Không còn là nơi xa xôi hẻo lánh, bị cô lập, những hòn đảo trên biển đang trở thành những mảnh ghép chiến lược quan trọng được nhiều cường quốc đua nhau chiếm đoạt hay tranh giành ảnh hưởng nhằm kiểm soát những vùng lãnh hải bao la. Việc chiếm đóng và xây dựng các đảo đá ngầm ở Biển Đông là một trong số các ví dụ điển hình nhất trong cuộc đua giành đảo này.
Ảnh chụp vệ tinh ngày 08/04/2015 cho thấy các hoạt động bồi đắp một đảo nhỏ và phát triển một cảng nhân tạo tại những bãi rạn san hô của Trung Quốc trên quần đảo Trường Sa, Biển Đông. Reuters/CSIS's Asia Maritime Transparency
Mỏm đá, đảo nhỏ, đảo ?
Thống kê của Liên Hiệp Quốc đưa ra một con số ấn tượng : 460.000 đảo trên khắp hành tinh. Từ cổ chí kim, nói đến đảo là nhắc đến nhiều chức năng của đảo : Một vị trí chủ chốt để kiểm soát một eo biển, Điểm giao thương và giao thoa văn hóa, Chốn thiên đường để quay phim giải trí, Một khu bảo tồn sinh thái…
Sự giầu có của một hòn đảo giờ không chỉ gắn liền với mảnh đất hình thành nên nó, và dưới thời thực dân, cho phép cường quốc cai trị đảo trở nên giầu có, mà còn đi liền với cả vùng biển bao bọc đảo – hay đúng hơn với cả đáy biển và những gì chúng cất trữ. Vậy trước hết, như thế nào mới được xem là đảo ? Bà Marie Redon, nhà địa chất học trường đại học Paris 13, tác giả tập sách "Vị thế địa chính trị của các đảo" (Nhà xuất bản Le Cavalier Bleu) giải thích trên đài RFI :
"Định nghĩa nghe có vẻ hiển nhiên. Nếu chúng ta bảo một ai đó "vẽ cho tôi một hòn đảo đi", một cách ngẫu nhiên, chúng ta sẽ có một mảnh đất chung quanh bao bọc nước và điều này chỉ dừng ở đó. Như vậy, một mảnh đất xung quanh toàn là nước, đương nhiên rồi, nhưng mảnh đất nào mới được ? Diện tích mảnh đất đó là bao nhiêu ? Liệu đó có là một mỏm đá, một đảo nhỏ ? Hay đó là một mảnh đất không nhô lên khỏi mặt nước khi thủy triều xuống để được xem là một hòn đảo ? Phải chăng nước Anh vẫn luôn là đảo bất chấp đường hầm dưới biển Manche ? Hay như đảo Ré (phía tây nước Pháp) vẫn luôn là một hòn đảo ?
Thật tình, có điều gì đó thoáng nghĩ có vẻ rất rõ ràng trong định nghĩa về đảo, nhưng đồng thời cũng cực kỳ phức tạp khi chúng ta đi sâu hơn trong khái niệm này. Do vậy, định nghĩa đơn giản : Đó là một mảnh đất chung quanh bao bọc nước. Định nghĩa phức tạp hơn, dĩ nhiên chúng ta sẽ đề cập đến trong suốt chương trình này. Điều quan trọng đối với tôi chính là bản thân định nghĩa về đảo cũng đang trở thành một thách thức địa chính trị và kinh tế quan trọng".
Vùng đặc quyền kinh tế : 200 hay 350 hải lý ?
Thế rồi xuất hiện một ký hiệu rất dễ thương nhưng có một tầm quan trọng lớn : Đó là EEZ – vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý (tương đương với 370,4 km) được Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển UNCLOS lần III công bố năm 1982. Điều này có nghĩa là từ đường bờ biển, các quốc gia ven biển được quyền tiến ra khơi xa đến 370,4 km. Việc quốc tế công nhận vùng đặc quyền kinh tế EEZ đã mở đường cho quyết định công nhận các đảo quốc nhỏ đang phát triển như là một nhóm quốc gia đặc biệt trong lòng tổ chức quốc tế này 10 năm sau đó. Nhờ có EEZ mà vai trò những đảo quốc nhỏ này cũng tăng dần cùng với thời gian trên bàn cờ địa chính trị.
Lợi ích kinh tế và chiến lược từ biển cả mang về ngày càng lớn do vậy ngày càng có nhiều quốc gia đòi hỏi mở rộng EEZ. Hiện Tòa án Công lý Quốc tế đang xem xét khả năng mở rộng các vùng đặc quyền kinh tế từ 200 hải lý lên đến 350 hải lý. Nghĩa là các nước duyên hải có thể vươn ra khơi xa đến 600 km tính từ bờ biển. Câu hỏi đặt ra : Vì sao là 200 và 350 hải lý ? Bà Marie Redon giải thích tiếp :
"Vì sao là 200 hải lý và 350 hải lý ? Con số 200 hải lý, độ rộng này không phải được chọn một cách ngẫu nhiên. Con số này từng phù hợp và bây giờ vẫn phù hợp với dòng hải lưu Humboldt, đi dọc theo bờ biển Thái Bình Dương. Đòi hỏi 200 hải lý này là do các quốc gia duyên hải như Pêru, Chilê đưa ra nhằm bảo vệ các vùng ngư trường của họ. Bởi vì khi người ta đề cập đến vùng EEZ này, đây là một thuật ngữ rất quan trọng, những quốc gia đó muốn độc quyền bảo vệ các nguồn tài nguyên như thủy sản và tài nguyên dưới lòng đáy biển.
Còn 350 hải lý tương đương với việc mở rộng ranh giới thềm lục địa. Ở đây chúng ta đang bước vào lĩnh vực thuật ngữ hải dương học. Thềm lục địa chính là việc nối dài về mặt kỹ thuật từ đất liền ra biển cả, và thường thì chính sâu dưới thềm lục địa chúng ta sẽ tìm thấy các nguồn dầu khí. Đây chính là nguyên nhân sâu xa của mọi yêu sách. Bởi vì, những quốc gia nào không có nước láng giềng đối mặt, có thể mở rộng và có một thềm lục địa vượt quá 200 hải lý với nguồn dầu hỏa được tìm thấy hoặc có hy vọng tìm thấy dưới thềm lục địa thì những nước đó sẽ tìm cách đẩy xa hơn nữa giới hạn này".
Cuộc đua giành đảo : Hoàng Sa, Trường Sa là ví dụ điển hình
Đây chính là trường hợp của nhiều cường quốc lớn hiện nay như Hoa Kỳ, Pháp, vốn dĩ là những quốc gia có EEZ rộng lớn nhất thế giới. Và đó cũng chính là nguyên nhân của mọi xung đột trong tương lai. Tại Bắc Băng Dương, dưới tác động của hiện tượng khí hậu ấm dần, băng tuyết tại đây tan nhanh dẫn đến sự thèm muốn sở hữu những vùng lãnh hải được cho là giầu nguồn tài nguyên chưa được khai thác và có thể sẽ là những con đường hàng hải chiến lược trong tương lai.
Hoa Kỳ, Nga, Canada… bắt đầu khởi động cuộc đua giành quyền kiểm soát nhiều đảo quan trọng. Sự kiện gây chú ý gần đây nhất là ý định mua đảo Groenland bất thành của tổng thống Mỹ Donald Trump do bị Đan Mạch bác bỏ. Vụ việc thoáng nghe có vẻ khôi hài nhưng thật chất đó là cả một ý đồ chiến lược của Mỹ, nhằm bảo vệ sân sau Bắc Cực trước thế mạnh đang lên của Nga và Trung Quốc.
Nếu như các cường quốc xưa và nay rất "chăm chút" cho việc mở rộng ảnh hưởng hàng hải của mình, thì những cường quốc mới trỗi dậy cũng tìm cách chen chân vào cuộc chơi. Trung Quốc, những năm gần đây, một mặt không ngừng mở rộng quan hệ với các đảo quốc nhỏ ở Thái Bình Dương, nhằm triệt tiêu dần nguồn lực ủng hộ của Đài Loan, hòn đảo "cứng đầu, khó trị" luôn tìm cách cưỡng lại mọi ý đồ hợp nhất Đài Loan về với Hoa Lục. Mặt khác, Bắc Kinh liên tục xâm chiếm các bãi đá ngầm ở Hoàng Sa và Trường Sa, rồi tiến hành cải tạo biến chúng thành đảo, lập các tiền đồn quân sự. Hành động này của Trung Quốc ở Biển Đông đã bị các nước có tranh chấp chủ quyền tại những bãi đá ngầm như Việt Nam, Philippines phản đối gay gắt. Năm 2013, chính quyền Manila quyết định kiện Trung Quốc trước Tòa án Trọng tài Thường trực La Haye về việc nước này đơn phương tuyên bố chủ quyền đường 9 đoạn đối với toàn bộ vùng Biển Đông.
Năm 2016, Tòa án quốc tế La Haye ra phán quyết bất lợi, không công nhận chủ quyền của Bắc Kinh tại những bãi đá ngầm trên. Về điểm này, bà Marie Redon cho rằng chính hồ sơ này cũng cho thấy rõ có những bất cập và một số kẽ hở pháp lý về cách định nghĩa như thế nào là đảo.
"Thời gian gần đây, tôi cho là khoảng những năm 2016 - 2017, một phán quyết của tòa án Công lý Quốc tế đã được đưa ra nêu rõ định nghĩa về đảo khi cho rằng đảo phải là một mảnh đất nổi lên mặt nước khi thủy triều lên và không phải do nhân tạo, mà phải là tự nhiên. Và yếu tố cuối cùng chính là đảo phải có thể thích hợp với điều kiện sinh sống của con người.
Thế nhưng, thuật ngữ "thích hợp với điều kiện sinh sống con người" lại không mấy rõ ràng. Liệu việc "thích hợp cho điều kiện sinh sống con người" này có được là nhờ vào nguồn cung cấp từ bên ngoài hay là tự thân, điều này chưa mấy rõ. Dẫu sao thì các luật gia, các chuyên gia về luật biển cũng đang suy nghĩ về khái niệm này.
Trong trường hợp của Hoàng Sa và Trường Sa, tôi nhớ là vào năm 2014, chúng tôi có xem những bức ảnh chụp làm cho mọi người phì cười bởi vì quý vị sẽ thấy những hòn đảo ở đây đang phình to ra, đúng hơn là những đảo nhỏ, những mỏm đá đang phình to. Bởi vì Trung Quốc hy vọng có thể biến các mỏm đá thành đảo, những bãi đá không nhô lên khỏi mặt nước lúc thủy triều lên và những bãi đá này không hề có quy chế đảo.
Biến bãi đá ngầm thành đảo khi cho xây dựng ở đó các cảng sân bay trực thăng, cảng biển … phán quyết của La Haye đưa ra là "Không". Đây không phải là những hòn đảo. Đó chỉ là những bãi đá ngầm, do vậy quý vị không được quyền có vùng đặc quyền kinh tế EEZ cùng với các mục tiêu địa chất. Quý vị chỉ có quyền một vùng lãnh hải 6 hải lý nhưng không có quyền vùng EEZ".
Mỗi một siêu cường một "bảo bối"
Không chỉ tại Biển Đông, tham vọng của Trung Quốc còn mở rộng sang cả vùng Ấn Độ Dương, cạnh tranh với Ấn Độ giành quyền kiểm soát tuyến lưu thông hàng hải thiết yếu qua việc lập các căn cứ quân sự hay xây cảng biển tại các nước đối tác trong khu vực với dự án "chuỗi ngọc" nổi tiếng. Bà Marie Redon tóm lược chính sách chinh phục đảo của Trung Quốc cũng như một số cường quốc như sau.
"Để tóm tắt, về tình hình Biển Đông, tại Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như tại Ấn Độ Dương, nếu nhìn trên bản đồ, người ta nhận thấy là không gian hàng hải ở đây thật sự bị khép kín và căng thẳng gia tăng bởi vì một cuộc đua chiếm hữu không chỉ về mặt lãnh thổ thông qua việc chiếm đảo, mà nhất là cả "đất biển" như vùng EEZ, những gì mang lại cho Trung Quốc quyền khai thác đối với các nguồn tài nguyên biển, dầu hỏa và cả với việc kiểm soát lối đi chiến lược.
Bởi vì, 90% giao thương thế giới đều được thực hiện bằng con đường hàng hải. Đương nhiên, việc có một hòn đảo nằm ngay giữa một eo biển giống như trường hợp nước Pháp tại eo biển Mozambic đối với quần đảo Eparses chẳng hạn, điều đó đồng nghĩa với việc có quyền giám sát những gì đang xảy ra và ai đi qua eo biển này !"
Tóm lại, trong cuộc đua giành đảo này, Trung Quốc không hề đơn thương độc mã. Mỗi một siêu cường đều nhắm một "bảo bối" riêng. Về việc Trung Quốc chiếm lấy toàn bộ Biển Đông, phương Tây cũng khó mà lên tiếng, nên chỉ đành chấp nhận ở việc kêu gọi "tự do lưu thông hàng hải" mà thôi !
Minh Anh
Nguồn : RFI, 09/04/2020
Tương tự như các căn cứ quân sự ở Đại lục, các tiền đồn của Trung Quốc tại Biển Đông được tích hợp vào một hệ thống các hệ thống lực lượng chung lớn hơn nhằm hỗ trợ các chiến lược đang hình thành của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (People's Liberation Army-PLA).
Hỏa lực của tàu tuần dương Type-055 (lớp Nhận Hải) với 112 ống phóng thẳng đứng (vertical launching system - VLS).
Hãy tưởng tượng bạn bước vào một căn phòng tối. Bạn không thể nhìn hay nghe thấy gì, nhưng đối thủ của bạn có thể nhìn và nghe được mọi thứ. Đối thủ của bạn ở trong phòng và biết rõ mọi ngóc ngách. Bạn chỉ biết một vài lối vào hoặc ra. Bạn có thể tin rằng bạn có lợi thế về công nghệ và huấn luyện cùng với sự hỗ trợ của các đồng minh và đối tác. Tuy nhiên, trong phạm vi căn phòng, bạn không thể xác định nơi đặt vũ khí của mình và không thể liên lạc với bạn bè. Trong bóng tối, kẻ thù theo dõi và chờ đợi, sẵn sàng tấn công từng người một trong nhóm của bạn từ những hướng bất ngờ. Nếu bạn để lộ vị trí của mình, hoặc gọi trợ giúp, những kẻ đứng trong bóng tối sẽ nghe thấy.
Đây là cơn ác mộng mà các nhà tham mưu quân sự Mỹ phải đối mặt ở Biển Đông.
Các tiền đồn của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa tạo cho Bắc Kinh ưu thế thông tin mang tính quyết định trước bất kỳ kẻ thách thức nào ở Biển Đông. Mục đích chính của chúng không phải là triển khai sức mạnh quân sự và phát triển vũ khí, mà là sức mạnh thông tin. Đóng góp chính của các căn cứ này là tạo thuận lợi cho các khả năng chỉ huy, kiểm soát, thông tin liên lạc, máy tính, tình báo, giám sát và do thám ở Biển Đông. Bất chấp luật pháp quốc tế, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) hành xử như thể các đảo-đá được quân sự hóa là thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Các tiền đồn đã phát triển thành căn cứ quân sự kiên cố, cho phép Trung Quốc kiểm soát trên thực tế đối với khu vực mà Bắc Kinh xem là vùng biển của họ. Tương tự như các căn cứ quân sự ở Đại lục, các tiền đồn ở Biển Đông được tích hợp vào một hệ thống các hệ thống lực lượng chung lớn hơn của Trung Quốc nhằm hỗ trợ các chiến lược đang hình thành của PLA.
Gần đây, Greg Poling đã lập luận trên tờ War on the Rocks rằng: "Sự hiểu biết thông thường về các căn cứ của Trung Quốc trên đảo là sai lầm đầy nguy hiểm". Ông khẳng định các tiền đồn của Trung Quốc sở hữu những khả năng quân sự làm thay đổi cuộc chơi, hỗ trợ sự hiện diện của Trung Quốc ở Biển Đông .Các khả năng này thường bị các nhà hoạch định chính sách Mỹ bác bỏ vì họ tin rằng chúng sẽ dễ dàng bị vô hiệu hóa trong một cuộc xung đột. Đáp lại, Olli Pekka Suorsa đưa ra phản biện rằng: "Hiểu biết thông thường vẫn đúng", và quả thật quân đội Mỹ có khả năng đẩy lùi các khả năng quân sự của Trung Quốc với tương đối ít nỗ lực. Mặc dù bài viết của Poling nắm bắt chính xác hơn phạm vi của các thách thức liên quan đến việc nhắm mục tiêu vào các tiền đồn của Trung Quốc, nhưng có lẽ cả hai tác giả đều đã đánh giá thấp những trở ngại về mặt tác chiến mà các căn cứ này tạo ra cho bất kỳ nước nào thách thức sự chi phối của Trung Quốc ở Biển Đông.
Đánh giá của phương Tây về các hòn đảo nhân tạo của Trung Quốc thường phản ánh cách tiến hành chiến tranh của Mỹ, gần như chỉ tập trung vào năng lực triển khai vũ khí động học của các tiền đồn này, như thể các khả năng tấn công là nền tảng cho các khái niệm tác chiến của Trung Quốc. Tuy nhiên, thực tế không phải vậy. Thay vào đó, bất kỳ đánh giá thực nào về các khả năng quân sự đều phải được xác định bởi các động lực: chiến lược của PLA, những đối thủ tiềm tàng của Trung Quốc và địa lý Biển Đông ở cấp độ tác chiến. Bất kể các căn cứ trên những đảo-đá này mang đến cho PLA và lực lượng cảnh sát biển Trung Quốc lợi thế gì về phương diện logistics và sự hiện diện liên tục, thì các hoạt động của Trung Quốc cũng sẽ bị giới hạn bởi phạm vi kiểm soát thông tin của PLA - khả năng nắm bắt không gian chiến đấu và chỉ huy các lực lượng quân sự.
Các khái niệm tác chiến trong chiến tranh thông tin
Không nên phóng đại sự chú trọng sâu sắc của PLA vào việc giành được ưu thế về thông tin như một yêu cầu về mặt chiến thuật, tác chiến và chiến lược. Nhìn chung, phương Tây đã hiểu sai và đánh giá thấp các khái niệm chiến tranh thông tin và tác chiến tập trung vào thông tin của Trung Quốc. Nói một cách đơn giản, nếu thời đại công nghiệp đánh dấu sự khởi đầu của chiến tranh cơ giới, thì Trung Quốc tin rằng thời đại thông tin đã dẫn đến chiến tranh thông tin. "Sức mạnh thông tin" là cách diễn đạt về mặt tác chiến của chiến tranh thông tin và là cụm từ đầu tiên trong số những điều PLA gọi là "các yếu tố cơ bản của sức mạnh chiến dịch". Theo Trung Quốc, sức mạnh thông tin quan trọng hơn cả những điểm nòng cốt trong các khái niệm tác chiến của quân đội Mỹ - yếu tố hỏa lực và tác chiến trong chiến tranh thời đại công nghiệp. Hỏa lực và tác chiến, đặc biệt là khả năng tấn công chính xác tầm xa, chắc chắn có vai trò quan trọng đối với ý đồ tác chiến của Trung Quốc. Tuy nhiên, PLA tin rằng sức mạnh trong các lĩnh vực này đơn giản không phải là then chốt quyết định thành công trong tác chiến bằng việc đạt được ưu thế về thông tin.
Sức mạnh thông tin - khả năng một quân đội giành được và duy trì ưu thế thông tin trong không gian chiến đấu - là một khái niệm ở cấp độ tác chiến thể hiện qua những thông tin chúng ta nhìn hoặc nghe thấy trong buồng lái, phòng điều khiển tàu hoặc trong một trung tâm chỉ huy. Khả năng này không phải đạt được bằng cách tấn công tin tặc trên phương tiện truyền thông xã hội, gây ảnh hưởng đến người dân, hoặc các hoạt động thông tin cấp cao hơn tập trung vào việc xuyên tạc câu chuyện xung quanh một cuộc xung đột. Khái niệm sức mạnh thông tin là nhận thức về không gian chiến đấu và khả năng duy trì thông tin cho các hệ thống vũ khí của chính mình trong khi đồng thời ngăn chặn kẻ thù tiếp cận thông tin về không gian chiến đấu. Các khái niệm của Trung Quốc tương tự như học thuyết chiến tranh chỉ huy và kiểm soát trước đây của Mỹ hơn là học thuyết ngày nay của Washington về "tác chiến liên hợp trong môi trường thông tin".
Mặc dù thường bị các nhà nghiên cứu về Trung Quốc chỉ trích là sáo rỗng, tuy nhiên, cách ví von rằng Trung Quốc chơi cờ vây trong khi Mỹ chơi cờ vua vẫn là một so sánh thích hợp về cách cả hai bên khái niệm hóa chiến lược quân sự. Mục tiêu của cờ vây là bao vây đối thủ, dẫn đến loại bỏ quân cờ của đối thủ và cuối cùng là giành chiến thắng bằng cách chiếm được nhiều đất hơn trên bàn cờ. Suy rộng ra, điều này phản ánh cách tiếp cận của Trung Quốc ở Biển Đông – kiềm chế các kẻ thù trong không gian, chiếm đóng, và đặt ra các điều kiện để loại bỏ các lực lượng của nước ngoài một cách nhanh chóng và dứt khoát nếu cần thiết.
Cách tiếp cận của quân đội Mỹ giống môn cờ vua hơn, một trò chơi hoạt động và tiêu hao nhằm tìm cách buộc đối phương phải đầu hàng bằng cách vô hiệu hóa một trung tâm chỉ huy quan trọng đằng sau phòng tuyến của địch (quân vua). Ở Biển Đông, Trung Quốc tìm cách nắm thế chủ động tác chiến ngay từ đầu, ngăn chặn Mỹ và các đồng minh của họ tiếp cận thông tin về không gian chiến đấu nhằm ngăn cản các lực lượng của Mỹ hoạt động trên quy mô rộng lớn và triển khai hỏa lực nhằm vào nơi mà PLA xem là trung tâm tác chiến của họ - hệ thống các hệ thống có nhiệm vụ chỉ huy, kiểm soát, thông tin liên lạc, máy tính, tình báo, giám sát và do thám. Cuối cùng, điều này làm dấy lên những câu hỏi về việc liệu hỏa lực và các chiến lược hoạt động của Mỹ có chiếm ưu thế trước một chiến lược nhằm vô hiệu hóa các hệ thống thông tin chiến trường của Mỹ hay không. Trong khi đó, các khả năng phục hồi và dự phòng hỗ trợ các vũ khí tầm xa của PLA, với dòng chảy tin tức tình báo và thông tin chiến trường dường như không bị gián đoạn.
"Phòng thủ tích cực" không phải là phòng thủ
Ở Biển Đông, Trung Quốc không giữ thế thủ và chờ đợi bị tấn công. PLA thông tin hóa các chiến lược chiến tranh và khái niệm tác chiến phù hợp với khái niệm "phòng thủ tích cực" của Trung Quốc - phòng thủ về mặt chiến lược trong khi tấn công.
Các nhà tham mưu quân sự của Mỹ đã đơn phương gán mác các năng lực quân sự của Trung Quốc là các khả năng chống tiếp cận/chống xâm nhập khu vực (Anti-Access/Area Denial - A2/AD). Tên gọi này đã tạo ra một câu chuyện thần thoại rằng trên thực tế, PLA có một chiến lược A2/AD phòng thủ hoặc chiến lược chống can thiệp. Chắc chắn, Trung Quốc có kế hoạch triển khai các khả năng quân sự đáng kể để ngăn chặn sự can thiệp của quân đội Mỹ. Tuy nhiên, quân đội Trung Quốc, giống như quân đội Mỹ, thích nắm thế chủ động tác chiến và thực hiện các chiến dịch tấn công hơn. PLA sẽ luôn tìm cách tránh rơi vào thế phòng thủ. Việc Mỹ tập trung khắc phục các khả năng A2/AD đã chuyển hướng chú ý ra khỏi các chiến lược của Bắc Kinh vốn được thiết kế để nhanh chóng đạt được các mục tiêu tấn công như chiếm giữ lãnh thổ, trừng phạt một kẻ thù trong khu vực hoặc bảo vệ các nguồn lực. Các chiến lược phản công của Mỹ có thể xử lý được các khả năng phòng thủ, nhưng không trực tiếp đánh trả các chiến lược tấn công của Trung Quốc và những lý do giải thích tại sao Mỹ có thể can thiệp ngay từ đầu. Hơn nữa, các chiến lược của Mỹ dường như tìm cách đánh bại các hệ thống vũ khí A2/AD của PLA nhưng không nhất thiết xử lý được điều PLA coi là trung tâm tác chiến của chính họ - sức mạnh thông tin.
Học thuyết chiến tranh thông tin của Trung Quốc được phát triển từ đầu những năm 2000 xác định rõ ràng các hệ thống liên quan đến thông tin của bạn bè và của kẻ thù là các trung tâm tác chiến mang tính then chốt. Chẳng hạn, một bài báo tiếng Trung trên tạp chí PLA Daily gần đây có tiêu đề: "Làm thế nào để phá hủy mạng lưới các điểm trọng yếu trong hệ thống các hệ thống tác chiến". Yêu cầu của PLA về thông tin liên lạc và hoạt động do thám đa dạng và dồi dào nhằm chiếm ưu thế trong một cuộc đối đầu cam go chống lại các hệ thống của kẻ thù được phản ánh rõ ràng nhưng hay bị bỏ sót qua các khả năng sức mạnh thông tin dồi dào và có khả năng khôi phục tại các tiền đồn của PLA ở Biển Đông.
Một đánh giá về nguyên liệu từ nguồn mở và hình ảnh vệ tinh thương mại cho thấy các khả năng thông tin liên lạc đáng kể trên các đảo-đá nhân tạo của Trung Quốc, bao gồm cáp quang dưới biển, thông tin vệ tinh đa băng tần, dải băng thông rộng tần số cao, thông tin liên lạc bằng phân tán tầng đối lưu... Các khả năng tình báo, giám sát và do thám (Intelligence, surveillance, and reconnaissance - ISR) cũng dồi dào và đa dạng, và bao gồm các hệ thống radar đa tần, hệ thống thông tin tình báo điện tử, và 6 radar vượt đường chân trời bằng sóng cực ngắn (tương tự như Monolit-B của Nga) mà có thể phát hiện các mục tiêu trên mặt đất cách hàng trăm dặm vượt đường chân trời. Đó là chưa đề cập đến tiềm năng của các hệ thống có thể di dời, như hệ thống tác chiến điện tử, máy bay ISR, máy bay tác chiến điện tử hoặc các hệ thống không người lái mà cuối cùng có thể hoạt động từ các đảo-đá. Tất cả các khả năng sức mạnh thông tin tại các tiền đồn của Trung Quốc ở Biển Đông sẽ phối hợp với nhau trước và trong suốt các chiến dịch quân sự để ngăn chặn đối thủ tiếp cận thông tin trong khi bảo vệ quyền truy cập thông tin của chính PLA.
Các khả năng thông tin liên lạc được kết nối thành mạng lưới có ở các tiền đồn của Trung Quốc làm gia tăng quyền kiểm soát thông tin của các lực lượng phi quân sự hoặc không chính quy ở Biển Đông. Các tàu bảo vệ bờ biển của Trung Quốc không được trang bị hệ thống thông tin liên lạc và kết nối dữ liệu quân sự tinh vi có thể được kết nối vào mạng lưới giám sát trên diện rộng bằng cách sử dụng sóng tầm nhìn thẳng. Lực lượng dân quân trên biển của PLA là các ngư dân Trung Quốc được tuyển chọn để bảo vệ an ninh khu vực phía sau, đóng vai trò canh gác các lực lượng quân sự nước ngoài, hoặc có khả năng đáng tin cậy trong việc ngăn chặn ngư dân của nước đối thủ. Giờ đây, các đảo-đá này có thể chỉ huy và kiểm soát lực lượng dân quân trên biển thông qua việc sử dụng hệ thống thông tin liên lạc bằng giọng nói thô sơ hoặc thậm chí là dịch vụ điện thoại di động 4G (và chẳng bao lâu sẽ là 5G) từ mỗi tháp viễn thông cao khoảng 48 m đặt trên các đảo này.
Về mặt quân sự, các khả năng của sức mạnh thông tin thể hiện rõ trên các tiền đồn của Trung Quốc ở Biển Đông là bộ phận đặt trên mặt đất của một hệ thống các hệ thống lực lượng chung tích hợp khả năng do thám và thông tin liên lạc trong không gian, trên không, trên biển và trên bộ. Nếu không thể ngăn chặn đối thủ bằng sự vượt trội về thông tin, thì khả năng sức mạnh thông tin có thể được tích hợp thêm các khả năng tấn công tầm xa quan trọng xuất phát từ chính các tiền đồn, Trung Quốc đại lục, tàu nổi, tàu ngầm hoặc tàu sân bay tác chiến của Trung Quốc. Chỉ riêng mối đe dọa từ việc nhắm mục tiêu và tấn công có thể khiến máy bay và tàu của kẻ thù phải bật hệ thống kiểm soát khí xả - tắt radar và các phương tiện thông tin liên lạc để tránh bị thiết bị điện tử phát hiện - tiếp tục ngăn không cho các đối thủ của PLA tiếp cận thông tin về chiến trường.
Các tiền đồn ở Biển Đông đáp ứng tất cả các yêu cầu của PLA về "chiến dịch tấn công nhằm vào các đảo-đá san hô", và nhiều khả năng chúng được xây dựng chỉ để phục vụ mục đích này. Chiến dịch này đã được phác thảo trong tài liệu Khoa học chiến dịch của Viện Hàn lâm Khoa học quân sự Trung Quốc năm 2006, khoảng 7 năm trước khi nước này bắt đầu xây dựng các đảo nhân tạo. Các mục tiêu của chiến dịch này bao gồm chiếm lại đảo-đá bị kẻ thù chiếm đóng, tăng cường chủ quyền lãnh thổ quốc gia và bảo vệ các quyền và lợi ích biển. Văn bản quan trọng này của Viện Hàn lâm Khoa học quân sự miêu tả chiến dịch đảo-đá diễn ra trong một không gian chiến đấu phức tạp cách xa Trung Quốc đại lục, làm tăng thêm thách thức cho lực lượng không quân yểm hộ, thông tin liên lạc, tình báo và logistics. Bản phác thảo chiến dịch tấn công trên đảo-đá này đề nghị PLA thiết lập một hệ thống các hệ thống tình báo và do thám toàn diện; thiết lập một mạng lưới thông tin liên lạc tích hợp duy nhất giữa các tàu, máy bay, đảo-đá và Đại lục; và đưa ra dự báo chính xác về tình hình khí tượng thủy văn. Trong khi có thể tiến hành tấn công trực tiếp vào bất kỳ hòn đảo nào do nước ngoài chiếm đóng trên quần đảo Trường Sa từ tàu đổ bộ của Hải quân PLA, thì các đảo-đá của Trung Quốc cung cấp mọi khả năng sức mạnh thông tin và logistics cơ bản được phác thảo trong học thuyết chiến dịch này.
Ngoài tiềm năng của các máy bay chiến đấu hoặc máy bay trực thăng tấn công hoạt động từ các sân bay ở tiền đồn, đáng lưu ý rằng hỏa lực của tất cả đảo-đá lớn kết hợp lại – đá Chữ Thập, đá Subi và đá Vành Khăn – dường như không bằng tiềm năng hỏa lực của một chiếc tàu tuần dương Type-055 (lớp Nhận Hải), với 112 ống phóng thẳng đứng (vertical launching system - VLS). Người ta có thể kết luận rằng các tên lửa đất đối không và chống hạm đặt trên tiền đồn chỉ đơn giản là để phòng thủ cho khu vực quần đảo Trường Sa, xét rằng có thể triển khai bất kỳ số lượng tàu tuần dương Type-055, tàu khu trục Type-052D hoặc các phương tiện chiến đấu trên khắp Biển Đông để tiến hành các cuộc tấn công. Về phần mình, đội tàu đặc nhiệm nổi trên mặt nước của Hải quân PLA có khả năng tuần tra tương đối kín đáo, khiến đối thủ khó có thể nhắm mục tiêu vì họ có thể nhận được thông tin về không gian chiến đấu do các thiết bị lắp đặt trên các đảo-đá của Trung Quốc cung cấp.
Các tiền đồn ở Biển Đông không nhất thiết nằm ở tuyến đầu trong hệ thống phòng thủ nhiều lớp của Trung Quốc khi xem xét chiến dịch "phòng thủ tích cực" của PLA, và một chiến dịch tấn công nhằm vào các đối thủ đang tiến công như Hải quân hoặc Không quân Mỹ. Một số người suy đoán rằng những đường băng dài trên các tiền đồn ở Biển Đông có thể được sử dụng để mở rộng phạm vi hoạt động của máy bay ném bom của Trung Quốc. Nhiều khả năng hơn là khu vực đỗ máy bay hạn chế trên các đảo-đá sẽ dành cho máy bay ISR và các phương tiện bay không người lái. Máy bay cảnh báo sớm trên không KJ-500, máy bay tình báo điện tử Y-9JB hoặc máy bay tuần tra tác chiến/trên biển chống ngầm Y-9Q có thể phóng từ các đảo-đá và ngay lập tức nằm trong khu vực phòng không do các máy bay chiến đấu phòng thủ và tên lửa đất đối không của các tiền đồn này tạo ra. Máy bay tại tiền đồn ở Biển Đông có thời gian chờ chuẩn bị cất cánh lâu hơn vài giờ so với máy bay ở Đại lục. Những máy bay này sẽ tạo ra vùng phủ sóng radar và một lớp thông tin liên lạc trên không sử dụng các kết nối dữ liệu, sóng tầm nhìn thẳng, cung cấp tin tức tình báo trong thời gian thực cách hàng trăm dặm vượt đường chân trời trên mặt nước cho các phương tiện chiến đấu được triển khai ở vị trí tiền tuyến của Hải quân PLA.
Việc sử dụng các đảo-đá làm sân bay, nơi máy bay cất cánh từ tàu sân bay có thể chuyển hướng trong trường hợp khẩn cấp cũng có thể quan trọng trong những năm tới. Ngay cả trong thời gian chuẩn bị trước khi tham chiến, thì việc máy bay cất cánh từ tàu đã là một nỗ lực đầy thách thức. Có nhiều lý do dẫn đến việc máy bay không thể quay trở lại tàu sân bay, từ thời tiết xấu, những hỏng hóc về mặt cơ học, cho đến tổn thất trong chiến đấu. Ngay cả các cánh không quân tinh nhuệ của Hải quân Mỹ cũng hiểu rằng việc vận hành ngoài phạm vi một sân bay thuận tiện trên mặt đất là một nhiệm vụ rất rủi ro. Giả sử khoảng cách từ một tàu sân bay đến sân bay chuyển hướng là 400 hải lý, các tiền đồn của Trung Quốc có thể cho phép tàu sân bay của Hải quân PLA hoạt động trên khắp phần lớn Biển Đông trong tương lai gần. Đường băng mới do Trung Quốc xây dựng tại Dara Sakor, Campuchia có khả năng chứng tỏ rằng máy bay chiến đấu ở nước ngoài của PLA là không cần thiết nếu một tàu sân bay có thể tạo ra vùng phủ máy bay chiến đấu tấn công dưới sự bảo vệ của một quốc gia bè bạn cùng một sân bay chuyển hướng phù hợp. Ngoài ra, cho đến khi các tàu sân bay của Trung Quốc được trang bị máy phóng để hỗ trợ các máy bay điều khiển trên không phóng từ tàu sân bay và máy bay do thám lớn như KJ-600, thì hoạt động của các tàu sân bay Trung Quốc nhất định sẽ phải dựa vào máy bay trên đất liền. Ngoài việc hiện nay các căn cứ của PLA đang ảnh hưởng như thế nào đến các nước láng giềng của Trung Quốc ở Biển Đông, thì các nhà hoạch định chính sách nên xem xét những tác động địa chính trị khi một tàu sân bay Trung Quốc tiến hành tuần tra ở phía cực Nam của "đường 9 đoạn" hay trong Vịnh Thái Lan.
Khả năng phòng thủ của PLA ở Biển Đông
Một lực lượng tấn công tinh nhuệ như quân đội Mỹ có quan điểm rằng mục đích của hành động phòng thủ về cơ bản là tạo ra các điều kiện thuận lợi hơn cho hành động tấn công, và điều này cũng là châm ngôn mà PLA nhất trí. Các vũ khí và khả năng A2/AD của Trung Quốc là có thật, nhưng một lần nữa, PLA không có chiến lược phòng thủ cũng như các khả năng phòng thủ mà cuối cùng sẽ tạo điều kiện cho hành động tấn công. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn có một số khả năng phòng thủ đáng được đề cập khi chúng có liên quan đến sức mạnh thông tin và các hoạt động tấn công của PLA ở Biển Đông.
Các khả năng tàng hình của Mỹ có thể không tạo được lớp bảo vệ trước các biện pháp phòng thủ của Trung Quốc ở Biển Đông như một số người nhận định. Sau vụ tấn công B-2 sai lầm nhằm vào đại sứ quán Trung Quốc ở Belgrade, Nam Tư vào năm 1999, Trung Quốc đã dành 20 năm tiếp theo để tập trung vào việc đánh bại công nghệ tàng hình của Mỹ. Chống tàng hình là một trong những khả năng cần thiết trong khái niệm "ba tấn công, ba phòng thủ" của PLA xuất hiện vào đầu những năm 2000. Trung Quốc đã phát triển một số radar chống tàng hình sử dụng tần số thấp hơn khiến công nghệ tàng hình thông thường mất hiệu quả. Liệu các radar như vậy có thể tạo ra phương án tấn công máy bay tàng hình hay không vẫn là một câu hỏi còn bỏ ngỏ, nhưng đáng chú ý là Trung Quốc tuyên bố rằng công nghệ radar chống máy bay tàng hình của họ hoạt động hiệu quả và có thể thách thức điều được cho là lợi thế công nghệ đáng kể của Mỹ .
Lầu Năm Góc cũng không nên xem sự chi phối về các khả năng ngầm dưới biển là điều hiển nhiên, đặc biệt là ở Biển Đông. Hiện nay, ngay cả Trung Quốc cũng nhất trí rằng Hải quân Mỹ có lợi thế đáng kể trong công nghệ tàu ngầm. Tuy nhiên, trong môi trường hoạt động bị hạn chế ở Biển Đông và các vùng biển xung quanh, PLA có khả năng bù đắp cho những thiếu sót của họ bằng việc có nhiều thời gian và không gian tiến hành các hoạt động tác chiến chống ngầm hơn. Các tiền đồn của Trung Quốc, ngoài các tàu và máy bay đã được triển khai của PLA, về cơ bản mang đến cho Trung Quốc ưu thế trên không và trên mặt nước trên thực tế, ít nhất là trong giai đoạn đầu của bất kỳ cuộc xung đột nào ở Biển Đông. Những ưu thế đó sẽ giúp hoạt động của tàu trên mặt nước và các chuyến bay của máy bay chiến đấu chống ngầm cánh cố định của Hải quân PLA như Y-9Q không bị cản trở. Khi phải đối mặt với hệ thống dò tìm tàu trên mặt nước, hệ thống dò tìm dưới nước thả từ máy bay trực thăng và các cuộc dò tìm trên khu vực rộng lớn của các thợ săn ngầm Y-9Q của Hải quân PLA, thì tàu ngầm của Mỹ có thể tránh bị phát hiện mà vẫn tạo ra hiệu ứng động học trong phạm vi Biển Đông trong thời gian bao lâu ?
Không nên đánh giá 7 đảo-đá do Trung Quốc chiếm đóng là các căn cứ riêng lẻ, độc lập, mà chúng là một hệ thống các hệ thống tích hợp ở Biển Đông. Do đó, ý kiến cho rằng các tiền đồn trên đảo-đá của Trung Quốc dễ bị tổn thương vì thiếu hệ thống có khả năng tồn tại và dự phòng là sai lầm. Như Poling đã nêu một cách rất chính xác trong bài viết của ông, các căn cứ của Trung Quốc cùng nhau tạo thành một mục tiêu "khó nhằn".
Hoạt động xây dựng của Trung Quốc ở Biển Đông dường như phản ánh câu châm ngôn rằng số lượng chắc chắn quyết định chất lượng. Theo hình ảnh vệ tinh thương mại, trên 7 đảo-đá của Trung Quốc, có 33 đĩa vệ tinh lớn, hàng chục đĩa có khẩu độ nhỏ hơn, hơn 50 ăng-ten tần số cao và hơn 30 radar phục vụ tìm kiếm trên không và trên mặt nước. Đây là còn chưa đề cập đến ISR di động hoặc có khả năng di dời, các hệ thống thông tin liên lạc hoặc vũ khí có thể được triển khai gần như bất kỳ nơi nào trên khắp tổng cộng 13 km2 diện tích của các hòn đảo nhân tạo. Kho dự trữ dưới lòng đất có diện tích khoảng 23.225 m2 trên mỗi tiền đồn lớn có mục đích bảo vệ các hệ thống vũ khí và đạn dược. Những phép đo qua loa cho thấy mỗi đảo-đá lớn có thể dự trữ hơn 65 triệu gallon nhiên liệu trong các bể chứa dưới lòng đất để hỗ trợ các chiến dịch không được tiếp nhiên liệu trong thời gian kéo dài hàng tuần. Đối với tất cả những cuộc thảo luận về việc xây dựng đường băng trên các tiền đồn ở Biển Đông, dường như không ai xét đến những yêu cầu tác chiến ở mức độ tương đối nhỏ. Tức là, nếu PLA yêu cầu phải có một đường băng dài 1.500 m sẵn sàng chiến đấu ở Biển Đông, thì họ đã xây dựng 3 đường băng dài 3.000 m có khả năng phục hồi tác chiến cần thiết khi phải đối mặt với các cuộc tấn công.
Lập khung phân tích tương lai
Trong bất kỳ cuộc xung đột cấp độ tác chiến nào, PLA đều có ý định lôi kéo các đối thủ của mình vào một cuộc chiến khó khăn để giành được ưu thế về thông tin chiến trường. Trong khi khả năng tấn công là không thể thiếu đối với chiến tranh thông tin của PLA, thì các tiền đồn ở Biển Đông chứng tỏ sự chú trọng vào vấn đề kiểm soát thông tin của chiến lược này. Các đảo-đá chủ yếu hoạt động như "các điểm cứng thông tin", che giấu và tạo thuận lợi cho các khả năng thông tin liên lạc và do thám quan trọng cũng như ngăn chặn kẻ địch kiểm soát thông tin. Phân tích về Biển Đông trong tương lai cần xem xét nhiều điều hơn là chỉ khả năng tồn tại của các cuộc tấn công của Mỹ nhằm vào hệ thống phòng thủ tĩnh của Trung Quốc. Việc đếm số lượng vũ khí và mục tiêu là một cách làm tắt thuận tiện để đánh giá sức mạnh về vật chất, nhưng cách tiếp cận như vậy không đánh giá được điểm mạnh của chiến lược tập trung vào thông tin của Trung Quốc.
Phân tích trong bài viết này không đưa ra đánh giá thực toàn diện về các khả năng tấn công và phòng thủ của Mỹ và Trung Quốc ở Biển Đông. Không nên bỏ qua bất kỳ lời khẳng định nào cho rằng các khả năng của PLA ở Biển Đông là không thể vượt qua, hoặc mối đe dọa của Trung Quốc là đáng gờm. Cả quân đội Trung Quốc lẫn Mỹ đều có những thế mạnh nổi bật cũng như những lỗ hổng nghiêm trọng. Liệu các khái niệm tác chiến tập trung vào thông tin của PLA có thể vượt trội hơn các khái niệm tập trung vào hỏa lực và tác chiến của Mỹ hay không là điều đáng tranh luận.
Các khả năng mà PLA đang phát triển ở Biển Đông cho thấy chiến lược thông tin và các khái niệm tác chiến tấn công của Trung Quốc. Chiến lược quốc phòng năm 2018 yêu cầu quân đội Mỹ phải hiểu và chống lại các khái niệm này bằng cách phát triển các khái niệm tác chiến của riêng mình. Chiến lược phòng thủ "Chiến tranh nhân dân" của Mao Trạch Đông là một dấu tích trong quá khứ. Nên xem xét cẩn thận những nguyên lý căn bản của chiến tranh thông tin, các khái niệm tác chiến tấn công của quân đội Trung Quốc, và cách thức áp dụng các khả năng ngày càng phát triển của PLA vào bối cảnh khi Trung Quốc bắt đầu mở rộng tầm với quân sự của họ ra ngoài khu vực Biển Đông.
J. Michael Dahm
Minh Anh giới thiệu
Nguồn : Nghiên cứu Biển Đông, 03/04/2020
J. Michael Dahm là nhà nghiên cứu kỳ cựu tại Phòng thí nghiệm Vật lý Ứng dụng (APL) thuộc Đại học Johns Hopkins và là sĩ quan tình báo đã nghỉ hưu của Hải quân Hoa Kỳ. Bài viết được đăng trên War on the Rocks
(vertical launching system - VLS). Người ta có thể kết luận rằng các tên lửa đất đối không và chống hạm đặt trên tiền đồn chỉ đơn giản là để phòng thủ cho khu vực quần đảo Trường Sa, xét rằng có thể triển khai bất kỳ số lượng tàu tuần dương Type-055, tàu khu trục Type-052D hoặc các phương tiện chiến đấu trên khắp Biển Đông để tiến hành các cuộc tấn công. Về phần mình, đội tàu đặc nhiệm nổi trên mặt nước của Hải quân PLA có khả năng tuần tra tương đối kín đáo, khiến đối thủ khó có thể nhắm mục tiêu vì họ có thể nhận được thông tin về không gian chiến đấu do các thiết bị lắp đặt trên các đảo-đá của Trung Quốc cung cấp.
Bắt đầu từ Malaysia
Ngày 12/12/2019, Malaysia đã gửi một bản đệ trình lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên Hợp Quốc, theo đó, yêu cầu một phần thềm lục địa mở rộng của nước này trên Biển Đông, dựa trên Điều 76 của Công ước Luật biển của Liên Hợp Quốc năm 1982 (UNCLOS).
Đảo Trường Sa (huyện Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa) trên Biển Đông -Ảnh : Lê Văn Hùng
Đương nhiên, việc đệ trình này là những toan tính của Malaysia như Nguyễn Hồng Thao có phân tích trên tờ The Diplomat. Trong đó, như Nguyễn Hồng Thao đã chỉ ra : "việc đệ trình cũng khuyến khích Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa xem xét lại đệ trình chung của Việt Nam-Malaysia năm 2009, vì căn cứ mà Trung Quốc và Philippines dựa vào để phản đối đệ trình đó đã bị Tòa trọng tài 2016 bác bỏ. Chính xác hơn, đường chín đoạn đã bị tuyên bố là không có giá trị pháp lý và các thực thể trong quần đảo Trường Sa không đủ điều kiện hưởng quy chế đảo. Nói cách khác, đệ trình của Malaysia đặt ra câu hỏi về mối quan hệ giữa hoạt động của Ủy ban Ranh giới thềm lục địa và các phán quyết pháp lý".
Philippines lên tiếng
Ngày 26/3/2020, Phái đoàn thường trực của Philippines tại Liên Hợp Quốc đã đệ trình Công hàm lên Liên Hợp Quốc để đáp lại Đệ trình của Malaysia. Trong Công hàm này, Philippines đã nêu ra 3 điểm quan trọng :
1. Philippines khẳng định rằng, các yêu sách biển của Trung Quốc là không phù hợp với luật pháp quốc tế, bao gồm cả UNCLOS.
2. Philippines khẳng định chủ quyền và quyền tài phán của Philippines tại nhóm cấu trúc thuộc quần đảo Trường Sa mà Philippines gọi là Kalayaan Island Group cùng với Bãi cạn Scarborough mà Philippines gọi là Bajo de Masinloc.
3. Philippines viện dẫn Phán quyết của Tòa Trọng tài ngày 12/7/2016 trong việc giải thích tính chất pháp lý của các cấu trúc thuộc Trường Sa, theo Khoản 3 Điều 121 UNCLOS. Philippines cũng nhắc lại tinh thần của Phán quyết rằng : "Các quy định của UNCLOS về các vùng biển của quốc gia ven biển sẽ có sức mạnh vượt trội so với các quyền lịch sử, hoặc các quyền chủ quyền hoặc quyền tài phán nếu vượt quá các quy định của UNCLOS".
Như vậy, ta có thể thấy, mặc dù, Tổng thống đương nhiệm Philippines Duterte rất "thân thiết" với Trung Quốc và dường như "không muốn nhắc tới" Phán quyết năm 2016 của Tòa trọng tài trong Vụ Philippines kiện Trung Quốc về những tranh chấp trên Biển Đông giữa hai quốc gia này. Thế nhưng, đây chỉ là những lời "đầu môi chót lưỡi" của ông Duterte. Với các nội dung của Công hàm mà Philippines đệ trình như vậy, nó có sức mạnh pháp lý lớn hơn rất nhiều những "lời nói gió bay" của ông này.
Trung Quốc lặp lại luận điệu cũ
Ngày 23/3/2020, Trung Quốc đã ra Công hàm đáp trả Công hàm của Malaysia và Philippines. Công hàm này của Trung Quốc bao gồm những nội dung như sau :
1. Trung Quốc khẳng định Trung Quốc có chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa (Trung Quốc gọi là Nam Sa quần đảo) và Scarborough (Trung Quốc gọi là đảo Hoàng Nham) cùng với những vùng nước kế cận các đảo này cũng như đối với đáy biển và lòng đất dưới đáy biển. Trung Quốc có quyền lịch sử ở Biển Đông. Chủ quyền và các quyền liên quan khác cùng với quyền tài phán của Trung Quốc được hỗ trợ bởi các bằng chứng lịch sử và pháp lý. 2. Cái gọi là Kalayaan Island Group là một phần của quần đảo Trường Sa (Trung Quốc gọi là Nam Sa quần đảo) và chưa bao giờ là một phần lãnh thổ của Philippines. Cho tới những năm 70, Philippines đã chiếm đoạt một cách bất hợp pháp một số cấu trúc biển này. Philippines không thể viện dẫn vào hành vi chiếm đoạt bất hợp pháp này để bảo vệ cho yêu sách lãnh thổ của họ.
3. Là một phần của Trung Sa quần đảo, Scaborough (Trung Quốc gọi là Hoàng Nham đảo) là lãnh thổ lâu đời của Trung Quốc. Trung Quốc đã thực hiện chủ quyền một cách hiệu quả và liên tục và quyền tài phán tại Scarborough. Yêu sách lãnh thổ phi pháp của Philippines đối với Scarborough hoàn toàn không dựa trên luật pháp quốc tế.
4. Tòa Trọng tài trong Vụ Philippines kiện Trung Quốc không có thẩm quyền vì tranh chấp này liên quan đến tranh chấp chủ quyền, phân định biển và thực hiện quyền tài phán..nên Tòa này đã vi phạm UNCLOS. Các hành động và Phán quyết của Tòa này là phi pháp, bất chính. Chính phủ Trung Quốc không chấp nhận, không tham gia và không thừa nhận phán quyết này và không bao giờ chấp nhận các hành vi hoặc các yêu sách dựa trên Phán quyết này. Trung Quốc và Philippines đã đi tới thỏa thuận chung bỏ qua Phán quyết này, sử dụng tham vấn và thương lượng song phương để giải quyết các tranh chấp biển này.
5. Chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa yêu cầu Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên Hợp Quốc không xem xét đến đệ trình về thềm lục địa mở rộng này của Malaysia.
Qua Công hàm này của Trung Quốc, chúng ta lại thấy những luận điệu nhàm chán của Trung Quốc. Một mặt, Trung Quốc làm phức tạp hóa vấn đề bằng các khái niệm "hổ lốn, hỗn tạp" trong tuyên bố của mình, lúc thì quyền lịch sử, lúc thì chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán. Nhưng bao giờ cũng thêm câu "Trung Quốc có các bằng chứng lịch sử và pháp lý", tuy nhiên các bằng chứng đó đâu thì không thấy Trung Quốc đưa ra, mà chỉ nói suông vậy thôi.
Những căn cứ của Trung Quốc bất chấp luật pháp quốc tế, cụ thể Scarborough là một bãi cạn, nó không thể là một "đảo" theo điều 121 của UNCLOS. Nhưng Trung Quốc muốn sử dụng nó là một "đảo" để Trung Quốc lúc thì viện dẫn chủ quyền, lúc thì quyền lịch sử… miễn "nói lấy được" thì thôi.
Phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS là một phán quyết lịch sử, góp phần làm sáng tỏ điều 121 của UNCLOS, theo đó giải thích không có cấu trúc nào thuộc Trường Sa có thể đáp ứng được yêu cầu là "đảo" cả. Đồng thời, Phán quyết cũng bác bỏ cái gọi là "yêu sách quyền lịch sử" của Trung Quốc trong vùng Biển Đông. Nhưng mặc dù Trung Quốc một mặt lúc nào cũng viện dẫn luật quốc tế và UNCLOS, nhưng mặt khác, "điên cuồng" chống lại Phán quyết này, cho dù bị thế giới lên án.
Còn Việt Nam ?
Việt Nam là một bên tham gia trực tiếp trong các tranh chấp này ở Biển Đông. Quan điểm của Việt Nam là ủng hộ Phán quyết và chống lại cái gọi là "yêu sách đường lưỡi bò" trên Biển Đông, bởi vì yêu sách này không có cơ sở nào trong luật quốc tế. Mới đây, Người phát ngôn Bộ ngoại giao Việt Nam "Việt Nam yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền của Việt Nam ; không có các hành động gia tăng căng thẳng, làm phức tạp tình hình và ảnh hưởng tới hòa bình ở Biển Đông và khu vực ; tuân thủ quy định của các nước trong tiến trình đàm phán Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC) giữa ASEAN và Trung Quốc".
Đối với Đệ trình của Malaysia, có một phần chồng lấn với thềm lục địa của Việt Nam, vì thế, cũng đã có tác giả yêu cầu Malaysia phải thảo luận với phía Việt Nam về khu vực chồng lấn này, để bảo vệ lợi ích của Việt Nam.
Dư luận đang chờ Chính phủ Việt Nam lên tiếng chính thức về vấn đề này, cũng như, với cương vị là Chủ tịch ASEAN của năm nay, cố gắng để có thể đưa ra những quyết định quan trọng của ASEAN mà có thể thẳng thắn nêu tên kẻ hung hăng, gây bất ổn nhiều nhất ở khu vực Biển Đông là Trung Quốc.
Hoàng Sa
Nguồn : RFA, 29/03/2020
Có thật Bắc Kinh "không bận tâm" khi tàu sân bay Mỹ ghé thăm Đà Nẵng ?
Huyền Minh, RFA, 26/03/2020
Chuyến ghé thăm và giao lưu tại cảng Đà Nẵng giữa thuỷ thủ và nhân viên trên tàu sân bay USS Theodore Roosevelt với phía Việt Nam hồi đầu tháng 3 như là một minh chứng cho bước phát triển của quan hệ quốc phòng Việt - Mỹ.
Hình minh hoạ. Tàu sân bay của Mỹ USS Theodore Roosevelt ở biển Philippines hôm 18/3/2020 Reuters
Bỏ qua những khác biệt về chính thể cũng như ý thức hệ, Việt Nam và Hoa Kỳ có thể được coi là "các đồng minh tự nhiên", khi tìm thấy quan điểm chung về việc duy trì hoà bình và an ninh trên khu vực biển Đông, đồng thời cùng đối mặt trước một nhân tố gây bất ổn tại khu vực biển này, đó chính là Trung Quốc.
Cũng chính vì mối đe doạ qua các hành động hung hăng của Trung Quốc tại biển Đông, đặc biệt giai đoạn từ 2007 tới nay, quan hệ Việt - Mỹ đã có bước phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, cũng chính vì sự cản trở từ Trung Quốc, quan hệ Việt - Mỹ vẫn còn chưa đạt đến những bước đi như mong đợi.
Nhận xét về chuyến viếng thăm này của tàu USS Theodore Roosevelt, có nhiều ý kiến khác nhau. Có nhà nghiên cứu người Nga cho rằng "Bắc Kinh không bận tâm" vì điều này quá bình thường.
Vậy quả thực Bắc Kinh thực sự không bận tâm trước vì điều này theo Trung Quốc xảy ra là bình thường ?
Tờ Global Times, một ấn phẩm phụ bản của Nhân dân Nhật báo, chuyên thể hiện quan điểm "diều hâu", có bài viết của chuyên gia Cheng Hanping từ Đại học Nam Kinh viết về vấn đề này : "Mỹ và Việt Nam có hệ tư tưởng cực kỳ khác nhau và giữa họ tồn tại nhiều tranh cãi về nhân quyền, dân chủ và tự do ngôn luận. Điều này không thể đột ngột thay đổi vì tìm thấy một mục tiêu chiến lược chung. Quan hệ đối tác Mỹ-Việt sẽ không giống như quan hệ đối tác mà Mỹ có với Nhật Bản, Hàn Quốc và thậm chí là Philippines. Và có lẽ sẽ không bao giờ được như vậy". Trong một ấn phẩm khác của Global Times, Li Haidong thuộc Đại học Ngoại giao Trung Quốc viết : "Chuyến thăm của tàu sân bay Mỹ tới Việt Nam sẽ khó có thể thay đổi chính sách hợp tác của Việt Nam với Trung Quốc. Với sự tin tưởng lẫn nhau về chính trị, hợp tác kinh tế và hội nhập khu vực, một bên thứ ba sẽ khó có thể tác động đến mối quan hệ ổn định chung giữa Bắc Kinh và Hà Nội".
Trung Quốc đã chính thức xác nhận những bình luận của chuyên gia Li Haidong trên trang China Military Online : "Tăng cường kết nối quân sự Mỹ-Việt là một hiện tượng bình thường, nhưng mối quan hệ quân sự chặt chẽ hơn, thể hiện trong chuyến thăm của tàu sân bay Mỹ tới Việt Nam, sẽ không thay đổi chính sách hợp tác của Việt Nam với Trung Quốc".
Như vậy, quan điểm của Trung Quốc được thể hiện là việc tàu sân bay thăm Việt Nam không phải là điều đáng ngại ? Sự đáng ngại (nếu có) là việc thay đổi quan hệ Việt - Trung, mà điều đó khó có thể xảy ra vì nhiều lý do.
Thêm nữa, trên tờ Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng, Mark Valencia viết rằng "Liên minh chiến lược Mỹ - Việt khó mà tồn tại lâu".
Mark Valencia là một trường hợp khá đặc biệt vì ông ta là một nhà nghiên cứu tên tuổi của người Mỹ.
Người ta biết nhiều đến Mark Valencia khi ông ta là đồng tác giả trong cuốn sách rất nổi tiếng trong giới nghiên cứu biển Đông : "Chia sẻ tài nguyên biển Đông" (Sharing the Resources of the South China Sea). Mark Valencia cũng được mời tham dự rất nhiều lần các Hội thảo biển Đông do Học Viện Ngoại Giao tổ chức ở Việt Nam. Có một lần trong bữa tiệc chia tay ở Hội thảo như vậy, người ta nghe thấy Mark Valencia phàn nàn việc ông ta xin một số tiền để phục vụ việc nghiên cứu một đề tài nào đó, nhưng không được phía Mỹ chấp thuận. Và cơ hội đã đến với ông ta, Viện Nghiên cứu Nam Hải của Trung Quốc với Viện trưởng, cũng là một quan chức Trung Quốc, Ngô Sĩ Tồn (Wu Sicun) đã cung cấp một học bổng nghiên cứu hậu hĩnh cho Mark Valencia. Và từ đó, quan điểm của Mark Valencia luôn đả kích Mỹ và ủng hộ Trung Quốc.
Trong bài viết của Mark Valencia thể hiện rõ một số điểm nguỵ biện. Một trong những điểm nguỵ biện đó là việc khẳng định quan hệ Mỹ - Việt là liên minh chiến lược. Việt Nam đã nhiều lần thể hiện một cách chính thức về chính sách "Ba không", mà mới nhất là trong Sách trắng quốc phòng được xuất bản vào hồi tháng 11 năm 2019. Theo đó, Việt Nam không tham gia liên minh quân sự nào, không cho đặt căn cứ quân sự của nước ngoài tại Việt Nam và không đi với nước này để chống nước kia. Có lẽ đối với người quan tâm, chính sách "Ba không" này dường như là "lời nhắn gửi" từ Việt Nam đối với Trung Quốc.
Trung Quốc từ lâu không giấu diếm tham vọng chiếm hữu gần như toàn bộ biển Đông. Cho dù họ không thể đưa ra các bằng chứng cũng như các cơ sở pháp lý cho việc chiếm hữu ấy.
Có thể nói, duy nhất chỉ có Hoa Kỳ là có đủ sức để ngăn chặn sự bành trướng trên biển của Trung Quốc. Và cũng chính vì vậy, Trung Quốc luôn muốn "gạt" Hoa Kỳ ra ngoài khu vực biển Đông, với lý do "vấn đề biển Đông thì để cho các quốc gia khu vực biển Đông tự giải quyết".
Việt Nam cũng là "cái gai" trong con mắt của Trung Quốc khi nhìn về biển Đông. Việt Nam với lịch sử hàng ngàn năm luôn chống lại tham vọng lãnh thổ cường quyền của Trung Quốc, và nay, Việt Nam luôn chống lại tham vọng độc chiếm biển Đông từ Trung Quốc.
Chính vì vậy, việc quan hệ Việt - Mỹ phát triển, Trung Quốc không thể không "khó chịu".
Trong thực tế, Trung Quốc luôn muốn thực hiện chính sách "Phần Lan hoá" đối với Việt Nam. Nghĩa là giống như Phần Lan trước kia bị Liên Xô khống chế về chính sách đối ngoại. Trung Quốc muốn rằng, các vấn đề trong nước sẽ để Việt Nam tự quyết định, nhưng về đối ngoại, phải được sự chuẩn thuận từ Bắc Kinh.
Chúng ta đều biết, mỗi khi một lãnh đạo cao cấp của Việt Nam sang thăm Mỹ, thì luôn luôn trước đó, hoặc là chính lãnh đạo đó hoặc một lãnh đạo cao cấp khác được phái sang để "trao đổi" với Bắc Kinh.
Và chính vì vậy, trước các tín hiệu cho thấy sự phát triển quan hệ Việt - Mỹ không thể là thứ mà Bắc Kinh không quan tâm. Mà sự thực, Trung Quốc đang rất chú ý đến vấn đề này, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh cao độ Mỹ - Trung. Trung Quốc vẫn luôn coi Việt Nam như một "chư hầu" nằm trong vùng ảnh hưởng truyền thống của mình. Có chăng, Bắc Kinh đang dùng truyền thông, thông qua các luận điệu này, đánh đòn tâm lý để cảnh báo Việt Nam không nên đi quá xa, vượt ngoài sự cho phép của "thiên triều".
Huyền Minh
Nguồn : RFA, 26/03/2020
***************
Trung Quốc tố Mỹ ‘chơi trò nguy hiểm’ khi điều tàu chiến qua eo biển Đài Loan
VOA, 26/03/2020
Trung Quốc hôm 26/3 cáo buộc Hoa Kỳ là "chơi trò nguy hiểm" với chính sách hậu thuẫn Đài Loan, sau khi một tàu chiến Mỹ đi ngang qua eo biển Đài Loan, một địa điểm ‘nhạy cảm’ sau khi căng thẳng quân sự tăng cao giữa Trung Quốc và Đài Loan.
Tàu chiến của Hải quân Mỹ USS McCampbell (VOA Chinese)
Trung Quốc tức giận vì cho rằng chính quyền của Tổng thống Trump đã có những bước để tăng cường sự hỗ trợ cho Đài Loan, như bán thêm vũ khí, tiến hành các cuộc tuần tra gần Đài Loan, và hồi tháng trước đón tiếp Phó Tổng thống đắc cử Đài Loan, ông William Lai tới thăm Washington trong khi Trung Quốc coi Đài Loan là thuộc lãnh thổ Trung Quốc.
Phát ngôn viên của Hạm đội Thài Bình Dương (Hạm đội 7) của Hoa Kỳ, Anthony Junco, xác nhận rằng chiếc USS McCampbell, một tàu khu trục có tên lửa dẫn đường, đã đi ngang qua eo biển Đài Loan hôm 25/3 trong một hoạt động mà ông mô tả là ‘thường lệ, phù hợp với luật pháp quốc tế’.
Ông Junco nói việc tàu McCampbell đi ngang qua eo biển Đài Loan thể hiện cam kết của Hoa Kỳ đối với một khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và rộng mở. Ông tuyên bố Hoa Kỳ sẽ tiếp tục điều tàu đi ngang qua, máy bay bay qua khu không phận bên trên tuyến đường thủy này, và tái khẳng định Hải quân Mỹ sẽ hoạt động ở bất cứ nơi nào mà luật pháp quốc tế cho phép.
Bộ Quốc phòng Đài Loan xác nhận tàu chiến Mỹ đã đi ngang qua eo biển Đài Loan và trực chỉ hướng Bắc, với sự giám sát của các lực lượng vũ trang Đài Loan trong một ‘sứ mạng thường lệ’, Đài Loan nói thêm rằng không có lý do để báo động.
Tại Bắc Kinh, người phát ngôn của Bộ Quốc phòng Trung Quốc Nhậm Quốc Cường (Ren Guoqiang) tố cáo các ‘hành động tiêu cực’ của Mỹ để hậu thuẫn Đài Loan, kể cả các cuộc hành trình bằng đường thủy và đường không ngang qua Eo biển Đài Loan.
Reuters dẫn lời ông Nhậm nói rằng các hành động của Mỹ là ‘cực kỳ nguy hiểm’.
"Các động thái của Mỹ can thiệp nghiêm trọng vào nội tình Trung Quốc, phương hại nghiêm trọng tới hòa bình và ổn định ở eo biển Đài Loan và đầu độc các mối quan hệ quân sự Trung-Mỹ,"
Trong những tuần gần đây, không quân Trung Quốc đã tiến hành các cuộc tập trận gần Đài Loan, khiến đảo quốc này phải tức tốc điếu máy bay chiến đấu lên chặn và cảnh báo phi công Trung Quốc phảia rời khỏi khu vực.
Đài Loan nói các cuộc tập trận của Trung Quốc có tính cách khiêu khích, và kêu gọi Trung Quốc hãy tập trung chống dịch Covid-19 thay vì đe dọa đảo Đài Loan.
Tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn đã đến thăm một căn cứ quân sự hôm 24/3 và cảnh báo về mối đe dọa từ Trung Quốc giữa dịch Covid-19.
*******************
Việt Nam : Hai trạm nghiên cứu mới của Trung Quốc ‘vi phạm chủ quyền’
VOA, 26/03/2020
Việt Nam hôm 26/3 lên tiếng yêu cầu Bắc Kinh "tôn trọng chủ quyền" sau khi truyền thông nhà nước Trung Quốc thông tin về hai "trạm nghiên cứu" mới vừa được khánh thành tại Đá Chữ Thập và Đá Subi, nơi Việt Nam tuyên bố chủ quyền.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng.
"Việt Nam yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, không có các hành động gia tăng căng thẳng, làm phức tạp tình hình và ảnh hưởng tới hòa bình ở Biển Đông và khu vực", báo Tiền Phong dẫn lời người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng nói tại cuộc họp báo trực tuyến hôm 26/3.
Trước đó, hôm 24/3, Tân Hoa Xã tường thuật lễ khánh thành hai "trạm nghiên cứu", mà báo chí quốc tế gọi là các cơ sở quân sự mới, trên hai đảo đá ở Trường Sa.
Theo tờ báo nhà nước Trung Quốc, hai trạm nghiên cứu với các phòng thí nghiệm về sinh thái, địa chất và môi trường "có mục đích hỗ trợ các nhà khoa học điều tra thực địa, lấy mẫu và nghiên cứu khoa học trên quần đảo Nam Sa [Trường Sa]".
Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu quốc tế cho rằng động thái mới nhất của Trung Quốc là bằng chứng cho thấy Bắc Kinh đang tranh thủ tình hình cả thế giới đang vật lộn với đại dịch Covid-19 để "lấn tới" trong quyết tâm xâm chiếm Biển Đông.
"Một số người có thể nghĩ rằng đại dịch virus corona đang diễn ra sẽ khiến Bắc Kinh mất tập trung khỏi các điểm nóng hàng hải này, nhưng thực tế hoàn toàn ngược lại", nhà nghiên cứu an ninh hàng hải Collin Koh nói với tờ Inquirer của Philippines.
Theo ông, quân đội Trung quốc "được cổ xúy để sẵn sàng chiến đấu, bất chấp đại dịch virus corona", và việc sử dụng lý do xây dựng cơ sở khoa học dân sự của Bắc Kinh là một trong những phương thức nhằm khẳng định yêu sách chủ quyền ít gây chú ý nhưng lại có kết quả không kém những chiến lược khác.
Tại cuộc họp báo hôm 26/3, Hà Nội nói rằng mọi hoạt động tại Đá Chữ Thập và Đá Subi đều "phải được sự cho phép của Việt Nam", và yêu cầu Bắc Kinh "tuân thủ quy định" trong bối cảnh các quốc gia ASEAN đang đàm phán với Trung Quốc về Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông.
Ngoài Việt Nam, Philippines và Đài Loan cũng tuyên bố chủ quyền trên Đá Chữ Thập và Đá Subi.
*******************
Dân quân biển Trung Quốc hoạt động ở quần đảo Trường Sa đang tranh chấp
Drake Long, RFA, 25/03/2020
Ngay cả khi khủng hoảng dịch bệnh do coronavirus gây nên đang hoành hành khắp Châu Á, Trung Quốc vẫn tiếp tục khẳng định sự hiện diện của họ ở Biển Đông bằng cách bố trí lực lượng dân quân biển quanh các đảo và rạn san hô thuộc Quần đảo Trường Sa. Thực tế này được Đài Á Châu Tự Do phân tích dựa trên dữ liệu theo dõi tàu biển và hình ảnh vệ tinh.
Bản đồ hiển thị đường đi của 5 tàu dân quân hàng hải Trung Quốc thông qua cụm đảo sinh tồn ở quần đảo Trường Sa trong ba tuần đầu tháng 3. RFA
Cụ thể trong tháng này một đội tàu Trung Quốc đã di chuyển qua Cụm Đảo Sinh Tồn, một nhóm các thực thể đang tranh chấp giữa Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Việt Nam và Đài Loan. Trong số những thực thể quan trọng nhất trong khu vực này là Đá Tư Nghĩa và Đá Gạc Ma hiện do Trung Quốc kiểm soát, cùng Đảo Sinh Tồn và Đá Cô Lin của Việt Nam. Đội tàu vừa nêu được Nhóm Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á nhận diện vào tháng 1 năm 2019 thuộc Lực lượng Dân quân Biển nổi tiếng Trung Quốc.
Năm tàu mà hành trình di chuyển được của chúng được RFA theo dõi hiện đang ở đá Gạc Ma, ở góc tây nam của Cụm đảo Sinh Tồn. Không phải ngẫu nhiên mà những tàu này hiện diện tại địa điểm trên vào những ngày kỷ niệm 32 năm trận hải chiến Gạc Ma hồi ngày 14 tháng 3 năm 1988. Đó là cuộc thảm sát của hải quân Trung Quốc khiến hàng chục binh sĩ Việt Nam thiệt mạng và Trung Quốc chiếm quyền kiểm soát đá này.
Hình ảnh vệ tinh chụp vào ngày 22/3/2020, phí Bắc căn cứ chiếm đóng của Trung Quốc tại đá Gạc Ma. Có thể thấy nhiều tàu không danh tính ở góc trên bên phải. Planet Labs Inc.
Như lệ thường, Trung Quốc không hề công khai hoạt động đưa tàu của họ vào Cụm đảo Sinh Tồn. Lực lượng Dân quân Biển Vũ trang Nhân dân (PAFMM) thường bao gồm những tàu được ngụy trang bề ngoài là tàu đánh cá - mặc dù những tàu này không tham gia đánh bắt cá. Sự hiện diện của những tàu này đồng nghĩa với việc 'treo cờ' cho Bắc Kinh trong vùng biển tranh chấp mà không cần sự hiện diện công khai của lực lượng quân sự có thể dẫn đến việc lên án của cộng đồng quốc tế.
Zack Cooper, một nhà nghiên cứu chuyên về các vấn đề an ninh châu Á tại Viện Doanh nghiệp Mỹ, phát biểu rằng Trung Quốc đang tiếp tục thái độ quyết đoán đối với các tranh chấp khu vực mặc dù đại dịch Covid-19 đang buộc thế giới để tâm vào.
"Bắc Kinh tăng cường hoạt động quân sự quanh Đài Loan và hiện đang có dấu hiệu thực hiện một số điều tương tự xung quanh Cụm Sinh Tồn. Đây chỉ đơn thuần là việc tiếp nối hoạt động trước nay hay cố ý lợi dụng tình hình xao lãng hiện nay để gây áp lực lên những quốc gia khác có tranh chấp, thì điều đó không được làm rõ", ông Cooper nói.
Phần mềm theo dõi tàu biển cho thấy năm tàu PAFMM - với các ký hiệu Yuetaiyu (Tàu cá) 18777, 18333, 18888, 18222 và 18555 - vào đầu tháng 3 đã qua lại giữa Đá Subi (do Trung Quốc bối lấp nên và thường là trạm dừng cho các tàu của Trung Quốc bố trí tới khu vực này) và đảo Thị Tứ, một thực thể do Philippines chiếm đóng và là nơi mà các tàu Trung Quốc từng can dự vào chiến dịch gây áp lực kéo dài, theo như tài liệu của Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á cho thấy. Các tàu vừa nêu trước hết dừng tại Đá Ba Đầu, ở phía Đông Bắc Cụm đảo Sinh Tồn, từ ngày 3 tháng 3 đến ngày 8 tháng 3.
Sau đó, các tàu di chuyển về phía Tây Nam đến Đá Tư Nghĩa do Trung Quốc kiểm soát, đi qua đảo Sinh Tồn Đông do Việt Nam kiểm soát và xa hơn về phía Tây gần đảo Sinh Tồn. Các tàu này nán lại gần Sinh Tồn trong khoảng thời gian từ ngày 13 đến 18 tháng 3.
Số lượng chính xác các tàu Trung Quốc được triển khai đến khu vực rất có thể vượt con số năm tàu được RFA phát hiện bằng phần mềm theo dõi tàu biển. Hình ảnh vệ tinh cho thấy nhiều tàu khác tập trung tại Cụm đảo Sinh Tồn mặc dù danh tính của các tàu không rõ ràng. Khoảng 12 tàu đã di chuyển đến Đá Tư Nghĩa trong khoảng thời gian từ 8 tháng 3 đến 13 tháng 3.
Hình ảnh chụp cận từ vệ tinh ngày 22/3/2020. Có thể thấy nhiều tàu không danh tính ở góc trên bên phải phía Bắc căn cứ chiếm đóng của Trung Quốc tại đá Gạc Ma. Planet Labs Inc.
Ngoài ra, hàng chục tàu khác đã nán lại ở phía đông bắc của Cụm đảo Sinh Tồn, bên trong Đá Ba Đầu, ít nhất kể từ ngày 6 tháng 3 và vẫn ở trong khu vực này cho đến ngày 19 tháng 3. Đá Ba Đầu, tên tiếng Anh là Whitson Reef, là một rạn san hô cạn, không có đảo nhân tạo hoặc các cơ sở vật chất. Hình ảnh vệ tinh cho thấy các cụm tàu lớn được tụ lại với nhau.
Các tàu thuộc dòng Yuetaiyu ( Tàu Cá) đã từng đến Đá Tư Nghĩa do Trung Quốc nắm giữ và sau đó đến đảo Sinh Tồn do Việt Nam kiểm soát, đã di chuyển đến Đá Gạc Ma do Trung Quốc chiếm đóng hôm ngày 18 tháng 3. Một lần nữa, hình ảnh vệ tinh cho thấy số lượng tàu xuất hiện trong khu vực nhiều hơn hẳn so với năm tàu mà AIS, Automtatic Identification System (Hệ thống Nhận dạng Tự động), phát ra tín hiệu. Tất cả các tàu được yêu cầu phải có thiết bị phát đáp AIS để hỗ trợ mục đích theo dõi các trường hợp tìm kiếm và cứu hộ cũng như cho việc thực thi pháp luật. Mặc dù vậy, các tàu dân quân biển Trung Quốc thường xuyên tắt các thiết bị phát đáp AIS để che giấu hoạt động của mình. Rõ ràng đây là thực tế hiện nay khi hình ảnh vệ tinh cho thấy có ít nhất 30 tàu vừa xuất hiện tại Đá Gạc Ma.
Gạc Ma, tiếng Anh là Johnson Reef, chỉ là một đảo đá theo phán quyết của Tòa Trọng Tài Liên Hiệp Quốc năm 2016 đối với các yêu sách của Trung Quốc tại Biển Đông. Theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, một đá chỉ là một thực thể "không thể duy trì việc cư ngụ của con người hoặc đời sống kinh tế của chính họ" và vì vậy không có quyền có vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa. Bất chấp phán quyết đó, Trung Quốc vẫn tiến hành xây dựng Đá Gạc Ma thành một đảo nhân tạo khác để có thể sử dụng làm căn cứ.
Tính đến ngày 23 tháng 3, các tàu PAFMM đã di chuyển một lần nữa đến cùng một địa điểm gần Đảo Sinh Tồn mà các tàu này đã đến trước đó vào ngày 13 tháng 3.
Drake Long
Nguồn : RFA, 25/03/2020
Virus corona : Mỹ lo chống dịch, Trung Quốc lợi dụng lấn thêm tại Biển Đông (RFI, 24/03/2020)
Đầu năm 2020, Hoa Kỳ liên tục có những hành động thể hiện cam kết tăng cường hiện diện ở vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương, đặc biệt là Biển Đông : bắt đầu từ chuyến tuần tra "khai xuân" ngày 25/01, tiếp theo là chuyến thăm hữu nghị ngày 05/03 tại Đà Nẵng của tầu USS Theodore Roosevelt (CVN 71), đánh dấu 25 năm Mỹ-Việt bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Nhưng liệu những cam kết này có bị tác động vì virus corona không ?
Không ảnh Đá Chữ Thập trong quần đảo Trường Sa, nơi đang xảy ra tranh chấp lãnh hải giữa Trung Quốc với các nước trong khu vực. U.S. Navy/Handout via Reuters/File
Trung Quốc lợi dụng dịch Covid-19 để đẩy quân cờ ở Biển Đông
Thực tế cho thấy Trung Quốc đang tranh thủ thời điểm toàn thế giới gồng mình chống dịch Covid-19 để tiến những nước cờ ở Biển Đông. Hành động mới nhất, được Tân Hoa Xã đưa tin ngày 20/03/2020, là Trung Quốc vừa khánh thành hai trạm nghiên cứu trên Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) và Đá Xu Bi (Subi Reef), thuộc quần đảo Trường Sa.
Trên giấy tờ, hai cơ sở được đặt dưới sự quản lý của Trung tâm Nghiên cứu Tổng hợp các Đảo và Đá thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc (CAS) chỉ đơn thuần mang tính chất khoa học, chuyên "nghiên cứu tổng hợp về rạn san hô và biển sâu". Tuy nhiên, việc Trung Quốc khánh thành hai trạm nghiên cứu mới vào lúc này là một diễn biến nghiêm trọng, theo đánh giá của Collin Koh, chuyên gia về an ninh biển hàng hải trong khu vực.
Trước đó, ngày 20/03, Hải Quân Trung Quốc tuyên bố đã tiến hành diễn tập chống tầu ngầm ở Biển Đông, ngay sau khi Hải Quân Mỹ thông báo một cuộc tập trận cũng ở Biển Đông huy động lực lượng hùng hậu, trong đó có đội tầu sân bay USS Theodore Roosevelt, từ ngày 15 đến 18/03.
Trả lời Inquirer ngày 24/03, ông nhận định : "Hẳn nhiều người nghĩ rằng dịch virus corona đang diễn ra có lẽ sẽ khiến Bắc Kinh không chú ý đến những điểm nóng hàng hải. Thực tế lại không như vậy. Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, bất chấp virus corona".
Covid-19 làm xáo trộn các chiến dịch của quân đội Mỹ
Thực vậy, lợi thế có vẻ đang thiên về Bắc Kinh. Trung Quốc đang từng bước thoát khỏi dịch Covid-19 trong khi cả thế giới đang dốc hết sức lực chống dịch, từ Mỹ đến Anh, Pháp, cũng như các nước Đông Nam Á.
Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ trấn an rằng "nhiệm vụ đầu tiên của quân đội Mỹ vẫn là bảo vệ người dân Mỹ, đất nước và lợi ích của Hoa Kỳ ở nước ngoài". Tuy nhiên, nhiều hoạt động quân sự của Mỹ ở nước ngoài bị xáo trộn do chiến lược chống dịch của mỗi nước, từ Trung Đông (Irak), Nam Á (Afghanistan), Đông Á (Hàn Quốc) đến Châu Âu (cuộc tập trận Defender-20) và Châu Phi.
Khắp nơi trên thế giới, quân nhân Mỹ phải ở lại trong doanh trại, mọi ra vào đều được kiểm tra nghiêm ngặt thông qua trình báo sức khỏe, đo thân nhiệt hoặc cách ly người bị nhiễm virus corona. Từ đầu tháng 03/2020, quân nhân Mỹ bị cấm du lịch hoặc về thăm nhà do đã có nhiều trường hợp nhiễm virus corona.
Dù chưa có trường hợp mắc Covid-19 nào trong Hạm đội 7 Hoa Kỳ, đóng Yokosuka (Nhật Bản), nhưng Hải Quân Mỹ đã điều nhiều nhóm y tế và thiết bị cần thiết đến các tầu USS Theodore Roosevelt (CVN 71), US Blue Ridge (LCC 19) và USS America (LHA 6) để có thể xét nghiệm ngay trên tầu mà không cần gửi mẫu bệnh phẩm lên bờ.
Trên thực tế, theo bác sĩ quân y Christine Sears khi trả lời trang America’s Navy, "toàn bộ đội ngũ quân nhân Hạm Đội 7 rất chú ý đến dịch Covid-19 ngay từ đầu và triển khai nhiều biện pháp bảo đảm y tế cộng đồng. Lực lượng nhân viên y tế tăng viện còn giúp tăng cường thêm khả năng chống dịch" của Hạm Đội 7.
Tuy nhiên, chuyên gia Collin Koh lo ngại : "Thế giới có thể sẽ lơ là về những tranh chấp khi ưu tiên chống dịch Covid-19. Điều này cũng có thể xảy ra đối với khu vực Biển Đông". Còn Bắc Kinh, chắc chắn sẽ không ngừng những hành động lấn chiếm, gia tăng quân sự hóa ở Biển Đông trong thời dịch vì ngừng lại là đồng nghĩa với việc gửi một tín hiệu xấu đến công luận Trung Quốc, đang mạnh mẽ chỉ trích cách xử lý dịch của chính quyền trung ương.
Thu Hằng
*******************
Trung Quốc đặt thêm hai 'trạm nghiên cứu khoa học' ở Biển Đông (BBC, 24/03/2020)
Trung Quốc đã lắp đặt hai trạm nghiên cứu tại Đá Chữ Thập và Su Bi thuộc Quần đảo Trường Sa, Tân Hoa Xã tuyên bố trong dịp cuối tuần rồi.
Hình ảnh Đá Su Bi do quân đội Philippines chụp từ hồi 21/4/2017. Nay khu vực này đã có thêm nhiều cơ sở, nhà cửa
Việc thiết lập các trạm nghiên cứu mới sẽ cho phép các khoa học gia sống và nghiên cứu thực địa trong các lĩnh vực sinh thái, địa lý và môi trường, bản tin của China Daily nói.
Trung Quốc nói rằng các trạm này cũng đóng vai trò trong việc theo dõi các thay đổi sinh thái và địa chấn trong các vùng then chốt ở Biển Đông.
Tuy nhiên, việc này được coi như bằng chứng cho thấy Bắc Kinh đang đẩy mạnh việc thuộc địa hóa Biển Đông vào lúc cả thế giới đang lo phòng chống đại dịch Covid-19, theo một số nhà quan sát.
Là chi nhánh của Trung tâm Nghiên cứu Tích hợp Đảo và Đá ngầm thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc và đặt trên Đá Vành khăn kể từ 2018, hai trạm nghiên cứu mới có các hệ thống theo dõi nhằm phục vụ các dự án bảo tồn, theo Tân Hoa Xã.
Tuy nhiên, các địa điểm xây cất mới đây đều nằm trong vùng biển đang có tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc với các nước khác trong khu vực, trong đó có Việt Nam, Philippines và Đài Loan.
Đá Chữ Thập có tên tiếng Anh là Fiery Cross Reef, Trung Quốc gọi là Vĩnh Thử Tiêu, còn Philippines gọi llaf Kagitingan ; còn Đá Su Bi có tên tiếng Anh là Subi Reef, Bắc Kinh gọi là Chử Bích Tiêu và Manila gọi là Zamora, là các địa điểm đang có tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông.
Trung Quốc trên thực tế đã nắm quyền kiểm soát những nơi này kể từ 1988, sau khi chiếm từ tay Việt Nam.
Kể từ đó, Bắc Kinh đã bồi đắp những nơi này cùng một số bãi đá, đảo nhỏ khác ở Biển Đông thành các đảo nhân tạo, điều được các nước khác cho là để nhằm biến những nơi này thành tiền đồn quân sự chiến lược trên biển.
Hồi năm 2018, Earthrise Media, một tổ chức phi lợi nhuận, đã phân tích các ảnh chụp Đá Su Bi và phát hiện ra rằng một lượng lớn các tòa nhà, các sân tập, thiết bị radar và cả các sân chơi bóng rổ đã được xây dựng trong thời gian từ 2014 tới nay.
Đá Vành Khăn và Đá Chữ Thập cũng có các cơ sở hạ tầng tương tự, như vị trí đặt tên lửa, đường băng, các nhà kho lớn và nhiều loại thiết bị khác phục vụ cho việc phát hiện, theo dõi vệ tinh, hoạt động quân sự và thông tin liên lạc của nước khác.
Các tàu nạo vét của Trung Quốc được trông thấy ở vùng nước gần Đá Chữ Thập - hình ảnh do máy bay giám sát của Hải Quân Hoa Kỳ chụp hồi tháng 5/2015
Các cơ sở quân sự đó cũng được cho là nơi đặt các thiết bị liên lạc, xây cất bãi đáp máy bay và đặt bệ phóng tên lửa của Trung Quốc.
Chuyên gia an ninh hàng hải Collin Koh được trang tin Global Nation Inquirer của Philippines trích lời, nói việc Trung Quốc xây cất hai trạm nghiên cứu mới vào thời điểm này là một bước tiến quan trọng.
"Một số người cho rằng đại dịch virus corona đang diễn ra sẽ làm Bắc Kinh bớt chú ý tới những tranh chấp trên biển", ông Koh nói. "Sự thực là không hề như vậy. Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc vẫn sẵn sàng tác chiến".
"Dùng những thứ được cho là 'khoa học phục vụ đời sống dân sự' này để xác quyết các tuyên bố chủ quyền là một cách thức hoạt động mà chúng ta có thể dễ lơ là bỏ qua", ông Koh nhận xét.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc ngày càng mạnh mẽ trong việc xác quyết chủ quyền ở các vùng biển tranh chấp tại Biển Đông, bất chấp các phản đối quốc tế.
Nhiều quốc gia, trong đó có Hoa Kỳ, coi đây như bước đi của Bắc Kinh nhằm đưa Trung Quốc trở thành một sức mạnh quan trọng trên thế giới.
Hoa Kỳ đã tăng hiện diện của mình tại Biển Đông trong những năm gần đây, và hỗ trợ các quốc gia Đông Nam Á trong nỗ lực chống lại sự bành trướng của Trung Quốc trong khu vực.
Quân đội Mỹ cũng tăng các hoạt động mà Hoa Kỳ gọi là nhằm "thực thi quyền tự do đi lại trên biển, phù hợp với luật pháp quốc tế", với việc nhiều lần đưa tàu chiến vào sát phạm vi 12 hải lý của các đảo nhân tạo Đá Su Bi, Đá Vành Khăn, Đá Chữ Thập.
Gần đây nhất, hải quân Mỹ đã đưa nhóm tàu sân bay USS Theodore Roosevelt tới Đà Nẵng trong 5 ngày, 5-9/3/2020, trong dịp 25 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Hoa Kỳ - Việt Nam.
Việt Nam cần chủ động trong cuộc chiến truyền thông về Biển Đông
Trương Gia Kiệm, RFA, 26/03/2020
Trung Quốc có tham vọng chiếm đoạt Biển Đông từ rất lâu. Từ những năm 1950, thấy được những lợi ích từ biển và đại dương, Trung Quốc đã tích cực tham gia vào các Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Luật biển. Trung Quốc cũng ủng hộ chiều rộng của lãnh hải là 12 hải lý, cho dù năm ấy các quốc gia vẫn còn những quan điểm khác nhau về vấn này. Những năm 1980, tướng Lưu Hoa Thanh - Đô đốc Hải quân Trung Quốc lúc đó, đã vạch ra chiến lược tiến ra biển cho Hải quân Trung Quốc.
Hình minh họa. Biểu tình phản đối trước lãnh sự quán Trung Quốc ở Manila, Philippines hôm 17/4/2015 AFP
Với tham vọng đó, Chính quyền Trung Quốc phải tìm được lý do để thuyết phục người dân Trung Quốc. Chính vì vậy, Chính quyền Trung Quốc đã dựa vào một bản đồ không rõ ràng về mục đích và nguồn gốc để thực hiện tham vọng. Đó chính là bản đồ "đường lưỡi bò" đầy tai tiếng. Tuy nhiên, bản đồ này chỉ thực sự chính thức xuất hiện trước cộng đồng quốc tế trong hai công hàm ngày 7/5/2009 của Trung Quốc gửi lên Liên Hợp Quốc. Mặc dù không có cơ sở pháp lý nào, nhưng Trung Quốc vẫn chủ trương dùng sức mạnh của mình để nó thực hiện nó trong thực tế. Các học giả Trung Quốc gửi đi khắp nơi các giải thích khác nhau về "đường lưỡi bò" đó. Một trong các luận điểm quan trọng mà phía Trung Quốc hay sử dụng, cho là "đường lưỡi bò" thể hiện "quyền lịch sử" của Trung Quốc trên Biển Đông.
Năm 2013, "tuyệt vọng" trước sự hung hăng của Trung Quốc, đặc biệt sau sự kiện Philippines mất kiểm soát tại Bãi cạn Scarborough vào tay Trung Quốc, Chính quyền Tổng thống Aquino III đã khởi kiện Trung Quốc tại một Tòa trọng tài thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS. Năm 2016, sau ba năm thụ lý, Tòa trọng tài đã ra phán quyết, theo đó, cái gọi là "yêu sách về quyền lịch sử" đối với các vùng biển bên trong "đường lưỡi bò" là vô giá trị do không có cơ sở pháp lý. Tuy nhiên, Chính quyền Trung Quốc đã "không tham gia" ; "không thừa nhận" và "không áp dụng" đối với Phán quyết này.
Tổng thống Philippines đương nhiệm Duterte rất thân thiết với Trung Quốc, không muốn nhắc tới Phán quyết này. Tuy nhiên, mới đây, Bộ Ngoại giao Philippines khi gửi công hàm ngoại giao lên Liên Hợp Quốc phản đối Báo cáo về ranh giới thềm lục địa của Malaysia vẫn tiếp tục viện dẫn Phán quyết. Điều đó cho thấy, Phán quyết sẽ luôn là "nỗi đau nhức nhối" của Trung Quốc.
Do đó, để xoá nhòa Phán quyết này, Chính quyền Trung Quốc đã và đang sử dụng chiến dịch truyền thông để chống lại Phán quyết, đồng thời tô vẽ cho hình ảnh của Trung Quốc. Người Trung Quốc tỏ ra rất giỏi về truyền thông đánh vào tâm lý như vậy. Với các chiến dịch truyền thông liên tục, "mưa dầm thấm lâu", Trung Quốc tin rằng họ có thể "đổi trắng thay đen" được.
Đã có rất nhiều ví dụ về việc Trung Quốc tuyên truyền như vậy. Ngay gần đây, việc Trung Quốc đổ vấy virus Vũ Hán sang cho Hoa Kỳ là một ví dụ tiêu biểu.
Ngoài ra, Trung Quốc còn muốn đổ vấy nguyên nhân dẫn đến tình hình căng thẳng trên Biển Đông cho các quốc gia khác. Cụ thể là Trung Quốc luôn khẳng định rằng tình hình trên Biển Đông là ổn định. Việc Hoa Kỳ xuất hiện tại khu vực Biển Đông mới là nguyên nhân dẫn đến căng thẳng. Trong khi tất cả mọi người đều biết, "Biển Đông dậy sóng" chính là do các hành động hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông.
Để tiếp tục "hiện thực hóa" "đường lưỡi bò" tai tiếng và vô lý này. Trung Quốc đã dùng sức mạnh của mình đe doạ và uy hiếp các hoạt động của các quốc gia khác ngay tại vùng biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của họ.
Năm 2019 vừa qua, Trung Quốc đã cho tàu hải cảnh cùng các tàu dân quân biển quấy phá trên vùng biển của Philippines, Malaysia, Việt Nam và Indonesia. Các quốc gia đã lên tiếng phản đối hành động này của Trung Quốc rất quyết liệt. Tuy nhiên, Trung Quốc đang sử dụng chiến thuật "đổ vấy" cho các quốc gia khác, hòng "biến không thành có", thông qua các chiến dịch truyền thông của mình.
Ngày 3/2/2020, một Think Tank của Trung Quốc là SCSPI đã đăng một báo cáo khẳng định rằng nhiều tàu cá Việt Nam đã xâm phạm trái phép vùng biển xung quanh đảo Hải Nam của Trung Quốc nhằm mục đích do thám. Nhiều báo chí quốc tế đã dẫn lại thông tin từ báo cáo này.
Đến ngày 5/3/2020, Think Tank này tiếp tục ra báo cáo thứ hai. Trong báo cáo này, họ đưa ra dữ liệu để khẳng định rằng, có 311 tàu cá Việt Nam vi phạm vùng biển của Trung Quốc, bao gồm cả khu vực đảo Hải Nam.
Think Tank này trong phần giới thiệu cho biết họ thuộc Trường đại học Bắc Kinh. Trường đại học Bắc Kinh là một trong những trường đại học công lập lớn nhất của Trung Quốc. Và vì thế, không khó mà đoán biết được sức mạnh thực sự của Think Tank này cùng với những liên hệ với Chính quyền Trung Quốc.
Có một nhóm nghiên cứu tự phát ở Việt Nam có tên tiếng Việt là Dự án Đại sự ký Biển Đông (SCSCI) tranh luận về các cáo buộc cũng như kiểm tra các dữ liệu mà SCSPI của Trung Quốc đưa ra. Vì là nhóm tự phát, với nguồn lực vô cùng hạn chế, cho nên Dự án Đại sự ký Biển Đông chưa thể kiểm tra hết các dữ liệu mà phía SCSPI cung cấp.
Phía Dự án Đại sự ký Biển Đông sau khi kiểm tra khoảng 5% số dữ liệu mà phía SCSPI cung cấp thì chưa phát hiện được nguồn dữ liệu này có vấn đề gì.
Qua trao đổi với một số nguồn có liên hệ trực tiếp với ngư dân Việt Nam thì được biết thực tế, có một số tàu cá của ngư dân Việt Nam có vào vùng biển của Trung Quốc. Có hai lý do mà ngư dân cho biết khi họ mang tàu cá đi vào trong vùng biển của Trung Quốc. Đó là :
Như vậy, với bối cảnh nhiều báo cáo từ EU cho thấy tình trạng đánh bắt cá trái phép của ngư dân Việt Nam (IUU) không giảm. Cộng với việc bỗng dưng các lực lượng Trung Quốc rất "bao dung" với các tàu cá Việt Nam được "thoải mái" vào sâu trong vùng biển của Trung Quốc. Rất có thể đây là một chiến thuật "cao tay" từ Trung Quốc. Một mặt, họ ngầm "tạo điều kiện" cho các tàu cá Việt Nam vào sâu trong vùng biển Trung Quốc. Mặt khác, cơ quan chức năng Trung Quốc thu thập dữ liệu các tàu cá này làm bằng chứng cáo buộc trước quốc tế là các tàu cá Việt Nam xâm nhập trái phép vùng biển của Trung Quốc không ngoại trừ mục đích do thám.
Đứng trước tình hình này, thiết nghĩ, Chính quyền Việt Nam cần thực hiện hai việc sau :
1. Cần phải thông báo cho các ngư dân Việt Nam biết được các tác hại đối với hình ảnh Việt Nam của việc xâm nhập vào các vùng biển của Trung Quốc. Khi Chính quyền Trung Quốc đột ngột thay đổi thái độ thì sự an toàn của các ngư dân sẽ bị đối mặt với nguy hiểm khó có thể biết trước.
2. Các cơ quan chức năng Việt Nam, hàng năm thường thông tin là có hàng ngàn tàu cá "lạ" xâm nhập trái phép vùng biển Việt Nam, trong đó có các tàu cá Trung Quốc. Tuy nhiên, thông tin chỉ chung chung như vậy. Các cơ quan chức năng Việt Nam cần cung cấp rõ thông tin cụ thể từng tàu cá vi phạm này, để phía Việt Nam có thể sử dụng thông tin để cung cấp cho quốc tế nếu thấy cần thiết.
Trương Gia Kiệm
Nguồn : RFA, 26/03/2020
*********************
Chiến tranh thông tin về Biển Đông của Trung Quốc
Nguyễn Hải Quân, RFA, 24/03/2020
Trong Cổ học tinh hoa có truyện "Tăng Sâm giết người". Tăng Sâm hay chính là Tăng Tử, một người nổi tiếng là hiền hậu, hiếu kính. Một ngày, có người chạy đến nói với mẹ của Tăng Tử là : Tăng Sâm giết người. Bà mẹ không tin. Nhưng tới người thứ 3 đến nói : Tăng Sâm giết người thì bà mẹ thực sự hoảng sợ. Sự thực là có người trùng tên là Tăng Sâm mới giết người, chứ không phải là Tăng Tử.
Hình minh họa. Bản đồ Biển Đông có đường lưỡi bò mà Trung Quốc tự vẽ ra trên biển - AFP
Câu chuyện đó cho thấy, từ xa xưa, người Trung Quốc đã biết đến yếu tố tác động đến tâm lý, cho dù nó không phải là sự thật, nhưng cũng khiến người ta tin vào nó.
Thế kỷ 20, ông trùm về tuyên truyền của Đức Quốc xã là Joseph Goebbels cũng đã chủ trương : "Nếu đưa một lời nói dối đủ lớn, nhưng lặp đi lặp lại nó, sẽ khiến người khác tin lời nói dối đó là sự thật". Đây cũng là những ý tưởng cho việc sử dụng chiến tranh tâm lý của các quốc gia trên thế giới.
Khi Trung Quốc vươn mình sau giấc ngủ dài, Trung Quốc đã tính đến chuyện thay thế địa vị của Hoa Kỳ để "thống trị thế giới". Và Trung Quốc bắt đầu từ Biển Đông.
Ngày nay, khi Trung Quốc muốn thay thế vị trí của Hoa Kỳ, nhiều người nghĩ rằng, có khi hai đại cường phải trải qua một trận quyết đấu để phân thắng bại. Tuy nhiên, Dennis F. Poindexter, tác giả của cuốn sách "Chiến tranh thông tin của Trung Quốc", thì nghĩ khác.
Theo ông ta, viễn cảnh một cuộc đối đầu quân sự giữa hai cường quốc Mỹ - Trung là khó xảy ra, nhưng chiến tranh không nhất thiết phải là chiến tranh quân sự, và kỳ thực, Trung Quốc đang sử dụng cuộc chiến tranh ngoài quân sự để có thể đạt được mục đích tối thượng của mình. Điều này, như trong Binh pháp Tôn Tử của người Trung Quốc cổ xưa đã cho rằng "không đánh mà thắng mới là thượng sách". Đó chính là cuộc chiến tranh thông tin của Trung Quốc (Information War), nhằm đoạt vị trí "thiên tử" như xưa kia.
Một trong các biểu hiện của chiến tranh thông tin của Trung Quốc đó là mặc dù cả thế giới đang nguy hiểm trước đại dịch Covid-19, mà virus này khởi phát từ Vũ Hán (Trung Quốc), nhưng gần đây, Trung Quốc đang dùng chiến dịch truyền thông để xóa nhòa ký ức của mọi người về nguồn gốc của virus. Thậm chí, người phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Quốc còn tìm cách đổ cho virus xuất phát từ quân đội Hoa Kỳ mang tới Trung Quốc.
"Tam chủng chiến pháp"
Theo một nghiên cứu của Doug Livermore, thì "Tam chủng chiến pháp" của Quân đội Nhân dân Trung Quốc (PLA) chính là một phần của cuộc chiến tranh thông tin mà Trung Quốc đang phát động.
Tam chủng chiến pháp của PLA bao gồm : Chiến tranh tâm lý ; Chiến tranh truyền thông và Chiến tranh luật pháp.
Chiến tranh tâm lý bao gồm các hoạt động của lực lượng quân sự và/hoặc các lực lượng bán quân sự tiến hành trong giai đoạn chưa xảy ra xung đột quân sự. Các hoạt động này nhằm đe dọa tâm lý của đối phương. Các hoạt động này còn được hỗ trợ bởi các cơ quan thuộc các lĩnh vực khác như ngoại giao, kinh tế, văn hoá…
Chiến tranh truyền thông bao gồm các hoạt động công khai và bí mật nhằm chi phối truyền thông.
Chiến tranh luật pháp là các hoạt động khai thác tối đa các lĩnh vực liên quan từ hệ thống pháp luật quốc gia cho đến hệ thống pháp luật quốc tế nói chung để nhằm giành lợi thế và bảo vệ các "lợi ích cốt lõi" của Trung Quốc.
"Tam chủng chiến pháp" được chia thành ba loại hình cho dễ nhớ và dễ nhận biết. Trong thực tế, cả ba loại hình này được Trung Quốc phối kết hợp một cách nhuần nhuyễn, cái nọ bổ sung và hỗ trợ cho cái kia.
"Tam chủng chiến pháp" trên mặt trận Biển Đông
Trung Quốc muốn thay thế được vị trí của Hoa Kỳ thì trước hết phải làm "bá chủ biển khơi". Chính vì thế, Biển Đông được Trung Quốc chọn làm bước mở đầu để Trung Quốc tiến ra biển. Vì vậy, Trung Quốc xác định Biển Đông là "lợi ích cốt lõi" của Trung Quốc. Và cuộc chiến tranh thông tin trên mặt trận Biển Đông đã được Trung Quốc ráo riết thực hiện.
Để có lý do "hợp lý" cho việc đòi sở hữu 80% Biển Đông, Trung Quốc đã tung ra cái gọi là yêu sách "đường lưỡi bò". Mặc dù cái gọi là yêu sách này không dựa trên cơ sở nào của luật pháp quốc tế cả. Nhưng Trung Quốc tìm mọi cách để biện minh cho cái gọi là yêu sách này. Trung Quốc biết sức mạnh của câu chuyện "Tăng Sâm giết người", nói một lần không tin thì nói trăm lần cũng phải tin. Và Trung Quốc, một mặt tìm mọi cách để tuyên truyền về "đường lưỡi bò", từ hộ chiếu của người dân Trung Quốc đi du lịch có in hình này, đến các phần mềm xe hơi, các bản đồ, địa cầu, phim ảnh…. Mới đây nhất là việc Đại sứ quán Trung Quốc tại Ý, trên Fanpage Facebook của mình, khi cám ơn nước Ý, nhưng cũng đồng thời "trương" tấm bản đồ có "đường lưỡi bò" chình ình trong đó. Thậm chí, Trung Quốc còn tìm cách "mua" một số học giả quốc tế nổi tiếng, thông qua việc ưu đãi họ, cấp cho họ học bổng nghiên cứu, để họ viết bài ủng hộ cho lập trường của Chính phủ Trung Quốc. Tiêu biểu cho các học giả này là Mark Valencia từ Mỹ, Sam Bateman từ Australia… Song song đó, Trung Quốc cho đội ngũ các nhà khoa học của mình tập trung trình bày các luận điểm của mình một cách khéo léo để bảo vệ lập trường của Chính phủ Trung Quốc. Ví dụ, Tạp chí Trung Quốc về Luật quốc tế (Chinese Journal of International Law) là một diễn đàn được các học giả Trung Quốc thành lập ngay tại đại học Oxford (Anh Quốc). Tạp chí này đã dành một số đặc biệt hơn 500 trang để bác bỏ Phán quyết Biển Đông năm 2016 của Tòa trọng tài quốc tế theo phụ VII của UNCLOS.
Trên thực địa, Trung Quốc sử dụng các lực lượng dân quân biển để quấy rối các tàu của các quốc gia đi lại hay thăm dò trên khu vực Biển Đông, cho dù các hoạt động đó diễn ra trên vùng biển của họ hay vùng biển quốc tế. Sự quấy rối này của các tàu dân quân biển Trung Quốc sẽ khiến các quốc gia khó có thể gây căng thẳng cho Trung Quốc khi mối đe dọa này vẫn ở "vùng xám", tức là dưới ngưỡng chiến tranh. Tuy nhiên, các lực lượng hải quân Trung Quốc luôn bên cạnh để bảo vệ và hỗ trợ các tàu dân quân biển Trung Quốc này. Các trường hợp cắt cáp tàu thăm dò Việt Nam năm 2011, triển khai giàn khoan HD 981, quấy phá hoạt động thăm dò khai thác của Việt Nam, Malaysia, Philippines. Indonesia trong suốt thời gian vừa qua là nhằm vào mục đích này.
Trung Quốc cũng áp dụng chiến thuật tâm lý, đặt ra nguy cơ của một cuộc chiến quân sự có thể nổ ra, và nhấn mạnh vào mức độ và quy mô của PLA, và nhắc đi nhắc lại về khả năng chiến thắng và sức mạnh của Hải quân Trung Quốc, khiến các quốc gia ASEAN khác phải lo sợ. Đồng thời, Trung Quốc cũng đe dọa chiến tranh kinh tế nếu có quốc gia nào chống lại âm mưu của Trung Quốc. Philippines năm 2013, khi bắt đầu khởi kiện Trung Quốc đã gặp phải sự trừng phạt kinh tế như vậy.
Việt Nam cần có chiến lược để chống lại chiến tranh thông tin từ Trung Quốc
Trong các quốc gia ASEAN tham gia tranh chấp Biển Đông, Việt Nam là quốc gia đặc biệt được Trung Quốc lưu tâm. Một mặt, bởi vì Việt Nam có chung biên giới đất liền với Trung Quốc ; Việt Nam cũng là nước chịu nhiều ảnh hưởng từ Trung Quốc, từ văn hóa, kinh tế, thể chế chính trị. Việt Nam là nước duy nhất ở ASEAN có hệ thống chính trị gần gũi với Trung Quốc, với sự "cai trị" của Đảng cộng sản, nhưng được gọi bằng cái tên mỹ miều là "Đảng lãnh đạo". Tuy nhiên, mặt khác, đặc biệt là việc người dân Việt Nam rất ghét sự tham lam vô độ , muốn chiếm cả Biển Đông của Chính phủ Trung Quốc.
Chính vì vậy, Trung Quốc đã ráo riết triển khai và áp dụng "tam chủng chiến pháp" đối với Việt Nam, và không thể nói là không có những tác dụng nhất định.
Việc đe dọa tiến hành chiến tranh bằng việc thực hiện các hành động dưới ngưỡng chiến tranh của các lực lượng dân quân biển trong suốt thời gian qua, cùng với những đe dọa về chính trị, ngoại giao, kinh tế… đã khiến nhiều lãnh đạo Việt Nam tê liệt ý chí đối kháng trước Trung Quốc. Trong sự kiện căng thẳng tại khu vực Bãi Tư Chính năm 2019, từ Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đến Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đều không dám đả động đến Trung Quốc và tình hình căng thẳng tại khu vực Tư Chính trong các phát biểu của mình.
Mặc dù là bên khởi phát và chịu nhiều ảnh hưởng của virus Vũ Hán, nhưng Trung Quốc vẫn không ngừng nghỉ các tham vọng của mình, và cuộc chiến tranh thông tin vẫn được Trung Quốc thúc đẩy, thậm chí còn mạnh hơn trước. Vì Trung Quốc thấy được đây là thời cơ của mình, trong khi cả thế giới tập trung chống dịch.
Mới đây, một Think Tank của Trung Quốc (có thể do Chính phủ Trung Quốc hỗ trợ đằng sau) là SCSPI đã hai lần cung cấp báo cáo về việc các tàu cá Việt Nam xâm nhập trái phép khu vực biển của Trung Quốc nhằm mục đích thu thập thông tin tình báo. Đây chính là một điển hình cho việc dùng chiến tranh thông tin của Trung Quốc. Báo cáo này dựa trên các dữ liệu thu thập từ các AIS. Tuy nhiên, một câu hỏi đơn giản là nếu các tàu Việt Nam xâm nhập trái phép các vùng biển của Trung Quốc để thu thập thông tin tình báo thì ngu gì họ lại bật thông tin AIS để phía Trung Quốc có thể dễ dàng phát hiện và nhận dạng ? Cách sử dụng thông tin này cũng tương tự với việc Trung Quốc đổ cho virus Vũ Hán là do quân đội Hoa Kỳ mang tới.
Tuy nhiên, vấn đề là Việt Nam đã có chiến lược để đối phó với chiến tranh thông tin của Trung Quốc chưa ? Câu trả lời là dường như chưa thấy. Có thể các nghiên cứu của Quân đội Việt Nam về vấn đề này vẫn còn nằm trong vòng bí mật ? Tuy nhiên, các hành động của Chính phủ Việt Nam cho thấy phía Việt Nam hoàn toàn bị động, chạy theo giải quyết sự việc mà thôi. Chỉ đơn giản nếu Việt Nam không có một chiến lược chủ động, nếu Trung Quốc lặp đi lặp lại các hành động như đã làm tại khu vực Bãi Tư chính hồi năm ngoái thì về lâu về dài, phía Việt Nam sẽ dần dần kiệt sức, không thể chạy mãi theo Trung Quốc được.
Nguyễn Hải Quân
Nguồn : RFA, 24/03/2020
Trong cuộc khủng hoảng toàn cầu do virus Vũ Hán gây ra, Bắc Kinh đang sử dụng các kỹ năng phổ biến các tin tức giả, trục xuất các nhà báo Mỹ và chỉ đạo giới học giả lập luận hoạch định chính sách và viết các câu chuyện sai sự thật.
Valencia, cùng với Chủ tịch của viện, Tiến sĩ Wu Shicun, là những người tham gia thường xuyên tại các hội nghị ở Biển Đông, và tiếp tục đưa ra những lập luận học thuật cho chủ quyền của Trung Quốc đối với vùng biển tranh chấp, trong nỗ lực chung nhằm duy trì chiến dịch tuyên truyền của Bắc Kinh.
Để rõ ràng, Viện này nằm dưới sự quản lý của chính quyền tỉnh Hải Nam, và làm theo chỉ đạo của Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng như Cục Quản lý Đại dương nhà nước Trung Quốc. Bắc Kinh cố gắng thúc đẩy mục tiêu thiết lập và hợp pháp hóa quyền kiểm soát hành chính đối với Biển Đông thông qua các học giả đóng vai trò bán chính thức trong việc soạn thảo các bài báo và ý kiến phản ánh lợi ích cốt lõi của Bắc Kinh ở Biển Đông.
Valencia trong bài viết của mình đã nhào trộn các khái niệm lại với nhau và dẫn dắt sai về một số điểm.
Đầu tiên, từ tiêu đề, gọi mối quan hệ Mỹ-Việt là một liên minh là sai lệch và tự mâu thuẫn. Dù bản thân tác giả đã trích dẫn nguyên tắc quốc phòng của Việt Nam là không liên minh quân sự, không đứng về phía một quốc gia chống lại một quốc gia khác và không cho phép căn cứ quân sự nước ngoài được thiết lập.
Thứ hai, gán ghép yêu cầu của Việt Nam về thông báo trước từ các tàu nước ngoài thực hiện quyền đi lại vô hại qua lãnh hải của mình với ý định của Trung Quốc trong vùng biển tranh chấp ở Biển Đông là sai lệch.
Việt Nam có quyền tài phán đối với lãnh hải của mình như được xác định theo Công ước Liên hợp quốc về Luật biển, trong khi các đảo nhân tạo do Trung Quốc bồi lấp ở Biển Đông không được coi là lãnh thổ theo phán quyết của Tòa trọng tài năm 2016. Phán quyết tiếp tục khẳng định rằng cái gọi là đường chín đoạn của Bắc Kinh, không có cơ sở trong luật pháp quốc tế. Hải quân Hoa Kỳ, dưới quyền tự do hoạt động hàng hải (FONOPs), thực hiện quyền tự do đi lại trong phạm vi 12 hải lý thuộc các đảo nhân tạo mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền hoặc chiếm đóng để thách thức các yêu sách hàng hải của Bắc Kinh.
Viết về FONOPs, Valencia đề cập thêm rằng, Hoa Kỳ không công nhận các yêu sách của Việt Nam đối với các khu vực của Trường Sa nhưng không ở trên mặt nước khi thủy triều lên cao, nhưng thực tế FONOP của Hoa Kỳ không có liên quan đến tranh chấp chủ quyền đối với các đặc điểm trên đất liền.
Điểm sai lầm thứ ba trong tin tuyên truyền của Valencia là ông đã đánh đồng chuyến thăm tàu sân bay thứ hai của Hoa Kỳ đến Việt Nam vào tháng 3 năm 2020 với lập luận rằng, lần truy cập cảng này, Việt Nam không yêu cầu sự cho phép trước đó hoặc Hoa Kỳ không cho phép trước – hoặc cả hai. Cái sai mà mệnh đề Valencia lập luận nằm ở chỗ, đòi hỏi một điểm dừng chân cho một con tàu trong hành trình vận hành hàng hóa hoặc tiếp nhận nguồn cung cấp hoặc nhiên liệu, trong khi cái sau nhấn mạnh việc đi qua lãnh hải của một quốc gia khác. Hoa Kỳ và Việt Nam đã làm việc cùng nhau trong nhiều tháng để hiện thực hóa chuyến thăm.
Ông cũng cho biết thêm, Hoa Kỳ hy vọng rằng việc tiếp cận các cảng của Việt Nam sẽ thay thế các địa điểm ở Philippines. Điều này thật khó hiểu vì bản chất của mối quan hệ Mỹ-Việt và Mỹ-Philippines là khác nhau. Việt Nam không tìm cách trở thành đồng minh của Hoa Kỳ, và do đó, không thể so sánh hoặc thay thế Philippines.
Hơn nữa, logic của Valencia là Việt Nam và Hoa Kỳ đã cùng nhau chống lại Trung Quốc mà không xem xét sự khác biệt trong hệ thống chính trị và hệ tư tưởng của hai quốc gia, từ đó sẽ dẫn đến một liên minh ngắn ngủi. Tuy nhiên, hai nước biết rõ sự khác biệt và đã vượt qua những điều đó để hợp tác chặt chẽ với nhau.
Mặc dù có mối quan tâm chung về hành vi gây hấn của Trung Quốc tại Biển Đông đã tạo điều kiện cho mối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ phát triển, nhưng hợp tác về các vấn đề di sản chiến tranh đóng vai trò quan trọng trong việc tái lập quan hệ ngoại giao và dẫn đến sự phát triển quan hệ đối tác toàn diện giữa hai quốc gia. Việc tăng cường quan hệ với Mỹ cũng là một phần trong chính sách của Việt Nam về đa dạng hóa và đa phương hóa của mối quan hệ với các cường quốc.
Lập luận chính của Valencia là sự khác biệt giữa Hoa Kỳ và Việt Nam khiến mối quan hệ chiến lược vững chắc và lâu dài là khó có thể xảy ra. Tuy nhiên, báo cáo quốc phòng trắng của Việt Nam 2019 cho rằng, tùy thuộc vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ xem xét phát triển quan hệ quân sự và quốc phòng cần thiết, phù hợp với các quốc gia khác, bất kể sự khác biệt về chế độ chính trị và mức độ phát triển. Hà Nội coi đó là tự vệ, và không xung đột với nguyên tắc không dựa vào một quốc gia chống lại một quốc gia khác.
Mặc dù Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục có ý thức hệ và quan hệ kinh tế mạnh mẽ, nhưng rõ ràng rằng Trung Quốc không tôn trọng bất kỳ thỏa thuận nào mà hai nước có được liên quan đến Biển Đông. Do đó, Việt Nam đã cố gắng giảm sự phụ thuộc kinh tế vào nền kinh tế Trung Quốc bằng cách tích cực đàm phán các hiệp định thương mại tự do với các cường quốc khác. CPTPP và EVFTA đóng góp đáng kể cho những nỗ lực này.
Bich T. Tran & James Borton
Diễm My dịch
Nguồn : VNTB, 23/03/2020
Đảo Hải Nam có vị trí chiến lược đối với Trung Quốc trong vùng Biển Đông. Tại thành phố Tam Á, phía nam hòn đảo rộng 34.000 km2, Trung Quốc lập một căn cứ quân sự hùng hậu nhằm cân bằng với sự hiện diện của Hoa Kỳ ở Tây Thái Bình Dương, đặc biệt phải kể đến đội tầu ngầm (tấn công quy ước và hạt nhân) thuộc Hạm Đội Nam Hải.(Tạp chí phát lần đầu ngày 04/06/2018)
Thủ phủ Hải Khẩu của tỉnh Hải Nam, Trung Quốc. Ảnh chụp ngày 06/05/2018. China Daily via REUTERS
Đảo Hải Nam còn hỗ trợ về mặt hậu cần và quân sự cho các đảo và đá bị Trung Quốc kiểm soát ở Biển Đông, trong đó có 7 hòn đảo nhân tạo ở Trường Sa, nằm cách Hải Nam hơn 1.000 km.
Ngoài vai trò chiến lược về mặt quân sự, tháng 04/2018, chủ tịch Trung Quốc nâng tầm của Hải Nam lên một bậc khi quyết định biến hòn đảo thành vùng tự do thương mại . Chưa đầy một tháng sau, chính quyền địa phương đã khởi công ba dự án công nghiệp lớn trong khu vực Hainan Resort Software Community và đưa ra chính sách đãi ngộ nhằm thu hút một triệu tài năng, cũng như các nhà đầu tư nước ngoài. Theo chính sách mới, công dân 59 nước được miễn visa du lịch với thời hạn lưu trú tối đa là 30 ngày với điều kiện đặt tour qua các hãng lữ hành.
Nằm cách bờ biển Việt Nam khoảng 300 km, chiến lược thay đổi trên đảo Hải Nam có tác động như thế nào đối với Việt Nam và các nước trong khu vực, cũng như trong chiến lược đòi chủ quyền trên gần toàn bộ Biển Đông của Trung Quốc ? Ban tiếng Việt đài RFI đã đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Mathieu Duchâtel, chuyên gia về Trung Quốc, trợ lý giám đốc chương trình Châu Á của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại Châu Âu (European Council on Foreign Relations).
----------------
RFI : Đảo Hải Nam có vị trí chiến lược như thế nào đối với miền bắc Việt Nam và trong vùng ?
Mathieu Duchâtel : Đảo Hải Nam dĩ nhiên là có một vị trí chiến lược theo hai hướng. Trước hết, bởi vì đảo là tiền đồn, vừa là của Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc, đặc biệt là Hải Quân và Không Quân nhằm phô trương sức mạnh Trung Hoa ở Biển Đông, vừa là của lực lượng dân quân, đóng chủ yếu ở bên bờ đông của đảo, giúp Trung Quốc duy trì sự hiện diện quan trọng ở Biển Đông. Chính vì vậy, đảo Hải Nam là một tiền đồn thực sự quan trọng đối với Trung Quốc.
Tiếp theo, yếu tố quan trọng nhất khi chúng ta chú ý một chút đến cách tiếp cận của Trung Quốc về vấn đề tranh chấp lãnh hải, chính là ý đồ răn đe hạt nhân của Trung Quốc vì tại căn cứ hải quân Du Lâm (Yulin), nằm ở phía nam đảo Hải Nam, có đội tầu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo (SSBN) đang tìm lối ra vùng biển sâu để có thể trú ẩn, xây dựng sức răn đe hạt nhân và khả năng tấn công của Trung Quốc.
Đây là một chi tiết thường ít được nhắc đến khi nói về vấn đề hàng hải ở Đông Nam Á, nhưng đây lại là yếu tố hoàn toàn mang tính quyết định để hiểu được cách tiếp cận của Trung Quốc và những gì mà nước này đang tiến hành, có nghĩa là các công trình xây dựng tiền đồn quân sự trên đảo Phú Lâm, ở quần đảo Hoàng Sa và trên các đá Chữ Thập, đá Xu Bi, đá Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa, vừa để bảo vệ đội tầu ngầm vừa để đảm bảo sự hiện diện hải quân ở trong vùng.
RFI : Trung Quốc sử dụng căn cứ hải quân ở đảo Hải Nam như thế nào ?
Mathieu Duchâtel : Điều quan trọng đối với tôi chính là đội tầu ngầm mang tên lửa đạn đạo vì đây là yếu tố vô cùng quan trọng đối với mọi chính sách quốc phòng của Trung Quốc. Điều cần chú ý là Trung Quốc đã đưa ra chương trình trong những năm 1960 và cố đóng được một tầu ngầm tấn công có năng lực đáng tin cậy. Để thực hiện được điều này, yếu tố đầu tiên là tầu phải có khả năng ra khỏi căn cứ mà không bị theo dõi, một cách kín đáo và có thể ẩn trong đại dương, mà không bị tầu ngầm, hoặc máy bay tuần tra hàng hải của Mỹ phát hiện.
Dù nếu không bị phát hiện, nhưng để có khả năng răn đe hạt nhân một cách tin cậy, tầu ngầm đó phải có khả năng bắn được các tên lửa liên lục địa. Tuy nhiên, về điểm này, Trung Quốc vẫn chưa phát triển được một cách khả quan, ví dụ theo những gì chúng tôi được biết, loại tên lửa JL-2 mà nước này đang phát triển chưa đạt hiệu quả. Còn tên lửa JL/3 thế hệ mới vẫn chưa hoạt động.
Điểm lý thú có thể nhận thấy trong sự năng động này, đó là Trung Quốc có căn cứ quân sự ở phía nam đảo Hải Nam, cùng với nhiều tầu ngầm tấn công, nhưng lại chưa có khả năng răn đe hạt nhân mà nước này vẫn tìm kiếm.
Vì thế, Trung Quốc đang trong giai đoạn tăng tốc hiện đại hóa. Đây cũng là một cách giải thích cho những hoạt động của Trung Quốc ở phía nam đảo Hải Nam, ở các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Quốc cần bảo vệ căn cứ hải quân và đội tầu ngầm này để sớm trang bị được khả năng răn đe dưới đại dương, hiện vẫn còn thiếu. Đó là một yếu tố vô cùng quan trọng trong cách tiếp cận của Trung Quốc ở Biển Đông. Điều này giải thích một phần những công trình xây dựng quân sự mà chúng ta thấy được tiến hành với nhịp độ rất nhanh.
RFI : Sự kiện oanh tạc cơ Trung Quốc diễn tập hạ cánh ở đảo Phú Lâm có liên quan đến căn cứ hải quân trên đảo Hải Nam hay không ?
Mathieu Duchâtel : Tôi cho rằng việc oanh tạc cơ chiến lược hạ cánh trên đảo Phú Lâm mang một ý nghĩa khác. Sự kiện đó mang ý nghĩa răn đe, không phải đối với Hoa Kỳ mà là với các nước trong khu vực đang có tranh chấp với Bắc Kinh, như Việt Nam, Philippines.
Loại oanh tạc cơ H-6K này được truyền thông giới thiệu rất nhiều là một loại oanh tạc cơ nguyên tử, điều này là đúng ! Và có khả năng tấn công đến tận đảo Guam, điều này cũng đúng ! Nhưng tôi không cho rằng Bắc Kinh muốn phô trương khả năng hạt nhân của loại oanh tạc cơ H-6K mà thực ra, muốn chứng tỏ với khu vực rằng Trung Quốc có khả năng tấn công quy ước, ví dụ đến những thực thể ở Trường Sa do các nước khác kiểm soát.
Ngược lại, những hoạt động mà Trung Quốc đang tiến hành ở các đá Xu Bi, Vành Khăn, Chữ Thập, như lập hệ thống phòng không, chống hạm, đúng là nhằm mục đích bảo vệ đội tầu ngầm hạt nhân và ngăn chặn điều cản trở nhất đối với Trung Quốc, có nghĩa là cách giám sát, chủ yếu là từ phía Mỹ, các hoạt động hàng hải và tầu ngầm mà Trung Quốc luôn tự cho mình là nạn nhân.
RFI : Đảo Hải Nam có vai trò như thế nào trong chiến lược đòi chủ quyền của Trung Quốc trong khu vực ?
Mathieu Duchâtel : Trung Quốc có một logic là làm chuyện đã rồi về mặt hành chính trong khu vực. Có nghĩa là nói với các nước láng giềng trong khu vực và cộng đồng quốc tế, theo kiểu : "Hãy nhìn đây, tôi thực sự quản lý hành chính vùng này. Khu vực này nằm dưới quyền quản lý hành chính trực tiếp của chúng tôi !"
Thành phố Tam Á (Sanya) được hình thành theo kiểu đó và là hình ảnh phản chiếu cho cộng đồng quốc tế thấy rằng Trung Quốc đã quản lý vùng này. Vì vậy, Hải Nam đóng một vai trò quan trọng.
RFI : Khi chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình quyết định biến đảo Hải Nam thành một khu vực tự do thương mại, ông muốn đưa ra chiến lược gì ?
Mathieu Duchâtel : Có một điểm rất quan trọng là tất cả những gì liên quan đến kinh tế, đặc biệt là kinh tế biển, Hải Nam từng là một tỉnh đầu tầu trong chương trình cải cách của Đặng Tiểu Bình. Năm 2018, nhân dịp 30 năm thành lập tỉnh Hải Nam, ông Tập Cận Bình thông báo xây dựng một vùng tự do thương mại hướng đến lĩnh vực biển. Ông thậm chí còn nói là Hải Nam sẽ trở thành viên ngọc trai của Trung Quốc.
Như vậy, ông Tập biến Hải Nam thành biểu tượng của chính sách mở cửa của Trung Quốc và đặc biệt nhấn mạnh vào lĩnh vực du lịch. Hiện Hải Nam có cả một kế hoạch thu hút khách du lịch nước ngoài lưu lại lâu hơn trên đảo, như không cần visa, thời hạn lưu trú dài hơn so với những thành phố khác của Trung Quốc. Người ta nhận thấy có sự tăng tốc trong tiến trình mở cửa ở Hải Nam. Vì là một hòn đảo, Hải Nam không dính với phần còn lại của Trung Hoa lục địa nên có thể dễ dàng thử nghiệm hơn những chính sách theo hướng mở cửa.
Cũng cần chú ý là tất cả những gì liên quan đến kinh tế biển như vận tải hàng hải, chuyên chở container, du lịch biển, đánh bắt hải sản, tất cả những gì liên quan đến sinh vật biển, sử dụng sản vật biển để bào chế thuốc… đang phát triển rất mạnh. Đó là những lĩnh vực mà Trung Quốc chú trọng và đảo Hải Nam đóng một vai trò thực sự quan trọng.
Đây cũng là một thách thức chính trị, cạnh tranh giữa các tỉnh miền nam Trung Quốc, như Hải Nam, Quảng Đông, Phúc Kiến, Chiết Giang… để trở thành tỉnh dẫn đầu về ngành kinh tế biển. Ở điểm này, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã thật sự lựa chọn Hải Nam làm tiền đồn để phát triển một nền kinh tế hướng đến tự do trao đổi nhiều hơn, mở cửa hơn với những chính sách ưu đãi để phục vụ tiến trình quốc tế hóa của đảo. Những chính sách này rất có lợi cho sự phát triển của Hải Nam.
RFI : Du lịch Hải Nam phát triển mạnh có gây tác động đến Việt Nam và các nước khác trong vùng không ?
Mathieu Duchâtel : Có, tôi nghĩ là sẽ có tác động vì Trung Quốc đã phát triển du lịch ở quần đảo Hoàng Sa mà nước này chiếm từ Việt Nam và đang quản lý hành chính. Thông qua hình thức du lịch, Trung Quốc tìm cách củng cố quyền quản lý quần đảo Hoàng Sa.
Thu Hằng thực hiện
Nguồn : RFI, 23/03/2020
Trung Quốc, Mỹ liên tục tập trận ở Biển Đông (Thanh Niên, 22/03/2020)
Tờ South China Morning Post (SCMP) hôm qua (21/3) dẫn thông báo từ quân đội Trung Quốc cho hay máy bay quân sự nước này vừa tiến hành cuộc tập trận chống tàu ngầm ở Biển Đông.
Hạm đội Thái Bình Dương - Máy bay ném bom B-52H cùng chiến đấu cơ F-15C bay phía trên tàu sân bay USS Theodore Roosevelt và tuần dương hạm USS Bunker Hill ở biển Philippines, ngày 18/3/2020
Thông báo nói rằng cuộc tập trận diễn ra trong tháng này, không lâu trước khi nhóm tác chiến tàu sân bay của Mỹ do hàng không mẫu hạm USS Theodore Roosevelt dẫn đầu cùng một đơn vị đổ bộ thực hiện cuộc huấn luyện ở Biển Đông trong thời gian gần đây.
Trong thông báo, quân đội Trung Quốc khoe rằng máy bay đã xác định thành công nhiều mục tiêu khả nghi và một phi công tham gia tập trận nói rằng việc hai máy bay cùng tham gia làm gia tăng khả năng phát hiện tàu ngầm.
Chuyên gia quốc phòng Swee Lean Collin Koh thuộc Trường Nghiên cứu quốc tế S.Rajaratnam (Singapore) nhận định cuộc tập trận của Trung Quốc nhằm phản ứng không chỉ hoạt động gần đây của nhóm tác chiến tàu sân bay USS Theodore Roosevelt mà còn sự hiện diện ngày càng gia tăng của hải quân Mỹ ở Biển Đông.
Ông Koh còn đánh giá không có gì ngạc nhiên nếu tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân của Trung Quốc hoạt động trong vùng xung quanh một nhóm tác chiến tàu sân bay Mỹ.
Tàu sân bay USS Theodore Roosevelt cùng tuần dương hạm USS Bunker Hill thăm Đà Nẵng từ ngày 5 - 11/3/ Đến ngày 15 - 18.3, các tàu thuộc các nhóm tác chiến tàu sân bay Theodore Roosevelt (TRSG) cùng nhóm tấn công viễn chinh Mỹ (AMAESG) và Đơn vị viễn chinh đổ bộ 31 thực hiện các hoạt động của lực lượng tấn công viễn chinh (ESF) ở Biển Đông, theo thông báo đăng trên website của hải quân Mỹ.
Thông báo nhấn mạnh ESF giúp gia tăng khả năng của hai nhóm tấn công TRSG và AMAESG trong việc đối phó các mối đe dọa và hành động thù địch, đồng thời duy trì ổn định ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Bên cạnh đó, cũng hôm qua, thông qua mạng xã hội Twitter, Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ đăng tải bức ảnh với chú thích máy bay ném bom B-52H cùng chiến đấu cơ F-15C bay trên tàu sân bay USS Theodore Roosevelt và tuần dương hạm USS Bunker Hill ở biển Philippines. Theo chú thích bức ảnh, đây là hình ảnh từ cuộc tập trận phòng không chung của hải quân và không quân.
Trước đó ngày 18/3, Hạm đội Thái Bình Dương đã đăng ảnh chiến đấu cơ F/A-18F hạ cánh xuống tàu sân bay ở biển Philippines.
Văn Khoa
*****************
Hải quân Trung Quốc tập trận chống tàu ngầm ở Biển Đông (Zing, 21/03/2020)
Trung Quốc thông báo hải quân nước này tập trận chống tàu ngầm ở Biển Đông vào đầu tháng 3. Các học giả cho biết Bắc Kinh đang quyết tâm cải thiện khả năng chống tàu ngầm.
Cuộc tập trận chống ngầm có sự tham gia của hai máy bay của hải quân PLA. Ảnh : South China Morning Post.
Máy bay quân sự Trung Quốc gần đây tiến hành tập trận chống tàu ngầm trên Biển Đông, Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc (PLA) cho biết hôm 20/3.
Cuộc tập trận có sự tham gia của hai máy bay được tiến hành vào đầu tháng, không lâu trước khi các đơn vị hải quân Mỹ tham gia khóa huấn luyện tấn công viễn chinh ở Biển Đông, Hải quân PLA cho biết trong một báo cáo.
Trong khi thừa nhận những khó khăn liên quan đến hoạt động tập trận, báo cáo cho biết máy bay đã xác định thành công một số vật thể đáng ngờ.
"Các bài tập chống tàu ngầm giống mò kim đáy bể. Rất khó khăn, điều kiện thủy văn dưới nước rất phức tạp", ông Yu Yang, cơ trưởng của một trong những chiếc máy bay, nói trong báo cáo.
PLA công bố báo cáo này ra sau khi Mỹ tổ chức một cuộc tập trận kéo dài bốn ngày ở Biển Đông vào tuần trước có sự tham gia của nhóm tác chiến tàu sân bay Theodore Roosevelt, lực lượng viễn chinh và đơn vị Viễn chinh Thủy quân lục chiến số 31.
Vào cuối tháng trước, Hải quân Mỹ đã cáo buộc PLA có hành vi không an toàn và thiếu chuyên nghiệp sau khi một tàu khu trục Trung Quốc chĩa tia laser vào máy bay tuần tra hàng hải của Mỹ đang bay qua vùng biển quốc tế phía tây đảo Guam.
Ông Collin Koh, nhà nghiên cứu tại Trường Nghiên cứu Quốc tế S Rajaratnam tại Đại học Công nghệ Nanyang ở Singapore, cho biết quân đội Trung Quốc rất muốn phát huy khả năng chống tàu ngầm của mình.
"Điều này có nghĩa là chúng ta có thể thấy nhiều cuộc tập trận như vậy trong tương lai. Virus corona sẽ không thể ngăn cản điều này", ông nói.
"Cũng có thể xem đây là phản ứng không chỉ đối với các hoạt động của nhóm tác chiến tàu sân bay mà còn là sự hiện diện quân sự ngày càng tăng của Mỹ ở Biển Đông", ông nói thêm.
"Tôi cũng sẽ không ngạc nhiên nếu một tàu ngầm tấn công hạt nhân ở gần khu vực của nhóm tác chiến tàu sân bay", ông cho biết.
Như Trần
******************
Trung Quốc tập trận chống tàu ngầm ở Biển Đông (RFA, 21/03/2020)
Máy bay chiến đấu của Trung Quốc vừa tiến hành một cuộc diễn tập chống tàu ngầm ở Biển Đông hồi đầu tháng này. Trang tin South China Morning Post trích thông báo của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, loan tin này hôm 20/3
Hình minh họa. Máy bay ném bom JH-7 của Trung Quốc bay tại Hàng Châu hôm 5/2/2020 - AFP
Cuộc tập trận diễn ra vào lúc quân đội Trung Quốc lên tiếng cáo buộc Hoa Kỳ cho tàu chiến đi vào vùng nước gần quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc đòi chủ quyền thời gian vừa qua, và gọi đây là hành động phô trương sức mạnh của Mỹ trong khu vực, xâm phạm vùng nước của Trung Quốc.
Thông báo của quân đội Trung Quốc cho biết cuộc diễn tập bao gồm 2 máy bay chiến đấu, đồng thời thừa nhận những khó khăn trong diễn tập mà họ gọi là tìm kim đáy biển. Tuy nhiên, một phi công tham gia diễn tập được dẫn lời cho biết sự phối hợp của hai máy bay chiến đấu giúp tăng khả năng tìm kiếm tàu ngầm.
Thông báo về cuộc diễn tập được đưa ra sau khi Hoa Kỳ thực hiện một cuộc tập trận kéo dài 4 ngày ở Biển Đông hồi tuần trước. Cuộc tập trận bao gồm đội tàu tấn công Theodore Roosevelt. Tàu sân bay Theodore Roosevelt trong đội tàu này trước đó, vào ngày 5/3 đã có chuyến thăm đến Đà Nẵng, Việt Nam.
Hôm 12/3, truyền thông nhà nước Trung Quốc cho biết, quân đội Trung Quốc thời gian qua đã vài lần đuổi tàu chiến khỏi vùng nước của Trung Quốc ở Biển Đông.
Trung Quốc hiện là nước đòi chủ quyền phần lớn khu vực Biển Đông theo đường đứt khúc 9 đoạn mà nước này tự vẽ ra trên biển. Toà Trọng tài Quốc tế hồi năm 2016 đã ra phán quyết bác bỏ tính hợp lý của đường đứt khúc này.
Từ năm 2015 đến nay, Hoa Kỳ đã thực hiện chương trình tự do hàng hải, gửi tàu chiến và máy bay đi qua khu vực Biển Đông nhằm thách thức những đòi hỏi chủ quyền quá đáng của Trung Quốc, đồng thời khẳng định tự do hàng hải, hàng không ở khu vực tranh chấp này.
********************
Trung Quốc đe dọa chặn tàu Mỹ vào Biển Đông bằng vũ khí điện từ (VNTB, 20/03/2020)
Tàu sân bay Theodore Roosevelt và nhóm tàu tấn công đổ bộ của Mỹ đã cùng tiến vào Biển Đông hôm 15 tháng 3 trong một cuộc tập trận, Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ cho biết trên tài khoản Twitter sau đó một ngày.
Đây là lần thứ ba chỉ trong một tuần các tàu chiến Mỹ đi vào Biển Đông, trước đó là khu trục hạm gắn tên lửa dẫn đường của Mỹ McCampbell, tàu tấn công đổ bộ Mỹ và tàu chiến đấu duyên hải Gabrielle Giffords.
"Để chống lại sự xâm phạm nhiều lần của Mỹ vào lãnh hải Trung Quốc, quân đội Trung Quốc lựa chọn sử dụng các phương pháp mới, bao gồm triển khai vũ khí điện từ", Song Zhongping, một chuyên gia và nhà bình luận quân sự Trung Quốc, nói với Thời báo Hoàn cầu hôm thứ 17 tháng 3.
Bắn vào tàu chiến Mỹ không phải là một lựa chọn tốt trừ khi Mỹ bắn trước, và điều đó sẽ dẫn đến một cuộc xung đột quân sự giữa hai quốc gia, Song nói. Vị chuyên gia này cũng loại trừ khả năng đâm vào tàu Mỹ, vì bài học rút ra ở Biển Đen giữa Liên Xô và Mỹ năm 1988.
Nhưng sử dụng vũ khí điện từ gồm các thiết bị laser có thể khả thi, vì chúng có thể làm tê liệt tạm thời hệ thống vũ khí và điều khiển của tàu Mỹ mà không gây ra xung đột rõ ràng nhưng có thể gửi một cảnh báo mạnh mẽ, theo Song.
Vũ khí điện từ có thể phát ra sóng điện từ có khả năng gây nhiễu các thiết bị điện tử của tàu mục tiêu và sẽ không gây thương vong, các nhà quan sát quân sự cho biết.
Trước đó, Washington cáo buộc một tàu khu trục Trung Quốc sử dụng tia laser vào ngày 17 tháng 2 đối với máy bay tuần tra gần đảo Guam.
"Mỹ đang sử dụng ‘tự do hàng hải’ như một cái cớ để liên tục vào Biển Đông để thể hiện sức mạnh và gây rắc rối, đó là những hành động bá quyền vi phạm luật pháp quốc tế, đe dọa hòa bình và ổn định trong khu vực, phát ngôn viên Bộ Tư lệnh Chiến khu phương Nam Li Huamin cho biết sau các hoạt động của hải quân Mỹ vào ngày 10 tháng 3.
"Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các hòn đảo ở Biển Đông và vùng biển lân cận, và quân đội Trung Quốc vẫn luôn cảnh giác cao độ", Li tuyên bố.
Bộ Quốc phòng Trung Quốc vẫn chưa đưa ra phản ứng của họ đối với các hoạt động của Mỹ vào ngày 13 đến 15 tháng 3.
Anh Khoa dịch
Nguồn : https://www.globaltimes.cn/content/1182886.shtml
********************
Mỹ điều tàu chiến đi qua eo biển Đài Loan, tiến vào Biển Đông (Zing, 16/02/2020)
USS Chancellorsville - tuần dương hạm mang theo tên lửa dẫn đường - đã đi qua eo biển Đài Loan để tiến vào Biển Đông hôm 15/2.
Tàu USS Chancellorsville đi qua eo biển Đài Loan. Ảnh : Hải quân Mỹ.
Theo CNA, một tàu chiến của Mỹ đã đi qua eo biển Đài Loan vào hôm 15/2, đánh dấu sự hiện diện quân sự thứ 3 của quân đội Mỹ ở khu vực tính riêng trong tuần này.
Động thái này được thực hiện sau khi xảy ra sau hai lần liên tiếp máy bay chiến đấu F-16 của Đài Loan xuất kích để bám theo các máy bay ném bom của Trung Quốc đi vào vùng trời eo biển Ba Sĩ tại phía nam đảo Đài Loan.
Tàu chiến Mỹ vừa đi vào Biển Đông chính là tuần dương hạm USS Chancellorsville (CG-62) mang tên lửa dẫn đường. Con tàu thuộc lớp Ticonderoga, trực thuộc Hạm đội 7 của Hải quân Mỹ, lực lượng phụ trách các chiến dịch an ninh và ổn định trong khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Tờ Stars and Stripes dẫn lời các quan chức Mỹ xác nhận thông tin này.
Đây là lần thứ 2 trong năm nay tàu chiến Mỹ đi qua eo biển Đài Loan. Trước đó vào ngày 17/1, một tuần dương hạm mang tên lửa dẫn đường khác là USS Shiloh (CG-67) cũng thực hiện hành trình tương tự.
Vào ngày 9 và 10/2, các máy bay chiến đấu J-11 và máy bay ném bom H-6 của quân đội Trung Quốc đã bay qua vùng trời eo biển Ba Sĩ ở phía nam đảo Đài Loan.
Sau đó, Mỹ đã điều động 2 máy bay ném bom chiến lược B-52 Stratofortress thực hiện các chuyến bay về phía nam ngoài khơi bờ biển phía đông của Đài Loan. Một máy bay vận tải chiến đấu đa nhiệm MJ-130J Commando II cũng bay qua eo biển Đài Loan, hướng về phía nam.
Một máy bay khác của Mỹ là chiếc P-3 Orion - chuyên thực hiện các nhiệm vụ giám sát và chống ngầm, cũng xuất hiện hôm 13/2 trên vùng trời ngoài khơi Mũi Eluanbi ở phía nam đảo Đài Loan.
Hương Hảo
Điểm mấu chốt : Trung – Mỹ không tin tưởng lẫn nhau và căng thẳng vẫn là một vấn đề. Với việc tranh nhau gây ảnh hưởng ở Biển Đông thì có ba điều điều sẽ khiến mọi thứ trở nên tồi tệ.
Trong nhiều tháng qua, Trung Quốc đã đẩy mạnh xây dựng "Vạn lý trường thành bằng cát".
Cả Trung – Mỹ đều không muốn chiến tranh, ít nhất là trong tương lai gần. Riêng Mỹ chắc chắn muốn tránh sự hỗn loạn mà bất kỳ cuộc xung đột quân sự nào với Trung Quốc sẽ tạo ra.
Tuy nhiên, cả hai quốc gia đều đưa ra các cam kết ở Biển Đông mà mỗi nước có thể khó lùi bước. Trong hai tuần qua, những cam kết này đã tạo ra một cuộc tranh luận gây khó khăn cho chính những nhà phân tích chính trị. Các vấn đề chính tập trung vào việc Trung Quốc mở rộng (hoặc tạo ra) các đảo ở Trường Sa, về mặt lý thuyết có thể cung cấp cơ sở cho các yêu sách đối với vùng lãnh hải. Sự cương quyết của Mỹ về tự do hàng hải có thể khiến những căng thẳng này gia tăng ở các phương diện sau :
Chuỗi đảo trong Biển Đông
Trong nhiều tháng qua, theo các nhà quan sát Trung Quốc đã đẩy mạnh xây dựng "Vạn lý trường thành bằng cát". Trong đó bao gồm mở rộng một nhóm đảo ở Trường Sa để có thể hỗ trợ phi đạo, vũ khí và các cơ sở lâu dài khác. Dường như Bắc Kinh cam kết bảo vệ những hòn đảo mới này như một phần của lãnh thổ Trung Quốc, điều mà Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển không ủng hộ. Washington lại có ý tưởng khác khi tìm cách duy trì thực hiện các cuộc tuần tra tự do hàng hải trong các khu vực mà Trung Quốc tuyên bố là lãnh hải.
Xung đột đang hiện hữu. Nếu tàu hoặc máy bay của Mỹ vào vùng biển mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền, thì các thủy thủ, binh lính và phi công Trung Quốc cần phản ứng hết sức thận trọng. Một hành động quân sự hóa có thể nhanh chóng leo thang, đặc biệt là nếu Mỹ bị bất kỳ tổn thất nghiêm trọng nào. Điều đó cũng dễ dàng tưởng tượng ra kịch bản xây dựng đảo khiến Trung Quốc trở nên đối lập với các quốc gia ASEAN. Trong trường hợp như vậy, một cuộc tuần tra tự do hàng hải có thể đưa Trung Quốc vào thế khó xử.
Va chạm máy bay chiến đấu
Trung – Mỹ đã tiến gần đến xung đột liên quan đến va chạm máy bay, khi một chiếc P/3 Orion va chạm với máy bay đánh chặn PLAN J-8 vào năm 2001.
Không khó để tưởng tượng một cuộc đối đầu thậm chí nghiêm trọng hơn trong Biển Đông. Một va chạm vô tình sẽ đủ tồi tệ, nhưng nếu một kịch bản tương tự như sự kiện KAL 007 (chuyến bay 007 của Korean Air Lines (KAL007/KE007) bị máy bay đánh chặn Su-15 bắn hạ gần đảo Moneron, phía tây đảo Sakhalin, thuộc biển Nhật Bản vào thứ 5, ngày 1 tháng 9 năm 1983), nhưng lần này là binh sĩ Trung Quốc nổ súng vào một chiếc máy bay Mỹ, tình huống có thể trở nên tồi tệ rất nhanh. Và nếu một phi công Mỹ bắn vào máy bay Trung Quốc, phản ứng của người Trung Quốc có thể vượt mức để Bắc Kinh xử lý hợp lý.
Nếu Trung Quốc quyết định đi trước và tuyên bố vùng cấm bay trên Biển Đông, vấn đề có thể trở nên phức tạp hơn. Mỹ có thể bỏ lơ quan điểm đó của Bắc Kinh, nhưng Bắc Kinh có lợi ích lớn hơn và sự hiện diện lớn hơn ở Biển Đông. Một tuyên bố sẽ gần như chắc chắn gây ra phản ứng tương tự từ Mỹ, và máy bay của hai quốc gia sẽ gầm ghè nhau.
Tàu ngầm va nhau
Trong Chiến tranh Lạnh, Liên Xô và NATO đã phải hứng chịu vô số tàu ngầm tên lửa, những chiếc thuyền săn nhau, và đôi khi va vào nhau, ở Đại Tây Dương, Bắc Cực và Biển Bắc. Mỹ – Trung có thể diễn ra theo cách tương tự, một phần vì Trung Quốc vẫn chưa chắc chắn thiết lập một cuộc tuần tra tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo (SSBN), và vì các tàu Trung Quốc không đi xa như Liên Xô. Nhưng khi lực lượng tàu ngầm của quân đội Trung Quốc trở nên phiêu lưu hơn thì sự cố tàu ngầm có thể gia tăng.
Nhiều nhà phân tích cho rằng quân đội của Bắc Kinh cần cho tàu ngầm đi ra khỏi quần đảo đầu tiên nhằm đe doạ Mỹ tiếp cận ‘vùng chủ quyền’ Trung Quốc. Chuẩn bị cho việc này sẽ đòi hỏi phải tăng các hoạt động đội tàu ngầm Trung Quốc, thường sẽ đưa các tàu Trung Quốc gần với tàu ngầm Nhật Bản và Mỹ. Để chắc chắn, các tàu ngầm Trung Quốc đủ lớn để các tàu thuyền của Mỹ có đủ thời gian để tránh đường, nhưng điều tương tự cũng có thể diễn ra như từng diễn ra với các tàu của Liên Xô trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Nếu một sự cố tàu ngầm Mỹ – Trung, bản chất của tàu ngầm này có thể tạo hy vọng cho sự xuống thang (thường chúng ta thường không nghe về những tai nạn này ngay). Nhưng một sự cố như vậy cũng sẽ khiến nhân mạng và tài sản bị thiệt hại lớn hơn so với một vụ va chạm máy bay chiến đấu.
Chiến tranh (phát sinh) ngẫu nhiên hiếm khi xảy ra nhưng không phải là không có. Điểm chung cho tất cả các kịch bản này là dư luận Trung Quốc có thể trở nên quá căng thẳng nhằm thúc ép quốc hội. Nếu Tập Cận Bình cảm thấy không thể lùi bước, thì chuyện sẽ rất khó lường.
Như Denny Roy đã lập luận, Trung Quốc đang tấn công ở Biển Đông. Bằng cách thiết lập các sự kiện nhằm khiến cho các hoạt động bình thường của Mỹ thành hành động can thiệp, gây bất ổn.
Robert Farley