽ, dù đã bị Tòa án quốc tế phủ nhận giá trị pháp lý cũng như thực tế trong bản án Philippines kiện Trung Quốc mấy năm trước đây (2013-2016). Vì thế, theo cách "vừa ăn cướp vừa la làng", phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng, tại cuộc họp báo hôm 17/7, yêu cầu Việt Nam "nghiêm túc tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc đối với các vùng lãnh hải liên quan và không có bất kỳ hành động nào làm phức tạp tình hình".
Trong khi Việt Nam vẫn luôn xác nhận có đủ bằng chứng lịch sử, pháp lý và thực tiễn về chủ quyền của Việt Nam tại Bãi Tư Chính cũng như trên các vùng biển đảo thuộc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Vì thế, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng đã mạnh mẽ cáo buộc nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung quốc đã vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía nam Biển Đông. Hà Nội cũng nói đã trao công hàm phản đối cho Bắc Kinh và khẳng định lực lượng chấp pháp sẽ tiếp tục "triển khai nhiều biện pháp phù hợp" nhằm bảo vệ vùng biển Việt Nam. Trả lời báo chí trong cuộc họp báo ngày 19/7, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nói : "Trong những ngày qua, nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc đã có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông. Đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác định theo đúng các quy định của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên".
II. Đối sách của Việt Nam ?
Theo nhận định của chúng tôi, đối sách của Việt Nam đi từ dè dặt lúc đầu, đến thái độ và lời nói mạnh bạo sau đó, nhưng vẫn tỏ ra mềm dẻo trong hành động đối ứng thực tế để tránh một cuộc đụng độ quân sự không cân sức, bất lợi cho Việt Nam.
1. Vì dè dặt lúc đầu, vốn là cách ứng xử bao lâu nay của nhà cầm quyền Việt Nam, nên người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng khi lên tiếng tố cáo hành động xâm phạm chủ quyền Việt Nam gần Bãi Tư Chính, đã không dám chỉ đích danh Trung Quốc, (như trước đây từng tránh né không giám tố cáo đích danh tàu Trung quốc đâm chìm tàu đánh cá và sát hại ngư dân Việt Nam, mà chỉ gọi là "tàu lạ"). Trả lời câu hỏi của truyền thông hôm 16/7, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam chỉ nói chung chung có tính nguyên tắc, rằng :
"Như đã nhiều lần khẳng định, Việt Nam có chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển ở Biển Đông được xác định theo đúng các quy định của Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 mà Việt Nam và các nước ở Biển Đông đều là thành viên. Do đó, mọi hoạt động của nước ngoài trên các vùng biển Việt Nam phải tuân thủ các quy định có liên quan của UNCLOS, pháp luật Việt Nam".
2. Thế nhưng chỉ ba ngày sau, Việt Nam đã có thái độ và lời nói mạnh bạo và cứng rắn.
Qua cuộc họp báo ngày 19/7/2019, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã đưa ra chỉ trích sắc bén hơn bằng cách nêu đích danh Trung Quốc "đã có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam" trong khu vực Biển Đông. Trả lời báo chí trong cuộc họp báo này, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, Lê Thị Thu Hằng nói :
"Trong những ngày qua, nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc đã có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông. Đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác định theo đúng các quy định của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên…".
Những động thái trên được đánh giá là hiếm hoi trong những phản ứng chính thức của Việt Nam đối với những hành động được cho là "khiêu khích" của Trung Quốc trong những năm gần đây. Theo nhận định của chúng tôi, động thái hiếm hoi này có lẽ là do Việt Nam đã đo lường trước được một sự hậu thuẫn mạnh mẽ của Hoa Kỳ, do chính sách "xoay trục đối ngoại" tịnh tiến về phía Hoa Kỳ mà thực tế đã có những dấu hiệu trao đổi song phương về ngoại giao và quân sự khả tín, nhất là các hoạt động cụ thể trong những tháng gần đây trong nỗ lực đi từ hợp tác toàn diện đến hợp tác chiến lược toàn diện (như chúng tôi đã trình bày chi tiết trong bài viết mới đây trên diễn đàn này).
Chẳng thế mà, chỉ một ngày sau tuyên bố cứng rắn của Việt Nam, Hoa Kỳ đã mau chóng lên tiếng bảo vệ Việt Nam. Ngày 20/7/2019 Bộ Ngoại giao Mỹ đã ra một Thông báo khá dài cho thấy một sự ủng hộ gần như rõ ràng đối với Việt Nam trong một tranh cãi gay gắt với nước láng giềng và thể hiện lập trường mạnh mẽ của Mỹvề vụ việc được nói là tàu Trung Quốc cản trở hoạt động dầu khí của các nước có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông. Nội dung Thông báo này, đã lên án Trung Quốc bằng những lời lẽ đanh thép, cáo buộc nước này có "hành vi bắt nạt" và "làm suy yếu hòa bình và an ninh khu vực" giữa lúc tàu khảo sát địa chất của Trung Quốc tiếp tục hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ở phía nam Biển Đông.
Thông báo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ có đoạn viết :
"Việc Trung Quốc cải tạo và quân sự hóa các tiền đồn đang tranh chấp ở Biển Nam Trung Hoa, cùng với những nỗ lực khác để khẳng định các yêu sách hàng hải bất hợp pháp ở Biển Nam Trung Hoa, bao gồm việc sử dụng dân quân hàng hải để hăm dọa, cưỡng ép và đe dọa các quốc gia khác, làm suy yếu hòa bình và an ninh của khu vực…".
Và rằng :
"Mỹ kiên quyết phản đối sự cưỡng ép và đe dọa của bất kì nước tuyên bố chủ quyền nào nhằm khẳng định các yêu sách lãnh thổ hoặc hàng hải của mình.
Trung Quốc nên chấm dứt hành vi bắt nạt và kiềm chế thực hiện loại hoạt động khiêu khích và gây bất ổn này…".
Cố vấn an ninh quốc gia Nhà Trắng John Bosten hôm thứ Sáu 18/7 cũng viết trên Twitter với ý tương tự nhắm vào Trung Quốc dù không nhắc cụ thể tới vụ tranh chấp với Việt Nam, rằng :
"Hành vi cưỡng ép của Trung Quốc đối với các nước láng giềng Đông Nam Á là phản tác dụng và đe dọa hòa bình & ổn định trong khu vực…".
Đồng thời trên thực tế, Tư lệnh Tuần duyên Mỹ Karl L. Schultz cũng nhấn mạnh với báo chí hôm 23/7 rằng Tuần duyên Mỹ (USCG) tiếp tục quan hệ hợp tác với Cảnh sát biển Việt Nam và tái khẳng định cam kết lâu dài đối với an ninh khu vực trong bối cảnh tình hình Biển Đông tiếp tục phức tạp. Ông nói :
"Chúng tôi đang hợp tác rất chặt chẽ với Việt Nam và Hà Nội đã tăng cường sức mạnh của lực lượng cảnh sát biển lên rất nhiều".
Mặt khác, phản ứng mạnh bạo bất thường của Việt Nam còn là do đánh giá được phản ứng của Trung Quốc bị hạn chế bởi vùng tranh chấp lần này ở một vị trí đang có một công ty khai thác dầu khí của Nga với kỹ thuật khai thác dầu khí của một công ty Nhật. Vì thế, Trung Quốc không dám hung hăng ra tối hậu thư như vài năm trước đây, đã ép buộc Việt Nam không được để cho công ty Repsol của Tây Ban Nha tiếp tục hợp đồng khai thác dầu khí ở một lô nằm trong thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Mặc dầu cho đến lúc này, chính phủ Nga vẫn giữ im lặng. Nhưng theo nhận định của Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu kỳ cựu tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ISEAS-Yusof Ishak có trụ sở ở Singapore, Nga không lên tiếng, nhưng sẽ không bao giờ rút giàn khoan như công ty khai tháp dầu khí của Tây ban Nha, mà sẽ khai thác cho đến khi hết cạn túi dầu. Ông nói với VOA, rằng :
"Có thể khẳng định rằng người Nga có nói gì hay không nói gì thì doanh nghiệp Nga đó chỉ rút về khi hết dầu, hết khí thôi. Tức là họ sẽ không rút. Người Nga khai thác ở vùng biển Việt Nam từ năm 1978. Người Nga rất hiểu luật. Họ có tuyên bố, có nói gì hay không, cũng không thay đổi hiện trạng là công ty Rosneft và công ty khác của Nga, không bao giờ người ta rút cả".
Chính vì những yếu tố có được trong quan hệ với Hoa Kỳ và sự có mặt của hai công ty Nga, Nhật nơi vùng đang tranh chấp, cũng như biết được hành động ngang ngược của Trung Quốc mang tính thăm dò phản ứng các bên có liên quan, Việt Nam đã quốc tế hóa được việc giải quyết tranh chấp đa phương, đo lường được mức độ phản ứng của Trung Quốc nên mới dám tỏ thái độ cương quyết, mạnh bạo như thế. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam trong cuộc họp báo ngày 19/7 nói :
"Duy trì trật tự, hòa bình, an ninh ở khu vực Biển Đông là lợi ích chung của các nước trong và ngoài khu vực cũng như cộng đồng quốc tế".
Và,
"Do đó, Việt Nam mong muốn các nước liên quan và cộng đồng quốc tế cùng nỗ lực đóng góp nhằm bảo vệ và duy trì lợi ích chung này".
3. Tuy nhiên Việt Nam vẫn tỏ ra mềm dẻo trong hành động đối ứng thực tế để tránh một cuộc đụng độ quân sự không cân sức với Trung Quốc, bất lợi cho Việt Nam.
Cung cách đối ứng mềm dẻo này, đã được người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam lặp lại chủ trương của Việt Nam từ trước tới giờ là giải quyết tranh chấp, bất đồng, bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế và Công ước quốc tế về Luật Biển (UNCLOS). Trong vụ giai quyết tranh chấp hiện hiện nay trên thực tế, người phát ngôn nói là Việt Nam đang theo đuổi các kênh ngoại giao, vận động quốc tế. Nhưng không rõ có nối tiếp hành đồng pháp lý là kiện Trung Quốc trước Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) như Philippines đã khởi kiện năm 2013 và thắng kiện Trung Quốc năm 2016. Mặc dầu phán quyết này không buộc được Trung Quốc thi hành và cơ quan tài phán này cũng không thể có biện pháp cưỡng hành. Thế nhưng ít ra cũng có thêm bằng chứng pháp lý trong hồ sơ bảo vệ chủ quyền biển đảo thuộc hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam để trong tương lai, khi có thời cơ thuận lợi, sẽ đòi lại các đảo bị Trung Quốc cưỡng đoạt bằng giải pháp pháp lý.
Bên lề Hội nghị Biển Đông thường niên lần thứ 9 do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) tổ chức ở Washington D.C. hôm 24/7, bà Bonnie Glaser, Giám đốc Chương trình Sức mạnh Trung Quốc tại CSIS, đã trả lời VOA về làm sao Việt Nam có thể ngăn ngừa những vụ xâm phạm tương tự như thế trong tương lai, bà nói ‘khởi sự kiện Trung Quốc sẽ là một bước đi rất hay’. Và rằng "Đó sẽ là một bước đi rất quan trọng và tôi sẽ không đánh giá thấp tác động của nó (đối với Trung Quốc) ".
III. Kết luận
Trước hành động ngang nhiên đưa tàu thăm dò "Hải Dương Địa Chất 8" và các tàu hộ tống cảnh sát biển của Trung quốc vào gần Bãi Tư Chính thuộc quần đảo Trường Sa, trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Đối sách của Việt Nam đi từ dè dặt lúc đầu, đến thái độ và lời nói mạnh bạo sau đó, nhưng vẫn tỏ ra mềm dẻo trong hành động đối phó thực tế để tránh một cuộc đụng độ quân sư không cân sức, bất lợi cho Việt Nam.
Nhưng hiệu quả của đối sách này thế nào : liệu Trung Quốc có rút êm các tàu của họ vô điều kiện hay có điều kiện gì ? Hay trong tình thế căng thẳng hiện nay liệu có dẫn đến nguy cơ nổ súng như Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp lo ngại". Sẽ đến lúc mà không kiềm chế được là sẽ có bắn nhau. Nó sẽ xảy ra như thế nếu như người Trung Quốc trong thời gian tới không rút…". Tất cả đều ở phía trước, chúng ta hãy chờ xem, hiệu quả thực tế không lâu lắm đâu.
Thiện Ý
Houston, ngày 25/7/2019
Việt Nam yêu cầu Trung Quốc lập tức rút tàu ra khỏi bãi Tư Chính (RFI, 25/07/2019)
Hà Nội hôm 25/07/2019 yêu cầu Trung Quốc "rút ngay lập tức" chiếc tàu Hải Dương Địa Chất 8 đang thăm dò trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng. Ảnh họp báo ngày 25/07/2019. Reuters/Kham
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng hôm nay tuyên bố : "Việt Nam đã có nhiều biện pháp ngoại giao phù hợp, trao công hàm phản đối cho phía Trung Quốc, các lực lượng chức năng Việt Nam đã triển khai các biện pháp theo đúng pháp luật. Chúng tôi yêu cầu Trung Quốc rút ngay lập tức các tàu ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam".
Bà Lê Thị Thu Hằng khẳng định : "Việt Nam kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán, đúng theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế".
Đây là lần thứ ba trong vòng 10 ngày qua Hà Nội lên tiếng phản đối việc Trung Quốc xâm phạm vùng biển Việt Nam, và ngày càng tỏ ra kiên quyết hơn.
Giáo sư Ryan Martinson, trường Hải Chiến Hoa Kỳ hôm nay 25/7 ghi nhận tàu Hải Dương Địa Chất (Haiyang Dizhi) 8 vẫn tiếp tục hoạt động tại bãi Tư Chính, ngoài ra còn có thêm sự hiện diện của một tàu hải cảnh Trung Quốc 5.000 tấn mang số hiệu 3501.
Báo chí trong nước cho biết thêm, giàn khoan Hakuryu-5 đang hoạt động tại lô 06.1 bể Nam Côn Sơn ngoài khơi thềm lục địa Việt Nam sẽ kéo dài hoạt động thêm một tháng rưỡi, đến hết ngày 15/9, thay vì rút đi vào ngày 30/7 như dự kiến. Tổng công ty Bảo đảm an toàn hàng hải miền Nam đề nghị tàu bè cần di chuyển cách xa giàn khoan.
Theo Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS), tàu Hải Dương Địa Chất 8 của Cục Địa Chất Trung Quốc từ ngày 3/7 thăm dò tại khu vực bãi Tư Chính, nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa Việt Nam.
Cũng theo CSIS, trước khi phát hiện được chiếc thăm dò tàu này, các tàu tuần duyên cỡ lớn trang bị vũ khí hạng nặng của Trung Quốc cũng đã lao thẳng vào giữa hai tàu Việt Nam đang bảo vệ một giàn khoan Rosneft liên doanh với Nga tại lô 06.1 một cách nguy hiểm, nhằm đe dọa.
Cuối tuần rồi Hoa Kỳ đã yêu cầu Trung Quốc và đội ngũ "dân quân biển" chấm dứt việc quấy nhiễu hoạt động khai thác dầu khí của các nước khác tại Biển Đông. Bắc Kinh tố cáo Washington "vu khống".
Thụy My
****************
Chống Trung Quốc ở Biển Đông : Việt Nam làm gương cho Duterte ? (RFI, 25/07/2019)
Trong những ngày qua, thời sự Biển Đông nổi cộm với vụ Trung Quốc vào đầu tháng cho tàu vào khảo sát khu vực Bãi Tư Chính gần Trường Sa, đồng thời sách nhiễu tàu tiếp tế phục vụ cho một giàn khoan dầu cho Việt Nam. Đây là khu vực nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Chính quyền Việt Nam đã lập tức cho tàu chấp pháp của mình ra ngăn chặn, và đã công khai lên tiếng đòi Trung Quốc rút tàu đi.
Một tầu hải cảnh Trung Quốc (trắng) gần một con tầu của cảnh sát biển Việt Nam tại Biển Đông, khoảng 210 km (130 hải lý) ngoài khơi Việt Nam, ngày 14/05/2014. Reuters / Nguyễn Minh
Trong lúc Việt Nam có phản ứng dứt khoát nhằm ngăn chặn các hoạt động của Trung Quốc, Philippines, một nước Đông Nam Á khác mà vùng đặc quyền kinh tế (gần đây nhất là tại khu vực Bãi Cỏ Rong) bị Trung Quốc xâm phạm, lại không nói gì. Thậm chí, trong thông điệp gởi toàn quốc hôm 22/07/2019, tổng thống Duterte lại công khai nhắc lại quan điểm "chủ bại" của ông khi cho rằng Trung Quốc đã "chiếm hữu và kiểm soát" được Biển Đông rồi, sức mạnh quân sự của Trung Quốc lại hùng hậu hơn Philippines gấp bội, vì thế không nên đụng với Bắc Kinh.
Trước hai cách phản ứng chống lại các hành động áp đặt yêu sách chủ quyền của Trung Quốc, nhiều chuyên gia đã cho rằng, thay vì có phản ứng khiếp nhược trước Bắc Kinh trên vấn đề Biển Đông, Manila nên học tập cách ứng phó của Việt Nam.
Thói thường của Trung Quốc : Mềm nắn, rắn buông
Trong bài viết : "Malaysia và Việt Nam cho thấy là Philippines có thể kháng lại Trung Quốc - Malaysia, Vietnam show PH can stand up to China", tờ báo mạng Philippines Rappler ngày 23/07/2019 đã trích lời chuyên gia Gregory Poling, giám đốc cơ quan Sáng Kiến Minh Bạch Hàng Hải Châu Á (AMTI) thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Tế và Chiến Lược (CSIS) tại Washington, cho rằng : "Khi các nước có yêu sách chủ quyền (trên Biển Đông) chủ động vùng lên và không để mình bị hù dọa, trong đa số trường hợp, Bắc Kinh đều lùi bước, thay vì dùng võ lực".
Ghi nhận trước tiên của tờ Rappler là Malaysia và Việt Nam vẫn tiếp tục các hoạt động dầu khí ở Biển Đông bất chấp các cuộc chạm trán căng thẳng với tàu Hải Cảnh Trung Quốc trong vùng biển của mình. Điều đó cho thấy là Philippines có thể chống lại các hoạt động xâm lược của Trung Quốc khi Bắc Kinh cho thăm dò dầu khí ở Biển Đông (mà Manila đã cải tên thành Biển Tây Philippines).
Trả lời phỏng vấn của trang mạng Rappler, ông Poling nêu bật sự kiện là cuộc đối đầu giữa Việt Nam và Malaysia với Trung Quốc hiện đang diễn ra gần các giàn khoan dầu nằm ở bên trong vùng đặc quyền kinh tế của hai nước Đông Nam Á.
Dù bị Trung Quốc sách nhiễu, giàn khoan Việt Nam vẫn hoạt động
Liên tưởng đến khu vực Bãi Cỏ Rong (Reed Bank) của Philippines, được cho là có trữ lượng dầu khá lớn mà Manila rất muốn khai thác, chuyên gia Mỹ cho rằng nếu thúc đẩy việc thăm dò khu vực này mà không được phép của Trung Quốc, thì chắc chắc Philippines sẽ bị "những kiểu sách nhiễu tương tự".
Bãi Cỏ Rong là một khu vực ở phía đông bắc quần đảo Trường Sa, trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines, hiện do Manila kiểm soát, nhưng bị Bắc Kinh đòi chủ quyền.
Diễn biến tình hình hiện nay giữa Malaysia và Việt Nam với Trung Quốc, theo ông Poling, có thể giúp cho Philippines một bài học : Đó là "trong cả hai trường hợp Malaysia và Việt Nam, hành vi quấy rối của Trung Quốc đã không thể ngăn các giàn khoan Malaysia và Việt Nam hoạt động".
Duterte cần học cách phản ứng cứng rắn của Aquino và Việt Nam
Nhận định về các hành vi quấy nhiễu của Trung Quốc nhắm vào Việt Nam và Malaysia, giám đốc AMTI cho rằng điều đó cho thấy là chiến lược của Trung Quốc chỉ là sách nhiễu và hù dọa chứ không phải là dùng võ lực.
Trong chiều hướng đó, ông Poling khẳng định rằng nếu bị kháng cự, Bắc Kinh sẽ lùi bước. Chuyên gia Mỹ nhắc lại rằng vào năm 2014, thời tổng thống Aquino, chính quyền Philippines đã chống lại việc Trung Quốc phong tỏa Bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal, mà người Philippines gọi là Ayungin), và "đó là điều mà chính quyền Malaysia và Việt Nam đang làm".
Không chống lại Trung Quốc sẽ phải trả giá
Theo các nhà phân tích, nếu không làm gì để chống lại các hành vi sách nhiễu của Trung Quốc, Philippines tất nhiên sẽ phải trả giá.
Theo Rappler, tổng thống Philippines Rodrigo Duterte đã nhiều lần tuyên bố rằng Trung Quốc sẽ sẵn sàng gây chiến với Philippines nếu nước này khẳng định quyền của mình ở Biển Đông. Đối với các chuyên gia, đây là một lập luận sai lạc. Mặc dù vậy, ông Duterte tiếp tục nhắc lại các mối đe dọa về nguy cơ chiến tranh với Trung Quốc mà Philippines chắc chắn sẽ bị thảm bại trong bài diễn văn gởi toàn quốc hôm 22 tháng 7 vừa qua.
Theo ông Poling, cho dù việc Philippines tiếp tục khẳng định chủ quyền của mình ở Biển Đông hàm chứa một số rủi ro, nhưng Manila sẽ phải trả giá nặng nề hơn khi từ bỏ việc khẳng định các quyền hợp pháp của mình trong vùng biển của mình.
Chuyên gia Mỹ xác định nguyên văn như sau : "Cách tốt nhất để giảm thiểu rủi ro không phải là không làm gì cả, mà là củng cố thêm quan hệ liên minh với Hoa Kỳ, làm cho rõ rằng bất kỳ một cuộc tấn công nào của Trung Quốc vào Philippines sẽ dẫn đến sự can thiệp của Mỹ, đồng thời bền bỉ khẳng định chủ quyền của mình để Trung Quốc hiểu rằng bắt nạt sẽ không có kết quả".
Lời kết luận của ông Poling rất rõ ràng khi ông nhắc đến cách đối phó của Việt Nam : "Người ta sẽ không bao giờ nghe thấy các quan chức Việt Nam công khai than thở rằng họ không thể khẳng định các quyền của nước họ, vì họ không thể chiến đấu chống lại Trung Quốc. Ngược lại là khác, người Việt Nam đã chiến đấu chống Trung Quốc, đồng thời cho rằng bản thân Trung Quốc cũng không muốn chiến tranh như mọi nước khác".
Biển Đông : Bắc Kinh không đối xử được với Hà Nội như với Philippines
Khác biệt trong đối sách Trung Quốc của Việt Nam và Philippines cũng đã được nhật báo Mỹ Forbes chú ý khi vừa xuất hiện những thông tin đầu tiên về vụ Việt Nam đưa tàu ra ngăn chặn tàu Trung Quốc tại khu vực Bãi Tư Chính.
Trong bài viết ngày 13/07 mang tựa "Biển Đông : Bắc Kinh không thể đối xử với Việt Nam như là đối với Philippines - Beijing Shouldn't Treat Vietnam Like The Philippines", tờ báo Mỹ đã đăng ý kiến riêng của chuyên gia Panos Mourdoukoutas, công tác viên của Forbes.
Theo chuyên gia này, Bắc Kinh cũng muốn áp dụng chính sách chiêu dụ Hà Nội như đã thành công khi thuyết phục được ông Duterte "trở cờ", và lặng thinh nhìn Trung Quốc hoành hành tại vùng biển mà Manila tuyên bố chủ quyền. Thế nhưng Bắc Kinh đã thất bại.
Theo ông Mourdoukoutas, liên quan đến tranh chấp Biển Đông, chính sách chiêu dụ của Bắc Kinh không thành công với Việt Nam, và Hà Nội không xem Bắc Kinh là một người "bạn", giống như cách mà Tổng thống Rodrigo Duterte đã bày tỏ. Điều này đã được thấy khi Việt Nam triển khai lực lượng để đối đầu với tàu Trung Quốc thâm nhập vào vùng biển mà Bắc Kinh tranh chấp với Hà Nội.
Trọng Nghĩa
Bãi Tư Chính : Nguy cơ Việt Nam đơn thân không có Mỹ
Thường Sơn, VNTB, 25/07/2019
Ba tuần sau vụ tàu Trung Quốc xâm nhập Bãi Tư Chính như vào chốn không người, chính thể ‘đảng em’ ở Việt Nam đang phải đối mặt với nguy cơ không có được sự hỗ trợ của Hoa Kỳ trong cuộc chiến giành quyền khai thác dầu khí ở Biển Đông với ‘đảng anh’ Bắc Kinh.
'Đảng anh' và 'đảng em' thời chưa gấu ó
Những phản ứng mới nhất từ Washington và từ lực lượng tuần duyên Mỹ là khá hờ hững, so với yêu cầu can thiệp sâu hơn nhiều của chế độ bị xem là ‘hèn với giặc, ác với dân’.
Ngày 23/7/2019, Tư lệnh Tuần duyên Mỹ Karl L. Schultz đã chỉ nói chung chung và rất ngoại giao rằng Tuần duyên Mỹ (USCG) nhấn mạnh quan hệ hợp tác với Cảnh sát biển Việt Nam. "Trước những hành xử mang tính cưỡng ép và khiêu khích đang diễn ra, USCG mang đến sự minh bạch trong tiếp cận và hợp tác", ông Schultz nói. "Năng lực đặc biệt trong mở rộng quan hệ quốc tế của USCG cho phép chúng tôi hỗ trợ cải thiện năng lực của các nước đối tác và thúc đẩy cách ứng xử dựa trên pháp luật mà Mỹ mong muốn nhìn thấy trong khu vực".
Nhưng khi được báo chí hỏi về việc tàu Trung Quốc đang có những hành động quấy rối tại Bãi Tư Chính trong vùng biển "thuộc chủ quyền của Việt Nam", Đô đốc Schultz đã từ chối bình luận về khả năng lực lượng tuần duyên Mỹ có hành động trong tương lai nhằm đối phó "kiểu hành xử ngang ngược này" hay không. Ông Schultz cho biết vấn đề này thuộc phạm vi trả lời của Hạm đội 7 và Bộ tư lệnh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, vốn chịu trách nhiệm tổ chức các hoạt động của USCG tại khu vực.
Cách trả lời trên của Đô đốc Schultz cho thấy ít ra ngay trước mắt, không chỉ lực lượng tuần duyên Mỹ mà cả Hạm đội 7 của Hoa Kỳ sẽ không có động thái can thiệp, dù là gián tiếp, vào khu vực Bãi Tư Chính đang nóng bỏng bởi những trận đánh võ mồm và vờn nhau qua lại của hai đảng anh em Việt - Trung.
Sau khi trở thành quốc gia đầu tiên,và có lẽ là duy nhất, lên tiếng gián tiếp ủng hộ Việt Nam trong vụ Bãi Tư Chính, người Mỹ vẫn không có bất kỳ động thái quân sự nào để ‘dằn mặt’ Trung Quốc. Hiện tương này là khá trái ngược với những năm gần đây khi, Mỹ không chỉ phản ứng bằng hành động ngoại giao mà còn cho máy bay chiến đấu và tàu chiến tuần tiễu, tàu khu trục vào vùng biển và không gian Biển Đông để răn đe hoạt động cường bá của Trung Quốc.
Vì sao vào lần này Mỹ có vẻ thay đổi thái độ mà không hoặc chưa có những hành đông cụ thể hỗ trợ Việt Nam ?
Chung quy cũng tại thói du dây trả treo của Hà Nội.
Vào năm 2014, khi giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc xông thẳng vào vùng lãnh hải Việt Nam như một cái tát nổ đom đóm vào mặt Bộ Chính trị Hà Nội, hầu hết các "đối tác chiến lược" của Việt Nam, kể cả nước Nga của Putin, đều thờ ơ hoặc quay lưng khi Việt Nam bị uy hiếp. Khi đó, tư lệnh quân đội Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương, Đô Đốc Samuel Locklear, đã gợi ý vẫn còn cửa cho "đối tác chiến lược toàn diện" giữa Mỹ và Việt Nam, hàm ý rằng Việt Nam cần rõ ràng và dứt khoát hơn trong mối quan hệ quân sự với Mỹ chứ không thể đeo bám chính sách "đu dây" nguy hiểm giữa Mỹ và Trung Quốc. Tuy nhiên, chính thể Việt Nam đã phớt lờ hảo ý của người Mỹ mà vẫn đeo đuổi mối quan hệ ngày càng nguy hiểm hơn với người bạn "bốn tốt – mười sáu chữ vàng".
Đã 5 năm trời qua kể từ vụ Hải Dương 981 năm 2014, nhưng sự thể tồi tệ là não trạng ngả ngớn đu lắc và õng ẹo đu dây chính trị vẫn bị nén chặt trong những cái đầu bí bách và bế tắc của giới chóp bu Việt Nam. Não trạng luôn duy trì hy vọng đầy ảo tưởng vào tình cảm ‘bốn tốt’ và ‘mười sáu chữ vàng’ với Bắc Kinh đã dẫn đến hậu quả là cho đến nay, đã chẳng có bước tiến đáng kể nào trong mối quan hệ hợp tác quốc phòng Việt - Mỹ, trong khi vấn đề sự hiện diện của hải quân và không quân Hoa Kỳ tại quân cảng Cam Ranh lẽ ra đã phải được ưu tiên số một. Và lẽ ra tại Cam Ranh giờ đây đã phải có hình ảnh thường trú của một hàng không mẫu hạm Mỹ.
Hậu quả là giờ đây tại Bãi Tư Chính, chính thể độc tài Việt Nam nhiều khả năng sẽ phải đơn thân đối chọi với ‘đồng chí tốt’ Trung Quốc. Trong khi đó, Trump chỉ… khoanh tay đứng nhìn.
Thường Sơn
Nguồn : VNTB, 25/07/2019
******************
Chỉ một con đường duy nhất có thể cứu Việt Nam !
Nguyễn Đình Ấm, VNTB, 25/07/2019
Đành rằng, nhà cầm quyền nào cũng muốn nắm quyền mãi mãi nhưng nắm quyền để mất nước thì đảng Cộng Sản đắc tội với dân tộc.
Tàu hải cảnh Trung Quốc ngang nhiên đi lại ở khu vực bãi Tư Chính.
Từ 3/7/ 2019 Trung Quốc lại cho tàu thăm dò địa trấn đến khu vực bãi Tư Chính thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam để khảo sát, quấy phá công việc sản xuất dầu, khí của Việt Nam, đúng dịp bà Nguyễn Thị Kim Ngân chủ tịch Quốc hội đang vui vẻ ở Trung Quốc.
Không thể tính nổi những hành vi xâm lược từng nấc một của Trung Quốc với Việt Nam. Từ việc ngang nhiên đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa, phần lớn quần đảo Trường Sa đến việc xua đuổi các dự án của Việt Nam liên doanh với nước ngoài, đâm chìm tàu cá, dìm ngư dân xuống biển, cướp sản phẩm... Những cuộc xâm lăng mang tính khủng bố này của Trung Quốc cứ từng bước dấn vào sâu vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam biến thành các vùng tranh chấp với Trung Quốc... Bằng thủ đoạn "tằm ăn dâu" này biển của Việt Nam cứ hẹp dần và chẳng bao lâu nữa hoàn toàn thuộc Trung Quốc...
Ngoài cưỡng chiếm biển Đông, Trung Quốc cũng dần triệt hạ nguồn sống của nước Việt bằng cách tự mình và xúi Lào, Camphuchia xây hàng chục đập thủy điện trên sông Mekong, sông Hồng dẫn đến đồng bằng sông Cửu Long hạn hán, xâm mặn, sạt lở, không còn phù sa, đồng bằng sông Hồng thiếu nước,hạn hán, ngày càng cằn cỗi. Ngoài mọi phá phách về kinh tế, môi trường, đầu độc sức khỏe, truy lùng đến cả con giun, cái kiến của Việt Nam, Trung Quốc còn tài trợ xúi dân Việt ở các vùng cao, biên giới phía bắc di cư tự do vào nam và các địa phương phá nốt số rừng còn lại và bỏ trống biên giới để dân Trung Quốc xâm canh, xâm cư sang Việt Nam...
Trung Quốc đã, đang bao vây, tàn phá bốn mặt Việt Nam, cái thòng lọng ở cổ dân tộc Việt Nam đang thít dần !
Đứng trước tình hình biển Đông, an nguy của dân tộc như thế nhưng xem ra lãnh đạo Việt Nam vẫn không có đối sách chiến lược nào để phá cái thòng lọng đang thít vào cổ nước Việt. Cứ mỗi khi Trung Quốc có hành vi xâm phạm quá đáng không thể dấu diếm thì nhà cầm quyền vẫn chỉ loanh quanh phản ứng mơ hồ : "Nước ngoài xâm phạm... là không có giá trị... Đấu tranh bằng biện pháp hòa bình... Vừa hợp tác, vừa đáu tranh...". Sự thật là Việt Nam cứ hòa bình nhưng Trung Quốc cứ lấn tới. Đặc biệt, kẻ bị xâm lược lại có chính sách "ba không" tự cô lập mình : "Không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của của bất kỳ nước nào, không cho nước nào đặt căn cứ quân sự để chống nước khác".
Phải chăng, đây là nguyên tắc do Trung Quốc chỉ đạo ?
Bởi vì, từ 2.000 năm qua chỉ có Trung Quốc xâm lược Việt Nam trong khi nền kinh tế, tiềm lực quân sự của Việt Nam yếu hơn Trung Quốc rất nhiều, nếu một mình Việt Nam thì có thể chống lại được Trung Quốc ?
Sở dĩ thời phong kiến ông cha ta có thể một mình chống được Trung Quốc khi họ tràn vào nước ta do thời đó tham gia cuộc chiến chỉ có sức người, sức ngựa, xe thô sơ nên dù Trung Quốc có tiềm lực lớn nhưng không thể huy động lực lượng tác chiến cùng lúc vào Việt Nam đi trên những con đường mòn hiểm trở. Năm 1979 nền quốc phòng Trung Quốc còn lạc hậu mà chỉ cỡ nửa tháng đã chiếm, tàn phá phần lớn 6 tỉnh biên giới phía bắc. Ngày nay sau 40 năm tiềm lực quân sự Trung Quốc đã đứng thứ 3 thế giới với xe cơ giới, máy bay, tên lửa,thông tin liên lạc hiện đại thì sao ? Năm 1974 Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, năm 1984 đánh chiếm Gạc Ma, trên biển đông họ liên tục đánh giết ngư dân, quấy phá các dự án kinh tế của ta như "chỗ không người".
Hiện nay Việt Nam chỉ có hai thuận lợi nhỏ : Thế giới "phẳng", tức hành động sai trái của quốc gia nào cũng bị thế giới quan sát và biển đông liên quan lợi ích của nhiều nước khác. Trung Quốc chưa ồ ạt đánh chiếm Việt Nam ngay một lần mà phải dùng biện pháp "tằm ăn dâu" là nhờ hai yếu tố này.
Tuy nhiên, Trung Quốc không từ bỏ kế hoạch cưỡng chiếm toàn bộ biển Đông, nước Việt vì lợi ích chiến lược : Khống chế con đường hàng hải châu Á-Thái bình dương-Ấn Độ dương và nguồn dầu, khí, băng cháy khổng lồ ở biển Đông.
Khi "sự đã rồi" Việt Nam đừng hòng ai giúp Việt Nam chống Trung Quốc vì nước nào cũng tính đến lợi ích của họ. Sau khi chiếm biển đông Trung Quốc chỉ thay Việt Nam quản lý việc đi lại của tàu bè quốc tế không có gì thay đổi và hãy xem Nga chiếm Creame của Ucraina, chiếm Osetia, Apkhazia của Gruzia...có ai làm gì ? Hãy xem ngay trong khối Asean cùng chung vận mệnh biển Đông còn chia rẽ, hội nghị bộ trưởng quốc phòng ASEAN lần thứ 13 họp ở Bangkok ngày 11/7 vừa rồi có ai dám nhắc tên Trung Quốc quân sự hóa biển đông ? Những lần Trung Quốc gây hấn với Việt Nam các nước bạn "chí cốt" Lào, Campuchia, Cu Ba, Triều Tiên có ai hé nói một câu ? Đặc biệt vụ Hải Dương 981 năm 2014 Nga còn ủng hộ Trung Quốc.
Vì vậy chỉ còn cách học theo các nước như Hàn, Đài, Philipine, Nhật... để có thể giữ được nước. Tuy nhiên, các nước hùng mạnh có thể ngăn chặn Trung Quốc đều là những nước dân chủ, văn minh, nhân dân không thể cho chính phủ của mình đem tài sản, xương máu con em họ đi bảo vệ một chế độ độc tài lạc hậu như Việt Nam.
Vì vậy, nếu đảng cộng sản Việt Nam muốn cứu nước, đặt lợi ích của dân tộc lên trên lợi ích của đảng thì trước hết phải kiên quyết kiện Trung Quốc ra tòa, huy động toàn lực ngăn chặn tàu thuyền Trung Quốc xâm phạm, khẩn trương dân chủ hóa đất nước để có thể biến Việt Nam thành nước văn minh, hùng cường được thế giới tôn trọng và đủ điều kiện được các quốc gia dân chủ hùng mạnh ủng hộ mới ngăn chặn được Trung Quốc. Khi là một thể chế dân chủ đảng CS sẽ phải cạnh tranh với các lực lượng chính trị khác tự thay đổi mình theo hướng tiến bộ, trong sạch, văn minh để nhân dân trao quyền quản lý đất nước chứ không được "cha truyền con nối" như 70 năm qua để nay thoái hóa, biến chất, tham nhũng ngập đầu...
Đành rằng, nhà cầm quyền nào cũng muốn nắm quyền mãi mãi nhưng nắm quyền để mất nước thì đảng CS đắc tội với dân tộc.
Ngoài con đường dân chủ hóa xã hội để xây dựng thành nước hùng cường, toàn dân đoàn kết với sự ủng hộ của thế giới văn minh Việt Nam không còn con đường nào khác để thoát khỏi sự thôn tính, xâm lược của Trung Quốc.
Theo tôi, bây giờ đã quá muộn nhưng muộn còn hơn không.
Nguyễn Đình Ấm
Nguồn : VNTB, 25/07/2019
****************
Kẻ bắt nạt ở Biển Đông và món trà Trung Quốc
Nguyễn Hiền, VNTB, 25/07/2019
Tiến sĩ Đoàn Xuân Lộc, trong mục ý kiến trên Asiatimes đã cho rằng, Trung Quốc là kẻ bắt nạt ở Biển Đông.
Bằng ngôn ngữ hài hước, anh cho rằng, thuyết giảng là một trong những điều mà giới quan chức Bắc Kinh thực hiện một cách xuất sắc trên trường với tế, nhấn mạnh mối quan hệ quốc tế và vai trò cường quốc có trách nhiệm của Trung Quốc. Rằng, Bắc Kinh coi trọng sự bình đẳng giữa các quốc gia và lên án ý chí bá chủ áp đặt lên nước nhỏ ; rằng Trung Quốc sẽ không bao giờ tìm kiếm quyền bá chủ, bành trướng hay phạm vi ảnh hưởng ; rằng Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã không bao giờ gây ra chiến tranh hay xung đột, và cũng chưa từng xâm chiếm một quốc gia nào, hay lại một mét đất từ quốc gia khác, hay quyền bá chủ không phù hợp với giá trị của Trung Quốc và lợi ích quốc gia.
Hàng không mẫu hạm Liên Ninh và các tàu hộ tống tập trận ở Biển Đông ngày 18/4/2018.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, các hành động quốc tế của Trung Quốc, đặc biệt là ở Biển Đông, không phải lúc nào cũng thực hành những gì mà Tập Cận Bình hay giới lãnh đạo cao cấp khác của Trung Quốc giảng dạy. Các cuộc tấn công và chiếm giữ của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và rạn san hô Johnson của Việt Nam lần lượt vào năm 1974 và 1988, bãi cạn Scarborough của Philippines năm 2012 là những ví dụ đầy sinh động cho lề lối "nói đường, làm nẻo" của Bắc Kinh. Và kể từ khi Tập nắm quyền vào năm 2012, quân đội Trung Quốc đã trở nên hung hăng hơn ở vùng Biển Đông với việc thực hiện cải tạo đảo, bồi lấp đảo, quân sự hóa đảo, tiền đồn hóa đảo.
Và gần đây nhất là sự kiện tàu khảo sát Haiyang Dizhi 8 của Trung Quốc, cùng với các tàu bảo vệ bờ biển có vũ trang, đã xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam từ ngày 3/7 cho đến nay.
Trong khi tàu khảo sát Trung Quốc và các tàu hộ tống vẫn đang tiếp tục ngang nhiên và trắng trợn xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam, thì trong một cuộc họp đầu tháng 7, với bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Chủ tịch Quốc hội Việt Nam, ông Tập Cận Bình đã tiếp tục nhấn mạnh tình đồng chí và anh em giữa hai quốc gia.
Tập là kẻ đạo đức giả, và là kẻ bắt nạt ở vùng Biển Đông.
Quan điểm của Ts. Đoàn Xuân Lộc là cách nhìn của hàng triệu người Việt Nam, khi họ phản ứng phẫn nộ đối với cách ứng xử của Bắc Kinh trong vấn đề chủ quyền Việt Nam tại vùng Biển Đông. Láng giềng trở thành một cụm từ miêu tả đầy tráo trở và thủ đoạn mà Tập Cận Bình đã và thế hệ lãnh đạo trước đó của Trung Quốc dành cho Việt Nam.
Dưới thời Tập Cận Bình, Trung Quốc đã hung hăng hơn, khi tìm kiếm quyền kiểm soát nhiều hơn Biển Đông. Nhưng nguy hiểm hơn, Tập Cận Bình đã hiện thực điều này bằng cách tiêm doping vào trong quân đội Trung Quốc.
Trong một bài phát biểu cách đây không lâu, trước quân đội Trung Quốc. Tập đã tìm cách bảo vệ tầm ảnh hưởng ngày càng tăng của nước này trên trường chính trị quốc tế, và nhiệm vụ mà Tập giao cho quân đội nước này chính là tăng cường kiểm soát Biển Đông, với một quân đội mạnh mẽ hơn. Thậm chí, Tập còn giao nhiệm vụ cho giới quân đội, theo đó, cần "chuẩn bị cho chiến tranh", và hai chiến trường trọng điểm được nhắc đến là Biển Đông và Đài Loan. Việc thực hiện các bài tập sẵn sàng chiến đấu, các cuộc tập trận chung, bài tập đối đầu, và hiện địa hóa mạnh lực lượng hải quân của Bắc Kinh cũng đã tiếp tục châm ngòi cho khả năng lấn lướt Biển Đông nhiều hơn trong thời gian tới.
Việt Nam : trà Việt Nam ngon hơn trà Trung Quốc
Hà Nội đã phản ứng cẩn trọng nhưng cần thiết trong sự kiện Bãi Tư Chính, từ lên án Trung Quốc, đòi Bắc Kinh rút tàu vi phạm ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, cho đến kêu gọi cộng đồng quốc tế duy trì hòa bình và sự ổn định của Biển Đông.
Điều Hà Nội lo ngại hiện nay là không thể dự đoán chính xác bao lâu nữa thì Tập sẽ rời ngai vàng, bởi thời gian Tập còn tại vị, với quyền lực to lớn được trao, thì nhu cầu "chuẩn bị chiến tranh", với việc "cân nhắc mọi tình huống phức tạp và lên kế hoạch khẩn cấp phù hợp" khi Tập đến thăm và phát biểu tại một Bộ tư lệnh quân đội vẫn sẽ còn là cơ sở nền tảng xâm lấn và xung đột ngay ngay trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, tương tự như diễn ra tại Bãi Tư Chính.
Việt Nam, với gánh nặng chủ quyền của mình cần tiếp tục khẳng định vai trò và vị thế bảo vệ chủ quyền quốc gia, kiên quyết chống lại các hoạt động xâm hại chủ quyền từ "láng giềng" Trung Quốc trên tinh thần, ý chí giữ gìn và bảo vệ chủ quyền là một món trà, thì trà của Việt Nam sẽ luôn luôn ngon hơn trà Trung Quốc. Việt Nam bằng mọi cách thức và kế hoạch, bằng chính trị, ngoại giao lẫn quân sự sẽ đẩy lùi những hành vi ngang ngược, thủ đoạn của giới lãnh đạo Bắc Kinh. Và một trong những giải pháp cho giới lãnh đạo Bắc Kinh và truyền thông thế giới thấy được tinh thần "chủ quyền trên hết" đó là tổ chức cuộc biểu tình rộng lớn để người dân bày tỏ sự phẫn nộ và lên án Bắc Kinh, để biểu lộ dứt khoát nguyên tắc, đối với người Việt Nam, "không để một tất đất của cha ông rơi vào tay ngoại bang".Kẻ bắt nạt ở Biển Đông và món trà Trung Quốc
Nguyễn Hiền
Nguồn : VNTB, 25/07/2019
*****************
Trung Quốc ‘quậy’ không chỉ Việt Nam mà cả Nga !
Thường Sơn, VNTB, 24/07/2019
Khi vụ Bãi Tư Chính bùng nổ từ đầu tháng 7 năm 2019, đã dần hé lộ thêm những tin tức châm dầu vào lửa : trước đó vào đầu tháng 6, Trung Quốc bắt đầu có động thái cản trở việc hãng Rosneft của Nga và một công ty Nhật thực hiện hợp đồng khoan mở rộng để thăm dò dầu khí ở vùng biển, và hành vi đó kéo dài từ đó đến nay.
Trong chuyến thăm Nga tháng 9 năm 2018, phải chăng Tổng bí thư Trọng muốn thúc giục Nga cần mạnh mẽ hơn trong kế hoạch khai thác mỏ Lan Đỏ ?
Như vậy, quy mô cuộc khủng hoảng Bãi Tư Chính năm 2019 còn vượt hơn cả hai lần khủng hoảng cùng địa chỉ : vào tháng 7 năm 2017 và tháng 3 năm 2108, các tàu hải cảnh Trung Quốc bao vây Bãi Tư Chính để gây sức ép buộc Repsol - công ty Tây Ban Nha liên doanh với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam phải rút khỏi mỏ dầu khí Cá Rồng Đỏ, nhưng chưa đụng chạm trực tiếp đến mỏ dầu khí Lan Đỏ - dự án liên doanh giữa Tập đoàn Rosneft của Nga với VietsoPetro của Việt Nam.
Có thể hiểu một cách không chính thức, hoặc chính thức, chiến dịch mang mục tiêu biến vùng lãnh hải Việt Nam thành ‘vùng tranh chấp dầu khí’ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được Bắc Kinh mở rộng và đánh vỗ mặt cả quốc gia đang được xem là cùng ‘trục’ với Trung Quốc là Cộng hòa Liên bang Nga.
Còn chính thể dộc tài ở Việt Nam đang trở thành nạn nhân phải gánh chịu mối nguy hiểm thiệt kép : nguy cơ không chỉ mất mỏ Cá Rồng Đỏ mà có thể cả mỏ Lan Đỏ vào tay Trung Quốc.
Việc mỏ Lan Đỏ nằm trong danh sách khủng hoảng Việt - Trung vào lần này đã lý giải một trong những nguyên do khiến Nguyễn Phú Trọng, khi còn chưa ngồi vào ghế của kẻ quá cố Trần Đại Quang, đã tiến hành một chuyến thăm Nga vào tháng 9 năm 2018.
Vào khoảng thời gian đó, chính thể Việt Nam, cùng nền ngân sách đang rơi vào cảnh suy kiệt mà chỉ còn trông chờ vào thói đè đầu dân chúng để tróc thuế và khai thác nguồn tài nguyên gần như duy nhất còn lại là dầu khí, đã lâm vào bi kịch không những phải ‘giương cờ trắng’ tại mỏ Cá Rồng Đỏ ở phía Nam và mỏ Cá Voi Xanh ở vùng biển miền Trung trước đe dọa của Trung Quốc, mà còn phải ‘quy hàng thiên triều’ ở mỏ Lan Đỏ ở khu vực Bà Rịa - Vũng Tàu.
Sau hai lần liên tiếp phải tháo chạy khỏi mỏ Cá Rồng Đỏ, đến đầu năm 2018 chính thể độc đảng ở Việt có vẻ ‘khôn ra’ khi tìm cách dựa dẫm vào Công ty dầu mỏ quốc gia Nga Rosneft để khoan giếng LD-3P, thuộc mỏ khí ngoài khơi Lan Đỏ ở Lô 06.1, cách phía đông nam Việt Nam 370 km.
Nhưng vào năm 2018, ngay cả Rosneft của người Nga cũng rơi vào tình trạng cám cảnh như Repsol của Tây Ban Nha khi bắt đầu bị Trung Quốc gây sức ép phải rời bỏ mỏ Lan Đỏ.
Vào tháng Năm năm 2018, Rosneft đã phải lên tiếng bày tỏ lo ngại rằng hoạt động khoan dầu mới hợp tác với Việt Nam gần đây trong khu vực Biển Đông sẽ khiến Bắc Kinh nổi giận. Một công ty nghiên cứu và tư vấn năng lượng là Wood Mackenzie cho biết lô này nằm trong khu vực đường lưỡi bò chín đoạn mà Trung Quốc tự vạch ra.
Tuyên bố của Rosneft được đưa ra vào lúc tại Bắc Kinh, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc Lục Khảng lên tiếng cảnh cáo là không một quốc gia, tổ chức, công ty hoặc cá nhân nào có quyền tiến hành thăm dò hoặc khai thác dầu khí trong vùng biển của Trung Quốc nếu không được phép của Bắc Kinh.
Phải chăng Tổng bí thư Trọng muốn thúc giục Nga cần mạnh mẽ hơn trong kế hoạch khai thác mỏ Lan Đỏ ?
Tuy nhiên, thái độ của người bạn được xem là truyền thống ấy của Việt Nam lại không hề làm giới chóp bu Việt Nam an tâm. Đơn giản là trong toàn bộ vụ Hải Dương 981 vào năm 2014, Moscow đã giữ im lặng, cho dù quốc gia này vẫn chiếm đến 90% lượng vũ khí cung cấp cho Việt Nam, tính đến thời điểm này.
Sự im lặng đầy chủ ý của người Nga có thể được lý giải phần nào : Putin đã và đang trở thành một đồng minh thân cận của Tập Cận Bình trong cuộc chiến tranh lạnh đang được khởi động với người Mỹ.
Logic của sự im lặng trên đang dẫn ra một nguy cơ mới đối với giới chóp bu Việt nam : sắp tới, nếu Putin và Tập Cận Bình thỏa thuận được với nhau một lợi ích nào đó lớn hơn hẳn lợi nhuận từ mỏ Lan Đỏ mà Rosneft hợp tác với Việt Nam cùng khai thác, tương lai chắc chắn là Rosneft cũng sẽ phải cuốn cờ tháo chạy khỏi vùng chủ quyền Việt Nam như Repsol đã từng như thế.
Thường Sơn
Nguồn : VNTB, 24/07/2019
*****************
Tàu thăm dò Hải Dương 8 của Trung Quốc đã tiến vào thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam tại khu vực bãi Tư Chính, Vũng Mây từ ngày 3/7/2019 để thực hiện một cuộc khảo sát địa chấn.
Tàu thăm dò địa chấn của Trung Quốc ở ngoài khơi Việt Nam - Courtesy of Twitter Ryan Martinson/ RFA Edited
Thông tin này được báo mạng tiếng Anh có trụ sở ở Hồng Kông trích dẫn đoạn Tweet của ông Ryan Martinson - Trợ lý giáo sư tại Trường Hải Chiến Mỹ.
Trên Twitter của ông Ryan Martinson vào hôm 11/7 cũng đã đăng tải ảnh chụp màn hình về thông tin theo dõi dữ liệu tàu cho thấy sự xuất hiện của các tàu hộ tống tàu thăm dò Trung Quốc gồm tàu bảo vệ bờ biển vũ trang 12 ngàn tấn số hiệu 3901 mang theo trực thăng và tàu 2.200 tấn số hiệu 37111.
Đến chiều 12/7, tờ Bưu điện Hoa Nam Buổi Sáng loan tin cho biết có ít nhất 2 tàu hải cảnh Trung Quốc và 4 tàu Cảnh sát biển Việt Nam đang đối đầu với nhau ở Bãi Tư Chính thuộc lãnh hải Việt Nam trong khoảng một tuần.
Tuy nhiên, truyền thông trong nước suốt thời gian này không hề loan tin gì về những diễn tiến đang xảy ra ngoài khơi. Đến tối ngày 16/7, báo trong nước mới đồng loạt loan tin khi Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng lên tiếng cho biết "Các lực lượng chức năng trên biển của Việt Nam đã và đang thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán một cách hòa bình, đúng pháp luật nhằm bảo vệ vùng biển Việt Nam".
Tuy nhiên, trong bài phát biểu của bà Hằng không hề đề cập đến Trung Quốc hay bãi Tư Chính.
Mãi đến buổi họp báo chiều ngày 19/7, bà Lê Thị Thu Hằng mới nói rõ trong những ngày qua, nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc đã có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam tại khu vực phía nam Biển Đông.
Nhận xét về việc này, Nhà nghiên cứu Biển Đông tại Sài Gòn, Thạc sĩ Hoàng Việt cho rằng :
"Cho đến nay, chính phủ Việt Nam cũng đã đưa ra những thông tin cơ bản. Tuy nhiên, những thông tin chi tiết hơn thì Việt Nam chưa đưa hoặc còn dè dặt, chẳng hạn Trung Quốc xâm phạm như thế nào, vi phạm đến cái gì của Việt Nam. Vấn đề chỉ có một số báo chí đưa tin thôi chứ chính phủ Việt Nam vẫn cón chưa phát ngôn rõ ràng về thông tin đó. Vấn đề tiếp theo là trên thực tế là bắt đầu từ đầu tháng 7 mà mãi đến hai tuần sau chính phủ Việt nam mới cung cấp thông tin và mới cho phép báo chí viết bài về vấn đề này. Điều đó khá là chậm trễ".
Đồng tình với ý kiến này, từ Hà Nội, Tiến sĩ Nguyễn Quang A cũng cho rằng những thông tin về tình hình Biển Đông trong những ngày qua mà chính phủ Hà Nội đưa ra vừa muộn vừa không đầy đủ, như thế không đáp ứng nhu cầu thông tin của người dân mà họ đang rất mong mỏi.
Còn theo ông Nguyễn Khắc Mai, Giám đốc Trung tâm Minh Triết tại Hà Nội lại cho rằng dù thông tin không đầy đủ và chậm trẽ, nhưng so với trước đây, rõ ràng chính phủ Hà Nội đã có tiến bộ :
"Hiện nay là chúng tôi khen lãnh đạo của Đảng và chính phủ nói rõ mưu đồ, tội ác và hành xử rất xấu, rất đê tiện của Trung Quốc đã bắt đầu nói, bắt đầu để cho các báo chí công khai lên án cái gian trá của phía Trung Quốc. Hiện nay những tờ báo được gọi là báo của đảng, của chính phủ bắt đầu có tiếng nói. Chúng tôi cho rằng như thế là họ thấy được vấn đề và có tiến bộ nhất định, không thể phủ định được. Họ đã đứng thẳng về phía nhân dân, đấy là cái hoan nghênh".
Tuy vậy, ông Nguyễn Khắc Mai bày tỏ thất vọng đối với Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Nguyễn Thị Kim Ngân vì khi sự việc xảy ra, vào ngày 11/7, bà Kim Ngân đang có chuyến thăm Trung Quốc, gặp gỡ và tiếp xúc với chủ tịch Tập Cận Bình cũng như người tương nhiệm Lật Chiến Thư, nhưng bà Ngân đã không hề phê phán hành động của Bắc Kinh.
"Có thể dùng lời lẽ mềm mỏng nhưng phải nói rõ ràng vấn đề Biển Đông ở bãi Tư Chính, hành xử như thế là không đúng và chúng ta phải bàn, sửa lại vấn đề này… Ít ra cô phải nói như thế. Cô im hơi lặng tiếng, có thể nói cô có tội với dân với nước trong vấn đề này. Không thể bào chữa đấy là thái độ để mềm mỏng, tranh thủ hòa bình, không đao to búa lớn kích động Trung Quốc. Mình phải dõng dạc nói là họ sai, không nên làm như vậy mà phải thành thật bàn thảo đến nơi đến chốn với mình về vấn đề này, không được ỷ nước nước lớn mà làm vậy. Có thể nói là thua cả ông Mahathir ở bên Malaysia".
Vẫn trong buổi họp báo ngày 19/7, Phát ngôn nhân Lê Thị Thu Hằng đã tuyên bố khu vực mà tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc khảo sát là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác định theo đúng các quy định của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 mà cả Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên.
Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Việt Nam, bà Lê Thị Thu Hằng. Ảnh minh họa (AFP)
Nhận xét về hành động này của Trung Quốc, Thạc sĩ Hoàng Việt cho rằng :
"Nói chung, một mặt Trung Quốc luôn duy trì lợi ích và tham vọng của họ trong việc độc chiếm biển Đông. Mặt thứ hai thì Việt nam cũng luôn luôn kiên quyết bảo vệ lợi ích của họ trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo quy định Công ước luật biển mà Việt nam được hưởng. Chính vì vậy, hai bên đều có những lý lẽ để bảo vệ quyền lợi ích của riêng mình. Tuy nhiên, về mặt luật pháp thì rõ ràng Việt Nam có lợi thế hơn khi mà Việt Nam tuân thủ luật pháp Quốc tế và trong trường hợp này nó nằm trong quy định của Quốc tế. Trung Quốc biết điều đó nhưng lại muốn dùng sức mạnh của mình để thực hiện tham vọng, âm mưu của họ. Do vậy mà dẫn đến sự căng thẳng. Nếu không có biện pháp để gỡ, nếu Trung Quốc không "xuống thang" thì có lẽ sẽ dẫn đến sự căng thẳng như cái đợt 2014 khi Trung Quốc kéo cái dàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam".
Đây không phải là lần đầu tiên Trung Quốc xâm phạm vùng lãnh hải Việt Nam, cách đây 5 năm, vào năm 2014, Trung Quốc đã cho hạ đặt giàn khoan khổng lồ Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Vụ việc đã dẫn đến căng thẳng trong quan hệ hai nước trong nhiều tháng cho đến khi Trung Quốc quyết định rút giàn khoan về.
Vào tháng 4 vừa qua, Tân Hoa Xã loan tin cho biết Trung Quốc chuẩn bị đưa giàn khoan dầu khí lớn thứ nhì của nước này có tên Dongfang (Đông Phương) 13-2 CEPB ra lưu vực Yinggehai, hay còn gọi là lòng chảo Quỳnh Hải, nằm ở phía tây bắc Biển Đông, giữa đảo Hải Nam và bờ biển phía Bắc của Việt Nam.
Và mới đây nhất là vụ việc đưa tàu thăm dò Hải Dương 8 đến bãi Tư Chính.
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vào ngày 20/7 cũng đã ra thông cáo với lời lẽ mạnh mẽ yêu cầu Trung Quốc chấm dứt hoạt động bị cho là đe dọa, bắt nạt các nước trong khu vực Biển Đông.
Washington D.C. cho rằng hoạt động của Bắc Kinh đang cản trở phát triển, gây bất ổn đến hòa bình, an ninh trong khu vực.
Thêm vào đó, trong cuộc họp báo qua điện thoại vào ngày 23 tháng 7, Tư lệnh Tuần Duyên Hoa Kỳ, Đô đốc Karl L. Schultz, nói rõ đang hợp tác chặt chẽ với Việt Nam. Đồng thời đánh giá sức mạnh của lực lượng Cảnh Sát Biển Việt Nam được tăng cường rất nhiều.
Do đó, nhiều ý kiến cho rằng, phát biểu của phía Hoa Kỳ được đưa ra trong thời gian này nhằm ủng hộ Việt Nam, khi mà Trung Quốc ngày càng có dấu hiệu ăn hiếp các nước bé. Tuy nhiên, Thạc sĩ Hoàng Việt lại cho rằng Hoa Kỳ không ủng hộ Việt Nam mà đang ủng hộ luật Quốc tế bởi vì Việt Nam tuân thủ luật Quốc tế.
"Hoa Kỳ muốn rằng tất cả các quốc gia trên thế giới phải tuân thủ luật Quốc tế. Và đó là điều Hoa Kỳ muốn : xây dựng một trật tự Quốc tế như vậy. Chính vì thế mà Hoa Kỳ mới ủng hộ Việt Nam. Tuy nhiên, cũng chỉ là lên tiếng thôi vì nếu xảy ra căng thẳng thì cũng còn tùy. Nếu tình trạng đối đầu căng thẳng hơn thì Hoa Kỳ cần lên tiếng mạnh mẽ hơn. Nếu xảy ra xung đột thì không tốt cho tất cả các bên. Và nếu có xung đột thì cũng không bên nào can thiệp giúp cho Việt Nam cả".
Trước tình hình căng thẳng Việt – Trung về những tranh chấp Biển Đông, Nhóm lập quyền dân phối hợp cùng Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng và Diễn đàn xã hội dân sự đề ra bản Tuyên bố về Biển Đông lần thứ 3. Bản Tuyên bố nêu lên 4 điểm cụ thể, trong đó có yêu cầu chính phủ Việt Nam cần lên tiếng tố cáo trước Hội Đồng Bảo An, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc và các tổ chức quốc tế việc Trung Quốc xâm phạm lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam tại bãi Tư Chính, và khẩn trương chuẩn bị hồ sơ kiện Trung Quốc ra các Tòa án Quốc tế thích hợp.
Là một trong những người tham gia ký tên vào Tuyên bố về Biển Đông lần thứ 3 này, Tiến sĩ Nguyễn Quang A nhận định :
"Tôi nghĩ có thể họ rất muốn nhưng phải cân nhắc kỹ lưỡng vì một nước đi như thế mang lại những lợi ích và rắc rối gì vì việc kiện Trung Quốc như Philippine đã kiện thì từ thời ông Nguyễn Tấn Dũng đã nói rằng chính phủ Việt Nam đã chuẩn bị rất sẵn sàng nhưng họ không đem ra kiện vì một mối quan hệ tế nhị với Trung Quốc".
Còn theo Thạc Sĩ Hoàng Việt, người từng tham gia cố vấn cho chính phủ trong việc khởi kiện Trung Quốc khi đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng biển của Việt Nam lại nghĩ rằng việc khởi kiện phụ thuộc vào hành động của Trung Quốc. Nếu Trung Quốc tiếp tục leo thang, duy trì căng thẳng cao hơn thì khả năng khởi kiện của Việt Nam là đương nhiên.
Ngoài yêu cầu khởi kiện Trung Quốc xâm phạm lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ; những người ký tên trong Tuyên bố Biển Đông lần thứ ba còn yêu cầu chính phủ Hà Nội tăng cường nội lực đất nước, ‘khoan thư sức dân để làm kế râu rễ bền gốc’ ; thực thi các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết cũng như những qui định trong Hiến pháp Việt Nam ; trả tự do cho các tù nhân lương tâm, tiến tới dân chủ hóa đất nước…
Nguồn : RFA, 23/07/2019