Biển Đông : Mỹ dùng chiến thuật "áp lực tối đa" đối với Trung Quốc
Mai Vân, RFI, 17/06/2020
Ba hàng không mẫu hạm Mỹ đồng thời tuần tra ở Châu Á, oanh tạc cơ B-1B được triển khai trên đảo Guam miền tây Thái Bình Dương, từ đó tiến hành các phi vụ trên Biển Đông, máy bay trinh sát không người lái Global Hawk cũng được đưa tới Nhật Bản để làm nhiệm vụ trong khu vực...
Tàu sân bay Mỹ USS Nimitz trên Thái Bình Dương ngày 02/06/2020 USS Nimitz (CVN 68) - Seaman Keenan Daniels
Đối với giới phân tích, rất hiếm khi Hoa Kỳ tung một lực lượng hùng hậu như vậy đến vùng biển Châu Á, một quyết định gắn liền với việc Trung Quốc ngày càng gia tăng các hành động khống chế Biển Đông.
Trong một bài viết ngày 15/06/2020 mang tựa đề khá châm biếm : "Ba tàu sân bay Mỹ tuần tra cùng một lúc ở Thái Bình Dương. Và Trung Quốc không vui - Three US Navy aircraft carriers are patrolling the Pacific Ocean at the same time. And China's not happy", kênh truyền thông Mỹ CNN đã nêu bật phản ứng tức tối của Bắc Kinh trước hành động phô trương lực lượng để răn đe của Mỹ.
Ba hàng không mẫu hạm đồng thời hoạt động ở Thái Bình Dương
CNN trước hết xác nhận sự hiện diện đồng thời của ba hàng không mẫu hạm Mỹ trên vùng biển Thái Bình Dương, hai chiếc ở miền tây, chiếc còn lại đã tiến vào khu vực phía đông.
Trích dẫn các thông cáo báo chí do chính Hải Quân Mỹ công bố, CNN cho biết là hai chiếc tàu sân bay USS Ronald Reagan và USS Theodore Roosevelt đang tuần tra ở vùng biển miền tây Thái Bình Dương, trong lúc chiếc USS Nimitz cùng với hải đội hộ tống - rời cảng San Diego ở California ngày 08/06 - hiện đã có mặt ở phía đông.
Ý định phô trương uy lực của Hải Quân Mỹ được thấy rõ qua việc bộ Quốc Phòng không ngần ngại công bố hình ảnh về hoạt động của các nhóm tàu sân bay. Mạng Twitter của Hải Quân Mỹ đã liên tục đưa tin và đăng ảnh về các cuộc tập huấn của hai chiếc Theodore Roosevelt và Ronald Reagan trên Biển Philippines. Bộ Quốc Phòng Mỹ cũng công bố hình ảnh về hoạt động của tàu sân bay Nimitz ở Thái Bình Dương.
Theo CNN, với mỗi chiếc tàu chở theo hơn 60 chiến đấu cơ, đây là cuộc triển khai hàng không mẫu hạm lớn nhất ở vùng biển Châu Á từ năm 2017 đến nay. Năm 2017 là thời điểm căng thẳng với Bắc Triều Tiên về chương trình hạt nhân lên đỉnh cao.
Thông điệp "răn đe" gởi đến Bắc Kinh
Ý nghĩa phô trương uy lực của việc triển khai đồng thời ba chiếc tàu sân bay, kèm theo toàn bộ các hải đội tác chiến hùng hậu đã được chính các lãnh đạo Hải Quân Mỹ nêu bật.
Trả lời hãng tin Mỹ AP ngày 12/06, chuẩn đô đốc Stephen Koehler, chỉ huy tác chiến Bộ Tư Lệnh Ấn Độ - Thái Bình Dương của Hải Quân Mỹ khẳng định : "Tàu sân bay và các nhóm tác chiến tàu sân bay là biểu tượng sức mạnh hải quân của Mỹ. Tôi rất mừng với việc triển khai đến ba chiếc vào lúc này".
Dù không nói rõ mục tiêu của việc triển khai, nhưng chuẩn đô đốc Koehler ghi nhận tình trạng Trung Quốc đang quân sự hóa các thực thể trên Biển Đông, bố trí trên đó các tên lửa và hệ thống tác chiến điện tử, trong bối cảnh các hoạt động của Mỹ cùng các đồng minh và đối tác có dấu hiệu chưa ngăn chặn được tham vọng của Bắc Kinh.
Giới phân tích thấy rằng qua việc triển khai đồng thời ba nhóm tàu sân bay đến Châu Á, Washington muốn gởi thông điệp răn đe đến Bắc Kinh.
Trả lời hãng AP, bà Bonnie Glaser, chủ nhiệm Dự Án Sức Mạnh Trung Quốc thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược và Quốc Tế (CSIS), trụ sở tại Mỹ, nhận định : "Truyền thông Trung Quốc cho rằng khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội Mỹ đang suy giảm mạnh vì dịch Covid-19, (do đó) đợt triển khai có dấu hiệu là thông điệp của Mỹ nhằm cảnh báo Trung Quốc đừng tính toán sai lầm".
Bắc Kinh tức tối buông lời đe dọa
Dẫu sao động thái cứng rắn rõ rệt của Mỹ đã làm dấy lên phản ứng bực tức từ phía Bắc Kinh, với các phương tiện truyền thông Trung Quốc đồng loạt lên tiếng đe dọa Hoa Kỳ.
Đi đầu trong việc hù dọa vẫn là tờ Hoàn Cầu Thời Báo tại Bắc Kinh. Theo CNN, hôm 14/06, tờ báo này tỏ ý lo ngại rằng các tàu sân bay Mỹ có thể là mối đe dọa đối với các đơn vị quân đội Trung Quốc đồn trú tại Biển Đông.
Trích dẫn một chuyên gia về hải quân ở Bắc Kinh, Hoàn Cầu Thời Báo tố cáo Mỹ "thực hiện chính sách bá quyền" khi đưa lực lượng hùng mạnh vào Biển Đông và đe dọa quân đội Trung Quốc ở những vùng mà Bắc Kinh gọi là Tây Sa và Nam Sa, tức là Hoàng Sa và Trường Sa.
Trang web tiếng Anh của quân đội Trung Quốc cũng có nhận định tương tư, và khẳng định Trung Quốc có thể tổ chức tập trận đáp trả để cho thấy hỏa lực của mình. Bài viết còn nêu rõ : "Trung Quốc cũng có tàu sân bay với vũ khí "sát thủ tàu sân bay’ như tên lửa đạn đạo chống hạm DF-21D và DF-26".
Tàu sân bay Mỹ không hề bị điêu đứng vì Covid-19
Theo giới quan sát, sở dĩ Bắc Kinh đã có phản ứng tức tối, đó là vì với việc triển khai nói trên, Mỹ đã phá vỡ hoàn toàn luận điệu xuyên tạc của Bắc Kinh gần đây theo đó Hải Quân Mỹ đã bị virus corona đánh gục.
Chuyên gia Collin Koh, thuộc Viện Nghiên cứu Quốc phòng và Chiến lược tại Singapore, nhận định : Sự hiện diện các tàu sân bay Mỹ trên biển Châu Á đã "đi ngược lại với điều mà Trung Quốc mô tả là Mỹ bị áp lực khó khăn ở Thái Bình Dương".
Cũng phải nói là tàu sân bay Theodore Roosevelt đã chỉ hoạt động trở lại từ ngày 04/06, sau mấy tuần lễ phải án binh bất động ở Guam do virus corona bộc phát trên tàu vào tháng Ba. Trong lúc đó chiếc Ronald Reagan cũng phải thả neo ở Nhật Bản chờ được bảo đảm là không bị một ca Covid-19 nào một khi ra biển.
Oanh tạc cơ B-1B và trinh sát cơ Global Hawk trên Biển Đông
Mỹ không chỉ gây sức ép với Trung Quốc ở trên biển mà còn gia tăng thị uy trên không bằng cách cho oanh tạc cơ hiện đại B-1B Lancer và trinh sát cơ không người lái Global Hawk RQ-4 đến hoạt động ở Biển Đông và các khu vực khác tại Thái Bình Dương.
Mỹ còn gia tăng thị uy trên không bằng cách cho oanh tạc cơ hiện đại B-1B Lancer và trinh sát cơ không người lái Global Hawk RQ-4 đến hoạt động ở Biển Đông
Theo tin được kênh truyền hình Mỹ Fox News tiết lộ hôm 10/06 vừa qua, Không Quân Mỹ đã xác nhận việc sử dụng một phi đội máy bay ném bom B-1B trú đóng trên đảo Guam để hỗ trợ cho Bộ Tư Lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương, trong các nhiệm vụ trên Biển Đông.
Bên cạnh đó, phi cơ do thám hiện đại không người lái Global Hawk RQ-4 cũng được vận chuyển tới căn cứ không quân Yokota tại Nhật Bản nhằm tăng cường hơn nữa hoạt động của Mỹ trong khu vực.
Đối với các chuyên gia, Quân Đội Mỹ đã tăng cường hoạt động trong khu vực để sẵn sàng đối phó với các động thái của Trung Quốc ở cả Biển Đông lẫn vùng eo biển Đài Loan, nơi đồng minh của Mỹ đang gặp sức ép nặng nề từ Bắc Kinh.
Mai Vân
Nguồn : RFI, 17/06/2020
********************
Biển Đông : Trung Quốc phản ứng trước ba nhóm mẫu hạm Mỹ
BBC, 15/06/2020
Lần đầu tiên kể từ ba năm qua, Hải quân Hoa Kỳ triển khai cùng lúc các nhóm hàng không mẫu hạm ở Thái Bình Dương.
Ba hàng không mẫu hạm sử dụng năng lượng hạt nhân USS Ronald Reagan, USS Theodore Roosevelt và USS Nimitz đã được đưa vào vùng biển Thái Bình Dương
Hôm thứ Năm tuần trước, ba mẫu hạm sử dụng năng lượng hạt nhân cùng nhóm các tàu tuần dương hạm và khu trục hạm hộ tống đã đi vào vùng biển được đánh giá là nhạy cảm chiến lược đối với Trung Quốc đại lục.
Các tàu USS Ronald Reagan và USS Theodore Roosevelt đang tuần tra ở vùng Tây Thái Bình Dương, còn tàu USS Nimitz hoạt động ở vùng phía Đông, theo nội dung thông cáo báo chí của Hải quân Hoa Kỳ.
Ngay lập tức, Bắc Kinh phản ứng mạnh mẽ.
Truyền thông Trung Quốc nói nước này sẽ không lui bước trong việc bảo vệ các lợi ích của mình ở khu vực.
Hoàn cầu Thời báo hôm Chủ Nhật 14/6 nói việc Mỹ triển khai ba cụm tàu hùng hậu vào vùng biển gần Trung Quốc được hiểu theo nghĩa nhằm đưa ra lời cảnh cáo cho Trung Quốc.
Báo này dẫn lời các chuyên gia quân sự, theo đó đánh giá rằng điều này cho thấy Mỹ đang thể hiện ý định giành quyền bá chủ về chính trị trong khu vực, và rằng Trung Quốc có thể sẽ ứng phó bằng việc tổ chức tập trận cũng như thể hiện khả năng và lòng quyết tâm trong việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ.
Dịch chuyển trên cho thấy Hoa Kỳ "có thể vào Biển Hoa Nam (cách Trung Quốc gọi Biển Đông) và đe dọa quân lính Trung Quốc trên các quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa, theo cách gọi của Việt Nam)", Hoàn cầu Thời báo dẫn lời Lý Kiệt (Li Jie), chuyên gia hải quân từ Bắc Kinh, nói.
Hiện Hoa Kỳ để tổng số bảy hàng không mẫu hạm ở Thái Bình Dương. Bốn chiếc khác đang nằm cảng để bảo dưỡng, theo tường thuật của CNN.
Việc triển khai tàu diễn ra vào thời điểm đang có căng thẳng gia tăng giữa Washington và Bắc Kinh quanh chuyện quan hệ thương mại song phương và các vấn đề liên quan đến Biển Đông, Đài Loan và Hong Kong.
Hồi tuần trước, một trực thăng vận tải của Hải quân Hoa Kỳ bay qua bầu trời Đài Loan tới Thái Lan, thực hiện một chuyến bay mà Mỹ gọi là phục vụ hậu cần.
Bắc Kinh gọi chuyến bay đó là "hành động bất hợp pháp và khiêu khích nghiêm trọng", theo Tân Hoa Xã.
"Việc bay qua không phận đó làm xói mòn chủ quyền, an ninh và các quyền lợi của Trung Quốc, và vi phạm luật quốc tế cùng các quy tắc căn bản trong quan hệ quốc tế", Tân Hoa Xã dẫn lời Chu Phượng Liên (Zhu Fenglian), phát ngôn viên phụ trách vấn đề Đài Loan của Quốc Vụ viện Trung Quốc.
Các lực lượng hải quân và không quân Trung Quốc trong năm nay cũng đã nhiều lần tìm cách xua các tàu chiến Hoa Kỳ ra khỏi vùng biển quanh Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trong hoạt động mà Mỹ nói là "thực thi quyền tự do đi lại trên biển" nhưng Bắc Kinh nói là "tiến vào trái phép vùng lãnh hải của Trung Quốc".
Trung Quốc dọa thiết lập "Vùng nhận diện phòng không" (ADIZ-Air Defense Indentification Zone) ở Biển Đông để chống ai ?
Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng - Ảnh minh họa
Lời giới thiệu : Câu hỏi đang đặt ra ở Biển Đông là Trung Quốc có âm mưu gì khi bất ngờ gia tăng đe dọa và phủ nhận quyền chủ quyền của các nước có tranh chấp lãnh thổ với Bắc Kinh gồm Việt Nam, Phi Luật Tân, Nam Dương, Mã Lai và Brunei, vào lúc cả thế giới lo phòng, chống dịch nạn Vũ Hán, xuất phát từ Trung Quốc từ đầu năm 2020 (Coronavirus disease 2019-Covid-19).
Để trả lời cho thắc mắc này, cũng như liệu tranh chấp giữa Mỹ và Trung Quốc ở Biển Đông có đưa đên nguy cơ chiến tranh hay không, xin mời bạn đọc theo dõi nội dung Cuộc phỏng vấn của tôi với Giáo sư ngoại hạng (Professor Emeritus), Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hùng, người từng giảng dậy nhiều năm về Quan hệ Quốc tế tại Đại học George Mason, gần Thủ đô Hoa Thịnh Đốn.
Giáo sư Hùng là Học giả cao cấp bất thường trú của Trung tâm nghiên cứu Chiến lươc và quan hệ Quốc tế ở Washington, D.C. (Center for Strategic and International Studies, CSIS). Ngoài ra ông còn là Học giả vãng lai hai niên khóa 2015-2016 tại viện nghiên cứu nổi tiếng ISEAS-Yusof Ishak Institute, Tân Gia Ba.
Các bài nghiên cứu của ông, phần lớn về Châu Á và Đông Nam Á được đăng trên các Tạp chí chuyên môn (professional journals) như World Affairs, Asian Survey, Pacific Affairs, Global Asia, The Diplomat, Asia Pacific Bulletin và CogitAsia.
Phạm Trần
****
Âm mưu thâm độc của Trung Quốc
Phạm Trần : Thưa Giáo sư, sau vụ Trung Quốc cho tầu Hải Dương 8 vào tận bãi Tư Chính, cách Vũng Tầu chỉ lối 370 cây số hướng Đông-Nam, để thăm dò dầu khí dài tới 113 ngày (4/7 – 14/10/2019), thì từ đầu năm 2020, Trung Quốc lại gia tăng các hoạt động đe dọa an ninh bất thường ở Biển Đông trong thời gian có bệnh dịch Covid 19 phát xuất từ Vũ Hán (Trung Quốc), trong đó có những việc cụ thể như : xây dựng thêm hai "trạm nghiên cứu" mới tại đá Chữ Thập và đá Subi (tháng 03/2020) ; tấn công tầu đánh cá của Việt Nam ngày 3/4 ; ra lệnh cấm đánh bắt 3 tháng, từ 1/5 đến khoảng 16/ 8 ; công bố thành lập 2 huyện Hoàng Sa và Trường Sa (18/4) ; đặt tên và định vị tọa độ cho 25 đảo, bãi đá ngầm cùng 55 thực thể địa lý dưới đáy biển ở Biển Đông ; phần lớn nằm trong quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.
Xin ông nhận định về những sự kiện này, và liệu việc làm của Trung Quốc xẩy ra vào lúc cả Thế giới tập trung lo phòng và chữa dịch Vũ Hán có hậu ý gì khác ngoài chủ trương muốn chiếm thế thượng phong ở Biển Đông ?
Nguyễn Mạnh Hùng : Thưa ông, những người nghiên cứu chiến lược đều biết rõ rằng mục tiêu tối hậu của Trung Quốc là độc chiếm Biển Đông, từng bước đẩy Hoa Kỳ ra ngoài, và giảm thiểu tối đa ảnh hương quân sự của Hoa Kỳ trong vùng biển quan trọng này. Chính sách để thực hiện mục tiêu đó có tính cách uyển chuyển và thời cơ. Tất cả những điều ông nói phản ánh chính sách này, mỗi khi có cơ hội Trung Quốc lại lấn thêm môt bước nhỏ quan trọng nhưng không đủ sốc để gây ra chiến tranh, nhằm tạo ra những "sự đã rồi"(fait accompli) trong việc thưc hiện mục tiêu tối hậu. Đại dịch Covit-19 khiến nhiều nước, nhât lá các nước trong khu vực và Hoa Kỳ phải tập trung vào việc đối đầu với nó đã tạo cho Trung Quốc cơ hội này. Thế thượng phong ở Biển Đông thì Trung Quốc đã tạo đươc từ năm 2017 qua việc tân tạo và quân sự hóa đá Chữ Thập, bãi Vành Khăn, và bãi Subi. Tam giác chiến lươc này cho Trung Quốc khả năng phóng chiếu sức mạnh quân sự đến tất cả các đá và bãi trên Biển Đông. Đô đốc Philip Davidson, Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, đã cảnh báo từ hai năm trước (2018) rằng Trung Quốc hiện có khả năng "kiểm soát" Biển Đông "trong mọi tình huống" trừ khi có chiến tranh vơi Hoa Kỳ.
Tại sao đồng loạt chống Tầu ?
Phạm Trần : Cũng trong khoảng thời gian này Trung Quốc đã gửi Công hàm cho Liện Hiệp Quốc bác bỏ quyền chủ quyền ở Biển Đông của Phi Luật Tân và Mã Lai đồng thời tái khẳng định chủ quyền duy nhất của Bắc Kinh trong vùng Lưỡi Bò (hay còn gọi là dường 9 Đoạn, chiếm 3/4 tổng diện tích trên 3 triệu cây số vuông). Nhưng Việt Nam cũng gửi Công hàm tới Liên Hiệp Quốc để bác yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong khi đó thì Nam Dương, vào ngày 26/05/2020, cũng đã gửi Công hàm đến Liên Hiệp Quốc để khẳng định "bản đồ 'đường 9 đoạn' Trung Quốc dùng cho yêu sách chủ quyền ở Biển Đông là thiếu cơ sở pháp lý, vi phạm nghiêm trọng UNCLOS 1982".
Như vậy, thưa ông, lý do nào đã thúc đẩy 4 quốc gia Phi Luật Tân, Mã Lai Á, Nam Dương và Việt Nam đã "cùng nhau đồng loạt" chống lại tham vọng chiếm trọn Biển Đông của Trung Quốc ?
Nguyễn Mạnh Hùng : Ngoài những hành động lấn lươt có từ trước, những hành động có tinh cách khiêu khích và thử thách gần đây -như việc chĩa súng radar vào tầu Philippines, đưa tầu khảo sát địa chất đươc hỗ trợ bởi hai tầu hải giám và môt tầu dân vệ biển đe dọa công ty khoan dầu West Capella hoạt đông trong vùng biển thuôc chủ quyên của Mã Lai Á, đánh chìm tầu đánh cá của Việt Nam, và tiếp tục cho ngư dân Trung Quốc đánh bắt cá trong khu vưc "ngư trường truyên thống" của họ bất chấp sư phản đối và xua đuổi của Indonesia- buộc các nước này phải lên tiếng.
Có hai điều đáng lưu ý trong trường hợp này.
Thứ nhất, các nước ASEAN tuy không cùng lên tiếng chung, nhưng các phản đối riêng lại xuất hiên gần như cùng một lúc và bênh vực lập truờng của nhau về chủ quyền biển đảo và ủng hộ Viêt Nam chống việc tầu Trung Quốc đâm chìm tầu cá Việt Nam.
Thứ hai, và có lẽ quan trọng hơn, là việc tầu sân bay và các tầu chiến của Hoa Kỳ đã có mặt để theo dõi tầu khảo sát của Trung Quốc, gián tiếp ủng hộ việc khai thác dầu khí của Mã Lai trong vùng biển mà họ có chủ quyền theo luật quốc tế và luật biển. Hai động thái này có ảnh hưởng hỗ tương. Sự hiện diên dồn dập của các tầu chiến Hoa Kỳ -USS Gabriel Giffords, USS Montgomery, USS Cesar Chavez, USS America, USS Bunker Hill, USS Barry, và USS Mustin- trong hai tháng 4 và 5, nhất là việc tầu chiến Hoa Kỳ lần đầu tiên hiện diện theo dõi tầu khảo sát của Trung Quốc khiến các quốc gia có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc mạnh dạn hơn trong việc cùng chống Trung Quốc. Ngược lại sự cương quyết của một số quốc gia ASEAN cùng lên tiếng chống sự lấn lướt của Trung Quốc khuyến khích Hoa Kỳ có phản ứng mạnh hơn, cụ thể hơn.
Mỹ và Biển Đông
Phạm Trần : Trước việc Hải quân Trung Quốc không ngừng phô trương sức mạnh quân sự đe dọa Đài Loan, một "thực thể đồng minh của Mỹ" ; tấn công đánh chìm một tầu đánh cá Việt Nam (04/2020) và gia tăng hành động nước lớn muốn "ăn hiếp" các nước nhỏ ở Đông Nam Á trong tranh chấp chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông và biển Hoa Đông (tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và Nhật Bản trong vụ đảo Điếu Ngư (Senkaku), Ngoại trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo, vào ngày 22/4/2020, đã tuyên bố cực lực phản đối Bắc Kinh và kêu gọi các Quốc gia khác buộc Trung Quốc phải chịu trách nhiệm về hành động của họ. Nhưng, trong khi đó thì Hải quân Mỹ cũng đã tuần tra "nhiều hơn" và "sát" hơn các vị trí biển-đảo mà Trung Quốc đã chiếm đóng ở Biển Đông.
Trong bối cảnh này, Giáo sư có nghĩ rằng Trung Quốc và Hoa Kỳ đang muốn "phô trương sức mạnh" xem ai là cường quốc quân sự ở Châu Á hay hai nước đang có những động tác có thể dẫn đến nguy cơ chiến tranh ở Châu Á ? (1).
Nguyễn Mạnh Hùng : Phô trương sức mạnh (show of force) là biện pháp thông thường để răn đe, làm áp lực mà không gây ra chiến tranh. Sự hiện diện dồn dâp của các tầu chiến Hoa Kỳ và việc tầu sân bay USS America và USS Gabrielle Giffords theo dõi tầu khảo sát địa chất của Trung Quốc trong vùng biển thuôc chủ quyền của Mã Lai Á mà tôi nói ở trên thuộc dạng này. Tuy nhiên, phô trương sức mạnh theo kiểu tầu chiến và máy bay tác chiến kèm sát nhau tao ra căng thẳng. Tình trạng căng thẳng này dễ đưa đến những va chạm, đụng độ không cố ý, có thể leo thang lên chiến tranh. Nếu Trung Quốc lấn tới mà Hoa Kỳ không chịu lùi thì không thể coi thường nguy cơ chiến tranh ơ Biển Đông.
Ngoài ra, nếu Hoa Kỳ thực sự có quyết tâm ủng hộ ASEAN chống sự "bắt nạt" của Trung Quốc, thì Hoa Kỳ cần làm một số việc như sau :
Thứ nhất, tuyên bố ủng hộ quyền các quốc gia Đông Nam Á khai thác dầu khí trong vùng biển thuộc chủ quyền của họ theo luật quốc tế và luật biển.
Thứ hai, để hỗ trợ cho lời nói, Hoa Kỳ phải tiếp tục cho tầu chiến, như trường hợp USS Gabrielle Giffords và USS America, biểu dương lực luợng và theo dõi tầu khảo sát địa chất của Trung Quốc đi vào vùng tranh chấp để đe dọa và ngăn cản không cho các nước trong khu vực khai thác tài nguyên của họ.
Thứ ba, tái thương thuyết để gia nhập Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP (Trans-Pacific Partnership Agreement), sau được đổi là Hiệp định Đối tác Toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP - Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership), môt cái neo kinh tế cho sự hiện diện của Hoa Kỳ ở Á châu-Thái Bình Dương (2).
Thứ tư, phê chuẩn công ước về luật biển 1982 để có tư cách chính thống đòi hỏi Trung Quốc tuân thủ luật biển.
Nga và Biển Đông
Phạm Trần : Thưa ông, là một trong những chuyên gia hàng đầu về các vấn đề chính trị quốc tế ở vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn, ông lý giải thế nào về thái độ, có vẻ như muốn "đứng ngoài" của Nga, đặc biệt là của Tổng thống Vladimir Putin, một đồng minh của cả Trung Quốc và Việt Nam, trong vấn đề Biển Đông ?
Nguyễn Mạnh Hùng : Nước Nga dưới thời Putin không còn có sức mạnh và tham vọng của Liên Xô trong thời cực thịnh của nó. Ngày nay, Nga chỉ có thể là kẻ phá đám (spoiler) chứ không phải là siêu cường ngang hàng với Hoa Kỳ và Trung Quốc, Nga liên kết vơi Trung Quốc để chống lại thế độc tôn của Hoa Kỳ, nhưng cũng không muốn là đối tác hạng hai của Trung Quốc. Vả chăng, Biển Đông ở quá xa Nga và sát nách với Trung Quốc.
Là cuờng quốc hạng hai Nga không có quyền lợi chiến lược và khả năng hành động hiệu quả ở Biển Đông trong thế cạnh tranh Mỹ-Trung. Điều này có thể giải thích lập trường lấp lửng của Nga.
Lập ADIZ - Trung Quốc muốn gì ?
Lập ADIZ - Trung Quốc muốn gì ?
Phạm Trần : Thưa Giáo sư, trong những ngày gần đây đã có tin, xuất phát từ báo South China Morning Post ở Hong Kong, nói rằng Trung Quốc sẽ công bố thiết lập Vùng nhận dạng phòng không (Air Defense Indentification Zone-ADIZ) ở Biển Đông, bao trùm lên Hoàng Sa và Trường Sa, sau khi Bắc Kinh đã làm như thế vào năm 2013 ở vùng Biển Hoa Đông tranh chấp với Nhật Bản (đảo Điếu Ngư/Senkaku).
Ông thấy quyết định này của Trung Quốc, trong tương lai, sẽ ảnh hưởng đến tình hình an ninh và giao thông trên không phận Biển Đông như thế nào ?
Nguyễn Mạnh Hùng : South China Morning Post đăng tin này như quả bóng thăm dò (trial balloon) của Trung Quốc. Vùng nhân dạng phòng không của Trung Quốc ở vùng biển Hoa Đông không được các máy bay quân sự ngoại quốc tôn trọng, nhưng nó buộc các hãng hàng không dân sự phải tuân thủ. Nếu Trung Quốc làm việc này ở Biển Đông, nó sẽ đặt các quốc gia có tranh chấp biển đảo vơi Trung Quốc vào một tình trạng khó xử. Chấp nhận có nghĩa là mặc nhiên công nhận đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc, nhưng chống lại thì không đủ sức. Ngược lại Trung Quốc cũng phải suy tính kỹ.
Một mặt, vùng nhận dạng phòng không phủ lên toàn thể đương lưỡi bò thì quá lớn chưa chắc không lực Trung Quốc có khả năng tuần tra, và phản ứng của Hoa Kỳ và các cường quốc khác sẽ rất mạnh khiến nó bị vô hiệu hóa.
Mặt khác,không làm được mà gây thù oán khiến nhiều nước và các cường quốc hợp lại với nhau để chống lại thì chưa chắc có lợi trong lúc này. Nếu họ chỉ tuyên bố vùng nhận dạng phòng không trên quần đảo Hoàng Sa thì lại là môt việc khác.
Nút thắt COC ở đâu ?
Phạm Trần : Như ông đã biết, cuộc thương thuyết về Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (Code of Conduct-COC) giữa Trung Quốc và ASEAN đã kéo dài gần 4 năm mà vẫn chưa có kết quả.
Xin ông có thể cho biết lý do và trở ngại ở "nút thắt" nào ?
Nguyễn Mạnh Hùng : Trở ngại chính là các nước ASEAN không đoàn kết và nhất trí vì quyền lợi bất đồng và bị Trung Quốc chi phối, trong khi đó Trung Quốc muốn kéo dài việc ký kết để có thời gian thực hiện các "việc đã rồi" hầu có thế thượng phong trong việc thương thuyết.
Ngoài ra trong khi ASEAN muốn bộ Quy tắc ứng xử có tính cách ràng buộc thì Trung Quốc không muốn thế. Việt Nam muốn bộ Quy tăc ứng xử áp dụng cho cả Trường Sa lẫn Hoàng Sa, điều mà Trung Quốc không muốn. Đó là chưa kể những bất đồng về cơ chế giải quyết tranh chấp và cách tiếp cận trong việc xử lý tranh chấp.
Phạm Trần : Thành thật cảm ơn Giáo sư.
Phạm Trần
(17/06/2020)
(1) Pompeo : "We've also seen that the Chinese Communist Party is exerting military pressure on Taiwan and coercing its neighbors in the South China Sea, even going so far as to sink a Vietnamese fishing vessel. We hope other nations will hold them to account". –State Department, 04/22/2020--
(2) Chú thích của Phạm Trần : Tài liệu của Bách khoa Toàn thư mở : Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (tiếng Anh : Trans-Pacific Partnership Agreement - viết tắt TPP) là một hiệp đinh/thỏa thuận thương mại tự do được ký kết giữa 12 nước vào ngày 4/2/2016 tại Auckland, New Zealand sau 5 năm đàm phán với mục đích hội nhập các nền kinh tế thuộc khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Thỏa thuận ban đầu được các nước Brunei, Chile, New Zealand và Singapore ký vào ngày 3 tháng 06, 2005 và có hiệu lực ngày 28/5/2006. Sau đó, thêm 5 nước đàm phán để gia nhập, đó là các nước Australia, Malaysia, Peru, Hoa Kỳ, và Việt Nam. Ngày 14/11/2010, ngày cuối cùng của Hội nghị thượng đỉnh APEC tại Nhật Bản, lãnh đạo của 9 nước (8 nước trên và Nhật Bản) đã tán thành lời đề nghị của tổng thống Mỹ Barack Obama về việc thiết lập mục tiêu của các cuộc đàm phán thuộc Hội nghị thượng đỉnh APEC năm 2011 diễn ra tại Hoa Kỳ. Vào cuối năm 2016, sau khi tổng thống Mỹ Donald Trump đắc cử, theo chính sách mới của Donald Trump, Mỹ đã chính thức rút khỏi hiệp định này.
Ngày 11/11/2017, các bộ trưởng TPP đã đạt được thoả thuận cơ bản cho hiệp định TPP-11, đồng thời thống nhất tên mới cho hiệp định là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP - Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership).
RCEP và COC là hai hồ sơ được kỳ vọng hoàn thiện trong nhiệm kỳ Việt Nam làm chủ tịch luân phiên ASEAN năm 2020 nhưng dịch Covid-19 đã làm đảo lộn tiến độ của cả hai hồ sơ thương mại và Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông. Cùng lúc, Trung Quốc tận dụng thời cơ dịch bệnh để tăng tốc hiện diện, phô diễn sức mạnh quân sự chèn ép các nước trong vùng, theo nhận định của nhiều nhà phân tích.
Lãnh đạo các quốc gia ASEAN họp trực tuyến về tình hình dịch Covid-19. Việt Nam làm chủ tịch luôn phiên năm 2020. Ảnh chụp từ chính phủ Thái Lan, ngày 14/04/2020. © Thailand Government House/Handout via Reuters
Biển Đông : Mặt trận bên ngoài thứ 3 của Trung Quốc
Trung Quốc từ lâu đã quen sách nhiễu hoạt động thăm dò dầu khí, tầu cá, liên tục vi phạm chủ quyền của Việt Nam, Indonesia, Malaysia và Philippines. Chiến lược ngày càng hung hăng của Trung Quốc có nguy cơ dẫn đến những xung đột mới với các nước lớn khác trong vùng, như Malaysia và Indonesia nằm sát gần những tiền đồn quân sự trên các đảo nhân tạo do Trung Quốc chiếm đóng và quân sự hóa ở Biển Đông.
"Hàng ngày có hàng chục tầu hải cảnh Trung Quốc khuấy đảo quanh các đảo ở Trường Sa và có hàng trăm tầu cá sẵn sàng ra khơi", theo nhận định của Greg Poling, giám đốc tổ chức Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á (AMTI), được trang CNN trích ngày 08/06/2020. Vẫn theo chuyên gia Poling, "những hòn đảo này đầy những radar giám sát. Chúng theo dõi được hết những gì xảy ra ở Biển Đông. Trong quá khứ, Trung Quốc không biết bạn khoan dầu ở đâu, giờ thì họ biết chính xác vị trí". Và dĩ nhiên kể cả mọi hoạt động của tầu thuyền trong vùng.
Về mặt hành chính, Trung Quốc ngang nhiên lập trái phép hai "quận" mới Tây Sa (Xisha) tại Hoàng Sa và Nam Sa (Nansha) ở Trường Sa, trực thuộc "thành phố Tam Sa" (Sansha) để hoàn thiện và củng cố hệ thống quản lý ở vùng biển chiến lược này. Về quân sự, Hải quân Trung Quốc liên tục tập trận ở Biển Đông từ cuối tháng 04 đến đầu tháng 05/2020, trong đó có cả tầu sân bay Liêu Ninh tham gia. Ngân sách quốc phòng cũng được Quốc hội Trung Quốc bỏ phiếu tăng thêm 6,6%. Về điểm này, giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân Sự Pháp (IRSEM) nhận định với RFI tiếng Việt :
"Kỳ họp Quốc hội hàng năm là sự kiện lớn, quan trọng đối với chính trị Trung Quốc. Kỳ họp lần này diễn ra sau đỉnh điểm khủng hoảng dịch tễ Covid-19 trong khi cách xử lý dịch của Trung Quốc bị phản đối từ trong nước lẫn ở nước ngoài, đặc biệt phải kể đến việc tổng thống Mỹ Donald Trump lên án Trung Quốc phải chịu trách nhiệm với quốc tế.
Trong bối cảnh căng thẳng, chính quyền Bắc Kinh cần phải khuấy động tinh thần dân tộc nhằm tái thể hiện sức mạnh Trung Quốc trước một sự kiện mang ý nghĩa lớn, đó là kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng cộng sản Trung Quốc vào năm 2021 (ngày 23/07/1921). Chính quyền trung ương tỏ rõ quyết tâm trong việc tập hợp, tăng cường đoàn kết dân tộc và khẳng định vị trí cường quốc bên trong lãnh thổ cũng như ở các vùng ngoại vi của nước này, như Đài Loan, Hồng Kông và mặt trận bên ngoài thứ ba chính là Biển Đông. Trong cả ba trường hợp, tầm cỡ tinh thần quốc gia và chính sách đối nội đều rất quan trọng".
ASEAN : Tìm ngoại lực nhưng cần đoàn kết nội lực
Biển Đông trở thành lá bài cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc. Không dừng ở việc tăng cường cuộc tuần tra bảo đảm tự do hàng hải (FONOPS) trên không và trên biển, Mỹ tiếp tục hỗ trợ trực tiếp nhiều nước Đông Nam Á có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông với Trung Quốc : Chỉ tính từ đầu năm 2020, tầu sân bay USS Theodore Roosevelt thăm cảng Đà Nẵng Việt Nam (tháng 03), chiến hạm Mỹ "hiện diện" gần khu vực giàn thăm dò dầu khí West Capella của Malaysia (tháng 04), tặng nhiều máy bay không người lái cho Hải quân Malaysia (tháng 05)…
Ngoài Philippines, ba nước khác có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc gồm Việt Nam, Malaysia và Indonesia, đã tỏ ra mạnh mẽ hơn trong việc bảo vệ chủ quyền và phản đối yêu sách của Bắc Kinh. Trên phương diện ngoại giao, ba nước lần lượt gửi công hàm lên Liên Hiệp Quốc phản đối "đường 9 đoạn" của Trung Quốc vi phạm Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển UNCLOS 1982.
Phía Việt Nam không nêu đích danh Trung Quốc đe dọa ổn định, hòa bình và thịnh vượng ở Biển Đông, nhưng tiếp tục khẳng định lập trường đàm phán để giải quyết tranh chấp trong Sách Trắng Quốc Phòng 2019 :
"Trong khi chờ đạt được một giải pháp cơ bản lâu dài cho vấn đề Biển Đông, Việt Nam và Trung Quốc cần nỗ lực giữ ổn định tình hình ở Biển Đông ; tuân thủ luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982 mà cả hai nước đều là thành viên ký kết ; nghiêm chỉnh thực hiện DOC, tiến tới xây dựng COC giữa ASEAN và Trung Quốc ; tuân thủ thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa hai nước ; Việt Nam ủng hộ và bảo vệ quyền tự do đi lại, an ninh, an toàn hàng hải và hàng không trên Biển Đông ; không có hành động làm phức tạp thêm tình hình hoặc mở rộng thêm tranh chấp, không quân sự hóa, không có hành động vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực".
Một sự kiện khác được nhiều chuyên gia nêu làm ví dụ cho những thay đổi tích cực mới trong quan hệ giữa Hà Nội và Washington, đó là Việt Nam, cũng như New Zealand và Hàn Quốc được mời tham gia cuộc họp trực tuyến "Quad Plus" ngày 27/03/2020 với "Bộ Tứ" gồm Mỹ, Úc, Ấn Độ và Nhật Bản, trong đó nhiệm vụ chính của Quad là đoàn kết chống đà bành trướng của Trung Quốc ở Ấn Độ-Thái Bình Dương. Tuy nhiên, nhận định trên là "hơi vội vàng", theo đánh giá của chuyên gia Pháp Benoît de Tréglodé :
"Đây là sự tham gia không chính thức, trong khuôn khổ xử lý dịch Covid-19 do chiến lược chống dịch của Việt Nam và Hàn Quốc là ví dụ hữu ích cho các đối tác trong vùng. Đó không phải là sự thay đổi của Việt Nam về lôgic liên minh, có nghĩa là thiên về phương Tây hay ngả theo Mỹ trong khu vực. Tôi nghĩ rằng các nhà lãnh đạo Việt Nam không hề có ý định thể hiện thái độ như vậy trong khi chỉ còn vài tháng nữa là đến kỳ Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam...
Năm 2020 là một năm rất đặc biệt. Việt Nam chủ tịch luân phiên của khối ASEAN, còn nước Lào bé nhỏ thì điều phối quan hệ giữa ASEAN và Hoa Kỳ. Tôi không thấy là ASEAN sẽ xem xét lại khuôn khổ quan hệ giữa khối với hai đại cường như thế nào. Mười nước ASEAN đã tái thể hiện rõ ràng trước Mỹ và quốc tế rằng họ không muốn bị ép phải chọn làm đồng minh với bên này mà không phải bên kia. Dĩ nhiên họ muốn được tiếp tục hưởng sự che chở từ Hoa Kỳ, mà vẫn duy trì được mối quan hệ, trong đó có lĩnh vực kinh tế rất có lợi với nước láng giềng khổng lồ Trung Quốc".
Khó kỳ vọng đúc kết COC trong nhiệm kỳ chủ tịch của Việt Nam
Nửa đầu năm nhiệm kỳ chủ tịch ASEAN của Việt Nam đã bị dịch Covid-19 bao phủ. Các cuộc họp chỉ được tiến hành trực tuyến thông qua cầu truyền hình, thiếu tiếp xúc trực tiếp, trong khi các cuộc họp song phương, đa phương bên lề các thượng đỉnh hoặc thời điểm nghỉ ngơi tiếp xúc hậu trường thường là những cơ hội để trao đổi hiệu quả để đi đến một thỏa thuận, theo giáo sư Jay Batongbacal, chuyên ngành vấn đề hàng hải, đại học Philippines, được trang VOA trích dẫn ngày 08/06/2020.
Thiếu những cuộc gặp trực tiếp cũng là một bất lợi để có thể làm giảm căng thẳng ở Biển Đông, theo ý kiến của ông Nguyễn Thành Trung, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế, đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh. Trong khi đó, Biển Đông hiện là một trong những điểm nóng cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc. Giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé nhận định :
"Cuối cùng, trong khuôn khổ quan hệ Mỹ-Trung và ASEAN, còn có một yếu tố quan trọng, đó là cuộc đàm phán giữa Trung Quốc và các nước ASEAN về Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC) để có được một công cụ điều chỉnh liên quốc gia về những căng thẳng ở trong vùng. Về điểm này, ngành ngoại giao Mỹ nhấn mạnh đến việc Bộ Quy tắc Ứng xử COC trong tương lai phải bao gồm cả Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS), trong khi đây là điểm bất đồng giữa Trung Quốc và các nước đối tác Đông Nam Á...
Mục đích đầu tiên của COC là tạo lập quan hệ song phương giữa Trung Quốc và khối ASEAN, từng bước triển khai một cơ chế điều tiết các thách thức về an ninh trong vùng và loại khỏi khu vực này mọi yếu tố nước ngoài và dĩ nhiên là kể cả sự can thiệp của Mỹ. Đây là thách thức lớn trong cuộc đàm phán hiện nay, vì dĩ nhiên, Hoa Kỳ, kể cả Nhật Bản và Ấn Độ, không muốn cảm thấy bị gạt khỏi một khu vực qua lại và trung chuyển quan trọng.
Vì thế, theo tôi, đây là một trong những yếu tố giải thích rằng các cuộc đàm phán về COC có nguy cơ bị kéo dài, thêm vào đó là bối cảnh dịch bệnh hiện nay, cũng như những căng thẳng thực sự bùng nổ giữa Mỹ và Trung Quốc. Với tôi, văn kiện này khó có thể được đưa ra vào năm nay".
Thái độ cứng rắn của Washington trước những yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông được thể hiện một lần nữa trong công thư gửi lên tổng thư ký Liên Hiệp Quốc ngày 01/06/2020, nhấn mạnh rằng Bắc Kinh phải tuân thủ phán quyết của Tòa Trọng Tài năm 2016. ASEAN có thêm một tiếng nói ủng hộ có trọng lượng của Mỹ.
"Trung Quốc có lẽ đã tự đánh giá quá cao khi tỏ thái độ hăm dọa và hiếu chiến như vậy. Điều này tạo cơ hội cho những nước bị đe dọa liên kết với nhau. Trung Quốc càng tấn công, các đối tác trong liên minh đó lại càng đoàn kết và đẩy lùi Trung Quốc". Đây là đánh giá khá đầy đủ về tình hình hiện nay ở Biển Đông, được giáo sư James Holmes, Trường Hải Chiến Mỹ (US Naval War College), đưa ra trong một hội thảo vào tháng 05/2020 và được CNN trích dẫn.
Thu Hằng
Nguồn : RFI, 15/06/2020
Trong khi các nước láng giềng đang bị phân tâm bởi đại dịch coronavirus, Tập Cận Bình đang tìm cách tạo lợi thế cho Trung Quốc, cụ thể là gần đây đã mở nhiều mặt trận trong chiến dịch để biến Trung Quốc thành cường quốc hàng đầu thế giới - từ mặt trận Hồng Kông, Đài Loan đến Biển Đông, biển Nhật Bản và biên giới Himalaya.
Tập Cận Bình duyệt quân danh dự lực lượng hải quân Trung Quốc - Ảnh minh họa
Đại dịch tê liệt toàn cầu đã tạo cơ hội cho Tập hành động để hiện thực hóa "giấc mơ Trung Hoa" vào năm 2049 của chế độ cộng sản Trung Quốc. Tập đã nói trong một bài phát biểu tại một trường đại học nước này vào tháng 4 rằng "những bước tiến vĩ đại trong lịch sử luôn luôn xuất hiện từ chảo lửa trong những thảm họa lớn".
Điều này có thể giải thích tại sao Trung Quốc đã tìm cách tận dụng tối đa đại dịch coronavirus. Từ việc phá vỡ cam kết ràng buộc của Bắc Kinh đối với quyền tự trị của Hồng Kông và cố gắng quấy nhiễu vùng biển ngoài khơi quần đảo Senkaku do Nhật Bản kiểm soát đến cuộc chiến biên giới với Ấn Độ bằng cách xâm phạm lãnh thổ của nước này.
Hành động của Tập đang cố làm để chuyển sự chú ý từ sự vô trách nhiệm của Trung Quốc về việc lan rộng toàn cầu của Covid-19-19 sang mối đe dọa của chế độ độc tài tới an ninh thế giới. Nhưng sự tham lam vô độ này cũng sẽ làm tăng nguy cơ Trung Quốc dẫn đến sự suy tàn và sụp đổ, giống như cách mà Liên Xô tan rã, như cách gọi sử gia Paul Kennedy "sự vói tay quá đà của đế quốc" (imperial overstretch).
Chủ nghĩa bành trướng của Tập đã tìm cách lập lại toàn cầu hóa theo các điều khoản của Trung Quốc. Minh họa rõ nhất qua dự án Sáng kiến Vành đai và Con đường (Belt and Road Initiative - BRI), nhằm mục đích đổi mới trật tự kinh tế và chính trị toàn cầu bằng cách đưa hàng trăm tỷ đô la vào các dự án ở nước ngoài khi Trung Quốc vẫn cần vượt qua tình trạng nghèo đói và kém phát triển ở trong nước.
Đây là một dự án đế quốc tìm cách lôi kéo các quốc gia tuyệt vọng đầu tư cơ sở hạ tầng vào quỹ đạo chiến lược của Trung Quốc. Nhưng thay vì "sự thịnh vượng chung" mà Tập hứa hẹn, BRI đã và đang buộc các quốc gia dễ bị tổn thương vào trong các bẫy nợ xói mòn chủ quyền. Khó khăn về kinh tế gia tăng trong đại dịch khiến các nước đối tác khó trả nợ hơn.
Việc Bắc Kinh từ chối hỗ trợ các quốc gia đối tác đang đối mặt với phá sản càng làm nổi bật ý đồ trong các hoạt động cho vay có chủ đích. Bằng cách gây ra sự tức giận hoặc phẫn nộ, cách tiếp cận cứng rắn có nguy cơ làm suy yếu hình ảnh quốc tế của Trung Quốc và tạo ra một sự phản kháng chống lại các chính sách mới của họ.
Dưới thời Tập, mối quan hệ của Trung Quốc với siêu cường nước đã hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế thần kỳ của họ là Hoa Kỳ, đã nhường chỗ cho sự thù địch, và một cuộc chiến tranh lạnh. Với Ấn Độ, Tập dường như rất muốn bắt đầu cuộc xung đột lớn tiếp theo của thế giới. Quan hệ và mối liên kết giữa Trung Quốc và Ấn Độ, chiếm hơn một phần ba dân số và hơn một phần năm nền kinh tế toàn cầu, có ảnh hưởng rất quan trọng đối với quan hệ quốc tế.
Cùng lúc đó, chính quyền Tập đã tăng cường nỗ lực biến các nguồn nước sông thiên nhiên thành vũ khí chính trị bằng cách xây dựng các đập thủy điện lớn ở biên giới Trung Quốc. Việc chặn dòng, xây dựng điên cuồng nơi thượng nguồn sông Mê Kông đang gây ra hạn hán tái diễn ở Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam.
Trong khi Mao Trạch Đông phá hủy trật tự cũ và Đặng Tiểu Bình đặt nền móng cho một nền kinh tế Trung Quốc hiện đại, Tập quyết tâm biến Trung Quốc thành người chơi trung tâm trong quan hệ quốc tế. Tham vọng của Tập, cùng với sự sùng bái cá nhân có thể khiến Tập mù quáng trước những nguy cơ của cách tiếp cận là giàn trải nguồn lực của Trung Quốc ra nước ngoài trong khi nền kinh tế đang chậm lại và dân số trong độ tuổi lao động giảm.
Ngày nay, Trung Quốc vẫn là một cường quốc không có bạn bè, Không có bất kỳ đồng minh chiến lược hàng hải thực sự hoặc các đối tác an ninh đáng tin cậy. Và họ càng khó khăn hơn để có được những đồng minh chân chính.
Giống như thảm kịch hạt nhân Chernobyl năm 1986 - khúc dạo đầu cho sự sụp đổ của Liên Xô - đại dịch đã cho thấy một chế độ làm cho thảm họa tồi tệ hơn nhằm tìm cách che đậy sự thật về nó. Đại dịch coronavirus và cách hành xử của Tập trong đại dịch thì tham vọng tân-đế có lẽ cũng có kết cục như vậy.
Các nước đã đánh giá lại sự phụ thuộc kinh tế của họ vào Bắc Kinh và tìm cách đa dạng hóa chuỗi cung ứng khỏi Trung Quốc. Ví dụ với quỹ 2,2 tỷ đô la của Nhật Bản để giúp định hình lại sản xuất. Hoa Kỳ đã mở đường cho các lệnh trừng phạt đối với các quan chức và công ty Trung Quốc.
Trong khi các cường quốc khác vẫn đang vật lộn với đại dịch và một nước Mỹ vật lộn với biểu tình và và đại dịch ngày càng gia tăng, Tập có thể có những hành động quyết liệt hơn. Tuy nhiên, rất có thể mọi sự sẽ vượt tầm kiểm soát của Tập điều này sẽ khiến Trung Quốc phải trả giá đắt trong khi tạo ra một môi trường quốc tế thù địch.
Brahma Chellaney
Nguyên tác : China risks imperial overstretch with post-pandemic aggression, Nikkei Asian Review, 10 June 2020
Dien Vu lược dịch
Nguồn : Viet-studies, 12/06/2020
Đặt dây cáp ngầm – Trung Quốc hoàn tất kiểm soát Biển Đông ?
Hiếu Linh, VNTB, 12/06/2020
Theo hãng tin Mỹ BenarNews ngày 08/06/2020, giới chuyên gia cho rằng các dây cáp ngầm đó có thể được dùng vào mục tiêu quân sự , giúp Trung Quốc tăng cường khả năng phát hiện tàu ngầm.
Ảnh vệ tinh và dữ liệu định vị tàu thuyền mới đây đã phát hiện một chiếc tàu Trung Quốc có dấu hiệu như là đang đặt dây cáp ngầm dưới biển giữa các tiền đồn Trung Quốc tại vùng quần đảo Hoàng Sa.
Đây là động thái mới nhất của Trung Quốc tại Biển Đông.
Bắc Kinh liên tục tuyên bố sẽ thực hiện các hoạt động bình thường trong vùng biển thuộc quyền tài phán của nước này, và trong nhiều năm qua xây dựng chuỗi đảo nhân tạo, thiết lập các khu hành chính và sản xuất, quân sự hoá các đảo ở Biển Đông tại các vị trí, khu vực mà Bắc Kinh chiếm đóng trái phép, ngoài ra Trung Quốc đã bị cáo buộc săn đuổi các quốc gia yêu sách liên quan khi các nước này thực hiện hoạt động thăm dò, khai thác tài nguyên trong vùng đặc quyền kinh tế.
Theo các chuyên gia Trung Quốc đang áp dụng các chiến thuật ngày càng mạnh mẽ, có nguy cơ gây ra lan rộng xung đột trong khu vực.
Greg Polling, Giám đốc AMTI, cho biết trong một bài viết The Guardian, Trung Quốc đang mở rộng phạm vi trong khu vực, bỏ mặc sự chỉ trích quốc tế.
Biển Đông là một trong những khu vực gây tranh cãi nhất trên thế giới, với các quốc gia yêu sách liên quan như Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, Đài Loan và Indonesia.
Các yêu sách lãnh thổ của Bắc Kinh, được gọi là đường chín đoạn, là vùng rộng lớn nhất và bao phủ gần như toàn bộ vùng biển, từ đảo Hải Nam đến Indonesia. Mặc dù yêu sách của Trung Quốc không có cơ sở theo luật pháp quốc tế và được tuyên bố vô hiệu trong quyết định của tòa án quốc tế năm 2016, thế nhưng từ đó đến nay Trung Quốc vẫn đang hoàn thiện các công đoạn cuối trong chiếm đóng Biển Đông.
Chính quyền Trung Quốc từ năm 2015 đã bắt đầu gia tăng tham vọng lãnh thổ của mình bằng cách xây dựng các đảo nhân tạo trên các rạn san hô và bãi cạn ở Biển Đông, sau đó quân sự hóa chúng bằng các dải máy bay, cảng và các cơ sở radar.
"Những hòn đảo này có đầy đủ các khả năng giám sát và radar, họ nhìn thấy mọi thứ xảy ra ở Biển Đông, và giờ là đặt dây cáp ngầm giúp Bắc Kinh kiểm soát chuyển động dưới biển", Kiến Huy, thành viên trong nhóm nghiên cứu Biển Đông nói.
Hải quân Việt Nam từ năm 2014 đến nay sở hữu 6 tàu ngầm tấn công lớp Kilo mang tên : Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Khánh Hòa, Đà Nẵng và Bà Rịa – Vũng Tàu, được đưa vào biên chế của Lữ đoàn Tàu ngầm 189.
Giáo sư Carl Thayer trong bài phỏng vấn trang tin Zing chia sẻ, Việt Nam giờ đã có hạm đội tàu ngầm lớn nhất và hiện đại nhất Đông Nam Á. Theo ông "các tàu ngầm cũng phát huy tác dụng trong việc thu thập tình báo".
Thế nhưng nếu Trung Quốc hoàn tất đặt dây cáp ngầm được sử dụng cho mục đích quân sự thì đội tàu ngầm sẽ bị hạn chế những quyết định chiến lược.
"Trước đây, Trung Quốc không biết bạn khoan ở đâu. Bây giờ họ chắc chắn biết".
Các chuyên gia cho biết động thái này cùng với khả năng lập Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) sắp tới Trung Quốc sẽ kiểm soát toàn bộ vùng không, mặt nước và lòng nước Biển Đông.
"Đó không còn dừng lại tại một đội tàu bảo vệ bờ biển và tàu cá Trung Quốc được triển khai ở Biển Đông để phá vỡ các yêu sách khác hoặc đi thuyền trong các khu vực nhạy cảm về chính trị. Trung Quốc giờ đã từng bước kiểm soát những động tĩnh nhỏ nhất trên Biển Đông. Việt Nam là quốc gia chịu tổn hại nhiều nhất", Kiến Huy nhận định.
Hồi tháng 4, một tàu giám sát hàng hải của Trung Quốc đã đánh chìm một tàu cá Việt Nam gần quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Động thái này đã thúc đẩy Việt Nam gửi hồ sơ ngoại giao lên Liên Hợp Quốc để khôi phục chủ quyền đối với vùng đặc quyền kinh tế ở Biển Đông.
Đáp trả lại phát ngôn Bộ Ngoại giao Cảnh Sảng tuyên bố Trung Quốc sẽ thực hiện tất cả các bước cần thiết để bảo vệ lợi ích của Bắc Kinh trong khu vực.
"Tôi muốn nhấn mạnh điều này : những nỗ lực của bất kỳ quốc gia nào, bằng bất kỳ cách nào phủ nhận chủ quyền, quyền và lợi ích của Trung Quốc ở Biển Đông và tăng cường tuyên bố bất hợp pháp của chính họ chắc chắn không mang lại kết quả", Cảnh Sảng nói.
Tuyên bố của Cảnh Sảng biểu thị công khai âm mưu làm chủ Biển Đông.
Động thái hung hăng lần này của Bắc Kinh trong khu vực một phần là do đại dịch coronavirus toàn cầu, đã giáng một đòn nặng nề vào tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của Trung Quốc và làm tổn hại danh tiếng quốc tế của nước này.
"Trung Quốc có nhu cầu chuyển lửa ra bên ngoài", Kiến Huy nhận định.
Tại cuộc họp quốc hội vào tháng 5, chính phủ Trung Quốc đã không đặt mục tiêu tăng trưởng GDP hàng năm lần đầu tiên sau nhiều năm, một dấu hiệu cho thấy họ lo lắng về sự suy giảm kinh tế. Đồng thời, căng thẳng đang gia tăng với Hoa Kỳ và Châu Âu về vai trò của Bắc Kinh trong việc kìm hãm sự bùng phát ban đầu, giết chết hơn 380.000 người.
Lo ngại hình ảnh quyền lực tuột dốc, Đảng cộng sản Trung Quốc đã tăng cường hùng biện và nghị sự chủ nghĩa dân tộc, bao gồm sự kiểm soát Biển Đông.
"Không giống như năm 2014, tình hình hiện thời đã biến chuyển và Việt Nam không nên áp dụng ngoại giao thầm lặng mãi được".
Năm 2014 quan hệ Việt – Trung rơi xuống mức tồi tệ liên quan vụ hạ giàn khoan Hải Dương 981.
Đoàn kết chống lại Bắc Kinh
Đối mặt với sự hiện diện của Trung Quốc trên ngưỡng chủ quyền của các quốc gia, bây giờ có thể là thời gian để các nước Đông Nam Á đoàn kết và đối mặt với Bắc Kinh trong khu vực.
Nhưng Kiến Huy cho biết với các nước trong khu vực bận tâm đến coronavirus và các cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị của riêng họ, hy vọng sẽ hợp nhất trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) khá mong manh.
"Cho dù Trung Quốc có ngang ngược như thế nào, tôi không nghĩ chúng ta sẽ thấy các thành viên ASEAN tham gia và cho thấy một mặt trận thống nhất mạnh mẽ chống lại Trung Quốc", ông nói.
"Tôi nghĩ rằng nếu các nước ASEAN không có động thái thống nhất cứng rắn trong sáu tháng tới, đến cuối năm 2020, chúng ta có thể thấy Trung Quốc sẽ tăng gấp đôi hành vi quyết định của mình ở Biển Đông".
Việt Nam từ lâu đã tìm cách để cân bằng lợi ích của mối quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc với chính sách đối ngoại Biển Đông. Đó là lý do tại sao các cuộc đụng độ với Trung Quốc ở vùng đặc quyền kinh tế của mình Việt Nam luôn theo đuổi đường lối ngoại giao cấp quốc gia thay vì tiến hành khởi kiện, theo Kiến Huy.
"Việt Nam có thể dựa vào Hoa Kỳ", Đặng Sơn Thái, đồng nghiệp của Kiến Huy, tại trung tâm nghiên cứu chính sách ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Hoa Kỳ đã tăng cường tự do hoạt động hàng hải ở Biển Đông suốt từ năm ngoái đến nay. Washington cũng làm việc để hỗ trợ trực tiếp các nước Đông Nam Á ở Biển Đông. Và, trong chiến dịch West Capella, các tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ đã thực hiện cái gọi là "hoạt động hiện diện" Biển Đông trong khi bị tàu Trung Quốc theo dõi.
"Hoa Kỳ ủng hộ những nỗ lực của các đồng minh và đối tác của chúng tôi để theo đuổi hợp pháp lợi ích kinh tế của họ", Phó đô đốc Bill Merz, chỉ huy Hạm đội 7 của Hoa Kỳ, nói trong một tuyên bố vào thời điểm đó.
Khi Bắc Kinh đẩy mạnh hơn ở Biển Đông, Hoa Kỳ có thể là một người bạn tốt.
Đặng Sơn Thái nói : "Tôi nghĩ rằng Trung Quốc đã thực sự không còn kiêng dè gì nữa".
Hiếu Linh
Nguồn : VNTB, 12/06/2020
*********************
Biển Đông : Việt Nam phản đối Trung Quốc lắp đặt cáp ngầm tại Hoàng Sa
Trọng Nghĩa, RFI, 12/06/2020
Ngay sau khi báo chí quốc tế loan tin về các dấu hiệu cho thấy Trung Quốc đang thiết lập hệ thống cáp ngầm bị tình nghi dùng vào mục tiêu quân sự, kết nối một số đảo đá tại vùng quần đảo Hoàng Sa, hôm qua, 11/06/2020, Việt Nam đã chính thức lên tiếng phản đối.
Đảo Phú Lâm (Woody Island) thuộc quần đảo Hoàng Sa. Hình ảnh vệ tinh của AMTI ngày 12/05/2018. CSIS AMTI/Handout via Reuters
Trong buổi họp báo thường kỳ tại Hà Nội, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng đã tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, “phù hợp với luật pháp quốc tế” và với “đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý”.
Bà Lê Thị Thu Hằng nói rõ : “Mọi hoạt động liên quan đến hai quần đảo này mà không được sự cho phép của Việt Nam là vi phạm chủ quyền của Việt Nam và vô giá trị”, đồng thời cho rằng “các nước cần hành động có trách nhiệm, tránh làm phức tạp tình hình…”
Như RFI đã đưa tin, ngày 08/06 vừa qua, hãng tin Mỹ BenarNews đã dẫn hình ảnh vệ tinh và dữ liệu theo dõi tàu biển cho thấy một chiếc tàu Trung Quốc đã tiến hành công việc mà giới chuyên gia phân tích xác định là rải dây cáp ngầm dưới biển kết nối các đảo Cây, đảo Bắc và đảo Phú Lâm, và sau đó là đảo Ba Ba, Duy Mộng, đều ở quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc đã chiếm của Việt Nam năm 1974.
Các chuyên gia được hãng tin Mỹ trích dẫn đều cho rằng Bắc Kinh đang thiết lập hệ thống cáp quang dưới biển trong khu vực, dùng trong thông tin liên lạc quân sự giữa các tiền đồn Trung Quốc với nhau và với đất liền, cũng như trang bị thiết bị phát hiện tàu trên mặt nước và tàu ngầm trong khu vực.
Trung Quốc sẽ sớm lập căn cứ quân sự trên bãi cạn Scaborough ?
Cũng liên quan đến Biển Đông, theo báo chí Philippines, ngày hôm qua 11/06/2020, cựu thẩm phán Tòa Án Tối Cao Philippines Antonio Carpio, đã cảnh báo về nguy cơ Bắc Kinh sẽ chiếm hẳn bãi cạn Scarborough ở vùng đông bắc Biển Đông để thành lập căn cứ không quân và hải quân trên đó.
Là thẩm phán tiêu biểu của Philippines trong vụ kiện Trung Quốc tại Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye, ông Carpio nhận định, bãi cạn Scarborough mang ý nghĩa chiến lược với Trung Quốc, cho phép trám được lỗ hổng trong vùng phủ sóng tên lửa radar của Bắc Kinh ở Biển Đông.
Bãi cạn Scarborough do Philippines kiểm soát, nhưng đã bị Trung Quốc chiếm và phong tỏa từ năm 2012. Vào năm 2016, Washington từng dọa Bắc Kinh là sẽ có hành động, nếu Trung Quốc cho bồi đắp và xây căn cứ trên thực thể này.
Trọng Nghĩa
Nguồn : RFI, 12/06/2020
Biển Đông : Philippines chi 26 triệu đô xây hạ tầng quân sự trên đảo Thị Tứ (RFI, 10/06/2020)
Bộ trưởng Quốc Phòng Philippines hôm qua 09/06/2020 cùng với một phái đoàn đã đổ bộ lên đảo Thị Tứ, chủ trì lễ khánh thành một bến tàu trị giá 5 triệu đô la. Đồng thời loan báo sẽ chi 26 triệu đô la xây dựng cơ sở hạ tầng quân sự trên đảo này, trong đó có việc hoàn chỉnh một phi đạo.
Bộ trưởng Quốc Phòng Philippines, Delfin Lorenzana (giữa), cắt băng khánh thành công trình bến tàu trên đảo Thị Tứ, ngày 09/06/2020. AFP - HANDOUT
Bộ trưởng Delfin Lorenzana tuyên bố, âu tàu mới này sẽ giúp hải quân Philippines có thể tiếp tế dễ dàng ngay trong mùa bão, thay vì phải chuyển hàng từ các tàu nhỏ. Ông loan báo chính quyền dành 26 triệu đô la cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng trên đảo Thị Tứ, trong đó có việc bê-tông hóa một phi đạo. Đây là phi đạo đầu tiên tại Trường Sa được xây vào cuối thập niên 70, dài khoảng 1,3 km.
Tuy dùng cho mục đích quân sự, nhưng ông Lorenzana khẳng định chỉ nhằm tạo điều kiện sinh hoạt trên đảo, và cho rằng các cơ sở hạ tầng mới sẽ không dẫn đến các xung đột.
Các tàu hải cảnh và tàu cá Trung Quốc hiện diện đông đảo ở gần đó, nhưng ông Lorenzana nhấn mạnh : "Trung Quốc nói rằng sẽ không tấn công chúng tôi".
South China Morning Post lưu ý, việc bộ trưởng Delfin Lorenzana đặt chân lên đảo Thị Tứ diễn ra cùng thời điểm với việc các quan chức ở Manila kỷ niệm 45 năm quan hệ với Trung Quốc, hành động này có thể làm cho Bắc Kinh bực tức.
Ông Lorenzana nói với các phóng viên đi cùng, tuy đảo Thị Tứ nằm bên ngoài vùng đặc quyền kinh tế Philippines, nhưng Manila sẽ tìm cách nhấn mạnh yêu sách chủ quyền.
Đảo Thị Tứ là đảo san hô thuộc cụm đảo Thị Tứ, lớn thứ nhì về mặt diện tích tại quần đảo Trường Sa. Năm 1933, thống đốc Nam Kỳ thời Pháp thuộc ký nghị định sáp nhập vào địa phận tỉnh Bà Rịa, nhưng đầu thập niên 70 lợi dụng Việt Nam đang trong tình trạng chiến tranh, Philippines đã cho quân bí mật chiếm đóng.
CNN cho biết thêm, một số nhà báo đi cùng bộ trưởng Quốc Phòng Philippines khi vừa đặt chân lên đảo Thị Tứ đã nhận được tin nhắn "Chào mừng đến Trung Quốc". Riêng ông Lorenzana thì nhận được tin "Welcome to Vietnam". Ông nói rằng Manila cần phải thiết lập hệ thống viễn thông di động để người sử dụng điện thoại nhận được tin "Welcome to Philippines". Tuy nhiên phát ngôn viên cơ quan viễn thông Philippines nói với đài truyền hình Mỹ việc này rất khó khăn, và kể cả khi lập được, người dùng smartphone vẫn nhận được tin nhắn của Trung Quốc và Việt Nam vì sóng mạnh hơn.
Hoa Kỳ điều oanh tạc cơ và phi cơ dọ thám đến Biển Đông
Theo Fox News hôm nay 10/06/2020, các oanh tạc cơ B-1B và máy bay dọ thám không người lái Global Hawk đã thực hiện các phi vụ trên Biển Đông và các khu vực khác ở Thái Bình Dương, trong khuôn khổ chiến lược giám sát và răn đe.
Không quân Hoa Kỳ cho biết các oanh tạc cơ B-1B cất cánh từ đảo Guam đến Biển Đông để hỗ trợ cho Bộ tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương. Đồng thời những chiếc Global Hawk được chuyển sang căn cứ không quân Yokota ở Nhật Bản nhằm tăng cường sự hiện diện của Hoa Kỳ trong khu vực.
Thụy My
*********************
Biển Đông : Indonesia liên tiếp tỏ lập trường cứng rắn hơn với Trung Quốc (RFI, 10/06/2020)
Không phải là môt bên tranh chấp ở Biển Đông, nhưng mới đây trong không đầy hai tuần, Indonesia đã hai lần công khai lên tiếng bác bỏ yêu sách đường lưỡi bò của Trung Quốc. Hành động của Jakarta ngày 05/06/2020, và đặc biệt là trước đó vào ngày 26/05, viện dẫn phán quyết Biển Đông năm 2016 của Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye, lại càng đáng chú ý hơn trong bối cảnh Indonesia còn chọn diễn đàn Liên Hiệp Quốc để bày tỏ thái độ, tạo thêm tiếng vang cho động thái của mình.
Indonesia ngày càng tỏ rõ lập trường cứng rắn với Trung Quốc về hồ sơ Biển Đông. Ảnh tư liệu : Tổng thống Indonesia Joko Widodo (giữa) tới tham đảo Natura ngày 08/0/2020 sau khi Trung Quốc có hành vi xâm phạm chủ quyền của Indonesia trên Biển Đông. © AFP
Đối với giới phân tích, việc một nước có trọng lượng như Indonesia ra mặt chống các yêu sách quá đáng của Bắc Kinh tại Biển Đông sẽ là một hậu thuẫn quý giá cho các đồng minh ASEAN có tranh chấp với Trung Quốc đang vất vả chống lại các hành vi chèn ép của Bắc Kinh.
Động thái cứng rắn gần đây nhất của Indonesia nhắm vào Trung Quốc trên vấn đề Biển Đông là việc Jakarta đã thẳng thừng bác bỏ đề nghị của Bắc Kinh muốn hai bên đàm phán về điều mà Trung Quốc gọi là "đòi hỏi chồng chéo về các quyền trên biển" ở một phần Biển Đông.
Phát biểu với hãng tin Mỹ BenarNews ngày 05/06, ông Damos Dumoli Agusman, vụ trưởng Vụ Luật Pháp và Hiệp Ước Quốc Tế bộ Ngoại Giao Indonesia khẳng định : "Căn cứ vào Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982, Indonesia không có tuyên bố chủ quyền chồng chéo với Trung Quốc, do đó việc tổ chức bất kỳ đối thoại nào về phân định ranh giới trên biển đều không thỏa đáng".
Quan chức Indonesia cũng nhắc lại tuyên bố tháng 1/2020 của bộ Ngoại Giao nước này, khẳng định Jakarta "từ chối" mọi thương lượng với Bắc Kinh về Biển Đông vì trên cơ sở UNCLOS, hai bên không có bất kỳ tranh chấp lãnh thổ nào.
Theo BenarNews, tuyên bố của ông Agusman là câu trả lời của Jakarta đối với một bức thư mà Bắc Kinh đã gửi cho tổng thư ký Liên Hiệp Quốc ngày 02/06. Trong bức thư, Trung Quốc nói không có tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Indonesia, nhưng do việc Trung Quốc có những quyền lợi ở Biển Đông được "xác lập từ lâu đời trong lịch sử và phù hợp với luật quốc tế", cho nên hai bên lại có tuyên bố chồng chéo về quyền trên biển ở một phần vùng biển.
Khu vực có liên quan là vùng đặc quyền kinh tế ngoài khơi quần đảo Natuna của Indonesia, nhưng bị Trung Quốc cho là của họ vì nằm bên trong đường 9 đoạn của Bắc Kinh ở Biển Đông. Tuy nhiên, đối với Indonesia, đòi hỏi của Trung Quốc mang tính đơn phương và hoàn toàn không có cơ sở về mặt luật pháp quốc tế.
Phản ứng bác bỏ đề nghị đàm phán của Trung Quốc đã được Indonesia đưa ra không đầy 2 tuần sau một động thái mạnh của Jakarta đánh vào lập trường của Bắc Kinh về Biển Đông : Một công hàm ngày 26/05 gởi lên Liên Hiệp Quốc, viện dẫn phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye để bác bỏ đường 9 đoạn của Trung Quốc về Biển Đông.
Nội dung công hàm của Indonesia không liên quan gì đến quan hệ song phương với Trung Quốc mà nhằm nêu bật quan điểm của Jakarta về sự kiện Kuala Lumpur vào tháng 12/2019 đã gửi lên Ủy Ban Liên Hiệp Quốc về Ranh Giới Thềm Lục Địa bản đệ trình tuyên bố chủ quyền đối với thềm lục địa mở rộng của Malaysia ở vùng Biển Đông, kéo theo những công hàm thể hiện lập trường của Việt Nam, Philippines và nhất là Trung Quốc.
Trong bài phân tích ngày 03/06, chuyên gia Ankit Panda, biên tập viên cao cấp của chuyên san Nhật Bản The Diplomat đã đặc biệt ghi nhận việc Indonesia nhấn mạnh trở lại phán quyết năm 2016 về Biển Đông của Tòa Trọng Tài Thường Trực để bác bỏ giá trị của các đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông.
Indonesia thể hiện vai trò nước lớn nhất Đông Nam Á
Theo ông Panda, qua công hàm mới nhất, Indonesia chấp nhận một trong những điểm quan trọng nhất của phán quyết. Đó là không một thực thể nào đang bị tranh chấp ở Biển Đông có thể được xem là "đảo" theo định nghĩa pháp lý của từ này hiểu theo Luật Biển Liên Hiệp Quốc, và như vậy "không một thực thể nào ở quần đảo Trường Sa có thể có vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của riêng mình".
Không những thế, Indonesia còn xác định rõ thêm : "Indonesia nhắc lại rằng bản đồ Đường 9 đoạn thể hiện yêu sách chủ quyền lịch sử rõ ràng là thiếu cơ sở pháp lý quốc tế và tương đương với việc vi phạm Công Ước về Luật Biển UNCLOS 1982.
Quan điểm này cũng đã được phán quyết ngày 12/07/2016 của Tòa Trọng Tài xác nhận, theo đó toàn bộ những quyền lịch sử mà nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đưa ra để chiếm hữu các nguồn tài nguyên khoáng sản hay hải sản đều bị bãi bỏ do những giới hạn về vùng biển ghi trong UNCLOS 1982.
Theo The Diplomat, đối với những ai ủng hộ luật quốc tế, việc Jakarta nêu bật trở lại phán quyết năm 2016 về Biển Đông rất đáng hoan nghênh trong bối cảnh tổng thống Duterte của nước đệ đơn kiện Trung Quốc là Philippines, đã chạy theo Bắc Kinh mà bỏ lơ văn kiện này.
Không có Manila thúc đẩy việc thực hiện, phán quyết cũng không còn được coi trọng trong chính sách của khu vực Đông Nam Á, vào lúc mà khối ASEAN rất chia rẽ, với vấn đề Biển Đông chỉ được chú ý một cách giới hạn, chủ yếu trong các cuộc gặp đa phương lớn.
Chính vì vậy việc Indonesia thể hiện lập trường cứng rắn hơn trước các đòi hỏi chủ quyền rộng khắp của Trung Quốc trên Biển Đông rất đáng chú ý trên hai cấp độ.
Thứ nhất là vì dẫu sao Indonesia vẫn nắm giữ một vị thế hàng đầu trong khối ASEAN. Việc đưa phán quyết 2016 vào trong chính sách của riêng mình về Biển Đông có thể là dấu hiệu cho thấy là Indonesia sẵn sàng có một cách tiếp cận cứng rắn tương tự đối với Trung Quốc trong khuôn khổ hiệp hội 10 nước Đông Nam Á.
Ngoài ra, việc Indonesia sẵn sàng viện dẫn phán quyết có thể làm cho Việt Nam kiên quyết hơn trong việc kiện Trung Quốc, điều từng được chuyên gia Mỹ Derek Grossman đã nêu lên trên The Diplomat gần đây, theo đó Việt Nam đang "nghiêm túc xem xét" một hành động pháp lý quốc tế.
Cho dù vậy, The Diplomat cũng nhắc lại quan điểm thận trọng của nhà nghiên cứu Evan Laksmana, chuyên gia về chính sách đối ngoại Indonesia. Trên nhật báo Hồng Kông South China Morning Post chuyên gia này nhắc nhở rằng các động thái mới đây của Indonesia không phải là một sự thay đổi lập trường, mà chỉ là một sự phát triển thêm chính sách hiện hành dưới thời tổng thống Joko Widodo.
Mai Vân
*********************
Người Trung Quốc dùng xuồng cao tốc vận chuyển hàng hóa trái phép trên vùng biển Vạn Gia (RFA, 10/06/2020)
Tỉnh Quảng Ninh phải tăng cường việc kiểm soát hoạt động xuất nhập cảnh của người Trung Quốc bằng xuồng cao tốc trên vùng biển Vạn Gia.
Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng cửa khẩu Cảng Vạn Gia, Quảng Ninh tổ chức tuần tra, kiểm soát trên vùng biển thuộc địa bàn quản lý – Ảnh : Thái Cảnh
Đó là nội dung trong văn bản của Văn phòng thường trực Ban chỉ đạo 389 quốc gia phát đi ngày 10 tháng 6 và được truyền thông trong nước loan tải.
Theo Ban chỉ đạo, trên vùng biển Vạn Gia thuộc thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh thời gian qua xuất hiện các xuồng máy được trang bị động cơ công suất 2/6 máy chạy với tốc độ cao. Đặc biệt các thuyền viên điều khiển đều mang quốc tịch Trung Quốc và một số xuồng hoạt động nhưng không có tên, số hiệu, biển kiểm soát hoặc mang biển kiểm soát giả, biển kiểm soát Trung Quốc nhằm vận chuyển hàng hóa tái xuất, xuất khẩu (trong đó có thuốc lá, rượu ngoại).
Số xuồng này thường xuyên neo đậu trên các vùng biển thuộc khu vực Vạn Gia, sau đó di chuyển vào vùng chuyển tải của cảng Vạn Gia để lấy hàng, khi có điều kiện thuận lợi sẽ vận chuyển số hàng trên quay trở lại Việt Nam để tiêu thụ.
Trong văn bản có đoạn viết : "Hoạt động của các xuồng và thuyền viên người Trung Quốc trên vùng biển Vạn Gia, Quảng Ninh rất phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh quốc gia trên biển, có dấu hiệu buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới".
Do đó, Ban Chỉ đạo yêu cầu tỉnh Quảng Ninh kiểm soát chặt chẽ không để các hoạt động trên tiếp tục xảy ra trên vùng biển Vạn Gia đồng thời xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
Trong khi đó, trả lời trên tờ Tuổi Trẻ điện tử vào ngày 10/6, ông Nguyễn Văn Nghiên, Cục trưởng Cục Hải quan Quảng Ninh cho rằng hoạt động xuất nhập cảnh và vận chuyển hàng hóa như Ban Chỉ đạo nêu đã được kiểm soát và từ ngày 9 tháng 5 không còn tình trạng người Trung Quốc dùng xuồng cao tốc nhập cảnh vào Việt Nam chở hàng hóa.
Một số nhà quan sát cho rằng hành động đáp trả của Mỹ mang tính tự phát, không đủ mạnh và còn khiến Bắc Kinh bạo trợn hơn. Trong thời gian vài tuần đầu, những cáo buộc như vậy bị cho là quá vội vàng, song cũng bộc lộ sự yếu kém cố hữu trong cách tiếp cận của Mỹ đối với vấn đề an ninh biển ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
Tàu tác chiến cận duyên USS Gabrielle Giffords (LCS-10) thực hiện các hoạt động thường lệ gần tàu khoan được gắn cờ Panama, West Capella vào ngày 12/5/2020. Ảnh của Hải quân Hoa Kỳ
Hoạt động khai thác dầu mỏ của Malaysia tại vùng Biển Đông tranh chấp đã làm bùng phát cuộc đối đầu giữa 5 nước hồi tháng 4/2020 khi các lực lượng trên biển của Malaysia, Việt Nam, Trung Quốc, Mỹ và Úc hoạt động trong phạm vi tương đối gần nhau. Khi nhóm tấn công viễn chinh của Hải quân Mỹ rời đi sau khi lưu lại một vài ngày trong khu vực tranh chấp trên, một số nhà quan sát cho rằng hành động đáp trả của Mỹ mang tính tự phát (không có nước nào lên tiếng nhờ Washington giúp đỡ), không đủ mạnh và còn khiến Bắc Kinh bạo trợn hơn. Trong thời gian vài tuần đầu, những cáo buộc như vậy bị cho là quá vội vàng, song cũng bộc lộ sự yếu kém cố hữu trong cách tiếp cận của Mỹ đối với vấn đề an ninh biển ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Mặc dù nhóm tàu tấn công của Mỹ có thể đã rời đi, song các lực lượng của Mỹ vẫn duy trì sự hiện diện tại Biển Đông trên nhiều phương diện từ những tàu chiến nổi hạng nhỏ đến các máy bay ném bom chiến lược. Nhìn chung, Mỹ đã có bước tiến triển trong cách tiếp cận của mình ở Biển Đông song vẫn bỏ qua cơ hội để vươn tới các đối tác Đông Nam Á của mình.
Mỹ và "Sứ mệnh West Capella"
Khi tập đoàn dầu khí quốc gia của Malaysia, Petronas, ký hợp đồng với tàu khoan dầu West Capella để khai thác dầu ở khu vực có tuyên bố chủ quyền, Trung Quốc đã phản ứng bằng cách điều tàu Hải Dương Địa chất 8 cùng đội tàu hải cảnh và tàu bán vũ trang đến khu vực tàu West Capella đang hoạt động, vốn cũng nằm trong cái gọi là "đường 9 đoạn" mà Bắc Kinh tự vạch ra. Đáp lại, Mỹ cũng điều động tàu chiến của mình đến khu vực tàu West Capella đang hoạt động và điều máy bay ném bom chiến lược đến Biển Đông.
Ngoài việc nhấn mạnh sự vắng bóng của một cường quốc ngự trị trong khu vực như một số nhà phân tích nhận định, các lực lượng liên quân của Mỹ đã huy động năng lực chiến đấu ở quy mô lớn trên khắp Biển Hoa Đông và Biển Đông bằng cách nâng cao khả năng phối hợp của các lực lượng được triển khai từ những căn cứ tiền tiêu cùng với việc triển khai nhanh các lực lượng từ lục địa Mỹ.
Hành động một mình ?
Mặc dù phản ứng của Mỹ có thể gây ấn tượng, song sự xuất hiện chủ yếu là đơn độc của Washington đang làm dấy lên một câu hỏi quan trọng : Vì sao Mỹ không phối hợp với các đối tác khu vực, nhất là Malaysia, trong các hành động đáp trả của mình ? Trong nhiều năm qua, Malaysia thường "im hơi lặng tiếng" trước những hành động quấy nhiễu của Bắc Kinh ở vùng lãnh hải của mình do quan điểm của cựu Thủ tướng Mahathir Mohamad cho rằng vấn đề Biển Đông "cần là nơi không liên quan đến những tàu chiến hạng nặng". Malaysia đã do dự khi công khai thách thức Trung Quốc, do nước này vừa phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc vừa không có đủ sức mạnh biển.
Khi Mỹ không phát đi lời kêu gọi các nước khu vực tham gia hoạt động của mình, thậm chí chỉ là cảnh báo trước, thì những hoạt động của Washington tại vùng biển tranh chấp này đã gây ra những xáo trộn gây hiểu lầm không cần thiết. Giới hoạch định chính sách của Malaysia và các cơ quan quốc phòng nước này có thể không biết chắc liệu tàu hải quân của Mỹ hoạt động để hỗ trợ họ hay để thách thức những tuyên bố chủ quyền biển của Malaysia. Sự băn khoăn khó hiểu này hoàn toàn có thể tránh được. Mỹ đã cung cấp các mạng lưới thông tin liên lạc đảm bảo cho Malaysia theo Sáng kiến An ninh biển Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và nên thiết lập những mạng lưới tương tự trên những tàu chiến. Việc chia sẻ thông tin hoạt động và những hình ảnh hoạt động đáng nhẽ phải là một yếu tố được lên kế hoạch từ trước trong hoạt động hàng hải của Mỹ ở Biển Đông. Chính việc không chia sẻ thông tin từ trước đã làm giảm giá trị của khí tài Mỹ trong mắt các đối tác của Mỹ ở khu vực.
Một giải thích khác cho sự thiếu vắng sự phối hợp từ trước có thể do Mỹ kỳ vọng Malaysia sẽ thể hiện hưởng ứng ở mức độ nào đó và bị kích động phản ứng cho dù Malaysia suy nghĩ như thế nào, nên đã hành động mà không có sự phản đối nào từ phía Malaysia. Trong khi chính phủ Malaysia vẫn chủ yếu không muốn lên tiếng mạnh mẽ về vấn đề Biển Đông, quan điểm các đối tác của Mỹ lại ngày càng cứng rắn hơn. Khi đó, có thể việc Mỹ phô diễn sự ủng hộ của mình là nhằm hướng đến đông đảo các nước khác trong khu vực, chứ không riêng gì Malaysia. Khi Việt Nam và Indonesia đều cho thấy họ không hề run sợ trước việc đẩy lùi những hoạt động biển nguy hiểm, mang tính chủ nghĩa xét lại của Trung Quốc ở Biển Đông, thì đây chính là thời điểm hợp lý để Mỹ nói rõ sự ủng hộ của mình đối với các nước trong khu vực. Không một quốc gia có tranh chấp chủ quyền nào ở Biển Đông quên được việc Mỹ làm rối tung sự can dự của họ khi Trung Quốc xâm chiếm Bãi cạn Scarborough. Vì vậy, điều quan trọng là Mỹ cần tránh gợi lại ký ức tồi tệ này vào thời điểm nước này háo hức muốn thể hiện vai trò là một nhà đảm bảo an ninh được kiểm nghiệm về mặt thời gian trong khu vực.
Mỹ hoàn thành sứ mệnh ?
Không có bằng chứng nào ngoài cỗ máy tuyên truyền của Trung Quốc cho thấy việc kéo dài sứ mệnh của nhóm tàu tấn công viễn chinh của Mỹ đã làm Trung Quốc bạo trợn hơn hay làm leo thang căng thẳng ở khu vực gần tàu khoan dầu West Capella. Nhìn chung, phản ứng của Bắc Kinh trước sự hiện diện của Mỹ là khá lắng dịu, dù tin tức cho hay tàu khu trục Vũ Hán của Trung Quốc đã đi qua khu vực gần tàu khoan dầu nói trên cùng thời điểm tàu đổ bộ tối tân USS America đi qua khu vực này. Phản ứng của Bắc Kinh trước các hoạt động tự do hàng hải tiến hành cùng thời điểm này mang tính chất đối đầu hơn nhiều. Trên thực tế, Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố không có bất kỳ cuộc đối đầu nào gần khu vực tàu West Capella và tình hình ở Biển Đông "về cơ bản ổn định".
Bài học từ "sứ mệnh West Capella"
Cách tiếp cận của Bộ Quốc phòng Mỹ đối với cách hành xử mang tính chủ nghĩa xét lại của Trung Quốc ở Biển Đông đã tạo ra mảnh đất màu mỡ cho những chỉ trích trong vòng 10 năm qua. Việc quản lý cách đối phó hiệu quả trước các lực lượng biển của Trung Quốc đã thách thức lực lượng liên quân của Mỹ vốn chưa từng được huy động trong cuộc cạnh tranh với một đối thủ ngang tầm. Khi tàu West Capella kết thúc phần việc theo hợp đồng và rời khỏi khu vực tranh chấp, thì sự việc liên quan tàu khoan dầu này có thể được coi là một bước tiến trong cách tiếp cận của Mỹ khi đối đầu với Bắc Kinh và trấn an các đồng minh của Washington ở khu vực.
Tuy nhiên, xét về những bài học đúc rút được thì sự việc này cho thấy sự thất bại của Mỹ trong việc thông tin liên lạc những ý định của mình trên phạm rộng lớn hơn ở khu vực. Khi hành động một cách toàn diện hơn, Mỹ có thể đã xoa dịu được những quan ngại của các đối tác về những hành động của mình, đồng thời tạo cơ hội để thúc đẩy hợp tác.
Khi đánh giá phản ứng của Mỹ trước vụ đối đầu quanh tàu khoan dầu West Capella, một số vấn đề đã bộc lộ rõ nét. Mỹ đã thể hiện đáng kể năng lực tác chiến chung khi phản ứng trước hành động chèn ép trên biển của Trung Quốc. Sứ mệnh chung kéo dài hàng tuần liền đã làm lu mờ những chỉ trích cho rằng các lực lượng biển của Trung Quốc đã trở nên bạo trợn vì nhóm tấn công viễn chinh của Mỹ chỉ duy trì sứ mệnh của mình trong ngắn hạn ở khu vực. Mỹ có thể đã hành động mà không có lời đề nghị chính thức nào từ phía Malaysia, song rõ ràng điều này cho thấy ý định của Washington muốn đối đầu với hành xử mang tính chủ nghĩa xét lại của Bắc Kinh ở Biển Đông vào thời điểm cam go này. Cho dù gặt hái được những điều tích cực, song sứ mệnh của Mỹ liên quan cuộc đối đầu gần tàu West Capella vẫn vấp phải chỉ trích khi nước này đã thất bại trong việc lôi kéo các đối tác Đông Nam Á cùng tham gia sứ mệnh này ngay từ đầu với thông điệp liên quan đến những lợi ích của các quốc gia này.
Khẩu hiệu thường dùng lâu nay là "ủng hộ tự do hàng hải và tự do hàng không" đã trở nên tẻ nhạt ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, và khẩu hiệu này được sử dụng thường xuyên đến mức trở thành gần như vô nghĩa. Phó Đô đốc Bill Merz, Tư lệnh Hạm đội 7 của Mỹ, đã đưa ra thông điệp đúng đắn : "Mỹ ủng hộ những nỗ lực của các đồng minh và đối tác của mình trong quá trình theo đuổi những lợi ích kinh tế hợp pháp của họ". Nếu như khẩu hiệu về tự do hàng hải và tự do hàng không mang tính xa xôi và lý thuyết, thì phát biểu của vị tướng hải quân này lại nói rõ rằng những nguyên tắc về tự do hàng hải và tự do bay này đóng vai trò trung tâm đối với sự thịnh vượng về kinh tế của các đối tác của Mỹ ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
Mặc dù hàng loạt các hoạt động tự do hàng hải và tự do hàng không có thể được coi là một bước tiến trong chính sách của Mỹ về Biển Đông, song không thể đạt được thành công thực sự nếu không can dự và ủng hộ các nước tranh chấp chủ quyền ở vùng biển này trong cuộc đấu tranh của họ nhằm bảo vệ nền kinh tế biển và bảo đảm chủ quyền của họ một cách ý nghĩa.
Blake Herzinger
Nguyên tác : Learning in the South China Sea : The U.S. Response to the West Capella Standoff, War on the Rocks, 18/05/2020
Minh Anh giới thiệu
Nguồn : Nghiên cứu Biển Đông, 10/06/2020
Blake Herzinger, một chuyên gia chính sách quốc phòng Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, sĩ quan Hải quân Trù bị Mỹ. Bài viết được đăng trên War on the Rocks.
Singapore : Thủ tướng Lý Hiển Long đặt câu hỏi nghiêm túc cho Trung Quốc và Mỹ
Đúng ngày 04/06/2020, thủ tướng Singapore cảnh báo về cuộc đối đầu Mỹ - Trung và nói Châu Á không muốn bị buộc phải chọn đứng về chỉ một bên.
Các nhà lãnh đạo Asean vượt qua các cơn bão Biển Đông - Tranh biếm hóa và Stephens (South China Morning Post)
Bài đăng trên trang Foreign Affairs của ông Lý Hiển Long có tựa đề 'The Endangered Asian Century : America, China, and the Perils of Confrontation' (1), nhấn mạnh đến vai trò của Hoa Kỳ tạo dựng trật tự an ninh, môi trường ổn định và thịnh vượng cho nhiều nước Châu Âu nửa sau thế kỷ 20.
Điểm qua vai trò chính yếu của Hoa Kỳ ở Đông Á trong Chiến tranh Lạnh mà ông nhìn nhận rất tích cựu, thủ tướng Singapore thẳng thắn nhắc lại vị thế nghèo, tự cô lập của nền kinh tế Trung Quốc trước Mở Cửa.
Điều này khiến cho các nước dựa vào 'Trật tự Mỹ' (Pax Americana) có từ sau Thế Chiến 2 ở Châu Á phải tự vấn về vai trò của Washington.
Nhắc lại vị trí "từ lâu" trong kiến trúc an ninh vùng của Hoa Kỳ, ông Lý Hiển Long viết :
"Hoa Kỳ đã tham chiến tốn kém hai lần ở Triều Tiên và Việt Nam, và các cuộc chiến này đã cho các nước không cộng sản trong vùng có thời gian quý báu để củng cố xã hội, kinh tế của họ trong cuộc chiến giành nhân tâm chống lại chủ nghĩa cộng sản".
Câu hỏi cho Tập Cận Bình
Bản thân Trung Quốc từ thời Đặng Tiểu Bình đã hưởng lợi từ trật tự Mỹ hậu Chiến tranh Lạnh.
Nhưng sự vươn lên của Trung Quốc dẫn tới biến chuyển quan trọng về vị thế gần đây của nước này, và họ đã không còn làm theo lời cố lãnh tụ Đặng Tiểu Bình là 'ẩn mình chờ thời' :
"Các nhà lãnh đạo Trung Quốc ngày nay không còn trích dẫn câu châm ngôn của ông Đặng là 'thao quang dưỡng hối'. Trung Quốc tự thấy họ là cường quốc lục địa và đang có khát vọng thành cường quốc hải dương nữa. Họ đang hiện đại hóa lục quân, hải quân và có mục tiêu biến quân đội thành lực lượng tác chiến đẳng cấp thế giới. Và Trung Quốc, dễ hiểu thôi, đang ngày càng muốn bảo vệ và thúc đẩy quyền lợi của họ ở nước ngoài và đảm bảo giành vị thế mà nước này cho là chính đáng cho họ trong chính trị quốc tế.
Cùng lúc, Hoa Kỳ, với chính sách "Nước Mỹ trước hết" (2), đang xem xét lại quan hệ với Trung Quốc, trong khi tỷ trọng kinh tế Mỹ trên toàn cầu giảm.
Tình thế hiện nay, theo nhà lãnh đạo Singapore, là "các nước Châu Á đang hưởng lợi từ bảo trợ an ninh của Hoa Kỳ, và kinh tế Trung Quốc trỗi dậy", sẽ bị buộc phải chọn phe, điều các nước này gồm cả Singapore không muốn.
Tuy thế, trong bài viết thẳng thắn tới bất ngờ, thủ tướng Lý Hiển Long đặt câu hỏi đích danh tới Chủ tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc.
"Chủ tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc đã nói là Thái Bình Dương đủ to để có chỗ cho cả Hoa Kỳ và Trung Quốc. Nhưng ông cũng nói an ninh Châu Á phải để cho người Châu Á lo. Một câu hỏi rất tự nhiên là : "Ông Tập có nghĩ rằng Thái Bình Dương là đủ to cho cả Hoa Kỳ và Trung Quốc cùng tồn tại hòa bình, với các vòng đan xen nhau của bạn bè và đối tác, hay nó có lớn đủ để chia đôi ngay ở giữa, với hai cường quốc chia thành hai vùng ảnh hưởng ?..." (3).
Điều ông Lý Hiển Long tin tưởng chắc chắn, trái với một số giới thức giả Âu, Á vẫn là "Hoa Kỳ không phải đại cường đang suy yếu" (4).
Ông nêu thẳng ra một vấn đề nhiều người có thể cho là tế nhị :
"Hoa Kỳ có sức bền bỉ và sức mạnh tuyệt vời, một trong số sức mạnh đó là khả năng thu hút tài năng từ khắp thế giới đến. Trong chín người gốc Hoa đoạt giải Nobel trong khoa học tới nay, thì tám người là công dân Mỹ, hoặc nhập tịch Mỹ sau khi có giải".
Cùng lúc, ông cũng nhắc rằng kinh tế Trung Quốc "có sự năng động ghê gớm và ngày càng đạt nhiều trình độ công nghệ cao. Nay Trung Quốc không còn là 'ngôi làng trình diễn' (Potemkin village) hay như nền kinh tế tan rã Liên Xô những ngày tàn".
Ông cảnh báo trong bối cảnh như thế, "mọi cuộc đối đầu giữa hai đại cường sẽ không chấm dứt êm như Chiến tranh Lạnh, với một bên gục ngã im lặng".
Trung Quốc và người Hoa ở Đông Nam Á
Với lời văn công khai hiếm có của một lãnh đạo quốc gia, ông Lý Hiển Long đi thẳng vào vấn đề gọi là "hình ảnh tiêu cực của Trung Quốc".
"Có một nguy hiểm ở đây : điều tra dư luận gần đây của Pew Research Center cho thấy người dân ở Canada, Hoa Kỳ, các nước Châu Á và Châu Âu khác ngày càng nhìn Trung Quốc với con mắt không thiện cảm (unfavorable views of China). Cho dù Trung Quốc có các nỗ lực xây dựng quyền lực mềm ở hải ngoại - như qua mạng lưới Viện Khổng tử, qua các kênh đài báo quốc tế chính phủ nắm - thì xu hướng là tiêu cực (the trend is negative).
Theo ông, ngay Trung Quốc cần lãnh nhận nhiều hơn trách nhiệm toàn cầu, chứ không nên hưởng ưu đãi "cho một nước nhỏ hơn, chưa phát triển" mà họ nhận được khi vào WTO năm 2001.
"Trung Quốc cần không chỉ tôn trọng các luật chơi, tiêu chuẩn toàn cầu mà cần lãnh nhận trách nhiệm nêu cao và làm mới trật tự quốc tế mà nhờ nó họ đã phát triển kỳ diệu".
"Ở chỗ nào các chuẩn này không còn phù hợp, Trung Quốc nên hợp tác với Hoa Kỳ và các nước khác để thảo ra những dàn xếp mới mà tất cả cùng chấp nhận..".
Ông Lý Hiển Long khẳng định dù có sức mạnh quân sự gia tăng, Trung Quốc "chưa thể vượt qua Mỹ trong vai trò an ninh" cho Châu Á. Khác với Hoa Kỳ, ông viết, "Trung Quốc lại đang có các tuyên bố tranh chấp chủ quyền với một số nước trong vùng biển Nam Trung Hoa và họ sẽ luôn luôn coi sự hiện diện của hải quân Trung Quốc là nỗ lực đẩy mạnhh tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc".
Hoa Kỳ, trong khi đó, từ nhiều năm qua, luôn đề cao tự do hàng hải cho tất cả, trong khu vực này.
Dù là người gốc Hoa, ông Lý đã nêu thẳng vấn đề hết sức nhạy cảm trong vùng Đông Nam Á và đặt nó vào bối cảnh địa chính trị mang tính chiến lược cho quan hệ của Bắc Kinh với láng giềng :
"Một cản trở nữa có thể ngăn Trung Quốc không giành vai trò đảm bảo an ninh đang do Hoa Kỳ nắm đến từ chỗ nhiều nước Đông Nam Á có nhóm thiểu số Hoa đáng kể, và quan hệ của họ với đa số cư dân không gốc Hoa luôn rất tế nhị. Các nước này rất nhạy cảm trước cảm nhận rằng Trung Quốc có ảnh hưởng quá mức lên cư dân sắc tộc Hoa, và đặc biệt là vì lịch sử sự ủng hộ của Trung Quốc với các nhóm phiến quân cộng sản trong vùng Đông Nam Á cho tới tận thập niên 1980. Các vấn đề nhạy cảm này sẽ cản trở vai trò của Trung Quốc trong chính trị Đông Nam Á ở tương lai tới đây".
Ông Lý Hiển Long nêu ra ví dụ Singapore là quốc gia "có phần trăm dân Hoa (5) cao nhất" ở một nước có chủ quyền bên ngoài Trung Quốc.
Nhưng thủ tướng họ Lý nhắc rằng Singapore không phải là "quốc gia của người Hoa" mà ngay từ đầu luôn xây dựng "bản sắc quốc gia là đa chủng tộc".
Châu Á cần cả hai và chỉ muốn Mỹ - Trung sáng suốt
Cuối cùng, như để nhắn gửi không chỉ cho Hoa Kỳ và Trung Quốc mà cả các nước khác cần có sự lựa chọn, ông Lý Hiển Long nêu ra đánh giá của ông về thực lực hai cường quốc :
"Sẽ rất khó, gần như là không thể, để Hoa Kỳ thay thế Trung Quốc ở vai trò nhà cung cấp hàng hóa số một (world's chief supplier), cũng như không thể nào hình dung Hoa Kỳ sống nổi mà không có thị trường Trung Quốc, nước đang là nhà nhập khẩu hàng Mỹ thứ ba thế giới, sau Canada và Mexico.
Nhưng Trung Quốc cũng không thể thay thế vai trò kinh tế của Mỹ ở Châu Á.
Hệ thống tài chính toàn cầu gần như dựa hẳn vào các định chế tài chính của Hoa Kỳ, và đồng nhân dân tệ sẽ không thay thế đồng đô la như tiền dự trữ ngoại hối quốc tế trong thời gian tới.
Mặc dù các nước Châu Á khác xuất khẩu sang Trung Quốc nhiều hơn sang Mỹ, các tập đoàn của Hoa Kỳ vẫn đang hợp thành nguồn đầu tư nước ngoài lớn nhất ở nhiều nước Châu Á - Thái Bình Dương, gồm cả Singapore.
Các đại tập đoàn Trung Quốc bắt đầu đầu tư ra nước ngoài, nhưng sẽ còn cần nhiều năm để Trung Quốc có các công ty đa quốc gia ở tầm vóc và độ tinh vi như các công ty đang đóng tại Hoa Kỳ, và chúng là nút thắt kết nối toàn bộ chuỗi sản xuất toàn cầu, nối Châu Á với kinh tế toàn cầu và tạo ra hàng triệu việc làm".
Kết luận, thủ tướng Lý Hiển Long không vẽ ra một bức tranh tươi sáng, mà nói rằng bên cạnh các thúc đẩy nội bộ (ở Hoa Kỳ và Trung Quốc), các vấn đề thương mại, địa chính trị, thì đại dịch Covid-19 "đã làm cho cạnh tranh Mỹ - Trung xấu đi".
Tuy thế, ông nhắc đến nhiều vai trò trung lập của Asean, muốn hòa hiếu với cả hai "người khổng lồ" và bày tỏ mong ước :
"Ta chỉ có thể hy vọng sự nghiêm trọng của tình hình sẽ giúp người ta tập trung đầu óc và cho phép những lời tư vấn sáng suốt hơn (wiser counsel) thắng thế".
"Thành công của các nước Châu Á, và tương lai của Thế kỷ Châu Á sẽ tùy thuộc rất nhiều vào chuyện Hoa Kỳ và Trung Quốc có khắc phục được khác biệt, xây dựng niềm tin và cùng làm việc vì trật tự thế giới hòa bình hay không. Đây là câu hỏi cơ bản của thời đại chúng ta".
Nguồn : BBC tiếng Việt, 05/06/2020
(1) Tạm dịch : Thế kỷ Châu Á lâm nguy : Hoa Kỳ, Trung Quốc và hiểm họa của đối đầu
(2) America First - ông Lý Hiển Long không nêu tên tác giả phương châm đó : Donald Trump
(3) Nguyên văn : A natural question arises : Does Xi think that the Pacific Ocean is big enough for the United States and China to coexist peacefully, with overlapping circles of friends and partners, or that it is big enough to be divided down the middle between the two powers, into rival spheres of influence ?...
(4) Nguyên văn : The United States is not a declining power
(5) Ông Lý Hiển Long dùng từ Chinese - Hoa, Hán, Trung Quốc
Công hàm của Hoa Kỳ và thế trận Biển Đông
Nguyên Sa, RFA, 03/06/2020
"Cuộc chiến công hàm" tiếp diễn
Ngày 1/6/2020, Đại sứ Kelly Craft - Trưởng phái đoàn thường trực của Hoa Kỳ tại Liên Hợp Quốc đã gửi công hàm ngoại giao để phản đối các luận điệu sai trái của Trung Quốc khi ban hành công hàm CML/14/2019 ngày 12/12/2019.
Công hàm của Mỹ gửi Liên Hiệp Quốc về Biển Đông và Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc Kerry Craft - Photo : RFA
Chúng ta còn nhớ, ngày 12/12/2019, Malaysia đã gửi một Báo cáo về thềm lục địa mở rộng lên Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên Hợp Quốc (viết tắt là CLCS) để yêu sách một phần thềm lục địa mở rộng của họ tại phía Bắc Biển Đông, theo quy định tại Điều 76 (8) của Công ước Luật biển 1982 (viết tắt là UNCLOS).
Cũng trong ngày này, Trung Quốc đã gửi ngay công hàm CML/14/2019 để phản đối Báo cáo của Malaysia, đồng thời lặp lại các yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông.
Công hàm của Hoa Kỳ có nội dung gì ?
Phần mở đầu, công hàm của Hoa Kỳ khẳng định, văn bản này không nhằm đáp lại Báo cáo lên CLCS của Malaysia. Trong khi đó, văn bản này tập trung vào các "yêu sách biển quá đáng" của Trung Quốc, các yêu sách này không phù hợp với luật biển quốc tế, vốn được quy định trong UNCLOS.
Chính các "yêu sách biển quá đáng" của Trung Quốc đã "can thiệp một cách phi lý" tới các quyền và sự tự do trên biển của Hoa Kỳ và các quốc gia khác. Do đó, Hoa Kỳ thấy cần phải thể hiện sự phản đối thông qua công hàm này.
Tiếp theo, công hàm của Hoa Kỳ cũng liệt kê các khẳng định về yêu sách của Trung Quốc, bao gồm :
Trung Quốc cũng đã đưa ra quan điểm này, ngay sau Phán quyết ngày 12/7/2016 của Tòa Trọng tài trong Vụ Philippines kiện Trung Quốc. Hoa Kỳ cũng đã phản đối quan điểm này của Trung Quốc trong công hàm ngày 28/12/2016 của mình, (mà Hoa Kỳ gửi kèm cùng với văn bản ngày 1/6/2020 này).
Bản đồ Biển Đông có đường 9 đoạn do Trung Quốc tự vẽ ra - AFP
Phần tiếp theo, công hàm của Hoa Kỳ phân tích rõ từng vấn đề mà Hoa Kỳ phản đối các yêu sách của Trung Quốc.
Thứ nhất, Hoa kỳ phản đối yêu sách "quyền lịch sử" của Trung Quốc tại Biển Đông mà Trung Quốc mở rộng yêu sách này đối với các quyền lợi biển mà Trung Quốc khẳng định là phù hợp với luật quốc tế, cụ thể là UNCLOS. Hoa Kỳ nhắc lại rằng trong Phán quyết năm 2016 - Phán quyết này là chung thẩm và ràng buộc pháp lý với Trung Quốc. Theo đó, yêu sách "quyền lịch sử" của Trung Quốc ở Biển Đông không thể vượt quá các vùng biển của mỗi quốc gia, được quy định trong UNCLOS.
Thứ hai, Hoa Kỳ phản đối việc Trung Quốc áp dụng một cách phi lý trong việc tự ý tuyên bố đường cơ sở thẳng bao quanh các cấu trúc nằm rải rác tại Biển Đông như trong trường hợp một quốc gia quần đảo. Theo đó, đường cơ sở này biến các vùng nước bên trong đường cơ sở (được thiết lập một cách phi lý) này trở thành vùng nội thuỷ của Trung Quốc.
Chúng ta còn nhớ, năm 1996, Trung Quốc đã tự ý tuyên bố một đường cơ sở thẳng bao quanh quần đảo Hoàng Sa, và Việt Nam đã phản đối điều này. Trong công hàm ngày 30/3/2020, Phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc cũng đã phản đối nội dung này.
Thứ ba, Hoa Kỳ cũng phản đối các yêu sách về các quyền lợi biển mà Trung Quốc tuyên bố dựa trên các cấu trúc tại Biển Đông. Trong khi các cấu trúc này không đáp ứng được yêu cầu là "đảo" như quy định tại Điều 121 (1) của UNCLOS. Theo đó, các cấu trúc này vì không đáp ứng được yêu cầu là "đảo" cho nên sẽ không thể có vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa (CS) kèm theo. Trung Quốc cũng không thể yêu sách chủ quyền hay các vùng biển kèm theo đối với các bãi ngầm luôn chìm dưới mặt nước biển như Bãi Macclefield hay là Bãi James Shoal. Tương tự, Trung Quốc cũng không thể yêu sách chủ quyền và các vùng biển kèm theo đối với các cấu trúc lúc chìm lúc nổi như Bãi Vành Khăn hay Bãi Cỏ Mây. Các cấu trúc này không thể tạo thành một phần của lãnh thổ đất liền của một quốc gia. Do đó, các cấu trúc này không thể là đối tượng yêu sách chủ quyền và có các vùng biển kèm theo như Trung Quốc đã tuyên bố được. Tất cả các vấn đề này đã được Tòa Trọng tài giải thích rõ ràng trong Phán quyết năm 2016.
Thứ tư, khi khẳng định các "yêu sách biển quá đáng" của mình, Trung Quốc đã hàm ý hạn chế các quyền và sự tự do, bao gồm quyền hải hành và tự do hải hành cho tất cả các quốc gia khác. Hoa Kỳ phản đối các yêu sách biển dẫn đến sự mở rộng các quyền lợi biển này của Trung Quốc, mà Trung Quốc luôn khẳng định là tuân thủ luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS.
Tương đồng quan điểm
Hoa Kỳ cũng lưu ý thêm là các chính phủ, bao gồm : Philippines, Việt Nam và Indonesia đã có các công hàm riêng rẽ cũng để phản đối các yêu sách biển của Trung Quốc được thể hiện trong công hàm CML/14/2019 ngày 12/12/2019. Hoa Kỳ cũng yêu cầu Trung Quốc thực hiện các yêu sách phù hợp với luật quốc tế, trong đó có UNCLOS và Trung Quốc cần tuân thủ Phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng tài, cũng như dừng lại các hoạt động khiêu khích trên Biển Đông.
Philippines đã gửi công hàm ngày 6/3/2020 ; Việt Nam gửi công hàm ngày 30/3/2020.
Mới đây, ngày 26/5/2020, Indonesia cũng đã gửi công hàm lên Liên Hợp Quốc để phản đối yêu sách biển của Trung Quốc.
Cho đến nay, cả 4 quốc gia Philippines, Việt Nam, Indonesia, Hoa Kỳ đã chính thức thể hiện quan điểm về vấn đế này. Theo đó, cả 4 quốc gia trên đều tập trung phản đối cái gọi là "yêu sách đường lưỡi bò" của Trung Quốc được thể hiện dưới dạng "quyền lịch sử" và quyền đối các vùng biển dựa trên các nhóm cấu trúc trên Biển Đông.
Công hàm của Việt Nam gửi Liên Hiệp Quốc về Biển Đông tháng 4 năm 2020 Photo : RFA
Ngoài ra, cả 4 quốc gia này đều tỏ ý thừa nhận và viện dẫn các giải thích từ Phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng tài trong vụ Philippines kiện Trung Quốc.
Malaysia dù chưa đưa ra quan điểm chính thức, nhưng với Báo cáo thềm lục địa mở rộng ngày 12/12/2019 cũng mang hàm ý tuân thủ Phán quyết năm 2016.
Với việc đưa ra quan điểm vào thời điểm này, Hoa Kỳ dường như gửi đi một thông điệp quan trọng đó là Hoa Kỳ ủng hộ và sát cánh cùng các quốc gia ASEAN để chống lại các yêu sách quá đáng của Trung Quốc, các yêu sách này đi ngược lại luật biển quốc tế, bao gồm cả UNCLOS và Phán quyết năm 2016.
Việt Nam cần làm gì ?
Đây là lần đầu tiên Hoa Kỳ lên tiếng chính thức thông qua việc gửi công hàm lên Liên Hợp Quốc để ủng hộ lập trường của các quốc gia ASEAN trong việc chống lại các yêu sách biển phi lý cũng như các hành động hung hăng, hiếu chiến của Trung Quốc trên Biển Đông.
Đây cũng có thể hiểu là một tín hiệu từ Hoa Kỳ thể hiện, đặc biệt đối với Việt Nam - quốc gia đã gặp rất nhiều sự khiêu khích, quấy rối từ Trung Quốc trên Biển Đông, rằng Hoa Kỳ sẽ và muốn thúc đẩy quan hệ với Việt Nam lên một tầm cao mới. Chúng ta còn nhớ, gần đây, Mỹ đã mời Việt Nam tham dự vào cuộc tập trận "Vành đai Thái Bình Dương". Ngoài ra, báo chí cũng cho biết Việt Nam đã được đánh tiếng mời vào nhóm "The Quad Plus" (Bộ Tứ mở rộng). Một chuyên gia cũng cho biết, Mỹ muốn cho máy bay P8 được xuất hiện trên bầu trời Việt Nam như một chỉ dấu cho việc tăng cường quan hệ "ngoại giao quốc phòng" đối với Việt Nam. Tuy nhiên, thái độ của Việt Nam vẫn còn chần chừ vì "sợ oai hùm" từ Bắc Kinh.
Nếu Việt Nam thực sự muốn thoát khỏi "sự đe doạ" từ Trung Quốc, thì đây chính là một thời điểm thật sự thích hợp để Việt Nam có thể chuyển mình, tạo những bước đi và thế đứng mới trước một Trung Quốc "hung hăng và xấu xí".
Nguyên Sa
Nguồn : RFA, 03/06/2020
*********************
Biển Đông : Mỹ bác bỏ yêu sách của Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc
Thụy My, RFI, 03/06/2020
Hoa Kỳ đã góp tiếng nói đầy sức nặng của mình cùng với các nước Đông Nam Á, phản đối các yêu sách quá đáng của Trung Quốc trên Biển Đông. Phái đoàn Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc hôm 02/06/2020 đã gởi công hàm cho tổng thư ký Antonio Guterres, nhấn mạnh rằng Bắc Kinh phải tuân thủ phán quyết La Haye năm 2016.
Quần đảo Hoàng Sa fr.wikipedia.fr
Công hàm do đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc Kelly Craft ký, nhằm đáp trả công hàm CML/14/2019 của phái đoàn thường trực Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc. Bắc Kinh ngày 12/12/2019 đã gởi công hàm này lên Ủy ban về ranh giới thềm lục địa (CLCS) để phản đối việc Malaysia xin công nhận thềm lục địa mở rộng bên ngoài phạm vi 200 hải lý.
Hoa Kỳ bác bỏ các đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc không phù hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS), tái khẳng định rằng Bắc Kinh không thể yêu sách các đường căn bản hay vùng nội thủy giữa các đảo, và các thực thể dưới nước không thể coi như đất liền. Đồng thời yêu cầu cho lưu hành công hàm này cho tất cả các quốc gia thành viên như tài liệu chính thức của Đại hội đồng.
Một lần nữa Washington kêu gọi Bắc Kinh tuân thủ phán quyết ngày 12/07/2016 của Tòa án Trọng tài Thường trực La Haye, và ngừng các hành động khiêu khích ở Biển Đông.
Indonesia gởi công hàm phản đối yêu sách Trung Quốc về Biển Đông
Tại Đông Nam Á, Indonesia cũng hợp sức với các nước láng giềng. Jakarta Post hôm 01/06 cho biết, tuần trước Indonesia đã đệ trình một công hàm cho tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, bác bỏ các yêu sách đường 9 đoạn "rõ ràng không có cơ sở pháp lý" của Trung Quốc trên Biển Đông. Công hàm nhắc lại phán quyết của Tòa Trọng tài năm 2016 khẳng định các yêu sách về "quyền lịch sử" của Trung Quốc là vô căn cứ.
Indonesia là quốc gia duy nhất không yêu sách chủ quyền tại Biển Đông gởi công hàm phản đối Trung Quốc lên Liên Hiệp Quốc, với từ ngữ khá mạnh mẽ. Động thái này được các nhà quan sát chú ý.
Thụy My
Nguồn : RFI, 03/06/2020
Cho đến cuối tháng 5/2020, Việt Nam đã thành công trong việc "chống dịch như chống giặc", như thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nói, với 328 ca lây nhiễm và không có ca nào tử vong, trong khi cả thế giới vẫn đang vận lộn với dịch.
Nhưng có một nguy cơ khác đang lởn vởn ở Biển Đông, là không gian sinh tồn không chỉ với Việt Nam mà còn với nhiều nước khác. Để đối phó với nguy cơ đó, Việt Nam bắt đầu công khai hợp tác với "Bộ Tứ", trên danh nghĩa để đối phó với dịch Covid-19. Nhưng Mỹ, Nhật, Úc, Ấn, đã lập ra "Bộ Tứ" năm 2007 để đối phó với một Trung Quốc trỗi dậy.
Đối với Việt Nam, Trung Quốc là nguy cơ trước mắt. Tàu HD-8 của Trung Quốc, được nhiều tàu tuần duyên vũ trang hộ tống, đã bắt nạt Việt Nam tại bãi Tư Chính từ tháng 7 đến 10/2019, và gần đây đã quay lại. Sau khi đi qua vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam tại Biển Đông, tàu Trung Quốc định bắt nạt chính phủ mới của Malaysia.
Trong khi đó, nhóm tác chiến tàu sân bay Liêu Ninh đã hoạt động gẫn bãi ngầm Macclesfield cho đến ngày 25/4 khi nhóm tác chiến của Mỹ gồm tàu USS America đã rời đi nên cuộc đối đầu tạm dừng. Biển Đông có thể là chiến trường được Trung Quốc chọn để tập trận nhằm nâng cao kinh nghiệm chiến đấu, như một chuyên gia của RAND đã phân tích.
Để đối phó với nguy cơ tăng lên, Việt Nam đã nâng dần thế cờ, lần đầu tiên nâng khả năng hợp tác quốc phòng với các "nước lớn" như Mỹ, và thậm chí có thể đưa tranh chấp tại Biển Đông ra tòa trọng tài quốc tế. Ngày 25/11/2019, Viêt Nam đã công bố Sách trắng Quốc phòng mới, nhấn mạnh chính sách quốc phòng "Ba Không" – Không tham gia liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự, và không liên kết với nước này để chống nước kia. Nhưng chính sách đó để ngỏ khả năng tăng cường hợp tác an ninh với các nước khác, đặc biệt là với Mỹ. Nói cách khác, Việt Nam có chiến lược phòng ngừa để răn đe nguy cơ Trung Quốc.
Trong khi các nước khác có tranh chấp ở Biển Đông ngại không muốn công khai ủng hộ các hoạt động tự do hàng hải, thì Sách trắng Quốc phòng của Việt Nam có đoạn viết : "Việt Nam sẵn sàng đón tàu hải quân, tàu cảnh sát biển, tàu biên phòng của các nước và các tổ chức quốc tế thăm xã giao, thăm thông thường, ghé đậu để sửa chữa, bổ sung vật chất hậu cần, kỹ thuật, hoặc trú tránh thiên tai, thảm họa".
Sách trắng Quốc phòng cho thấy Hà Nội ngày càng khác biệt so với Bắc Kinh về cách ứng xử tại Biển Đông, và về nhận thức của Hà Nội trước nguy cơ chủ yếu, tuyên bố cam kết hợp tác với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị và cách biệt về kinh tế. Sách trắng còn gửi đi tín hiệu của Hà Nội về "lằn ranh đỏ" đối với chủ quyền quốc gia, và sẵn sàng tăng cường quan hệ quốc phòng với các nước lớn và các nước khác trong khu vực. Sách trắng cũng bác đề xuất muốn hạn chế các nước tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông không được tham gia các hoạt động hàng hải chung với các nước ngoài khu vực. Ngược lại, Sách trắng còn gợi ý triển vọng Việt Nam có thể cân nhắc điều chỉnh chính sách quốc phòng "Ba Không" truyền thống bất cứ lúc nào Việt Nam đứng trước sự đe dọa không thể chấp nhận được từ Trung Quốc, "tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể".
Theo các nguồn tin ngoại giao Việt Nam, thảo luận ở Hà Nội về khả năng đưa vấn đề Biển Đông ra tòa quốc tế cấp thiết hơn trước. Tại hội thảo quốc tế về Biển Đông lần thứ 11 do Học viện Ngoại giao Việt Nam tổ chức ngày 6/11/2019, Thứ trưởng Ngoại giao Lê Hoài Trung đã phát biểu : "Hiến chương Liên Hiệp quốc và Công ước về luật biển của Liên Hiệp quốc (UNCLOS 1982) có đủ cơ chế cho chúng ta áp dụng những biện pháp đó".
Bộ tứ : Một cuộc khảo sát ẩn danh nhận được 276 phản hồi của 10 nước ASEAN (Source: Southeast Asia Perceptions of the Quadrilateral Security Dialogue)
Cơ chế đối thoại An ninh Tứ cường gồm Mỹ, Nhật, Úc, Ấn (được gọi là "Bộ Tứ" Kim cương) do Thủ tướng Nhật Shinzo Abe khởi xướng năm 2007, được sự ủng hộ của Phó Tổng thống Mỹ Dick Cheney, Thủ tướng Úc John Howard và Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh. Nhưng chính phủ Úc dưới thời Thủ tướng Kevin Rudd, đã rút lui vào năm 2009. Nay nhìn lại, ý tưởng về "Bộ Tứ" đó tuy hay nhưng thời cơ chưa thật chín muồi.
Đến tháng 11/2017, bốn nước đó đã chính thức khôi phục lại ý tưởng về "Bộ Tứ" như một sáng kiến mới tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN và Đông Á. Washington đã biến sáng kiến đó thành động lực chính cho tầm nhìn "Indo-Pacific Mở và Tự do" (FOIP), và Tổng thống Donald Trump đã có sáng kiến dùng "Bộ Tứ" để thúc đẩy hợp tác an ninh khu vực. Đến nay, các quan chức cao cấp của bốn nước đã họp chính thức năm lần.
Giới ngoại giao cho rằng Hà Nội đã lặng lẽ cân nhắc việc hợp tác với "Bộ Tứ". Để đối phó với tham vọng mới của Trung Quốc, Việt Nam đã thăm dò khả năng hợp tác với nhóm bốn nước cùng với các đối tác khác trong khu vực như New Zealand và Hàn Quốc. Đó là "Bộ Tứ cộng ba", trước mắt để đối phó với dịch Covid-19.
Ngày 27/3, các nước trong "Bộ Tứ" đã họp trực tuyến lần đầu tiên với New Zealand, Hàn Quốc, và Việt Nam ở cấp thứ trưởng, để trao đổi không chỉ về giải pháp cho đại dịch Covid-19 mà còn về cách khôi phục kinh tế sau đại dịch, với dự kiến họp hàng tuần. Tuy Hàn Quốc và Việt Nam đã thành công bước đầu trong việc kiểm soát đại dịch và có thể chia sẻ kinh nghiệm, nhưng các nước "Bộ Tứ" vẫn còn đang phải chống dịch.
Các nước trong "Bộ Tứ cộng ba" đã họp không chỉ về cách chống dịch Covid-19, mà còn về chuyển giao công nghệ và cách khôi phục kinh tế đúng hướng. Tuy Việt Nam là một đối tác chiến lược tiềm năng với cả bốn nước "Bộ Tứ", nhưng vẫn có xu hướng muốn hạn chế hợp tác theo tầm nhìn chiến lược giữa các nước "Bộ Tứ cộng ba". New Zealand cũng như Ấn Độ đều có quan điểm trung lập giữa Mỹ và Trung Quốc, và không muốn thấy cơ chế đối thoại này được coi là một cách gắn kết với chiến lược ngăn chặn Trung Quốc.
Nhưng trong mấy năm qua, tầm nhìn chiến lược của các nước khu vực đã thay đổi. Việc ngày càng nhiều nước khu vực chấp thuận tầm nhìn Indo-Pacific là một chỉ dấu. Từ 2019, ASEAN đã chấp thuận tầm nhìn Indo-Pacific, và quá trình thể chế hóa từng bước ý tưởng về "Bộ Tứ" chứng tỏ việc mở rộng này là có cơ sở thực tiễn. Trước mắt Trung Quốc chắc không có lý do để chống lại các nước khu vực hợp tác nhằm đối phó với đại dịch Covid-19.
Khó xử: ASEAN phân hóa liệu Bộ Tứ có thể cản bước Trung Quốc bá quyền, đa số phản hồi của Việt Nam và Philippine ủng hộ nhóm bốn nước đối thoại về an ninh (Southeast Asia Perceptions of the Quadrilateral Security Dialogue)
Derek Grossman, một chuyên gia phân tích của RAND, coi Việt Nam là "trường hợp lý thú", có thể đóng góp tuyệt vời cho "Bộ Tứ mở rộng đối phó với Trung Quốc". Ông lập luận rằng mở rộng "Bộ Tứ" cho một nước Đông Nam Á tham gia sẽ làm suy yếu lập trường của Trung Quốc cho rằng "Bộ Tứ" chỉ là một nhóm nước ngoài khu vực định ngăn chặn họ.
Tuy lãnh đạo Việt Nam vẫn ngại theo ý tưởng "Bộ Tứ mở rộng", nhưng cách hành xử cứng rắn của Trung Quốc ở Biển Đông có thể buộc họ phải theo. Như đã thể hiện qua lập trường phòng ngừa trong Sách Trắng Quốc phòng, Hà Nội chắc sẽ tham gia "Bộ Tứ mở rộng" từng bước có mức độ, để tránh làm cho nước láng giềng khổng lồ phản ứng.
Theo một khảo sát của Lê Thu Hường, là chuyên gia phân tích của ASPI, đa số các ý kiến phản hồi của ASEAN coi ý tưởng về "Bộ Tứ" sẽ bổ sung cho cơ chế an ninh của ASEAN. Tuy có một số ý kiến tỏ ra lo ngại về tác động tiêu cực đến sự trung lập của ASEAN, nhưng có 57% ý kiến phản hồi của ASEAN ủng hộ "Bộ Tứ" có vai trò hữu ích cho an ninh khu vực. Kết quả khảo sát chứng tỏ những ý kiến ủng hộ "Bộ Tứ" mạnh nhất là của người Việt Nam và Philippines, vì họ muốn duy trì an ninh và ổn định ở khu vực.
Trong khi 54% ý kiến phản hồi của ASEAN cho rằng ý tưởng mở rộng "Bộ Tứ" tùy thuộc vào thái độ hung hăng của Trung Quốc, thì 69% phản hồi hy vọng "Bộ Tứ" có thể đóng góp để đảm bảo trật tự dựa trên luật lệ. Kết quả khảo sát ngược với cách hiểu của nhiều người cho rằng điều đó gây tranh cãi và khiêu khích. Vì vậy, "Bộ Tứ" đang dần mở rộng.
Hoặc là Hà Nội có thể dựa vào các nước ASEAN như Indonesia, Malaysia và Philippines, để ủng hộ và hợp tác tại Biển Đông. Trung Quốc đã bắt nạt và cưỡng ép các nước này, bác bỏ các yêu cầu của họ về lãnh hải ở Biển Đông. Bốn nước này có thể tập trận hay tuần tra ở Biển Đông, như Philippines đã từng đưa ra đề xuất không chính thức về "tuần tra đoàn kết". Các nước Đông Nam Á mong muốn đoàn kết để chống dịch Covid-19 có thể dẫn đến các hình thức hợp tác mới, đem lại lợi ích để đối phó với các phiêu lưu quân sự mới của Trung Quốc.
Nguyễn Quang Dy
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 02/06/2020
Một phiên bản tiếng Anh của bài viết đã được xuất bản bởi Yale Global : "Vietnam May Turn Threats into Opportunity", 02/06/2020