Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Published in

Diễn đàn

23/04/2020

Dựa vào Công hàm Phạm Văn Đồng 1958, Bắc Kinh đe nạt Việt Nam

Thu Thủy

Bộ Ngoại giao Trung Quốc lớn tiếng đe dọa Việt Nam về Biển Đông

Thu Thủy, Thoibao.de, 23/04/2020

Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm 21/4 nói rằng họ vừa "giao thiệp nghiêm khắc" để đáp trả điều mà họ gọi là "Việt Nam tuyên bố chủ quyền một cách bất hợp pháp ở biển Hoa Nam [tức Biển Đông]", theo tin của Reuters và The Beijing News.

dedoa3

Tin cho hay ông Cảnh Sảng, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, nói tại một cuộc họp báo hàng ngày rằng kể từ cuối tháng 3 vừa qua, Phái đoàn Thường trực của Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc đã gửi một số công hàm tới Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc, "liên tục tuyên bố chủ quyền một cách bất hợp pháp" tại Biển Đông, cũng như "cố phủ nhận" chủ quyền và các quyền của Trung Quốc ở vùng biển này.

"Trung Quốc kiên quyết phản đối điều đó và đã giao thiệp nghiêm khắc với Việt Nam", ông Cảnh Sảng tuyên bố, vẫn theo tin của Reuters và The Beijing News.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc tiếp đến nhấn mạnh rằng bất kỳ nước nào cố phủ nhận chủ quyền và quyền chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông dưới bất kỳ hình thức nào đều là "vô hiệu" và "chắc chắn sẽ thất bại", bản tin của Reuters và The Beijing News cho biết.

"Trung Quốc sẽ thực thi mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ vững chắc chủ quyền, các quyền và lợi ích của mình ở Trung Hoa Nam Hải [tức Biển Đông]", ông Cảnh Sảng nói.

Theo quan sát của VOA, cho đến khi bản tin này được đăng, phía Việt Nam chưa đưa ra phản ứng chính thức nào về tuyên bố mới nhất của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc.

Trước đó, như VOA đã đưa tin, Việt Nam đã phản đối những nỗ lực bành trướng của Trung Quốc tại vùng biển tranh chấp, bao gồm cả việc gửi tuyên bố chủ quyền đến Liên Hiệp Quốc.

Một số nhà phân tích và quan sát nhận định với VOA rằng cụm từ "mọi biện pháp cần thiết" trong tuyên bố hôm 21/4 của phía Trung Quốc là rất đáng lưu ý vì nó có hàm ý đe dọa, cũng như không loại trừ việc Trung Quốc tiến tới sử dụng biện pháp quân sự.

Đây là lần thứ hai chỉ trong vòng 4 ngày, Trung Quốc nói bóng gió đến việc sử dụng vũ lực, theo thạc sĩ luật Hoàng Việt, một nhà nghiên cứu lâu năm về Biển Đông.

Ông Việt nhắc đến công hàm hôm 17/4 của Trung Quốc gửi đến Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc để phản đối Việt Nam, trong đó có đoạn : "Trung Quốc kiên quyết đòi Việt Nam phải rút mọi lực lượng và phương tiện khỏi các đảo và đá mà nước này đã xâm lược và chiếm đóng bất hợp pháp" ở quần đảo Trường Sa.

Nhà nghiên cứu Hoàng Việt nhận định với VOA về những tín hiệu liên tiếp phát đi từ Trung Quốc trong ít ngày qua : "Rất có khả năng là lúc này, Trung Quốc có thể sẽ có hành động mạnh tay hơn ở khu vực Biển Đông".

Đối sách của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, theo ông Hoàng Việt, là "phải giữ vững được thực địa" kết hợp với các biện pháp ngoại giao, hòa bình. Ông nói thêm với VOA :

"Việt Nam đang chiếm giữ, kiểm soát tất cả là 21 cấu trúc ở Trường Sa, cũng như các giàn ĐK, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, thì Việt Nam phải kiên quyết giữ vững được. Nếu không giữ vững được thì có thể bị đe dọa rất là lớn. Việt Nam cần tiếp tục gửi công hàm, và Việt Nam phải vận động các quốc gia trực tiếp liên quan như Malaysia, Philippines cũng phải gửi công hàm lên tiếng cho trường hợp này".

Trên bình diện rộng hơn, ông Việt, thành viên Ban Nghiên cứu luật Biển, thuộc Liên đoàn Luật sư Việt Nam, đề xuất Việt Nam tận dụng vị thế chủ tịch đương nhiệm của khối các nước Đông Nam Á (ASEAN) để làm việc cùng các thành viên và đưa ra một tuyên bố chung. Thêm vào đó, Việt Nam cần kêu gọi sự lên tiếng của các nước khác trong cộng đồng quốc tế, vẫn theo lời thạc sĩ Hoàng Việt.

Biện pháp thứ tư trong số các đối sách là Việt Nam khởi kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế, nếu cần thiết, ông Hoàng Việt nói với VOA.

Trong bối cảnh tình hình mỗi lúc một căng thẳng thêm, nhà nghiên cứu này cảnh báo rằng Việt Nam cần giữ bình tĩnh trước các hành vi khiêu khích, hay còn gọi là "dưới ngưỡng chiến tranh", của Trung Quốc.

"Có những phân tích cho rằng Trung Quốc sẽ bao vây, chặn các đường tiếp tế của phía Việt Nam đến các đảo ở khu vực Trường Sa hoặc các dàn ĐK. Đấy là những việc Việt Nam phải tính đến, làm sao vừa bảo vệ được mình mà không mắc bẫy của Trung Quốc vào chuyện nổ súng trước hoặc khiêu khích Trung Quốc, để Trung Quốc tạo cớ".

Về nguyên nhân Trung Quốc trở nên hung hăng hơn trong giai đoạn hiện nay, ông Hoàng Việt, thành viên Ban Nghiên cứu luật Biển, thuộc Liên đoàn Luật sư Việt Nam, nhận định với VOA rằng nhà lãnh đạo tối cao của Trung Quốc, ông Tập Cận Bình, có thể đã và đang gặp những thách thức chính trị nội bộ trong bối cảnh kinh tế năm qua sụt giảm vì thương chiến với Mỹ, nên ông Tập muốn hướng sự chú ý ra bên ngoài, đặc biệt nhắm đến Biển Đông.

Bên cạnh đó, vẫn theo thạc sĩ Hoàng Việt, tình hình quốc tế hiện cũng đang có thuận lợi cho Trung Quốc theo đuổi các mục đích của họ ở Biển Đông, khi các nước bận rộn đối phó với dịch Covid-19, trong đó, Hải quân Mỹ đang tạm thời suy giảm sức mạnh vì hai tàu sân bay có nhiều thủy thủ bị nhiễm bệnh, phải dừng hoạt động.

Trung Quốc đặt tên cho hàng chục đảo, thực thể trên Biển Đông

Mới hôm 19/4, Bộ Dân chính Trung Quốc công bố "danh xưng tiêu chuẩn" cho 25 đảo, bãi đá ngầm cùng 55 thực thể địa lý dưới đáy biển ở Biển Đông.

Phần lớn số này nằm trong quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.

Trung Quốc cũng công bố kinh độ và vĩ độ của các đảo, bãi đá và thực thể.

Việt Nam nói trong những thực thể này có những bãi cạn nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, có điểm chỉ cách bờ biển Việt Nam chưa đầy 60 hải lý hoặc đường cơ sở Việt Nam khoảng 50 hải lý.

dedoa1

Ảnh : Nhà giàn DK1 ở Biển Đông, cách đất liền khoảng 250-350 hải lý. Việt Nam đã xây dựng bảy khu vực nhà giàn ở Biển Đông giao Lữ đoàn 171 thuộc Vùng 2 Hải quân quản lý.

Chỉ một ngày trước, 18/4, truyền thông Trung Quốc đưa tin nước này đã quyết định thành lập cái gọi là "quận Tây Sa" và "quận Nam Sa" thuộc "thành phố Tam Sa", lấy Bãi đá Chữ Thập mà Trung Quốc chiếm được của Việt Nam làm Đại bản doanh (cơ quan chính quyền) quản lý 2 quận này.

Đây là "đơn vị hành chính" mà Trung Quốc đã thành lập vào năm 2012 để quản lý "Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa".

Ngày 19/4, người phát ngôn ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng đã lên tiếng phản đối Trung Quốc thông báo thành lập "quận Tây Sa" và "quận Nam Sa".

"Việt Nam đã nhiều lần mạnh mẽ khẳng định Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Lập trường nhất quán của Việt Nam là phản đối mạnh mẽ việc thành lập cái gọi là "thành phố Tam Sa" và các hành vi có liên quan vì đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, không có giá trị và không được công nhận, không có lợi cho quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia và gây thêm phức tạp tình hình Biển Đông, khu vực và thế giới", bà Hằng nói.

Ngày 20/4, từ Bắc Kinh, người phát ngôn Cảnh Sảng hồi đáp rằng việc nước này thành lập các đơn vị hành chính là "thuộc chủ quyền".

"Trung Quốc kiên quyết phản đối ngôn từ và hành động của Việt Nam gây hại cho chủ quyền, lợi ích của Trung Quốc ở Nam Hải", ông Cảnh Sảng nói.

Quay lại buổi họp báo mới nhất ngày 21/4, trang báo nhà nước CGTN dẫn lời ông Cảnh Sảng :

"Cố gắng của bất kỳ nước nào muốn vi phạm chủ quyền và lợi ích của Trung Quốc ở Nam Hải và đòi chủ quyền phi pháp sẽ chỉ vô ích".

dedoa2

Ảnh : Bộ Dân chính Trung Quốc ngày 19/4 công bố cái gọi là "danh xưng tiêu chuẩn" cho 25 đảo, bãi đá cùng 55 thực thể địa lý dưới đáy biển ở Biển Đông. Một số nằm dọc theo "đường lưỡi bò" và rất sát Việt Nam. Chẳng hạn, Nhàn Đàm Hải Đài (Xiantan Haitai), cách Cam Ranh khoảng 60 hải lý ; Vạn An Hải Để Hạp Cốc Quần (Wan’an Haidixiaguqun) cách đảo Phú Quý khoảng 50 hải lý ; Tiêu Tương Hải Khâu (Xiaoxiang Haiqiu) cách Hòn Hải khoảng 45 hải lý.

Trong bài viết trên RFA Tiếng Việt với tựa đề "Việt Nam phải làm gì để chống lại sự đe dọa của Trung Quốc ở biển Đông ?" tác giả Hoài Đông đưa ra một số phân tích về diễn biến mới của Trung Quốc và những hành động cần thiết của Việt Nam.

"Hiện nay, có một số lý do khiến Trung Quốc gia tăng các hành động hung hăng, hiếu chiến trên Biển Đông.

Thứ nhất, đó là việc Hải quân Trung Quốc (PLAN) đang tăng cường sức mạnh, trong đó có việc đưa vào vận hành 2 tàu sân bay (Liêu Ninh và Sơn Đông) và tiến hành các hoạt động gần hơn với eo biển Đài Loan và Philippines, đe dọa Indonesia cũng như Nhật Bản ở biển Hoa Đông.

Dường như, Trung Quốc đang mở rộng việc xác lập vùng ngoại vi của "đường 9 đoạn", nay bao gồm cả các khu vực không có tranh chấp như Bãi Tư Chính của Việt Nam và khu vực biển Natuna của Indonesia.

Trung Quốc cũng đang điều tàu đến biển Hoa Đông, với hàm ý rằng, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, các hành động như vậy sẽ giúp đánh lạc hướng chú ý của quốc tế và né tránh các cáo buộc trên thế giới về việc Bắc Kinh thiếu trách nhiệm đối với toàn cầu.

Thứ hai, đại dịch Covid-19 đã đặt ra những nghi ngờ nghiêm trọng về cam kết của Trung Quốc với tư cách là một quốc gia thành viên của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc và thái độ thiếu minh bạch của nước này trong các tuyên bố về dịch bệnh, bao gồm cả con số thương vong.

Biển Đông và các vụ thử tên lửa của Triều Tiên mang lại cho Trung Quốc cái cớ để đánh lạc hướng chú ý cũng như làm gia tăng chủ nghĩa dân tộc ở Trung Quốc, đặc biệt khi Chủ tịch Tập Cận Bình đang phải đối mặt với sự bất mãn lớn ở trong nước.

Thế giới cần phải làm gì ?

Ngoài việc bàn thảo, cộng đồng quốc tế cần phải đưa ra một tuyên bố chỉ trích mạnh mẽ hành vi của Trung Quốc. Về phía các quốc gia trong khu vực và đối tác đối thoại, các nước này cần ra một tuyên bố thống nhất chỉ trích gay gắt những nỗ lực của Trung Quốc nhằm phá vỡ trật tự khu vực ở Biển Đông. Các quốc gia nhóm "Bộ tứ" (The Quad) bao gồm Mỹ, Nhật, Australia và Ấn Độ phải tiến hành các hoạt động giám sát hàng hải chung định kỳ và thậm chí một cuộc đối đầu với Trung Quốc sẽ là bài học lớn giúp cho vùng biển bình yên".

Vậy Việt Nam phải làm gì để chống lại sự đe dọa của Trung Quốc ở biển Đông ? Tác giả Hài Đông nêu vấn đề.

"Một chuyên gia của Ấn Độ cho rằng, cho đến bây giờ, Việt Nam phải hiểu rằng thực tiễn và động lực toàn cầu đã thay đổi qua thời gian và việc xác định Mỹ là kẻ thù lâu dài sẽ không có lợi cho các lợi ích chiến lược của Hà Nội. Việt Nam cần ký thỏa thuận an ninh và đối tác chiến lược với Mỹ. Có thể áp dụng theo mô hình quan hệ đối tác chiến lược toàn cầu Ấn Độ-Nhật Bản và tuyên bố chung về hợp tác an ninh. Chuyến thăm của tàu sân bay USS Roosevelt của Mỹ không được hoan nghênh trong cộng đồng chiến lược Trung Quốc, và Việt Nam phải tích cực để tàu của các nước đối tác (trừ Trung Quốc) ghé thăm cảng của mình.

Ngoài ra, Việt Nam cần đưa nội dung vấn đề Biển Đông vào chương trình nghị sự của Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) vào cuối năm nay, và tất cả các bên cần phải tìm kiếm một Bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông (COC) ràng buộc về mặt pháp lý.

Với tư cách là Chủ tịch ASEAN, Việt Nam cần thực hiện cách tiếp cận 5 bước để giải quyết vấn đề.

Thứ nhất, thể chế hóa một ủy ban có quyền lực cao để xúc tiến và xây dựng đồng thuận về dự thảo COC trong ASEAN trên cơ sở ưu tiên. Các nguyên thủ tướng chính phủ có thể tham gia vào ủy ban này để có được sự chấp nhận chính trị và tăng cường lòng tin giữa các quốc gia đòi hỏi chủ quyền ở Biển Đông.

Thứ hai, Việt Nam phải thực hiện các sáng kiến 3 bên với các đối tác đối thoại và các bên đòi chủ quyền khác để khảo sát thủy văn và lập bản đồ đáy đại dương. Các đối tác đối thoại ASEAN (trừ Trung Quốc) bị ảnh hưởng gián tiếp vì các chiến thuật của Trung Quốc.

Thứ ba, Việt Nam phải tạo ra một Quy trình hoạt động tiêu chuẩn (Standard operating procedure – SOP) giữa các quốc gia ASEAN và đưa ra tuyên bố duy trì hiện trạng.

Thứ tư, cần xây dựng Hiệp ước thân thiện và hợp tác liên quan đến Biển Đông. Có thể đặt tên cho thỏa thuận này là "Khu vực hòa bình, tự do và đi qua vô hại". Thỏa thuận cần được ký kết bởi tất cả các đối tác đối thoại và trên cơ sở đảm bảo quyền tự do hải hành trên khu vực biển này.

Thứ 5, Việt Nam phải kêu gọi cộng đồng quốc tế ưu tiên giải quyết tranh chấp ở Biển Đông, bởi điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với an ninh biển và thúc đẩy thương mại trong khu vực". Tác giả Hoài Đông kết luận.

Và Việt Nam, sau khi đã thấy rõ bộ mặt và các mưu đồ thôn tính Biển Đông của Trung Quốc thì cần phải có thái độ dứt khoát, gia nhập các quốc gia Dân chủ Tự do trên thế giới để làm đồng minh với Mỹ , Châu Âu cùng bảo vệ tự do hàng hải, tự do hàng không và chủ quyền đất nước. 

Thu Thủy (Thành phố Hồ Chí Minh)

Nguồn : Thoibao.de, 23/04/2020

*****************

Tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của CHND Trung Hoa

Thoibao.de, 23/04/2020

Bản tiếng Việt

tuyenbo1

"Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nay tuyên bố :

1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Ðiều này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (tức Hoàng Sa của Việt Nam), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (tức Trường Sa của Việt Nam), và các đảo khác thuộc Trung Quốc.

2) Các đường thẳng nối liền mỗi điểm cơ sở của bờ biển trên đất liền và các đảo ngoại biên ngoài khơi được xem là các đường cơ sở của lãnh hải dọc theo đất liền Trung Quốc và các đảo ngoài khơi. Phần biển 12 hải lý tính ra từ các đường cơ sở là hải phận của Trung Quốc. Phần biển bên trong các đường cơ sở, kể cả vịnh Bột Hải và eo biển Quỳnh Châu, là vùng nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong các đường cơ sở, kể cả đảo Đông Dẫn, đảo Cao Đăng, các đảo Mã Tổ, các đảo Bạch Khuyển, đảo Điểu Khâu, Ðại và Tiểu Kim Môn, đảo Đại Đảm, đảo Nhị Đảm, và đảo Đông Đĩnh, là các đảo thuộc nội hải Trung Quốc.

3) Nếu không có sự cho phép của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, tất cả máy bay nước ngoài và tàu bè quân sự không được xâm nhập hải phận Trung Quốc và vùng trời bao trên hải phận này. Bất cứ tàu bè nước ngoài nào di chuyển trong hải phận Trung Quốc đều phải tuyên thủ các luật lệ liên hệ của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

4) Mục (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa (tức Hoàng Sa của Việt Nam), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (tức Trường Sa của Việt Nam), và các đảo khác thuộc Trung Quốc.

Khu vực Ðài Loan và Bành Hồ hiện tại vẫn bị lực lượng vũ trang Hoa Kỳ xâm chiếm. Ðây là hành vi phi pháp, xâm phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ðài Loan và Bành Hồ đang chờ được thu phục. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy lại các phần đất này trong tương lai, không cho phép nước ngoài can thiệp".

tuyenbo2

Tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của CHND Trung Hoa

Luật sư Lê Công Định (biên dịch)

P/S : Đây là bản tuyên bố minh định Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung Cộng, mà Phạm Văn Đồng đã nhân danh Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành.

tuyenbo3

Công hàm đồng ý với "Tuyên bố ngày 4/9/1958 của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa" của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Trung Quốc hôm 14/09/1958

Quay lại trang chủ

Additional Info

  • Author: Thu Thủy
Read 736 times

Viết bình luận

Phải xác tín nội dung bài viết đáp ứng tất cả những yêu cầu của thông tin được đánh dấu bằng ký hiệu (*)