Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Published in

Diễn đàn

13/09/2020

Điện hạt nhân cho Việt Nam : nên hay không nên ?

Thanh Trúc - Trần Chí Thành

Việt Nam có nên tái khởi động chương trình điện hạt nhân ?

Thanh Trúc, RFA, 13/09/2020

Việt Nam nên cân nhắc để chương trình điện hạt nhân được sớm tái khởi động trong bối cảnh nguồn năng lượng nội địa suy giảm từng năm.

Đây là một trong những đề xuất của giới chuyên gia trong nước đối với Bộ Công Thương, khi mà Bộ cũng đang tham khảo ý kiến liên quan đến Tổng Sơ Đồ Phát Triển Năng Lượng Quốc Gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến 2050.

atom1

Triển lãm mô hình điện hạt nhân ở Hà Nội hôm 28/5/2010. Người tham quan xem mô hình của Tập đoàn Resenergoatom của Nga. AFP

Tại Diễn Đàn Năng Lượng Việt Nam do Bộ Công Thương tổ chức ngày 21/8, ông Nguyễn Quân, nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa Học & Công Nghệ đã phát biểu rằng hiện các nguồn năng lượng truyền thống đã cạn kiệt, cần nghĩ tới loại hình năng lượng thay thế là điện hạt nhân mà dự án liên quan bị Quốc hội Việt Nam biểu quyết đình chỉ từ tháng 11/2016.

Truyền thông Nhà nước hôm 6/9 dẫn yêu cầu của ông Trần Xuân Hòa, nguyên Chủ tịch Hội Đồng Thành Viên thuộc Tập Đoàn Than & Khoáng Sản Việt Nam, rằng việc tái khởi động chương trình điện hạt nhân phải được ghi vào bảng Tổng Kế Hoạch Năng Lượng Quốc Gia. Lý do đưa ra vì mạng năng lượng xuất khẩu càng ngày càng rộng, việc tìm kiếm nguồn cung càng ngày càng khó thì điện hạt nhân phải được coi là nguồn năng lượng chắc chắn và bền vững nhất.

Vẫn theo lời ông, so với những nguồn năng lượng mà Việt Nam đang sử dụng trước nay thì điện hạt nhân là loại hình năng lượng an toàn hơn, giá cũng thấp hơn.

Những đề xuất vừa nêu cho thấy chừng như đã đến lúc Việt Nam phải phát triển năng lượng hạt nhân vốn chưa được đưa lên hàng ưu tiên vì nhiều nguyên nhân nội và ngoại tại, là nhận định của tiến sĩ Ngô Đức Lâm, nguyên viện phó Viện Khoa Học Năng Lượng Việt Nam, hiện là một nghiên cứu gia độc lập.

Thực ra Việt Nam đã có kế hoạch đưa điện hạt nhân vào lưới điện quốc gia, tiến sĩ Ngô Đức Lâm nói, thế nhưng giai đoạn 2020-2030 không thực hiện được bởi lý do kinh phí, tài chính, nghiên cứu, an toàn, giải phóng mặt bằng, dư luận xã hội vân vân :

"Cho nên lúc đó có đề nghị tạm đình lại để sau 2030 thì bắt đầu nghiên cứu tiếp, đấy là chủ trương của Nhà Nước. Đến bây giờ nhìn cái tổng sơ đồ phát triển hệ thống điện Việt Nam từ 2020-2030 của Bộ Công Thương thì thấy trong đó có dự kiến tiếp tục đưa điện hạt nhân vào làm từ 2035 và cái mức nhỏ thôi, khoảng độ 10.000 Megawatts thôi".

"Năng lượng hạt nhân là hướng tương lai lâu dài cho đến 2050, cho nên tôi nghĩ thực ra cái đó không phải cái ưu tiên của Việt Nam".

atom2

Các nhà hoạt động chống điện hạt nhân biểu tình bên ngoài tòa đại sứ Việt Nam ở Bangkok, Thái Lan hôm 26/4/2011 Reuters

Từ lâu Việt Nam sử dụng 3 loại nhiên liệu chính để sản xuất điện, đó là than, dầu khí, thủy điện. Hàng loạt nhà máy điện than và hàng loạt đập thủy điện được xây trên cả nước để đáp ứng nhu cầu sản xuất điện.

Thế nhưng sản lượng than dùng cho các nhà máy nhiệt điện trong nước ngày càng ít đi nên Việt Nam phải nhập từ bên ngoài. Chỉ riêng 7 tháng đầu 2020, Việt Nam đã nhập 36,5 triệu tấn than, trị giá 2,6 tỷ USD.

Nguồn nhiên liệu thứ nhì là dầu khí thì mức cung năm nay chỉ đạt 25% so với mức cầu, trong lúc sản lượng dầu khí tại các nước nhập khẩu cho Việt Nam cũng đang có dấu hiệu suy giảm từ giờ đến năm 2023 do bị khai thác quá độ.

Theo báo cáo của Bộ Công Thương năm 2019, từ 2021-2025 mỗi năm Việt Nam sẽ cần từ 1 đến 4 tỷ mét khối dầu khí mới đáp ứng đủ cho việc sản xuất điện.

Hình thức thứ ba, thủy điện, chiếm ¼ tổng lượng điện quốc gia, được coi là không nguy hại như than hay dầu chuyên phát thải khí CO2, nhưng lại gây lũ quét mỗi lần xả đập.

Chính vì thế, đề xuất sớm tái khởi động chương trình điện hạt nhân trở thành vấn đề cấp bách trong những năm tháng tới.

Đối với tiến sĩ Ngô Đức Lâm, xây dụng điện hạt nhân là một qui trình phức tạp, trong lúc Việt Nam đã phát triển được năng lượng tái tạo là điện gió và điện mặt trời :

"Thực ra mà nói thì không có cái nào mà không gây ô nhiễm, tác động đến môi trường chỉ ở mức độ khác nhau thôi. Đứng về xếp hạng thì năng lượng mặt trời và năng lượng gió tốt nhất vì nó không sinh ra khí CO2 gây biến đổi khí hậu. Tuy vậy sau khi dùng độ 20 năm thì chất thải hóa học từ các tấm kim loại tạo thành cái panel cũng có sinh ra, thế nhưng cái ô nhiễm này có cách giải quyết được".

"Còn nhiệt điện than, bụi, xỉ than tác hại đến sức khỏe con người. Cái thứ ba là thủy điện, đứng về môi trường nó chả sinh ra CO2 nhưng tương lai không còn khả năng phát triển nữa".

"Cuối cùng là năng lượng hạt nhân, được xép thứ tư trong hệ thống điện Việt Nam, ưu điểm của nó là phát điện ổn định, số giờ phát điện trong năm khoảng độ trên 7.000 giờ, còn năng lượng gió và mặt trời chỉ vận hành được khoảng độ 3.000 hoặc hơn 2.000 giờ /năm thôi".

Tuy không phát thải khí CO2 gây biến đổi khí hậu, nhưng nguy cơ của điện hạt nhân mà tiến sĩ Ngô Đức Lâm muốn lưu ý là :

"Sự cố an toàn, vận hành rất ít khi xảy ra nhưng nếu xảy ra thì tác hại đến cả nòi giống, nguy hiểm cả một vùng rộng lớn, cho nên phải có biện pháp kiểm tra theo dõi rất tốn kém".

"Cái thứ hai là trình độ quản lý, trình độ công nghiệp, ý thức kỷ luật rất cao của chuyên viên kỹ sư vận hành nhà máy. Mà bây giờ trình độ của Việt Nam hiện nay là chưa đủ, phải có một thời gian đào tạo 5, 10 năm. Có đủ điều kiện thì mới đứng ra vận hành nhà máy điện nguyên tử ở Việt Nam được".

Từ Pháp, giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn, Đại học Grenoble, chuyên gia năng lượng từng đóng góp nhiều bài chuyên môn cho giới chức thẩm quyền trong nước, cho biết ông từng rất vui mừng khi biết Quốc Hội Việt Nam chuẩn thuận dừng các dự án nhà máy điện hạt nhân hồi 2016 và ông vẫn giữ lập trường như thế đến lúc này :

"Nói rằng điện hạt nhân không ô nhiễm môi trường sự thật cũng có lý, nhưng vấn đề quan trọng là nguy hiểm về sức khỏe và nguy hiểm về rác thải phóng xạ hàng chục thế kỹ không giải quyết được.Giá thành điện hạt nhân không rẻ như người ta hiểu lầm mà cao hơn năng lượng tái tạo như mặt trời và gió".

Vẫn theo giáo sư Nguyễn Khác Nhẫn, vào khi đề nghị tái khởi động chương trình điện hạt nhân được nói tới ở Việt Nam nhưng ở Pháp thì ngược lại :

"Tỷ lệ điện hạt nhân của Pháp là 75% nay còn 70%. Từ mấy năm nay Pháp đã quyết tâm dần dần sẽ xuống còn 50%. Pháp sẽ tăng nguồn năng lượng tái tạo lên 50% để bù đắp, thay thế điện hạt nhân trong 10, 15 năm nữa. Trong tháng qua người ta vừa đóng cửa nhà máy Fessenheim ở gần Strasbourg, còn 14 lò từ đây đến 2025 dần dần sẽ đóng".

"Từ lâu tôi đã đề nghị chính phủ Việt Nam nên đầu tư mạnh vào năng lượng tái tạo. Việt Nam có thể đạt 100% năng lượng tái tạo, tệ lắm vào năm 2050, nếu chuẩn bị chu đáo ngay từ bây giờ. Hiện bên nhà cũng đã có một tỷ lệ khá quan trọng về năng lượng gió và năng lượng mặt trời nhưng theo tôi không đủ giải quyết nhu cầu điện lực. Năng lượng tái tạo không gây ô nhiễm, giá thành càng ngày càng rẻ thì tại sao, lý do nào mà đi vào con đường điện hạt nhân có thể xem như đã lỗi thời, không có triển vọng trên thế giới như người ta tưởng".

Tóm lại, theo đề nghị của tiến sĩ Nguyễn Khắc Nhẫn, chuyên gia ngành năng lượng quốc gia tại đại học Pháp, trong bối cảnh điện hạt nhân đang được xét lại và được nhiều nước tìm cách giảm thiểu, Việt Nam phải hết sức thận trong đối với đề nghị tái khởi động chương trình này, cùng lúc phải quyết tâm đầu tư nâng cao sản lượng điện gió và điện mặt trời vốn là hai nguồn tái tạo tương đối sạch sẽ và an toàn nhất cho năng lượng quốc gia.

Thanh Trúc

Nguồn : RFA, 13/09/2020

*********************

Điều kiện ‘cần’ và ‘đủ’ để Việt Nam tái khởi động chương trình điện hạt nhân

Trần Chí Thành, nangluongvietnam.vn, 11/09/2020

Lời giới thiệu : Như chúng ta đều biết, trong dự thảo Báo cáo Quy hoạch điện VIII, Viện Năng lượng (Bộ Công Thương) đã đưa ra phương án xem xét phát triển nhà máy điện hạt nhân sau năm 2030, để cập nhật thêm thông tin, chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam đã có cuộc phỏng vấn Tiến sĩ Trần Chí Thành - Viện trưởng Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam (Bộ Khoa học Công nghệ) về những nhận định xung quanh vấn đề này. Tuy nhiên, chủ trương dừng dự án điện hạt nhân đã được Quốc hội thông qua vào năm 2016, vì vậy, Tiến sĩ Trần Chí Thành trả lời với tư cách là một nhà nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ và an toàn điện hạt nhân [1].

atom3

Bà Anna Zykova, đại diện của ROSATOM Đông Nam Á trao bức tượng Viện sĩ Igor Kourchatov cho Tiến sĩ Trần Chí Thành – Nguồn : kienthuckhoahoc, 25/06/2019

*********************

Phóng viên : Xin ông cho biết hiện trạng các nhà máy điện hạt nhân và xu thế phát triển loại nguồn điện này trên thế giới trong hai thập kỷ tới ?

Trần Chí Thành : Có thể thấy rằng, từ sau khi sự cố Fukushima xảy ra năm 2011, ngành điện hạt nhân thế giới tuy có bị ảnh hưởng, nhưng nhìn chung vẫn tiếp tục phát triển. Hiện nay trên thế giới có 442 lò đang vận hành, tổng công suất lắp đặt gần 392.000 MWe, chiếm khoảng 11% sản lượng điện của cả thế giới, mặc dù điện hạt nhân chỉ có ở hơn 30 quốc gia. Có 53 lò hạt nhân đang được xây dựng, nhiều lò đã lên kế hoạch và nhiều nước bắt đầu triển khai chương trình điện hạt nhân.

Có thể thấy, về tổng công suất lắp đặt, hay số lò vận hành vẫn được giữ ở mức cao hơn trước khi có sự cố một chút. Sau khi sự cố Fukushima xảy ra, nhiều bài học kinh nghiệm được rút ra, một lần nữa thế giới đánh giá lại và đưa ra các yêu cầu khắt khe hơn về an toàn đối với các nhà máy đang vận hành và các thiết kế mới. Điều này làm kinh phí đầu tư cao hơn một ít so với trước.

Trong vài thập kỷ tới, theo dự báo của các tổ chức quốc tế và chuyên gia ngành năng lượng, điện hạt nhân sẽ tiếp tục phát triển và tăng trưởng bền vững, mặc dù tăng trưởng không nhanh và quá nóng. Lý do chính liên quan đến biến đổi khí hậu, xu thế nóng ấm toàn cầu và ô nhiễm môi trường đang làm thay đổi xu thế của cơ cấu nguồn điện. Năng lượng tái tạo được ưu tiên, nhiệt điện than đang giảm dần và bị hạn chế mạnh, đặc biệt ở các nước tiên tiến, và ngay cả Trung Quốc, Ấn Độ... điện hạt nhân vận hành an toàn là nguồn điện không phát thải khí nhà kính, không gây ô nhiễm môi trường.

Tuy nhiên, do tăng cường về an toàn, dẫn đến suất đầu tư cao, nên các quốc gia phát triển điện hạt nhân cần xem xét kỹ lưỡng về năng lực kỹ thuật, hạ tầng cơ sở đảm bảo an toàn, nguồn nhân lực, vấn đề giá thành điện… Vì vậy, các dự án hạt nhân thường được phát triển dài hạn, nhiều năm hơn. Điện hạt nhân góp phần đảm bảo an ninh năng lượng, đồng thời, điện hạt nhân vận hành trong hệ thống điện với cơ chế chạy nền, rất cần thiết để đảm bảo sự ổn định của hệ thống điện quốc gia. Do đó điện hạt nhân là một lựa chọn tốt trong thời gian tới, cùng với năng lượng tái tạo.

Phóng viên : Những nhận xét của ông về lý do chính mà nhiều nước đang dần từ bỏ điện hạt nhân, trong khi có nhiều nước đang tiếp tục phát triển nguồn điện này?

Trần Chí Thành : Thực tế chỉ một số nước hiện nay có quyết định và chính sách từ bỏ điện hạt nhân, điển hình là Đức. Chính sách bỏ điện hạt nhân của Đức có từ lâu, chủ yếu do liên quan đến chính trị. Hiện nay điện hạt nhân ở Đức vẫn đảm bảo khoảng 12% điện năng. Kế hoạch khoảng vài năm nữa sẽ đóng cửa hết các tổ máy, tuy nhiên có thực hiện được hay không còn chưa rõ. Hiện nay giá thành điện ở Đức cao nhất châu Âu, gần như hơn gấp đôi giá điện ở Pháp. Khi thiếu điện (ví dụ khi nguồn điện năng lượng tái tạo phát không đủ), Đức vẫn mua điện từ Pháp. Một số nước như Thuỵ Điển, hay Thuỵ Sỹ vẫn tiếp tục duy trì điện hạt nhân. Pháp là nước có điện hạt nhân với tỷ trọng khoảng 80%, do yêu cầu thực tế về an ninh năng lượng (không nên có một loại hình phát điện chiếm tỷ trọng lớn), nên họ sẽ xem xét giảm tỷ lệ điện hạt nhân xuống (dự kiến giảm xuống 50%).

Bên cạnh đó, Pháp đang triển khai mạnh các dự án tại nước ngoài, đặc biệt tại Anh Quốc. Nhật Bản sau khi có sự cố Fukushima đã đóng cửa tất cả 54 tổ máy điện hạt nhân để kiểm tra chặt chẽ các vấn đề an toàn, cấp phép lại.

Nhật Bản không bỏ điện hạt nhân. Hiện nay Nhật Bản đã tái khởi động và đang vận hành 9 lò hạt nhân (9 tổ máy). Năm 2020-2021 sẽ tiếp tục khởi động lại thêm 6 lò. Theo Chiến lược Năng lượng hiện nay của Nhật Bản, điện hạt nhân sẽ duy trì ở mức 20-25% (khoảng hơn 20 tổ máy). Năm 2021 Nhật Bản sẽ cập nhật Chiến lược Năng lượng mới, trong đó sẽ hạn chế tối đa nhiệt điện than, đến 2030 sẽ đóng cửa khoảng 100 tổ máy nhiệt điện than. Điện tái tạo, điện khí hóa lỏng (LNG) và điện hạt nhân sẽ là thành phần chính trong hệ thống điện. Tuy nhiên, tỷ lệ bao nhiêu sẽ được đưa ra vào năm 2021.

Các quốc gia đẩy mạnh phát triển điện hạt nhân cũng có nhiều lý do, tùy từng nước. Các nước châu Âu đã có điện hạt nhân sẽ tiếp tục duy trì, và phát triển ở mức độ cần thiết, vì thấy rằng điện hạt nhân ở các nước đó an toàn, kinh tế, không ảnh hưởng môi trường, và cũng được người dân ủng hộ. Rất nhiều quốc gia khi phát triển điện hạt nhân thành công đã xây dựng được nền tảng, năng lực khoa học và công nghệ, công nghiệp… để đất nước của họ tiếp tục phát triển mạnh mẽ trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trước đây là các nước châu Âu, gần đây điển hình là Hàn Quốc, hay Ấn Độ.

Hoa Kỳ là quốc gia có nhiều tổ máy điện hạt nhân nhất thế giới hiện nay (gần 100 tổ máy), đóng góp khoảng 20% sản lượng điện toàn quốc. Hoa Kỳ vẫn tiếp tục phát triển điện hạt nhân, gần đây đã bắt đầu xây dựng các tổ máy mới công nghệ tiên tiến III+ (AP1000). Mặc dù việc xây dựng có bị chậm trễ do nhiều thập kỷ họ không xây dựng nhà máy điện hạt nhân mới, do cải tổ các công ty làm điện hạt nhân, tuy nhiên cho đến nay, việc xây dựng đang đến giai đoạn kết thúc, và sẽ vận hành thương mại trong thời gian sắp tới.

Đặc biệt, gần đây, Hoa Kỳ đã có Chiến lược Năng lượng hạt nhân mới (Bộ Năng lượng - DOE), trong đó chú trọng nghiên cứu phát triển công nghệ mới (ví dụ SMR), thúc đẩy phát triển điện hạt nhân, xuất khẩu công nghệ điện hạt nhân, ưu tiên bố trí tài chính cho các dự án điện hạt nhân… với mục tiêu đưa ngành hạt nhân của Hoa Kỳ trở lại vị trí số 1 (Nga và Trung Quốc là các nước cạnh tranh với Hoa Kỳ).

Liên bang Nga là nước có công nghệ nguồn về điện hạt nhân. Liên Xô (cũ) đã phát triển các công nghệ lò VVER, lò RBMK, lò nơtron nhanh. Nga hiện nay vẫn là nước tiếp tục phát triển điện hạt nhân trong nước, và đẩy mạnh xuất khẩu điện hạt nhân ra nước ngoài. Trong nước Nga, tỷ lệ điện hạt nhân chiếm khoảng 20% sản lượng điện. Về xuất khẩu, Nga là nước đi đầu trong xuất khẩu điện hạt nhân, kể cả thời kỳ Liên Xô (cũ) còn tồn tại. Liên Xô trước đây đã xây nhiều lò hạt nhân ở Đông Âu, và các lò VVER-440 hiện nay vẫn vận hành an toàn và rất kinh tế. Hiện nay Liên bang Nga đang triển khai nhiều dự án điện hạt nhân ở nhiều nước như: Trung Quốc, Ấn Độ, Belarus, Thổ Nhĩ Kỳ, Bangladesh, và sắp tới là Phần Lan, Slovakie, Hungary, Ai Cập v.v...

Thiết kế VVER của Nga rất tốt, an toàn, và đã được kiểm chứng thực tế qua nhiều nơi và qua thời gian. Thiết kế VVER 1200 mới thế hệ III+ đã đi vào vận hành. Liên bang Nga có lợi thế về khoa học công nghệ tiên tiến, đội ngũ cán bộ giỏi, hùng hậu, nhiều chuyên gia hàng đầu thế giới, nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực hạt nhân. ROSATOM là tập đoàn Nhà nước về Năng lượng nguyên tử đang triển khai nhiều dự án trên thế giới, trong đó có Dự án xây dựng Trung tâm Nghiên cứu khoa học công nghệ hạt nhân tại Việt Nam với lò phản ứng nghiên cứu mới.

Trung Quốc là nước phát triển điện hạt nhân mạnh nhất, và có chương trình điện hạt nhân nhiều tham vọng. Hiện nay Trung Quốc có 47 lò hạt nhân đang vận hành. Theo kế hoạch, đến năm 2030 số lò hạt nhân của Trung Quốc sẽ vượt Mỹ (hiện nay Mỹ có gần 100 lò hạt nhân), đến 2050 Trung Quốc sẽ có khoảng gần 280 lò. Ngoài công nghệ điện hạt nhân dân dụng phổ biến, Trung Quốc còn phát triển công nghệ lò nhanh, điện hạt nhân nổi, và công nghệ lò nhỏ mục đích dân sự và quốc phòng (tàu ngầm hạt nhân, tàu sân bay dùng năng lượng hạt nhân).

Như vậy, mục tiêu phát triển điện hạt nhân của Trung Quốc ngoài lý do cung cấp điện năng, an ninh năng lượng, bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu… còn những lý do khác liên quan đến tiềm lực đất nước, đảm bảo an ninh quốc phòng, cạnh tranh quốc tế và cạnh tranh vị trí cường quốc. Trung Quốc đang rất muốn xuất khẩu công nghệ hạt nhân ra các nước, và đã xuất khẩu sang Pakistan. Tuy nhiên, do hạn chế về kinh nghiệm, trình độ khoa học, về tái chế nhiên liệu hạt nhân (chu trình nhiên liệu khép kín), về cam kết trách nhiệm trong trường hợp sự cố (thành viên của Công ước IAEA), so với Liên bang Nga, nên hiện nay Trung Quốc chưa xuất khẩu được nhiều lò hạt nhân sang các nước.

Các nước khác phát triển điện hạt nhân để cung cấp điện năng, đảm bảo an ninh năng lượng, thúc đẩy các lĩnh vực khoa học, công nghệ và công nghiệp nền tảng cơ bản. Ấn Độ đang đẩy mạnh điện hạt nhân. Gần đây một số nước đã bắt đầu phát triển điện hạt nhân như: Thổ Nhĩ Kỳ, Belarus, UAE, Bangladesh, Ai Cập, Ba Lan… UAE vừa vận hành tổ máy điện hạt nhân đầu tiên công suất 1.400 MWe (được hòa vào lưới điện ngày 19/8/2020). Ngoài mục tiêu phát điện, phát triển khoa học công nghệ cũng là nhiệm vụ quan trọng của UAE, họ đồng thời thúc đẩy chương trình hạt nhân và chương trình vũ trụ (lên Sao Hỏa).

Phóng viên : Công nghệ điện hạt nhân hiện nay và những công nghệ mới dự kiến áp dụng trong tương lai gần như thế nào, thưa ông ?

Trần Chí Thành : Công nghệ điện hạt nhân là công nghệ phức tạp, được đưa ra dựa trên nhiều lĩnh vực nền tảng và cơ bản như vật lý hạt nhân, cơ học dòng chảy, cơ khí, vật liệu, luyện kim, tự động điều khiển, hóa học… Do đó, công nghệ điện hạt nhân (bao gồm cả thiết kế) không dễ thay đổi trong một thời gian ngắn. Trong gần 50 năm lại đây, công nghệ nền tảng của điện hạt nhân hầu như không thay đổi. Trên thế giới công nghệ phổ biến hiện nay (các lò đang vận hành) chủ yếu là lò nước áp lực, lò nước sôi, lò nước nặng và lò nơtron nhanh (tải nhiệt bằng kim loại lỏng). Đa số các lò đang vận hành hiện nay là công nghệ lò nước áp lực, với thiết kế của thế hệ II, III và III+.

Trong khi nhiều lò hạt nhân thiết kế thế hệ II và III vẫn vận hành an toàn ở nhiều nước và mang lại hiệu quả kinh tế cao, các lò vừa mới đưa vào vận hành trong những năm gần đây, hoặc các lò đang xây dựng đều dựa trên thiết kế mới, tiên tiến của thế hệ III+. Các thiết kế mới đều đáp ứng các yêu cầu khắt khe nhất, cao nhất về an toàn mới đưa ra, đảm bảo vận hành an toàn kinh tế, và không ảnh hưởng đến con người, môi trường ngay cả trường hợp có sự cố xảy ra. Do đó, trong vài thập niên tiếp theo, công nghệ chủ yếu được triển khai vẫn là lò làm mát bằng nước (lò áp lực là chính), thiết kế tiên tiến thế hệ III+.

Công nghệ lò mô đun nhỏ (SMR) đang được nhiều nước trên thế giới nghiên cứu và triển khai. SMR chủ yếu áp dụng biện pháp làm mát bằng kim loại lỏng, chỉ có vài thiết kế làm mát bằng nước (như Nuscale). Công nghệ làm mát bằng nước đã được nghiên cứu nhiều và thuần thục trên thế giới, trong khi công nghệ lò làm mát bằng kim loại lỏng là lĩnh vực chưa được nghiên cứu nhiều, còn nhiều vấn đề khoa học mà ta chưa nắm rõ. Do đó, triển vọng sử dụng SMR vào mục đích phát điện là không cao trong vài chục năm tới (ngoại trừ Nuscale có khả năng cao hơn).

Phóng viên : Về an toàn của các nhà máy điện hạt nhân, xin ông cho biết những bài học về các sự cố nghiêm trọng trong quá khứ và những giải pháp công nghệ, quản lý về phòng ngừa sự cố hạt nhân hiện nay, cũng như trong tương lai ? Việt Nam có thể học hỏi gì về các giải pháp an toàn điện hạt nhân ?

Trần Chí Thành : Trong ngành điện hạt nhân, các sự cố lớn xảy ra là Three Miles Irland (TMI) năm 1979, Chernobyl năm 1986 và Fukushima năm 2011. TMI xảy ra sau thời kỳ triển khai mạnh xây dựng các nhà máy điện hạt nhân trên thế giới, an toàn chưa được chú trọng, pháp quy hạt nhân chưa đầy đủ như hiện nay. Sự cố xảy ra đã thúc đẩy cải tiến thiết kế, tăng cường an toàn và kiểm soát an toàn. Chernobyl xảy ra do con người là chính (ý chí chính trị). Thiết kế của lò này (RBMK) cũng có nhiều hạn chế và lỗi. Vấn đề con người, đào tạo kỹ lưỡng, và vấn đề pháp quy chặt chẽ được chấn chỉnh mạnh mẽ sau sự cố đó. Sự cố Fukushima xảy ra do con người và hệ thống pháp quy là chính. Sau khi sự cố Fukushima xảy ra, Nhật Bản đã thay đổi và cải tổ Cơ quan Pháp quy hạt nhân (trước là NISA, nay là NRA). Tất nhiên Fukushima xảy ra cũng do yếu tố thiên tai (sóng thần), hiếm khi xảy ra.

Bài học có thể thấy là, ngoài đào tạo nguồn nhân lực hạt nhân đảm bảo chất lượng, xây dựng hệ thống pháp quy hạt nhân chặt chẽ, thực hiện tốt, đầy đủ và trách nhiệm các nhiệm vụ kiểm tra giám sát liên quan đến đánh giá an toàn, thiết kế, liên quan đến xây dựng và giám sát vận hành nhà máy (cũng như các hệ thống thiết bị), quản lý dự án cũng là lĩnh vực cần con người giỏi và kinh nghiệm. Về công nghệ, do thiết kế điện hạt nhân được đưa ra bởi các tổ chức hoặc công ty về hạt nhân của các nước tiên tiến, của các nước làm chủ công nghệ, nên vấn đề ở Việt Nam, nếu có, là kiểm tra đánh giá tính phù hợp của thiết kế trong điều kiện thực tế Việt Nam.

Phóng viên : Ông đánh giá như thế nào về giá thành và xu thế giá thành sản xuất điện từ điện hạt nhân ?

Trần Chí Thành : Do các yêu cầu về an toàn, nên trong các thiết kế III+ hiện nay có thêm nhiều hệ thống an toàn, hệ thống làm mát. Do đó giá thành đầu tư tăng lên. Tuy nhiên, các hệ thống thiết bị của nhà máy điện hạt nhân đều được thiết kế chế tạo với chất lượng cao, đảm bảo độ tin cậy lớn, và có thể vận hành lâu dài. Lò hạt nhân thế hệ mới có thể vận hành 60 năm, sau đó có thể kéo dài thêm 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Với thời gian dài như vậy, cho nên giá điện thực tế của điện hạt nhân hiện nay tuy cao nhưng vẫn nằm trong khuôn khổ chấp nhận được.

Tại Việt Nam, theo tính toán (đã có), giá thành điện hạt nhân đắt hơn nhiệt điện than nội địa, nhưng rẻ hơn nhiệt điện than nhập. Giá điện cũng rẻ hơn nhiệt điện khí hóa lỏng (LNG). Các nhà máy khi đã hết tuổi thọ (ví dụ trước đây là 30-40 năm), nếu vẫn tốt và qua được đánh giá an toàn, được cấp phép tiếp tục vận hành, phát điện, thì giá thành điện là rẻ (nhiều tổ máy hiện nay trên thế giới đang vận hành ở thời kỳ sau khi hết tuổi thọ ban đầu, mang lại hiệu quả kinh tế lớn).

Phóng viên : Xin ông cho biết vài nét chính về sự cần thiết và vai trò của điện hạt nhân trong hệ thống điện của Việt Nam trong tương lai ? Theo ông, Việt Nam còn thiếu những điều kiện gì để có thể tái khởi động chương trình phát triển điện hạt nhân ?

Trần Chí Thành : Như mọi người đã biết, điện hạt nhân là nguồn điện ổn định, công suất lớn (1.000 MWe hoặc hơn). Điện hạt nhân là nguồn điện ổn định như thuỷ điện, nhiệt điện than. Hiện nay Việt Nam đang đầu tư phát triển nhiều nguồn năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời). Hiện nay tổng công suất điện mặt trời, điện gió Việt Nam có khoảng 6.000 MWe, nhưng hệ số sử dụng công suất thấp, có tính không ổn định, nên sản lượng điện sản xuất ra từ các nguồn này ít hơn khoảng 4 lần so với các nguồn điện ổn định nói trên. Tính không ổn định sẽ làm cho hệ thống điện mất cân bằng, và có thể dẫn đến sự cố, nếu mất điện sẽ làm cho các cơ cở cần dùng điện ổn định bị thiệt hại nhiều.

Trong bối cảnh thuỷ điện ở Việt Nam đã được khai thác gần như hết, nhiệt điện than đang bị hạn chế do ô nhiễm môi trường, do bụi mịn (PM2.5), và mục tiêu giảm tác động biến đổi khí hậu (CO2), việc đưa vào hệ thống điện các nguồn điện ổn định sẽ góp phần làm tốt việc cung cấp điện năng, đảm bảo phát triển kinh tế, và thu hút đầu tư nước ngoài (cung cấp điện năng ổn định là yếu tố đầu tiên để các nhà đầu tư xem xét khi lựa chọn để đầu tư).

Ngoài ra, điện than phụ thuộc nhiều vào cung cấp than (than nhập), và dự trữ than khó hơn nhiều cho một nhà máy nhiệt điện than so với nhà máy điện hạt nhân dự trữ nhiên liệu hạt nhân (có thể dự trữ nhiều năm). Do đó, theo tôi, phát triển điện hạt nhân là cần thiết cho một hệ thống điện ổn định.

Theo suy nghĩ của tôi, việc dừng điện hạt nhân năm 2016 tuy là cần thiết, nhưng ảnh hưởng khá đáng kể đến tâm lý, con người, xây dựng năng lực, đào tạo đội ngũ cán bộ trong ngành hạt nhân v.v... Việt Nam đã có nhiều kết quả trong chuẩn bị và triển khai chương trình điện hạt nhân, việc dừng lại, trước hết sẽ làm mất dần đội ngũ cán bộ và mất dần những gì chúng ta đã làm. Do đó, nếu không có chủ trương chính sách gì để quay lại chương trình điện hạt nhân, trong vài ba năm nữa, sẽ mất hết toàn bộ những gì Việt Nam đã có về điện hạt nhân, đặc biệt là đội ngũ cán bộ.

Cũng như bao ngành khác, đội ngũ cán bộ là chìa khóa thành công cho chương trình điện hạt nhân. Dự án điện hạt nhân thực hiện lâu, nhiều năm, nhưng đào tạo con người làm điện hạt nhân còn cần thời gian lâu dài hơn. Do đó, cần sớm có chủ trương để bắt đầu lại, vì theo tôi, điện hạt nhân là cần thiết cho Việt Nam trong tương lai. Đó không chỉ là điện năng, mà là tiềm lực của một đất nước.

Phóng viên : Ông có thể cho biết, nhiên liệu cho điện hạt nhân được cung cấp như thế nào ? Khi Việt Nam phát triển điện hạt nhân, việc nhập khẩu nhiên liệu hạt nhân có được cho là phụ thuộc lớn vào bên ngoài hay không ?

Trần Chí Thành : Nhiên liệu cho điện hạt nhân hiện nay cũng phổ biến trên thế giới. Nhiên liệu tuỳ thuộc vào loại lò. Các nước lớn trên thế giới như Mỹ, Nga hay Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc… đều có thể chế tạo và cung cấp nhiên liệu cho lò phản ứng hạt nhân. Nga cũng đang nghiên cứu chế tạo nhiên liệu cho lò của các nước phương Tây, và ngược lại, Mỹ cũng đã và đang chế tạo nhiên liệu cho lò VVER của Nga.

Tôi không cho rằng, nếu làm điện hạt nhân là phụ thuộc vào bên ngoài. Vì có nhiều đối tác có thể cung cấp nhiên liệu, và nó như các hàng hóa dân dụng đặc biệt khác.

Phóng viên : Tính lan tỏa, thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ và kỹ thuật khi phát triển điện hạt nhân trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng như thế nào, thưa ông ?

Trần Chí Thành : Như trên đã nêu, khi phát triển các dự án điện hạt nhân, một lĩnh vực đa ngành, do yêu cầu và đòi hỏi khi triển khai, nên nhiều nước đã rất thành công trong thúc đẩy và phát triển các lĩnh vực khoa học công nghệ, và công nghiệp nền tảng, cơ bản. Tiềm lực khoa học công nghệ, năng lực công nghiệp của các nước đó đã thực sự phát triển sau khi triển khai thành công dự án điện hạt nhân. Về pháp quy, nguồn nhân lực cũng được phát triển theo. Ví dụ điển hình là các nước châu Âu thời kỳ chiến tranh lạnh, Hàn Quốc gần đây, và Ấn Độ bây giờ.

Ấn Độ đang làm rất tốt việc thúc đẩy các ngành khoa học, ngành công nghiệp nền tảng, như cơ khí, chế tạo, vật liệu (thép và hợp kim…), hóa học, tự động điều khiển… Chính vì thế, gần đây khi chúng tôi sang Ấn Độ, họ tự hào về ngành hạt nhân, họ đã tự thiết kế, chế tạo và xây dựng vận hành nhà máy điện hạt nhân. Và họ cũng tự hào việc Ấn Độ có thể phóng vệ tinh với chi phí rẻ nhất thế giới.

Tôi nghĩ Việt Nam có thể thực hiện, thúc đẩy và "lan tỏa" khoa học công nghệ cơ bản, công nghiệp nền tảng từ chương trình điện hạt nhân.

Phóng viên : Gần đây, một số nước đang phát triển mô hình điện hạt nhân nổi trên biển. Ông đánh giá như thế nào về loại mô hình này ?

Trần Chí Thành : Hiện nay Nga đang vận hành nhà máy điện hạt nhân nổi (mang tên Lomonoxop). Trung Quốc đang có chương trình lớn thiết kế chế tạo khoảng 20 nhà máy điện hạt nhân nổi để sử dụng trên biển. Có thể năm nay, hoặc năm sau Trung Quốc có thể đưa ra sử dụng tại các đảo ở biển.

Điện hạt nhân nổi là công nghệ mới, tiềm ẩn rủi ro liên quan đến tính kiểm chứng, an toàn, liên quan đến yếu tố thiên tai, yếu tố con người trên biển… Tuy nhiên, điện hạt nhân nổi vừa có thể phục vụ dân dụng và quốc phòng, hay gây ảnh hưởng địa chính trị, tuỳ vào mục đích của mỗi nước.

Phóng viên : Vâng, xin cảm ơn ông !

Hội đồng phản biện thực hiện

Nguồn : Tạp chí Năng Lượng Việt Nam, 11/09/2020

Chú thích :

[1] Tiến sĩ Trần Chí Thành sinh ngày 15/8/1965 tại xã Đức Giang, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh. Từ năm 1983 đến năm 1989 ông theo học và tốt nghiệp kỹ sư ngành Điện hạt nhân tại Trường Đại học Năng lượng Maxcơva, Liên Xô (trước đây). Sau khi tốt nghiệp đại học, ông về Việt Nam làm cán bộ nghiên cứu và sau đó là Phó Giám đốc Trung tâm Tư vấn Nhiệt điện, Điện hạt nhân và Môi trường - Viện Năng lượng.

Từ năm 2006 - 2009, ông giành được học bổng nghiên cứu sinh chuyên ngành An toàn Điện hạt nhân tại Đại học Công nghệ Hoàng gia (Thụy Điển). Sau đó, chính luận án Tiến sỹ “Mô hình đối lưu hiệu quả dùng để mô phỏng và phân tích quá trình truyền nhiệt của bể nhiên vật liệu nóng chảy ở đáy thùng áp lực lò nước nhẹ” của ông được trao Giải thưởng Sigvard Eklund (Thụy Điển) vào năm 2011 dành cho Luận án Tiến sỹ xuất sắc nhất giữa các trường đại học của Thụy Điển liên quan đến công nghệ hạt nhân.

Trong những năm từ 2009 - 2011, Tiến sĩ Trần Chí Thành đã cùng các cộng sự tham gia lập Báo cáo nghiên cứu khả thi Dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2, đồng thời là cộng tác viên khoa học của khoa An toàn Điện Hạt nhân - Đại học Công nghệ Hoàng Gia (Thụy Điển) trong nghiên cứu liên quan đến phân tích an toàn lò nước sôi.

Từ năm 2012 đến nay, Tiến sĩ Trần Chí Thành là Viện trưởng Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam - Bộ Khoa học và công nghệ.

(Nguồn: http://nangluongvietnam.vn/news)

Quay lại trang chủ

Additional Info

  • Author: Thanh Trúc, Trần Chí Thành
Read 625 times

Viết bình luận

Phải xác tín nội dung bài viết đáp ứng tất cả những yêu cầu của thông tin được đánh dấu bằng ký hiệu (*)