Trung Quốc có thể sẽ "giải phóng" Đài Loan bằng vũ lực. Việc này có thể xảy ra cùng lúc với việc "bình định" Hong Kong bằng các biện pháp "chế tài" mạnh mẽ. Đại dịch Covid-19 đã gây ra một "khoảng trống chiến lược" trên toàn thế giới. Các quốc gia Châu Âu, Châu Á… trong suốt ba tháng qua xem như "bất động". Nếu có biến cố, như Trung Quốc đổ quân chiếm Đài Loan, sẽ khó có quốc gia nào (kể cả Mỹ) dấn thân can thiệp. Mỹ có thể "bán" thêm vũ khí cho Đài Loan, hoặc cho các hạm đội đến trợ thủ với Đài Loan. Nhưng quân Mỹ không thể đổ bộ cứu giúp.
Vấn đề là Trung Quốc có thể khai thác thời cơ "ngàn năm có một" này hay không ?
Lễ thượng ký ở Đài Loan - Ảnh minh họa
Nếu so sánh dân số và ngân sách quốc phòng cán cân chênh lệch thấy quá rõ.
Ngân sách quốc phòng của Đài Loan từ nhiều thập niên nay không quá 3% GDP. Ngân sách năm 2020 dự trù là 11 tỉ đô la, phần lớn (8 tỉ đô) dành cho chi phí nhân sự và bảo trì. Phần còn lại 3 tỉ chi cho việc mua sắm vũ khí phòng vệ và đào tạo nhân sự.
Trong khi ngân sách quốc phòng của Trung Quốc năm 2020 lên đến 178 tỉ đô. Số này là số "chính thức". Con số thực sự dự đoán có thể cao hơn nhiều. Từ những năm 2000, lục địa có ngân sách dành riêng cho "vấn đề Đài Loan" lên đến 53% ngân sách quốc phòng. Nếu con số này vẫn còn giữ đến hôm nay, ngân sách Bắc Kinh dành riêng cho (giải phóng Đài Loan và các lãnh thổ khác) lên tới 90 tỉ đô la.
Nhưng thấy vậy con cá mập Bắc Kinh không dễ "nuốt" con cá "fugu" tên Đài Loan.
Trung Quốc thường hay tổ chức các cuộc diễn binh "hoành tráng", chủ ý "sô hàng" vũ khí "tối tân", với các loại hỏa tiễn siêu thanh "chống tiếp cận" và bội siêu thanh "tấn công - phòng ngự từ xa" nối với các hệ thống điều khiển C4ISR trên căn bản 5G. Các loại phi cơ, tàu ngầm, hàng không mẫu hạm… đủ thứ... Một mặt răn đe Mỹ nhưng mặt khác như khuyên thầm Đài Loan "bó giáo qui hàng" trở về với đất mẹ.
Tuy nhiên thấy vậy mà không phải vậy. Nạn tham nhũng của Trung Quốc trong lãnh vực quốc phòng cũng không thua Việt Nam. Nó là cái thùng không đáy. Chi phí để "bảo trì" khí cụ quốc phòng cứ mỗi 3 năm "ngốn" khoảng 50% ngân sách quân đội. Trong khi từ năm 1949 đến nay, Đài Loan luôn sống với sự đe dọa của Bắc Kinh mà vẫn phát triển kinh tế đều đặn. Dĩ nhiên họ có một "chiến lược phòng thủ" hữu hiệu.
Lịch-sử chiến-lược quốc-phòng của Đài-Loan có thể tóm gọn qua 3 giai-đoạn. Cả ba chỉ nhắm vào việc phòng-thủ.
Giai-đoạn đầu, sau khi mất lục-địa về phe cộng-sản 1949, Tưởng Giới Thạch củng-cố lực-lượng ở Đài-Loan và dựa vào Hoa-Kỳ vừa để tự-vệ, vừa hy-vọng (được Mỹ chống lưng) đổ quân vô lục-địa đánh đuổi "cộng phỉ" quang phục đất nước. Giai-đoạn này chiến-lược quốc-phòng của Đài-Loan là "tấn-công – phòng-ngự".
Đến thập niên 60 mộng-ước "quang-phục" ngày một xa-vời, chính-phủ Trung-Hoa Dân-Quốc cố-gắng giữ "nguyên-trạng - statu quo", tức giữ thẩm-quyền của mình trên đảo Đài-Loan và các đảo Bành-Hồ, Kim-Môn, Mã-Tổ (và đảo Ba-Bình, thuộc Trường-Sa của Việt-Nam). Chiến-lược quốc-phòng bỏ phần tấn công để chuyển sang việc "củng-cố - phòng-ngự".
Đến đầu thập-niên 90, trước đe-dọa mất còn do quyết-tâm "thống-nhất" của lãnh-đạo Bắc-Kinh, Đài-Loan đưa vào chiến-lược quốc-phòng quan-niệm "dự-phòng chiến-tranh" nhằm nghiên-cứu các khả-năng có thể xảy ra chiến-tranh.
Sách trắng quốc-phòng Đài-Loan dự-phòng 3 trường-hợp có thể xảy ra chiến-tranh "cục-bộ - régional" liên-quan đến Đài-Loan : 1/ Cộng-sản từ lục-địa xâm-lăng Đài-Loan. 2/ Việc ly-khai, đòi độc-lập của các tỉnh trong lục-địa. 3/ Tranh-chấp vùng Biển Đông.
Cả ba trường-hợp này sẽ kéo nhiều nước trong vùng Đông và Đông-Nam Châu Á vào cuộc chiến.
Giả-thuyết thứ nhất sẽ có thể xảy ra trong 2 trường-hợp : Đài-Loan (và Hong kong) tuyên-bố độc-lập hay Đài-Loan trang-bị vũ-khí nguyên-tử.
Giả-thuyết thứ hai có thể sẽ xảy ra nếu khủng-hoảng kinh-tế, chính-trị và xã-hội rộng lớn ở lục-địa làm mất uy-tín chính quyền trung-ương. Các tỉnh có truyền-thống tự-trị hay phát-triển ven biển nhân cơ-hội này để tuyên-bố độc-lập.
Giả thuyết thứ ba sẽ có thể xảy ra nếu trữ-lượng dầu-khí vùng Biển Đông được xác-định là to lớn. Việc tranh-chấp chủ-quyền Trường-Sa và vùng biển chung quanh có thể sẽ là một cái cớ để Bắc-Kinh gây chiến-tranh nhằm giải-tỏa một số khủng-hoảng kinh-tế, chính-trị hay xã-hội ở lục-địa.
Tình hình hiện tai cho thấy cả ba giả thuyết đều hội đủ các điều kiện.
Nhưng khả-năng quân-sự vượt trội không đồng nghĩa với chiến-thắng. Vấn-đề thắng hay thua cũng tùy-thuộc vào ý chí toàn dân và "nghệ-thuật" phòng-thủ.
Sau khi bị Mỹ cắt đứt ngoại-giao năm 1979, các căn-cứ quân-sự của Mỹ trên đảo lần-lượt đóng cửa và mọi kết-ước trước đó giữa Mỹ và Trung-Hoa Dân-Quốc đều trở thành vô giá-trị (caduc). Năm 1982 Mỹ còn ký-kết với Trung-Quốc sẽ giảm dần số lượng vũ khí phòng vệ bán cho Đài Loan.
Vì vậy Đài Loan phải nghĩ đến việc "tự lực tự cường", không chỉ ở việc sản xuất vũ khí phòng vệ mà còn phải phát huy khả năng răn đe nguyên tử.
Trên "giấy tờ" Đài-Loan, cũng như Nhật, không có vũ-khí nguyên-tử nhưng người ta nghĩ rằng hai nước này đã có đủ phương-tiện – kiến-thức cũng như kỹ-thuật – để chế-tạo bom nguyên-tử trong một thời-gian tương-đối ngắn.
Lịch-sử nghiên-cứu nguyên-tử của Đài-Loan bắt đầu sau khi lục-địa thử-nghiệm thành-công bom A năm 1964. Lúc này Đài-Loan vẫn còn giữ ghế thường-trực Hội-Đồng Bảo-An Liên-Hiệp Quốc.
Ban đầu Viện Nghiên-cứu Năng-lượng Nguyên-tử của Đài Loan trách-nhiệm lo cho hồ sơ này. Sau đó giao lại viện nghiên-cứu Trung-Sơn (vì nhân-sự của Viện Nghiên-cứu Năng-lượng Nguyên-tử đều thuộc viện Trung Sơn).
Thế-giới biết đến chương trình nghiên-cứu nguyên-tử của Đài-Loan từ năm 1967 và Đài-Loan buộc phải ký Công-ước Không Phổ biến Nguyên-tử (Traité de Non-Prolifération Nucléaire) tháng 7 năm 1968. Nhưng đến năm 1971 Đài-Loan bị mất ghế đại-diện tại LHQ, do đó bị trục-xuất ra khỏi AIEA (Agence Internationale de l'Energie Atomique), các công-ước đã ký-kết không còn giá-trị ràng-buộc. Nhưng do áp-lực của Mỹ, Đài-Loan ký-kết sau đó 3 công-ước liên-quan đến năng-lượng nguyên-tử. Nội-dung các công-ước Đài-Loan chỉ được nghiên-cứu nguyên-tử cho mục-tiêu dân-sự mà thôi.
Chương trình nguyên tử của Đài Loan xếp lại cho đến năm 1975, VNCH sụp đổ. Chương tình này khởi động trở lại vì phe Quốc dân đảng lo ngại Kissinger "bán đứng" Đài Loan cho lục địa (như đã bán Việt Nam Cộng Hòa cho miền Bắc). Đến năm 1976, sau nhiều áp-lực của Mỹ, các nhân-viên của AIEA mới vào kiểm-soát được các cơ-sở nghiên-cứu của Đài-Loan và tìm thấy được các bằng-chứng Đài-Loan vẫn tiếp-tục nghiên-cứu nguyên-tử nhằm mục-tiêu quân-sự.
Lập tức Mỹ yêu-cầu Đài-Loan ngưng các chương-trình nghiên-cứu này. Tuy nhiên, năm 1978, Tưởng Kinh Quốc ra lệnh tiếp-tục việc nghiên-cứu và một vụ nổ thí-nghiệm nguyên-tử cỡ nhỏ năm đã được thực-hiện tại vùng quân-sự thuộc Pingtung vào tháng 4 năm 1986. Vụ nổ này đã bị vệ-tinh do-thám Mỹ khám-phá.
Đến tháng 12 năm 1987 một vụ xì-căng-đan nổ ra : CIA đã bắt quả-tang ông Chang Hsien-yi, cấp bậc đại-tá, phó giám-đốc trung-tâm Nguyên cứu Nguyên tử với một số tài-liệu mật đang tại Hoa-Kỳ dự-tính trở về Đài-Loan.
Có tin cho rằng tháng giêng năm 1988, trong lúc Tưởng Kinh Quốc đang hấp-hối, các lực-lượng của CIA đã bí-mật tấn-công và phá-hủy các cơ-sở nghiên-cứu nguyên-tử của Đài-Loan tại trung-tâm Trung-Sơn cùng tịch-thu một số tài-liệu kỹ-thuật liên-quan đến việc chế-tạo vũ-khí nguyên-tử. Như vậy Tưởng Kinh Quốc đi về cõi chết với lời nguyền rủa Kissinger trên miệng và nỗi căm hờn người Mỹ trong tâm.
Câu hỏi đặt ra, bà tổng thống Thái Anh Văn luôn "cứng cựa" với Trung Quốc trong hồ sơ "thống nhứt đất nước" đồng thời chủ trương độc lập cho đảo quốc. Người phụ nữ "thép" của Châu Á có "bật đèn xanh" chế tạo bom nguyên tử hay chưa ?
Dĩ nhiên khó có câu trả lời. Nhưng nếu Bắc Hàn chế được thì chắc chắn Đài Loan (dư sức) chế tạo bom nguyên tử.
Vì vậy ta thấy lực lượng hải quân Trung Quốc ngày càng lớn lao, ngày càng "hiện đại". Nhưng đến nay họ vẫn chỉ "vờn quanh" mà không dám "chụp" con mồi.
Trương Nhân Tuấn
Nguồn : fb.nhantuan.truong, 25/05/2020