Quyền lực nhà nước thống nhất có nghĩa như thế nào ?
Thới Bình, VNTB, 15/11/2020
"Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp" - trích Điều 2.3, Hiến pháp 2013.
Thắc mắc : tại sao quyền lực nhà nước là thống nhất-tập quyền, mà vẫn còn phải phân công, phân nhiệm và cuối cùng, việc phân công và phân nhiệm này có gì khác với phân quyền ?
Trước hết phải khẳng định rằng, phân quyền là một học thuyết của cách mạng tư sản, nhằm chống lại nguyên tắc tập quyền của chế độ nhà nước phong kiến chuyên chế.
Ở Việt Nam, từ chỗ phủ nhận hoàn toàn đến thừa nhận-dù chỉ là một số những hạt nhân hợp lý-của học thuyết này là cả một bước chuyển rất lớn trong nhận thức của Đảng Cộng sản.
Tuy nhiên, việc áp dụng học thuyết này đã tạo ra những quan điểm khác nhau. Nhiều người cho rằng, trong phân quyền, lập pháp phải do Quốc hội đảm nhiệm, và hành pháp phải do Chính phủ đảm nhiệm, theo đúng tinh thần của Hiến pháp.
Thậm chí, không ít người cho rằng, cần phải chuyển mọi hoạt động có liên quan đến lập pháp-từ việc soạn thảo đến việc thông qua dự thảo văn bản pháp luật-cho Quốc hội, còn Chính phủ chỉ tập trung vào công tác hành pháp, tức là điều hành đất nước.
Thực tế, sự phân quyền-theo cách nói của Nhà nước tư sản-và phân công, phân nhiệm giữa lập pháp và hành pháp-theo cách nói của Việt Nam hiện nay-không hoàn toàn có nghĩa đơn giản như vậy. Mà thực tế, hoạt động của hành pháp có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của lập pháp.
Thậm chí, Quốc hội lập pháp theo nhu cầu của Chính phủ-hành pháp ; giữa Chính phủ-hành pháp và Quốc hội-lập pháp phải có quan hệ mật thiết với nhau. Mối quan hệ mật thiết này tạo nên tính thống nhất của quyền lực nhà nước.
Hiến pháp 2013, Điều 119 có quy định : "Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp là do luật định".
Sau khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực, những năm qua bộ máy nhà nước đã được xây dựng và hoàn thiện một bước. Các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, như Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa án, Luật Tổ chức Viện kiểm sát, Luật Tổ chức chính quyền địa phương… được sửa đổi, bổ sung để thể chế hóa Hiến pháp.
Các đạo luật này đã phân công, phân nhiệm nhiệm vụ, quyền hạn cho các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp một cách rõ ràng, minh bạch hơn, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từng bước được hình thành.
Theo đó, kiểm soát quyền lực nhà nước gồm 3 cơ chế quyền lực nhà nước như đã nêu trên. Tuy vậy cả ba cơ chế này cho đến nay chưa được hoàn thiện, nhất là bên trong mỗi quyền chưa có sự kiểm soát quyền lực nhà nước một cách hiệu quả. Vì thế, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước là đòi hỏi cấp thiết nhằm phòng, chống sự tha hóa quyền lực nhà nước, mà trước hết là đấu tranh phòng, chống tham nhũng một cách hiệu quả.
Trong bối cảnh như phân tích ở trên, giả dụ như lại có đề xuất tham khảo mô hình của "tam quyền phân lập", với việc căn cứ từ những thỏa thuận thương mại song phương-đa phương, nhằm đề cao quyền dân chủ của lá phiếu cử tri cho cả phần nội bộ của Đảng Cộng sản, thì cần thiết xem xét những ý kiến này qua lăng kính tiếp thu khoa học, tránh việc lại tiếp tục hằn học cho rằng có tâm lý chống đối vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Thới Bình
Nguồn : VNTB, 15/11/2020
**************************
Quyền ‘hạn’ và quyền ‘lực’
Mỹ Thuận, VNTB, 13/11/2020
Bài viết này xin được thử cắt một lát nhỏ về các ‘hạn chế’ của quyền, và ‘lực’ của quyền thực thi.
Đang có những ‘hạn chế’ về quyền, cũng như thực tế ‘lực bất tòng tâm’ về quyền. Ảnh Trụ sở Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam.
Đơn cử, quan sát những lần chất vấn ở nghị trường Quốc hội, dễ nhận ra rằng quyền lập quy là một trong hai quyền hành pháp có tác động rất lớn đến quá trình đưa các đạo luật vào cuộc sống, nhưng chưa được kiểm soát chặt chẽ.
Số lượng văn bản quy phạm do Chính phủ và các bộ, ngành ban hành là rất lớn, và không ít trường hợp các văn bản đó không phù hợp với tinh thần của các đạo luật, có thể gây ảnh hưởng hoặc cản trở việc thực hiện các quyền của cá nhân và tổ chức (thường xảy ra nhất là việc đưa thêm các điều kiện để hưởng một lợi ích hoặc thực hiện một quyền nào đó, trong kinh doanh thường là các "giấy phép con").
Tuy nhiên hiện nay, văn bản quy phạm dưới luật như vậy không được kiểm soát và có biện pháp xử lý. Quyền kiểm soát của Quốc hội với các văn bản của Chính phủ cũng được quy định trong Hiến pháp "Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội ; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập" ; Ủy ban Thường vụ Quốc hội có quyền "đình chỉ việc thi hành văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc bãi bỏ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất ; bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội (Điều 74 Hiến pháp năm 2013).
Trên thực tế, khi đọc báo, người ta vẫn thường thấy đưa tin liên quan về ‘lực’ của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong thực hiện hiện quyền hạn kể tên hàng loạt ở trên. Thay vào đó, khi phát hiện văn bản của Chính phủ trái với luật, thì thay vì đề nghị bãi bỏ, lại kiến nghị sửa đổi chính đạo luật đó và văn bản của Chính phủ vẫn đương nhiên có hiệu lực.
Ông Đinh Văn Minh, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Thanh tra Chính phủ, dẫn chứng : "Chẳng hạn như trong một báo cáo giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đoàn giám sát đã phát hiện nhiều văn bản pháp quy của cơ quan hành chính không phù hợp với luật và đoàn giám sát cũng đã có kiến nghị gửi đến cơ quan có trách nhiệm, trong đó đề nghị Chính phủ : "sửa đổi, bổ sung các văn bản không phù hợp với Luật Khiếu nại, tố cáo… Trong trường hợp Chính phủ nhận thấy các văn bản này tuy không phù hợp với luật nhưng lại đáp ứng được yêu cầu của tình hình thực tiễn, Chính phủ phải đề nghị sửa đổi các quy định của Luật để tránh tình trạng các quy định mâu thuẫn trong hệ thống pháp luật".
Trong phần phụ lục, báo cáo cũng đưa ra một danh mục các văn bản quy phạm trong đó có sự không phù hợp với Luật Khiếu nại, tố cáo cần được sửa đổi, bổ sung điều này chỉ được thực hiện sau năm nay với việc ban hành Luật Khiếu nại năm 2011, và như thế suốt nhiều năm văn bản có thể coi là không phù hợp với luật vẫn đương nhiên có hiệu lực thi hành".
Ông Đinh Văn Minh kể rằng hồi diễn ra việc cho ý kiến về Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân tại một phiên họp Ủy ban Thường vụ quốc hội, "Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân nhìn nhận từ trước đến nay trong luật này chúng ta vẫn còn tồn tại một điểm yếu cần phải khắc phục, đó là hiệu lực của hoạt động giám sát còn chưa cao : "Vì thế, luật lần này phải khắc phục được tình trạng này. Không thể để tình trạng như hiện nay, lúc đi giám sát thì rồng rắn nhau đi, xong rồi kết quả lại để trôi mất", đồng thời Chủ tịch Quốc hội yêu cầu sau giám sát phải có báo cáo, kiến nghị, kết luận… nhằm tránh tình trạng đi thì hoành tráng, "rồng rắn lên mây" nhưng mọi việc sau giám sát không chuyển biến" – ông Minh kể.
Nhìn từ khía cạnh khác là sự kiểm soát từ phía cơ ang ư pháp cũng cho thấy nhiều hạn chế. Người dân và doanh nghiệp chỉ có quyền khiếu nại và khiếu kiện các văn bản cá biệt (quyết định hành chính, hành vi hành chính), với các văn bản quy phạm thì chỉ có thể thông qua con đường kiến nghị mà thôi.
Một quyết định gây thiệt hại (hoặc khó ang) cho một hoặc một vài cá nhân, tổ chức (vì được ban hành trên cơ sở một văn bản không phù hợp với luật) thì có thể bị khiếu kiện, trong khi chính văn bản đó, không phù hợp với luật và có nguy cơ tiếp tục gây thiệt hại đến nhiều cá nhân, tổ chức khác thì lại đương nhiên tồn tại thì lại chưa thể bị khiếu kiện.
Đó chẳng phải là điều bất hợp lý rõ ràng và khiếm khuyết của cơ chế kiểm soát quyền lập quy hay sao ?
Mỹ Thuận
Nguồn : VNTB, 13/11/2020
********************
Phải làm gì nếu không "tam quyền phân lập" ?
Nguyễn Huyền, VNTB, 13/11/2020
Được biết có một vụ án đang chuẩn bị chuyển hồ sơ sang tòa án xét xử với cáo buộc các bị cáo đã kêu gọi cho thể chế "tam quyền phân lập".
Nếu nhất quyết không chấp nhận mô hình "tam quyền phân lập", thì cần phải xác định rõ tính chất, vai trò và các mối quan hệ giữa Chính phủ và các Bộ. Ảnh một phiên họp của Quốc hội
Không rõ vì sao lại hình sự hóa một đề xuất thuần dân sự như vậy. Vấn đề đặt ra, nếu nhất quyết không chấp nhận mô hình "tam quyền phân lập", thì cần phải xác định rõ tính chất, vai trò và các mối quan hệ giữa Chính phủ và các Bộ.
Quản lý hành chính nhà nước phải bằng pháp luật
Cũng như ở đa số các nước khác,Chính phủ nước ta được cấu thành từ những cơ quan nhất định. Sự hiện diện các cơ quan này trong bộ máy hành chính nhà nước (HCNN) nói chung, trong Chính phủ nói riêng là để "thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác trong phạm vi cả nước" (Điều 22 Luật Tổ chức Chính phủ).
Trong hoạt động của Chính phủ, các cơ quan này thực hiện hai mặt công tác : tham gia hoạt động của tập thể Chính phủ và thực hiện quản lý nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác được giao.
Trong suốt một thời gian dài, cơ cấu tổ chức của Chính phủ đều được xây dựng theo hướng chuyên ngành : Chính phủ gồm có các Bộ, cơ quan ngang bộ là những cơ quan của Chính phủ – thành viên Chính phủ – với số lượng đông đảo tổ chức theo ngành, lĩnh vực (quản lý chuyên ngành) và một số lượng lớn các cơ quan được gọi là cơ quan thuộc Chính phủ – không phải thành viên Chính phủ – cũng được quy định thực hiện chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực.
Trong quá trình cải cách hành chính, những lãnh đạo Việt Nam đề ra việc "Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại ; tổ chức bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, bảo đảm tinh gọn và hợp lý…" và thiết lập : "Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gọn nhẹ, hợp lý theo nguyên tắc đa ngành, đa lĩnh vực, thực hiện chức năng chủ yếu là quản lý vĩ mô toàn xã hội bằng pháp luật, chính sách, hướng dẫn và kiểm tra thực hiện".
Những nội dung trên là kết quả của nhận thức mới về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các Bộ trong điều kiện quản lý mới. Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực : tính tất yếu của việc chuyển từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường. Điều này là hoàn toàn phù hợp.
Chuyển đổi cơ chế kinh tế sang kinh tế thị trường là yếu tố quyết định của chuyển đổi cơ cấu Chính phủ theo hướng bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Có thể thấy, tính quyết định là cơ chế kinh tế, cung cách quản lý mới tất yếu đặt ra phải chuyển đổi mô hình quản lý.
Nói cách khác, chấp nhận nền kinh tế thị trường tức chúng ta phải quay về với lối quản lý HCNN chủ yếu bằng pháp luật, chính sách, hướng dẫn và kiểm tra.
Vậy cần phải làm gì nếu không "tam quyền phân lập" ?
Cần xác định lại cơ cấu tổ chức của Chính phủ gồm những Bộ theo từng mảng công việc với số lượng phù hợp. Có hình thức quy định bằng luật số lượng các bộ và những bộ nào để thể hiện và khẳng định tính ổn định của cơ cấu Chính phủ.
Trong từng Bộ cũng phải sắp xếp, kiện toàn tổ chức bên trong của các bộ, cơ quan ngang bộ theo hướng quản lý tổng hợp, đa ngành, liên thông, bỏ tầng nấc trung gian, giảm đầu mối, khắc phục trùng dẫm, không rõ chức năng, nhiệm vụ.
Gắn liền với sự chuyển đổi này, một vấn đề mới cũng được đặt ra cần phải giải quyết sớm đó là phải xác định lại địa vị pháp lý, tính chất của Bộ, cơ quan ngang Bộ. Theo đó, các cơ quan này cần được thành "cơ quan quản lý nhà nước về mảng công việc", không còn là "cơ quan quản lý nhà nước" độc lập mà trở về với vị trí "cơ quan tham mưu, giúp việc" cho Chính phủ.
Đặc biệt là xác định rõ mối quan hệ giữa Chính phủ (Trung ương) với chính quyền địa phương).
Đối với chính quyền địa phương, lâu nay chúng ta vẫn quan niệm chính quyền địa phương là thiết chế vừa đại diện cho nhân dân vừa đại diện cho Nhà nước và thông thường gồm hai cơ quan : cơ quan quyền lực và cơ quan chấp hành – hành chính ; mối quan hệ giữa chúng với các cấp trên dưới được xây dựng trên nguyên tắc tập trung dân chủ, trực thuộc hai chiều, dẫn đến chưa khẳng định dứt điểm là nó thuộc về hành pháp như ở các nước.
Quy định mối quan hệ giữa Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ với cơ quan chính quyền địa phương như nêu trên của Hiến pháp là còn theo lối tư duy cũ, chưa thực sự tương thích quyền hành pháp của Chính phủ với quyền lực của chính quyền địa phương.
Hiến pháp khẳng định các nguyên tắc về mối quan hệ hành chính giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với chính quyền địa phương, nhưng do tách rời quyền hành pháp của Chính phủ, nên mối quan hệ hành chính này trở nên hình thức, lỏng lẻo rõ nhất là việc Hiến pháp không trao cho Thủ tướng quyền bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan hành chính cấp tỉnh. Trên thực tế, sự nhầm lẫn, chồng chéo trên đây của Hiến pháp đã phá vỡ tính thống nhất của nền hành chính quốc gia, tạo ra trạng thái hai hệ thống chính quyền song song tồn tại và Hiến pháp mới vẫn chưa khắc phục được.
Ở đây, có một vấn đề cốt yếu lâu nay chưa được minh định : Thế nào là địa phương và chính quyền địa phương ?
Có phải tất cả các đơn vị hành chính mà Hiến pháp định ra đều là địa phương và chính quyền được xác lập cũng là chính quyền địa phương hay không ?
Nên nhìn nhận lại
Câu trả lời không khó khi chúng ta quan niệm tất cả chúng đều chính quyền nhà nước theo quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lê nin (Công xã, Xô viết và ở Việt Nam là Hội đồng nhân dân) đóng ở các cấp từ trung ương xuống địa phương (Trung ương – tỉnh – huyện – xã).
Nhưng hiện nay, dưới ánh sáng tư tưởng dân chủ, tự quản thì vấn đề này cần phải nhìn nhận lại : Địa phương không phải là tất cả các cấp đơn vị hành chính mà chỉ là đơn vị hành chính có tính chất quần cư – lãnh thổ vốn tồn tại tự nhiên được Nhà nước thừa nhận.
Còn các đơn vị hành chính được phân định từ trên thì không phải địa phương mà chính chúng là bộ máy hành chính – hành pháp của Trung ương, thuộc Trung ương – cánh tay nối dài của Trung ương chỉ đạo xuống các lãnh thổ – là bộ phận thuộc hành pháp có chức năng tổ chức thực thi pháp luật để quản lý nhà nước ở địa phương, bảo đảm sự thống nhất, thông suốt của nền hành chính.
Do vậy, cần xác định lại mối quan hệ giữa Chính phủ (Trung ương) với chính quyền địa phương (Địa phương) theo lối mới : địa phương là những lãnh thổ cơ bản với chính quyền là cơ chế tự quản ; còn các cấp hành chính trung gian lâu nay vẫn gọi là địa phương như tỉnh, huyện thì không phải là địa phương mà thuộc phạm trù trung ương.
Quan hệ giữa Chính phủ với các cấp hành chính (tỉnh, huyện) đó là quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo trong nền hành chính – hành pháp.
Còn quan hệ với các cấp chính quyền địa phương có tính chất lãnh thổ (xã, thị trấn, thị xã, thành phố) là quan hệ hỗ trợ – kiểm soát. Từ đây sẽ thay đổi cách thức tổ chức chính quyền ở từng loại đơn vị hành chính : Đối với các đơn vị trung gian, bộ máy chủ yếu là quan chức hành chính do Nhà nước cấp trên chỉ định để tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở địa phương ; còn các cấp lãnh thổ phải được quản lý bằng thiết chế hội đồng do dân bầu để tổ chức và thực hiện phân quyền, tự quản. Chỉ có như vậy vấn đề tổ chức lại chính quyền địa phương mới đạt được kết quả.
Cơ chế chịu trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên Chính phủ ?
Chính phủ – quyền hành pháp – có nhiệm vụ hoạch định chính sách nhà nước và chịu trách nhiệm trước chính sách đưa ra đó. Hiến pháp cũng phải xác định trách nhiệm của Chính phủ đối với chính sách của mình nhưng cơ chế trách nhiệm chưa được làm rõ.
Đặc biệt, vấn đề trách nhiệm tiêu cực của Chính phủ (Chính phủ có bị bất tín nhiệm, bị giải tán giữa nhiệm kỳ như Hiến pháp năm 1946 đã có quy định hay không) thì vẫn như các Hiến pháp trước là không được quy định. Khi Hiến pháp không (hoặc chưa) nêu vấn đề này, có nghĩa là sự thể hiện vị trí, vai trò của Chính phủ với tính cách là cơ quan thực hiện quyền hành pháp là chưa hoàn toàn thành công.
Bản năng của Chính phủ với tính cách là cơ quan thực hiện quyền hành pháp – hoạch định và thực thi chính sách quốc gia – đòi hỏi phải có cơ chế cộng đồng trách nhiệm rất cao.
Các phiên họp Chính phủ phải được tổ chức sao hoc ó thể bảo đảm để các thành viên thẳng thắn bàn thảo các vấn đề gai góc của quốc gia, giải quyết những xung đột về lợi ích trong hoạch định chính sách. Tính trách nhiệm tập thể thể hiện một Chính phủ thực thi quyền lực "mạnh mẽ và sáng suốt".
Đương nhiên, đi cùng với tính trách nhiệm tập thể đoàn kết, thống nhất này phải là cơ chế chịu cùng trách nhiệm tập thể chung – bị bất tín nhiệm, bị lật đổ. Cơ chế đó chính là góp phần đề cao vị trí của Chính phủ đúng với tính chất thực hiện quyền hành pháp của nó.
Dĩ nhiên ở đây vai trò của Bộ Chính trị có thể xem tương tự như quyền lực tối cao kiểu "Nữ hoàng Anh", "Nhật hoàng" hay Quốc Vương Maha Vajiralongkorn của Thái Lan.
Nguyễn Huyền
Nguồn : VNTB, 13/11/2020
**********************
Có nên vận dụng mô hình tam quyền phân lập vào Việt Nam hiện nay ?
Khánh Hòa, VNTB, 13/11/2020
Quan điểm của Đảng : chưa nên và không nên vận dụng vào Việt Nam hiện nay
Chuyên mục "Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng" của tạp chí Tuyên Giáo (Ban Tuyên giáo Trung ương), trong bài viết đăng ngày thứ Sáu, 6/7/2018, tác giả ký tên kèm học vị Phó Giáo sư Tiến sĩ Trần Văn Phòng, đã cho rằng : "Mô hình tam quyền phân lập mang tính lịch sử, xã hội và sự vận dụng còn phụ thuộc vào truyền thống văn hóa, điều kiện lịch sử, quan hệ cũng như tương quan lực lượng giữa các giai cấp và trong từng giai cấp trong xã hội. Cho nên, chưa nên và không nên vận dụng vào Việt Nam hiện nay" (*).
Hiện tại, dường như bất kỳ ai cứ kiên trì cổ vũ cho một Việt Nam "tam quyền phân lập" là dễ đối mặt với nhóm tội danh xâm phạm an ninh quốc gia, được quy định tại Chương XIII, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi 2017).
Phó Giáo sư Tiến sĩ Trần Văn Phòng biện giải như sau về ý kiến chưa nên và không nên vận dụng tam quyền phân lập vào Việt Nam hiện nay :
Trước tiên, quyền lực nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thống nhất, mà quyền lực này thuộc về Nhân dân. Điều 2, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Hiến pháp 2013) ghi rõ :
"1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp".
Khi quyền lực nhà nước thống nhất thuộc về nhân dân thì quyền lực này về nguyên tắc không chia sẻ uant nhân hay tổ chức nào khác. Về bản chất, các cơ quan nhà nước khi thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là thực hiện các quyền của nhân dân giao phó, ủy quyền.
Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp theo quy định của Hiến pháp 2013 và Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân (2015) cũng do nhân dân bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp có trách nhiệm, nghĩa vụ phục vụ nhân dân, thực hiện nhiệm vụ mà nhân dân ủy quyền. Điều 94, Hiến pháp 2013 quy định : "Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước". Điều 102, Hiến pháp 2013 quy định :
1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.
2. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định.
3. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân".
Điều 107, Hiến pháp 2013 quy định :
"1. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.
2. Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định.
3. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất".
Như vậy, uant quan lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước Việt Nam đều có mục đích duy nhất là phục vụ nhân dân.
Trên thực tế, uant quan này đều thực hiện quyền lực của nhân dân ủy quyền. Hơn nữa, trong Nhà nước Việt Nam có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Điều 69, Hiến pháp 2013 quy định : Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Như vậy, về bản chất quyền lực của nhân dân không thể phân chia. Nhà nước Việt Nam không cần tới mô hình tam quyền phân lập bởi sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp vì mục tiêu phục vụ Nhân dân được bảo đảm và thực hiện tốt.
"Ở Việt Nam, như trên chúng ta đã khẳng định, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức,v.v.. thống nhất và bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, kể cả đối với quyền và nghĩa vụ trong thực hiện quyền lực nhà nước. Các giai cấp này chỉ có một mục tiêu duy nhất là làm cho "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Do vậy, không cần phải nói tới việc phân chia quyền lực giữa các giai cấp này cũng như trong nội bộ từng giai cấp này. Từ đây cho thấy, những người hô hào phải vận dụng mô hình tam quyền phân lập vào nhà nước Việt Nam là những người ủng hộ đa đảng, đa nguyên chính trị. Mà điều này là không phù hợp thực tế Việt Nam cả về mặt lý luận, cả về mặt thực tiễn" – Phó Giáo sư Tiến sĩ Trần Văn Phòng.
Khi viết bài báo trên, Phó Giáo sư Tiến sĩ Trần Văn Phòng là Viện trưởng Viện Triết học – Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Lập pháp – hành pháp – tư pháp của Việt Nam hiện nay ?
Luật tổ chức Chính phủ, phiên bản 2015, ở Điều 1, ghi : "Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội".
Tuy nhiên có một thực tế là tất cả các cơ quan trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều tham gia thực hiện quyền hành pháp ở những mức độ khác nhau.
Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước đồng thời được trao nhiều quyền hạn trong cả 3 lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong lĩnh vực hành pháp, những quyền năng của Chủ tịch nước thể hiện khá nổi trội. Có thể liệt kê một số nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước trong lĩnh vực hành pháp như sau :
Một. Chủ tịch nước tham gia thành lập bộ máy Chính phủ. Khoản 2 Điều 88 Hiến pháp năm 2013 quy định Chủ tịch nước có quyền : "Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ ; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ".
Hai. Quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương, các giải thưởng nhà nước, danh hiệu vinh dự nhà nước ; quyết định cho nhập quốc tịch, thôi quốc tịch, trở lại quốc tịch hoặc tước quốc tịch Việt Nam.
Ba. Thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh, quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân ; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.
Bốn. Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Ủy ban thường vụ Quốc hội, công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh ; căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp ; trong trường hợp ủy ban thường vụ Quốc hội không thể họp được, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương.
Năm. Tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài ; căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm ; quyết định cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ; phong hàm, cấp đại sứ ; quyết định đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước ; trình Quốc hội phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế quy định tại khoản 14 Điều 70 ; quyết định phê chuẩn, gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế khác nhân danh Nhà nước.
Như vậy, Chủ tịch nước có vị trí đặc biệt và giữ vai trò quan trọng, là trung tâm của ba nhánh quyền : lập pháp – hành pháp – tư pháp.
Với chính quyền địa phương, theo quy định của Hiến pháp năm 2013 : "Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật định ; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân" (khoản 2 Điều 113). "Ủy ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương ; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao" (khoản 2 Điều 114).
Như vậy, Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân thực hiện hai hoạt động : hoạch định chính sách và triển khai thực hiện pháp luật trong phạm vi địa phương. Đây cũng chính là những nội dung cơ bản của quyền hành pháp.
Xét dưới góc độ lý luận và luật thực định, chủ thể thực hiện quyền hành pháp không chỉ giới hạn bởi hệ thống cơ quan hành pháp mà còn được thực hiện mở rộng bởi các cơ quan quyền lực và cơ uant ư pháp, Chủ tịch nước và chính quyển địa phương. Nói cách khác, quyền hành pháp không phải là quyền độc tôn của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước.
Tất cả các cơ quan trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều tham gia thực hiện quyển hành pháp ở những mức độ khác nhau.
Từ góc nhìn ở trên, cho thấy với mô hình tập quyền xã hội chủ nghĩa – nói theo ngôn ngữ Tuyên giáo Đảng, quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công, phân nhiệm chứ không phân quyền một cách cơ học, cứng nhắc như mô hình tam quyền phân lập của các nước tư sản.
Điều đó cũng có nghĩa là khi trao quyền hành pháp cho Chính phủ, Quốc hội vẫn giữ lại những thẩm quyền mang tính hành pháp. Trong khi triển khai quyền tư pháp, để đảm bảo hoạt động của mình Tòa án nhân dân vẫn thực hiện những công việc mang tính hành pháp.
Ngược lại, Chính phủ và Tòa án cũng phối hợp với Quốc hội thực hiện quyền lập pháp thông qua việc thực hiện quyền sáng kiến lập pháp, đệ trình soạn thảo các dự án luật. Mặt khác quy định về thẩm quyền đại xá của Quốc hội (khoản 11 Điều 70), về bản chất đây cũng là thẩm quyền mang tính tư pháp.
Và trên hết, tất cả những cơ quan kể tên ở trên đều phải đặt dưới quyền điều hành của Bộ Chính trị, chính điều đó dẫn đến nghi ngại về sự khách quan trong quản trị quốc gia. Việc một số ý kiến rằng thể chế chính trị Việt Nam cần rạch ròi hơn nữa về 3 nhánh quyền lực này là một đề xuất cần thiết tranh luận khoa học, thay cho quy chụp hình sự hóa.
Khánh Hòa
Nguồn : VNTB, 13/11/2020
Chú thích :
(*)http://tuyengiao.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/co-nen-van-dung-mo-hinh-tam-quyen-phan-lap-vao-viet-nam-hien-nay/113244
*********************
Cần phải có điều luật hình sự về tội chống Đảng Cộng sản
Hoài Nguyễn, VNTB, 12/11/2020
Từ trải nghiệm trong công tác thỉnh giảng ở khoa Luật của một trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh, tôi từng được một số sinh viên ‘chất vấn’ thế này khi thảo luận về môn học luật hình sự :
Trên thực tế chẳng cá nhân, nhóm hội đoàn dân sự nào dại dột đi chống nhà nước có lực lượng quân đội chính quy. Cái mà họ chống đó là chống chủ nghĩa cộng sản, tức chống Đảng Cộng sản. Ảnh minh họa
Thứ nhất, làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân : Đây là hành biên soạn, in, viết, vẽ, cất giữ, cất giấu, phát ra, truyền ra rộng rãi, truyền miệng, phao tin, thông qua hội giảng, bài viết… để xuyên tạc, đả kích các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong các lĩnh vực quản lý kinh tế, quản lý xã hội, quản lý cán bộ, nói xấu công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nói xấu lãnh tụ, cán bộ, công chức nhà nước, xuyên tạc lịch sử, kích động kêu gọi tiến hành các hoạt động chống Đảng Cộng sản, chứ không phải chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam…
Sở dĩ gọi là chống Đảng, vì Hiến pháp quy định Đảng chịu trách nhiệm quản lý toàn diện đời sống chính trị – xã hội ở Việt Nam.
Sinh viên thắc mắc : Tội hình sự vì sao không dành điều khoản nào về chế tài hành vi của chống Đảng ?
Thứ hai, làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân : Đây là hành biên soạn, in, viết, vẽ, cất giữ, cất giấu, phát ra, truyền ra rộng rãi, truyền miệng, phao tin, thông qua hội giảng, bài viết… để kích động, xuyên tạc đánh vào tâm lý của nhân dân, tạo ra sự sợ hãi, tư tưởng cầu an hoặc bịa đặt, tung tin thất thiệt gây hoang mang, nghi ngờ trong nhân dân.
Tương tự với nội dung thứ nhất, Đảng là cơ quan tối cao cho mọi chỉ đạo, điều hành quốc gia. Do vậy, các hành vi được cho là vi phạm pháp luật hình sự đó, thực chất là nhằm tới sự độc quyền toàn trị của Đảng. Do đó, điều luật hình sự phải có nội dung nào đó liên quan về vi phạm quyền Hiến định mà Đảng thụ đắc, ghi rõ tại Điều 4.1, Đảng "là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội".
Thứ ba, làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm gây chiến tranh tâm lý : Đây là hành vi biên soạn, in, viết, vẽ, cất giữ, cất giấu, phát ra, truyền ra rộng rãi, truyền miệng, phao tin, thông qua hội giảng, bài viết… và hành vi sử dụng những luận điệu chiến tranh tâm lý của địch để tuyên truyền, kích động, xuyên tạc… đánh vào tâm lý của nhân dân như tuyên truyền luận điệu chiến tranh tâm lý ; tuyên truyền lối sống hiện sinh, sống gấp ; tuyên truyền các học thuyết tư sản, phản động…
Những gì đề cập ở vấn đề thứ ba này, cũng tương tự như hai nội dung kể trên, chủ yếu là thuộc vấn đề về thể chế chính trị, chứ không phải là các phần việc mang tính nguyên tắc của tư pháp – hành pháp và cả lập pháp.
Từ tóm tắt quy định của Điều 117 Bộ luật Hình sự năm 2015 như ở trên, theo ý kiến của sinh viên khi bàn luận, là có thể rút ra một số vấn đề hạn chế sau đây về pháp luật hình sự hiện hành :
Một là, các hành vi phạm tội về tuyên truyền chống nhà nước đã được quy định một cách thống nhất về cách thức, các nhóm hành vi phạm tội tại các điểm a, b, c khoản 1 Điều 117 được quy định giống nhau về các hành vi phạm tội và khác nhau về nội dung thông tin, tài liệu, vật phẩm được sử dụng trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội.
Tuy nhiên, việc tách thành 3 điểm a, b, c khoản 1 Điều 117 chỉ dựa vào nội dung thông tin, tài liệu, vật phẩm được sử dụng trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội là không cần thiết. Đặc biệt nội dung thông tin, tài liệu, vật phẩm được sử dụng trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội ở điểm b và điểm c rất khó phân biệt trong thực tiễn áp dụng, nếu không muốn nói là trùng nhau. Bởi lẽ, việc gây chiến tranh tâm lý cũng là nhằm vào nhân dân, cũng là gây tâm lý sợ hãi, hoang mang trong nhân dân.
Hai là, qua tìm hiểu các bản án hiệu lực, có thể thấy công tác điều tra, truy tố, xét xử số đối tượng được cho là phạm tội này, thì nếu nói theo ngôn từ cáo buộc của cơ quan tố tụng, cho thấy ngoài hành vi làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, còn là hành vi tuyên truyền chống Đảng Cộng sản Việt Nam.
Việc tuyên truyền chống Đảng Cộng sản Việt Nam chính là hành vi làm mất uy tín, làm suy yếu lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
Tuyên truyền với nội dung chống Đảng thậm chí còn nguy hiểm hơn một số nội dung tuyên truyền được quy định tại Điều 117 Bộ luật Hình sự năm 2015. Do vậy, theo ý kiến của một số sinh viên, việc Bộ luật Hình sự năm 2015 chỉ quy định về hành vi làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà chưa có quy định nào về hành vi tuyên truyền chống Đảng Cộng sản Việt Nam là chưa đầy đủ.
Vấn đề này đưa đến hệ lụy là cơ quan tố tụng của Việt Nam có dấu hiệu hình sự hóa quan hệ dân sự về quyền tự do chính trị, trong đó có quyền phê phán Đảng, mà sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn kêu gọi cần phải biết cầu thị lắng nghe trong vấn đề "Phê và tự phê".
Ba là, khoản 2 Điều 117 quy định "Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm".
Vậy hiểu thế nào là phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng ? Hành vi nào trong các hành vi làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được coi là phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng.
Vấn đề này cho đến nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật hình sự nào hướng dẫn một cách rõ ràng, gây khó khăn cho thực tiễn áp dụng pháp luật.
Qua nghiên cứu kỹ thuật lập pháp ở một số tội danh cùng nhóm xâm phạm an ninh quốc gia như "Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân" ; "Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ" ; "Tội bạo loạn"… cho thấy, trong cấu thành cơ bản (khung hình phạt nặng nhất) của các điều luật này đều có quy định trường hợp "Người tổ chức, người xúi giục, người hoạt động đắc lực hoặc gây hậu quả nghiêm trọng" là những yếu tố định khung.
Hoài Nguyễn
Nguồn : VNTB, 12/11/2020