Hôm 22/3, Ngoại trưởng Trung Quốc và lãnh đạo đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định hai nước sẵn sàng tăng cường trao đổi cấp cao và đẩy mạnh trao đổi về kinh nghiệm điều hành hai đảng, hai nước.
Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương Lê Hoài Trung hội kiến Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị. Ảnh : TTXVN
Tân Hoa Xã dẫn lời Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị khi tiếp Trưởng ban Đối ngoại của Cộng sản Việt Nam Lê Hoài Trung tại Bắc Kinh cho biết hai bên nên thúc đẩy hợp tác trên nhiều lĩnh vực để cùng nhau xây dựng cộng đồng Trung Quốc-Việt Nam cùng chia sẻ tương lai.
Trong khi đó ông Trung đề nghị hai bên cùng nỗ lực "thực hiện tốt nhận thức chung cấp cao, tăng cường tin cậy chính trị, củng cố môi trường hòa bình, ổn định, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hợp tác Việt Nam-Trung Quốc trên các lĩnh vực", theo báo điện tử của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Dịp này, ông Trung cũng có cuộc gặp với ông Thái Kỳ, Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, Bí thư Ban Bí thư, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Ông Trung nói rằng phía Việt Nam sẵn sàng thúc đẩy hợp tác và thúc đẩy quan hệ song phương phát triển hơn nữa.
Truyền thông Việt Nam tường thuật rằng chuyến thăm Trung Quốc của ông Trung là "cuộc gặp thường niên giữa hai Trưởng ban Đối ngoại Trung ương hai Đảng" có mục đích "nhằm thực hiện nhận thức chung quan trọng giữa Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, trao đổi ý kiến về việc tham mưu với Trung ương hai Đảng trong việc tăng cường quan hệ giao lưu, hợp tác trên kênh Đảng, phối hợp thúc đẩy hợp tác giữa hai nước trên các lĩnh vực".
Các cuộc gặp tại Bắc Kinh diễn ra chỉ một ngày sau khi ông Võ Văn Thưởng bị Quốc hội Việt Nam miễn nhiệm chức vụ chủ tịch nước và hai ngày sau khi bị Ban chấp hành Trung Đảng phế chức danh ủy viên Bộ Chính trị với lý được cho là có "những vi phạm, khuyết điểm" đã gây "dư luận xấu, làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, Nhà nước".
Dự kiến trong hội nghị trung ương tiếp theo, Ban chấp hành Trung Đảng sẽ quyết định "đề nghị" nhân sự thay thế ông Thưởng.
Nguồn : VOA, 23/03/2024
Theo nguồn tin từ các chuyên gia theo dõi hàng hải hôm nay 06/06/2023 cho biết, tàu nghiên cứu cùng các tàu hộ tống của Trung Quốc, hoạt động gần một tháng nay trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trên Biển Đông, đã rời khỏi vùng biển Việt Nam, tối hôm qua, 05/06, vào lúc Trung - Mỹ kết thúc đối thoại cấp cao tại Bắc Kinh.
Tàu Hướng Dương Hồng 10, với sự hộ tống của 2 tàu hải cảnh và nhiều tàu cá Trung Quốc đã ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam trên Biển Đông
Con tàu nghiên cứu hải dương của Trung Quốc Hướng Dương Hồng 10, với sự hộ tống của 2 tàu hải cảnh và nhiều tàu cá Trung Quốc đã vào hoạt động trong khu vực bãi Tư Chính, thuộc vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam trên Biển Đông từ ngày 07/05. Nhóm tầu này nhiều lần áp sát khu vực mỏ dầu khí của Việt Nam đang do một công ty Nga đầu tư khai thác, theo các dữ liệu theo dõi hàng hải quốc tế.
Hãng tin Reuters cho biết, hôm qua, sau khi kết thúc cuộc hội đàm các quan chức cao cấp Mỹ và Trung Quốc tại Bắc Kinh, một cuộc gặp được hai bên đánh giá là mang tính xây dựng, thì con tàu trên cùng nhóm tàu đi cùng, khoảng hơn chục chiếc, đã bắt đầu quay mũi trở về hướng đảo Hải Nam và đã ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam khoảng nửa đêm.
Nguồn tin của lãnh đạo Sáng kiến Biên niên sử Biển Đông, một tổ chức độc lập phi lợi nhuận, xác nhận các tàu Trung Quốc đã rời khỏi vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam.
Được Reuters hỏi về sự việc trên, bộ Ngoại Giao Trung Quốc từ chối bình luận. Nhưng trong một thông cáo, bộ Ngoại Giao Trung Quốc tuyên bố : "Con tàu nghiên cứu khoa học của Trung Quốc tiến hành các hoạt động nghiên cứu bình thường trong vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc là hợp pháp và phù hợp. Ở đây, không có vấn đề vào vùng đặc quyền kinh tế của một nước khác».
Về phía Việt Nam, đến ngày 25/05, Hà Nội, qua lời phát ngôn viên Bộ ngoại giao, mới lên tiếng yêu cầu Bắc Kinh rút tàu Hướng Dương Hồng 10, cùng các tàu hộ tống ra khỏi vùng biển của Việt Nam. Hãng tin Anh lưu ý là những tuyên bố trên chỉ được đưa ra sau chuyến thăm Hà Nội của ông Dmitri Medvedev, chủ tịch đảng Nước Nga Thống Nhất đồng thời là phó chủ tịch Hội đồng An ninh Quốc gia Nga.
Bộ ngoại giao Việt Nam chưa trả lời đề nghị bình luận về diễn biến mới trên.
Anh Vũ
Ngay sau khi người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam lên tiếng khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên Biển Đông (25/5/2023), thì ngay ngày 26/5/2023 Trung Quốc nói tàu khảo sát của họ hoạt động hợp pháp và có quyền tài phán.
Cuốn sách "Hoàng Sa-Trường Sa : Luận cứ và Sự kiện" của tác giả Đinh Kim Phúc - được Nhà xuất bản Thời Đại phát hành năm 2012 gồm 263 trang - đã được Giáo sư Kazutaka Hashimoto của Đại học Kanto (Nhật Bản) dịch sang tiếng Nhật và phát hành rộng rãi tại nước này
Ở đây cần nhắc lại Phán quyết của Tòa Trọng tài quốc tế vào tháng 7/2016. Theo Thông cáo báo chí của Tòa Trọng tài, nội dung của Phán quyết đã đề cập đầy đủ bảy nội dung mà Tòa Trọng tài đã lựa chọn thuộc thẩm quyền xét xử của mình trong số 15 điểm của đơn khởi kiện của Philippines. Nội dung Phán quyết của Tòa chỉ tập trung phán xét về việc giải thích và áp dụng sai các quy định của Công ước LHQ về Luật Biển, không liên quan gì đến tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và tranh chấp về việc phân định các vùng chồng lấn, một trong những điểm quan trọng là bác bỏ "quyền lịch sử của Trung Quốc đối với tài nguyên trong đường 9 đoạn"…
Phía Trung Quốc thì tiếp tục nhai lại những luận điệu cũ.
Trên trang web của Đài phát thanh quốc tế Trung Quốc (CRIonline) ngày 17/3/2009 có bài : "Cội nguồn của vấn đề Biển Nam và lập trường nguyên tắc của Trung Quốc". Bài này có đoạn viết : "Trên vấn đề Biển Nam, Trung Quốc xưa nay đều có chủ quyền không thể tranh cãi, đồng thời chủ trương giải quyết sự tranh chấp quốc tế qua đàm phán hòa bình.
Trung Quốc là nước phát hiện và đặt tên sớm nhất cho quần đảo Nam Sa [quần đảo Trường Sa của Việt Nam], đồng thời cũng là nước thực thi chủ quyền sớm nhất và bền vững nhất đối với quần đảo Nam Sa. Việc này đã được chứng minh bằng lịch sử và căn cứ pháp lý đầy đủ, nhận được sự công nhận lâu dài của cộng đồng quốc tế. Trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, Nhật Bản đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược Trung Quốc, chiếm đóng phần lớn khu vực của Trung Quốc, trong đó kể cả quần đảo Nam Sa. "Tuyên bố Cai-rô" và "Thông cáo Potsdam" cùng các văn kiện quốc tế khác đã quy định rõ việc trao trả lại lãnh thổ cho Trung Quốc từng bị Nhật cướp đoạt năm xưa, dĩ nhiên trong đó kể cả quần đảo Nam Sa. Tháng 12 năm 1956, Chính phủ Trung Quốc lúc bấy giờ đã chỉ định quan chức cấp cao tiếp quản quần đảo Nam Sa, đồng thời đã tổ chức lễ bàn giao trên đảo, cắm mốc kỷ niệm và cử quân đội đến đóng tại quần đảo Nam Sa. Năm 1952, Chính phủ Nhật Bản chính thức bày tỏ "từ bỏ tất cả mọi quyền lợi, danh nghĩa và yêu sách về quyền lợi đối với Đài Loan, các hòn đảo Bành Hồ và quần đảo Nam Sa", từ đó quần đảo Nam Sa đã chính thức trở về với Trung Quốc.
Trong quãng thời gian khá dài sau chiến tranh, hoàn toàn không tồn tại cái gọi là vấn đề Biển Nam. Về các khu vực xung quanh Biển Nam cũng chưa có bất cứ một nước nào đưa ra ý kiến bất đồng đối với việc Trung Quốc thực thi chủ quyền đối với quần đảo Nam Sa và các vùng biển xung quanh quần đảo này.
Trước năm 1975, Việt Nam đã rõ ràng công nhận Trung Quốc có chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Nam Sa. Trước thập niên 70 thế kỷ 20, các nước Philippines, Malaysia v.v không có bất cứ văn bản pháp luật và bài phát biểu của nhà lãnh đạo nào nói đến phạm vi lãnh thổ nước họ bao gồm quần đảo Nam Sa. Nghị quyết của Chính phủ nhiều nước và cộng đồng quốc tế cũng công nhận quần đảo Nam Sa là lãnh thổ của Trung Quốc. Thí dụ như, Hội nghị hàng không khu vực Thái Bình Dương thuộc tổ chức hàng không dân dụng quốc tế triệu tập tại Ma-ni-la vào năm 1955 đã thông qua nghị quyết số 24, yêu cầu nhà đương cục Đài Loan Trung Quốc tăng cường việc quan trắc khí tượng trên quần đảo Nam Sa, tại hội nghị không có bất cứ một đại biểu nào đưa ra ý kiến bất đồng hoặc ý kiến bảo lưu về việc này. Bản đồ do nhiều nước xuất bản cũng ghi rõ quần đảo Nam Sa thuộc về Trung Quốc. Trong đó có "Tập bản đồ mới Thế giới" do Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản Ohira Masayoshi đề nghị xuất bản vào năm 1962, bản đồ thế giới do Việt Nam lần lượt xuất bản vào năm 1960 và năm 1972 v.v. Từ thế kỷ 20 đến nay, bách khoa toàn thư có thẩm quyền của rất nhiều nước như "Bách khoa toàn thư Liên Xô" xuất bản năm 1973 và "Niên giám Thế giới" do Hãng Kyoto Nhật xuất bản năm 1979 đều thừa nhận quần đảo Nam Sa là lãnh thổ của Trung Quốc"…
Sự thật lịch sử như thế nào ?
Năm 1945 Nhật Bản bị các nước Ðồng minh đánh bại trong cuộc chiến tranh Thái Bình Dương phải đầu hàng. Một trong những việc nước này phải làm khi đầu hàng là từ bỏ các đất đai ở ngoại quốc mà Nhật Bản đã chiếm được trong thời kỳ toàn thịnh của chế độ quân phiệt, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Lần đầu tiên Trung Quốc chính thức lên tiếng về vấn đề chủ quyền trên hai quần đảo này là khi trong một cuộc họp báo ở Manila ngày 17/5/1949 Tổng thống Philippines Quirino đã tuyên bố là vì quần đảo Trường Sa ở kế cận quần đảo Philippines nên nó phải thuộc về Philippines. Hai ngày sau, ngày 19 tháng 5, Bắc Kinh đã có phản ứng. Chính phủ Trung Quốc tuyên bố như sau :
"Lời tuyên truyền vô lý của Chính phủ Philippines đối với lãnh thổ của Trung Quốc rõ ràng là sản phẩm chỉ thị của Chính phủ Hoa kỳ. Bọn khiêu khích Philippines và những kẻ Hoa Kỳ ủng hộ chúng phải bỏ ngay mưu đồ mạo hiểm đó đi, nếu không thì hành động này có thể đưa tới những hậu quả nghiêm trọng. Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không bao giờ để cho bất cứ một ngoại bang nào xâm lược quần đảo Nam Sa hay bất cứ đất đai nào khác thuộc về Trung Quốc".
Tuy nhiên Trung Quốc chỉ nói chứ không đưa ra được một bằng chứng nào, dù là lịch sử hay pháp lý, cho thấy Trường Sa thuộc quyền Trung Quốc làm chủ.
Đầu tháng 9 năm 1951, theo lời mời của Chính phủ Hoa kỳ, 51 quốc gia trước kia đã từng tham gia hay có liên hệ tới cuộc chiến chống xâm lược Nhật Bản từ năm 1939 đến năm 1945 đã tham dự Hội nghị Hòa bình nhóm họp ở thành phố San Francisco (Hoa kỳ) để thảo luận vấn đề chấm dứt tình trạng chiến tranh và tái lập bang giao với Nhật Bản. Ðiểm đáng chú ý là cả Trung Quốc và Đài Loan đều không được mời tham dự hội nghị. Trong hội nghị, vấn đề chính là thảo luận bản dự thảo hòa ước do hai nước Anh và Hoa Kỳ đề nghị ngày 12/7/1951. Ngày 8/9/1951, ngoại trừ Liên Xô, Ba Lan và Tiệp Khắc, các nước tham dự hội nghị đã ký hòa ước với Nhật Bản.
Vì thấy mình bị Hoa Kỳ gạt ra ngoài hội nghị, các nhà lãnh đạo Trung Quốc ngay từ cuối năm 1950 đã có phản ứng. Một mặt họ ra một số tuyên bố chính thức, mặt khác họ cho đăng các bài báo để lên án việc không mời Trung Quốc tham dự hội nghị và để trình bày quan điểm của Trung Quốc về một số vấn đề cần phải được thảo luận, trong đó có vấn đề chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 4/12/1950 Chu Ân Lai, lúc đó là Bộ trưởng Ngoại giao, trong bản tuyên bố đầu tiên của nhà nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, đã nêu ra căn bản chính để ký một hòa ước với Nhật Bản :
"Bản Tuyên cáo Cairo, Thỏa ước Yalta, bản Tuyên ngôn Potsdam và các chính sách căn bản đối với Nhật Bản sau khi nước này đầu hàng đã được các quốc gia trong Ủy hội Viễn đông thỏa thuận và thông qua ngày 19/6/1947 các văn kiện quốc tế mà Chính phủ Hoa Kỳ đã ký kết là căn bản chính cho một hòa ước liên hợp với Nhật Bản".
Chu Ân Lai còn nói thêm :
"Nhân dân Trung Quốc rất ước muốn sớm có một hòa ước liên hợp với Nhật Bản cùng với các quốc gia đồng minh khác trong thời kỳ Thế chiến thứ hai. Tuy nhiên căn bản của hòa ước phải hoàn toàn thích hợp với bản Tuyên cáo Cairo, Thỏa ước Yalta, bản Tuyên ngôn Potsdam và các chính sách căn bản đối với Nhật Bản sau khi nước này đầu hàng được qui định trong các văn kiện này".
Tuy bản tuyên bố trên của Trung Quốc không đề cập đến vấn đề chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa mà chỉ đề cập tới các vấn đề khác, nhưng vì nó đã nêu ra quan điểm chính yếu của Trung Quốc nên chúng ta cần phải nghiên cứu kỹ nó cùng với bản tuyên bố ngày 15/8/1951 là tuyên bố chính thức của Trung Quốc về vấn đề chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa để tìm hiểu giá trị các luận cứ của Trung Quốc.
Thực vậy, khi nghiên cứu dự thảo hòa ước San Francisco của Anh - Mỹ gửi cho các quốc gia được mời tham dự hội nghị, Chính phủ Trung Quốc thấy điều 2 của bản dự thảo này không quy định là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Nhật Bản từ bỏ phải được trao cho quốc gia nào. Vì thế ngày 15/8/1951, sau khi đề cập tới quan điểm của Trung Quốc về từng vấn đề một được nêu trong bản dự thảo. Chu Ân Lai đã tuyên bố :
"Dự thảo Hiệp ước qui định là Nhật Bản sẽ từ bỏ mọi quyền đối với đảo Nam Uy (đảo Spratly-Trường Sa) và quần đảo Tây Sa (quần đảo Paracel-Hoàng Sa), nhưng lại cố ý không đề cập tới vấn đề tái lập chủ quyền trên hai quần đảo này. Thực ra, cũng như các quần đảo Nam Sa, quần đảo Trung Sa và quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa và đảo Nam uy lúc nào cũng là lãnh thổ của Trung Quốc. Dù các đảo này đã có lúc bị Nhật Bản chiếm đóng trong một thời gian trong trận chiến tranh xâm lăng do đế quốc Nhật Bản gây ra, sau khi Nhật Bản đầu hàng Chính phủ Trung Hoa đã thu hồi những đảo này.
"Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa do đó tuyên bố : dù Dự thảo Hiệp ước Anh-Mỹ có chứa đựng các điều khoản về vấn đề này hay không và dù các điều khoản này có được soạn thảo như thế nào, chủ quyền bất khả xâm phạm của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên đảo Nam Uy và quần đảo Tây Sa sẽ không vì thế mà bị ảnh hưởng".
Chu Ân Lai sau đó kết luận vấn đề này bằng cách phủ nhận giá trị bất cứ một thỏa ước nào ký với Nhật Bản mà không có sự tham dự của Trung Quốc :
"Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa một lần nữa tuyên bố : Nếu không có sự tham dự của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trong việc chuẩn bị, soạn thảo và ký hòa ước với Nhật Bản dù nội dung và kết quả một hiệp ước như vậy có như thế nào, Chính phủ Nhân dân Trung ương cũng coi hòa ước ấy hoàn toàn bất hợp pháp, và vì vậy sẽ vô hiệu".
Tuy rằng lời kết luận này nhằm toàn thể hòa ước với Nhật Bản, nó cũng bao trùm luôn cả vấn đề chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trong bản tuyên bố này chúng ta nhận thấy có những điểm đáng chú ý như sau :
Thứ nhất, tuy tuyên bố là quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa lúc nào cũng là lãnh thổ của Trung Quốc, Chu Ân Lai lại không nêu ra một chi tiết nào để chứng minh chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo này.
Sự không dẫn chứng của Chu Ân Lai đối với vấn đề chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phải chăng vì Trung Quốc biết không có một căn cứ nào vững vàng, về pháp lý cũng như về lịch sử, để chứng minh chủ quyền này nên Trung Quốc phải bỏ không viện dẫn chứng cớ.
Thứ hai, bản tuyên bố này, cũng như các bản tuyên bố khác sau này của Trung Quốc, và cả của Ðài Loan, đã đề cập tới việc Chính phủ Trung Hoa thu hồi Hoàng Sa và Trường Sa sau khi Nhật Bản đầu hàng vào tháng 8 năm 1945.
Chúng ta biết rằng năm 1938, trước khi xảy ra Chiến tranh thế giới thứ 2, Nhật Bản đã chiếm đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa, nói là để khai thác thương mại nhưng thực ra chính là để lập căn cứ chiến lược làm bàn đạp tấn công vùng Ðông Nam Á. Theo R. Serene thì "Năm 1938 Nhật Bản mượn cớ khai thác thương mại đã chiếm đảo Phú Lâm để bành trướng sự kiểm soát tới các đảo Cam Tuyền và Linh Côn…". Rồi đến ngày 31/3/1939, Bộ Ngoại giao Nhật Bản ra một thông cáo loan tin là ngày hôm trước (30/3/1939).
Nhật Bản đã quyết định đặt quần đảo Trường Sa dưới quyền kiểm soát của Nhật Bản vì lý do tại đây đã thiếu một chính quyền hành chính địa phương nên đã làm thiệt hại đến quyền lợi của Nhật Bản. Trong suốt thời gian của Chiến tranh thế giới thứ 2, Nhật Bản đã đóng quân trên hai quần đảo này cho tới khi đầu hàng quân đội Ðồng minh.
Vào cuối năm 1943, trong lúc chiến tranh đang ở mức độ ác liệt nhất thì các nhà lãnh đạo cấp cao của Hoa Kỳ, Anh và Trung Hoa Dân Quốc đã bí mật gặp nhau tại Cairo, thủ đô nước Ai Cập, từ 23 đến 27/11/1943 để thảo luận các chiến lược tiêu diệt phe Trục (Ðức- Ý- Nhật). Ngày 26/11/1943, Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt, Thủ tướng Anh Winston Churchill và Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch đã ký một bản tuyên cáo chung (thường được gọi là Tuyên cáo Cairo) trong đó có một đoạn như sau :
"Ðối tượng của các nước này (tức là của ba nước Ðồng minh) là phải tước bỏ quyền của Nhật Bản trên tất cả các đảo ở Thái Bình dương mà nước này đã cưỡng đoạt hay chiếm đóng từ khi có Chiến tranh thế giới thứ nhất năm 1914 và tất cả các lãnh thổ Nhật Bản đã cướp của người Trung Hoa, như là Mãn Châu, Ðài Loan và Bành Hồ, phải được hoàn trả Trung Hoa Dân Quốc. Nhật Bản cũng sẽ phải bị trục xuất khỏi các lãnh thổ khác đã chiếm được bằng võ lực và lòng tham".
Ðọc đoạn trích dẫn trên chúng ta thấy Tuyên cáo Cairo có hai quy định quan trọng. Thứ nhất, chỉ có các đất Mãn Châu, Ðài Loan và Bành Hồ được hoàn trả cho Trung Quốc thôi. Thứ hai, còn các lãnh thổ khác mà Nhật Bản chiếm được thì bản tuyên cáo này chỉ quy định việc trục xuất Nhật Bản, chứ không hề nói tới việc hoàn trả chúng cho Trung Quốc. Chỉ có điều đáng tiếc, và đó cũng là nguyên nhân gây ra những vụ tranh chấp về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sau này, là Tuyên cáo Cairo đã không nói các lãnh thổ khác ấy phải được hoàn trả cho nước nào.
Quyết định của Tam cường tại Hội nghị Cairo được tái xác nhận trong một hội nghị thượng đỉnh Tam cường khác nhóm tại Potsdam từ 17/7 đến 2/8/1945 để ấn định các điều kiện cho Nhật Bản đầu hàng. Tổng thống Hoa Kỳ, Thủ tướng Anh và Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc đã ra một tuyên ngôn (thường gọi là Tuyên ngôn Potsdam) ngày 26/7/1945 trong đó có ghi là "Các điều khoản của bản Tuyên cáo Cairo sẽ được thi hành".
Tại hội nghị Potsdam này các nhà lãnh đạo Tam cường đã quyết định chia Ðông Dương làm hai khu vực để cho tiện việc giải giới quân đội Nhật Bản đóng tại đây. Vĩ tuyến thứ 16 được chọn làm ranh giới : việc giải giới ở khu vực Bắc vĩ tuyến ủy thác cho quân đội Trung Hoa (quân Tưởng Giới Thạch) và ở khu vực phía Nam do liên quân Anh-Ấn đảm nhận. Vì quần đảo Hoàng Sa nằm ở giữa hai vĩ tuyến thứ 15 và 17 nên việc giải giới quân đội Nhật trú đóng ở đây thuộc thẩm quyền của quân Tưởng. Trái lại, việc giải giới ở quần đảo Trường Sa phải do liên quân Anh-Ấn đảm nhận do lẽ quần đảo này nằm giữa hai vĩ tuyến thứ 8 và 12.
Nhật Bản khi đầu hàng đã chịu điều kiện quy định trong bản Tuyên cáo Cairo và ghi nhận trong Văn kiện đầu hàng ngày 2/9/1945. Ðồng thời, khi ra lệnh cho quân đội Nhật Bản ở nước ngoài đầu hàng và nộp vũ khí cho quân đội Ðồng minh, Nhật hoàng Hirohito đã ban hành Tổng Mệnh lệnh số 1, trong đó Điều I khoản (a) qui định là :
"Các tư lệnh Nhật Bản và tất cả lục, hải quân cùng các lực lượng phụ thuộc ở trên đất Trung Hoa (ngoại trừ Mãn Châu), Ðài Loan và Ðông Pháp ở 16 độ bắc vĩ tuyến đầu hàng Ðại Nguyên soái Tưởng Giới Thạch".
Bản Tuyên cáo Cairo và Tuyên ngôn Potsdam hoàn toàn không đề cập tới vấn đề hoàn trả cho Trung Quốc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Nhật Bản đã xâm lược vào đầu Chiến tranh thế giới thứ 2. Sự thiếu sót này có phải là do các nhà lãnh đạo đồng minh sơ ý hay quên không ? Lẽ dĩ nhiên là không. Trái lại, chúng ta phải giải thích là các nhà lãnh đạo Tam cường đã không quan niệm hai quần đảo này là phần lãnh thổ của Trung Quốc. Ðiểm đặc biệt đáng chú ý hơn nữa là chính Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc, Ðại Nguyên soái Tưởng Giới Thạch, đã tham dự cả hai hội nghị và đã ký vào cả Tuyên cáo Cairo lẫn Tuyên ngôn Potsdam, chứ không phải một người đại diện nào khác để nói là có thể đã không thi hành đúng chỉ thị của Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc. Nếu hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thực sự thuộc chủ quyền của Trung Quốc thì không có lý gì họ Tưởng chỉ đòi hoàn trả có Mãn Châu, Ðài Loan và Bành Hồ thôi mà lại không đòi luôn Hoàng Sa và Trường Sa. Hơn nữa, trong bản văn của Tuyên cáo Cairo và Tuyên ngôn Potsdam chúng ta cũng không thấy từ "vân vân" để có thể nói là vấn đề đã được bao hàm trong hai văn kiện này.
Mười hai năm sau khi tham dự Hội nghị Cairo và ký bản Tuyên cáo, ngày 8/2/1955 Tưởng Giới Thạch vẫn còn nhắc lại là :
"Trong thông cáo công bố vào lúc bế mạc hội nghị, chúng tôi đã tuyên bố là tất cả các lãnh thổ do Nhật Bản ‘cướp’ của Trung Hoa, kể cả Ðông Tam Tỉnh, Ðài Loan và Bành Hồ phải được hoàn trả lại cho Trung Hoa Dân Quốc. Lời tuyên bố này đã được bản Tuyên ngôn Potsdam công nhận và Nhật Bản chấp nhận khi nước này đầu hàng".
Một lần nữa, ông hoàn toàn không nói gì đến việc phải hoàn trả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc. Vào lúc ông nói lời trên ông không phải là không biết có sự tranh chấp về chủ quyền đối với hai quần đảo này mà cả chính phủ của ông lẫn chính phủ của Mao Trạch Đông đang đòi.
Như chúng ta được biết, cả Tuyên cáo Cairo lẫn Tuyên ngôn Potsdam chỉ cho phép Trung Hoa Dân Quốc giải giới quân đội Nhật Bản ở quần đảo Hoàng Sa thôi, chứ không hề cho phép Trung Hoa Dân Quốc thu hồi quần đảo này cùng là giải giới quân đội Nhật Bản ở quần đảo Trường Sa hay thu hồi quần đảo đó. Vì thế việc chiếm đóng và thu hồi hai quần đảo này của Trung Hoa Dân Quốc là bất hợp pháp và vi phạm trầm trọng luật quốc tế vì đi trái với quyết định của Tuyên cáo Cairo và Tuyên ngôn Potsdam.
Vì các lý do vừa kể trên, chúng ta phải nhìn nhận rằng lời tuyên bố ngày 15/8/1951 của Chu Ân Lai đã mâu thuẫn với lời tuyên bố ngày 4/12/1950 cũng của họ Chu. Một bên Trung Quốc đòi các quốc gia phải tuân theo hai văn kiện quốc tế này và các chính sách căn bản đối với Nhật Bản sau khi nước này đầu hàng, trong đó việc chia đôi Ðông Dương để giải giới quân đội Nhật Bản đóng tại đây cũng là một chính sách căn bản, một bên lại cho việc tiếp thu hai quần đảo không hề được qui định trong hai văn kiện quốc tế là một hành vi hợp pháp.
Thực vậy, điều 2 của Hòa ước San Francisco sau khi đã nói về việc Nhật từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và đòi hỏi đối với tất cả các lãnh thổ nào không phải là lãnh thổ chính của Nhật Bản mà nước này đã chiếm được từ khi có Chiến tranh thế giới thứ nhất cho đến khi chấm dứt Chiến tranh thế giới thứ 2 đã quy định thêm trong đoạn (f) như sau :
"Nhật Bản khước từ mọi quyền, danh nghĩa và đòi hỏi trên quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa".
Các qui định trong điều 2 như vậy đã theo đúng với quyết định của Hội nghị Cairo năm 1943 được diễn tả trong bản Tuyên cáo Cairo mà Trung Quốc vẫn luôn đòi phải được coi là căn bản chính cho một hòa ước ký với Nhật Bản đã nói ở bên trên. Nói cách khác, chính Trung Quốc đã coi quyết định của các đại cường là hợp lý, hợp tình và hợp pháp.
Về quan điểm của Trung Quốc đối với vấn đề giá trị của hai văn kiện quốc tế quan trọng này, chúng ta đã thấy :
(a) khi cuộc tranh luận tại Liên Hiệp Quốc về địa vị của đảo Ðài Loan đang tiến hành, ngày 24/8/1950 Trung Quốc đã gửi một bức công điện cho tổ chức quốc tế này trong đó có đề cập tới Tuyên cáo Cairo và Tuyên ngôn Potsdam mà các quốc gia ký kết phải tôn trọng và tuân hành ;
(b) hoặc như qua lời tuyên bố ngày 4/12/1950 của Chu Ân Lai nói trên ;
(c) cũng như trong lời tuyên bố ngày 15/8/1951 của Chu Ân Lai như sau :
"Dù xét về thủ tục mà hòa ước được chuẩn bị hay về nội dung, ta thấy Dự thảo Hòa ước Anh-Mỹ trắng trợn vi phạm các thỏa ước quốc tế quan trọng, mà Anh-Mỹ đều là phe kết ước, như là bản Tuyên cáo Cairo, bản Tuyên ngôn Potsdam...
Vi phạm sự thỏa thuận theo bản Tuyên cáo Cairo và bản Tuyên ngôn Potsdam, Dự thảo Hòa ước chỉ qui định là Nhật Bản sẽ khước từ các quyền đối với Ðài Loan và Bành Hồ".
Hòa ước San Francisco là một văn kiện quốc tế nhằm thi hành những quyết định của Hội nghị Cairo 1943, nó cũng phải có hiệu lực như bản Tuyên cáo Cairo.
Hơn một tháng sau khi lên tiếng ngày 15/8/1951 về vấn đề chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nói trên, khi bình luận về việc ký Hòa ước San Francisco, trong một thông cáo của Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 18/9/1951, Chu Ân Lai không hề nói gì về vấn đề hai quần đảo này cả mà chỉ lập lại lập trường cũ, phủ nhận giá trị và hiệu lực của hòa ước vì đã được ký kết mà không có sự tham dự của Trung Quốc.
Sự im lặng này càng khó hiểu hơn nữa khi chắc chắn là Trung Quốc phải biết rằng Hội nghị San Francisco đã bác bỏ đề nghị của phái đoàn Liên Xô đòi trao trả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc và về phản ứng của phái đoàn Quốc gia Việt Nam.
Thực vậy, ngày 5/9/1951, trong phiên họp khoáng đại hội nghị thứ 2 của hội nghị San Francisco, đại biểu Liên Xô Andrei A. Gromyko sau khi chỉ trích tính cách bất hợp pháp và sự vô nghĩa của bản dự thảo hòa ước của Anh-Mỹ để ký với Nhật Bản đã đưa ra một đề nghị bảy điểm gọi là để hướng dẫn việc ký kết hòa ước thực sự với Nhật Bản. Ðiểm 6 đề nghị trao trả hai quần đảo này cho Trung Quốc. Nhưng hội nghị đã bác bỏ yêu cầu này với với 46 phiếu chống (3 phiếu thuận là Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc, 1 phiếu trắng và 1 không bỏ phiếu).
Hai ngày sau, 7/9/1951 Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần văn Hữu, trưởng phái đoàn Quốc gia Việt Nam, đã lên tiếng tái xác định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước 51 phái đoàn ngoại giao như sau :
"Et comme il faut franchement profiter de toutes occasion pour étouffer les germes de discorde, nous afirmons nos droits sur les iles Spratley et Paracels qui, de tout temps, ont fait partie du Viet-Nam".
(Tạm dịch là : "Cần nói thật rằng phải lợi dụng tất cả mọi trường hợp để chặn đứng những mầm xung đột, chúng tôi xác nhận chủ quyền của chúng tôi trên các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, đã luôn luôn từ xưa thuộc lãnh thổ Việt Nam").
Lời tuyên bố đó đã được Hội nghị San Francisco long trọng ghi vào biên bản và trong tất cả 51 phái đoàn, không có một phái đoàn nào phản đối.
Sự im lặng lại càng trở nên khó hiểu hơn nữa khi trong bản tuyên bố ngày 5/5/1952 về hòa ước mà Trung Hoa Dân Quốc đã ký với Nhật Bản ngày 28/4/1952, Chu Ân Lai không nói gì đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mặc dù hai quần đảo này đã được đề cập tới trong điều 2 của hòa ước như sau :
"Ðiều 2. Hai bên nhìn nhận là theo điều 2 Hòa ước với Nhật Bản ký ngày 8 tháng chín năm 1951 tại San Francisco ở Hoa Kỳ, Nhật Bản đã khước từ mọi quyền, danh nghĩa hay đòi hỏi liên quan đến Ðài Loan (Formosa) và Bành Hồ (the Pescadores), cũng như quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa".
Theo điều khoản này, Nhật Bản chỉ nhắc lại việc khước từ chứ không nói rõ là Nhật Bản hoàn trả hai quần đào này cho Trung Hoa Dân Quốc. Chính vì vậy trên trang mạng Japan Focus ngày 21/03/2009 đăng nghiên cứu của Kimie Hara cho rằng các vụ tranh chấp trên Thái Bình Dương từ Đông Bắc xuống Đông Nam Á, gồm cả vùng Trường Sa, là di sản của Hiệp ước San Francisco năm 1951.Bài viết nói các cường quốc sau Thế Chiến 2 đã không ghi rõ chi tiết chủ quyền nhiều đảo và quần đảo qua việc đặt tuyến phân ranh giới Acheson Line. Sau đó, tác động của việc hoạch định lằn ranh bao vây nước Trung Hoa cộng sản và Bắc Triều Tiên lại tạo thêm sự phức tạp cho vấn đề. Tác giả cho rằng nay, để giải quyết các vấn đề, mọi bên đều cần có sự nhượng bộ và giải pháp đa phương, gồm cả Nhật Bản, nước thua trận trong Thế Chiến 2.
Kết luận
Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần lên tiếng khẳng định chủ quyền của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa. Mới đây nhất, ngày 25/5/2023, trả lời câu hỏi phóng viên đề nghị cho biết phản ứng của Việt Nam trước việc Trung tâm Bảo đảm an toàn hàng hải (Bộ Giao thông vận tải Trung Quốc) tiến hành lắp đặt ba phao đèn báo hiệu tại một số thực thể thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng nhấn mạnh : "Việc lắp đặt phao đèn báo hiệu tại các thực thể ở quần đảo Trường Sa mà không được sự đồng ý của Việt Nam là vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này, vì vậy không có giá trị pháp lý".
Tất cả các vấn đề trên là quá rõ ràng, những luận cứ và luận chứng mà Chính phủ Trung Quốc đưa ra trong vấn đề hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa của Việt Nam chỉ có thể lừa được một số người chứ không thể phủ nhận được các văn kiện của Bản Tuyên cáo Cairo, Thỏa ước Yalta, bản Tuyên ngôn Potsdam và sự thật lịch sử. Chính phủ Trung Quốc hãy chấm dứt ngay mọi hành động xâm lược lãnh thổ của Việt Nam.
Đinh Kim Phúc
Biển Đông : Tàu Trung Quốc vẫn không rời khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam
Trọng Nghĩa, RFI, 26/05/2023
Chỉ 24 tiếng đồng hồ sau khi Hà Nội lên tiếng đòi Bắc Kinh rút tàu của Trung Quốc khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trên Biển Đông, Bắc Kinh hôm 26/05/2023, đã bác bỏ yêu cầu của phía Việt Nam, cho rằng tàu Trung Quốc chỉ hoạt động "bình thường" trong vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc.
Ảnh tư liệu chụp ngày 15/05/2014 : Tàu Hải cảnh Trung Quốc (trắng) và tàu cảnh sát biển Việt Nam (xanh lơ) đối đầu nhau tại khu vực giàn khoan Hải Dương 981 ở Biển Đông. AP - Hau Dinh
Theo hãng tin Anh Reuters, trong cuộc họp báo thường kỳ tại Bắc Kinh, khi trả lời câu hỏi về việc Hà Nội yêu cầu tàu Trung Quốc rời khỏi vùng biển của Việt Nam, phát ngôn viên bộ Ngoại giao Trung Quốc Mao Ninh khẳng định : "Các tàu liên quan của Trung Quốc đang tiến hành các hoạt động bình thường trong phạm vi quyền tài phán" của Trung Quốc. Phát ngôn viên này không ngần ngại đe dọa Việt Nam, khi cho biết là Bắc Kinh đã duy trì liên lạc với các bên liên quan và sẽ bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của mình.
Theo ghi nhận của Reuters, vào hôm qua, 25/05, Hà Nội đã có một tuyên bố công khai hiếm hoi tố cáo tàu khảo sát Trung Quốc Hướng Dương Hồng 10, cùng các tàu hộ tống bao gồm tàu Hải Cảnh và tàu cá, xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, đồng thời yêu cầu Bắc Kinh rút các tàu này ra khỏi vùng biển của Việt Nam. Theo phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Việt Nam Phạm Thu Hằng, Trung Quốc phải tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam.
Reuters trích dẫn ông Ray Powell, người đứng đầu Dự Án Myoushu của Đại Học Mỹ Stanford về Biển Đông, cho biết là tàu Trung Quốc bắt đầu hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam từ ngày 07/05 vừa qua gần các lô dầu khí mà Việt Nam cùng với Nga khai thác.
Theo ông Powell, hôm qua, ngay khi bị Việt Nam yêu cầu rời đi, tàu Trung Quốc đang ở khu vực lô 129, do Vietgazprom điều hành. Hôm nay, Trung Quốc vẫn phớt lờ yêu cầu của Việt Nam, tàu Hướng Dương Hồng và 5 tàu hộ tống lại đi vào vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam, gần các lô khí đốt mà các công ty Nga khai thác. Đội tàu Trung Quốc đã bị 2 tàu kiểm ngư của Việt Nam theo sát ở khoảng cách 200-300 mét.
Cũng theo Reuters, dữ liệu của nhóm Dự Án Đại Ký Sự Biển Đông, một tổ chức phi lợi nhuận độc lập, cho thấy là kể từ ngày 07/05, tàu nghiên cứu của Trung Quốc, đôi khi được hàng chục tàu hộ tống, đã di chuyển phần lớn qua lô khí đốt 04-03, do Vietsopetro, một liên doanh giữa Zarubezhneft và PetroVietnam, vận hành.
Tàu Trung Quốc cũng thường xuyên đi qua các lô 132 và 131 mà Việt Nam đã cấp phép cho Vietgazprom, một liên doanh giữa tập đoàn Nga Gazprom và PetroVietnam. Đây là hai lô mà Trung Quốc cho là nằm trong vùng biển của họ và đã cho đấu thầu để cấp phép khai thác.
Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với hầu hết Biển Đông, bao gồm cả các khu vực nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Trọng Nghĩa
************************
Việt Nam phản đối Trung Quốc cho lắp đặt phao đèn báo hiệu tại quần đảo Trường Sa
RFA, 26/05/2023
Bộ Ngoại giao Việt Nam hôm 25/5 lên tiếng phản đối việc Trung Quốc cho lắp đặt ba phao đèn báo hiệu tại khu vực quần đảo Trường Sa đang tranh chấp giữa các nước, gọi đây là hành động vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này.
Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Thu Hằng.
Hôm 24/5, Trung tâm Bảo đảm an toàn hàng hải, Bộ Giao thông Vận tải Trung Quốc lắp đặt ba phao đèn báo hiệu tại một số thực thể ở quần đảo Trường Sa bao gồm Đá Cá Nhám, Đá Ba Đầu và Đá Gaven.
thông báo của Bộ Giao thông Trung Quốc cho biết, các thiết bị này để đảm bảo sự an toàn đi lại của tàu thuyền.
Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Thu Hằng nhấn mạnh : "Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử để khẳng định chủ quyền của mình đối với quần đảo Trường Sa, cũng như quần đảo Hoàng Sa phù hợp với luật pháp quốc tế.
Việc lắp đặt phao đèn báo hiệu tại các thực thể ở quần đảo Trường Sa mà không được sự đồng ý của Việt Nam là vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này, vì vậy không có giá trị pháp lý.
Người đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam yêu cầu các bên liên quan không có hành động làm phức tạp tình hình, tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, tôn trọng luật pháp quốc tế, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biến Đông (DOC), giữ gìn môi trường hòa bình, ốn định và hợp tác ở Biển Đông".
Trước đó, vào hồi đầu tháng này, Philippines cũng đã thả các phao định vị mang cờ của nước này trong khu vực đặc quyền kinh tế của Philippines.
Tuần duyên Philippines hôm 14/5 cho biết nước này đã thả năm phao định vị hàng hải tại năm khu vực ở Biển Đông bao gồm Đá Ba Đầu và cụm Sinh Tồn của quần đảo Trường Sa, nơi Việt Nam cũng đòi chủ quyền.
Việt Nam sau đó cũng đã lên tiếng phản đối hành động này của Philippines.
***************************
Tàu Trung Quốc phớt lờ yêu cầu của Việt Nam về việc rời khỏi khu vực gần mỏ khí đốt của liên doanh Việt - Nga
Reuters, VOA, 26/05/2023
Một tàu nghiên cứu của Trung Quốc và năm tàu hộ tống vẫn còn ở trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam hôm thứ Sáu (26/5) gần các lô khí đốt do các công ty Nga khai thác ở Biển Đông, một ngày sau khi Việt Nam yêu cầu các tàu này rời đi, theo Reuters.
Tàu nghiên cứu Hướng Dương Hồng 10 (Xiang Yang Hong 10), với sự hộ tống của hai tàu hải cảnh 4303 và 5303 cùng một số tàu dân quân biển đã đi vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam.
Tàu Hướng Dương Hồng 10 (Xiang Yang Hong 10) của Trung Quốc bắt đầu hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vào ngày 7/5, đánh dấu sự xâm phạm đáng kể nhất kể từ năm 2019, theo ông Ray Powell, người đứng đầu Dự án Myoushu trên Biển Đông của Đại học Stanford, Mỹ.
Ông Powell nói hành vi của Trung Quốc và phản ứng của Việt Nam là một "sự leo thang đáng lo ngại".
Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với hầu hết các vùng biển giàu năng lượng ở Biển Đông, bao gồm cả các khu vực nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Cuộc đối đầu năm 2019 kéo dài hơn ba tháng và chủ yếu nhắm vào một lô do công ty dầu mỏ nhà nước Nga Rosneft điều hành. Chưa đầy hai năm sau đó, Rosneft đã bán lô này của mình ở Biển Đông cho công ty Zarubezhneft do nhà nước Nga sở hữu, công ty vận hành một số mỏ khí đốt đang diễn ra tranh chấp.
Trong những tuần qua kể từ ngày 7/5, tàu nghiên cứu Trung Quốc, đôi khi có hàng chục tàu hộ tống, đã di chuyển phần lớn qua lô khí đốt 04-03, do Vietsovpetr, một liên doanh giữa Zarubezhneft và PetroVietnam, theo dữ liệu của Sáng kiến Biên niên sử Biển Đông (SCSCI), một tổ chức phi lợi nhuận độc lập theo dõi sự vận hành của tàu thuyền, cung cấp cho Reuters.
Tàu nghiên cứu này cũng thường xuyên đi qua các lô 132 và 131 mà Việt Nam đã cấp phép cho Vietgazprom, một liên doanh giữa tập đoàn khổng lồ Gazprom của Nga và PetroVietnam.
Ba công ty nêu trên và đại sứ quán Nga tại Hà Nội không trả lời ngay lập tức các yêu cầu bình luận của Reuters.
Trả lời câu hỏi về sự phản đối này [của Việt Nam], bà Mao Ninh, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, cho biết Trung Quốc có chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa và các vùng biển lân cận, cũng như quyền tài phán đối với các vùng biển liên quan.
"Các tàu liên quan của Trung Quốc thực hiện các hoạt động bình thường dưới quyền tài phán của Trung Quốc. Điều đó phù hợp và hợp pháp, và không có chuyện đi vào vùng đặc quyền kinh tế của các nước khác", bà nói trong một cuộc họp báo thường kỳ.
Bà Mao cho biết Trung Quốc đã duy trì liên lạc với các bên liên quan về vấn đề này và muốn hợp tác với họ để "cùng nhau bảo vệ hòa bình và ổn định của Biển Đông", đồng thời nói thêm rằng Trung Quốc "chắc chắn sẽ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình".
Hôm thứ Năm (25/5), khi Việt Nam đưa ra một tuyên bố công khai hiếm hoi yêu cầu các tàu Trung Quốc rời đi khi các tàu này đang ở lô 129, cũng do Vietgazprom điều hành, theo ông Powell.
"Việt Nam yêu cầu các cơ quan liên quan phía Trung Quốc tuân thủ nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai nước, chấm dứt ngay hoạt động xâm phạm, rút tàu Hướng Dương Hồng 10 và các tàu hải cảnh, tàu cá ra khỏi vùng biển Việt Nam, tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam", phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng nêu rõ trong tuyên bố của chính phủ.
Tuyên bố này được đưa ra sau chuyến thăm Hà Nội hôm thứ Hai (22/5) của cựu Tổng thống Nga và Phó Chủ tịch Hội đồng An ninh Nga Dmitry Medvedev.
Nhận định về động thái mới nhất này, nhà nghiên cứu Biển Đông Đinh Kim Phúc ở Tp. Hồ Chí Minh, chia sẻ với VOA hôm 26/5:
"Đây là một phép thử của Trung Quốc xem Nga có đồng ý rút ra khỏi khu vực khai thác này hay không, hay là vẫn tiếp tục khai thác bất chấp sự đe dọa của Trung Quốc, và Trung Quốc cũng đang chờ Nga lên tiếng về việc này".
"Chúng ta cũng thấy rõ rằng chuyến thăm của ông Medvedev đến Hà Nội, tôi nghĩ rằng cũng có khả năng hai bên Việt Nam và Nga đã có những ý kiến về vấn đề này!", ông Phúc nêu nhận định cá nhân.
Ông Powell cho biết hai tàu kiểm ngư Việt Nam hôm thứ Sáu (26/5) đã theo dõi các tàu Trung Quốc ở khoảng cách 200-300 mét, đồng thời lưu ý rằng các tàu Trung Quốc đã di chuyển đến một khu vực liền kề với các tàu do các công ty Nga điều hành, theo Reuters.
Theo quy tắc quốc tế, các tàu thuyền được phép đi qua vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia khác, nhưng các hoạt động này của Trung Quốc từ lâu đã bị Việt Nam và các quốc gia khác có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông, bao gồm cả Philippines và Malaysia, coi là hoạt động manh tính thù địch.
(Bài viết sử dụng bản tin của Reuters)
***************************
Các tàu Trung Quốc phớt lờ yêu cầu rút khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam
RFA, 26/05/2023
Một tàu nghiên cứu của Trung Quốc và năm tàu hộ tống vẫn còn trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam hôm 26/5 gần các lô khí đốt do các công ty Nga khai thác ở Biển Đông, một ngày sau khi Hà Nội thúc giục các tàu này rời đi.
Đường đi của tàu Hướng Dương Hồng của Trung Quốc trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam từ ngày 7 đến 26/5/2023 - MarineTraffic/RFA
Tàu Xiang Yang Hong 10 (Hướng Dương Hồng 10) của Trung Quốc bắt đầu hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vào ngày 7/5, đánh dấu sự xâm phạm đáng kể nhất kể từ năm 2019, theo Ray Powell, người đứng đầu Dự án Myoushu của Đại học Stanford về Biển Đông.
Ông nói hành vi của Trung Quốc và phản ứng của Việt Nam là một "sự leo thang đáng lo ngại".
Cuộc đối đầu năm 2019 kéo dài hơn ba tháng và phần lớn nhắm vào một lô do công ty dầu mỏ Rosneft của nhà nước Nga vận hành. Chưa đầy hai năm sau đó, Rosneft đã bán tài sản của mình ở Biển Đông cho công ty nhà nước Zarubezhneft cũng của Nga, công ty vận hành một số mỏ khí đốt đang diễn ra tranh chấp.
Trong những tuần qua kể từ ngày 7/5, tàu nghiên cứu Trung Quốc, đôi khi có hàng chục tàu hộ tống, đã di chuyển phần lớn qua lô khí đốt 04-03, do Vietsovpetro, một liên doanh giữa Zarubezhneft và PetroVietnam, vận hành, theo dữ liệu theo dõi tàu biển được chia sẻ với Reuters bởi Dự án Đại Sự Ký Biển Đông (SCSCI), một tổ chức phi lợi nhuận độc lập.
Tàu này cũng thường xuyên đi qua các lô 132 và 131 mà Việt Nam đã cấp phép cho Vietgazprom, một liên doanh giữa tập đoàn khổng lồ Gazprom của Nga và PetroVietnam. Trung Quốc đã đưa ra các hồ sơ dự thầu cạnh tranh để cấp phép cho hai lô đó.
Ba công ty và đại sứ quán Nga tại Hà Nội đã không trả lời ngay lập tức các yêu cầu bình luận của Reuters.
Hôm thứ năm, khi Việt Nam đưa ra một tuyên bố công khai hiếm hoi yêu cầu các tàu này rời đi, thì các tàu này đang ở lô 129, cũng do Vietgazprom điều hành, theo ông Powell.
Tuyên bố này được đưa ra sau chuyến thăm Hà Nội hôm thứ hai của cựu Tổng thống Nga và Phó Chủ tịch Hội đồng An ninh Nga Dmitry Medvedev.
Ông Powell cho biết hai tàu kiểm ngư Việt Nam hôm 26/5 đã theo dõi các tàu Trung Quốc ở khoảng cách 200-300 mét, đồng thời lưu ý rằng các tàu Trung Quốc đã di chuyển đến một khu vực liền kề với các tàu do các công ty Nga điều hành.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm 26/5 nói rằng họ đã duy trì liên lạc với các bên liên quan và sẽ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, sau khi Việt Nam cáo buộc một tàu khảo sát dầu khí của Trung Quốc và các tàu hộ tống vi phạm chủ quyền của họ.
Bà Mao Ning, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, cho biết trong cuộc họp báo thường kỳ ngày 26/5 khi trả lời câu hỏi về việc Việt Nam yêu cầu tàu Trung Quốc rời khỏi Biển Đông :
"Trung Quốc có chủ quyền đối với quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và các vùng biển lân cận, đồng thời có quyền tài phán đối với các vùng biển liên quan.
Các tàu liên quan của Trung Quốc thực hiện các hoạt động bình thường dưới quyền tài phán của Trung Quốc, điều đó hợp pháp và hợp lệ, đồng thời không có vấn đề gì khi đi vào vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia khác.
Chúng tôi đã duy trì liên lạc với các bên liên quan về vấn đề Biển Đông. Chúng tôi sẵn sàng giải quyết thỏa đáng những khác biệt hiện có thông qua đối thoại và tham vấn. Chúng tôi muốn cùng nhau bảo vệ hòa bình và ổn định ở Nam Hải (Biển Đông-PV). Trong khi chờ đợi, chúng tôi chắc chắn bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của Trung Quốc".
*************************
Diễn biến nhanh của Trung Quốc ở Biển Đông và ứng phó của Việt Nam
RFA, 24/05/2023
Trung Quốc trong gần cả tháng nay tăng cường hoạt động trong vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Reuters
Lâu nay, Việt Nam đã có những ứng phó như tìm cách đa dạng hóa nguồn cung vũ khí để đối phó với sự quấy nhiễu ngày càng tăng của Trung Quốc trên Biển Đông. Tuy nhiên, hành động của Hà Nội liệu có thể bắt kịp chuyển động của Bắc Kinh ?
Diễn biến mới nhất
Từ hôm 7/5 đến nay, Trung Quốc cho tàu khảo sát Hướng Dương Hồng 10 vào hoạt động khảo sát trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Trong đợt khảo sát này, có thời điểm tàu Hướng Dương Hồng 10 cách đường cơ sở Việt Nam chỉ khoảng hơn 50 hải lý.
Hôm 13/5, con tàu này rời khỏi vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. Hôm 15/5, tàu Hướng Dương Hồng 10 lại rời khỏi vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam một lần nữa và xuất hiện ở gần khu vực Đá Chữ Thập. Đến 17/5, nó bắt đầu quay trở lại vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam.
Việt Nam, vào ngày 18/5, lên tiếng phản đối Trung Quốc về những hoạt động gần đây của nước này tại khu vực Biển Đông, nói rằng "Việt Nam đã và đang triển khai các biện pháp phù hợp với luật pháp quốc tế để bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của mình".
Cập nhật về tình hình hiện tại, một nhà nghiên cứu Biển Đông, yêu cầu giấu danh tính cho biết, đến ngày 25/5, Trung Quốc vẫn duy trì tàu nghiên cứu khoa học Hướng Dương Hồng 10 cùng một tàu cảnh sát biển của nước này và một số tàu dân binh có mặt trong vùng biển đặc quyền của Việt Nam :
"Hôm nay lại đưa thông tin thêm là một tàu hải tuần của Trung Quốc đã đi vào trong khu vực gần Bãi Tư Chính.
Còn bên Việt Nam thì có một tàu cảnh sát biển và hai tàu kiểm ngư theo dõi, bám sát theo tàu này của Trung Quốc. Báo chí trong nước thì không được đưa tin về vấn đề này.
Có lẽ chính phủ Việt Nam một mặt muốn giữ quan hệ tốt với Trung Quốc, thứ hai là chuyện Trung Quốc cho tàu vào quấy nhiễu vùng đặc quyền kinh tế từ lâu lắm rồi, cho nên họ cũng chấp nhận đó là một chuyện bình thường".
Tương quan lực lượng
Vị chuyên gia giấu tên đánh giá rằng về tương quan lực lượng trên biển hiện nay giữa hai nước thì đương nhiên là Trung Quốc mạnh hơn nhiều. Không chỉ đối với Việt Nam mà tất cả các quốc gia ở Đông Nam Á cũng không thể so sánh được sức mạnh về lực lượng tàu so với Trung Quốc. Tuy nhiên :
"Trong lúc này, không ai muốn mang hải quân ra cả. Các nước chỉ sử dụng những tàu gọi là hành pháp mà thôi, chứ nếu mang hải quân ra thì chắc chắn là hành động gây chiến rồi".
Chuyên gia về quan hệ quốc tế, an ninh quốc phòng Nguyễn Thế Phương bình luận với RFA rằng hiện nay, trong quá trình hiện đại hóa quân đội, Việt Nam đang cố gắng phát triển đồng bộ vũ khí lục quân và hải quân, nhưng vẫn ưu tiên những vấn đề liên quan đến an ninh trên Biển Đông, vì đây là vấn đề lợi ích cốt lõi :
"Đối tượng tranh chấp trên Biển Đông của Việt Nam hiện nay rõ ràng nhất là Trung Quốc. Nếu nhìn vào nguồn lực thì rõ ràng là nguồn lực của Việt Nam không thể bằng của Trung Quốc, và Việt Nam hiện tại cố gắng biến năng lực của mình càng hiện đại càng tốt, chứ việc đuổi theo năng lực của Trung Quốc là điều không thể".
Ông Thế Phương cho biết, đơn thuần về mặt số lượng, vũ khí trên biển của Việt Nam chắc chỉ bằng một phần ba so với Trung Quốc, nhưng cũng cần phải tính tới hai yếu tố quan trọng khác. Thứ nhất là yếu tố con người và thứ hai là học thuyết.
Yếu tố con người là chuyện Việt Nam mua vũ khí rồi nhưng có đủ năng lực để sử dụng hay không. Còn học thuyết là những chỉ dẫn cách quân đội chiến đấu trong một cuộc chiến.
Hiện đại hóa quân sự chậm lại
Để đối phó với Trung Quốc trên Biển Đông, Việt Nam cần phải đẩy mạnh quá trình hiện đại hóa quân sự. Tuy nhiên, theo ông Phương, quá trình này đang bị chậm lại.
Thứ nhất là do thiếu tiền ; thứ hai là do quốc gia cung cấp vũ khí lớn nhất là Việt Nam là Nga đang gặp khó khăn bởi cuộc chiến trang Nga - Ukraine.
Do đó, Việt Nam hiện buộc phải đi tìm các đối tác mới. Tức là, toàn bộ quá trình tương tác với đối tác mới phải làm lại từ đầu, phải đi xem người ta bán cái gì, các quy trình mua bán như thế nào, chưa kể là còn các yếu tố chính trị khác nữa…
"Mà trong khi tình hình trên biển đó lại diễn biến quá nhanh dẫn đến phản ứng chính sách Việt Nam chưa theo kịp. Nó khiến cho quá trình hiện đại hóa quân sự chậm lại khá nhiều".
Lý giải thêm về diễn biến quá nhanh trên Biển Đông, ông Thế Phương lấy ví dụ :
"Thứ nhất là cường độ hiện diện của Trung Quốc ngày càng nhiều, ngày càng dồn dập so với cách đây năm năm. Các tàu cá, hải cảnh, tập trận và các quốc gia khác cũng đưa tàu qua lại ở khu vực này rất nhiều.
"Thứ hai là quá trình hiện đại hóa quân đội của Trung Quốc rất nhanh, không chỉ về mặt công nghệ mà còn về mặt tổ chức và cách triển khai lực lượng ở trên thực địa quá nhanh và nó khiến cho các nước nhỏ như Việt Nam, với nguồn lực như hiện nay không thể theo kịp".
Một gian hàng vũ khí của công ty an ninh Czech, tại Triển lãm Quốc phòng Việt Nam 2022 ở Hà Nội. Ảnh : Reuters
Đa dạng hóa nguồn cung
Do Nga đang bị các nước phương Tây bao vây, cô lập cho nên Việt Nam buộc phải đa dạng hóa nguồn cung vũ khí. Theo chuyên gia Biển Đông giấu tên cho biết :
"Nguồn cung vũ khí cho Việt Nam đang gặp khó khăn thì Việt Nam phải tìm nguồn khác mà nó phải tương thích với hệ thống vũ khí đó, và Ấn Độ và Czech chính là hai nước mà Việt Nam đang nhắm tới".
Theo ông Nguyễn Thế Phương, với nhu cầu cấp bách ở Biển Đông như hiện nay thì Việt Nam không thể nào không chỉ dựa vào vũ khí từ Nga. Cho nên gần đây, Việt Nam đã có động thái đàm phàn với Czech hay đi sang Hàn Quốc để các nước này bán vũ khí cho Việt Nam.
Hồi tháng tư vừa qua, Việt Nam đàm phán mua thêm khí tài từ Cộng hòa Czech. Nước này được xem có thể đáp ứng nhu cầu an ninh ngày càng tăng của Việt Nam, khi mà các hãng quân sự Czech có khả năng vượt trội trong cung cấp những khí tài cho vũ khí của Nga ; cũng như sản xuất được những trang thiết bị mới tương thích với các loại vũ khí thời Sô viết. Hiện kho vũ khí của Việt Nam có đến 80% là do Nga cung cấp.
Vào tháng 12/2022, lãnh đạo Việt Nam đến thăm Hàn Quốc để nâng cấp quan hệ hai nước. Bước tiến về ngoại giao này có thể và thúc đẩy đầu tư và bán vũ khí của Hàn Quốc cho Việt Nam, cam kết gia tăng hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh hàng hải, trật tự - trị an và công nghệ.
Ngoài chuyện đa dạng hóa nguồn cung vũ khí, Việt Nam còn thực hiện một số biện pháp khác để đối phó với Trung Quốc.
Về mặt quân sự, ông Thế Phương cho biết Việt Nam đang tự chế vũ khí ở trong nước, đặc biệt là các loại vũ khí dễ làm để hạn chế nhập khẩu, để dành nguồn lực cho chuyện khác. Thứ hai là gia hạn các loại vũ khí đã cũ :
"Ví dụ như cái máy bay mới bị rớt. Đáng lẽ cái máy bay đó đã về hưu rồi, nhưng mà Việt Nam tăng hạn để dùng, nhưng khi tăng hạn đồ cũ thì rơi là một điều có thể kể dự tính trước, không có gì ngạc nhiên cả".
Ngoài ra, từ năm năm trở lại đây, Việt Nam đẩy mạnh các hoạt động giao lưu quốc phòng. Nó cũng tạo ra một cái thế giúp tăng cường kết nối, nâng cao năng lực của Việt Nam.
Về mặt ngoại giao, Việt Nam thực hiện chiến lược "ngăn chặn chiến tranh từ sớm từ xa". Theo ông Thế Phương, đây là một vấn đề về mặt ngoại giao, Việt Nam phải làm sao cân bằng mối quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ.
"Với một nước nhỏ như Việt Nam thì Việt Nam kỳ vọng những việc làm về mặt đối ngoại sẽ ngăn chặn một cuộc xung đột có thể xảy ra ở Biển Đông, để không phải dùng tới lực lượng quân sự, vốn nói trắng ra là nếu đánh nhau là sẽ thua".
************************
Trung Quốc triển khai ba thiết bị cố định để định vị tại khu vực quần đảo Trường Sa
RFA, 24/05/2023
Trung Quốc vừa triển khai ba thiết bị định vị quanh khu vực quần đảo Trường Sa đang tranh chấp giữa Trung Quốc và các quốc gia láng giềng.
Tàu của Trung Quốc neo ở Đá Ba Đầu thuộc quần đảo Trường Sa hôm 22/4/2023 - AFP
Reuters dẫn thông báo của Bộ Giao thông Trung Quốc hôm 24/5 cho biết trung tâm an ninh biển Biển Đông của nước này đã đặt ba thiết bị gần Đá Cá Nhám, Đá Ba Đầu và Đá Gaven thuộc quần đảo Trường Sa.
Thông báo cho biết, các thiết bị này để đảm bảo sự an toàn đi lại của tàu thuyền.
Hồi đầu tháng này, Philippines cũng đã thả các phao định vị mang cờ của nước này trong khu vực đặc quyền kinh tế của Philippines.
Tuần duyên Philippines hôm 14/5 cho biết nước này đã thả năm phao định vị hàng hải tại năm khu vực ở Biển Đông bao gồm Đá Ba Đầu và cụm Sinh Tồn của quần đảo Trường Sa, nơi Việt Nam cũng đòi chủ quyền.
Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Thu Hằng khi được hỏi về phản ứng của Việt Nam trước động thái này của Philippines đã khẳng định: "Việt Nam yêu cầu các bên liên quan tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, tôn trọng luật pháp quốc tế, Tuyên bố chung về Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), có đóng góp thiết thực và tích cực cho việc duy trì hòa bình, ổn định trên Biển Đông cũng như tạo môi trường thuận lợi cho đàm phán Bộ quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC)".
Trung Quốc đặt ba đèn hiệu định hướng ở Biển Đông
Reuters, VOA, 24/05/2023
Trung Quốc đã đặt ba đèn hiệu định hướng xung quanh quần đảo Trường Sa có tranh chấp với nhiều nước ở Biển Đông.
Trung tâm an ninh hàng hải Biển Đông của Trung Quốc cho biếtđãđặt ba đèn hiệu gần Irving Reef (Đá Cá Nhám), Whitson Reef (Đá Ba Đầu) và Gaven Reef (Đá Ga Ven) thuộc quần đảo Trường Sa - Ảnh minh họa
Bắc Kinh có động thái này sau khi Philippines đặt các phao định hướng hồi đầu tháng này nhằm tuyên bố chủ quyền của mình đối với khu vực.
Bộ Giao thông vận tải Trung Quốc hôm 24/5 cho biết rằng trung tâm an ninh hàng hải Biển Đông của nước này đã đặt ba đèn hiệu gần Irving Reef (Đá Cá Nhám), Whitson Reef (Đá Ba Đầu) và Gaven Reef (Đá Ga Ven) thuộc quần đảo Trường Sa, vốn bao gồm nhiều đảo nhỏ, bãi đá ngầm và bãi cạn.
Bộ này nói rằng việc đặt đèn hiệu nhằm "đảm bảo an toàn cho hoạt động và điều hướng của các tàu".
Đầu tháng này, Philippines cũng đã đặt các phao định hướng mang quốc kỳ của nước này trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, bao gồm cả tại Whitson Reef, nơi hàng trăm tàu Trung Quốc neo đậu vào năm 2021.
Khi được hỏi về việc Philippines đã đặt các phao định hướng ở 5 khu vực trong vùng đặc quyền kinh tế của nước này để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa mà Việt Nam cũng tuyên bố có chủ quyền, Phó Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Thu Hằng hôm 18/5 nói : "Việt Nam kiên quyết phản đối mọi hành động xâm phạm chủ quyền của Việt Nam".
Việt Nam chưa lên tiếng về bước đi mới nhất của Trung Quốc nhưng mới đây cũng đã chỉ trích hành động ở Biển Đông của một tàu nghiên cứu Trung Quốc, nói rằng rằng tàu đó "xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam", và rằng Việt Nam đang triển khai "các biện pháp phù hợp" để bảo vệ các quyền của mình.
Căng thẳng gần đây đã gia tăng tại các khu vực tranh chấp ở Biển Đông, một trong những tuyến hàng hải quan trọng nhất của thế giới.
Trung Quốc đã tuyên bố chủ quyền đối với gần như toàn bộ Biển Đông, nơi Việt Nam, Đài Loan, Brunei, Malaysia và Philippines cũng tuyên bố chủ quyền.
Reuters
Nguồn : VOA, 24/05/2023
Gần đây các động thái mới của Trung Quốc trên bán đảo Đông Dương và Biển Đông dường như đã tạo ra một thế trận mới bao quanh Việt Nam.
Trung Quốc và Lào lần đầu tập trận từ ngày 9 đến 28 tháng 5, 2023 - Xinhua
Trung Quốc từ lâu đã phát triển căn cứ Hải quân Ream ở Campuchia. Hồi tháng 3/2023, Trung Quốc và Campuchia lần đầu tiên tổ chức tập trận chung. Từ ngày 9 đến 28/5/2023, Trung Quốc lần đầu tiên tổ chức tập trận chung với Lào. Trong khi Trung Quốc tập trận chung với Lào thì họ cũng đồng thời cho tàu khảo sát Xiang Yang Hong-10 xâm nhập sâu vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam từ hôm 7/5/2023, và hoạt động liên tục nhiều đợt từ đó đến nay. Đồng thời, Trung Quốc cũng thực thi lệnh cấm đánh cá trên Biển Đông đến hết mùa hè năm nay.
Các tàu Việt Nam CSB 7011, Kiểm Ngư 465 và 468 giám sát hoạt động của Xiang Yang Hong-10 khi nó quay trở lại hôm 17/5/2023. (Marine Traffic/ RFA)
Nhà nghiên cứu Raymond Powell ở Đại học Stanford chia sẻ với RFA nhận xét của mình về các hoạt động tăng cường của Trung Quốc xung quanh Việt Nam, cả trên lục địa ở phía tây và trên biển ở phía đông.
"Tại Campuchia, việc Trung Quốc phát triển Căn cứ Hải quân Ream, cũng như Sân bay Quốc tế Dara Sakor gần đó, cả hai căn cứ này đều là những điểm triển khai tác chiến tiềm năng cho lực lượng hải quân và không quân Trung Quốc. Tôi chắc chắc muốn nói rằng Việt Nam nên hết sức quan tâm và nên cảnh giác với những dấu hiệu cho thấy Campuchia có ý định mở rộng quyền tiếp cận cho các hoạt động quân sự của Trung Quốc đối với các căn cứ này.
Mục đích chính của Trung Quốc trong việc phát triển các căn cứ ở Biển Đông là phô diễn sức mạnh và kiểm soát không gian biển bằng cách sử dụng lực lượng hải quân, cảnh sát biển và dân quân biển".
Ông Nguyễn Thế Phương, nghiên cứu sinh tiến sỹ về An ninh Hàng hải và Hải quân ở Đại học UNSW Canberra, Úc, cũng nhận xét rằng căn cứ Hải quân Ream và Không quân Dara Sakor của Trung Quốc ở Campuchia thực sự có ý nghĩa chiến lược, vì chúng cách đảo Phú Quốc chỉ 20 hải lý (căn cứ Ream) và cách thị xã Hà Tiên khoảng 100 km. Những căn cứ này cũng giúp Trung Quốc dễ dàng kiểm soát Vịnh Thái Lan và vươn tầm ảnh hưởng tới eo biển Malacca.
Tuy vậy, cả hai nhà nghiên cứu Raymon Powell và Nguyễn Thế Phương đều cho rằng Trung Quốc không có ý định tìm kiếm một cuộc xung đột quân sự lớn với Việt Nam vào thời điểm này.
Ông Raymond Powell nói :
"Tôi không nghĩ rằng Trung Quốc muốn xung đột quân sự với Việt Nam. Thay vào đó, tôi nghĩ rằng họ tìm cách nâng cao thế trận chiến lược của mình để các nước láng giềng cảm thấy buộc phải ngày càng để Trung Quốc ra lệnh cho các điều khoản cam kết".
Ông Powell so sánh chiến thuật của Trung Quốc đối với Việt Nam với chiến thuật họ dùng với Phillipines. Đó là tăng cường các lực lượng quân sự áp sát biên giới trên biển hoặc trên bộ nhưng là để gây sức ép trên bàn đàm phán.
"Trung Quốc đã tìm kiếm một thỏa thuận phát triển mỏ khí đốt chung với Philippines tại Bãi Cỏ Rong. Tối cao Pháp viện Philippines đã phán quyết là thỏa thuận này bất hợp pháp vì Philippines đã bỏ quyền chủ quyền của mình trong vùng đặc quyền kinh tế. Trung Quốc nghĩ rằng họ có thể thuyết phục Philippines làm điều này bởi vì Trung Quốc mạnh hơn và có thể kiểm soát việc tiếp cận Bãi Cỏ Rong, do họ có lực lượng quân sự và bán quân sự lớn cũng như các căn cứ quân sự trên đảo Trường Sa như Đá Vành Khăn".
Ông Nguyễn Thế Phương cũng có nhận xét tương tự như vậy về chiến thuật của Trung Quốc.
"Những gì Trung Quốc đang làm ở Ream, căn cứ hải quân ở Campuchia, chỉ là một phần của chiến lược vùng xám, mà đã là vùng xám thì tức là xây dựng căn cứ quân sự nhưng không phải để đánh nhau. Họ xây dựng các căn cứ đó để gây áp lực lên các nước khác trong đó có Việt Nam.
Trung Quốc không dại gì mang quân, mang tàu đi đánh người khác lúc này. Bởi vì như thế sẽ tạo ra cớ cho các nước đối thủ can thiệp quân sự vào. Trong khi đó, với chiến thuật vùng xám, tiến dần dần theo cách "tằm ăn lá", họ có thể một mình một chợ để từng bước gây áp lực lên các nước trong khu vực".
Ông Raymond Powell phân tích lệnh cấm đánh cá trên Biển Đông trong tổng thể chiến thuật vùng xám nói chung của Trung Quốc.
"Trước hết chúng ta cần thấy là thực sự thì Biển Đông cần có một số loại quy chế có tính thường xuyên để chế tài việc đánh bắt cá nhằm bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, cần có sự phối hợp một cách hợp lý và công bằng của tất cả các bên, trong khi đó, những gì Trung Quốc đang làm là hành động đơn phương. Họ đơn phương tuyên bố và đơn phương thực thi nó.
Hành động đơn phương này diễn ra trong bối cảnh họ cũng đồng thời đưa ra yêu sách lãnh thổ. Bằng cách nói rằng chúng tôi cấm tất cả mọi hoạt động đánh bắt cá trên vĩ tuyến 12, họ thể hiện rằng họ có quyền điều chỉnh việc đánh bắt cá trên Biển Đông. Đây là cách họ nói với mọi người rằng Trung Quốc sở hữu không gian biển đó một cách chắc chắn. Bằng cách làm điều đó, họ thể hiện là mình đang làm một việc có ý nghĩa bảo tồn nguồn lợi thủy sản. Đồng thời hành động này cũng nhắm đến một điều chỉ một mình họ chấp nhận, đó là yêu sách không gian biển.
Tôi nghĩ rằng sẽ rất có ý nghĩa nếu Trung Quốc và ASEAN, hoặc thậm chí chỉ là một số quốc gia Đông Nam Á xung quanh Biển Đông, có thể cùng nhau thống nhất và đồng ý với các quy định đánh bắt cá hợp lý ở đây.
Thật không may, Trung Quốc đã đơn phương làm điều đó. Sẽ rất khó để họ quay lại và thừa nhận rằng các quốc gia khác cũng có tiếng nói khác".
Trung Quốc từ những năm 2000 đã đặt ra chiến lược "tam chủng chiến pháp", gồm chiến tranh pháp lý, chiến tranh dư luận và chiến tranh tâm lý. Nhà nghiên cứu Raymond Powell phân tích lệnh cấm đánh cá của Trung Quốc như một kiểu chiến tranh pháp lý.
"Đó là những gì chúng ta sẽ gọi là luật ? Họ đơn phương đặt ra luật, về cơ bản là luật nội địa. Và rồi bằng cách áp dụng luật nội địa của mình cho các phần của Biển Đông, họ mặc nhiên tuyên bố rằng luật nội địa của Trung Quốc áp dụng cho không gian biển đó, ngay cả khi nó nằm trong toàn bộ yêu sách đường đứt đoạn 9 đoạn mà Trung Quốc ứng xử với nó như là vùng nội thủy. Họ muốn gửi một thông điệp rằng luật nội địa của họ là cái cần phải được xem xét, thực thi.
Đối với người Trung Quốc thì Công ước của Liên Hiệp quốc về luật biển không áp dụng cho đường chín đoạn trên Biển Đông vì đây là lãnh thổ Trung Quốc. Họ muốn nói rằng họ không thể cho phép Luật biển Quốc tế quyết định những gì xảy ra ở Biển Đông".
Nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Phương cho rằng mặc dù Trung Quốc đang dần dần tạo sức ép lên Việt Nam từ cả phía đông và phía tây, nhưng ở phía tây, Việt Nam vẫn có thể bảo đảm là nguy cơ một cuộc tấn công kiểu như thời Khmer Đỏ là không cao.
"Campuchia đã nghiêng hẳn sang phía Trung Quốc. Lào đang tập trận với Trung Quốc (từ ngày 9 đến 28 tháng 5, 2023) nhưng Lào hiện vẫn đỡ hơn. Để bảo đảm an ninh ở phía tây, Việt Nam không chỉ chuẩn bị về quân sự mà còn có các biện pháp kinh tế, ngoại giao, và cả gây ảnh hưởng.
Cả căn Ream ở Campuchi và sân bay Dara Sakor gần đó là cái Việt Nam theo dõi rất kĩ. Toàn bộ phía nam biển Đông, Vịnh Thái Lan và thậm chí cả eo biển Malacca sẽ nằm trong tầm theo dõi của họ. Sau khi hoàn thành các căn cứ ở Hoàng Sa, Trường Sa và giờ là Ream ở Campuchia thì Trung Quốc đã hoàn thành một chuỗi các căn cứ trên biển.
Việt Nam cần tập trung vào hướng biển. Vì khả năng xảy ra một cuộc tấn công từ phía đất liền thì hoàn toàn không cao. Ở hướng tây, Việt Nam có thể xử lý bằng các mặt trận chính trị, đối ngoại, kinh tế chứ không chỉ bằng bằng quân sự. Nhưng phía biển Đông thì Việt Nam còn lúng túng với các biện pháp kinh tế, chính trị, đối ngoại của mình".
Trung Quốc giành giật từng ‘inch’ một, còn Việt Nam vẫn bấp bênh như một ẩn số
Hoàng Trường Sa, VOA, 13/03/2023
Với tuyên bố giữa Iran và Saudi đồng ý tái thiết quan hệ ngoại giao sau 7 năm bang giao hai nước bị đóng băng và kế hoạch 12 điểm để lập lại hòa bình đối với cuộc chiến ở Ukraine (tuy chưa dẫn đến kết quả cụ thể), rõ ràng nền ngoại giao thầm lặng của Trung Quốc đang gặt hái những kết quả có ý nghĩa.
Ngày 12/03/2023, Trung Quốc tuyên bố, họ không có động cơ ẩn tàng nào và không cố gắng lấp đầy bất cứ "khoảng trống" nào ở Trung Đông, sau khi đứng ra làm trung gian môi giới các cuộc hội đàm mà kết quả là Iran và Saudi Arabia đồng ý tái thiết lập quan hệ ngoại giao.
Trung Quốc lấp liếm động cơ dấu kín
Ngày 12/03/2023, Trung Quốc tuyên bố, họ không có động cơ ẩn tàng nào và không cố gắng lấp đầy bất cứ "khoảng trống" nào ở Trung Đông, sau khi đứng ra làm trung gian môi giới các cuộc hội đàm mà kết quả là Iran và Saudi Arabia đồng ý tái thiết lập quan hệ ngoại giao. Thỏa thuận công bố trước đó một ngày về tái thiết lập quan hệ Iran – Saudi và mở lại Đại sứ quán hai nước sau bảy năm, được coi là một chiến thắng ngoại giao lớn đối với Trung Quốc, khi các quốc gia Ả-rập vùng Vịnh nhìn nhận Mỹ đang giảm sự hiện diện của mình ở Trung Đông. Từ Bắc kinh, Bộ Ngoại giao Trung Quốc dẫn lời phát ngôn viên không nêu tên nói rằng, Trung Quốc "không theo đuổi bất kì lợi ích vị kỷ nào" và phản đối cạnh tranh địa-chính trị trong khu vực. Người phát ngôn nói Trung Quốc sẽ tiếp tục hỗ trợ các nước Trung Đông trong việc "giải quyết những khác biệt thông qua đối thoại và tham vấn để cùng nhau thúc đẩy hòa bình và ổn định lâu dài… Bắc Kinh tôn trọng vị thế của các nước Trung Đông với tư cá ch là chủ nhân của khu vực này và phản đối cạnh tranh địa-chính trị ở đây", Tuyên bố đăng trên website của Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho biết.
Trước đó ngày 11/03,nhà ngoại giao hàng đầu của Trung Quốc Vương Nghị phát biểu, thỏa thuận Iran – Saudi cho thấy, Trung Quốc là "nhà điều giải đáng tin cậy đã hoàn thành chu đáo nhiệm vụ của mình với tư cách là chủ nhà". Đáng chú ý, ông Vương cũng tuyên bố rằng "thế giới này không chỉ có vấn đề Ukraine mà còn nhiều vấn đề ảnh hưởng đến hòa bình và cuộc sống của người dân… Trung Quốc không có ý định và sẽ không tìm cách lấp đầy cái gọi là "khoảng trống" hoặc thiết lập các khối độc quyền". Ông Vương dường như ám chỉ Mỹ khi cam kết: "Trung Quốc sẽ tiếp tục đóng góp những hiểu biết và đề xuất của mình cho việc hiện thực hóa hòa bình và yên ổn ở Trung Đông và đóng vai trò là một quốc gia lớn có trách nhiệm trong quá trình này". Trung Quốc đã bị chỉ trích nặng nề vì không lên án cuộc xâm lược của Nga và cáo buộc Mỹ và NATO kích động xung đột. Một đề xuất của Trung Quốc kêu gọi ngừng bắn và đàm phán h òa bình giữa Nga và Ukraine đã không đi đến đâu, phần lớn là do nhận thức rằng Trung Quốc hậu thuẫn cho Nga. Tuy nhiên, ở Trung Đông, Trung Quốc được coi là một bên trung lập, có quan hệ chặt chẽ với cả Iran và Saudi Arabia, cũng như Israel và Palestine.
Cũng trong ngày 11/3/2023, thông tín viên của Đài RFI Stéphane Lagarde từ Bắc Kinh nhìn nhận thỏa thuận nói trên như một thắng lợi ngoại giao vẻ vang của Bắc Kinh. Theo Đài này, tuyên bố giữa Trung Quốc, Iran và và Saudi Arabia được đưa ra sau 4 ngày Bắc Kinh và hai quốc gia thù nghịch trong khu vực là Iran và Saudi Arabia bí mật đàm phán. Hình ảnh được phổ biến trên các mạng xã hội cho thấy ba cái bàn lớn, xếp hình tam giác, quốc kỳ của Saudi Arabia, Trung Quốc và Iran trên nền những bức tranh đông phương như thường được trang trí tại các sảnh đường của các tòa nhà chính thức của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Đứng giữa các đại diện cao cấp về an ninh của Teheran và Riyad, Chủ nhiệm Văn Phòng Ủy ban Đối ngoại Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc,ông Vương Nghị hoan nghênh "thắng lợi của đối thoại và hòa bình". Riyad nhiệt tình cảm ơn Chủ tịch Trung Quốc "đã hỗ trợ cho việc phát triển quan hệ giữa hai nước láng giềng Saudi Arabia và Cộng hòa Hồi giáo Iran". Còn lãnh đạo của Iran nhắc lại chuyến viếng thăm Bắc Kinh gần đây của Tổng thống Ebrahim Raissi và các cuộc trao đổi với Tập Cận Bình là nền tảng cho cuộc đàm phán vừa qua giữa hai phái đoàn Iran và Saudi Arabia.
Gặt hái của "Sáng kiến An ninh Toàn cầu" (GSI)
Thật ra, Mỹ đã tự bắn vào chân mình trong vấn đề bang giao với Iran khi Trump hủy thỏa thuận hạt nhân và trước đây đã ra lệnh ám sát vị tướng cao cấp Qasem Soleimani của họ. Chuyện bất hòa giữa Mỹ và Saudi là một câu chuyện dài khó tóm tắt, vì Saudi có dính tới vụ khủng bố 9/11 và sát hại nhà báo Jamal Khashoggi. Bây giờ là lúc nguy hiểm cho trật tự thế giới – theo giới phân tích từ Mỹ và phương Tây – khi"Trục ma quỷ" (Axis of evil) gồm Nga – Trung Quốc – Iran – Bắc Hàn – Saudi móc nối với nhau. Theo đánh giá của giới này, thế chiến thứ ba rất có thể sẽ bùng nổ từ tập hơp lực lượng mới này. Nếu để lâu hơn nữa, Trung Quốc Đại hán (nhớ rằng, cộng sản chỉ là cái vỏ bề ngoài) sẽ làm bá chủ thế giới. Trung Quốc đang rất cần nhập cảng nhiên liệu của Trung Đông, ngoài ra Trung Quốc giành giật ảnh hưởng trong vùng để cạnh tranh với Mỹ giữa lúc Biden liên tục lên án Saudi về nhân quyền này nọ. Dưới thời Trump, nhân quyền Saudi mờ nhạt, vì Trump chỉ muốn bán 450 tỉ USD hàng hóa và khí tài các nhà binh cho Saudi.
Một lưu ý khác, cả Saudi Arabia và Iran đều là những nhà cung cấp năng lượng chính cho Trung Quốc. Việc khôi phục mối quan hệ giữa họ với nhau sẽ góp phần đảm bảo an ninh năng lượng trong khu vực và điều đó có thể đóng vai trò là bức tường thành chống lại làn sóng suy thoái đang gia tăng. Suy thoái kinh tế có lẽ là không thể tránh khỏi, nhưng tác động tiêu cực của nó nếu may mắn, sẽ có thể kiểm soát được ở khu vực này. Đối với Trung Á, đó là một tin được cho là tích cực, vì Trung Quốc, Saudi Arabia và Iran đều là những đối tác truyền thống trong khu vực. Đối với cuộc chiến đang diễn ra khốc liệt ở Ukraine, thỏa thuận nói trên cũng sẽ tước đi nguồn dưỡng khí từ bất kỳ bên tham gia nào có ý đồ mở rộng phạm vi địa lý của cuộc xung đột. Tuy nhiên, đó đã phải là động thái để loại bỏ bớt một số nhiên liệu khỏi đám cháy hay chưa, khi hình thành một kiểu quan hệ mới giữa Trung Quốc, Nga, Iran và Saudi, thì cũng còn phảichờ đợi một thời gian nữa mới ngã ngũ. Dư luận lâu nay vẫn tố cáo Trung Qu ốc đang thúc đẩy các chính sách như : Sáng kiến BRI (Vành đai con đường), GDI (Phát triển toàn cầu) và GSI (An ninh toàn cầu) như là những trụ cột cho một"Trật tự Trung Hoa" nhằm thay thế Trật tự dựa trên luật lệ của Mỹ và thế giới dân chủ hiện nay. Với cái gọi là "thắng lợi của đối thoại và hòa bình" giữa Iran và Saudi Arabia (từ của Vương nghị), cũng như kế hoạch 12 điểm để tái lập hòa bình đối với cuộc chiến ở Ukraine (tuy kế hoạch này chưa dẫn đến kết quả cụ thể), giờ đây thế giới có thể nhìn thấu thị bản chất của "Sáng kiến An ninh Toàn cầu" (GSI) mà Ngoại trưởng Trung Quốc Tần Cương vừa quảng bá ầm ĩ cách đây mấy tuần.Tiếc rằng, báo chí chính thống Việt Nam chưa được phép thông tin một cách đầy đủ về mối nguy cơ hiển hiện này.
Việt Nam bấp bênh như một ẩn số
Trong cuộc giành giật nhau từng "inch" (từng tấc đất một) giữa Trung Quốc và Hòa Kỳ hiện nay, cả hai nước, đều muốn gây ảnh hưởng đến vai trò và vị thế của Việt Nam ở Đông Nam Á, đặc biệt là thông qua tổ chức ASEAN. Cạnh tranh Trung – Mỹ gần đây lên đến cao điểm trong vụ Trung Quốc do thám bằng khinh khí cầu trên bầu trời của Mỹ. Tờ Washington Post, trích nguồn ẩn danh trong chính quyền Mỹ, nói các nước "Ấn Độ, Nhật Bản, Việt Nam, Đài Loan và Philippines" ở Châu Á cũng từng là đối tượng do thám của khinh khí cầu Trung Quốc. Giới chức Mỹ nói chương trình do thám của quân đội Trung Quốcnhắm vào ít nhất 40 quốc gia và trên năm Châu lục. Mặc dầu vậy, một báo Việt Nam, tờ Lao Động hôm 09/02 trích lời người phát ngôn Bộ Ngoại giao nước này nói "Việt Nam chưa phát hiện khinh khí cầu lạ trên không phận".Người phát ngôn Đoàn Khắc Việt khi trả lời câu hỏi của báo giới còn tự tin : "Chắc chắn rằng các lực lượng chức năng của Việt Nam có đầy đủ khả năng để đảm bảo an toàn cho vùng trời, vùng biển cũng như lãnh thổ của Việt Nam". Nhưng nguồn tin của Hà Nội chỉ nhắc đến 4 nước (Nhật, Ấn, Phi và Đài Loan), v à đều thống nhất không đưa Việt Nam vào số này (!?)
Về tầm vóc độc tài và độc đoán : Việt Nam vẫn chỉ là mô hình Trung Quốc thu nhỏ
Mới đây, nhân bàn về mối tương quan giữa Việt Nam với Trung Quốc và Liên bang Nga trong bối cảnh hiện nay, tờ Nikkei Asia Review (Nhật Bản) đặt câu hỏi về hướng đi của Việt Nam sau các vụ "thanh trừng ở cấp cao" của Đảng cộng sản.Bài "How viable is Vietnam as a 'friend-shoring' destination ?" của Toru Takahashi hôm 05/03/2023 nêu rõ, các thay đổi lãnh đạo gần đây ở Việt Nam làm nổ ra quan ngại về "sự chuyển hướng về phía Trung Quốc và Nga" của Hà Nội. Bài báo nhắc đến chuyến thăm của Thủ tướng Phạm Minh Chính sang Singapore trong tháng 2/2023 và việc ông Chính tiếp bà Katherine Tai ở Hà Nội sau đó (13-14/02/2023). Đây là những động thái nhằm khẳng định Việt Nam vẫn "chào đón đầu tư nước ngoài" (open to business) và Hà Nội đã sẵn sàng tham gia sáng kiến thương mại "Khuôn khổ Kinh tế của Indo-Pacific" (IPEF) do Hoa Kỳ dẫn đầu, không có Trung Quốc. Tuy nhiên, vẫn theo bài báo, việc ông Phạm Minh Chính có còn giữ được vị trí hay không hiện vẫn là câu hỏi. Theo giới quan sát trong nước, hai năm trở lại đây Ban Tuyên giáo có những dấu hiệu muốn đưa Việt Nam về thời kỳ "tiền-đổi mới". Nhìn vào Việt Nam bây giờ, nhiều nhận xét cho rằng,Việt Nam là mô hình Trung Quốc thu nhỏ nhưng lại bấp bênh như một ẩn số. Tuyên giáo vừa đạp thắng, vừa giành tay lái. Nhiề u người đặt câu hỏi, liệu Đảng cộng sản Việt Nam, với bộ sậu mới dựng lên, sẽ dẫn đất nước đi về đâu ?
Hoàng Trường Sa
Nguồn : VOA, 13/03/2023
2023 : Năm của ‘vận mệnh tương quan’ ?
Trân Văn, VOA, 21/01/2023
Việt Nam cũng đề cập đến sự kiện ông Tập Cận Bình và ông Nguyễn Phú Trọng trao đổi Thư chúc Tết nhưng việc lược thuật nội dung Thư chúc Tết của ông Tập Cận Bình có khác với truyền thông Trung Quốc.
Thư chúc Tết của ông Tập Cận Bình không có chuyện Trung Quốc và Việt Nam "chung tương lai". Ông Tập Cận Bình chỉ đề cập đến chuyện "Trung Quốc luôn coi Việt Nam là hướng đi ưu tiên trong chính sách ngoại giao láng giềng".
Hàng không mẫu hạm (hàng không mẫu hạm) Nimitz của Mỹ và hàng không mẫu hạm Sơn Đông của Trung Quốc đang cùng tập trận trên Biển Đông. Một bên khẳng định quyết tâm giữ quyền tự do lưu thông cả ở vùng biển lẫn vùng trời của khu vực này (1). Bên kia thể hiện ý chí sẽ biến yêu sách về chủ quyền đối với toàn bộ Biển Đông thành hiện thực.
Cách nay ba tuần, cũng ở khu vực Biển Đông, hai chiến đấu cơ loại J-11 của hải quân Trung Quốc đã cắt ngang mũi một phi cơ thám sát loại RC-135 Rivet Joint của không quân Mỹ chỉ trong phạm vi sáu mét. Mỹ đã lên án hành động khiêu khích cực kỳ nguy hiểm này trong không phận quốc tế của Trung Quốc (2).
Biển Đông đã trở thành khu vực càng ngày càng nóng. Không chỉ Mỹ mà cộng đồng Châu Âu, nhiều quốc gia khác ở Châu Á, Châu Úc cũng công khai bày tỏ sự bất bình trước hành động càng ngày càng hung hăng của Trung Quốc. Số quốc gia điều động chiến đấu cơ bay qua vùng trời thuộc Biển Đông, điều động chiến hạm băng ngang Biển Đông nhằm minh định ý muốn giữ vững quyền tự do lưu thông tại Biển Đông đã và sẽ còn tăng. Chỉ có Việt Nam là gần như bất động cả trong hành động lẫn phát biểu.
***
Cuối tuần trước, báo chí Trung Quốc loan báo ông Tập Cận Bình - Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc kiêm Chủ tịch nhà nước Trung Quốc và ông Nguyễn Phú Trọng – Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam đã nhân danh hai đảng, hai nhà nước và nhân dân hai bên chúc mừng lẫn nhau nhân dịp Tết âm lịch sẽ đến vào ngày 22 tháng này.
Trong Thư chúc Tết gửi phía Việt Nam, ông Tập Cận Bình nhấn mạnh đến việc Trung Quốc và Việt Nam có "chung tương lai". Cũng theo thư này,Trung Quốc và Việt Nam sẽ gia tăng liên lạc, gia tăng hợp tác toàn diện, cùng nhau thực hiệncác chiến lược phát triển song phương, kể cả trong những vấn đề quốc tế và khu vực (3).
Trong thư, ông Tập Cận Bình khoehai bên đang thúc đẩy nỗ lực thực hiện sự đồng thuận đã đạt đượcvà nhờ vậy sẽ củng cố lòng tin của nhau về mặt chính trị và tình hữu nghị truyền thống giữa hai bên, cải thiện phúc lợi của nhân dân hai bênhiệu quả hơn. Thư chúc Tết của ông Tập Cận Bình chắc chắn đã gây hoang mang cho nhiều phía.
Việt Nam cũng đề cập đến sự kiện ông Tập Cận Bình và ông Nguyễn Phú Trọng trao đổi Thư chúc Tết nhưng việc lược thuật nội dung Thư chúc Tết của ông Tập Cận Bình có khác với truyền thông Trung Quốc. Theo đó, Thư chúc Tết của ông Tập Cận Bình không có chuyện Trung Quốc và Việt Nam "chung tương lai". Ông Tập Cận Bình chỉ đề cập đến chuyện "Trung Quốc luôn coi Việt Nam là hướng đi ưu tiên trong chính sách ngoại giao láng giềng" (4).
***
Ở một quốc gia như Trung Quốc, truyền thông không thể nhét chữ vào Thư chúc Tết của Tổng bí thư kiêm Chủ tịch Nhà nước Trung Quốc. Tuy nhiên với dân chúng Việt Nam, chuyện ông Tập Cận Bình vỗ về, rằng Trung Quốc và Việt Nam có "chung tương lai" lại là chuyện thuộc loại nhạy cảm dễ dẫn đến những phản ứng, hậu quả phức tạp không chỉ trong đối nội mà cả trong đối ngoại. Đem chuyện này ra kể trước thềm năm mới rõ ràng là không ổn và không khôn ngoan nên không giới thiệu là hơn.
Trên thực tế, sau khi ông Nguyễn Phú Trọng sang thăm Trung Quốc vào hồi cuối tháng 10 năm ngoái và trở thành chính khách đầu tiên đến thăm Trung Quốc ngay sau khi Đại hội 20 của Đảng cộng sản Trung Quốc kết thúc, bất kể tình trạng Biển Đông thế nào và cục diện quốc tế ra sao, Ngoại trưởng Việt Nam cũng đã moi phương châm "16 chữ vàng" và "tinh thần bốn tốt" ra dùng lại để chứng minh thiện chí của Đảng cộng sản Việt Nam, chính quyền Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với Trung Quốc (5).
Cả "16 chữ vàng" lẫn "tinh thần bốn tốt" (láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt) đều do Trung Quốc đề ra. Gốc của "16 chữ vàng" là "Sơn thủy tương liên. Lý tưởng tương thông. Văn hóa tương đồng. Vận mệnh tương quan" (Sông núi gắn liền. Cùng chung lý tưởng. Hòa nhập văn hóa. Có chung định mệnh) được Việt Nam chuyển thành "Láng giềng hữu nghị. Hợp tác toàn diện. Ổn định lâu dài. Hướng tới tương lai". Nói cách khác, ông Tập Cận Bình đâu có nói ngoa.
Sự hung hăng của Trung Quốc nhằm hiện thực hóa yêu sách về chủ quyền tại Biển Đông vốn khiến phương châm "16 chữ vàng" và "tinh thần bốn tốt" mà Trung Quốc đề ra và xác lập như kim chỉ nam cho quan hệ Trung – Việt đã tuyệt tích tại Việt Nam trong vài năm gần đây nhưng Việt Nam đã công khai tái xác nhận "chung tương lai" cách nay mới chừng hai tháng ! Tạm bỏ "chung tương lai" khi lược thuật Thư chúc Tết của ông Tập Cận Bình có thể chỉ là một động tác kỹ thuật để bảo đảm an toàn, an ninh dịp Tết.
***
Hôm qua – 28 tháng Chạp âm lịch là ngày 19/1/2023. Vào ngày này cách nay 49 năm, Trung Quốc cưỡng đoạt toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của người Việt. Đó cũng là ngày 75 người Việt đến nợ nước trong trận tử chiến ở Hoàng Sa. Hôm nay, một số người sử dụng mạng Việt ngữ chia sẻ tâm sự của ông Lê Thân, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, xin dẫn nguyên văn.
Những nén nhang đến muộn.
Ngày 19/1 theo thông lệ hàng năm chúng tôi đều thắp hương tưởng nhớ 75 chiến sĩ Hải quân Việt Nam Cộng hòachống Trung cộng xâm lược hy sinh ở Hoàng Sa.
Năm nay nhà cầm quyền đã trả lư hương nên hy vọng có gì đổi khác. Để có thể có mặt tại tượng Trần Hưng Đạo bến Bạch Đằng tôi ra khỏi nhà đi lánh trước ba ngày. Vậy mà khi chạy ra đường Hai Bà Trưng tôi bị "thiên lôi" chận lại. "Thiên lôi" ép tôi phải đi uống cafe. Biết không thể chống lại nên không cãi cọ mà chuẩn bị cách khác để sống chết gì cũng phải thắp hương cho được để tưởng nhớ các anh.
Hỏi thăm các anh chị em đều bị mời hoặc giữ "khéo". Một số ra được thì không mang theo nhang, lửa nên vái "chay".
Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (quốc hiệu của miền Bắc Việt Nam trước tháng 4/1975)đập nhau sứt đầu mẻ trán là việc của nội bộ người ViệtNam, chống xâm lược Trung cộng cưỡng chiếm đất đai biển đảo của tổ tiên để lại là việc của toàn dân Việt Nam không phân biệt thể chế chính trị. Không tôn vinh những người đã vị quốc vong thân là có tội với dân tộc và lịch sử.
Chiều nay tôi lại ra bến Bạch Đằng, không khí yên ắng nên làm được nghĩa vụ công dân của mình "uống nước nhớ nguồn".
Thế giới này chắc chắn không có nơi nào ngăn chặn người dân tưởng niệm những anh hùng vị quốc vong thân, không biết bao giờ nhà cầm quyền mới ngộ ra chân lý đơn giản ấy (6).
"Chung tương lai" hay "vận mệnh tương quan" liên quan đến kết quả mà Trung Quốc luôn hứa hẹn khi thảo luận với giới hữu trách ở Việt Nam - đó là giúp "công cuộcxây dựng chủ nghĩa xã hội ở ViệtNam không ngừng đạt được nhiều thành tựu mới to lớn hơn nữa". Người Việt có muốn chia sẻ cùng Trung Quốc kiểu tương lai đó cho xứ sở, cho chính mình và con cháu của mình không ?
Trân Văn
Nguồn : VOA, 21/01/2023
Chú thích
**************************
Biển Đông có yên tĩnh không ?
Trân Văn, VOA, 19/01/2023
Khi giới thiệu Thư chúc Tết của ông Tập Cận Bình gửi ông Trọng với thiên hạ, Trung Quốc cho biết, ông Bình đã nhắn ông Trọng là Trung Quốc và Việt Nam có chung tương lai.
Nimitz di chuyển ngang qua vùng tranh chấp South China Sea.
Sau khi đến Biển Đông, Hàng không mẫu hạm Nimitz và các khu trục hạm (Decatur, Paul Hamilton, Chung Hoon, Wayne E. Meyer, Shoup), tuần dương hạm Bunker Hill thuộc nhóm hộ tống Nimitz đã bắt đầu thực tập triển khai đội hình tấn công trên biển. Đợt thực tập diễn ra từ 12/1/2023 bao gồm các hoạt động phối hợp đa mục tiêu giữa các lực lượng hoạt động trên không với các lực lượng hoạt động bên trên và bên dưới mặt biển.
Hàng không mẫu hạm Nimitz từng thực hiện một chuyến hải hành đến Biển Đông hồi tháng 2/2021 và lần này đã tổ chức một đợt thực tập với qui mô lớn hơn khi quay lại Biển Đông. Trong cuộc trò chuyện với Navy Times, Chuẩn Đô đốc Christopher Sweeney – Chỉ huy trưởng Hải đoàn 11 mở rộng (bao gồm hàng không mẫu hạm Nimitz và các chiến hạm hộ tống cùng với nhân sự của Hải đoàn 9, Không đoàn hải quân 17) – khẳng định :Hải đội 11 có thể thực hiện tất cả các kiểu tấn công cả hủy diệt lẫn không hủy diệt, chỉ vô hiệu hóa khả năng của đối phương từ mọi hướng, cả trên không lẫn đại dương. Sự hiện diện và năng lực chiến đấu của chúng ta nhằmchứngtỏ quyết tâm trongviệc hợp tác với các đồng minh và đối tác của chúng ta để duy trì tựdo hàng hải.
Cùng thời điểm này, Hoàn Cầu Thời báo đưa tin, Trung Quốc đã điều động hàng không mẫu hạm Sơn Đông vào Biển Đông để thực tập phối hợp giữa việc dùng các chiến đấu cơ loại J-15 của hải quân Trung Quốc để chặn đánh những chiến đấu cơ của kẻ thù với tác xạ từ chiến hạm vào kẻ thù. Kế hoạch tập trận tại Biển Đông của Trung Quốc được loan báo và triển khai sau khi hàng không mẫu hạm Nimitz nhổ neo, cùng với các chiến hạm hộ tống rời một quân cảng ở San Diego – California hồi đầu tháng 12 vừa qua để đến Biển Đông (1).
***
Ông Lloyd Austin (Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ) cũng sắp sửa quay lại khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương. Hai tháng trước, ông Austin vừa ghé Indonesia trước khi đến Campuchia tham dự Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng. Lần đó, khi hội đàm với ông Ngụy Phương Hòa ở Seam Reap – Campuchia, ông Austin lưu ý Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc rằng, Mỹ càng ngày càng lo ngại trước những hành động càng ngày càng nguy hiểm của các chiến đấu cơ Trung Quốc ở khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương bởi điều đó gia tăng nguy cơ xảy ra tai nạn, tuy nhiên các chiến đấu cơ của Mỹ vẫn tiếp tục bay, chiến hạm của Mỹ vẫn tiếp tục di chuyển ở bất cứ khu vực nào mà luật pháp quốc tế cho phép (3).
Trong chuyến đi sắp tới đến khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương (chưa xác định ngày, giờ cụ thể), ông Austin sẽ thăm Nan Hàn và Philippines. Theo Chuẩn tướng Pat Ryder – Phát ngôn viên Bộ Quốc phòng Mỹ, mục tiêu chuyến thăm khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương của ông Austin vẫn là nhằm "tái khẳng định sẽ phối hợp với các đồng minh và đối tác để chia sẻ quan điểm chung để bảo vệ và duy trì sự tự do, cởi mở ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
Ông Austin sẽ đến Nam Hàn là vì sự hung hăng của Bắc Hàn trong việc thử hỏa tiễn và đến Philippines là vì Trung Quốc vẫn khăng khăng áp đặt yêu sách vô lối về chủ quyền ở Biển Đông. Vì những lý do đó mà ông Austin đã đến Nam Hàn, Philippines hồi 2021. Tuần trước, Bộ trưởng Quốc phòng và Ngoại trưởng Mỹ vừa tiếp Bộ trưởng Quốc phòng và Ngoại trưởng Nhật ở Washington D.C và nội dung cũng là tìm kiếm thêm biện pháp để đối phó với những đe dọa từ Trung Quốc và Nam Hàn (3).
***
Nếu chỉ theo dõi thông tin qua hệ thống truyền thông chính thức tại Việt Nam thì Biển Đông rất yên tĩnh. Có thể vì hệ thống chính trị, hệ thống công quyền tại Việt Nam muốn tạo ra cảm giác ấy để giải quyết vấn đề nhân sự và đón chào năm mới. Khi trao đổiThư chúc Tết với ông Tập Cận Bình, ông Nguyễn Phú Trọng bày tỏ, đại loại là năm nay, ông mong muốn các ban, bộ, ngành, tổ chức đoàn thể và địa phương hai nước quán triệt, thực hiện tốt các thỏa thuận và nhận thức chung cấp cao đạt được trong chuyến ôngthăm Trung Quốc vừa qua, vì sự phát triển, lợi ích của nhân dân hai nước và góp phần cho hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển trong khu vực và trên thế giới(4). Còn khi giới thiệuThư chúc Tết của ông Tập Cận Bình gửi ông Trọng với thiên hạ, Trung Quốc cho biết, ông Bình đã nhắn ông Trọng là...Trung Quốc và Việt Nam có chung tương lai (5).
Trân Văn
Nguồn : VOA, 19/01/2023
Chú thích
(3) https://www.stripes.com/theaters/us/2023-01-17/austin-korea-philippines-indopacific-8797469.html
Trung Quốc và Việt Nam từng chung "chiến hào" trong chiến tranh nóng và lạnh, nhưng nay trong bối cảnh thế giới thay đổi phức tạp ông Tập Cận Bình thấy hai nước có chung một tương lai. Ông ấy ám chỉ xã hội chủ nghĩa và cam kết thúc đẩy trong Thư chúc mừng trao đổi giữa hai ông Tổng bí thư của hai Đảng cộng sản nhân dịp Tết Nguyên đán Quý Mão 2023.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ngày 5/11/2015 - AFP
Chủ nghĩa tư bản đã cứu hai nước
Hai Đảng cộng sản Trung Quốc và Việt Nam đang tập trung quyền lực cao độ để đối phó với chủ nghĩa tư bản thân hữu để tránh sụp đổ chế độ. Đây là hệ quả của chính sách cải cách thể chế không tương thích với kinh tế thị trường. Thực tế cho thấy chủ nghĩa tư bản đã cứu hai nước có chung chế độ chính trị theo chủ nghĩa cộng sản. Và, không chỉ có vậy nó đã trở thành xu hướng phát triển không thể đảo ngược.
Trung Quốc đã tuyên bố theo chủ nghĩa xã hội từ năm 1949 nhưng ở bên bờ vực sụp đổ về kinh tế sau những thất bại bởi những chính sách hoang tưởng của Mao Trạch Đông. Nó đã được "cứu" bởi chủ nghĩa tư bản. Sự thật được kể lại rằng vào cuối những năm 1970s có mười tám người nông dân ở làng Xiaogang (tiếng Trung : 小岗村) đã thực hiện "khoán chui", sau khi hoàn thành định mức của Nhà nước, họ sẽ được phép giữ lại bất kỳ khoản thặng dư nào cho riêng mình và bán những thứ họ không cần. Hành động "mạo hiểm" vì đi ngược chính sách xã hội chủ nghĩa của Đảng cộng sản, nhưng đã mang lại kết quả thật kỳ diệu. Những nông dân này trong 1 năm đã gặt hái số ngũ cốc nhiều hơn toàn bộ ngôi làng sản xuất trong 10 năm trước đó cộng lại !
"Mô hình Xiaogang" đã là cú huých buộc Đảng cộng sản phải nới lỏng sự kìm kẹp đối với người dân và cải cách kinh tế sâu rộng, chính sách "mở cửa" và "trải thảm đỏ" cho đầu tư tư bản nước ngoài. Nền kinh tế ngày càng trở nên tự do, người dân càng trở nên giàu có hơn, hàng trăm triệu dân đã thoát khỏi đói nghèo. Hàng triệu công ty tư nhân và ngoại quốc đang hoạt động, "công xưởng thế giới" phát triển, thành phần kinh tế tư nhân đóng góp trên 60% GDP, đô thị hoá nhanh chóng…
Các xe container chở hàng chờ đợi tại cửa khẩu Hữu Nghị, Lạng Sơn, trên biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc hồi tháng 2/2020. Ảnh Reuters
"Phép màu kinh tế" thực sự thuộc về chủ nghĩa tư bản thị trường tự do và 18 nông dân dũng cảm đã liều mạng thử sức với nó. Trung Quốc đã trỗi dậy từ một trong những nước đông dân và nghèo nàn thành một quốc gia giàu nhất thế giới trong ba mươi năm. Tuy nhiên, sự giải thích về sự thành công này còn khác biệt. Các nhà cải cách biện minh rằng nhược điểm của chế độ dân chủ là ra quyết định chậm chạp bởi bị chia rẽ và đặc tính của các tập đoàn tư bản là tham lam…, và dựa vào lý thuyết chủ quyền quốc gia và tư tưởng thực dụng để tạo ra mô hình "xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc". Trong khi các nhà lãnh đạo phương Tây đã thừa nhận rằng quan niệm phát triển kinh tế thị trường sẽ dẫn đến dân chủ là ngộ nhận và sai lầm.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung quốc đã chậm lại, dân số già đi do chính sách 1 con cực đoan, chính sách ngoại giao hung hăng, xã hội tư bản thân hữu lan rộng… là do sự lãnh đạo độc đoán, chuyên quyền. Sự vận hành mô hình chính trị dưới thời Tập Cận Bình khẳng định sự kiểm soát chưa từng có đối với xã hội, đã có dấu hiệu xã hội quay trở lại quá khứ chủ nghĩa Mao. Tương lai xã hội chủ nghĩa trở nên bất định trong bối cảnh cạnh tranh ý thức hệ căng thẳng.
Sự kiện "khoán chui" ở tỉnh Vĩnh Phú, Việt Nam mở đầu cho đường lối Đổi mới năm 1986 "tương đồng kỳ lạ" với câu chuyện kể trên ở Trung Quốc tạo cú huých cho Chính sách cải cách và mở cửa. Các thế hệ lãnh đạo Đảng cộng sản coi cải cách ở Trung Quốc là tấm gương noi theo để duy trì chế độ. Mặc dù, việc áp dụng mô hình Trung Quốc còn gặp khó khăn do thiếu chủ thuyết phát triển và những yếu tố đặc thù, thậm chí còn trải qua "thập kỷ mất mát" trong những năm 2010s nhưng Việt Nam không thể buông bỏ mô hình này. Đặng Tiểu Bình khi phát động cuộc chiến tranh biên giới 1979 với Việt Nam đã ám chỉ điều này khi "tự phụ" cho rằng ông ta thấu hiểu các nhà lãnh đạo Việt Nam.
Sau giai đoạn "bất ổn kinh tế vĩ mô và thể chế" Đảng cộng sản Việt Nam đã thâu tóm quyền lực để khẳng định tại Đại hội 13 chính sách củng cố Đảng – Nhà nước mạnh để theo đuổi tăng trưởng kinh tế nhờ thị trường. Đây là một phiên bản đặc thù của mô hình Trung Quốc dựa vào tư tưởng "chủ nghĩa tân độc đoán".
Chủ nghĩa xã hội là tương lai chung ?
Việc thử nghiệm của học thuyết chủ nghĩa xã hội trong hơn thế kỷ qua đã gây ra những cuộc cách mạng đẫm máu, chiến tranh ý thức hệ, hàng chục triệu người chết và những kẻ độc tài… Như đã biết, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa sụp đổ từ cuối những năm 1990s, nhưng mô hình Trung Quốc trỗi dậy, tự coi là xã hội chủ nghĩa đặc thù, đó là lý do khiến nó vẫn nhận được sự quan tâm.
Ý tưởng chủ nghĩa xã hội đã manh nha từ cổ xưa, nhiều công trình khảo cổ học đã chứng minh điều này. Tuy nhiên, nó bùng lên để trở thành một chủ thuyết phát triển chỉ sau thời kỳ Khai sáng cách đây khoảng 250 năm. Đó là một thời điểm trong lịch sử khi các triết gia bất ngờ lật đổ giáo điều và truyền thống tôn giáo và thay thế bằng lý trí của con người. Họ nghĩ "đột phá" về tương lai loài người và, một trong ý tưởng ban đầu được biết đến là chủ nghĩa xã hội không tưởng. Và, như một lý thuyết nó phê phán sự bất công của chủ nghĩa tư bản, vẽ ra viễn cảnh tươi đẹp mà xã hội loài người cần hướng đến bằng và với những giải pháp mờ nhạt, mang tính chất thiên về "cải lương". Dù còn sơ khai và khiếm khuyết nhưng nó cũng được coi là một cơ sở của chủ nghĩa xã hội "khoa học" sau này, chủ thuyết mang tên nhà triết học nổi tiếng người Đức gốc do thái Các Mác. Ông lập luận rằng xã hội loài người tiến hoá theo năm phương thức sản xuất, từ xã hội nguyên thuỷ, chế độ nô lệ, phong kiến, tư bản và cuối cùng là cộng sản.
Bối cảnh xã hội lúc ông Mác sống là chế độ tư bản và, ông ấy đã viết "tư bản luận", một nghiên cứu công phu, chứng minh rằng sự sụp đổ của nó là tất yếu, nhưng đã không chỉ ra cụ thể cách thức đến chế độ cộng sản thế nào. Những người theo ông sau này, từ V. Lênin, J. Stalin ở nước Nga trong nửa đầu thế kỷ 20 đến Mao Trạch Đông và Hugo Chavez - kẻ khiến Venezuela bị hủy hoại bởi chính sách xã hội chủ nghĩa, đều tìm cách này hay cách khác để biến "tài sản tư" thành "tài sản công" hòng thiết kế một chế độ xã hội chủ nghĩa, như họ khăng khăng, đó là giai đoạn đầu của xã hội cộng sản…
Những người thực hành chủ nghĩa Mác đã cố tình coi chủ nghĩa xã hội là mục đích thay vì phương tiện để biện minh cho hành vi. Đó là lý do để giải thích vì sao chủ nghĩa xã hội còn hấp dẫn nhiều người dù khi thực hành lại gây ra nhiều điều ác trên thế giới. Con người vốn tin rằng họ được thúc đẩy bởi mục đích tốt. Họ nghĩ thế này : nếu có Ý tốt, thì sẽ LÀM tốt, do đó sẽ TỐT. Và, giới cai trị đã dựa vào điều này để thực hành : nếu ai chống lại, sẽ là người không có ý tốt, và không thể tốt.
Mặc dù hai nhà lãnh đạo hai Đảng cộng sản vẫn khăng khăng về chủ nghĩa xã hội là tương lai chung, tuy nhiên, trước mắt cả hai ông đang phải đối phó với chủ nghĩa tư bản thân hữu nghiêm trọng - một xã hội được hình thành như hệ quả của tư tưởng thực dụng nhờ chủ nghĩa tư bản hòng xoá nhoà ranh giới ý thức hệ. Thực tế đã chỉ ra "đường đến địa ngục cũng có thể được lát bằng những mục đích tốt", chủ nghĩa xã hội được coi là "tươi đẹp" nhưng chúng ta sẽ đến đó thế nào và bằng cái gì ?
Phạm Quý Thọ
"Chiến dịch đặc biệt sẽ tiếp tục, sẽ không dừng lại cho tới khi đạt đuợc những mục tiêu đã đặt ra".
Peskov
Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Bộ Công an, đã phán
Trong ngày 12/9, Người phát ngôn Điện Kremlin Dmitry Peskov cho biết, Nga sẽ tiếp tục tiến hành chiến dịch đặc biệt, bất chấp các nỗ lực phản công của Ukraine. Đây cũng là tuyên bố chính thức đầu tiên của Moscow trước những diễn biến bất lợi tại vùng Kharkiv.
Cũng trong ngày 12/9, Bộ Tổng tham mưu các lực lượng vũ trang Ukraine thông báo, đã thành công đẩy lùi lữ đoàn thủy quân lục chiến của Nga ra khỏi các khu vực trọng yếu tại Kherson. "Các cuộc phản công đã đem lại kết quả ngoài mong đợi, có ít nhất 85% thành viên Lữ đoàn thủy quân lục chiến số 810 của quân đội Nga không còn khả năng chiến đấu", trích thông báo của Ukraine.
Lữ đoàn thủy quân lục chiến số 810 có trụ sở chính đặt tại bán đảo Crimea. Kể từ khi chiến dịch phản công giành lại khu vực phía Nam của Ukraine diễn ra, lữ đoàn này được phân công bảo vệ phòng tuyến của các lực lượng thân Nga tại Kherson.
Trước đó, Tướng Valeriy Zaluzhnyi, Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Ukraine tối 11/9 đã tuyên bố, quân đội Ukraine đã giành lại quyền kiểm soát 3.000 km2 lãnh thổ kể từ đầu tháng 9, đang đẩy mạnh tiến công cả ở phía bắc, phía nam cũng như phía đông vùng Kharkiv và chỉ còn cách biên giới với Nga 50km.
Tuy nhiên, người phát ngôn Bộ Quốc phòng Nga Igor Konashenkov ngày 11/9 giải thích, việc binh lính Nga bất ngờ rút khỏi thị trấn Izium thuộc vùng Kharkiv thực tế nhằm "tái tập hợp lực lượng" để củng cố các tuyến phòng thủ ở khu vực Donetsk lân cận.
Với tuyên bố này, các nguồn thạo tin nói, Moscow đã điều các trực thăng lớn nhất thế giới Mi-26 lập cầu hàng không, tăng cường tiếp viện cho các đơn vị quân đội Nga ở tỉnh đông bắc của Ukraine sau khi các lực lượng Kiev chiếm được trung tâm hậu cần đường sắt Kupiansk.
Diễn biến như kể ở trên được đánh giá có ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị đối với Tổng thống Zelensky, khi ông tìm cách giữ cho Châu Âu thống nhất ủng hộ Ukraine, viện trợ cả vũ khí và tiền bạc, ngay cả khi các quốc gia trong Châu lục đang đối mặt cuộc khủng hoảng năng lượng bùng phát vào mùa đông năm nay vì Nga cắt giảm các nguồn cung khí đốt cho Châu Âu.
Cuộc chiến tranh xâm lược của Nga đối với Ukraine dường như đang đi vào hồi chung cuộc với sự "tái tập hợp lực lượng" của quân đội Nga – theo lời của Người phát ngôn Bộ Quốc phòng Nga.
Một liên tưởng dường như Nga đang là một phiên bản 2022 của Trung Quốc khi xâm lược hàng loạt các tỉnh biên giới phía Bắc của Việt Nam.
Di sản cuộc chiến 1979 : bộ đội Trung Quốc gỡ mìn ở vùng biên giới với Việt Nam nhiều năm sau chiến tranh
Kết cuộc của cuộc chiến xâm lược này, là Trung Quốc không thể "dạy cho Việt Nam một bài học" như lời Đặng Tiểu Bình đã nói. Trung Quốc không tác động được đường lối đối ngoại độc lập tự chủ của Việt Nam. Họ đã không buộc được Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia, cứu được chính quyền Pol Pot.
Trung Quốc cũng không gây được ảnh hưởng lên chính phủ Việt Nam trong vấn đề Hoa kiều, chính sách của Việt Nam đối với Trung Quốc, với Liên Xô, với Mỹ. Họ cũng không đánh bại được ý chí của người Việt Nam trong tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Cuộc chiến tranh Trung Quốc xâm lược Việt Nam, khi ấy đã làm các nước trong khu vực lo sợ về hình ảnh một nước lớn sẵn sàng đặt mình trên nước khác, sử dụng vũ lực nếu vị thế và uy lực của mình bị thách thức. Không nước ASEAN nào vui vẻ với sự trừng phạt Việt Nam của Trung Quốc.
Điểm khác biệt ở đây giữa hai cuộc chiến là nhân dân Ukraine không mơ hồ về "tình đồng chí viễn vông" với con gấu Nga.
Trong khi đó thì sau tháng 4-1975, niềm tin vào những người anh em cùng chung ý thức hệ đã làm Hà Nội mất cảnh giác, không tin bị tấn công trong cả hai cuộc chiến biên giới Tây Nam và phía Bắc.
Cuộc chiến 1979 cho thấy trong quan hệ quốc tế, lợi ích quốc gia là cao nhất, trên cả tinh thần quốc tế vô sản và nhiều khi các bên sẵn sàng sử dụng vũ lực để đạt mục tiêu chính trị.
Nói một cách khác, đó là Trung Quốc đã dạy cho Việt Nam một bài học chính trị. Bài học đầu tiên mà Việt Nam học được là Trung Quốc sẽ sử dụng vũ lực khi cần thiết để đạt được các mục tiêu chính trị quan trọng, bất kể các lời tuyên bố trong quá khứ về tình anh em, hữu nghị…
Xem ra ủng hộ Putin trong cuộc chiến xâm lược Ukraine, có khác nào cổ vũ cho Trung Quốc "dạy cho Việt Nam một bài học" như lời Đặng Tiểu Bình đã nói.
Thì sao ? Từ một tấm hình trên báo Tiền Phong, một tấm hình những người lính khiêng quan tài cựu Bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh, báo chú hình nhầm tên Bộ trưởng Phan Văn Giang. Chuyện "lỗi đánh máy" này, tưởng đơn giản nhưng không hề đơn giản chút nào và nó gợi ra nhiều vấn đề khác để suy ngẫm về an ninh quốc gia, về chủ quyền đất nước.
Đại tướng Phan Văn Giang ghi sổ tang cố tướng Phùng Quang Thanh - Ảnh Tiền Phong
Hiện trạng của đất nước hôm nay là gì ? Là những thành phố đóng băng vì giãn cách, chống dịch, những làng quê đang ngấp nghé tình trạng "vườn không" nhưng nhà chật ních người do qui định "ai ở đâu ở yên đấy" của chị thị 16, là hàng chục ngàn gia đình rơi vào bi thương, đau khổ, tan hoang, hàng ngàn nhân mạng ngã xuống và có người chết gần tháng nay chưa tìm được tro cốt… Có rất nhiều, vô cùng nhiều chuyện đau lòng xảy ra trên đất nước.
Trong lúc này, nhà cầm quyền vẫn khư khư phong tỏa và phong tỏa. Và, khác với những đợt dịch có tính nhỏ lẻ ban đầu, đợt dịch lần thứ tư này kéo dài và lan tỏa khủng khiếp, nhà cầm quyền cũng đã tỏ ra mệt mỏi vì thiếu nguồn tài chánh, đã bắt đầu có động thái kêu gọi ủng hộ, tài trợ từ các nguồn người Việt nước ngoài, các doanh nghiệp… Trong khi đó, nguồn viện trợ nước ngoài chỉ có thể viện trợ vaccine, tài chính các quốc gia cũng đang cạn kiệt vì dịch cúm, mọi thứ đều rất căng. Sau gần bốn tháng chống dịch nặng, gần hại năm chống chọi nặng/nhẹ, thứ mà người ta nhận thấy là nguy cơ sụp đổ của nền kinh tế, sức dân mỏi mệt.
Trong lúc này, Trung Quốc chính thức thể hiện tham vọng bành trướng của họ trên biển Đông một lần nữa, bất chấp các qui ước quốc tế, họ đơn phương ra qui định giám sát và quản lý các hoạt động hàng hải trên biển Đông. Điều đó cho thấy Trung Quốc đã chọn rất đúng điểm rơi để thực hiện mưu đồ bành trướng.
Bởi ngay lúc này, lực lượng quân đội gần như mất hậu phương bởi tình hình dịch bệnh, hậu phương đang kêu gọi quân đội hỗ trợ kinh phí chống dịch. Đáng sợ hơn, nạn tham nhũng đã thành dịch trong quân đội, nạn bạo lực cũng thành một thứ bệnh hoạn của quân đội. Như vậy, giả sử lúc này Trung Quốc tấn công Việt Nam thì sao ?
Điều này làm nhớ đến ba lần đánh quân Mông – Nguyên với chiến lược vườn không nhà trống của nhà Trần và nhân dân. Thời đó, chiến lược bỏ nhà, bỏ vườn để kẻ thù không có chỗ phá phách mà tìm lương thực và gây hấn với dân, khiến cho nhuệ khí quân địch mất dần rồi bất ngờ đánh úp, vu hồi, giáp công… là một chiến lược khôn ngoan, thông minh không thể thông minh hơn trong trận mạc. Đến thời đại này, thời đại của chiến tranh kĩ thuật, việc chiếm cứ và ổn định lương nhu không giống thời xa xưa, thế nhưng chiến lược vườn không nhà trống vẫn còn chỗ đứng.
Bởi đó là sự đồng lòng giữa nhà nước, quân đội với nhân dân, nhân dân chấp nhận bỏ mọi thứ để di tản theo chiến lược quân sự, theo tiếng gọi nhà nước vì cái chung. Nhưng bây giờ thì sao ? Giả sử có một cái cớ nào đó của Trung Quốc tung ra để sau đó nổ súng, tấn công Việt Nam, thì ai sẽ đứng ra đánh ? Đánh vì cái gì ? Vì nhân dân ư ? Nhân dân đang bị chính nhà nước và quân đội phong tỏa theo kiểu giới nghiêm, sống chết mặc bây và các chốt kiểm soát hành xử với nhân dân chẳng có gì là tình quân dân hay công an nhân dân, hình như họ đang tự thấy thoải mái, tận hưởng với cái cảm giác bệnh hoạn rằng họ đang quản lý, chỉ tay năm ngón, chỉ gậy điều hành điều hành và ra lệnh với nhân dân !
Thực tại Việt Nam là một thực tại tan rã, tình quân dân không còn là bao, niềm tin, mối gắn kết giữa nhà nước và nhân dân hoàn toàn không có. Cái điều mà người ta vẫn tin rằng nhân dân còn tin đảng, tin nhà nước, nếu có huyễn hoặc cũng chỉ huyễn hoặc được trước đây vài tháng, cho đến lúc này, mọi thứ niềm tin hoàn toàn mất đi bởi cách quản lý mang tính áp đặt, thiếu khoa học và không tôn trọng quyền con người từ phía chính quyền. Điều này nhanh chóng đẩy nhân dân đến chỗ rệu rã mọi thứ. Cái điều mà người ta nhầm tưởng là niềm tin của nhân dân với đảng lãnh đạo, kì thực đó là sự sợ hãi hoặc mệt mỏi, mặc kệ, nhắm mắt đưa chân của nhân dân. Ngay cả người của đảng, của nhà nước, họ cũng đang trong tình trạng nhắm mắt đưa chân, bởi họ nhìn thấy cái sai, sự bất ập, chỉ có một số người không nhìn thấy và rất cố chấp.
Thử hỏi : Có bao nhiêu bác sĩ - lãnh đạo bệnh viện không phải là đảng viên ? Có bao nhiêu cán bộ giáo dục, hiệu trưởng và giáo viên không phải đảng viên ? Thế nhưng họ đã làm gì ngoài chuyện mệt mỏi và âm thầm kêu than vì chương trình làm việc quá tệ, chế độ đãi ngộ không những thiếu hụt mà còn bị ngắt bớt. Mọi thứ rối như canh hẹ, càng làm càng sai, càng chết chóc, lây lan dịch bệnh, khủng hoảng kinh tế và rã rời cơ cấu.
Hình ảnh chú thích nhầm tên bộ trưởng quốc phòng, lấy ông đang sống ráp tên vào ông đã chết là minh chứng sinh động cho tâm thế rã rời này, dường như người ta làm để mà làm, theo một công thức có sẵn và cứ đến hẹn lại ráp, đến sự kiện lại ráp, vắng bóng của tâm trí và trách nhiệm.
Vì đâu ? Vì mọi thứ đều bị xô dạt để chạy, tăng tốc, mà càng tăng tốc thì càng mất sức mà chẳng thấy đích ở đâu cả. Bởi lộ trình đã bị chọn nhầm ngay từ đầu, và có thể vấp cạm bẫy trên đường chạy. Cái đường chạy của Việt Nam hiện nay là đường chạy chết chóc và mông muội, cạm bẫy giăng ra đã sẵn, chưa biết bao giờ là sập mà thôi. Bởi giả sử bây giờ Trung Quốc viện cớ Việt Nam gây hấn trên biển Đông để nổ súng tấn công, viện cớ bảo vệ công dân của họ ở các khu công nghiệp Việt Nam để đổ quân (đương nhiên trước lúc đổ quân và tân công đã có một kịch bản đủ để làm cớ) thì chuyện gì xảy ra ?
Chuyện xảy ra còn khó nói, nhưng có một điều là nhà nước đã tự trói tay mình bằng cách phong tỏa nhân dân mấy tháng nay, và tự biến mình thành kẻ xa lạ với nhân dân kể từ đó. Đừng quên, mặt trận nhân dân là mặt trận quan trọng nhất trong mọi mặt trận. Mặt trận này đã vỡ, chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra !
Hơn nữa, cái lý tưởng đánh vì nhân dân chắc chắn không có ở lúc này, đánh vì chủ quyền quốc gia nghe cũng rất xa vời và mơ hồ trước tình hữu nghị cộng sản và các thiết chế quyền lực tương ứng trong hệ thống. Chính cái thiết chế quyền lực tương ứng trong hệ thống cộng sản theo kiểu anh cả - em út đã nhanh chóng xóa nhòa các ranh giới chủ quyền quốc gia mặc dù ngoài miệng người ta vẫn lu loa về nó. Bởi lẽ, quyền lực chính trị khiến người ta mờ mắt, các sắp xếp hệ thống chính trị cộng sản khiến người ta ảo giác về sự lâu bền, vĩnh cửu trong quyền lực. Chỉ bấy nhiêu thôi, cũng đủ thấy tương lai chúng ta !
Và ngay lúc này, nếu chính quyền Việt Nam tiếp tục hành sự theo cách bấy lâu nay, thì chẳng bao lâu nữa, giả định này sẽ là hiện thực !
Viết từ Sài Gòn
Nguồn : RFA, 17/09/2021 (VietTuSaiGon's blog)