Hình ảnh Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Mình đứng cô đơn trong nghị trường đọc bài diễn văn tại phiên thảo luận chung cấp cao khóa 74 Đại hội đồng Liên Hợp Quốc phản ánh hiện trạng tình thế của Việt Nam trước dư luận quốc tế một cách sinh động. Nó cho thấy Việt Nam dù muốn làm gì, nói gì cũng không thuyết phục được bất cứ nước nào chịu nghe lời minh chứng trước việc Trung Quốc không dừng bước trong âm mưu thôn tính biển Đông qua đường chín đoạn mà nước này áp đặt.
Hải Dương 981 ở Biển Đông hồi 2014.
Trước sự lấn lướt, uy hiếp của Trung Quốc tại bãi Tư Chính thuộc đặc quyền kinh tế của Việt Nam giới quan sát chính trị quốc tế nêu ra trong những ngày gần đây cho thấy đã đến lúc Hà Nội cần nhìn lại chính sách đối ngoại mà họ từng theo đuổi trong nhiều năm qua nhằm thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh của đất nước hiện nay trước nguy cơ xâm lược của Trung Quốc ngày một rõ ràng và không cần che dấu.
Trong một bài báo trên tờ Diploma Tiến sĩ Rajeswari Pillai Rajagopalan, Học giả và Chủ tịch Sáng kiến Chính sách Hạt nhân và Không gian thuộc Quỹ Observer Research Foundation (ORF) ở New Delhi, Ấn Độ cho rằng mặc dù Việt Nam và Trung Quốc đang lao vào một cuộc đối đầu dữ dội tại Biển Đông nhưng sự việc lại không thu hút được sự quan tâm đầy đủ của thế giới. Theo trích dẫn của VOA, sau khi nêu hàng hoạt các phản ứng của Việt Nam sau vụ nhóm tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc xâm phạm vùng EEZ của Việt Nam, Tiến sĩ Rajeswari viết : "Trong tình hình này, chính phủ Việt Nam tìm cách tác động đến các nước Ấn Độ, Hoa Kỳ, Nga, Úc và nhiều nước khác trong khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương. Đáp lại lời kêu gọi này là gì ? Một sự im lặng và những lời phát biểu "sáo rỗng".
Câu hỏi đặt ra : Tại sao quốc tế quay lưng với Việt Nam về vấn đề Biển Đông trong khi vẫn làm ăn, mua bán giao hảo và thậm chí còn giúp đỡ Việt Nam trong các dự án xã hội ?
Bởi vì giao thương và giao chiến là hai việc hoàn toàn khác nhau. Việt Nam và Trung Quốc có giao tranh cách nào đi nữa thì các nước thuộc khối tư bản sẽ không bao giờ tham gia vì ý thức hệ đã phân chia hai khối từ những năm đầu của thập kỷ 50 của thế kỷ trước, khi cộng sản và tự do chia cắt rạch ròi với nhau gây nên nhiều cuộc chiến tranh quốc cộng mà chiến tranh Việt Nam là một bài học lịch sử còn tươi vết máu của cả hai miền Việt Nam và các nước khác như Úc, Tân Tây Lan, Thái Lan, Nam Hàn, Philippines, và nhất là Mỹ.
Bởi vì Việt Nam vẫn là nước kiên trì theo chủ nghĩa cộng sản trong số 5 nước cuối cùng còn sót lại trên thế giới bao gồm Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Lào, Cuba và Việt Nam. Câu chuyện tranh chấp Biển Đông, đặc biệt là Bãi Tư Chính đang xảy ra giữa hai đất nước có cùng ý thức hệ, cùng lý tưởng và cùng chung mục đích chính trị sẽ không được bất cứ nước nào trong thế giới tự do có thể tham gia vào việc hòa giải, can thiệp hay bênh vực một cách tích cực.
Bởi vì thái độ của Việt Nam không nhất quán và luôn luôn gây cho quốc tế những dấu hỏi về tính đi dây trong quan hệ ngoại giao. Việt Nam cho rằng các nước lớn có quyền lợi tại Việt Nam phải bảo vệ quyền lợi của họ bằng cách ủng hộ lập trường của Việt Nam nhưng Hà Nội quên rằng Trung Quốc mới chính là nguồn lợi vô tận đối với nhiều nước hiện nay.
Bởi vì ngay chính Hoa Kỳ cũng không hoàn toàn thoải mái khi quan hệ ngoại giao trở lại với Việt Nam sau nhiều chục năm đứt đoạn. Một mặt Hà Nội tay bắt mặt mừng với Mỹ nhưng sau lưng lại cho phép báo chí của Đảng tiếp tục hạ nhục Mỹ bằng các bài viết nhắc lại cuộc chiến tranh thần thánh chống mỹ gần 50 năm về trước.
Bởi vì mục tiêu là nhắm tới sự góp sức của Mỹ nhưng Hà Nội công khai cho phép bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Chủ tịch Quốc hội Việt Nam tiếp xúc với đại diện của Tổng thống Murado của Venezuela khi nước này trên bờ vực sụp đổ vì sự phong tỏa của Mỹ và nhiều nước phương Tây. Việc làm phi chính trị này chắc chắn sẽ được các chính khách Mỹ ghi vào sổ tay của họ để cảnh báo chính quyền Washington nếu có ý định tiến thêm một bước với Việt Nam.
Bởi vì các nước EU cũng như Ấn Độ, Nhật Bản, Úc, Philippines, Hàn Quốc chia sẻ lý tưởng tự do dân chủ với Mỹ trong khi Việt Nam cho rằng mỗi nước có cách nhìn dân chủ nhân quyền khác nhau và vì vậy Việt Nam từng nhiều lần bị quốc tế chỉ trích về vấn đề này, một vấn đề cốt lõi mà Việt Nam không bao giờ tuân thủ.
Bởi vì Việt Nam theo sự chỉ đạo rất khôn khéo của Trung Quốc không chấp nhận đứng chung với nước này mà chống lại nước khác nên mọi lời kêu gọi thế giới lên tiếng trước hành vi xâm lấn của Trung Quốc đều vô ích. Không nước nào chấp nhận làm công việc hồ đồ giúp cho kẻ đã từ chối nhận mình làm bạn.
Bởi vì Trung Quốc cật lực ngăn cản Việt Nam liên minh với Mỹ hay bất cứ nước nào trong thế giới tự do vì Bắc Kinh biết rằng khi chấp nhận giải pháp liên minh Việt Nam sẽ bị buộc phải từ bỏ thể chế Cộng sản vì thế giới tự do và cộng sản không thể liên minh.
Bởi vì Việt Nam biết chắc rằng ngay cả chấp nhận liên minh với Hoa Kỳ thì Quốc hội Mỹ sẽ ràng buộc Hà Nội vào nhiều yêu cầu mà nước Mỹ vẫn theo đuổi trong đó có vấn đề nhân quyền, một cục xương khó gặm cho chính thể Việt Nam. Bởi vì nước Mỹ không thể hy sinh xương máu của công dân nước mình để liên minh, bảo vệ cho một đất nước xem nhân quyền là kẻ thù của chế độ.
Tất cả những "bởi vì" ấy đang cản trở Việt Nam tiến gần với thế giới để bảo vệ mình. Trung Quốc biêt rõ điều ấy và thản nhiên tiếp tục đưa tàu vào khu vực Bãi Tư Chính để cảnh cáo Việt Nam rằng họ sẽ có thể cho Việt Nam một bài học thứ hai vì Hà Nội chơi ván cờ cộng sản lại nhìn chừng sang phía kẻ thù là thế lực thù địch.
Mặc Lâm
Nguồn : VOA, 04/10/2019
Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương Thạch Du 982 vào Biển Đông, tiếp tục gây nên lo ngịa về một cuộc đối đầu mới với Việt Nam. Và đây được xem là nỗ lực của Bắc Kinh nhằm làm suy yếu nỗ lực của Việt Nam trong theo đuổi, thăm dò dầu khí chung với các quốc gia khác.
Một giàn khoan dầu khí của Trung Quốc ngoài khơi Biển Đông - Ảnh : Reuters
Các biện pháp hòa bình ?
Trong bối cảnh sự va chạm của Việt – Trung chưa dừng trên Biển Đông, thì gần đây nhất, Thời báo Kinh tế Ấn Độ ngày 30/9 đã đăng một bài viết ủng hộ Việt Nam và phản đối các hoạt động phi pháp của Trung Quốc tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ). Bài báo dẫn lời các chuyên gia hàng hải nói rằng Bắc Kinh không được phép thực hiện bất kỳ hành động nào làm phức tạp tình hình và vi phạm quyền chủ quyền của Việt Nam theo quy định của luật pháp quốc tế.
Cũng theo trang tin này, Đại sứ Việt Nam tại Ấn Độ - ông Phạm Sanh Châu, cho biết Hà Nội sẽ sử dụng tất cả các biện pháp hòa bình được định nghĩa bởi luật pháp quốc tế để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình. Quan điểm này phù hợp với những gì mà ông Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh phát biểu tại phiên thảo luận cấp cao Khóa 74 Đại hội đồng Liên Hợp Quốc vừa qua.
‘Các biện pháp hòa bình’ vẫn là một lựa chọn mà Hà Nội đang kiên trì tiến hành để ứng phó các hoạt động lấn lướt và phi pháp của Bắc Kinh từ trước đến nay. Và cách ứng phó này theo ông Carl Thayer trong một bài báo ngày 30/9 trên RFA là ‘hết sức nhẹ nhàng’.
Và biện pháp hòa bình cũng có thể được hiểu là ‘vừa hợp tác, vừa đấu tranh’.
Và đấu tranh không chỉ duy ‘vờn nhau’ ngoài khu vực biển đông giữa tàu hải cảnh của hai quốc gia, mà bao hàm cả việc Hà Nội có thể tính toán đến việc kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế.
Kiện ra tòa : không thể ?
‘Kiện Trung Quốc’ hiện giờ nhận được không ít sự đồng thuận. Nhưng liệu kiện có thể là biện pháp hữu hiệu giải quyết các vấn đề phát sinh tại Biển Đông ?
Shirley Wang, tác giả bài viết về luật quốc tế áp dụng tại Biển Đông trên The MCGILL International Review tỏ ra bi quan về phương án này.
Cụ thể, hiện tại khung chính hướng dẫn quản lý tranh chấp Biển Đông nằm trong Bộ quy tắc ứng xử ASEAN-Trung Quốc (COC), nhưng Bắc Kinh chưa bao giờ tiếp cận COC một cách nghiêm túc. Đó là lý do vì sao vào tháng 8/2018, ASEAN và Trung Quốc đã thông qua một dự thảo văn bản đàm phán COC. Trong dự thảo, dù đã có thỏa thuận về sự cần thiết phải thiết lập một khuôn khổ dựa trên các quy tắc và hoạt động theo các chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, khi Hà Nội kêu gọi cấm xây dựng các đảo nhân tạo và triển khai các vũ khí phòng thủ như tên lửa đất đối không trên các đảo nhân tạo, thì Trung Quốc đã làm cả hai điều này.
COC cũng không phải là cơ chế giải quyết tranh chấp, và sẽ có một lộ trình rất dài để tiệm cận với một nghị quyết chung thẩm về các yêu sách chủ quyền và ranh giới hàng hải theo các quy định của UNCLOS. Hải cảnh và dân quân Trung Quốc liên tiếp vi phạm các Điều 2, 6, 7, 8, 15 và 16 của Bộ Quy tắc phòng ngừa đâm va trên biển (COLREG), do đó vi phạm Điều 94 của UNCLOS. Thậm chí, ngay cả Công ước SAR-79 và thỏa thuận quốc tế về ‘Tìm kiếm cứu nạn trên biển giữa Việt Nam và các quốc gia trong khu vực Biển Đông’ cũng không được Bắc Kinh tuân thủ, khi mới đây, tàu Trung Quốc đã từ chối cứu hộ tàu cá Việt Nam, mặc dù tàu cá đang trong tình trạng nguy cấp [1].
Trong khi đó, để kiện được Trung Quốc, Việt Nam phải dựa vào UNCLOS, nhưng UNCLOS hoạt động hiệu quả nhất khi có biên giới hàng hải được phân định rõ ràng, và điều này ở Biển Đông là sự ‘chồng lấn’ lẫn nhau. Và Bộ quy tắc về tránh va chạm bất ngờ trên biển (CUES) [2], một thỏa thuận khác thường được áp dụng cho các tranh chấp ở Biển Đông, thiếu tính ràng buộc và không áp dụng cho hải cảnh, mặc dù hầu hết các sự cố liên quan đến hải cảnh và các tàu thực thi pháp luật hàng hải khác.
Vậy ASEAN thì sao ?
Việt Nam trở thành Chủ tịch Asean vào năm 2020. Đây được xem là yếu tố thuận lợi để giúp Hà Nội giải quyết vấn đề Biển Đông theo hướng có lợi cho mình. Tuy nhiên, hiện tại chỉ có 4 thành viên của ASEAN (Việt Nam, Brunei, Philippines và Malaysia, với Indonesia) là có yêu sách ở Biển Đông, mặc dù toàn bộ ASEAN có liên quan đến quá trình COC. Và ASEAN không phải là một nơi để giải quyết vấn đề Biển Đông có hiệu quả hiện nay.
Ông Trần Việt Thái thuộc Học viện Ngoại giao Việt Nam bày tỏ về vai trò của ASEAN với tờ Bangkok Post ngày 2/10. Theo đó, ASEAN không phải là tổ chức được thiết kế không phải để giải quyết các vấn đề lãnh thổ (Biển Đông). Asean được thành lập và thiết kế để đối thoại và tạo điều kiện cho quá trình phát triển.
"Nếu bạn kỳ vọng quá nhiều từ ASEAN, bạn đã sai […] Trong vấn đề Biển Đông, ASEAN có thể cung cấp một diễn đàn, Nhưng nếu bạn mong đợi rằng ASEAN có thể giúp bạn giải quyết các tranh chấp, thì không bao giờ - họ không thể giúp bạn", Ông Trần Việt Thái cho biết.
Kết
Với tình hình thực tế hiện tại và những bài học bị ‘lấn lướt’ trong giai đoạn sau năm 2014, thì Hà Nội chỉ còn đúng một lựa chọn tối ưu nhất là ‘đối đầu với sức ép từ Trung Quốc bằng cách gia tăng hợp tác an ninh và quốc phong với Mỹ’. Nhưng muốn như vậy, đội ngũ lãnh đạo Hà Nội phải đồng thuận trong ‘nâng cấp quan hệ Việt – Mỹ lên thành đối tác chiến lược’, một điều có thể là bước ngoặt tương tự như cách hai quốc gia thiết lập ngoại giao vào năm 1995.
Nguyễn Hiền
Nguồn : VNTB, 03/10/2019
Tham khảo
[2] CUES, http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-nuoc-ngoai/6179-cues-va-luc-luong-bao-ve-bo-bien
Biển Đông : 'Né' tên Trung Quốc, Việt Nam có kế sách riêng ? (BBC, 02/2019)
Việc Phó Thủ tướng, Bộ Trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh đưa vấn đề Biển Đông ra Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc (UNGA) nhưng lại tránh nhắc tên Trung Quốc làm dấy lên tranh luận trên mạng xã hội.
Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh (phải) bắt tay Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị (trái) tại Hà Nội vào ngày 1/4/2018
Nhiều ý kiến bất bình cho rằng Việt Nam đã 'gây thất vọng', trong bối cảnh tàu Trung Quốc vẫn quấy nhiễu tại Bãi Tư Chính. Số khác cho rằng nhà nước Việt Nam có kế hoạch riêng 'không thể tiết lộ' trước khi có thể thực sự đưa 'hành vi bắt nạt' của Trung Quốc ra Liên Hiệp Quốc.
Nhưng có thật Việt Nam đang xem xét cơ hội ấy không ?
Không nhắc tới Trung Quốc 'một lần nào'
Trước Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc (UNGA) ở thành phố New York, Mỹ hôm 28/9, ông Phạm Bình Minh đề cập tới 'vụ việc nghiêm trọng xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam' trong bài phát biểu kéo dài 15 phút.
Ngay sau đó, cây bút Phạm Thành, người vừa gây xôn xao với cuốn sách về ông Nguyễn Phú Trọng có tên "Thế thiên hành đạo hay Đại nghịch bất đạo", đếm thấy trong hơn 15 phút phát biểu, ông Phạm Bình Minh "nhắc tới luật quốc tế 6 lần, biển Đông 3 lần, 1 lần Indo-Pacific, 1 lần vùng đặc quyền kinh tế". Và "không nhắc tới Tàu một lần nào".
Thay vì thế, ông Minh dùng cụm từ 'các bên liên quan' và 'các quốc gia liên quan'.
"Chúng tôi kêu gọi những bên liên quan ở Biển Đông tôn trọng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) năm 1982, vốn được xem là "Hiến pháp đối với các đại dương", ông Minh nói.
"Các quốc gia liên quan cần tự kiềm chế và tránh các hành động đơn phương vốn có thể làm phức tạp hoặc leo thang căng thẳng trên biển, đồng thời giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS" - Phó thủ tướng Phạm Bình Minh kêu gọi", ông Minh nói thêm.
Tờ Bloomberg trong vài viết về sự kiện này nói bình luận của ông Minh 'nhắm vào Trung Quốc nhưng tránh nhắc tên trực tiếp'.
"Nhu nhược" và "gây thất vọng" ?
Nhiều bình luận trên mạng xã hội cho rằng hành động của ông Minh là "đáng thất vọng", như bài viết trên Facebook của Nguyễn Ngọc Chu.
"Bài phát biểu của ông Phạm Bình Minh tại kỳ họp 74 của UNGA đã làm bao người thất vọng. Không phải chỉ Việt Nam mà cả các nước đang muốn giúp Việt Nam.''
"Trung Quốc xâm lược biển đảo của Việt Nam, đem tàu đến thăm dò địa chất trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, không cho Việt Nam khai thác dầu khí trong vùng biển Việt Nam, mà Việt Nam không dám chỉ mặt gọi tên lên án Trung quốc tại UNGA thì ai sẽ lên án Trung quốc giúp Việt Nam ?" Facebooker này viết.
Luật sư Lê Công Định thì cho rằng những ai quan tâm đến tình hình quốc gia hiện nay đều trông đợi ông Phạm Bình Minh lên án Trung Quốc. Nhưng ông Minh lại chỉ nói đến các 'bên có liên quan' "như thể chủ quyền của Việt Nam bị xâm phạm bởi ai đó vô danh, chưa xác định, chứ không phải Trung Cộng, và người nghe muốn hiểu sao cũng được".
"Như vậy, một lần nữa, hành động xâm lấn trái với luật pháp quốc tế của Trung Cộng đối với chủ quyền của nước ta đã không được tố cáo tại diễn đàn quốc tế quan trọng nhất là UNGA". Người dân Việt Nam còn có thể trông mong gì hơn ở một nhà cầm quyền nhu nhược.".. luật sư Định đặt câu hỏi trên Facebook cá nhân.
Nhà văn Mạc Văn Trang so sánh hành động của ông Bình Minh với "bà già mất gà", chỉ kêu toáng lên chứ không chỉ đích danh được kẻ trộm là ai. "Mình chính nghĩa, tên trộm phi nghĩa, mà không dám dũng cảm bảo vệ chính nghĩa, vạch mặt chỉ tên, lên án mạnh mẽ kẻ phi nghĩa, thì ai cảm thông, ủng hộ mình ?
"Thực ra ông Phạm Bình Minh cũng tội, ông đâu có được tự do nói theo ý mình.."., ông Trang viết.
"Chính phủ Việt Nam có nhiều nước cờ" ?
Biển Đông : 'Né' tên Trung Quốc, Việt Nam chờ thời để đưa Trung Quốc ra Liên Hiệp Quốc ? (ảnh minh họa)
Nhiều ý kiến đồng tình với việc ông Bình Minh thực ra "không được nói theo ý mình", và rằng chính phủ Việt Nam "có nhiều nước cờ" không thể tiết lộ.
Facebooker Anngoc Nguyen viết : "Đây [bài phát biểu của ông Phạm Bình Minh] là quan điểm của tập thể bộ chính trị mà đứng đầu là tổng bí thư. Quy định của Đảng là mọi đảng viên phải chấp hành nghị quyết của đảng cấp trên, cao nhất là Ban Chấp hành Trung ương của Bộ Chính trị (trong thời gian Ban chấp hành trung ương không họp). Mọi quan điểm khác với nghi quyết được bảo lưu song không được phát ngôn trái với nghị quyết, và phải nghiêm chỉnh thực hiên nghị quyết của đảng".
Ông Nguyễn Thanh Ca, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biển và Hải Đảo cho rằng ông không rõ nội tình, nhưng "các ông ấy [chính phủ Việt Nam] có tính toán của các ông ấy", và rằng "có những chuyện mà chỉ các ông ấy biết được, thí dụ giả thuyết là Việt Nam đe dọa và Trung Quốc nhượng bộ".
"Cờ đi còn nhiều nước. Vì không có đủ thông tin nên tôi cũng không thể bình luận gì hơn khi các ông ấy đi một nước. Có thể thấy bài phát biểu khác với bài phát biểu ở Bangkok [Hội nghị các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (AMM) lần thứ 52. Ông Bình Minh được cho là đã có phát biểu 'thẳng thắn' về vấn đề can thiệp của Trung Quốc ở Bãi Tư Chính]. Như vậy, có thể bối cảnh đã khác…", ông Ca bình luận.
Đáp lại một số bình luận về việc Việt Nam có nên, và có muốn kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế hay không sau sự kiện bài phát biểu của ông Bình Minh, ông Ca phân tích :
"Kiện hay không kiện là một bài toán lợi ích, thiệt hại cần phải tính toán kỹ. Tôi cho rằng Việt Nam cần chuẩn bị hồ sơ và khi cần thì kiện. Kiện cái gì, ở đâu và lúc nào thì kiện là thông tin không thể công bố".
Việt Nam có thể đưa Trung Quốc ra Liên Hiệp Quốc không ?
Trong khi dư luận mạng xã hội còn tranh cãi về bài phát biểu 'tránh né' của ông Bình Minh, nhà nghiên cứu Phạm Ngọc Minh Trang mới đây có bài trên AMTI, phân tích góc độ luật pháp và bối cảnh quốc tế về vấn đề này.
"UNGA và Hội đồng Bảo an là hai cơ quan quan trọng nhất của Liên Hiệp quốc. Các quốc gia thành viên thường đặt các câu hỏi về hòa bình và an ninh quốc tế với UNGA vì tính hiệu quả của Hội đồng Bảo an thường bị cản trở bởi một quyền phủ quyết từ một trong năm thành viên thường trực (Trung Quốc, Pháp, Nga, Anh và Hoa Kỳ). Nghị quyết được UNGA thông qua có thể mang lại những hệ quả chính trị và pháp lý nhất định mà nhiều quốc gia hy vọng có thể giúp họ giải quyết xung đột.
"Sức mạnh của UNGA phụ thuộc vào thực tế là nó bao gồm tất cả các quốc gia thành viên, và mọi quốc gia đều có quyền bỏ phiếu và các phiếu bằng nhau. Khi UNGA thông qua một nghị quyết, có thể nói là nó phản ánh quan điểm của cộng đồng quốc tế ; các quốc gia tìm kiếm các nghị quyết như vậy để hợp pháp hóa hành động của họ. Nghị quyết của UNGA có thể ảnh hưởng đến các quốc gia thành viên về mặt chính trị và do đó ảnh hưởng đến các lựa chọn chính sách đối ngoại."..
"Nghị quyết của UNGA cũng có thể mang lại hiệu quả pháp lý nhất định.
"Một số học giả thậm chí coi các nghị quyết của UNGA là đại diện cho sự đồng thuận toàn cầu, sau này có thể được coi là một yếu tố cấu thành luật quốc tế. Theo hướng này, các nghị quyết của UNGA thường được trích dẫn tại các tòa án quốc tế".
Trong bối cảnh đó, theo nhà nghiên cứu, Việt Nam có thể xem xét để đưa vấn đề Biển Đông ra trước UNGA. "Với thực tế là Biển Đông bao gồm các vùng biển quốc tế, và có tầm quan trọng đối với hệ thống thương mại hàng hải toàn cầu, Việt Nam có thể dễ dàng lập luận rằng tình hình ở Biển Đông vượt ra ngoài phạm vi tranh chấp giữa một số quốc gia hoặc thậm chí là xung đột khu vực và nên được coi là một vấn đề của hòa bình và an ninh quốc tế".
Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Minh Trang cũng chỉ ra những trở ngại nghiêm trọng cản trở Việt Nam đạt được thắng lợi đáng khi thực hiện bước đi táo bạo như vậy. Trở ngại đó bao gồm sự hỗ trợ 'chưa đủ' của các cường quốc như Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Pháp và Đức ; vẫn còn số lượng đáng kể các quốc gia từng ủng hộ vị thế của Trung Quốc trên Biển Đông ; và hành động của Trung Quốc trên Biển Đông năm nay không thu hút được sự chú ý của dư luận quốc tế so với năm 2014 - khi Bắc Kinh mang giàn khoan 981 vào vùng biển của Việt Nam.
Ngoài ra còn cần tính đến ảnh hưởng của Trung Quốc tới các quốc gia Châu Phi, và việc Malaysia và Philippines dường như đang ngả theo Trung Quốc.
Kịch bản này khiến Việt Nam khó thuyết phục các nước khác trong Liên Hiệp Quốc, bao gồm các nước láng giềng ở Biển Đông, ủng hộ nhiệt tình cho mình, theo Phạm Ngọc Minh Trang.
Nhà nghiên cứu cho rằng hiện tại, khả năng thành công có lẽ không đủ cao để Việt Nam chấp nhận rủi ro để đưa Trung Quốc ra Liên Hiệp Quốc. Nhưng đây vẫn luôn là một lựa chọn để 'các nước nhỏ' như Việt Nam cân nhắc nếu muốn đối kháng với Trung Quốc ở Biển Đông.
*******************
Trung Quốc ra mắt tên lửa Đông Phong, ‘đe dọa gián tiếp’ Việt Nam (VOA, 02/10/2019)
Trung Quốc hôm 1/10 đã trình làng tên lửa hạt nhân chiến lược xuyên lục địa có tên gọi Đông Phong 41, với tầm bắn lên tới 15.000km, trong động thái mà các chuyên gia nhận định là một "tín hiệu" gửi tới các nước tranh chấp Biển Đông như Việt Nam, và thậm chí cả Mỹ.
Trong cuộc duyệt binh nhân 70 năm ngày lập nước với sự tham dự của 15 nghìn binh sĩ, hơn 160 máy bay cùng với gần 600 các thiết bị quân sự, Đông Phong 41 đã được chở qua quảng trường Thiên An Môn với sự chứng kiến của Chủ tịch Tập Cận Bình và các quan chức Trung Quốc khác.
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu cao cấp từ Viện Nghiên cứu Đông Nam Á của Singapore, nhận định với VOA Việt Ngữ rằng ngày quốc khánh "là dịp để họ bộc lộ rõ hơn, khẳng định hơn nữa tất cả sự đe dọa của họ".
"Trong tháng Tám, họ đã để cho máy bay ném bom chiến lược bay ở Biển Đông, rồi nó còn hạ cánh xuống Đảo Chữ Thập có sân bay họ làm lớn nhất. Họ cũng từng đưa tên lửa ra đó. Trực tiếp nhất là họ đã có tập trận, bắn tên lửa. Đó là lần đầu tiên họ bắn tên lửa thật, có dẫn đường. Đấy là những sự đe dọa và chuyện duyệt binh là đe dọa gián tiếp thôi. Những gì đã xảy ra ở Biển Đông thì đó là đe dọa trực tiếp", ông Hợp nói, cũng đề cập thêm tới chuyện Bắc Kinh đưa tàu thăm dò Hải Dương 8 vào Vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam nhiều tuần qua.
Ngoài tên lửa mà các hãng tin nước ngoài nói rằng có thể đánh trúng mục tiêu ở Mỹ trong vòng 30 phút, Trung Quốc còn cho ra mắt các loại khí tài khác như tên lửa siêu vượt âm Đông Phong 17, tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm JL-2 cũng như tàu lặn không người lái HSU001.
Hoàn cầu Thời báo, một ấn phẩm của Đảng cộng sản Trung Quốc, hôm 1/10 dẫn lời các chuyên gia quân sự Trung Quốc nói rằng "các kẻ thù gần như khó có thể chặn được DF-17 [Đông Phong 17]".
"Nó sẽ đóng vai trò sống còn để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc vì tất cả các khu vực như Biển Đông, Eo biển Đài Loan và Đông Bắc Á đều nằm trong tầm bắn của nó", tờ báo thường có các bài bình luận thể hiện tinh thần dân tộc của Trung Quốc viết.
Tiến sĩ Hợp nhận định rằng trước khi Đông Phong 41 và17 được Bắc Kinh chính thức công bố trong buổi duyệt binh quy mô lớn mà nhiều nhà quan sát nói là để thể hiện sức mạnh quân sự của Trung Quốc, đất nước đông dân nhất thế giới "đã có tên lửa thừa sức bắn tới Việt Nam".
"Tên lửa tầm 800 cây số là nó đã thừa sức bắn tới Việt Nam rồi. Họ đặt ở ngay đảo Hải Nam thì họ bắn tới tận đảo Phú Quốc", nhà nghiên cứu về tình hình Biển Đông nói.
Hồi đầu tháng Bảy, Bộ Quốc phòng Mỹ đã lên tiếng chỉ trích Trung Quốc tiến hành các cuộc phóng thử nhiều tên lửa chống hạm ở Biển Đông, và coi đó là hành động đi ngược lại với cam kết không quân sự hóa vùng lãnh hải tranh chấp.
Nhận định về tác động của các hành động như vậy đối với quan hệ song phương Hà Nội – Bắc Kinh, ông Hợp nói : "Càng ngày Trung Quốc càng dồn Việt Nam về mặt quan hệ đối ngoại, về mặt an ninh quốc tế, về mặt quan hệ song phương giữa Trung Quốc với Việt Nam và về cả quan hệ nhóm, tức là đa phương, trong đó Việt Nam có một vai trò gì đó trong khu vực Đông Nam Á".
Từng có tin Việt Nam có thể mua BrahMos, loại tên lửa vốn từng khiến quân đội Trung Quốc buộc phải bày tỏ lo ngại. Tuy nhiên, hiện chưa rõ là Hà Nội và New Delhi đã đạt thỏa thuận nào về loại tên lửa do Ấn Độ và Nga liên doanh sản xuất này hay chưa.
Viễn Đông
Việc Bắc Kinh điều một giàn khoan khổng lồ đến Biển Đông đang gây quan ngại về nguy cơ xảy ra một cuộc đối đầu mới giữa Việt Nam và Trung Quốc tại một vùng biển được xem là rất giàu tài nguyên dầu khí.
Ảnh minh họa : Một giàn khoan dầu khí trên biểnJoe Raedle/Getty Images/AFP
Nhật báo Hồng Kông South China Morning Post ngày 25/09/2019, trích dẫn một bài viết trên trang mạng Trường An Kiếm (Chang An Jian) của Ủy Ban Chính Pháp Trung Ương Trung Quốc, cho biết là Bắc Kinh vừa đưa một giàn khoan dầu hỏa nước sâu xuống hoạt động tại Biển Đông. Theo tờ báo Hồng Kông, giàn khoan Hải Dương Thạch Du 982 (Haiyang Shiyou 982) đã bắt đầu hoạt động từ hôm 21/09 tại một vùng biển sâu đến 3.000 m ở Biển Đông.
Hải Dương 982, cao bằng một tòa nhà 10 tầng, là giàn khoan lớn nhất và hiện đại nhất trong số các giàn khoan cùng loại tại Trung Quốc, có thể khoan ở độ sâu đến 9.000 m.
Việc Bắc Kinh đưa giàn khoan mang tên Hải Dương Thạch Du 982 xuống Biển Đông khiến người ta nhớ lại vụ giàn khoan Hải Dương 981 mà Bắc Kinh đưa vào thềm lục địa của Việt Nam năm 2014, làm dấy lên phản ứng dữ dội từ phía Hà Nội. Người dân Việt Nam vào lúc đó xuống đường biểu tình rầm rộ phản đối Trung Quốc, và đã xảy ra các vụ bạo động nhắm vào các công ty Trung Quốc ở Việt Nam.
Tờ International Business Times của Mỹ hôm qua nhận định là có hai yếu tố giải thích hành động lần này của Trung Quốc. Thứ nhất là Bắc Kinh muốn tranh giành nguồn dầu khí tại Biển Đông để đáp ứng nhu cầu năng lượng của nước này. Thứ hai, là Bắc Kinh không bao giờ tôn trọng vùng đặc quyền kinh tế của các nước láng giềng như Việt Nam, thậm chí đã bác bỏ phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng tài Thường trực trong vụ Philippines kiện Trung Quốc.
Bắc Kinh cũng không chấp nhận việc Việt Nam hợp tác với các nước khác trong các dự án thăm dò dầu khí ở Biển Đông. Theo lời chuyên gia người Hàn Quốc Yun Sun, Giám đốc Chương trình Đông Á tại Viện chính sách Stimson, Washington, việc đưa giàn khoan Hải Dương 982 đến Biển Đông rất có thể không chỉ là nhằm củng cố đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc, mà còn nhằm phá hoại nỗ lực của Việt Nam cùng thăm dò và khai thác dầu khí với các nước khác.
Về phần Alan Chong, giáo sư tại Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam, Singapore, ông tin rằng Hà Nội sẽ kháng cự mạnh hơn nếu Trung Quốc khiến Việt Nam tức giận với việc triển khai giàn khoan mới.
Trong bài phát biểu tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc cuối tháng 9 vừa qua, bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh đã cảnh báo về những hành động có thể làm gia tăng căng thẳng ở vùng Biển Đông đang tranh chấp. Tuy ông Phạm Bình Minh không nêu tên Trung Quốc, nhưng đây có thể được là lời cảnh cáo trực tiếp nhắm vào Bắc Kinh.
Theo nhận định của International Business Times, việc điều giàn khoan Hải Dương 982 đến Biển Đông cũng nhằm gởi một thông điệp đến Hoa Kỳ rằng Trung Quốc đang củng cố sự kiểm soát của họ trên các vùng biển tranh chấp, xem đây là "mặt trận thứ hai" trong cuộc đối đầu với Mỹ. Giáo sư khoa học chính trị Herman Kraft, Đại học Philippines cho rằng Bắc Kinh cũng muốn gửi đến Manila thông điệp là họ sẵn sàng thăm dò dầu khí chung nếu Philippines bỏ qua một bên phán quyết 2016 của Tòa Trọng tài Thường trực.
Theo một số chuyên gia, hành động của Trung Quốc cũng là nhằm gia tăng kiểm soát quần đảo Trường Sa, nơi mà họ có thể tiến hành một chiến dịch quân sự dưới vỏ bọc thăm dò dầu khí và điều này tạo cho họ một lợi thế chiến lược so với Hoa Kỳ ở Biển Đông.
Thanh Phương
Nguồn : RFI, 02/10/2019
Nếu ai đó cho rằng nhóm tàu này khi đã rút ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế là nó đã không còn vi phạm các quyền hợp pháp của Việt Nam, là mắc bẫy pháp lý.
Tàu Hải Dương địa chất 08 (Ảnh : Getty)
Mấy ngày nay, dư luận đang xôn xao, bàn tán về việc tàu khảo sát địa chất Trung Quốc số hiệu Hải Dương 08 lại rút ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế phía Nam Việt Nam và di chuyển về khu vực đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Câu hỏi được đặt ra là động thái trên của Trung Quốc diễn ra trong thời điểm này có ý nghĩa gì và có phải đây là một cuộc "rút lui" hay không ? Nó mang tính chiến lược hay chỉ là chiến thuật ?
Thực chất đây là bước lùi hay bước tiến trong tính toán của Trung Quốc khi họ triển khai các hoạt động nhằm độc chiếm Biển Đông bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, hiểm độc ?
Trước tình hình này, là đối tượng bị Trung Quốc xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán trên Biển Đông, chúng ta nên ứng xử như thế nào để phá được những kế sách nguy hiểm này ?
Chúng tôi xin được trao đổi với bạn đọc Báo điện tử Giáo dục Việt Nam về những câu hỏi được đặt ra nói trên nhằm góp phần tìm ra được những câu trả lời thích hợp nhất trước những diễn biến phức tạp của cuộc chiến bảo vệ các quyền hợp pháp của chúng ta trong Biển Đông.
Thôn tính phi truyền thống
Nhiều nhà nghiên cứu, học giả, chính trị gia, chuyên gia quân sự… đã sử dụng thuật ngữ "xâm lược mềm" để ám chỉ một loại hành động thôn tính phi truyền thống mà nội hàm của nó là kẻ thôn tính không sử dụng đến những vũ khí sát thương, không sử dụng đến lực lượng vũ trang như đã từng thấy trong các cuộc "xâm lược cứng".
Vũ khí của cuộc "xâm lược mềm" mà kẻ thôn tính sử dụng là những biện pháp kinh tế, khoa học kỹ thuật, truyền thông, ngoại giao, pháp lý…
Mặc dù không có tiếng súng, tiếng bom đạn, không thấy cảnh khói lửa binh đao, cuộc "xâm lược mềm" là một cuộc chiến tranh kiểu mới hết sức nguy hiểm, đáng sợ.
Bởi vì, kẻ thôn tính có thể đạt được mục tiêu buộc đối phương phải khuất phục, phải lệ thuộc hoàn toàn về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng, phải mặc nhiên thừa nhận những yêu sách phi lý về lãnh thổ, biển, đảo.
Điều đó đồng nghĩa với việc đã để mất chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia vào tay kẻ thôn tính...mà nhiều trường hợp kẻ bị thôn tính lại khó thể nhận ra những thứ "vũ khí mềm"nguy hiểm đó…
Từ đầu tháng 7/2019 đến nay, Trung Quốc đã liên tiếp huy động nhóm tàu Hải Dương địa chất 08 tiến hành hoạt động bất hợp pháp trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý phía Đông Nam Việt Nam.
Động thái này là sự nối tiếp các hoạt động tương tự ở khu vực các bãi cạn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines, Malaysia.
Trung Quốc đang triển khai các "mũi tiến công mềm" nhằm chọc thủng "nồi cơm" của những quốc gia ven Biển Đông, nhất là Việt Nam quốc gia mà Trung Quốc cho rằng có khả năng cản trở bước tiến của họ nhằm thôn tính Biển Đông.
Khi triển khai bất kỳ động thái nào trong Biển Đông , Trung Quốc thường tính toán nhằm vào nhiều mục đích khác nhau : mục đích ngắn hạn, mang tính chiến thuật ; mục đích lâu dài, mang tính chiến lược.
Tuy nhiên, khác với những động thái trước đây, lần này, hoạt động bất hợp pháp của nhóm tàu thăm dò Hải Dương địa chất 08 trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Đông Nam Việt Nam, Trung Quốc nhằm vào những mục đích sau đây :
- Về pháp lý : tìm cách tạo ra vào tình huống "sự đã rồi" với sự hiện diện thường xuyên của các phương tiện thăm dò khai thác tài nguyên dầu khí tại khu vực này để buộc Việt Nam, quốc gia luôn luôn chủ trương giải quyết mọi tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, tránh đối đầu, xung đột, buộc phải chấp nhận chủ trương "cùng khai thác" với Trung Quốc.
Âm mưu này đồng nghĩa với việc ép Việt Nam chấp nhận đây là "khu vực tranh chấp", hoàn toàn có lợi cho Trung Quốc.
- Về kinh tế : Trung Quốc đang gây sức ép để buộc mọi hoạt động kinh tế hợp pháp của Việt Nam ở khu vực này bị đình đốn.
Các công ty của nước ngoài đang khai thác dầu khí ở đây sẽ phải rút lui để tránh những rủi ro do có thể xảy ra xung đột, chiến tranh. Rõ ràng, có thể thấy được mục đích kinh tế của Trung Quốc trong bối cảnh này.
Họ muốn "xí phần" khai thác dầu khí, tài nguyên khoáng sản…bằng cách tạo nên môi trường bất ổn, làm suy giảm tốc độ phát triển kinh tế của các quốc gia trong khu vực để họ dễ bề thao túng, điều khiển…
Có thể nói, với những động thái nói trên, Trung Quốc đang tính toán áp dụng binh pháp Tôn Tử "hỗn thủy mạc ngư", hay nói như người Việt Nam ta, là đục nước béo cò.
Và chừng nào Trung Quốc "chưa bắt được cá", chưa "đạt được mục đích" thì chừng đó Trung Quốc vẫn tiếp tục quấy phá, tiếp tục duy trì "mũi tấn công mềm" nguy hiểm này.
Cho đến nay, việc con tàu khảo sát Hải Dương địa chất 08 di chuyển quanh quẩn, lúc vào xâm phạm, lúc lại rút khỏi khu vực bãi cạn Tư Chính phải chăng thực chất là Trung Quốc đang vận dụng mưu chước "Tiếu lý tàng đao" (Cười nụ giấu dao, lập mưu kín kẽ không để đối phương biết) ?
Không những không rút mà còn tiến mạnh hơn
Xin được lưu ý thêm rằng, xét trên phương diện pháp lý quốc tế, việc nhóm tàu Hải Dương địa chất 08 mấy lần "rút khỏi" khu vực biển bãi cạn Tư Chính để quay về đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, thực chất chỉ là sự "nâng cấp" vi phạm.
Đó là từ vi phạm quyền chủ quyền, quyền tài phán ở vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, lên vi phạm chủ quyền ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam mà thôi.
Nếu ai đó cho rằng nhóm tàu này khi đã rút ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế là nó đã không còn vi phạm các quyền hợp pháp của Việt Nam, cho nên không cần làm "nóng" sự việc lên, không cần phải lên tiếng phản đối…là một sai lầm nguy hiểm, nếu không muốn nói là thiếu trách nhiệm trước sự sống còn của quốc gia, dân tộc…
Bởi vì, điều đó đồng nghĩa với việc mặc nhiên thừa nhận Trung Quốc có chủ quyền ở quần đảo Trường Sa, chí ít là đối với các thực thể địa lý mà Trung Quốc đã dùng vũ lực đánh chiếm từ năm 1988.
Với "mũi tấn công mềm" này, Trung Quốc đã vi phạm không chỉ các quyền và lợi ích chính đáng của các quốc gia ven Biển Đông, mà còn của các quốc gia liên quan khác ngoài khu vực được Luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 đã quy định rõ ràng, đang có hiệu lực.
Với động thái này, nếu không kịp thời lên án mạnh mẽ và ngăn chặn kịp thời thì sẽ tạo ra tiền lệ xấu về cách ứng xử dựa vào sức mạnh, bất chấp công lý và đạo lý trong quan hệ quốc tế ở thời đại văn minh, tiến bộ hiện nay ; gây bất ổn về chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng, có tác động tiêu cực đến sự tăng trưởng kinh tế quốc gia, khu vực và quốc tế hiện đang lâm vào tình trạng khủng hoảng và đình trệ.
Điều nghiêm trọng hơn, nếu không kiểm soát được sẽ đẩy nhân loại vào những cuộc xung đột, chiến tranh hủy diệt, tàn khốc.
Tiến sĩ Trần Công Trục
Nguồn : GDVN, 29/09/2019
Biển Đông : Trung Quốc bị tố dùng tàu hải cảnh để áp đặt chủ quyền (RFI, 27/09/2019)
Trong thời gian qua, tàu hải cảnh Trung Quốc đã xuất hiện nhan nhản trên Biển Đông, đặc biệt là trong các vùng biển của các nước láng giềng nhưng bị Trung Quốc tự nhận chủ quyền. Trong một bài phân tích công bố ngày 26/06/2019, cơ quan Sáng Kiến Minh Bạch Hàng Hải Châu Á AMTI, thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Tế và Chiến Lược CSIS, trụ sở tại Washington, đã vạch trần ý đồ của Bắc Kinh, dùng các phương tiện bán quân sự này để áp đặt chủ quyền.
Tàu tuần duyên Trung Quốc phun vòi rồng vào tàu cảnh sát biển Việt Nam, tiếp cận khu vực giàn khoan 981, ngày 08/05/2016. Ảnh : Reuters
Bài phân tích đã nêu rõ một loạt hành vi sách nhiễu mà tàu hải cảnh Trung Quốc đã và đang thực hiện nhắm vào ba nước láng giềng đang có tranh chấp biển đảo với Bắc Kinh : Việt Nam, Philippines và Malaysia.
Trong lúc Malaysia là nạn nhân của hải cảnh Trung Quốc tại vùng bãi cạn Luconia Shoals, thì Philippines bị Bắc Kinh quấy nhiễu ở các khu vực Bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal), Scarborough Shoal, và cả đảo Thị Tứ.
Về Việt Nam, AMTI quan tâm đến các diễn biến mới nhất, với việc tàu hải cảnh Trung Quốc liên tục quấy rối giàn khoan Hakuryu 5 hoạt động tại lô 6.1 của Việt Nam gần Bãi Tư Chính kể từ tháng 6 vừa qua, hay vụ đội tàu hải cảnh hùng hậu của Trung Quốc hộ tống tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 tiến vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở phía nam Biển Đông kể từ tháng 7.
Điểm được AMTI đặc biệt chú ý là khi hoạt động tại các vùng biển gần các bãi Luconia, Cỏ Mây và Scarborough, tàu hải cảnh Trung Quốc hầu như luôn luôn bật tín hiệu nhận dạng tự động AIS, dù đó không phải là điều bắt buộc đối với tàu quân sự hay chấp pháp.
Mục tiêu của việc này, theo AMTI, chính là để tất cả mọi người thấy rõ là tàu chấp pháp Trung Quốc đang hiện diện trong khu vực, qua đó khẳng định rằng vùng đó là thuộc chủ quyền Trung Quốc.
Báo cáo của AMTI nhận định : "Rõ ràng Bắc Kinh quan tâm đặc biệt đến các bãi cạn Luconia, Cỏ Mây và Scarborough. Trung Quốc như đang cho rằng nếu duy trì được sự hiện diện bán thường trực của lực lượng hải cảnh của họ trong một thời gian đủ lâu, thì các nước trong vùng rốt cuộc sẽ chấp nhận quyền kiểm soát trên thực tế của Trung Quốc tại những khu vực đó".
Cũng theo AMTI, nếu chiến lược đó thành công tại những nơi này, Trung Quốc hoàn toàn có thể mang qua áp dụng tại những nơi có tranh chấp khác.
Đối với AMTI, để dự phòng phản ứng của các nước láng giềng, tàu tuần tra Trung Quốc thường to lớn hơn nhiều so với tàu cảnh sát biển, thậm chí tàu chiến của những nước đó. Tại ba bãi cạn của Malaysia và Philippines, Bắc Kinh dùng loại tàu tương đối nhỏ không trang bị vũ khí mạnh, nhưng mang theo vòi rồng và vũ khí nhỏ, đủ để đâm vào xua đuổi tàu đối phương mà không sử dụng đến vũ lực sát thương.
Riêng trong trường hợp Bãi Tư Chính hiện nay (hay tại khu vực đảo Thị Tứ từ cuối năm 2018 ), Trung Quốc đã triển khai thêm loại tàu lớn, trang bị súng 76 ly.
Trả lời báo Hồng Kông South China Morning Post số ra hôm nay, 27/09/2019, ông Collin Koh, chuyên gia về hải quân thuộc Chương Trình An Ninh Hàng Hải tại Trường Nghiên Cứu Quốc Tế S Rajaratnam ở Singapore, cho rằng hành động phô trương sự hiện hiện của các tàu hải cảnh là cách thức Trung Quốc áp đặt quyền tài phán của họ trong khu vực.
Theo chuyên gia này : "Chỉ riêng việc những con tàu này có mặt ở đó (những nơi có tranh chấp), phát đi tín hiệu AIS một cách công khai, đã có thể có tác dụng uy hiếp đối với người thường, đặc biệt là ngư dân của những quốc gia thường hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của họ - đặc biệt là khi những người này không được hoặc không mong đợi có sự bảo vệ hiệu quả từ các cơ quan hàng hải của chính phủ họ".
Chuyên gia Singapore kết luận là sự hiện diện của hải cảnh Trung Quốc "chắc chắn sẽ có tác dụng xua đuổi ngư dân nước khác, hoặc buộc họ làm theo ý của Trung Quốc".
Trọng Nghĩa
******************
Hôm 26/9, thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ David Hale gặp Phó Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh tại New York, nói rằng Mỹ có lợi ích trong việc đảm bảo an ninh, an toàn hàng hải và hàng không tại Biển Đông.
TTXVN tường thuật rằng ông Hale khẳng định cam kết của Mỹ đối với hoà bình, an ninh và thịnh vượng tại khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
"Mỹ có lợi ích trong việc đảm bảo trật tự dựa trên luật lệ, tự do, an ninh, an toàn hàng hải và hàng không tại Biển Đông", nhà ngoại giao hàng đầu của Hoa Kỳ chuyên trách các vấn đề chính trị nói.
Ngoài ra, thứ trưởng David Hale bày tỏ mong muốn hai bên duy trì tiếp xúc ở các cấp, thường xuyên tham vấn và phối hợp trong quan hệ song phương cũng như các diễn đàn đa phương, theo Cổng thông tin Chính phủ Việt Nam.
Đài truyền hình VTV dẫn lời Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh khẳng định Việt Nam coi trọng và mong muốn tăng cường quan hệ với Mỹ trong bối cảnh hai nước chuẩn bị kỷ niệm 25 năm bình thường hóa quan hệ vào năm 2020, đề nghị hai bên phối hợp tăng cường tiếp xúc và đối thoại, nhất là cấp cao, làm sâu sắc hơn và mở rộng khuôn khổ quan hệ thương mại-đầu tư, an ninh-quốc phòng..., tăng cường hợp tác trong các vấn đề quốc tế và khu vực.
Ông Phạm Bình Minh vừa tới New York để tham dự Phiên thảo luận chung cấp cao khóa 74 Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc (Liên Hiệp Quốc) và Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN không chính thức (IAMM) từ 26 đến 29/9.
Văn phòng của Người phát ngôn cho Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc cho VOA tiếng Việt biết rằng, theo lịch trình tạm thời, một phó thủ tướng của Việt Nam sẽ có bài phát biểu tại cuộc họp của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc (UNGA) vào ngày 28/9.
Trước sự kiện này, giới phân tích cho VOA biết rằng Hà Nội nên nêu vụ "đối đầu" với Trung Quốc ở Bãi Tư Chính để vận động sự ủng hộ của nhiều quốc gia hơn nữa.
******************
Các nhà lập pháp Hoa Kỳ vừa trình hai dự luật nhằm đối đầu sự bành trướng về sức mạnh quân sự và kinh tế của Trung Quốc, cũng như cho phép chính phủ Mỹ hợp tác chặt chẽ hơn nữa với các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, để đảm bảo an ninh khu vực trước hành động hung hăng của Bắc Kinh.
Hôm 25/9, Thượng nghị sĩ Mitt Romney và các thượng nghị sĩ lưỡng đảng của Hoa Kỳ đã giới thiệu dự luật Hợ p tác Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương(The Indo-Pacific Cooperation Act of 2019), theo đó cho phép Hoa Kỳ hợp tác với các đồng minh ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương và cả Châu Âu để cùng đưa ra một giải pháp thống nhất nhằm đối phó sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Trao đổi với VOA Tiếng Việt qua email hôm 26/9, Văn phòng của Thượng nghị sĩ Mitt Romney trích lời ông cho biết trong một thông cáo : "Đã đến lúc chúng ta phải xây dựng một chiến lược toàn diện để đối đầu với hành động hung hăng của Trung Quốc khi họ đang mở rộng sức mạnh kinh tế và quân sự".
"Để làm tốt nhất điều đó, chúng ta phải liên kết sức mạnh quân sự với các quốc gia khác và phát triển cách tiếp cận thống nhất với các đồng minh để giải quyết mối đe dọa đáng kể của Trung Quốc đối với nền tự do của chúng ta và trên khắp thế giới", Thượng nghị sĩ Romney nói thêm.
Trong một thông cáo hôm 25/9, nữ Thượng nghị sĩ Cortez Masto, đồng bảo trợ Dự luật Hợ p tác Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, nói : "Các liên minh và các đối tác mạnh mẽ trên khắp thế giới của Hoa Kỳ là một nguồn sức mạnh hợp nhất. Dự luật này sẽ đảm bảo cho chúng ta phối hợp hiệu quả hơn với các quốc gia khác để có cách tiếp cận thống nhất, toàn diện đối với Trung Quốc…"
Trước đó, vào chiều 24/9, Hạ viện Hoa Kỳ đã thông qua Dự luật Chiế n lược Đông Nam Á (Southeast Asia Strategy Act) nhằm tăng cường sự can dự của Hoa Kỳ vào khu vực Đông Nam Á và đảm bảo rằng các đối tác quan trọng trong khu vực nhận được sự hẫu thuẫn mạnh mẽ của Hoa Kỳ. Ngày hôm sau, 25/9, dự luật này đã được chuyển cho Thượng viện xem xét.
Nữ Dân biểu Ann Wagner, người giới thiệu Dự luật Chiế n lược Đông Nam Á, cho biết trong một thông cáo hôm 18/9 : "Cho đến nay, Hoa Kỳ chưa bao giờ đưa ra một chiến lược toàn diện cho khu vực Đông Nam Á. Dự luật Chiế n lược Đông Nam Á sẽ thực hiện điều đó bằng cách thiết lập một chiến lược khu vực sâu sắc, rành mạch, nhằm giải quyết tất cả các khía cạnh của mối quan hệ quan trọng của chúng ta với Đông Nam Á và ASEAN".
"Quốc hội đang làm việc với Chính phủ để thông báo với đối tác của chúng ta rằng Hoa Kỳ sẽ ủng hộ họ khi họ mở rộng thương mại và phát triển, bảo đảm an ninh biên giới, tăng cường nhân quyền và bảo vệ trước sự hung hăng của Trung Quốc", bà Wagner cho biết.
Thông cáo cho biết Dự luật Chiế n lược Đông Nam Á sẽ yêu cầu Ngoại trưởng Hoa Kỳ, có tham vấn với Bộ trưởng Thương mại và Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, cùng thiết lập và truyền đạt một chiến lược toàn diện để tăng cường mối quan hệ với khu vực Đông Nam Á và khối ASEAN, mà trong đó Việt Nam là một thành viên.
Ba trọng tâm của Dự luật Chiế n lược Đông Nam Á bao gồm thứ nhất là xác định các lợi ích lâu dài của Hoa Kỳ trong khu vực và nỗ lực thúc đẩy ASEAN trở thành một nhà lãnh đạo khu vực ; thứ hai, lập danh sách các sáng kiến đang diễn ra và có kế hoạch nhằm tăng cường các mối quan hệ của Hoa Kỳ trong khu vực thông qua thương mại, đầu tư, năng lượng và ngoại giao về chính trị và kinh tế ; và thứ ba, đánh giá những nỗ lực liên tục để các quốc gia trong khu vực tăng cường các hoạt động vì nhân quyền và dân chủ.
****************
Vụ Bãi Tư Chính : Tàu Trung Quốc ‘cố ý’ để lộ diện trên dữ liệu theo dõi (VOA, 27/09/2019)
Một báo cáo vừa mới công bố hôm 26/9 của tổ chức Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á (AMTI) có trụ sở ở Washington cho biết các tàu hải cảnh mà Trung Quốc triển khai trên Biển Đông trong thời gian qua cùng với tàu thăm dò Hải Dương Địa Chất 8 đã "cố ý" để lộ diện trên dữ liệu theo dõi hàng hải nhằm khẳng định chủ quyền.
Tàu thăm dò Hải Dương Địa Chất 8 của Cục Khảo sát Địa chất Trung Quốc. Ảnh : China Geological Survey.
AMTI cho biết họ xác định được 14 tàu hải cảnh Trung Quốc đã phát tín hiệu AIS (hệ thống nhận dạng tự động) trong lúc tuần tra ở các bãi cạn Luconia, Second Thomas và Scarborough trong năm qua.
Theo quy định, các tàu thương mại trên 300 tấn phải phát tín hiệu AIS để tránh va chạm, trong khi các tàu công lực và quân sự có quyền quyết định phát tín hiệu này khi nào và ở đâu.
Theo báo cáo của nhóm chuyên gia nghiên cứu ở Mỹ, nhiều tàu hải cảnh của Trung Quốc đang tuần tra ở những khu vực khác trên Biển Đông chỉ phát tín hiệu khi ra vào cảng. Tuy nhiên, chỉ trong 365 ngày qua, các tàu hải cảnh Trung Quốc đã phát tín hiệu AIS lên đến 258 ngày ở bãi Luconia, 215 ngày ở bãi Second Thomas và 162 ngày ở bãi Scarborough.
Kể từ đầu tháng 7, tàu thăm dò Hải Dương 8 của Trung Quốc cùng với nhóm tàu hải cảnh hộ tống đã xâm nhập vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, gần khu vực Bãi Tư Chính, nơi Việt Nam đang hợp tác với một số nước để thăm dò và khai thác dầu khí.
Sự kiện này đã đẩy căng thẳng trong quan hệ Việt-Trung lên đến đỉnh điểm, kể từ sau khi Bắc Kinh đưa giàn khoan HD-981 vào Biển Đông năm 2014.
Báo cáo của AMTI cho biết trong khoảng thời gian từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 9 năm 2019, tín hiệu AIS cho thấy đã có 3308 cuộc tuần tra của tàu hải cảnh Trung Quốc được thực hiện xung quanh ba bãi cạn trên, ngoài việc tham gia vào hoạt động quấy rối khu vực thăm dò và khai thác dầu khí của Việt Nam tại Lô 06-01, cũng như hộ tống tàu thăm dò Hải Dương 8.
Theo các nhà nghiên cứu Mỹ, cách tuần tra tạo thành "khuôn mẫu" và "thông lệ" này càng cho thấy ý định "khẳng định chủ quyền" của Trung Quốc ở những nơi mà Bắc Kinh đã tuyên bố yêu sách chủ quyền nhưng chưa xây dựng được cơ sở vật chất tại đó.
Giải thích vì sao số lượng phát tín hiệu AIS ở bãi Luconia và bãi Second Thomas lại thường xuyên hơn ở bãi Scarborough, báo cáo của AMTI nói là vì hai bãi cạn trên vẫn đang nằm dưới sự quản lý của Philippines và Malaysia trong khi bãi Scarborough xem như đã nằm dưới sự "kiểm soát chặt chẽ" của Trung Quốc nên "không nhất thiết phải phát tín hiệu nhận dạng vị trí của tàu như một cách tuyên bố chủ quyền".
Theo AMTI, Trung Quốc có vẻ như sẽ tiếp tục thực hiện cách thức cho tàu hải cảnh hiện diện "bán thường trực" ở những khu vực tranh chấp trên Biển Đông trong một thời gian đủ lâu để dần dần tạo thành tình trạng kiểm soát "trên thực tế" khiến các quốc gia trong khu vực buộc phải chấp nhận.
******************
Việt Nam - Hoa Kỳ tham vấn quốc phòng (RFA, 27/09/2019)
Vào ngày 27 tháng 9, thứ trưởng Bộ Quốc Phòng Việt Nam, thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh có cuộc tiếp đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, ông Daniel Krintenbrink và đoàn Cục Kế hoạch Chiến lược & Hoạch định Chính Sách Bộ Tư Lệnh Ấn Độ - Thái Bình Dương của Mỹ nhân dịp đoàn sang dự Tham vấn quốc phòng Việt Nam - Hoa Kỳ.
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh và Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Hoa Kỳ tại Việt Nam Daniel J. Kritenbrink tại buổi tiếp ngày 27/9/2019. Ảnh chụp màn hình VTC.vn
Thông tấn xã Việt Nam loan tin, Thiếu tướng Stephen Sklenka, Cục trưởng Cục Kế hoạch Chiến lược & Hoạch định Chính sách Bộ Tư Lệnh Ấn Độ - Thái Bình Dương của Mỹ tại cuộc gặp đã thông báo kết quả của buổi làm việc giữa đoàn Hoa Kỳ với Cục Đối ngoại, Bộ Quốc Phòng Việt Nam.
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh của Việt Nam bày tỏ mong muốn hai phía tiếp tục xây dựng và đẩy mạnh các kế hoạch hợp tác trong tương lai ; đặc biệt trong các lĩnh vực hàng hải, an ninh biển ; khắc phục hậu quả chiến tranh, góp phần xây dựng khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương ngày cảng ổn định, hòa bình và phát triển.
Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, ông Daniel Kritenbrink cho rằng hợp tác an ninh - quốc phòng giữa Washington và Hà Nội là một điểm sáng trong quan hệ song phương Mỹ - Việt.
Cũng tin liên quan, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh Việt Nam và thứ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ David Hale trong ngày 26/9 có cuộc gặp tại New York. Nhân dịp này ông Phạm Bình Minh bày tỏ mong muốn tăng cường quan hệ hai nước, nhất là kỷ niệm 25 năm Việt – Mỹ bình thường hóa quan hệ sẽ diễn ra vào năm 2020.
Về phía Hoa Kỳ, thứ trưởng David Hale khẳng định cam kết của Mỹ đối với hòa bình, an ninh và thịnh vượng trong khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.
Đồng thời ông cũng nhấn mạnh Mỹ có lợi ích trong việc đảm bảo trật tự dựa trên luật lệ, tự do, an ninh an toàn hàng hải và hàng không tại Biển Đông.
Chiến tranh thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc ngày càng căng thẳng, đã dẫn đến một sự hỗn loạn thị trường và nguy cơ kinh tế suy thoái cho cả toàn cầu chứ không riêng gì cho hai nước.
Tại Châu Âu, những tác động của cuộc chiến thương mại và quyết định của Anh rời khỏi Liên Hiệp Châu Âu (Brexit) đã kìm hãm đà tăng trưởng kinh tế của các nước trong Liên Hiệp Châu Âu (EU). Nhưng hơn hết nó đang làm thay đổi cục diện địa chính trị, làm lung lay nền tảng cán cân quyền lực tại Châu Âu, buộc EU phải định hình lại vai trò của liên minh trên thế giới.
EU đánh giá Châu Á, đặc biệt Đông Nam Á là khu vực đang phát triển và là trọng tâm của một chiến lược mới hướng về Châu Á, nên EU muốn xây dựng mối liên kết sâu rộng đồng thời tăng cường sự hiện diện tại khu vực, thông qua quan hệ thương mại và quốc phòng.
Hợp tác và triển khai chiến lược an ninh
Tại hội nghị Đối thoại Shangri-La (tháng 5/2019), bà Federica Mogherini, Phó Chủ tịch Ủy ban EU, Đại diện cấp cao của EU về Chính sách Đối ngoại và An ninh, xác nhận, EU hiện đã hợp tác chặt chẽ hơn bao giờ hết với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), không chỉ về chính trị và kinh tế, mà còn về an ninh. Từ nhiều năm qua, EU luôn tham dự các phiên họp của Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN và các Hội nghị thượng đỉnh Đông Á thường niên.
Vào tháng 5, Thứ trưởng quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh dẫn một phái đoàn Việt Nam tới Brussels để tham dự cuộc họp của các Bộ trưởng Quốc phòng EU theo lời mời của ông Claudio Graziano, Chủ tịch Ủy ban Quân sự Liên Hiệp Châu Âu, cơ quan quân sự cao nhất của EU.
Cũng trong tháng 5, cuộc họp ủy ban chung đầu tiên theo Hiệp định khung đối tác và hợp tác toàn diện Việt Nam và EU (EU-Vietnam Framework Agreement on Comprehensive Partnership and Cooparation – EV-PCA) đã được tổ chức. Đây là thỏa thuận được ký vào năm 2012 và có hiệu lực vào năm 2016. Cuộc họp này do Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam, Tô Anh Dũng và Gunnar Wiegand, giám đốc Châu Á và Thái Bình Dương thuộc Cơ quan hành động đối ngoại Châu Âu, đồng chủ trì.
Vào ngày 5 tháng 8, báo Asia Times loan tin, Federica Mogherini và Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch ký thỏa thuận khung hợp tác quốc phòng (Framework Participation Agreement – FPA). Theo đó, Việt Nam được khuyến khích đóng góp vào các hoạt động trong khuôn khổ Chính sách An ninh và Quốc phòng chung của EU, một chiến lược phối hợp chính sách tình báo và quốc phòng của khối này cũng như tham gia vào các công tác gìn giữ hòa bình, phòng ngừa xung đột và tăng cường an ninh quốc tế trong khu vực lân cận EU.
Đây là dấu hiệu mới nhất, cho thấy, EU đang cố gắng thiết lập mối quan hệ quốc phòng chặt chẽ hơn với khu vực và đặc biệt với Việt Nam, vốn là trọng tâm tranh chấp với Bá quyền Trung Quốc ở Biển Đông. Trước đó EU đã ký kết FPA với Úc, Tân Tây Lan và Hàn Quốc.
Can dự vào Biển Đông, bảo vệ tự do hàng hải
Cho đến nay, EU từ chối công khai ủng hộ các bên tranh chấp ở Biển Đông, nhưng đã đưa ra quan điểm đòi Bắc kinh phải tuân thủ công pháp quốc tế, dựa trên các nguyên tắc của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (United Nations Convention on the Law of the Sea -UNCLOS). Trong chiến lược toàn cầu được công bố vào tháng 6.2016, Liên Hiệp Châu Âu cam kết các yêu cầu: Duy trì tự do hàng hải, bảo đảm sự tuân thủ Công pháp quốc tế bao gồm Luật biển và thủ tục tài phán, cũng như giải quyết các tranh chấp vùng biển trong hoà bình.
Hiện có hai quốc gia thành viên EU đang tham gia tự do hoạt động hàng hải ở Biển Đông là Pháp và Vương quốc Anh.
Quan hệ an ninh Pháp – Việt đã được cải thiện nhiều. Hai bên đã ký thỏa thuận hợp tác quốc phòng từ năm 2009 và bắt đầu Đối thoại chính sách quốc phòng vào cuối năm 2016.
Cuộc đối thoại cấp thứ trưởng đầu tiên giữa hai nước về chiến lược an ninh và quốc phòng diễn ra vào tháng 9.2018 và ký kết thành lập một Ủy ban hợp tác quốc phòng Việt- Pháp.
Pháp là quốc gia nhiều lần lên tiếng phản đối Trung Quốc chiếm đóng và quân sự hóa nhiều nơi trên Biển đông. Các tàu của Pháp tham gia vào các cuộc diễn tập tự do hàng hải trên Biển Đông năm 2017 và năm 2018.
Vào tháng 5/2019, tàu khu trục FS Forbin của Pháp đã cập cảng Việt Nam lần đầu tiên. Tại Hội nghị Shangri-La 2019 ở Singapore, một cuộc đối thoại quốc phòng khu vực thường niên được tổ chức hồi cuối tháng 5, Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Florence Parly đã hứa rằng, các tàu của Pháp "sẽ đi vào biển Đông nhiều hơn hai lần một năm".
Khởi động thành lập "Liên minh các quốc gia dân chủ Châu Á"
Vào cuối tháng 6/2019 Tổng thống Pháp Emmanuel Macron thăm Nhật Bản với mục đích thảo luận với Thủ tướng Nhật Shinzo Abe về dự án lập một liên minh với các quốc gia dân chủ, nhằm chống lại bá quyền Trung Quốc trong vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương. Sáng kiến này trước đây đã được Abe trình bày trong diễn văn đọc trước Quốc hội Ấn vào năm 2007. Theo đó, Nhật, Ấn, Úc và một số quôc gia dân chủ khác sẽ cùng liên kết đối đầu Trung Quốc, một bá quyền trỗi dậy đang đe dọa sự ổn định tại Châu Á và thế giới.
Nay Pháp, quốc gia thành viên EU đầu tiên muốn tham gia sáng kiến của Thủ tướng Abe. Tổng thống Macron tuyên bố Pháp-Nhật hợp tác nhằm lập một liên minh tranh đấu cho một khu vực phi bá quyền và phi nguyên tử. Ngân sách quốc phòng ba quốc gia Pháp, Nhật và Ấn hợp chung là 177 tỷ USD, trong khi Trung Quốc chi 250 tỷ USD cho quân sự. Trung Quốc hiện có 450 đầu đạn hạt nhân : 150 đầu đạn hạt nhân chiến lược, 150 bom hạt nhân, và 150 đầu đạn pháo hạt nhân.
Thủ tướng Abe đang nỗ lực sửa đổi Hiến pháp, cho phép Nhật trong tương lai tham gia hỗ trợ quân sự cho các quốc gia đồng minh. Chẳng hạn, trong trường hợp Trung Quốc lấn vào một quần đảo của Pháp ở Thái Bình Dương, Nhật có thể can dự mà không bị kết án vi hiến. Dominique Moisi, nguyên giáo sư Harvard, chuyên gia đối ngoại Pháp so sánh sáng kiến Abe và Macron với một liên minh của ba nước Phổ, Áo và Anh đã liên kết chống lại Đế quốc hùng mạnh Napoleon trong thế kỷ 18 và đã thành công. Ông giải thích thêm, lý do hình thành Liên minh Nhật, Ấn, Úc và Pháp là thực tại thế giới mới đang ở vào thời điểm, Trung Quốc đã là mối đe dọa lớn và không ai còn tin tưởng vào Hoa Kỳ nữa.
Trong tương lai, Châu Âu sẽ là một tác nhân toàn cầu (global player) như Mỹ, Trung và Nga và hơn bao giờ hết EU không muốn duy trì vị thế bánh mì kẹp Sandwich (Sandwich position) phụ thuộc vào mối tương quan quyền lợi giữa hai siêu cường Mỹ-Trung.
Quan hệ Việt Nam-Liên Hiệp Châu Âu (EU)
Bối cảnh toàn cầu phức tạp thúc đẩy EU mở rộng quan hệ và tìm kiếm thỏa thuận thương mại với mọi quốc gia, đặc biệt với các nước thành viên ASEAN. Hiện tại bang giao Việt Nam-EU cũng đã có nhiều cải thiện và đang phát triển. Trong thời gian tới Việt Nam sẽ trở thành thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc và Việt Nam chuẩn bị đảm nhận vị trí chủ tịch của khối ASEAN.
Các mốc lớn trong quan hệ Việt Nam – EU
1990 : Việt Nam và Cộng đồng Châu Âu chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao.
1995 : Việt Nam và Cộng đồng Châu Âu ký Hiệp định Khung Hợp tác Việt Nam – EC.
1996 : Ủy ban Châu Âu thành lập Phái đoàn Đại diện thường trực tại Việt Nam.
2003 : Việt Nam và EU chính thức tiến hành đối thoại nhân quyền.
2004 : Hội nghị cấp cao Việt Nam – EU lần đầu tiên tại Hà Nội.
2012 : Ký chính thức PCA Việt Nam – EU và khởi động đàm phán EVFTA.
2015 : Ký Tuyên bố chính thức kết thúc đàm phán EVFTA.
Thương mại
Thương mại là trụ cột quan trọng trong quan hệ Việt Nam – EU. EU là đối tác thương mại lớn thứ tư (sau Trung Quốc, Hàn Quốc và Mỹ) và là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai (sau Mỹ) của Việt Nam. Tổng kim ngạch thương mại hai chiều trong năm 2018 là 47.286 tỷ USD trong đó xuất khẩu là 35,522 tỷ USD, nhập khẩu là 11,764 tỷ USD.
Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA)
Bốn năm sau khi các cuộc đàm phán kết thúc (2015), Việt nam và Liên Hiệp Châu Âu cuối cùng đã ký hiệp định thương mại tự do (FTA) và thỏa thuận bảo hộ đầu tư vào ngày 30 tháng 6 tại Hà Nội. Các thỏa thuận này có ý nghĩa không chỉ đối với mối quan hệ của Việt Nam với Châu Âu, mà còn là một dấu mốc quan trọng trong quan hệ kinh tế giữa EU và khu vực Đông Nam Á. Mục tiêu dài hạn của EU là can dự mở rộng ảnh hưởng ở Châu Á.
Bốn năm sau khi các cuộc đàm phán kết thúc (2015), Việt nam và Liên Hiệp Châu Âu cuối cùng đã ký hiệp định thương mại tự do (FTA) và thỏa thuận bảo hộ đầu tư vào ngày 30 tháng 6 tại Hà Nội.
Theo sau Singapore và Việt Nam, nước kế tiệp EU ký kết là Indonesia. EVFTA là Hiệp định thương mại quan trọng là giữa Việt Nam với EU. Đây là cơ hội lớn cho xuất khẩu Việt Nam khi hàng hoá luôn xuất siêu vào thị trường này.
Theo cam kết trong EVFTA, trong vòng 7 năm, EU sẽ xóa bỏ 99,2% số dòng thuế trong biểu thuế, tương đương 99,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU. Trong vòng 10 năm, Việt Nam sẽ xóa bỏ trên 99% số dòng thuế đối với nhập khẩu từ EU. Đối với thương mại dịch vụ và đầu tư, EU cam kết tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam.
Khả năng EVFTA được phê chuẩn ?
Trong quá trình đàm phán kéo dài nhiều năm, Hiệp định EVFTA đã gây nhiều tranh cãi giữa các chính đảng trong EU. Những nghị sĩ ủng hộ cho rằng, EU nên nhượng bộ thương mại để khuyến khích Việt Nam nỗ lực bảo vệ môi sinh và tôn trọng nhân quyền. Ngược lại, phe chống đối lo ngại tính khả thi trong trường hợp thoả thuận với Cộng sản Việt Nam.
Nội dung EV-FTA cho thấy, hiệp định không thuần túy là thỏa ước thương mại mà còn đính kèm các điều kiện nhân quyền mà cả hai bên đều phải tuân thủ. EU ký kết các thỏa thuận thương mại không chỉ đơn giản nhằm tăng lợi ích kinh tế mà còn sử dụng như một công cụ quảng bá các giá trị tự do, dân chủ, công lý, pháp trị và nhân quyền.
Trong 8 phiên họp Đối thoại nhân quyền giữa Việt nam và EU, EU luôn nhấn mạnh vào sự cần thiết đạt được tiến bộ quan trọng trong các quyền về chính trị và dân sự. EU đã phê bình các vụ giam giữ và kết án, cũng như những hạn chế quyền tự do đi lại của những nhà bảo vệ nhân quyền. EU đòi hỏi tất cả những cá nhân bị bắt giam vì đã thực hiện quyền tự do biểu đạt của mình một cách ôn hòa trên mạng hay không qua mạng cần phải được trả tự do. Ngoài ra EU đề cao vai trò rất quan trọng của các tổ chức xã hội dân sự trong việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người cũng như trong việc tăng cường sự phát triển kinh tế, xã hội bền vững.
Trong năm qua, nhiều Nghị sĩ của Nghị viện Châu Âu đã gửi thư ngỏ thúc giục chính quyền Việt Nam phải thực hiện những bước cải thiện đáng kể trong hồ sơ nhân quyền trước khi EVFTA có thể được phê chuẩn.
Trong quá khứ Hiệp định EVFTA dự kiến phê chuẩn vào năm 2018, đã bị Liên Hiệp Châu Âu hoãn lại vì chế độ Hà nội vi phạm luật quốc tế qua việc mật vụ Việt Nam bắt cóc trắng trợn một viên chức Việt nam xin tị nạn tại Đức hồi mùa hè 2017 cũng như tình trạng nhân quyền ngày càng trầm trọng ở Việt Nam. Vụ bắt cóc dẫn đến khủng hoảng bang giao Việt-Đức. Chính quyền Berlin đã tạm ngưng đối tác chiến lược với Hà Nội.
Lần này trước tình hình mới Hiệp định sẽ được đưa ra Nghị viện Châu Âu phê chuẩn vào cuối năm nay hoặc sang năm 2020. Nếu được Nghị viện Châu Âu phê chuẩn, EV-FTA sẽ tạo ra những chuyển biến lớn về kinh tế, đồng thời sẽ có những ảnh hưởng nhất định đến giới hoạt động nhân quyền ở Việt Nam.
Vũ Ngọc Yên
Nguồn : Tiếng Dân (27/09/2019)
Trung Quốc điều một giàn khoan nước sâu hiện đại ra Biển Đông (26/09/2019)
Theo nhật báo Hồng Kông South China Morning Post ngày 25/09/2019, Trung Quốc vừa đưa một giàn khoan dầu hỏa nước sâu xuống hoạt động tại Biển Đông.
Ảnh minh họa - Một giàn khoan dầu khí ngoài biển. Getty Images/HeliRy
Việc Bắc Kinh đưa giàn khoan mang tên Hải Dương Thạch Du 982 xuống Biển Đông gợi lại vụ Trung Quốc cho giàn khoan Hải Dương 981 vào cắm trong vùng thềm lục địa của Việt Nam năm 2014, làm dấy lên phản ứng dữ dội của Việt Nam.
Trích dẫn một bài viết trên trang mạng Trường An Kiếm (Chang An Jian) của Ủy ban Chính pháp Trung ương Trung Quốc, South China Morning Post cho biết là giàn khoan dầu Hải Dương Thạch Du 982 (Haiyang Shiyou 982) bắt đầu hoạt động từ hôm 21/09 tại một vùng biển sâu đến 3.000 m ở Biển Đông.
Theo bài viết, đây là giàn khoan lớn nhất và hiện đại nhất trong số các giàn khoan cùng loại của Trung Quốc, có thể khoan ở độ sâu đến 5.000 m dưới biển. Tuy nhiên, tác giả không cho biết là giàn khoan đang hoạt động ở khu vực nào tại Biển Đông.
Vụ Bắc Kinh đưa giàn khoan Hải Dương 982 xuống Biển Đông chắc chắn sẽ được chính quyền Việt Nam theo dõi sát, trong bối cảnh hồi tháng 7 vừa qua, Trung Quốc cho tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 vào hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, gần khu vực Bãi Tư Chính.
Chiếc tàu này hiện đã quay về neo đậu tại Đá Chữ Thập ở vùng Trường Sa, nhưng giới quan sát không loại trừ khả năng chiếc tàu đó trở lại khu vực Bãi Tư Chính như đã từng làm.
Ngoài ra, Trung Quốc cũng đã cho chiếc tàu cẩu Lam Kình di chuyển qua vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, mà theo South China Morning Post, có lúc chỉ cách bờ biển Quảng Ngãi khoảng 90 km.
Vụ Hải Dương Thạch Du 982 xuống Biển Đông còn đặc biệt gợi lên vụ giàn khoan nước sâu đầu tiên của Trung Quốc, Hải Dương Thạch Du 981, bắt đầu hoạt động tại Biển Đông vào năm 2012, và hai năm sau đã được Bắc Kinh lắp đặt trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, làm dấy lên phong trào phản đối Trung Quốc xâm lấn Việt Nam.
Theo tờ báo Hồng Kông, từ năm 2016 đến nay, Bắc Kinh đã tăng cường các hoạt động thăm dò đầu khí nhằm giảm lệ thuộc vào nguồn cung ứng dầu thô từ nước ngoài. Mối quan ngại của Trung Quốc về việc thiếu nhiên liệu càng gia tăng, trong bối cảnh các cơ sở dầu hỏa của Ả Rập Xê Út vừa bị tấn công, mà vương quốc này là nguồn cung cấp dầu thô thứ hai cho Trung Quốc.
Trọng Nghĩa
*******************
Trung Quốc đưa giàn khoan nước sâu mới vào Biển Đông (RFA, 25/09/2019)
Giàn khoan nước sâu Hải Dương Thạch Du 982 của Trung Quốc xúc tiến hoạt động tại Biển Đông kể từ ngày thứ bảy tuần qua.
Hình minh họa. Một tàu cảnh sát biển Việt Nam gần giàn khoan 981 của Trung Quốc ở Biển Đông hôm 14/5/2014 - AFP
Mạng báo South China Morning Post vào ngày 25 tháng 9 dẫn nguồn từ truyền thông Nhà nước Trung Quốc về tin vừa nêu ; cũng như theo tài khoản mạng xã hội Trường An Kiếm của Ủy ban Chính Pháp Trung ương Trung Quốc.
Cụ thể, giàn khoan Hải Dương Thạch Du 982 được triển khai hoạt động tại vùng nước sâu đến 3.000 mét. Đây là giàn khoan dầu lớn nhất và hiện đại nhất thuộc loại này của Trung Quốc và độ sâu nhất mà giàn có thể khoan là 5.000 mét.
Tin không nói rõ giàn khoan Hải Dương Thạch Du 982 được hạ đặt ở tọa độ cụ thể nào.
Bắc Kinh cho tăng cường hoạt động thăm dò tài nguyên kể từ năm 2016 nhằm giảm bớt lệ thuộc vào nguồn cung ứng dầu thô từ nước ngoài.
Trong khi đó từ cuối tháng 6 và đầu tháng 7 vừa qua, Trung Quốc cho tàu thăm dò đại dương được hộ tống bởi tàu hải cảnh đi vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ở khu vực Bãi Tư Chính. Có những lúc tàu này chỉ cách bờ biển Việt Nam 155 kilomet.
Hà Nội kêu gọi Bắc Kinh chấm dứt hoạt động vi phạm luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982, như thế.
Trung Quốc không những không đáp ứng yêu cầu từ phía Việt Nam mà vào ngày 18 tháng 9, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, ông Cảnh Sảng, cho rằng Bãi Tư Chính thuộc vùng nước quanh quần đảo Trường Sa. Ông Cảnh Sảng còn yêu cầu Việt Nam chấm dứt các hoạt động dầu khí tại đó.
Giàn khoan nước sâu đầu tiên của Trung Quốc, Hải Dương Thạch Du 981, được đưa vào hoạt động tại Biển Đông vào năm 2012. Đến giữa năm 2014, giàn khoan này được hạ đặt trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam dẫn đến đợt biểu tình chống Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Việt Nam tại nhiều nơi trên cả nước.
Tình hình Biển Đông hiện nay đang xuất hiện ba xu hướng : Trung Quốc tăng cường xâm lấn chủ quyền của Việt Nam ; Hà Nội lúng túng ; và người dân Việt phần lớn bày tỏ sự lãnh đạm.
Gấu sao Trung Quốc độc chiếm Biển Đông - Tranh biếm họa
Trung Quốc và an ninh năng lượng dầu khí
Vào ngày 22/9, Global Times xuất bản nội dung bài viết, cho biết thành công của một tập đoàn năng lượng nước này trong làm chủ công nghệ để tìm kiếm, thăm dò dầu khí nước sâu ở Biển Đông. Tập đoàn dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc (CNOOC), đã thiết lập một lý thuyết về tích tụ khí đốt tự nhiên ở vùng nhiệt độ và áp suất cao của lưu vực Ying-qiong, một khu vực khí mới được phát hiện ở vùng biển gần đảo Hải Nam.
Bài viết dẫn lời ông Lin Boqiang, Giám đốc trung tâm nghiên cứu kinh tế năng lượng Trung Quốc tại Đại học Hạ Môn, ca ngợi những bước đột phá là một đóng góp quan trọng cho an ninh năng lượng và phát triển kinh tế và xã hội của Trung Quốc.
Lin Boqiang khẳng định, phát triển công nghệ khai thác biển ở Biển Đông là một trong những giải pháp khả thi để giải quyết cuộc khủng hoảng năng lượng và đảm bảo an ninh năng lượng trong tương lai.
Như vậy, những tiến triển trong công nghệ thăm dò của Trung Quốc có thể trở thành một trong những nền tảng cơ sở để Bắc Kinh tiến tới thăm dò và khai thác dầu khí mở rộng tại vùng Biển Đông. Và điều này, cùng với đẩy mạnh hiện đại hóa quốc phòng đã khiến vùng Bãi Tư Chính trở nên phức tạp hơn lệ thường.
Trong một thông tin có liên quan, Alexia Frangopoulos trong một bài viết trên Harvard Politics, cho biết, Trung Quốc đang tiến hành hiện đại hóa nhanh quân đội như là một bước tiến nhanh đạt được tham vọng bá quyền của nước này. Ngoài hạm đội tàu ngầm, Bắc Kinh sở hữu hành lang dài 5.000km, với hàng trăm ICBM hạt nhân.
Năm 2019, ngân sách quốc phòng hàng năm của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc là 177,5 tỷ USD, tăng 7,5% so với ngân sách quốc phòng năm ngoái. Trung Quốc đang phân bổ số tiền ngày càng tăng cho các chương trình và sáng kiến làm tăng số lượng và chất lượng vũ khí quân sự. Bộ Quốc phòng Trung Quốc tuyên bố rằng một trong những phát triển gần đây nhất của nước này chính là tàu khu trục tên lửa dẫn đường Type 055 mới - gần giống với tàu khu trục biển của Washington.
Ngoài ra, PLA đang phát triển kho dự trữ vũ khí hạt nhân. Dean Cheng, một chuyên gia trong quân đội Trung Quốc trong một cuộc phỏng vấn với HPR rằng lực lượng ICBM của Trung Quốc hiện đang rất hạn chế, ở ngưỡng 50. Nhưng có những báo cáo cho thấy Trung Quốc đang đẩy mạnh chương trình hiện đại hóa để mở rộng số lượng vũ khí hạt nhân mà nó khai thác.
Vào tháng 4/2017, Bắc Kinh tuyên bố rằng một trong những tàu sân bay của nước này đã đạt đến giai đoạn thử nghiệm cuối cùng, và hai chiếc tương tự đang được sản xuất. Điều đó sẽ mang lại cho Trung Quốc tổng cộng bốn tàu sân bay vào năm 2022.
Một phần lý do của tiến trình quân sự hóa PLA là nhằm duy trì quyền lực ở Biển Đông.
Biển Đông là con đường trung gian nối kết Bắc Kinh với châu Phi và Âu châu, và nước này có hơn 40% lượng hàng hóa thương mại được vận chuyển qua khu vực này. Đây cũng là tuyến đường giúp Bắc Kinh nhập dầu vào Trung Quốc, với hơn 80% lượng dầu nhập khẩu.
Biển Đông không chỉ hỗ trợ thương mại - nó cung cấp một nguồn tài nguyên quý giá mới như khí đốt và dầu mỏ. Các nhà khoa học ước tính rằng có từ 11 đến 22 tỷ thùng dầu dưới biển.
Trung Quốc phát triển lực lượng hải quân, nhằm mục đích kiểm soát phần còn lại của Biển Đông.
Trong khi đó, Mỹ với vai trò trở lại ở Châu Á – Thái Bình Dương đã tìm cách duy trì các căn cứ quân sự ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc và Singapore. Căn cứ hải quân Singapore, nằm cạnh bờ Biển Đông, đảm bảo Mỹ duy trì một vị trí thường trực trong khu vực, ngăn chặn tốc độ mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc. Nước này cũng có căn cứ tương tự tại Nhật Bản, nơi có 54.000 quân đồn trú.
Quay trở lại với vấn đề hiện đại hóa quân đội Trung Quốc. Vào năm 2017, Tập Cận Bình cam hiện đại hóa quân sự vào năm 2035. Đến năm 2050, Tập mong đợi một quân đội có khả năng chiến thắng các cuộc chiến tranh trên nhiều mặt trận, đặc biệt là thông qua công nghệ quốc phòng.
Trung Quốc đang tiến dần hoạt động ra phía Bắc ?
Trong khi đó, theo Dự án Đại sự ký Biển Đông, nhóm Hải Dương Địa Chất 8 thì vẫn đang đan áo sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam như thường lệ, và đang dịch dần lên hướng bắc. Điều này càng gia cố quan điểm, Bắc Kinh đang tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu bất ổn và Biển Đông là khu vực được lựa chọn. Và những diễn biến ở Bãi Tư Chính với hoạt động của nhóm tàu Hải Dương Địa Chất 8 càng đưa Hà Nội vào thế khó xử. Tính đến thời điểm hiện nay, ngoài những phản đối về mặt ngoại giao có liên quan, với mức độ ‘mạnh mẽ’ hơn so với trước đó (bao hàm yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền Việt Nam ở Biển Đông của Phó Thủ tướng Việt Nam - Vũ Đức Đam), Hà Nội vẫn chưa cho thấy những động thái kế tiếp.
Ông Nguyễn Phú Trọng, người đứng đầu tổ chức Đảng cộng sản Việt Nam, và Nhà nước Việt Nam vẫn giữ 'quyền im lặng' cho đến hiện nay.
Facebooker Ngọc Trần bày tỏ : chính quyền Việt Nam đang được đưa vào thế khó xử, bởi chính chính sách đu dây của mình. Chính sách đã khiến cho Mỹ và các quốc gia Tây phương trở nên dè dặt trong hợp tác trong những trường hợp mà chủ quyền quốc gia bị xâm phạm.
Quan điểm của Ngọc Trần phản ánh quan điểm chung của người dân, đặc biệt là giới trí thức Việt Nam hiện tại, đó là Việt Nam đang cô đơn trên mặt trận quốc tế, nơi mà Việt Nam không có một đồng minh thực tế hỗ trợ mình trước mối đe dọa của Bắc Kinh. Những đồng minh truyền thống như Nga, Cuba,… thực sự ‘vô dụng’ trong trường hợp này, khi một ‘cường quốc lỗi thời’ như Nga chỉ thuần túy là con buôn vũ khí, còn Cuba – người anh em thân thiết Tây Bán Cầu vẫn chật vật với nền kinh tế yếu ớt, và tiếng nói không có trọng lượng trên trường quốc tế. Còn đối với những quốc gia lên tiếng mạnh mẽ nhất như Úc, Nhật, Mỹ, Anh,… lại là những quốc gia chưa bao giờ được Hà Nội coi là đồng minh. Và đó là lý do vì sao, chuyến thăm lịch sử của Thủ tướng Úc Scott Morrison đến Hà Nội, vấn đề Biển Đông chỉ thể hiện qua tuyên bố mang tính chung chung, và cái tên Trung Quốc đã không được nhắc đến. Bắc Kinh – đồng minh của Hà Nội trong quá khứ, mối quan hệ đặc biệt trong cấp độ ngoại giao của Việt Nam, và quốc gia đồng ý thức hệ lại đang gia tăng ‘quấy rối, xâm lấn’ chủ quyền quốc gia của Việt Nam.
Điều đáng báo động hơn cả những đe dọa từ bên ngoài là vấn đề cảm xúc của xã hội Việt Nam về sự kiện nay. Khi dư luận Việt Nam cũng thể hiện sự lãnh đạm với sự kiện Bãi Tư Chính, một trong những biểu hiện liên quan đến điều này bao gồm lời kêu gọi nhà nước Việt Nam kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế và đẩy mạnh hợp tác quốc phòng với các nước có chung quyền lợi hợp pháp trên biển đông do trang Bauxite tiến hành đến nay chỉ thu hút được 9 tổ chức tham gia, và 683 cá nhân ký tên. Hiện tượng này được cho là đến từ phản ứng đối với những chính sách và chủ trương của Hà Nội trong ứng xử chủ quyền trước đó. Cụ thể là bưng bít về mặt thông tin liên quan đến tình hình Biển Đông và những hoạt động xâm lấn Biển Đông của Trung Quốc, và điều động lực lượng vũ trang, bán vũ trang trong trấn áp người biểu tình. Đó là lý do vì sao, một bài viết với nội dung rất bình thường của báo Tuổi Trẻ ngày 22/9, với tiêu đề ‘Cảnh Sảng, đừng ngụy biện nữa !’, lại được ‘hoan hô’ như một bài viết thẳng thắn bởi ‘công khai thông tin để người dân thấy bộ mặt thật của Trung Quốc’.
Phải chăng, Việt Nam đang chết dần bởi chính sách duy ý chí của mình về ngoại giao - quốc phòng, với chính sách ba không ? Và việc giữ gìn chủ quyền quốc gia vẫn dựa vào yếu tố mang tính thiếu bền vững - ‘đại cục quan hệ tốt đẹp’ ?
Nguyễn Hiền
Nguồn : VNTB, 24/09/2019
Lợi nhiều hơn hại nếu Việt Nam kiện Trung Quốc về Biển Đông (VOA, 23/09/2019)
Trong gần 2 tuần nay, 9 tổ chức và gần 700 cá nhân đã và đang vận động chữ ký cho một văn bảnkêu gọi chính quyền Việt Nam "kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế" về tranh chấp ở Biển Đông.
Hình ảnh tuần duyên Trung Quốc và bản đồ khu vực Bãi Tư Chính trên Biển Đông. (Ảnh chụp màn hình Thanh Niên)
Một nhà nghiên cứu lâu năm về Biển Đông bình luận với VOA rằng việc đưa Trung Quốc ra tòa trọng tài quốc tế sẽ có lợi cho Việt Nam nhiều hơn là có hại, song ông cũng phân tích về 2 lý do có thể làm Việt Nam còn e ngại chưa tiến hành bước đi quyết đoán.
Thư kêu gọi được đưa lên mạng xã hội hôm 10/9 với những chữ ký đầu tiên của các nhân vật có nhiều ảnh hưởng như nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai, tiến sĩ Nguyễn Quang A, nhà văn Nguyên Ngọc, tiến sĩ Chu Hảo, nguyên Giám đốc Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh Võ Văn Thôn, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh Đào Công Tiến, và nhiều học giả, nhà hoạt động trong và ngoài nước, kể cả ở Mỹ, Pháp, v.v…
Bức thư xuất hiện trong bối cảnh 2 tháng đã trôi qua kể từ khi tàu khảo sát địa chất của Trung Quốc bắt đầu hoạt động tại Bãi Tư Chính nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam từ đầu tháng 7.
Theo tìm hiểu của VOA, từ đó đến nay, tàu của Trung Quốc thực hiện 3 đợt khảo sát, gây ra một số cuộc đấu khẩu ngoại giao giữa hai nước láng giềng.
Có tin đợt khảo sát thứ 3 vừa kết thúc. Trang Facebook mang tên Dự án Đại sự ký Biển Đông cho biết đội tàu Trung Quốc gồm tàu Hải Dương Địa Chất 8 và 4 tàu hải cảnh hộ tống vào sáng sớm ngày 22/9 "bất ngờ rời khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam về Đá Chữ Thập".
Thông tin trên được Dự án Đại sự ký Biển Đông đưa ra căn cứ vào dữ liệu trên hệ thống nhận dạng tự động tàu bè AIS, là hệ thống quốc tế nhận và phát tín hiệu qua vệ tinh để thông báo về vị trí, tốc độ, hướng đi, tên tàu, số nhận dạng, kích thước tàu, v.v…
"Đây là lúc thuận lợi nhất để kiện Trung Quốc ra toà án quốc tế", một đoạn trong thư của 9 tổ chức và gần 700 cá nhân viết, đồng thời thư nhấn mạnh rằng "đã đến lúc không thể nhân nhượng để cầu mong yên bình trước sự thách thức ngang ngược của nhà cầm quyền Trung Quốc đối với chủ quyền quốc gia".
Bức thư kêu gọi chính quyền Việt Nam thực hiện 3 việc gồm kiện nhà cầm quyền Trung Quốc về việc nước này "xâm phạm quyền lợi kinh tế biển của Việt Nam ở Biển Đông", bên cạnh đó là đòi họ "trả lại các đảo" của Việt Nam thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc đã cưỡng chiếm bằng vũ lực, và nâng quan hệ đối tác toàn diện với Mỹ thành "đối tác chiến lược toàn diện".
Thạc sĩ luật quốc tế Hoàng Việt, một nhà nghiên cứu lâu năm về Biển Đông, nói với VOA rằng trong hai yêu cầu đầu tiên mà những người vận động đưa ra, việc kiện đòi Trung Quốc tôn trọng lợi ích của Việt Nam có tính khả thi hơn.
Nhà nghiên cứu Hoàng Việt giải thích rằng việc đòi Hoàng Sa, Trường Sa là tranh chấp về chủ quyền, lãnh thổ, do đó nếu Việt Nam muốn đưa Trung Quốc ra tòa về vấn đề này, nước láng giềng phương bắc phải đồng ý là một bên trong vụ kiện thì một tòa án quốc tế mới có thể xét xử. "Nhưng đó là điều khó khăn vì Trung Quốc luôn luôn từ chối đưa ra tòa", thạc sĩ Hoàng Việt nói.
Ngược lại, Việt Nam hoàn toàn có thể "đạt hiệu quả" nếu làm tương tự như Philippines là kiện Trung Quốc tại tòa trọng tài quốc tế để yêu cầu đất nước có hơn 1,4 tỉ dân phải tuân thủ Công ước về Luật biển Liên Hiệp Quốc, trong đó phải tôn trọng vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và dừng các hành vi xâm phạm, ông Hoàng Việt nói với VOA.
Trong trường hợp này, dù Trung Quốc từ chối ra tòa, phiên tòa vẫn có thể thiết lập được và ra phán quyết được, theo thạc sĩ Hoàng Việt.
Lưu ý rằng dù phán quyết tại tòa trọng tài dù "không có giá trị thi hành" vì không có cơ quan quốc tế bắt buộc thi hành án, song nhà nghiên cứu Biển Đông này cho rằng Việt Nam vẫn có lợi nếu làm như vậy.
Dẫn lại phán quyết của tòa quốc tế hồi tháng 7/2016 về vụ Philippines kiện Trung Quốc, ông Hoàng Việt nói dù Trung Quốc tuyên bố không công nhận giá trị của phán quyết song Trung Quốc kể từ đó đã phải đối phó rất nhiều.
Ông nói thêm :
"Trong tuyên bố gần đây nhất, của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, Cảnh Sảng, ngày 18/9, họ không nhắc đến yêu sách đường 9 đoạn/đường lưỡi bò nữa. Có lẽ Trung Quốc thấy rằng phán quyết của tòa bác bỏ đường này, và đường này hoàn toàn vô lý, nên Trung Quốc thay đổi chăng. Thứ hai, có rất nhiều giới chức Trung Quốc ở nhiều tầng lớp khác nhau, mức độ khác nhau phải tìm cách chống lại phán quyết này, và điều đấy cũng khiến cho Trung Quốc bị mệt mỏi rất nhiều".
Một điểm lợi khác mà Việt Nam có thể xem xét, theo nhận định riêng của thạc sĩ Hoàng Việt, là Trung Quốc đã phải "xuống thang rất nhiều" sau phán quyết. Trước đây, Trung Quốc khẳng định toàn bộ vùng Scarborough thuộc chủ quyền nước này, nhưng kể từ khi có phán quyết, Tổng thống Duterte của Philippines đã có lợi thế để đàm phán về khai thác dầu khí chung ở vùng biển nêu trên.
"Nếu không có phán quyết, còn lâu ông Duterte mới có thể đàm phán với Trung Quốc trên vùng biển này được. Nói gì thì nói, phán quyết vẫn có tác động của nó", nhà nghiên cứu Hoàng Việt nói với VOA.
Thư kiến nghị của 9 tổ chức và gần 700 cá nhân cho rằng các động thái phản ứng của Việt Nam về việc Trung Quốc tiến hành khảo sát ở Bãi Tư Chính cũng như chưa kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế cho thấy sự "yếu ớt" của Việt Nam.
Từ góc nhìn của nhà nghiên cứu, thạc sĩ Hoàng Việt bình luận với VOA rằng Việt Nam đang ở vào thế khó vì có 2 điều cản trở. Ông giải thích thêm :
"Lý do thứ nhất, là lý do lớn, là sức ép và sự đe dọa trả đũa từ Trung Quốc. Trung Quốc đã gây sức ép với Philippines rất là mạnh. Chắc chắn với Việt Nam, Trung Quốc sẽ làm mạnh và còn căng thẳng hơn. Điều đấy cũng chứng tỏ một điều là nếu Trung Quốc không coi phán quyết của tòa là cái gì, tại sao Trung Quốc lại phải lo ngại khi Việt Nam có thể khởi kiện. Thứ hai, một số người ở Việt Nam cho rằng trong tuyên bố về đường cơ sở năm 1982 của Việt Nam, nó còn có một số vấn đề".
Cụ thể, theo ông Hoàng Việt, Việt Nam công bố đường cơ sở trên biển vào tháng 11/1982, một tháng trước khi Công ước về Luật biển Liên Hiệp Quốc được ký kết, nhưng đường cơ sở này vấp phải sự phản đối của 10 nước trong đó có Trung Quốc, Thái Lan và Campuchia vì một số điểm mốc không phù hợp, hay một số viện dẫn lịch sử của Việt Nam, nhất là gắn với Vịnh Bắc Bộ, đã bị "lạc hậu". Đây là những điểm yếu mà Trung Quốc có thể tìm cách khai thác để chống lại vụ kiện tiềm tàng của Việt Nam, ông Hoàng Việt đưa ra ý kiến.
Những người khởi xướng bức thư kiến nghị Việt Nam kiện Trung Quốc chưa đặt ra hạn chót sẽ gửi thư đến chính quyền Việt Nam.
Trong khi đó, hôm 21/9, Phó thủ tướng Việt Nam Vũ Đức Đam đã gặp Phó thủ tướng Trung Quốc Hàn Chính nhân Hội nghị thượng đỉnh thương mại-đầu tư Trung Quốc-ASEAN tại Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
Nói về Biển Đông, Phó Thủ tướng Đam "đề nghị Trung Quốc tôn trọng quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam, không để tiếp diễn tình hình phức tạp trên biển".
Đáp lại, Phó thủ tướng Trung Quốc Hàn Chính khẳng định coi trọng phát triển quan hệ láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện với Việt Nam.
******************
Philippines tập trận chiếm đảo gần Biển Đông (RFI, 23/09/2019)
Từ ngày 16/09/2019 vừa qua, quân đội Philippines đã khởi động cuộc tập trận mang tên DAGIT-PA tại ba địa điểm : Quezon City, Zambales, and Nueva Ecija, dự trù kéo dài cho đến ngày 27/09 tới đây.
Xe thiết giáp lội nước của thủy quân lục chiến Philippine trong cuộc tập trận ở Vịnh Subic, ngày 21/09/2019 TED ALJIBE / AFP
Theo giới quan sát, điểm đáng chú ý trong cuộc tập trận lần này là lần đầu tiên thủy quân lục chiến Philippines đã sử dụng các phương tiện đổ bộ tấn công mới do Hàn Quốc chế tạo, trong những bài tập đổ bộ đánh chiếm đảo tại một khu vực sát cạnh Biển Đông.
Theo nhật báo Manila Bulletin, vào hôm 21/09 vừa qua, các đơn vị thủy quân lục chiến phối hợp với không quân và hải quân đã huy động các phương tiện tấn công đổ bộ (AAV) mới để thực hiện một cuộc tập trận theo một kịch bản đổ bộ tái chiếm một hòn đảo.
Địa điểm tập trận là một một bãi biển ở vùng Subic Bay, đối diện Biển Đông - nơi mà Bắc Kinh đã xây dựng nhiều cơ sở quân sự trên các thực thể mà Trung Quốc chiếm đóng tại quần đảo Trường Sa.
Tuy nhiên, theo nhật báo Hồng Kông South China Morning Post ngày 22/09, phát ngôn viên các lực lượng vũ trang Philippines, đại tá Noel Detoyato, đã khẳng định rằng cuộc tập trận không nhắm trực tiếp vào Trung Quốc, hay "bất kỳ một vụ việc, hay khu vực cụ thể nào".
Theo phát ngôn viên này : "Khu vực tập trận đã được sử dụng trong thời gian dài vì tọa lạc gần các doanh trại hải quân của chúng tôi".
Còn trung tá Henry Espinosa, chỉ huy lực lượng đổ bộ Philippines thì đã cho rằng cuộc tập trận mang tính "lịch sử" vì đây là lần đầu tiên lực lượng thủy quân lục chiến Philippines sử dụng đến phương tiện đổ bộ tấn công của riêng mình.
Trước đây, binh lính Philippines cũng đã tập đổ bộ, những chủ yếu là tập trận chung với quân đội Mỹ, và sử dụng các phương tiện của Mỹ.
Theo tạp chí Quốc Phòng Anh, các loại xe đổ bộ tấn công mà Philippines tung vào cuộc tập trận lần này là loại xe mà cựu tổng thống Philippines Aquino đã đặt mua của Hàn Quốc vào năm 2016, và mới tháng Tư vừa qua mới được bàn giao.2019)
Trọng Nghĩa