Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam và hệ quả con đường cứu nước của ông Hồ Chí Minh có mối quan hệ nhân quả như thế nào ? Để trả lời câu hỏi này, bài viết lần lượt trình bày :
- Bối cảnh và vai trò của Hồ Chí Minh với sự ra đời của đảng cộng sản Việt Nam.
- Hệ quả con đường cứu nước của ông Hồ Chí Minh
Ông Hồ Chí Minh.
I. Bối cảnh và vai trò của Hồ Chí Minh với sự ra đời của đảng cộng sản Việt Nam
1. Bối cảnh ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Theo tài liệu lịch sử, thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp giành độc lập dân tộc vào những thập niên đầu Thế kỷ 20 đã là bối cảnh ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. Trước đó, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã khởi sự và tiếp nối kể từ sau khi thực dân Pháp bắn phát súng đầu tiên vào cửa biển Đà Nẵng vào năm 1858 mở đầu cuộc xâm lược và từng bước thiết lập chế độ thuộc địa tại Việt Nam.
Như chúng tôi đã trình bày trong một bài viết trước đây trên diễn đàn này nhan đề "Bối cảnh lịch sử đưa đến cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng tại Việt Nam". Theo đó, cho đến lúc Đảng cộng sản Việt Nam ra đời vào ngày 3/2/1930, đã có các cuộc chống Pháp dưới sự lãnh đạo các sĩ phu yêu nước mang ý thức hệ quốc gia chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng "Thần quyền Thiên Mệnh" Đông phương làm nền tảng cho chế độ quân chủ chuyên chế, đã phát động và tiến hành qua các phong trào Cân Vương, Văn Thân, Đông Du… Tiếp đến là các cuộc kháng chiến chống Pháp dưới sự lãnh đạo của các nhà ái quốc chịu ảnh hưởng hệ tư tưởng dân chủ Phương Tây làm nến tảng cho mục tiêu giành độc lập để thiết lập chế độ dân chủ lập hiến, tiêu biểu là sự ra đời của một chính đảng quốc gia đầu tiên "Việt nam Quốc Dân Đảng" (1924) với lãnh tụ Nguyễn Thái Học. Cuộc khởi nghĩa cướp chính quyền ở Yên Báy do Viện Nam Quốc Dân Đảng thực hiện thất bại vào năm 1930, cùng năm với sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.
Thế là từ đó và sau đó, công cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp ngoài các nhà ái quốc, các chính đảng quốc gia thành lập sau Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt, Nhân xã Đảng… lãnh đạo kháng chiến theo ý thức hệ quốc gia truyền thống trước đó, có thêm vai trò lãnh đạo kháng chiến chống Pháp của những người cộng sản Việt Nam đầu tiên, đứng đầu là ông Hồ Chí Minh, một người theo chủ nghĩa yêu nước trước khi trở thành người cộng sản Việt nam đầu tiên, đứng ra thành Đảng cộng sản Việt Nam.
2. Vai trò của Hồ Chí Minh với sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Theo tài liệu lịch sử của Đảng cộng sản Việt Nam, trước những thất bại của các cuộc kháng chiến chống Pháp trước đó do các nhà ái quốc lãnh đạo theo hệ tư tưởng quân chủ Phương Đông hay dân chủ tư sản Phương Tây (gọi chung là ý thức hệ quốc gia) đều thất bại ; năm 1911 Nguyễn Tất Thành, một người yêu nước, không học vị(Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí minh là một) đã xuất dương ra đi tìm đường cứu nước. Sự ra đi này xuất phát từ nhận định cho rằng các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc Việt Nam, được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước. Vì vậy nhà ái quốc Nguyễn Tất Thành thấy cần ra đi tìm đường cứu nước.
Sau nhiều năm bôn ba ở các nước thuộc địa cũng như đế quốc tư bản ở Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ, Nguyển Tất Thành đã phát hiện ra chân lý : Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, Nguyễn Tất Thành trở lại nước Pháp, đến Paris và năm 1919 gia nhập Đảng Xã hội Pháp.
Tháng 6/1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam, với tên gọi mới của ông Hồ là Nguyễn Ái Quốc, khi đứng tên gửi bản yêu sách 8 điểm tới Hội nghị Versailles.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc "Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa" (trong Luận Cương chính trị Tháng 4) của Lênin và từ tư tưởng đó, đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Ông Hồ đã hét to một mình trong phòng trọ ở Paris Pháp Quốc, rằng "Đây rồi, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác, ngoài con đường cách mạng vô sản…".
Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập) (*) và tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.
Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.Ông nhấn mạnh : cách mạng muốn thành công phải có đảng cách mạng chân chính lãnh đạo ; Đảng phải có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường, đó là hệ tư tưởng Mác-Lênin.
Trong thời gian này, ông Hồ cũng tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức và cán bộ. Ông lập ra Việt Nam thanh niên cách mạng đồng minh hội (năm 1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu (Trung Quốc) và gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông (ở Liên Xô trước đây) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc) nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.Đầu năm 1930 Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt cộng sản quốc tế, chủ động tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng, Trung Quốc từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930.
Vẫn theo tài liệu của Đảng cộng sản Việt Nam Hội nghị đã quyết định hợp nhất các tổ chức đảng (Đông Dương cộng sản đảng, An Nam cộng sản đảng, Đông Dương cộng sản liên đoàn) thành Đảng cộng sản Việt Nam (**). Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện : Chánh cương và Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng cộng sản. Những văn kiện đó do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất Đảng thông qua là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Hội nghị thông qua lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng cộng sản Việt Nam gửi đến đồng bào, đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng.
Sau này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng cộng sản Việt Nam đã quyết nghị lấy ngày 3/2 dương lịch hằng năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.
II. Hệ quả con đường cứu nước của lãnh tụ cộng sản Việt Nam Hồ Chí Minh
Con đường cứu nước mà ông Hồ Chí Minh tìm được là "con đường cách mạng vô sản" mà Đảng cộng sản Việt Nam do ông thành lập đã là công cụ để thực hiên con đường này. Chính cương và sách lược tóm tắt được công bố trong Đại hội thành lập Đảng cộng sản Việt Nam đã xác nhận rõ hai giai đoạn cách mạng nhằm thành đạt hai mục tiêu :
1. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để giải quyết mâu thuẫn dân tộc với thực dân pháp, giành độc lập cho dân tộc. Tuy nhiên, trên thực thế, Đảng cộng sản Việt Nam đã thực hiện bằng chiêu bài ngụy dân tộc để khai thác triệt để "Chủ nghĩa yêu nước" hầu khơi động tinh thần chống ngoại xâm giành độc lập dân tộc. Đảng cộng sản Việt Nam đã thành công, trong vai trò chủ đạo kháng chiến, đã đánh đưổi được thực dân Pháp sau cuộc kháng chiến 9 năm sau cùng (1945-1954). Thế nhưng không phải giành độc lập cho dân tộc, mà chỉ cướp được chính quyền trên một nữa nước Miền Bắc để xây dựng xã hội chủ nghĩa, đặt mình trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa quốc tế (vì ông Hồ đã khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận không thề tách rời của cách mạng vô sản hay cộng sản quốc tế mà !). Đồng thời "Đảng ta" củng cố miền Bắc xã hội chủ nghĩa thành hậu phương lớn, vẫn dưới ngọn cờ "ngụy dân tộc" phát động cuộc chiến tranh cộng sản hóa nửa nước miền Nam thuộc chính quyền chính thống quốc gia của vua Bảo Đại, sau là Việt Nam Cộng Hòa, đưa đất nước vào thế gọng kìm của cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu giữa cộng sản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Hệ quả là đưa cả nước vào một cuộc "chiến tranh cốt nhục tương tàn", đất nước tan hoang, vì bom đạn ngoại bang thuộc cả hai phe cầy nát, giết hại hàng triệu dân Việt trên cả hai chiến tuyến đối đầu, nhân dân đói khổ lầm than vì chiến tranh, gây hận thù trong lòng dân tộc, di hại nghiêm trọng toàn diện, lâu dài cho đất nước và dân tộc… Vậy hệ quả con đường ông Hồ đã chọn và được Đảng cộng sản Việt Nam thực hiện như thế là "con đường cứu nước" hay là "con đường phá nước" ?
2. Cách mạnh xã hội chủ nghĩa để giải phóng giai cấp thực hiện xã hội "xã hội chủ nghĩa" và xác định cuộc cách mạng này là một bộ phận của cách mạng vô sản tức cộng sản quốc tế đứng đầu là Liên Xô. Thực hiện thế nào, hệ quả ra sao ?
Chẳng cần viết ra thì những người Việt Nam từng sống và là nạn nhân trong cuộc chiến tranh "Nồi da sáo thịt" nay còn sống đều đã biết. Sau khi cướp được chính quyền quốc gia ở nửa nước miền Nam, thực hiện chủ nghĩa xã hội trên cả nước đã gây khốn khổ, kinh hoàng một thời cho nhân dân thế nào rồi (1975-1995)… Nhất là 10 năm đầu (1975-1986) thực hiện triệt để các nguyên lý của chủ nghĩa xã hội, độc tài toàn trị về chính trị, quốc hữu hóa mọi phương tiện sản xuất, kinh doanh, tập thể hóa mọi lực lương lao động trên mọi lãnh vực công, nông, thương nghiệp, dịch vụ… Hậu quả là mọi quyền dân chủ dân sinh, nhân quyền bị bóp nghẹt, kinh tế bị đình đốn, dẫn đến thảm trạng nhân dân cả nước không đủ lương thực, thực phẩm với chế độ tem phiếu (trừ giai cấp cán bộ đảng viên có chức, có quyền có tiêu chuẩn riêng…). Tất cả đã phải sống trong cảnh thiếu thốn, đói khổ lầm than, ; cả nước phải ăn độn ngô, khoai, sắn và cả bobo, một thực phẩm vốn dành cho súc vật được Liên Xô viện trợ lúc đó để cứu nguy. Đảng cộng sản Việt Nam vội thi hành "Chính sách đổi mới" (1985-1995) theo gương Liên Xô. Thế nhưng "Đổi mới" cũng không cứu vãn được công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn chế độ "Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-Viết" vào năm 1991 sau hơn 70 năm xây dựng ; còn "Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" thì tồn tại thêm thời gian đến hôm nay nhờ kịp thời theo gương Trung Quốc "mèo trắng (tư bản) hay mèo đen (cộng sản) không quan trọng, miễn là mèo ấy bắt được chuột". Cộng đảng Việt Nam bắt đầu thực hiện "Chính sách mở cửa" làm ăn với các nước "tư bản không rãy chết" trong đó mở đầu với cựu thù "đế quốc Mỹ" bãi bỏ cấm vận, thiết hệ quan hệ ngoại giao và trở thành "đối tác" thay vì "đối phương" với Việt Nam.
Từ đó và nhờ đó Việt Nam đã phát triển toàn diện (1) về kinh tế nhờ"con đường kinh tế thị trường, định hướng tư bản chủ nghĩa" (chứ không phải định hướng xã hội chủ nghĩa như "Đảng ta" tuyên truyền lừa mị để che đậy sự thất bại hoàn toàn và vĩnh viễn mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội) mà trình đô phát triển ngày một nâng cao, đời sống nhân dân ngày một cải thiện để sau 25 năm (1995-2020) Việt Nam đã có bộ mặt phồn vinh như hôm nay. (2) về chính trị, Đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam trong "Môi trường mật ngọt kinh tế thị trường" (thuật ngữ người viết thường dùng) các diễn biến sau đây tịnh tiễn xẩy ra :
Một là, các cán bộ đảng viên cộng sản đã và đang được tư sản hóa từng bước để trở thành các nhà tư sản hay "tư bản đỏ" ;
Hai là, nhà nước Việt Nam đã và đang được tư bản hóa bằng chính sách "giải tư" từng bước làm tiêu vong cơ cấu kinh tế quốc doanh xã hội chủ nghĩa còn sót lại, tiến đến cơ cấu kính tế thị trường tư bản chủ nghĩa ngày một hoàn chỉnh, với các quyền sở hữu tư nhân về vốn, công cụ, phương tiện sản xuất…
Ba là, dân chủ hóa từng bước, nhờ đó người dân ngày một được nhà cầm quyền trả lại các quyền dân chủ, dân sinh, nhân quyền, tuy còn nhiều hạn chế…Cả ba tiến trình này ai cũng có thể kiểm chứng được qua thực tế diễn ra 25 năm qua (1995-2020).
III. Thay lời kết
Vậy thì, đến dây có thể khẳng đinh qua hệ quả thực tiễn, con đường mà lãnh tụ Cộng đảng Hồ Chí Minh chọn vào năm 1920, rồi đứng ra thành lập Đảng cộng sản Việt Nam năm 1930 như công cụ thực hiện 90 năm qua (1930-2020) có đúng như sự vui mừng sau khi đọc được "Luận cương chính trị Tháng 4" (****) của lãnh tụ Cộng đảng Bolsevik Nga Vladimir Lenin không, rằng "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác, ngoài con đường cách mạng vô sản (hay cộng sản cũng thế)" ?
Hay thực tế phải nói là, vì ông Hồ đã chọn lầm "con đường cách mạng vô sản" nên đã là "con đường phá nước". Vì con đường ấy đã không giải phóng được dân tộc mà đã xích hóa dân tộc vào thế gọng kìm của cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu giữa cộng sản chủ nghĩa đứng đầu là "Tân đế quốc đỏ Liên Xô" (với sự cạnh tranh của đế tân quốc đỏ Trung Quốc) và tư bản chủ nghĩa đứng đầu là "Tân đế quốc Trắng Hoa Kỳ". Vì nếu ông Hồ không chọn lựa con đường này và không thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, thì chắc chắng tình hình Việt Nam sẽ biến chuyển theo một chiều hướng khác tốt đẹp hơn cho đất nước.
Một cách cụ thể là Việt Nam đã có độc lập rất sớm (Khi Nhật trao trả độc lập cho vua Bảo Đại với chính phủ Trần Trọng Kim vào tháng 3/1945) và nhân dân Việt Nam đã không phải hy sinh quá nhiều xương máu trong 9 năm kháng chiến chống Pháp sau cùng (1945-1954).Vì nhiều nước thuộc địa trong vùng cũng như trên thế giới đều lần lượt được độc lập sau Thế Chiến II không cần kháng chiến (do chủ nghĩa thực dân cũ bước vào thời kỳ suy tàn). Sau đó, cũng đã không xẩy ra cuộc chiến tranh Quốc-Cộng "cốt nhục tương tàn" khốc liệt kéo dài 21 năm sau Hiệp định Genève chia đôi đất nước (7/1954) do Đảng cộng sản Việt Nam phát động, tiến hành, đã làm tan hoang đất nước, giết hại nhiều sinh linh dân Việt.
Và, sau cùng, nhân dân Việt Nam đã không phải trải qua thời kỳ khổ nạn hơn 20 năm làm vật tế thần cho công cuộc thử nghiệm xây dựng xã hội chủ nghĩa không tưởng trên cả nước, vốn là "con đường cứu nước" mà lãnh tụ cộng sản Hồ Chí Minh đã chọn. Thế nhưng thực tế đã trở thành "con đường phá nước" gây hậu quả nghiêm trọng, toàn diện và di hại lâu dài cho đất nước và dân tộc thế nào, chẳng cần kể ra, thì chắc quốc dân Việt Nam ai cũng biết, nhất là những ai từng là nạn nhân của "con đường phá nước" này.
Houston, ngày 30/2/2020
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 03/02/2020
(*) Đệ Tam Quốc tế, còn gọi là Quốc tế cộng sản hay Comintern, là tổ chức của những người cộng sản, được thành lập vào tháng 3 năm 1919 ởMoskva và giải tán năm 1943, được tái sinh lại năm 1947 và giải tán năm 1956, sau Đại hội XX của Đảng cộng sản Liên Xô. Cương lĩnh hoạt động của Đệ Tam Quốc tế là đấu tranh lật đổ chế độtư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, thiết lập chuyên chính vô sản. Dưới sự lãnh đạo của Vladimir Ilyich Lenin, Đệ Tam Quốc tế đã tiến hành 7 lần đại hội, qua đó vạch ra chiến lược, sách lược chỉ đạo phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và đề ra biện pháp đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít.
Đệ Tứ Quốc tế còn gọi là Cộng sản Đệ Tứ là liên minh quốc tế của những người theo chủ nghĩa Trotsky thành lập năm 1938 tại Paris, theo khuynh hướng "cách mạng thường trực" do Trotsky đưa ra từ sau khi Lenin qua đời (1924) để chống lại đường lối "cách mạng vô sản trong một quốc gia" của Stalin. Kể từ năm 1953, Đệ Tứ Quốc tế phân hóa ra nhiều nhóm nhỏ.
Đệ Nhất Quốc tế tên đầy đủ là Hội Liên hiệp Lao động Quốc tế (tiếng Anh : The International Workingmen's Association - IWA, 1864–1876), là tổ chức tranh đấu đầu tiên của các nhóm xã hội quốc tế, được thành lập ởLuân Đôn vào ngày 28/9/1864, mục đích là để đoàn kết các nhóm xã hội khuynh tả, cộng sản, các nhóm vô chính phủ và các tổ chức công đoàn. Năm 1876, tại Philadelphia, Hoa Kỳ, Đệ Nhất Quốc tế tuyên bố giải tán vì sự đối nghịch giữa khuynh hướng Marxism và chủ nghĩa cộng sản vô chính phủ mà lãnh tụ là Bakunin.
Đệ Nhị Quốc Tế còn gọi là Quốc tế thứ hai là liên minh quốc tế, với sự kết hợp của các đảng xã hội chủ nghĩa và một số tổ chức công đoàn trên thế giới - chủ yếu là tại Châu Âu, được thành lập ngày 14/7/1889 ởParis, được phục hưng lại vào các năm 1923 và 1951.. Năm 1895. Frederich Engels qua đời. Phong trào công nhân bị tổn thất nặng. Các phần tử cơ hội chủ nghĩa, đại diện là Eduard Bernstein, dần dần chiếm ưu thế trong Đệ Nhị Quốc tế. Tuy rằng vẫn có nhiều thành viên tiếp tục đi theo con đường của Engels, do không được tiến hành triệt để nên không thu được kết quả. Do không thống nhất về chiến lược, chia rẽ về tổ chức, Đệ Nhị Quốc tế tan rã khi Chiến tranh thế giới I bùng nổ.
(**) Theo lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam thì lúc đầu lấy tên Đảng cộng sản Việt Nam một thời gian ngắn thì đổi tên là Đảng cộng sản Đông Dương để đóng vai trò lãnh đạo kháng chiến trên cả 3 nước Đông Dương thuộc Pháp là Việt-Miên-Lào. Sau lấy lại tên Đảng cộng sản Việt Nam cho đến thời kỳ kháng chiến 9 năm thì muốn dấu mặt, đã tuyên bố giải tán Đảng cộng sản Việt Nam, lập Mặt Trận Việt Nam Độc lập Đồng minh hội, gọi tắt là Việt Minh, như mặt nạ của Đảng cộng sản Việt Nam để chủ đạo kháng chiến dưới ngọn cở "Giải phóng dân tộc". Sự giấu mặt này là do tình hình lúc đó thế giới coi cộng sản là một hiểm họa cần ngăn chặn tiêu diệt, hình thành cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu giữa các nước tư bản đứng đầu là Hoa Kỳ và các nước cộng sản đứng đầu là Liên Xô, một chiến lược quốc tế mới hình thành sau Thế Chiến II (1939-1945).
Đối với nhân dân trong nước chủ nghĩa cộng sản còn xa lạ và là nỗi kinh hoàng vì được nghe nói cộng sản là "chủ nghĩa Tam vô" (vô tổ quốc, vô gia đình và vô tống giáo), rất tàn ác, nên sợ và tìm cách xa lánh cộng sản. Năm 1952 đổi tên thành Đảng Lao Động Việt Nam và dùng tên này trong suốt thời kỳ chiến tranh Quốc-Cộng (1954-1975) để tiếp tục "ngụy dân tộc" tiến hành "Chiến tranh chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước". Sau khi cưỡng chiếm được miền Nam (30/4/1975), mới lấy lại tên Đảng cộng sản Việt Nam, đưa cả nước "Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc… đến sự sụp đổ hoàn toàn" sau 20 năm xây dựng xã hội chủ nghĩa không tưởng thất bại hoàn toàn (1975- 1995).
(***) Luận cương chính trị tháng Tư tên nguyên thủy là "Nhiệm vụ của giai cấp vô sản trong cuộc cách mạng hiện nay’, là một văn kiện có tính cương lĩnh do V. I. Lenin soạn thảo và trình bày vào Ngày 16 tháng 4 năm 1917, Lenin đã đến Petrograd trình bày trước Trung ương Đảng Bolshevik một bản báo cáo. Bản luận cương được xuất bản trên báo Sự Thật (Pravda) số 26 ngày 7/4/1917.