Chính phủ trong nhiệm kỳ Đại hội 12, bắt đầu từ năm 2016, với vai kiến tạo, theo tôi, là phù hợp sau thời kỳ bất ổn và dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng cộng sản Việt Nam. Điều này cần được đánh giá đúng và đủ trong Dự thảo Văn kiện trình Đại hội 13 dự kiến tổ chức vào năm sau 2021 để thúc đẩy cải cách thể chế theo hướng chuyển đổi sang kinh tế thị trường.
Từ trái qua : Thường trực Ban bí thư Trần Quốc Vượng, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân tại phiên khai mạc hội nghị Trung ương 10, khóa XII. Ảnh : TTX
Bối cảnh
Ngày 26/7/2016, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cam kết trước Quốc hội khóa 14 về một Chính phủ kiến tạo, phục vụ người dân và doanh nghiệp.
Chính phủ do ông đứng đầu được thành lập sau khi kết thúc Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 12 với đầy khó khăn để đạt được đồng thuận về nhân sự cấp cao của đảng trong bối cảnh ‘bất ổn’ kinh tế và thể chế do những sai lầm chính sách và quản lý yếu kém.
Chính sách kinh tế dựa vào các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, gây dựng ‘các quả đấm thép’ trụ cột của nền kinh tế, được nhận định là sự vận dụng sai kinh nghiệm của Cheabol của Hàn Quốc - các tập đoàn tư nhân, đã gây ra bất ổn vĩ mô, tăng trưởng sụt giảm, ‘bong bóng’ thị trường tài chính và bất động sản, đã để lại những tổn thất nặng nề cho đến nay chưa khắc phục xong.
Sự bất ổn thể chế vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của quá trình điều hành của chính phủ tiền nhiệm. Một trong những ví dụ điển hình, đặc trưng cho sự bất ổn này là sự ‘bất tuân’ của đa số thành viên của Ban chấp hành trung ương khóa 11 trước đề xuất xem xét kỷ luật nguời đứng đầu chính phủ nhiệm kỳ trước. Tuy nhiên, cuối cùng, không có cá nhân nào chịu trách nhiệm về sự yếu kém trong quản lý nền kinh tế.
Sự thống nhất quyền lực giữa các nhà lãnh đạo của chính phủ điều hành với đảng lãnh đạo toàn diện theo nguyên tắc lãnh đạo tập thể của đảng đã được quan sát có sự rạn nứt.
Kiên định ý thức hệ
Đảng cộng sản Việt Nam khóa 12, tại Hội nghị trung ương 4, đã nhận định một trong những nguyên nhân cơ bản của tình hình trên là ‘sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức và lối sống’ của bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị.
Hai nhóm giải pháp chủ yếu được đảng chú trọng thực hiện. Một mặt, để củng cố tổ chức đảng và các nguyên tắc lãnh đạo của đảng nhiều quy định, chỉ thị được ban hành để ngăn chặn các hiện tượng ‘tự diễn biến’ ‘tự chuyển hoá’, như các tiêu chuẩn bầu chọn cán bộ lãnh đạo các cấp, về kỷ luật và nêu gương của lãnh đạo đảng cấp cao… Mặt khác, phát động chiến dịch chống tham nhũng quyết liệt ‘không vùng cấm’.
Đảng cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh sự kiên định ý thức hệ. Để thực hiện các giải pháp trên việc tập trung quyền lực là điều kiện cần thiết, và quyền lực chỉ có thể tập trung hóa cao độ phải dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, đảng vẫn nhấn mạnh sự lãnh đạo tập thể để ‘phòng ngừa’ sự độc đoán và ‘sự sùng bái cá nhân’, vốn được coi là hậu quả của việc tập trung quyền lực tuyệt đối.
Chính phủ kiến tạo
Trong bối cảnh trên, sự ra đời và hoạt động của Chính phủ kiến tạo với trách nhiệm nặng nề là giữ ổn định vĩ mô, khắc phục khó khăn và thúc đẩy tăng trưởng, đã được quan sát và giám sát từ nhiều giác độ của dân chúng, các nhà phân tích và các chính khách trong hệ thống chính trị.
‘Chính phủ kiến tạo’ – một khái niệm đã và vẫn gây tranh luận về học thuật. Tuy nhiên, theo tôi, Chính phủ kiến tạo có đặc trưng cơ bản là bộ máy chính quyền các cấp được hình thành bởi kết quả thỏa hiệp về nhân sự trong Đại hội 12, vẫn được sử dụng để hoạch định và thực thi chính sách mà không gây nên hoặc giảm thiểu những hiệu ứng không mong muốn.
Bản thân người đứng đầu chỉnh phủ và nhân sự của chính quyền các cấp được bầu chọn bởi Đại hội 12 và trước đó là đại hội đảng các cấp, trong đó, không loại trừ, bao gồm cả một số cán bộ lãnh đạo ‘suy thoái’ từ nhiệm kỳ 11. Nếu quan sát một số vụ kỷ luật đảng và vụ án đối với cán bộ cấp cao của đảng bị xét xử trong những năm từ đầu nhiệm kỳ 12 đến nay, thì có thể ‘cảm nhận’ rõ ràng.
Chính sách thực dụng
Sự khác biệt của chính phủ hiện hành là tính chất kiến tạo thể hiện trong chính sách thực dụng : ‘cái gì có lợi cho dân, cho doanh nghiệp được dân chúng ủng hộ thì cần quyết tâm làm’. Chính sách này bao gồm hai hướng hoạt động chính, một là, cam kết khuyến khích khởi nghiệp và tự do kinh doanh cho người dân, mặt khác từng bước gỡ bỏ những rào cản về pháp lý, thủ tục hành chính rườm rà, hữu hình và vô hình, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân.
Điều đó có nghĩa là quyền kinh tế của người dân, doanh nghiệp tư nhân được mở rộng, được tăng cường và có sự đảm bảo cam kết từ chính quyền, và đồng thời quyền lực, đặc lợi của bộ máy, quan chức hiện thời cũng bị hạn chế, ràng buộc và giảm đi.
Thực thi chính sách này như ‘tự lấy đá ghè chân mình’, thì hiệu ứng không mong muốn là khó tránh khỏi. Những hiện tượng ‘trên nóng, dưới lạnh’, đôi khi ‘bất tuân công vụ’ do những bất cập thể chế, tính quan liêu hành chính và suy thoái đạo đức của cán bộ đảng viên … được chính phủ chỉ ra nhiều lần trong quá trình điều hành.
Thúc đẩy tăng trưởng
Trách nhiệm nặng nề của chính phủ kiến tạo không chỉ khôi phục sự ổn định mà còn phải thúc đẩy tăng trưởng sau khi giảm sút đáng kể trong nhiệm kỳ trước.
Nếu nhìn vào chính sách, cách điều hành năng động, vai trò của người đứng đầu chính phủ và các kết quả thực tế đạt được của nền kinh tế trong 4 năm qua, thì không thể không ghi nhận vai trò quan trọng của nó tạo ra khác biệt tích cực, phù hợp với bối cảnh thực tế và thúc đẩy cải cách thể chế theo hướng thị trường.
Các chỉ tiêu pháp lệnh được Quốc hội thông qua từng năm đều đạt và vượt, trong đó tỷ lệ GDP tăng năm sau cao hơn năm trước, từ năm 2016 đến 2019 lần lượt là 6,21% ; 6,81% ; 7,08% và 7,02%. Ngoài ra, chất lượng tăng trưởng cũng được chú ý cải thiện, khu vực tư nhân được mở rộng, trợ giúp cho doanh nghiệp nhà nước được kiểm soát, thị trường sôi động hơn.
Một chế độ do đảng cộng sản lãnh đạo toàn diện, nhưng không do người dân trực tiếp bầu lên, cho nên tính chính danh của nó ‘đặt cược’ vào mức tăng trưởng kinh tế, bởi vậy những kết quả nêu trên là thành tích ấn tượng.
Tình huống khẩn cấp
Một số nhận định rằng chế độ toàn trị có ưu thế trong chiến tranh hay tình huống cấp bách. Từ phương diện thể chế, điều này có thể đúng, tuy nhiên không thể không nói đến năng lực điều hành và vai trò người đứng đầu của ‘chính phủ kiến tạo’. Tình huống phòng chống dịch Covid-19 là một thử thách.
Phòng chống loại virus corona chủng mới lây lan nhanh, nguy cơ tử vong cao được coi là tình huống khẩn cấp. Chính phủ có thái độ tiếp cận nghiêm túc với đại dịch này. Những biện pháp ‘thời chiến’ đã được sử dụng để phòng chống đại dịch, như giãn cách xã hội, cách ly tập trung, phát hiện và phong tỏa ổ dịch với phương châm ‘kêu gọi trách nhiệm’ trước tập thể, cộng đồng, ‘thúc đẩy hành động’ và ‘yêu cầu tuân thủ’... Người Việt Nam nhiều thế hệ từng trải qua các cuộc chiến tranh và những tình huống bất ổn của thể chế trong quá trình chuyển đổi cơ chế nên không khó khăn lắm để chấp nhận và ủng hộ chính phủ với những chính sách ứng phó quyết liệt, kịp thời với sự vào cuộc của toàn hệ thống chính trị.
Dư luận và một số tổ chức quốc tế đánh giá tích cực cách phòng chống dịch của Việt Nam, ‘một chiến lược chống Covid-19 đơn sơ nhưng hiệu quả’ với ‘chi phí thấp’, coi đây là bài học kinh nghiệm phù hợp áp dụng cho những quốc đang phát triển và mới nổi. Tính đến hết ngày 17/4/2020 Việt Nam có 268 ca nhiễm, chưa có ca tử vong nào và 198 người đã được chữa khỏi và phục hồi.
‘Cuộc chiến’ với Covid-19 này vẫn còn ở phía trước, chính phủ và người dân chia sẻ đặt lợi ích cộng đồng lên trên tự do cá nhân và họ cùng có niềm tin đại dịch sẽ được khống chế với tổn thất tối thiểu. Hậu Covid-19 là quá trình chuyển từ ‘thời chiến’ sang thời bình, sẽ là vấn đề nếu không thận trọng với cảnh báo về các biện pháp ‘thời chiến’ luôn có quán tính cản trở những cải cách theo hướng thị trường.
Kết luận
Đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam đang tìm kiếm mô hình tăng trưởng nhanh và bền vững trong quá trình chuyển đổi sang thị trường. Chính phủ hiện hành với chính sách dựa trên chủ nghĩa thực dụng, nhấn mạnh chủ thể đạo đức với các chuẩn mực như kiến tạo, liêm chính, phục vụ người dân và doanh nghiệp để lựa chọn các hành động hướng tới mục đích mang lại lợi ích cho số đông. Một chính phủ như vậy phù hợp với ràng buộc về thể chế và ý thức hệ hiện hành đã mang lại kết quả thực tế.
Chưa thể khẳng định đây là mô hình mà Đảng cộng sản mong muốn, nhưng chính phủ kiến tạo có thể coi là giải pháp chính sách, một gợi ý thúc đẩy cải cách thể chế. Tuy nhiên, nếu một cách nhìn thiên lệch về ý thức hệ giáo điều thì Chính phủ kiến tạo sẽ không thể phát huy vai trò tích cực của nó và liệu hình hài chính phủ của nhiệm kỳ tới sẽ khó đoán định.
Phạm Quý Thọ (Hà Nội)
Nguồn : RFA, 17/04/2020