Trung Quốc phản đối Malaysia xin công nhận thềm lục địa mở rộng (RFI, 17/12/2019)
Trung Quốc yêu cầu Liên Hiệp Quốc không nghiên cứu hồ sơ xin công nhận thềm lục địa mở rộng của Malaysia theo Điều 76 của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), liên quan đến ranh giới thềm lục địa nằm ngoài 200 hải lý tính từ đường cơ sở.
Ảnh minh họa : Tàu tuần tra của hải quân Hoàng gia Malaysia gần đảo Langkawi, ngày 14/05/2015. AFP PHOTO / MANAN VATSYAYANA
Theo trang South China Morning Post ngày 17/12/2019, Bắc Kinh khẳng định yêu cầu của Kuala Lumpur "vi phạm nghiêm trọng đến chủ quyền, các quyền và quyền tài phán" của Trung Quốc.
Trong thư gửi đến tổng thư ký Antonio Guterres vào tuần trước, phái đoàn thường trực của Trung Quốc bên cạnh Liên Hiệp Quốc khẳng định "Trung Quốc có vùng nội thủy, lãnh hải và một vùng tiếp giáp lãnh hải căn cứ vào các đảo (của nước này) ở Biển Đông (Nanhai Zhudao) ; vùng đặc quyền kinh tế và vùng thềm lục địa". Vì vậy, Bắc Kinh "nghiêm túc yêu cầu Ủy ban về giới hạn thềm lục địa (CLCS) không xem xét hồ sơ của Malaysia".
Mặt khác, ngày 16/12, bộ Ngoại Giao Trung Quốc cũng cho biết đã gửi công hàm đến Malaysia khẳng định Kuala Lumpur đã vi phạm chủ quyền của Trung Quốc và vi phạm "các tiêu chuẩn về quan hệ quốc tế".
Tuy nhiên, phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye năm 2016 không thừa nhận các đòi hỏi chủ quyền theo yêu sách "đường 9 đoạn" của Trung Quốc trên hầu hết Biển Đông dựa trên những đảo nhân tạo mà nước này kiểm soát.
Việt Nam hy vọng Trung Quốc kiềm chế ở Biển Đông trong năm 2020
Trong một bài phát biểu tại Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á ở Singapore, thứ trưởng Ngoại Giao Việt Nam Nguyễn Quốc Dũng "hy vọng trong nhiệm kỳ Việt Nam làm chủ tịch luân phiên ASEAN, Trung Quốc sẽ tỏ ra kiềm chế và hạn chế các hành động" ở Biển Đông.
Theo ông Dũng, "những việc Trung Quốc đã làm rất đáng báo động và phần nào đó đe dọa không chỉ mỗi Việt Nam mà cả nhiều nước khác trong tương lai".
Thu Hằng
*******************
Bắc Kinh thúc giục Liên Hiệp Quốc không xem xét đệ trình về thềm lục địa mở rộng của Malaysia (RFA, 17/12/2019)
Trung Quốc vừa chính thức lên tiếng yêu cầu Liên Hiệp Quốc không xem xét hồ sơ xin công nhận thềm lục địa mở rộng ở Biển Đông mà Malaysia mới nộp hôm 12/12, trang tin South China Morning Post loan tin này hôm 17/12.
Bản đồ một phần khu vực Biển Đông nơi Malaysia đăng ký phần thềm lục địa mở rộng Courtesy of Twitter Greg Poling
Phái đoàn thường trực của Trung Quốc ở Liên Hiệp Quốc đã gửi một thông báo ngoại giao cho Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Antonio Guterres hồi tuần trước, thúc giục Ủy ban về giới hạn thềm lục địa (CLCS) của UN không xem xét hồ sơ của Malaysia.
Thông báo có đoạn viết : "Trung Quốc có vùng nội thủy, lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải căn cứ theo các đảo ở Biển Đông ; Trung Quốc có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Trung Quốc có quyền lịch sử ở Biển Đông".
Trung Quốc cho rằng việc Malaysia đệ trình hồ sơ này đã "vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Trung Quốc, quyền chủ quyền và quyền tài phán (của Trung Quốc) ở Biển Đông.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm 16/12 cũng cho biết nước này đã chính thức gửi phản đối tới phía Malaysia và cho rằng Malaysia đã vi phạm các nguyên tắc quan hệ quốc tế.
Hồ sơ đệ trình mới của Malaysia bao gồm phần thềm lục địa nằm bên ngoài vùng 200 hải lý ở phía bắc khu vực Biển Đông.
Hồi tháng 5 năm 2009, Malaysia và Việt Nam cũng đã đệ trình một hồ sơ về phần thềm lục địa của hai nước ở phía nam Biển Đông lên UN, và cũng gặp phải sự phản đối của Bắc Kinh.
Bắc Kinh đòi chủ quyền toàn bộ đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, đồng thời cho rằng các quần đảo này có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Vì vậy, Bắc Kinh cho rằng thềm lục địa mở rộng mà Malaysia đăng ký đã chồng lấn lên vùng 200 hải lý quanh các quần đảo này.
Trong phán quyết của Tòa Trọng tài Quốc tế hồi năm 2016, các quần đảo này không thể có vùng đặc quyền kinh tế.
Trung Quốc tính lập nhóm tác chiến gồm hai tàu sân bay, đe dọa Đài Loan, Biển Đông ? (VOA, 19/12/2019)
Tàu sân bay mới của Trung Quốc, tàu Sơn Đông, có thể kết hợp với chiếc Liêu Ninh, tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc, hình thành một đội tàu sân bay tác chiến sẽ cắt đứt đường tiếp cận của các tàu quân sự nước ngoài và cô lập đảo Đài Loan.
Tàu sân bay đầu tiên sản xuất nội địa của Trung Quốc rời cảng Đại Liên trong chuyến chạy thử ngày 14/11/2019. Reuters/Stringer
Tạp chí quân sự Naval and Merchant Ship có trụ sở ở Bắc Kinh viết rằng thay vì chiến đấu đơn độc, tàu Sơn Đông sẽ hợp tác với tàu Liêu Ninh để tạo ra một nhóm tác chiến hùng mạnh hơn hầu ngăn chặn các tàu Mỹ và Nhật tiếp cận đảo Đài Loan, khi các tàu này tới hỗ trợ các lực lượng đòi độc lập.
Tạp chí này còn nói rằng các chiến đấu cơ của nhóm tàu tác chiến mới còn có nhiệm vụ ngăn, không cho các máy bay thả bom tầm xa của Mỹ cất cánh lên từ căn cứ không quân trên đảo Guam. Mục đích là để chặn máy bay Mỹ tấn công các đội hình vận tải đổ bộ của Quân đội Giải Phóng Nhân dân Trung Quốc và tàu ngầm Trung Quốc.
Chuyên gia quân sự ở Bắc Kinh Zhou Chenming đồng ý, nói rằng nhóm tàu tác chiến sẽ là một "tấm khiên đỡ lớn hơn", cho phép Trung Quốc cản đường bất kỳ hạm đội nước ngoài nào có ý định can thiệp vào tình hình Đài Loan.
Ông Zhou nói : "Kết hợp với nhau, hai tàu sân bay có thể triển khai gần 30 chiến đấu cơ J-15, tấn công bất cứ máy bay chiến đấu nào từ các nhóm tàu tác chiến Mỹ".
Nhưng chuyên gia này nói thêm rằng nhóm tàu tác chiến sân bay hoàn toàn là một đội hình tác chiến có tính cách phòng vệ - và không đủ mạnh để tấn công các quốc gia khác trong khu vực, đặc biệt khi đối đầu với các nhóm tàu sân bay tác chiến Mỹ.
Ông Zhou nói Bắc Kinh coi Đài Loan là một trong các "lợi ích cốt lõi" của Trung Quốc và sẽ không từ bất cứ cố gắng nào để duy trì tính toàn vẹn lãnh thổ, nếu Đài Loan tuyên bố độc lập.
Một bài báo đăng trên tờ The Japan Times cũng nói về Sơn Đông, tàu sân bay đầu tiên được Trung Quốc sản xuất ở trong nước, nói rằng tàu này sẽ là một thách thức đối với các tàu Mỹ, Nhật và đối với Đài Loan, chứ không chỉ là một biểu tượng của uy tín và sức mạnh mới của Trung Quốc.
Ngoài Đài Loan, Tàu Sơn Đông còn tập trung vào các vùng biển đang trong vòng tranh chấp ở Biển Đông, theo một bài bình luận tải lên trang mạng xã hội có liên hệ với tờ báo Nhân dân của Đảng cộng sản Trung Quốc hôm thứ Tư 18/12.
Bài viết có đoạn : "Nhóm máy bay chiến đấu do tàu Sơn Đông dẫn đầu có thể được triển khai tới Biển Đông. Có phần chắc nhóm tác chiến này có thể trực diện với các tàu quân sự nước ngoài", theo bài viết, "Tàu Sơn Đông đã được thiết kế để chế ngự cả vùng biển lẫn vùng trời".
Nhà bình luận quân sự đến từ Hồng Kông Song Zhongping nói nhóm tác chiến gồm hai tàu sân bay còn giúp cho Quân đội Giải Phóng Nhân dân Trung Quốc chiếm được ưu thế quân sự trên Biển Đông, nơi mà một số nước đang tranh giành chủ quyền với Trung Quốc, gồm có Việt Nam, Philippines, Malaysia, Myanmar và Đài Loan.
******************
Việt Nam hy vọng Trung Quốc kiềm chế ở Biển Đông trong năm 2020 (RFA, 17/12/2019)
Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Quốc Dũng mới đây lên tiếng bày tỏ hy vọng của Việt Nam rằng trong năm 2020 Trung Quốc sẽ kiềm chế không có các hành động vi phạm ở Biển Đông như năm 2019.
Tàu sân bay tự đóng có tên Sơn Đông của Trung Quốc ở cảng Đại Liên hôm 13/5/2018 - AFP
Theo Reuters, ông Dũng phát biểu điều này tại một buổi thuyết giảng ở Viện Nghiên cứu Đông Nam Á tại Singapore.
Trong nhiều tuần từ giữa tháng 6 đến khoảng cuối tháng 10 năm nay, Trung Quốc đã điều hàng chục tàu hải cảnh, dân binh và tàu khảo sát vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, bất chấp những phản đối của Việt Nam và lên án của quốc tế.
Thứ trưởng Nguyễn Quốc Dũng nói "những gì mà Trung Quốc làm là rất đáng báo động và cũng là một dạng đe dọa không chỉ đối với Việt Nam mà còn cả với các quốc gia khác, những nước nhìn thấy khả năng bị đe dọa trong tương lai”.
Ông Dũng nói, trong vai trò là Chủ tịch luân phiên của ASEAN 2020, Việt Nam hy vọng Trung Quốc sẽ kiềm chế các hành động của mình.
Trung Quốc là nước đòi chủ quyền phần lớn khu vực Biển Đông với đường đứt khúc 9 đoạn nước này tự vẽ ra trên biển.
Ngoài Trung Quốc, một số nước ASEAN khác bao gồm Việt Nam cũng đòi chủ quyền ở khu vực này. Tuy nhiên trong các tuyên bố chung của mình, ASEAN từ trước đến nay chưa bao giờ chỉ đích danh Trung Quốc là người leo thang căng thẳng ở Biển Đông.
Thứ trưởng Nguyễn Quốc Dũng nói rằng không phải các nước ASEAN ủng hộ các hành động của Trung Quốc mà chỉ là các nước phản đối theo các cách khác nhau.
Cũng tin liên quan, Trung Quốc hôm 17/12 đã bàn giao tàu sân bay thứ nhì của nước này cho hải quân trong một buổi lễ có sự tham dự của Chủ tịch Tập Cận Bình ở tỉnh Hải Nam.
Tàu mới có tên Sơn Đông là chiếc hàng không mẫu hạm đầu tiên do Trung Quốc tự đóng.
Chiếc tàu sân bay đầu tiên của Hải quân Trung Quốc là tàu Liêu Ninh, được bàn giao vào năm 2012. Tàu Liêu Ninh do Liên Xô đóng và được Trung Quốc mua lại từ Ukraina hồi năm 1998. Tàu sau đó được chuyển về cảng Đại Liên và tân trang lại.
Truyền hình Trung Quốc (CCTV) hôm 17/12 tường thuật buổi lễ bàn giao tàu Sơn Đông cho biết, tham dự buổi lễ có các quan chức thuộc Bộ tư lệnh Quân khu miền Nam, là đơn vị trực tiếp giám sát tình hình Biển Đông.
Tàu Sơn Đông, trước đó được đặt ký hiệu là 001A, đã thực hiện những chuyến chạy thử và tập dượt ở eo biển Đài Loan, rồi sau đó ra khu vực Biển Đông hồi tháng trước.
Tàu Sơn Đông có khả năng chứa tới 36 chiếc máy bay chiến đấu J-15, trong khi tàu Liêu Ninh chỉ có sức chứa là 24 chiếc.
*******************
Tàu sân bay Sơn Đông do Trung Quốc chế tạo chính thức đi vào hoạt động (VOA, 17/12/2019)
Tàu sân bay đầu tiên do Trung Quốc chế tạo trong nước có tên là Sơn Đông (Shandong) đã được chuyển giao cho hải quân hôm 17/12, hãng tin Reuters dẫn truyền thông nhà nước Trung Quốc loan tin.
Tàu sân bay đầu tiên do Trung Quốc chế tạo trong nước có tên là Sơn Đông (Shandong) đã được chuyển giao cho hải quân hôm 17/12.
Chiếc hàng không mẫu hạm đã được Chủ tịch Tập Cận Bình chính thức lập biên chế tại thành phố Tam Á, tỉnh Hải Nam vào hôm 17/12, theo trang South China Morning Post.
Việc tàu sân bay Sơn Đông được đưa vào hoạt động là một cột mốc quan trọng trong nỗ lực xây dựng sức mạnh hải quân của Trung Quốc, điều mà các nước láng giềng và Mỹ vẫn theo dõi với ánh mắt hoài nghi.
Đài truyền hình nhà nước CCTV cho hay buổi lễ khánh thành có sự tham dự của các quan chức từ Bộ Tư lệnh Tác chiến Miền Nam của Quân đội Giải Phóng Nhân dân Trung Quốc, cơ quan giám sát khu vực Biển Đông đầy nhạy cảm và mang tính chiến lược.
Ông Tập chủ trì lễ duyệt binh danh dự và gặp gỡ các nhân viên phục vụ trên tàu chiến. Các quan chức cấp cao khác, bao gồm Phó Thủ tướng Lưu Hạc (Liu He); ông Đinh Tiết Tường (Xu Xuexiang), Chánh văn phòng Chủ tịch Tập Cận Bình; ông Hà Lập Phong (He Lifeng), nhà hoạch định kinh tế hàng đầu của Trung Quốc; ông Lý Tác Thành (Li Zuocheng), Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc, cũng có mặt tại buổi lễ.
Vào tháng trước, con tàu trước đây được gọi là tàu Type 001A, đã đi qua eo biển Đài Loan ‘để thực hiện các thử nghiệm khoa học và đào tạo’ và sau đó hướng ra Biển Đông.
Tàu sân bay Sơn Đông trước đây dự kiến được đưa vào vận hành chính thức vào tháng 4 vừa rồi. Nhưng giai đoạn thử nghiệm của nó mất nhiều thời gian hơn so với dự tính, khiến một số nhà quan sát quân sự nghĩ rằng con tàu đã gặp sự cố kỹ thuật, theo the South China Morning Post.
Tàu sân bay Sơn Đông đã bắt đầu chạy thử nghiệm trên biển đầu tiên vào tháng 5/2018.
Năm 2012, tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc có tên là Liêu Ninh, đã đi vào hoạt động sau khi được trang bị thêm và hoàn thành các thử nghiệm trên biển.
**************
Máy bay chiến đấu Trung Quốc diễn tập trinh sát trên Biển Đông (VOA, 17/12/2019)
Global Times, tức Hoàn Cầu Thời báo, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc, cho biết một đơn vị không hải quân thuộc Bộ Tư lệnh Tác chiến Miền Nam của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã hoàn tất một cuộc diễn tập trinh sát cảnh báo sớm dài ngày, trong đó những người tham gia xác định được hơn 10 loại tín hiệu vô tuyến của ‘kẻ thù’.
Tư liệu : Chiến đấu cơ SU-27 của Trung Quốc. Ảnh chụp ngày 114/2014. (Japan Defense Ministry)
Ông Yan Liang, Tư lệnh của một sư đoàn xác định các cuộc tập trận cảnh báo sớm đã được tiến hành hồi năm ngoái, Ông nói :
"Khác với cuộc diễn tâp năm ngoái, cuộc tập trận năm nay có thời gian dài hơn nhiều, và được đặt vào vị thế tác chiến ngay từ đầu, đồng thời tập trung huấn luyện vào ban đêm.
Global Times nói rằng các cuộc tập trận như thế này liên tục thách thức các giới hạn của nhân lực và trang thiết bị, đồng thời nâng cao khả năng chiến đấu của quân đội Trung Quốc trong các tình huống khẩn cấp.
Cuộc tập trận được tổ chức từ giữa tháng 11 và có sự tham gia của hai nhóm máy bay chiến đấu. Trong cuộc tập trận, nhóm máy bay chiến đấu thứ nhất chia sẻ tin tình báo với nhóm chiến đấu cơ thứ hai, sau đó nhóm nhận tin tình báo được phái đi tìm kiếm và thu thập thông tin về một nhóm mục tiêu trên biển, theo bản tin.
Một sĩ quan giấu tên từ cùng một sư đoàn cho biết, không quân Trung Quốc đã chuyển đổi cách tiếp cận của họ, từ thụ động sang chủ động. Ông này nói rằng hiện nay "hai chữ được dùng thường xuyên nhất trong các cuộc diễn tập của chúng tôi là ‘khó khăn’ và ‘tình báo’. Chúng tôi đã lên kế hoạch chi tiết để tránh những rủi ro và nguy hiểm trong mỗi cuộc tập trận.
Theo ông Zhou Chenming, một chuyên gia quân sự có trụ sở tại Bắc Kinh thì cuộc tập trận lần này trái ngược hẳn với các cuộc tập trận trước đó, khi máy bay chiến đấu được thông báo trước về các ‘đối thủ’ và những hiểm nguy mà họ có thể gặp phải.
Ông Zhou nói đây là một trong những thay đổi cần thiết đối với không quân Trung Quốc, vốn đã hoàn thành giai đoạn hiện đại hóa ban đầu, đòi hỏi phải tăng cường khả năng chiến đấu trong tình huống đối đầu gần giống với thực tế, theo ông.
Bộ Tư lệnh Tác chiến Miền Nam của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc chủ yếu hoạt động ở Biển Đông.
Hoa Kỳ đã thực hiện ít nhất 85 cuộc tập trận quân sự chung với các đồng minh ở khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương trong năm 2019 giữa lúc Washington đang tìm cách chống trả sự trỗi dậy của Bắc Kinh, đặc biệt ở Biển Đông, theo Sáng kiến Tình hình Chiến lược Biển Đông, một think-tank thuộc Đại học Bắc Kinh.
Tổ chức tư vấn chiến lược và chính sách này nhận định :
"Thông qua các cuộc tập trận đó, Hoa Kỳ đang tăng cường khả năng tương tác với các quốc gia khác và tăng cường sự hiện diện quân sự để kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc trong tư cách một cường quốc hàng hải"
Vẫn theo think-tank của Trung Quốc thì trong thời gian sắp tới, có khả năng Hoa Kỳ sẽ tổ chức thêm nhiều cuộc tập trận để nâng cáo các khả năng chiến đấu cốt lõi nhằm đối phó với điều mà họ tin là những mối đe dọa đối với an ninh khu vực."
******************
Biển Đông : Bắc Kinh tập trận không quân sẵn sàng trước "đụng độ bất ngờ" (RFI, 16/12/2019)
Quân đội Trung Quốc nâng cấp tập trận để sẵn sàng đối phó với "đụng độ bất ngờ" tại Biển Đông với Mỹ và đồng minh. Trên đây là thông tin báo chí Hồng Kông loan tải hôm nay, 16/12/2019.
Bức ảnh được chụp vào ngày 02/01/2017 cho thấy các máy bay chiến đấu J-15 của Trung Quốc được phóng từ tàu sân bay Liêu Ninh trong các cuộc tập trận quân sự ở Biển Đông. STR / AFP (Ảnh minh họa)
Báo Hồng Kông South China Morning Post dẫn lại bản báo cáo, được đăng tải trên nhật báo của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc hôm qua 15/12, theo đó, một cuộc tập trận đặc biệt đã được tiến hành vào giữa tháng 11/2019. Hai đơn vị không quân chiến đấu trên biển thuộc Chiến Khu Miền Nam Trung Quốc tham gia vào cuộc tập trận này.
Theo chỉ huy của một trong hai đơn vị tham gia tập trận, thì khác hẳn với cuộc tập trận hồi năm ngoái, đợt tập trận diễn ra vào ban đêm này, đặt các quân nhân vào trạng thái chuẩn bị "giáp trận ngay từ đầu", thời gian tập trận "kéo dài hơn nhiều". Tình huống này đẩy xa hơn giới hạn tâm lý của các binh sĩ, nâng cao khả năng sẵn sàng. Trong bài tập hồi tháng trước, các quân nhân Trung Quốc học cách định dạng hơn 10 loại tín hiệu radar của "kẻ địch".
Theo chuyên gia quân sự Trung Quốc Zhou Chenming, tại Bắc Kinh, được báo Trung Quốc trích lời, loại hình luyện tập này là cần thiết, vì cho phép các binh sĩ sẵn sàng đáp trả trước các tình huống đụng độ gần với chiến tranh thực sự.
South China Sea Strategic Situation Probing Initiative, một trung tâm tư vấn thuộc Đại học Bắc Kinh, cho biết trong năm 2019, Hoa Kỳ đã tiến hành ít nhất 85 cuộc tập trận với các đối tác tại khu vực. Nhờ các cuộc tập trận này, quân đội Mỹ tăng cường được khả năng phối hợp với các nước, củng cố năng lực ngăn chặn đà bành trướng quân sự của Trung Quốc. Năm tới, trung tâm tư vấn Đại học Bắc Kinh dự đoán Washington có thể tổ chức nhiều tập trận hơn để đối phó với các mối đe dọa làm bất ổn an ninh khu vực.
Căng thẳng đặc biệt gia tăng tại Biển Đông trong những tháng vừa qua, với việc Trung Quốc đưa tàu thăm dò, được tuần duyên hộ tống, vào khu vực thềm lục địa của Việt Nam, suốt ba tháng. Trước các hành động lấn lướt của Trung Quốc, Washington lên tiếng tố cáo Bắc Kinh leo thang căng thẳng, ngăn chặn Hà Nội khai thác dầu khí.
Không chỉ Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ đầu tháng này cũng thống nhất tập trận không quân chung lần đầu tiên, để đối phó với các đe dọa từ Trung Quốc.
Trọng Thành
Một trong những sự kiện đáng chú ý nhất trong thời sự Việt Nam năm 2019, đó là áp lực ngày càng tăng của Trung Quốc đối với Việt Nam trên Biển Đông, thể hiện qua vụ Bắc Kinh đưa tàu khảo sát xâm nhập khu vực Bãi Tư Chính, nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Tàu Trung Quốc dùng tốc độ cao, vây ép và đâm vào mạn phải tàu kiểm ngư Việt Nam - Ảnh minh họa
Trong khoảng thời gian từ ngày 04/07 đến 24/10/2019, Trung Quốc đã điều tàu Hải Dương Địa Chất 8 đến tiến hành 4 cuộc khảo sát địa chất trong vùng biển 200 hải lý của Việt Nam, có lúc tiến gần bờ biển tỉnh Phú Yên khoảng hơn 65 hải lý. Trong cùng thời gian đó, tàu Hải Cảnh 35111 của Trung Quốc quấy nhiễu hoạt động của giàn khoan Nhật Bản Hakyryu-5 do một công ty liên doanh Việt – Nga sử dụng tại Lô 06.01 nằm cách bờ biển Việt Nam 190 hải lý.
Đối với Hà Nội, rõ ràng đây là một mưu toan của Bắc Kinh nhằm biến "vùng biển không tranh chấp" thành "vùng biển tranh chấp", lấy cớ để ngăn chặn các nước ven bờ hợp tác với các công ty dầu khí quốc tế trong khu vực này.
Căng thẳng chỉ giảm bớt sau khi Trung Quốc cho rút tàu khảo sát của họ ra khỏi vùng biển Việt Nam hôm 23/10. Sau đó, vào cuối tháng 11, một phái đoàn do thứ trưởng ngoại giao Lê Hoài Trung dẫn đầu đã qua Bắc Kinh để thảo luận về những vấn đề quan hệ song phương, trong đó có Biển Đông. Bản thông cáo cho biết là phía Việt Nam đã "nêu rõ lập trường" của mình về Biển Đông, nhưng xác định rằng hai bên nhất trí "xử lý thỏa đáng các bất đồng" để duy trì ổn định trong khu vực. Bản thông cáo cũng không đề cập đến vụ Bãi Tư Chính.
Trong bài viết đề ngày 06/12/2019, đăng trên trang mạng East Asia Forum, ông Đỗ Thanh Hải, Học Viện Ngoại Giao Việt Nam, nhận định về căng thẳng Biển Đông năm nay :
"Việt Nam chưa bao giờ loại trừ giải pháp quân sự để phòng thủ, nhưng rõ ràng dùng đến vũ lực có nghĩa là thất bại về ngoại giao. Mặc dù lực lượng quốc phòng đang trong tư thế sẳn sàng chiến đấu, nhưng chính sách của Hà Nội là tận dụng các biện pháp hòa bình. Các quan chức Việt Nam đã gởi hàng chục công hàm phản đối cho phía Trung Quốc. Trong khi các đối tác ASEAN im hơi lặng tiếng về mặt ngoại giao thì bộ Ngoại Giao Việt Nam đã ra 4 tuyên bố công khai lên án Trung Quốc vi phạm Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển UNCLOS".
Về đối sách của Việt Nam đối với Trung Quốc trong vụ Tư Chính, nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp, Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore nhận định :
"Nhiều người cho rằng trong trường hợp này, Việt Nam tương đối đã kềm chế và phản ứng có vẻ yếu ớt hơn rất nhiều so với vụ Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam năm 2014. Cũng đã có những chỉ trích nhất định đối với cách ứng xử của Việt Nam.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào phản ứng của hai bên và so sánh với năm 2014, chúng ta có thể hiểu được ít nhiều tại sao lần này Việt Nam lại hành xử như vậy và không có những phản ứng quyết liệt như vào 2014.
Trong trường hợp này, chúng ta có hai lựa chọn. Thứ nhất là điều các tàu Việt Nam ra ngăn chặn, cản trở các hành vi vi phạm của phía Trung Quốc, như trong trường hợp năm 2014. Thứ hai là dùng các biện pháp phản đối ngoại giao và kiên nhẫn chờ Trung Quốc rút tàu vì một lý do nào đó. Có lẻ Việt Nam đã cân nhắc thiệt hơn và cho rằng chọn phương án thứ hai thì hợp lý hơn, vì những lý do như sau :
Nếu sử dụng phương án thứ nhất thì sẽ đẩy căng thẳng lên cao và có thể dẫn tới các phản ứng tiêu cực, như các cuộc biểu tình, bạo loạn chống Trung Quốc năm 2014. Đây là điều Việt Nam rất muốn tránh.
Thứ hai là, trong trường hợp Việt Nam đưa các tàu ra đâm, va vào tàu của Trung Quốc, do tương quan lực lượng thì Việt Nam yếu hơn, số lượng tàu ít hơn, cho nên có thể gây ra các thiệt hại cho lực lượng Việt Nam, mà lại không nhất thiết dẫn đến các kết quả mà Việt Nam mong muốn.
Thứ ba, tôi nghĩ cũng là nguyên nhân quan trọng, đó là so với vụ Trung Quốc năm 2014 hạ đặt giàn khoan lên vùng biển của Việt Nam, trường hợp tàu khảo sát của Trung Quốc, mặc dù đi ra đi vào rất là ngang nhiên, trắng trợn, nhưng hành động khảo sát ấy không nghiêm trọng bằng việc hạ đặt giàn khoan, không tới mức mà Việt Nam phải hành động cứng rắn.
Như chúng ta đã thấy, sau hơn 3 tháng thì Trung Quốc đã rút tàu khảo sát và tình hình đã trở lại nguyên trạng như lúc trước khi xảy ra vụ việc. Mặc dù vậy, rất có nhiều khả năng là trong thời gian tới, phía Trung Quốc sẽ tiếp tục có những hành động gây hấn, xâm phạm vùng biển Việt Nam. Việt Nam cũng phải suy nghĩ thêm những cách đối phó khác hiệu quả hơn những sự vi phạm trở lại của Trung Quốc đối với các vùng biển của Việt Nam".
Căng thẳng Việt Trung đã lên cao đến mức mà vào đầu tháng 11 vừa qua, thứ trưởng Ngoại Giao Việt Nam Lê Hoài Trung đã tuyên bố, nếu các nỗ lực ngoại giao thất bại, chính phủ Việt Nam có thể sẽ sử dụng các cơ chế pháp lý quốc tế để ngăn chặn đà bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông. Đây cũng là đòi hỏi của công luận Việt Nam trong những tháng qua. Thế nhưng, vì sao Hà Nội chưa đưa vấn đề ra trước tòa án quốc tế, nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp giải thích :
"Lựa chọn về mặt pháp lý, tức là đưa Trung Quốc ra một tòa trọng tài quốc tế để phân xử vẫn là lựa chọn mà Việt Nam đang suy nghĩ, cân nhắc và tôi hiểu là cũng cần có một sự chuẩn bị nhất định. Tuy nhiên, trong vụ Tư Chính cũng như trong các vụ việc khác, Việt Nam vẫn kềm chế và chưa áp dụng biện pháp này.
Thứ nhất, kiện về vấn đề nào, kiện ở tòa án nào vẫn là vấn đề còn gây tranh cãi và có thể là chưa có sự đồng thuận trong phía Việt Nam để làm sao phương án này mang lại hiệu quả tối ưu cho Việt Nam, đồng thời giảm thiểu những hệ lụy về mặt chính trị, về mặt pháp lý mà Việt Nam có thể phải gánh chịu.
Thứ hai, biện pháp pháp lý, cho dù có thể mang lại chiến thắng cho Việt Nam, nhưng tác dụng thực tế có thể không như mong đợi. Chúng ta có thể nhìn vào vụ Philippines kiện Trung Quốc. Mặc dù Philippines thắng kiện, nhưng điều đó không mang lại tác dụng tích cực, tức thì cho phía Philippines và Trung Quốc vẫn tiến hành các vi phạm như chưa từng có phán quyết đó.
Trong trường hợp của Việt Nam cũng vậy, nếu Việt Nam thắng kiện thì chưa chắc đã đảo ngược được tình thế và Trung Quốc sẽ tiếp tục làm ngơ phán quyết đó và tiếp tục vi phạm các vùng biển của Việt Nam. Trong khi đó, nếu Việt Nam kiện Trung Quốc thì sẽ khiến quan hệ song phương xấu đi rất nhiều. Tôi nghĩ phía lãnh đạo Việt Nam chưa sẳn sàng chấp nhận rũi ro này, vì nó có thể gây ra nhiều hệ lụy, nhiều tác động mà có thể phía Việt Nam chưa lường trước được hoặc chưa sẳn sàng để đối phó.
Việt Nam vẫn tiếp tục cân nhắc hành động pháp lý, nhưng đang trì hoãn thời điểm để thực hiện biện pháp đó và có thể sử dụng trong bối cảnh tương lai, khi mà thời điểm đã chín mùi hoặc là khi mà Việt Nam không có lựa chọn nào khác khả dĩ hơn để đối phó với các vi phạm của Trung Quốc".
Sách trắng quốc phòng mới của Việt Nam được công bố vào tháng 11 cũng phản ánh mối lo ngại về nguy cơ Trung Quốc xâm lăng, như nhận định của chuyên gia phân tích cao cấp Lê Thu Hương, thuộc Viện Chính sách Chiến lược Australia (ASPI) trong một bài viết đăng trên trang mạng Foreign Policy ngày 06/12/2019.
Theo nhận xét của bà Lê Thu Hương, Sách trắng Quốc phòng đầu tiên từ 10 năm qua không nêu chi tiết về những thay đổi trong cơ cấu và tổ chức lực lượng quân sự Việt Nam và chỉ nói sơ qua về chi tiêu quân sự tính theo tỷ lệ trên GDP. Nhưng điều đáng quan tâm nhất đó là Sách trắng này nói rõ về bối cảnh chiến lược và chiến lược quốc gia để bảo vệ Tổ quốc.
Sách trắng Quốc phòng 2019 của Việt Nam nhấn mạnh tranh chấp Biển Đông là một những yếu tố đe dọa đến ổn định, hòa bình và thịnh vượng của khu vực. Tuy vẫn tránh gọi đích danh bất cứ quốc gia nào, nhưng so với Sách trắng 2009, tài liệu mới nêu rõ :
"Những diễn biến mới trên Biển Đông, trong đó có các hành động đơn phương, áp đặt dựa trên sức mạnh, bất chấp luật pháp quốc tế và các hoạt động quân sự hoá, làm thay đổi nguyên trạng, xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam theo luật pháp quốc tế, ảnh hưởng đến lợi ích của các quốc gia liên quan, đe dọa hoà bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trong khu vực".
Chuyên gia Lê Thu Hương còn ghi nhận một điểm mới trong Sách trắng Quốc phòng 2019 : "Việt Nam không chấp nhận hợp tác quốc phòng dưới áp lực hoặc dưới những điều kiện áp đặt nào". Điều này có nghĩa là Việt Nam bác bỏ mọi quan hệ đối tác bất lợi cho mình và khẳng định quyền tự chủ trong quyết định về các mối quan hệ quốc phòng và về các lợi ích an ninh, nhưng vẫn để mở cửa cho các hợp tác thân thiện để bảo vệ biên giới trên biển cũng như trên bộ. Lập trường này ngầm bác bỏ lập trường của Trung Quốc về Biển Đông, vốn chỉ muốn giải quyết tranh chấp trên cơ sở song phương, không chấp nhận các giải pháp đa phương, cũng như sự can dự của một nước thứ ba, như Hoa Kỳ.
Việc Trung Quốc gia tăng áp lực lên Việt Nam càng khiến Hà Nội xích gần lại Washington, nhưng Việt Nam trong thời gian tới sẽ vẫn duy trì chính sách "ba không", theo nhận định của nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp :
"Theo tôi, Việt Nam vẫn kiên trì chính sách "ba không", như Sách trắng Quốc phòng 2019 vừa đề cập. Nhưng đó là về mặt chính thức, còn trên thực tế Việt Nam không để cho chính sách "ba không"ràng buộc, trói tay mình trong việc phát triển quan hệ hợp tác với các đối tác khác, để giúp Việt Nam có một ưu thế chiến lược tốt hơn trên Biển Đông và có thể cân bằng lại các sức ép của Trung Quốc. Chính vì vậy, trong thời gian qua, một mặt Việt Nam vẫn duy trì và tuyên truyền chính sách "ba không", mặt khác vẫn kiên trì mở rộng và làm sâu sắc hơn hợp tác quốc phòng với một số cường quốc chủ chốt, có chung các lợi ích chiến lược với Việt Nam trên hồ sơ Biển Đông, đặc biệt là Hoa Kỳ và Nhật Bản.
Cả hai nước này đều đã hỗ trợ Việt Nam rất nhiều trong việc xây dựng năng lực hàng hải để giúp Việt Nam đối phó tốt hơn với Trung Quốc trên Biển Đông. Những nước này cũng hỗ trợ Việt Nam rất nhiều trên mặt trận ngoại giao, cung cấp cho Việt Nam những sự hỗ trợ cần thiết khi Trung Quốc o ép Việt Nam trên Biển Đông.
Tôi nghĩ là trong thời gian tới, xu hướng này sẽ tiếp tục. Việt Nam sẽ cố gắng thúc đẩy hơn nữa hợp tác chiến lược với các cường quốc này, đặc biệt Nhật và Mỹ. Tuy nhiên, do Việt Nam vẫn muốn giữ sự cân bằng giữa Trung Quốc với Mỹ và các cường quốc khác, cũng như do các cam kết của Việt Nam với chính sách "ba không", mặc dù thúc đẩy quan hệ với các cường quốc, nhưng Việt Nam sẽ cố gắng thận trọng về tốc độ, cũng như phạm vi hợp tác, để làm sao vừa nâng cao vị trí chiến lược của mình, đặc biệt là trên Biển Đông, vừa bảo đảm là không bị Trung Quốc nhìn nhận là đã từ bỏ chính sách "ba không" hoặc chọn nghiêng về phía Mỹ và các đồng minh để chống lại Trung Quốc.
Đây sẽ là xu hướng tiếp diễn trong những năm tới và là một sự lựa chọn không hề đơn giản, sẽ có nhiều khó khăn, thử thách đối với Việt Nam trong thời gian tới".
Nhưng Hà Nội cũng ngày càng gặp khó khăn trong việc giữ thế cân bằng giữa hai siêu cường quốc đối địch, đó là nhận định của tờ Asia Times trong một bài viết đăng ngày 04/12/2019.
Lý do là vì, theo Asia Times, Trung Quốc rõ ràng là gây áp lực ngày càng mạnh để buộc Việt Nam từ bỏ các yêu sách chủ quyền trên Biển Đông, đồng thời ngưng thăm dò dầu khí tại các vùng đang tranh chấp. Nhưng đồng thời, Hoa Kỳ cũng phản ứng mạnh mẽ hơn trước những mưu đồ bành trướng của Bắc Kinh ở khắp vùng Châu Á – Thái Bình Dương. Trong các Sách trắng quốc phòng do Lầu Năm Góc công bố, Trung Quốc ngày càng bị chỉ đích danh là kẻ thù của Mỹ.
Nếu Hà Nội không còn giữ tư thế trung lập và ngả theo Trung Quốc nhiều hơn thì họ gần như chắc chắn là sẽ phải từ bỏ một số yêu sách chủ quyền ở Biển Đông, và đổi lại Bắc Kinh chắc là sẽ hứa gia tăng đầu tư và trao đổi mậu dịch với Việt Nam.
Cũng theo Asia Times, về mặt chính trị, ngả hoàn toàn theo Trung Quốc sẽ làm xấu đi hình ảnh của đảng đối với người dân, vốn có tinh thần chống Trung Quốc ngày càng mạnh. Chơi với Mỹ mất chế độ, chơi với Trung Quốc mất nước. Nhưng theo Asia Times, ngả hẳn theo Trung Quốc thật ra sẽ khiến chế độ cộng sản sụp đổ hơn là ngả hẳn theo Mỹ.
Tuy nhiên, Hà Nội chắc là vẫn nghi ngại không biết Hoa Kỳ có sẽ bảo vệ Việt Nam trong trường hợp xung đột vũ trang với Trung Quốc hay không. Nhiều người trong khu vực vẫn còn nhớ là vào năm 2012, Washington đã không có phản ứng gì khi Bắc Kinh chiếm bãi cạn Scarborough từ Philippines, một đồng minh đã ký hiệp định phòng thủ với Hoa Kỳ.
Nguồn : RFI tiếng Việt, 13/12/1019
Biển Đông : Khinh khí cầu do thám của Trung Quốc bị phát hiện trên Đá Vành Khăn (RFI, 30/11/2019)
Bắc Kinh tiếp tục đẩy mạnh tiến trình quân sự hóa Biển Đông. Theo nhật báo Hồng Kông South China Morning Post ngày 28/11/2019, vệ tinh Israel vào trung tuần tháng 11 này, đã phát hiện một vật thể có hình dáng của một chiếc khinh khí cầu ngay bên trên Đá Vành Khăn, một trong 7 tiền đồn mà Trung Quốc đã xây dựng trên các thực thể mà họ chiếm đóng ở Trường Sa.
Đá Vành Khăn (Mischief Reef). Ảnh chụp từ vệ tinh của CSIS@CSIS>
Trong một tin Twitter đề ngày 24/11, công ty vệ tinh ImageSat International (ISI) của Israel đã đăng một ảnh chụp Đá Vành Khăn ngày 18/11/2019, cho thấy hình ảnh một vật thể giống như một chiếc khinh khí cầu màu trắng bên trên Đá Vành Khăn (Mischief Reef), thuộc quần đảo Trường Sa ở Biển Đông của Việt Nam.
Đối với công ty Israel, ảnh vệ tinh này là "bằng chứng đầu tiên về một chiếc khinh khí cầu" đang hoạt động trong khu vực. Thông tin nêu rõ : "Lần đầu tiên một chiếc khinh khí cầu của Trung Quốc, có lẽ dùng để thu thập thông tin tình báo quân sự, đã được nhìn thấy trên Đá Vành Khăn. Việc sử dụng khinh khí cầu cho phép Trung Quốc theo dõi tình hình khu vực một cách liên tục".
Trước đó, tạp chí quốc phòng Hán Hòa (tên tiếng Anh là Kanwa Asian Defense) xuất bản tại Canada, đã tiết lộ rằng Bắc Kinh đã bắt đầu cho chế tạo hệ thống cảnh báo sớm bằng khinh khí cầu vào năm 2017.
Những "quả bóng bay" to lớn này được trang bị radar đặc biệt để phát hiện các mục tiêu bay thấp. Một khinh khí cầu thuộc diện tối tân có thể phát hiện các phương tiện di động cả trên không lẫn trên bộ, trong một phạm vi 300 km. Khinh khí cầu kết hợp với radar mặt đất, vệ tinh và phi cơ do thám cảnh báo sớm có thể tạo thành một mạng lưới giám sát toàn diện.
Theo tạp chí Hán Hòa, khinh khí cầu cảnh báo sớm đang được Trung Quốc triển khai ở một số điểm nóng, như biên giới Bắc Triều Tiên, eo biển Đài Loan.
Và bây giờ là ở Biển Đông. Theo South China Morning Post, khinh khí cầu có ưu điểm là có thể hoạt động trên không trong thời gian kéo dài, cung cấp một giải pháp cảnh báo sớm vừa rẻ vừa hiệu quả trong việc giám sát một khu vực rộng lớn, nhất là ở những nơi mà việc triển khai máy bay cảnh báo sớm khó khăn hơn.
Cách nay đúng 10 ngày, vào hôm thứ Tư 20/11/2019, Hải quân Mỹ đã cho tàu cận chiến duyên hải LCS 10 Gabrielle Giffords tiến vào tuần tra bên trong phạm vi 12 hải lý của Đá Vành Khăn. Rất có thể là sự hiện diện của khinh khí cầu do thám Trung Quốc bên trên thực thể này đã bị Mỹ phát hiện, nhưng không công bố.
Trọng Nghĩa
******************
Việt Nam-Trung Quốc đàm phán về biên giới lãnh thổ (VOA, 28/11/2019)
Từ ngày 26-28/11, tại Bắc Kinh, Trung Quốc, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hoài Trung và Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc La Chiếu Huy tiến hành cuộc gặp giữa hai Thứ trưởng Ngoại giao, hai Trưởng đoàn đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc.
Phái đoàn Việt Nam và Trung Quốc đàm phán về vấn đề biên giới lãnh thổ. Photo TTXVN
Cổng thông tin Chính phủ hôm 28/11 loan tin : "Cuộc đàm phán để trao đổi về quan hệ song phương Việt Nam – Trung Quốc, vấn đề biên giới lãnh thổ giữa hai nước cũng như các vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm", nhưng không nêu chi tiết.
"Hai bên cũng đánh giá cao tình hình biên giới trên đất liền cơ bản ổn định ; các cơ chế đàm phán, trao đổi về vấn đề trên biển tiếp tục được duy trì, một số lĩnh vực hợp tác trên biển đạt tiến triển", báo VietnamPlus cho biết.
Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Lê Hoài Trung hội kiến Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị, ngày 28/11/2019. Photo fmprc.gov.cn
Cổng thông tin Chính phủ nói hai bên tiếp tục hỗ trợ, khuyến khích các địa phương tăng cường giao lưu, hợp tác cùng có lợi ; tiến hành tổng kết 20 năm ký kết Hiệp ước biên giới trên đất liền và 10 năm hoàn thành công tác phân giới cắm mốc toàn tuyến biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc.
"Hai bên đã trao đổi về vấn đề trên biển ; nhất trí thực hiện nghiêm túc nhận thức chung cấp cao, kiểm soát và xử lý thoả đáng bất đồng, góp phần giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định trên Biển Đông", trang Baochinhphu.vn cho biết thêm.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm 27/11 cho biết trong dịp này, Thứ trưởng Lê Hoài Trung đã hội kiến Ủy viên Quốc vụ, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị.
Bộ này trích lời ông Nghị "chúc mừng những kết quả tích cực của cuộc đàm phán giữa hai bên chính phủ về vấn đề biên giới", nhưng cũng không nêu chi tiết.
Trên trang Asia Times ngày 15/11/2019, nhà báo Bertil Lintner nhận định : "Việt Nam và Trung Quốc sẽ không bao giờ đồng thuận về Biển Đông" (1). Những lý do được nhà báo Thụy Điển đưa ra, có thể được tóm lược trong bốn ý chính, nhấn mạnh đến thái độ coi thường luật pháp quốc tế, thiếu trung thực của Trung Quốc, cũng như hành vi cậy lớn ăn hiếp các nước nhỏ trong vùng.
Không quân Trung Quốc luyện tập bắn đạn thật ở Biển Đông. Ảnh do báo Japan Times chụp lại trên truyền hình Trung Quốc ngày 29/09/2018. Capture d'image www.japantimes.co.jp
UNCLOS 1982 : Trung Quốc ký nhưng từ chối áp dụng
Lý do đầu tiên là bất đồng về việc áp dụng luật pháp quốc tế, cụ thể là Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, mà cả Việt Nam và Trung Quốc cùng ký.
Trong hội thảo quốc tế về Biển Đông lần thứ 11, với chủ đề "Hợp tác vì An ninh và Phát triển khu vực", diễn ra tại Hà Nội ngày 06-07/11/2019, thứ trưởng Ngoại Giao Việt Nam Lê Hoài Trung cho rằng những xung đột gần đây ở bãi Tư Chính, thuộc vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, cần được giải quyết theo Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. Hà Nội không loại trừ khả năng đưa vụ việc ra Tòa Trọng Tài Thường trực La Haye.
Ngay ngày 08/11, Bắc Kinh gia tăng sức ép đối với Hà Nội, thông qua phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc Cảnh Sảng (Geng Shuang), khi đe dọa Việt Nam "phải tránh đưa ra những biện pháp làm phức tạp thêm tình hình hoặc gây hại đến hòa bình và ổn định ở Biển Đông, cũng như đến quan hệ song phương". Trơ trẽn hơn, ông Cảnh Sảng còn khuyến cáo Việt Nam "phải đối mặt với thực tế lịch sử", có nghĩa là phải chấp nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với toàn bộ Biển Đông, mà Bắc Kinh một mực khẳng định có từ lâu đời.
Về khả năng Việt Nam đưa vụ việc ra Tòa Trọng tài La Haye nếu như hai bên không tìm được thỏa thuận bất chấp các cuộc đàm phán song phương hiện nay, nhà báo Bertil Lintner nhắc lại, Trung Quốc sẽ không bao giờ chấp nhận phán quyết của Tòa vì đối với Bắc Kinh, phán quyết sẽ đi ngược lại với lợi ích của Trung Quốc.
Trường hợp điển hình chính là phán quyết của Tòa án Trọng tài Thường trực La Haye năm 2016 về đơn kiện của Philippines. Theo Tòa, những yêu sách chủ quyền của Trung Quốc được thể hiện trong bản đồ "đường lưỡi bò" chiếm đến 90% diện tích Biển Đông là không có giá trị xét về mặt luật quốc tế, trong đó có Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. Bắc Kinh bỏ ngoài tai phán quyết không mang tính ràng buộc, dù Trung Quốc đã ký UNCLOS.
Chính phản ứng ngoan cố của Trung Quốc trước những biện pháp của Philippines và Việt Nam buộc cộng đồng quốc tế phải xem xét lại mức độ uy tín của Bắc Kinh trong việc tuân thủ quy định, luật pháp quốc tế.
Trung Quốc : Hứa suông và nuốt lời
Điểm thứ hai : Liệu có nên tin vào những lời hứa của Trung Quốc không ? Bắc Kinh ký UNCLOS, nhưng từ chối áp dụng thông qua sự kiện phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng tài Thường trực La Haye. Chủ tịch Tập Cận Bình trịnh trọng phát biểu với tổng thống Mỹ Barack Obama tháng 09/2015 tại Washington rằng "Trung Quốc không có ý định theo đuổi quân sự hóa" ở Biển Đông.
"Nói một đằng, làm một nẻo", trong nhiều năm liên tiếp, Trung Quốc cứ lặng lẽ bồi đắp các bãi cạn, rạn san hô thành đảo nhân đạo, xây nhà chứa máy bay, đường băng có thể phục vụ máy bay quân sự, trang bị hệ thống radar, xây cảng cho tầu chiến lưu trú, lắp hệ thống tên lửa... Hệ thống cơ sở hạ tầng quân sự này giúp Bắc Kinh chiếm được ưu thế kiểm soát toàn bộ tuyến đường hàng hải huyết mạch của thế giới.
Một ví dụ khác được nhà báo Thụy Điển nêu lên để xác định xem có nên tin vào lới hứa của Bắc Kinh hay không, đó là trường hợp Hồng Kông. Vào tháng 06/2017, người phát ngôn bộ Ngoại Giao Trung Quốc Lục Khảng từng phát biểu : "Hiện giờ Hồng Kông đã quay trở về với mẫu quốc từ 20 năm nay, tuyên bố chung giữa Vương quốc Anh và Trung Quốc, với tư cách là tài liệu lịch sử, không có ý nghĩa thực tế... Tôi hy vọng các bên liên quan ghi nhận thực tế này".
Theo các nhà quan sát ngoại giao trong khu vực, phát biểu của ông Lục Khảng đã trắng trợn bác những điều khoản trong Tuyên bố chung Anh-Trung Quốc được thủ tướng Trung Quốc lúc đó là Triệu Tử Dương (Zhao Ziyang) và thủ tướng Anh Margaret Thatcher ký năm 1984. Theo văn kiện này, Hồng Kông được hưởng quy chế tự trị "một nhà nước, hai chế độ" và sẽ không có gì thay đổi trong giai đoạn 50 năm, cho đến năm 2047. Thực tế đang diễn ra ở Hồng Kông cho thấy điều ngược lại.
Khăng khăng đòi chủ quyền ở Biển Đông... dựa theo truyền thuyết
Trở lại với lời khuyến cáo Việt Nam "phải đối mặt với thực tế lịch sử" của ông Cảnh Sảng, nhà báo Bertil Lintner nhắc lại là những yêu sách đòi chủ quyền trong đường 9 đoạn của Bắc Kinh đã bị Tòa án Trọng tài Thường trực bác bỏ. Các tấm bản đồ cổ của Trung Quốc không biết đến sự tồn tại của những hòn đảo, đá ngầm hiện đang có tranh chấp ở Biển Đông.
Bắc Kinh nêu những chuyến hải trình của Trịnh Hòa (Zhang He, 1371-1433), nhà thám hiểm và thương nhân Trung Quốc ở thế kỷ XV, để biện minh cho đòi hỏi chủ quyền, nhưng Trịnh Hòa chưa đi qua, thậm chí là còn không nhắc đến những hòn đảo đó. Những tài liệu và bản đồ được Trịnh Hòa và Mã Hoan (Ma Huan) sưu tầm ghi danh mục 700 địa điểm ở Đông Nam Á và Ấn Độ Dương, trong đó có nhiều đảo và cảng biển rất xa như quần đảo Andaman và Nicobar, Maldives và Lakshadweep, nhưng không nêu một điểm nào ở Biển Đông.
Nguyên nhân rất đơn giản, vì trên thực tế, đó không phải là những hòn đảo, mà chỉ là những bãi cạn, rạn san hô ngầm rất nguy hiểm, mà các đoàn thuyền vào thời kỳ đó, kể cả tầu của Trịnh Hòa, cũng phải đi vòng để tránh va chạm có nguy cơ làm vỡ tầu. Nhưng dưới tay chính quyền Bắc Kinh hiện nay, những bãi ngầm nửa chìm nửa nổi đó biến thành những hòn đảo nhân tạo.
Cấm quốc tế can thiệp "chuyện nội bộ" - Ỷ mạnh ép các nước Đông Nam Á
Trung Quốc luôn khẳng định, Biển Đông là vấn đề giữa Bắc Kinh và các nước có tranh chấp, là chuyện giữa Trung Quốc với các nước ASEAN và luôn cảnh báo, lên án mọi can thiệp vào "chuyện nội bộ".
Việc Trung Quốc coi thường các công ước, luật pháp quốc tế sẽ không được cộng đồng quốc tế tha thứ. Nhưng, theo nhiều nhà phân tích, cho đến giờ Trung Quốc luôn ỷ mạnh gây sức ép với các nước nhỏ trong vùng.
Phát biểu hôm 09/11 trước các nhà báo Philippines, Dereck Grossman, chuyên gia phân tích của Rand Corporation cho rằng quyết định gần đây của tổng thống Rodrigo Duterte về việc tham gia khai thác dầu khí chung với Trung Quốc ở Biển Đông có thể được diễn giải như là một "phần thưởng" cho việc tạm gác sang một bên phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng tài La Haye. Dĩ nhiên, việc thăm dò khai thác sẽ được tiến hành "theo quy định của Bắc Kinh" và "dưới sự chỉ đạo của Trung Quốc".
Một dấu hiệu khác cho thấy Philippines cúi mình trước Bắc Kinh, đó là vào tháng 11/2019, Manila đã cho đóng dấu vào hộ chiếu in hình bản đồ "đường lưỡi bò", có nghĩa là công nhận bản đồ chính thức của Trung Quốc.
Trong bốn nước Đông Nam Á có chủ quyền chồng chéo với Trung Quốc (Malaysia, Philippines, Việt Nam và Brunei, cùng với Đài Loan), Việt Nam là nước duy nhất mạnh mẽ chống lại sự bành trướng của Trung Quốc ở trong vùng, thông qua việc phản đối, theo dõi sát sao hoạt động của tầu Hải Dương Địa Chất 8 quần thảo trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Vậy mà khi đáp trả những lời phản đối, kêu gọi tôn trọng chủ quyền từ phía Việt Nam, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Cảnh Sảng, chuyển sang vu cáo Việt Nam và các nước có tranh chấp chủ quyền "xâm phạm và chiếm các đảo của Trung Quốc".
Tác giả Bertil Lintner kết luận, với thái độ coi thường trắng trợn các định chế quốc tế, như Tòa Trọng tài Thường trực La Haye, cùng với những lập luận nặng tính dân tộc về các hiệp ước dựa trên luật pháp, quan điểm của Trung Quốc về lịch sử hàng hải ở trong vùng sẽ tiếp tục gây nhiều sóng gió trong tương lai.
(1) Trung Quốc, Việt Nam sẽ không bao giờ đồng thuận về Biển Đông
Tư lệnh Hải quân Pháp : "Luật biển" quốc tế bị đe dọa tại Biển Đông (RFI, 20/11/2019)
Vào lúc Trung Quốc vừa lên tiếng cảnh cáo Mỹ phải dừng việc phô trương sức mạnh tại Biển Đông, phát biểu tại Ấn Độ vào hôm 18/11/2019, đô đốc Christophe Prazuck, tư lệnh Hải quân Pháp đã cho rằng "luật biển quốc tế" đang bị đe dọa ở Biển Đông, và điều đó đã thúc đẩy Pháp "thường xuyên đến Biển Đông" vì muốn cổ vũ cho quyền tự do hàng hải.
Hộ tống hạm Courbet của Pháp ghé Việt Nam hồi tháng 4/2017, trong khuôn khổ "chiến dịch" Jeanne d’Arc. Ảnh : Bộ Quốc Phòng Pháp
Phát biểu tại New Delhi về chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương của Pháp, tư lệnh Hải quân Pháp khẳng định rằng trong tư cách là một quốc gia có vùng đặc quyền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới, nước Pháp không thể lơ là vùng Biển Đông khi luật biển quốc tế bị đe dọa.
Đô đốc Prazuck thừa nhận rằng Trung Quốc đang bành trướng sự hiện diện quân sự trong khu vực, nhưng Pháp cũng là một tác nhân có quyết tâm phát huy một trật tự trên cơ sở tôn trọng luật lệ quốc tế tại vùng Biển Đông.
Đối với đô đốc Pháp : "Hải quân Trung Quốc không hề che giấu tham vọng toàn cầu của họ".
Theo hãng tin Ấn Độ PTI, tư lệnh Hải quân Pháp đã giải thích thêm về các hoạt động của chiến hạm Pháp trong khu vực : "Có nhiều cách hành xử khác nhau ở Biển Đông. Trước hết, tại sao chúng tôi lại đến đó 6, 7 lần trong năm ? Đó là vì luật quốc tế về biển bị đe dọa trong khu vực đó của thế giới. Chúng tôi không muốn can dự vào các tình hình khu vực liên quan đến các đảo, nhưng chúng tôi đến đó và sẽ tiếp tục bằng hành động của mình, hậu thuẫn cho quyền tự do hàng hải".
Tóm lại, đối với đô đốc Prazuk, dù nước Pháp ở xa Biển Đông, nhưng rõ ràng vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương là một ưu tiên của Pháp. Hải quân Pháp, theo ông, đang tiến tới việc cùng phối hợp với Hải quân Ấn Độ để tuần tra chung kể từ năm tới 2020.
Mai Vân
***************
Hoa Kỳ sẽ cung cấp cho Việt Nam thêm tàu tuần tra để bảo vệ Biển Đông (RFA, 20/11/2019)
Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, Mark Esper, vào ngày 20 tháng 11, tiết lộ thông tin phía Mỹ sẽ cung cấp cho Việt Nam thêm một tàu tuần duyên mới để tăng cường khả năng tuần tra Biển Đông vào khi căng thẳng với Trung Quốc gia tăng.
Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam (phải) và Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ (trái) trong lễ đón tại Hà Nội ngày 20/11/2019 - AFP
Reuters loan tin dẫn phát biểu của ông Mark Esper đưa ra khi có mặt tại Hà Nội trong chuyến công du chính thức Việt Nam ở cương vị người đứng đầu ngành quốc phòng Hoa Kỳ như vừa nêu.
Chiếc tuần duyên mới mà Hoa Kỳ sẽ cung cấp cho Việt Nam là chiếc thứ hai từ Lực Lượng Tuần Duyên Mỹ chuyển cho Hà Nội. Cách đây 2 năm phía Tuần Duyên Hoa Kỳ giao cho Hải quân Việt Nam chiếc tàu lớp Hamilton.
Sau hơn 4 thập niên kết thúc cuộc chiến Việt Nam, mối quan hệ giữa Washington và Hà Nội ngày càng tập trung vào chia sẻ những mối quan tâm chung về sự bành trướng của Trung Quốc.
Trong bài nói chuyện với sinh viên Học Viện Ngoại Giao Việt Nam ở Hà Nội, ông Mark Esper tố cáo Trung Quốc hiếp đáp những nước láng giềng như Việt Nam. Ông nói rõ những nỗ lực đơn phương của Trung Quốc trong tuyên bố chủ quyền hàng hải phi pháp đe dọa việc các nước khác tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên thiết yếu, làm phương hại đến ổn định thị trường năng lượng khu vực, gia tăng nguy cơ xung đột.
Theo truyền thông Nhà nước Việt Nam thì trong cuộc hội đàm giữa bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Mark Esper và người tương nhiệm Việt Nam Ngô Xuân Lịch thì hai bên thống nhất tiếp tục đẩy mạnh các nội dung hợp tác đã xác định trong bản ghi nhớ về thúc đẩy hợp tác quốc phòng ký năm 2011, tuyên bố tầm nhìn chung về quan hệ quốc phòng ký năm 2015 và kế hoạch hợp tác giai đoạn 2018-2020.
******************
Mỹ tặng thêm một tàu tuần duyên cho Việt Nam (VOA, 20/11/2019)
Hôm 20/11, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Mark Esper bắt đầu chuyến công du chính thức đến Việt Nam, hội đàm với Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch tại Hà Nội, và tuyên bố cung cấp cho Việt Nam thêm một tàu tuần tra biển vào năm 2020.
Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Mark Esper (phải) và Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Ngô Xuân Lịch, Hà Nội, 20/11/2019.
Phát biểu tại Học viện Ngoại giao, ông Mark Esper cho rằng Mỹ cũng giống như Việt Nam, có mối quan tâm lớn về an ninh liên quan đến Biển Đông : "Mỹ sẽ không quay lưng nếu thấy một nước nào có hành vi ngang ngược, áp đặt đối với các nước khác tại khu vực Biển Đông".
Trước đó, vào ngày 16/12/2017, tại tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Cảnh sát biển Vùng 3, thuộc Bộ Tư lệnh cảnh sát biển Việt Nam, đã tổ chức lễ tiếp nhận tàu tuần duyên Morgenthau thuộc Lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ, được chuyển giao cho Cảnh sát biển Việt Nam hồi tháng 5, trước chuyến thăm Washington của Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc.
Tàu tuần duyên bàn giao cho Việt Nam năm 2017 là tàu thuộc lớp Hamilton thứ 8 được đóng tại nhà máy Avondale, New Orleans, bang Louisiana, Hoa Kỳ.
*****************
Mark Esper : Mỹ gia tăng tuần tra tại Biển Đông để cảnh báo Trung Quốc (RFI, 20/11/2019)
Trong chuyến viếng thăm hai nước Đông Nam Á là Philippines và Việt Nam, bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Mark Esper đưa ra thông điệp : Mỹ không để cho Trung Quốc dùng vũ lực uy hiếp các nước trong vùng. Những nước bị Bắc Kinh lấn áp chủ quyền phải mạnh mẽ lên tiếng.
Bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Mark Esper và đồng nhiệm Việt Nam Ngô Xuân Lịch tại Hà Nội ngày 20/11/2019. Reuters/Kham
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mark Esper đã từ Philippines đến Hà Nội vào hôm nay 20/11/2019 mở đầu chuyến công du hai ngày. Trong cuộc họp báo tại thủ đô Manila trước khi bay sang Việt Nam, bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đưa ra một số thông điệp cảnh báo Trung Quốc, trong bối cảnh Bắc Kinh đưa hàng không mẫu hạm xuống Biển Đông.
Trước hết, lãnh đạo Lầu Năm Góc cho biết Hải quân Mỹ sẽ gia tăng tuần tra tại Biển Đông, không chấp nhận bất cứ nước nào dùng sức mạnh phục vụ quyền lợi riêng, đe dọa quyền tự do hàng hải cũng như con đường huyết mạch của thương mại quốc tế.
Cụ thể hơn, lãnh đạo bộ Quốc Phòng Mỹ khuyến khích các nước Đông Nam Á không nên sợ Trung Quốc. Trái lại phải đoàn kết, cùng nhau lên tiếng bảo vệ chủ quyền của mình tại Biển Đông để "Trung Quốc phải đi đúng hướng".
Phản ứng về phát biểu của bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ, phát ngôn viên bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng, một lần nữa, công kích Hoa Kỳ "khêu ngọn lửa hiềm khích, gây bất ổn ở biển Nam Hải", theo tên gọi của Trung Quốc.
Sau Philiipines, bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Mark Esper đến Hà Nội. Theo báo Quân Đội Nhân Dân, bộ trưởng Mỹ được đồng nhiệm Việt Nam Ngô Xuân Lịch đón tiếp trọng thể. Cơ quan ngôn luận của quân đội Việt Nam chỉ cho biết là bộ trưởng hai nước "chia sẻ các vấn đề cùng quan tâm như là môi trường hòa bình, đưa quan hệ song phương vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả".
Tú Anh
******************
Indonesia xây ba căn cứ chỉ huy mới để đối phó tình hình Biển Đông (RFI, 20/11/2019)
Chính quyền Jakarta dự định xây thêm ba căn cứ chỉ huy quân sự ở phía bắc và phía đông Indonesia nhằm bảo vệ biên giới. Sở chỉ huy đầu tiên sẽ được khởi công ngay từ năm 2020 trên đảo Tanjing Pinang, thuộc tỉnh Riau, để theo dõi chặt chẽ những biến chuyển trên Biển Đông.
Lính biệt động Kopassus, đơn vị tinh nhuệ của quân đội Indonesia, trong một cuộc diễu binh ở Jakarta, ngày 15/03/2015. Reuters
Trả lời trang The Jakarta Post ngày 19/11/2019, tỉnh trưởng Riau, Isdianto, cho biết một khu vực "rộng tổng cộng 40 ha được chuẩn bị cho việc xây sở chỉ huy và nơi ở của nhân viên". Sở chỉ huy mới tại Tanjing Pinang, phụ trách điều phối các chiến dịch chung, sẽ tăng cường thêm sự hiện diện quân sự trong vùng, nơi đã có hai căn cứ hải quân ở Tanjing Pinang và trên đảo Ranai.
Sở chỉ huy mới có nhiệm vụ giám sát mọi chiến dịch trong các vùng lân cận với Singapore, Malaysia và Trung Quốc, đặc biệt "là trực tiếp giám sát mọi hoạt động trên Biển Đông ở quy mô lớn hơn".
Trang The Jakarta Post nhắc lại Indonesia không có tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông, nhưng chính yêu sách "đường lưỡi bò" của Bắc Kinh đã buộc Jakarta phải bảo vệ chủ quyền khi đổi tên vùng biển quanh quần đảo Natuna thành Biển Bắc Natuna (13/07/2017), thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia, nơi có hoạt động khai thác dầu khí. Dù không có tranh chấp về chủ quyền, nhưng Indonesia có xung đột về quyền đánh bắt cá với Trung Quốc quanh quần đảo Natuna.
Thu Hằng
Trong khi Hà Nội đe dọa kiện Trung Quốc ra Tòa trọng tài tại The Hague, Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền trên biển của họ bắt nguồn từ "sự kiện lịch sử".
Vừa ăn cướp vừa la làng
Trung Quốc đang tăng áp lực cho Việt Nam ở Biển Đông, kêu gọi Hà Nội tránh kiện ra tòa trọng tài quốc tế về vấn đề tranh chấp lãnh thổ.
Cảnh Sảng, một phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc, ngày 8/11 cho biết, Việt Nam cần tránh các hành động có thể làm phức tạp vấn đề hoặc phá hoại hòa bình và ổn định ở Biển Đông cũng như quan hệ song phương.
Cảnh Sảng cũng tuyên bố rằng Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự thật lịch sử, mà theo ông ta có lẽ có nghĩa là Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với các đảo và nơi tranh chấp ở Biển Đông từ nhiều thế kỷ trước.
Về phần mình, Việt Nam gần đây đã phát đi tín hiệu có thể tìm kiếm trọng tài và thậm chí là kiện tụng nếu các cuộc đàm phán song phương không sớm đưa ra một giải pháp được hai bên thống nhất.
Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Lê Hoài Trung mới đây cho biết các tranh chấp của họ, bao gồm cả Bãi Tư Chính nơi hai bên đã đối đầu kéo dài nhiều tháng, nên được giải quyết theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS).
Tất nhiên, vấn đề là Trung Quốc sẽ không công nhận bất kỳ phán quyết trọng tài quốc tế nào được coi là không tương đồng với lợi ích của họ. Bắc Kinh đã đưa ra lập trường rõ ràng vào tháng 7 năm 2016 khi Tòa án Trọng tài Thường trực (PCA) có trụ sở ở Hague phán quyết có lợi cho Philippines hơn là cho Trung Quốc.
Theo phán quyết mang tính bước ngoặt đó, bản đồ Trung Quốc, còn được gọi là bản đồ đường lưỡi bò, bao gồm gần 90% Biển Đông, không có giá trị theo luật quốc tế, bao gồm cả UNCLOS. Trung Quốc bỏ qua thực tế là họ đã ký và phê chuẩn UNCLOS, và thẳng thừng từ chối phán quyết.
Phản ứng đánh giá lại của Trung Quốc đối với các động thái của Philippines và Việt Nam đã đặt ra câu hỏi về vấn đề lớn hơn đối với Bắc Kinh trong việc tuân thủ các quy ước quốc tế, cũng như các cam kết đã nêu.
Lính hải quân Trung Quốc PLA trên một tàu chiến ở Biển Đông. Ảnh : Twitter
Tiền hậu bất nhất
Vào tháng 9 năm 2015, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đứng bên cạnh Tổng Thống Mỹ lúc đó là Barack Obama tại Vườn hồng bên ngoài Nhà Trắng ở Washington và tuyên bố long trọng rằng Trung Quốc không có ý định theo đuổi quân sự hóa Biển Đông.
Ngày nay, Trung Quốc đã biến một số bãi cạn và rạn san hô thành những hòn đảo có trang bị radar, đường băng cho máy bay quân sự, nơi trú ẩn cho tàu chiến và cơ sở hạ tầng cho tên lửa nhằm đã mở rộng tầm với của quân đội Bắc Kinh. trong chiến lược hàng hải.
Các nhà quan sát ngoại giao trong khu vực cũng nhắc lại rằng người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lục Khảng vào tháng 6 năm 2017 đã bác bỏ các điều khoản của Tuyên bố chung Trung-Anh năm 1984 về tương lai của Hồng Kông, theo đó thuộc địa của Anh sẽ trao lại cho Trung Quốc vào năm 1997.
Theo thỏa thuận, được ký kết tại Bắc Kinh bởi thủ tướng Triệu Tử Dương và thủ tướng Anh Margaret Thatcher, Hồng Kông sẽ vẫn tự trị và không có gì thay đổi trong 50 năm sau khi bàn giao.
Nhưng, vào năm 2017, Lục Khảng đã tuyên bố rằng "bây giờ Hồng Kông đã trở về hai mươi năm nay thì Tuyên bố chung Trung-Anh không còn có ý nghĩa thực tế nào nữa vì đó là một tài liệu lịch sử . Tôi hy vọng các bên liên quan sẽ lưu ý đến thực tế này".
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte trong bữa tiệc chiêu đãi tại Dinh Tổng thống Malacanang ở Manila, ngày 20 tháng 11 năm 2018. Ảnh : AFP / Pool / Mark R Cristino
Bằng chứng lịch sử ?
Đối với các sự kiện lịch sử của Trung Quốc ở các đảo mà họ tuyên bố ở Biển Đông, các sự kiện đã từng bị tòa PCA The Hague từ chối, những người vẽ bản đồ Trung Quốc cổ đại không nghi ngờ gì về sự tồn tại của chúng.
Nhưng nhà thám hiểm và thương nhân thế kỷ 15 Trương Cáp ( Zhang He) đã được Trung Quốc đã đề cập đến để chứng thực tính hợp pháp lịch sử đối với các yêu sách của Bắc Kinh, đã không đến thăm, hoặc thậm chí không đề cập đến những hòn đảo này.
Các tài khoản và bản đồ chi tiết được biên soạn bởi Trịnh Ông phụ tá Ma Huân liệt kê hơn 700 địa điểm ở Đông Nam Á và Ấn Độ Dương, trong số đó có các đảo và cảng xa xôi ở Andamans, Nicobars, Maldives và Lakshadweep, nhưng không phải là một vùng đất ở Biển Đông.
Lý do khá đơn giản : các tính năng hiện đang được đề cập không thực sự là các hòn đảo, mà là các bãi cạn tồi tàn và các rạn san hô dưới nước mà hải quân cổ đại, bao gồm cả hạm đội gỗ của Trịnh Hòa, đi vòng qua để tránh bị đắm tàu.
Nhưng điều đó đã không ngăn cản Bắc Kinh đưa ra những khẳng định xét lại và gần đây nhất là củng cố những tuyên bố đó bằng cách biến những bãi cát và đá ngầm thành những hòn đảo nhân tạo. Trong khi đó Bất kỳ quan điểm đối lập nào đều được Bắc Kinh coi là sự can thiệp vào các vấn đề nội bộ của Trung Quốc.
Coi thường nước nhỏ
Sự coi thường vượt bậc của Trung Quốc đối với các điều ước quốc tế sẽ không được cộng đồng quốc tế gồm các nước nhỏ hơn, ít mạnh hơn chấp nhận. Nhưng các nhà phân tích cho biết, Trung Quốc - một cường quốc mới nổi có thể và thường xuyên phô trương sức mạnh, cho đến nay vẫn có thể thoát ra được.
Derek Grossman, một nhà phân tích cao cấp của Rand Corporation có trụ sở tại Hoa Kỳ, nói với các nhà báo Philippines ở Washington vào ngày 9 tháng 11 rằng quyết định gần đây của Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte có thể tham gia thăm dò dầu khí chung với Trung Quốc ở Biển Đông có thể được hiểu là một phần thưởng cho việc bỏ qua phán quyết của năm 2016 của PCA.
Cuộc thăm dò chung sẽ diễn theo "điều khoản" của Bắc Kinh, và trên thế giới "dưới sự bảo trợ của Trung Quốc", ông Gross Grossman tuyên bố trong cuộc phỏng vấn báo chí. Đặc biệt là Duterte đã có năm chuyến công du Trung Quốc kể từ khi đảm nhận nhiệm kỳ tổng thống vào giữa năm 2016, và không có chuyến nào tơi quốc gia đồng minh truyền thống của Philippines là Hoa Kỳ.
Hải quân Trung Quốc và Philippines đã đối đầu với nhau gần các hòn đảo đang tranh chấp vào năm 2012, dẫn đến việc Manila đã đệ trình vụ án với PCA vào năm sau và phán quyết ba năm sau đó (2016).
Nhưng, vào đầu tháng 11 năm nay, Manila đã nhượng bộ các yêu sách của Trung Quốc bằng cách đồng ý một lần nữa đóng dấu hộ chiếu Trung Quốc với bản đồ đường chín đoạn, công nhận bản đồ chính thức của khu vực Trung Quốc.
Trong số tất cả các quốc gia có yêu sách chồng lấn với Trung Quốc ở Biển Đông, trong đó có Việt Nam, Malaysia, Philippines, Brunei và Đài Loan, chỉ có Việt Nam đứng lên để phản đối sự bành trướng của Trung Quốc trong khu vực.
Một binh sĩ hải quân Việt Nam quan sát một vụ thử tên lửa ở Biển Đông năm 2016. Ảnh: Facebook
Vào tháng 10, một tàu khảo sát dầu của Trung Quốc đã rời khỏi vùng biển do Việt Nam kiểm soát sau khi hải quân kéo dài ba tháng đối với Bãi Tư Chính đang tranh chấp. Vào thời điểm đó, Bộ Ngoại giao Hà Nội đã cáo buộc tàu Trung Quốc và tàu hộ tống vi phạm chủ quyền của Việt Nam.
Hà Nội không quên rằng quân đội Việt Nam và Trung Quốc đã đụng độ gần các đảo Biển Đông vào năm 1988. Bị hải quân Trung Quốc tấn công, Việt Nam buộc phải rút lui và sự cố chết chóc kết thúc với việc Trung Quốc chiếm giữ sáu rạn san hô mà trước đây không kiểm soát được.
Người Việt Nam tiếp tục nói rằng họ thích giải quyết tranh chấp thông qua các cuộc đàm phán song phương, mặc dù đã có lựa chọn kiện ra tòa án trọng tài quốc tế.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng gần đây đã khẳng định rằng cốt lõi của vấn đề Biển Đông là Việt Nam và các nước yêu sách khác đã xâm chiếm và chiếm giữ các đảo Trung Quốc.
Khánh Anh dịch
Nguồn : VNTB, 18/11/2019
Đánh giá chiến lược của Hà Nội sau sự kiện Bãi Tư Chính
Sau sự kiện Bãi Tư Chính giữa Việt Nam và Trung Quốc, cần phải xem xét việc nắm bắt chiến lược an ninh của Hà Nội đã diễn ra như thế nào trong việc chống lại sự ngang ngược của Trung Quốc ở Biển Đông. Việt Nam đồng thời "vừa hợp tác vừa đấu tranh" trực tiếp với tất cả các nước - kể cả Trung Quốc - ra sao để bảo đảm lợi ích quốc gia.
Tổng cục trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam Ngô Xuân Lịch phát biểu tại Diễn đàn Hương Sơn, một tập hợp các quan chức an ninh khu vực, tại Bắc Kinh, ngày 21 tháng 10 năm 2019. Ảnh : AP Ảnh / Andy Wong
Hợp tác nhiều, ít đấu tranh
Trong thời gian diễn ra đối đầu ở Bãi Tư Chính , Việt Nam đã sử dụng chiến lược "vùa hợp tác vừa đấu tranh" cổ điển. Bắt đầu từ tháng 7, Bắc Kinh đã cho tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 và tàu hải cảnh hộ tống để ngăn chặn các hoạt động khoan dầu của của Hà Nội hợp tác với nước ngoài nơi có giàn khoan dầu Hakuryu-5 gần quần đảo Trường Sa. Hà Nội đã im lặng trong gần hai tuần, nhưng rõ ràng Bắc Kinh không rời đi.
Trong hai tháng tiếp theo, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã ban hành một loạt các tuyên bố leo thang xác định tên Trung Quốc là kẻ xâm lược và yêu cầu Trung Quốc NGAY LẬP TỨC [tất cả được viết in hoa trong nguyên bản] rút ra khỏi Bãi Tư Chính và đi lại khắp vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam. Ngoài ra, Hà Nội tiếp tục cho khoan dầu khí từ ngày 30 tháng 7 đến ngày 15 tháng 9, và chứng kiến sự hiện diện của Trung Quốc trong suốt thời gian này và lâu hơn nữa. Đến tháng 10, các nhà lãnh đạo hàng đầu của Việt Nam bắt đầu lên tiếng.
Tuyên bố của Tổng bí thư và Chủ tịch Nguyễn Phú Trọng vào ngày 15 tháng 10 là một ví dụ điển hình cho việc "vừa hợp tác vừa đấu tranh". Để lại cánh cửa mở cho hòa giải, Trọng kêu gọi duy trì một môi trường hòa bình, ổn định để phát triển quốc gia. Đồng thời, ông cam kết sẽ "không bao giờ nhân nhượng các vấn đề về chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ."
Trong thời gian tàu Trung Quốc ngang dọc ở Bãi Tư Chính Hà Nội đã "hợp tác" rất nhiều. Hà Nội, ví dụ, đã cố gắng liên hệ Bắc Kinh ít nhất 40 lần. Họ cũng ủy quyền cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Ngô Xuân Lịch tham dự Diễn đàn Hương Sơn Trung Quốc, một sự kiện an ninh đa quốc gia nhằm thúc đẩy yêu sách của Bắc Kinh đối với Biển Đông. Việt Nam cũng huỷ bỏ các hoạt động khác để tránh làm tổn hại mối quan hệ song phương. Trong đó bao gồm các cuộc tuần tra bảo vệ bờ biển chung hàng năm lần thứ hai ở Vịnh Bắc Bộ đã được phân định trước đó, có vẻ như là để phản đối chính sách hàng hải của Trung Quốc.
Đến ngày 23 tháng 10, tàu Hải Dương 8 rời đặc khu kinh tế của Việt Nam. Các nhà quan sát có thể khẳng định Hà Nội đã giành chiến thắng vì "đã giữ vững lập trường", nhưng phân tích như vậy là quá sớm và có thể không chính xác.
Việt Nam và Trung Quốc hợp tác nhiều, ít đấu tranh
Thắng lợi !?
Ly do thứ nhất là Bắc Kinh đã thách thức sự hiện diện của dàn khoan Hakuryu-5 cho đến cùng. Chỉ sau khi dàn khoan được dời đi, Bắc Kinh mới rút tàu Hải Dương 8 về. Trung Quốc dường như sẵn sàng ở lại lâu dài. Chẳng hạn, tàu Hải Dương 8 dường như rời khỏi khu vực vào tháng 8, nhưng sau khi tiếp nhiên liệu tại đảo Chữ thập ở quần đảo Trường Sa thì quay trở lại. Các đảo nhân tạo Bắc Kinh có cơ sở hạ tầng quân sự bảo đảm tàu tuần tra có thể hoạt đông lâu hơn bất kỳ đối thủ lãnh thổ nào.
Cũng cần phải nhìn nhận lại cuộc đối đầu khác giữa hai bên. Tháng 5 năm 2014, Bắc Kinh đã kéo giàn khoan dầu HS 981 vào vùng biển tranh chấp ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa. Sau một loạt các cuộc đụng độ - kể cả đâm tàu vào nhau và đe dọa lẫn nhau - Bắc Kinh đã gỡ bỏ giàn khoan dầu . Trung Quốc công khai tuyên bố hoạt động hoàn thành trước thời hạn. Có lẽ Bắc Kinh lo ngại sự lên án quốc tế, đặc biệt là từ Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Washington.
Bắc Kinh dường như chẳng còn quan tâm mấy tới phản ứng cộng đồng quốc tế. Có ý kiến cho rằng Hà Nội dự kiến Bắc Kinh sẽ rút ra khỏi Bãi Tư Chính trước lễ kỷ niệm 70 năm thành lập Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa, vì sợ làm lu mờ đi sự kiện lớn đó. Nhưng ngay cả khi Hoa Kỳ gay gắt lên án "hành vi bắt nạt" của Trung Quốc cũng không khiến Bắc Kinh nhúc nhích. Thật vậy, Trung Quốc đã tiếp tục tiếp nhiên liệu cho tàu Hải Dương 8 và quay lại Bãi Tư Chính.
Chiến lược "vừa hợp tác vừa đấu tranh" của Hà Nội dường như đã thiếu gì đó lần này. "Hợp tác" là trung lập nhất và phản tác dụng nhất vì quan hệ song phương riêng biệt vẫn để các hoạt động khác diễn tiến bình thường bất chấp sự vi phạm của Trung Quốc. Về mặt "đấu tranh" Trung Quốc hung hăng đã chẳng làm gì cả.
Tăng đấu tranh, giảm hợp tác !
Vậy điều này nói lên điều gì cho tương lai của chiến lược Việt Nam ? Hà Nội có thể xem xét tăng cường đấu tranh - mà không làm gián đoạn sự cân bằng giữa "hợp tác và đấu tranh" - bằng cách nâng cao mối quan hệ với Washington lên "quan hệ đối tác chiến lược". Một thông báo như vậy sẽ báo hiệu rằng Việt Nam và Hoa Kỳ có cùng lợi ích chiến lược lâu dà - ngầm thách thức Trung Quốc. Hà Nội vẫn có thể hợp tác với Trung Quốc, nhưng Bắc Kinh sẽ biết rằng các cuộc khủng hoảng Biển Đông trong tương lai có thể thu hút nhiều sự tham gia của Washington hơn
Hà Nội cũng có thể tiếp tục phát triển và tăng cường mạng lưới quan hệ quốc phòng với các nước ASEAN, Úc, Nhật Bản và Ấn Độ. Lôi kéo các quốc gia này lên tiếng trong cuộc khủng hoảng tiếp theo - lần này không có quốc gia nào lên tiếng - sẽ là một thách thức, nhưng không phải là không thể. Một cách để đảm bảo sự hỗ trợ của họ là Hà Nội cởi mở hơn trong việc thảo luận về những thách thức an ninh và cách đối phó chung ra sao.
Trở ngại chính cho cách tiếp cận này là chính sách phòng thủ Ba không của Việt Nam : không liên minh, không căn cứ và không làm việc với nước thứ hai chống lại nước thứ ba. Nhưng Việt Nam đã âm thầm tìm mọi cách để đến với có gần đây. Ví dụ, vào tháng 5 năm 2018, Việt Nam đã tập trận chung với Ấn Độ và đang tiến hành một loạt các hoạt động quân sự với Washington mà là liên minh. Nếu Hà Nội muốn gửi cho Trung Quốc một thông điệp thực sự nghiêm khắc, họ có thể tham gia Đối thoại An ninh Bộ Tứ, là đối tác đối thoại với Hoa Kỳ, Úc, Ấn Độ và Nhật Bản. Điều đó, tuy nhiên, gần như chắc chắn là một cầu nối quá xa đối với Hà Nội.
Ở mức độ "đấu tranh" nhẹ nhàng hơn, Việt Nam có rất nhiều lựa chọn. Họ có thể ngừng kiểm duyệt tin tức trong nước về các cuộc đụng độ giữa thuyền đánh cá Trung Quốc-Việt Nam để xóa tan sự phẫn nộ của công chúng và đe dọa lợi ích kinh doanh của Trung Quốc tại Việt Nam. Họ có thể,, kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế về các yêu sách Biển Đông quá đáng như Philippines đã làm. Hà Nội có thể đưa ra thương lượng cứng rắn trong quá trình đàm phán Bộ luật Ứng xử khi là Chủ tịch ASEAN, và nêu rõ những vi phạm của Trung Quốc với tư cách là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc - hai vị trí mà Hà Nội sẽ giữ trong năm 2020. Hà Nội cũng có thể hợp tác ít hơn để thể hiện rằng hành vi của Bắc Kinh đã làm tổn hai toàn bộ mối quan hệ.
Trước một Bắc Kinh ngày càng tự tin và quyết đoán, có lẽ đã đến lúc Việt Nam cần cân nhắc việc điều chỉnh lại cẩn thận để cho đấu tranh nhiều hơn và hợp tác ít hơn.
Derek Grossman
Nguyên tác : Vietnam Needs to ‘Struggle’ More in the South China Sea, The Diplomat, 15/11/2019
Khánh Anh dịch
Nguồn : VNTB, 17/11/2019
Chuyên gia Mỹ : Việt Nam cần liên minh với Mỹ để gìn giữ Biển Đông chống Trung Quốc (RFI, 11/11/2019)
Việc Trung Quốc mới đây ngang nhiên cho tàu khảo sát vào hoạt động, đồng thời tung tàu hải cảnh vào phá quấy công việc thăm dò dầu khí của Việt Nam ngay trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam tiếp tục khiến dư luận quốc tế bất bình.
Ảnh minh họa : Phi đội không quân trên tàu sân bay USS Carl Vinson hoạt động tuần tra thường lệ trong vùng Biển Đông. Ảnh 02/2018. AYEE MACARAIG / AFP
Trong một bài phân tích được tạp chí Mỹ The National Interest công bố hôm 07/11/2019 vừa qua, tiến sĩ Anders Corr, một chuyên gia về Biển Đông, từng hoạt động trong ngành quân báo tại bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương của Mỹ, cho rằng để đối phó với dã tâm độc chiếm Biển Đông của Bắc Kinh, Việt Nam cần phải có một chiến lược thích ứng, trong đó yếu tố cực kỳ quan trọng là liên minh với Hoa Kỳ, nước duy nhất hiện nay có đủ lực để ngăn chặn Trung Quốc
Sau khi nhắc lại vụ Trung Quốc cho tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 và đoàn tàu hải cảnh tháp tùng vào gây hấn trong khu vực Bãi Tư Chính, chuyên gia Anders Corr cho rằng Việt Nam đang gặp nguy cơ thực sự vì trong những lần gây sự trước đây, từ vụ Hoàng Sa năm 1974, cho đến vụ Gạc Ma ở Trường Sa năm 1988, Trung Quốc luôn là kẻ gây sự trước, và kết quả là Việt Nam vừa bị mất người, vừa bị mất lãnh thổ.
Theo tác giả, lần này, nếu Trung Quốc thành công trong việc chiếm trọn vùng Biển Đông mà họ đã gói trong tấm bản đồ đường chín đoạn được gởi đến Liên Hiệp Quốc vào năm 2009, thì Việt Nam cùng với các nước Đông Nam Á khác có tuyên bố chủ quyền tại Biển Đông sẽ bị mất quyền đánh bắt cá và khai thác dầu khí ngay trong vùng đặc quyền kinh tế của mình.
Hơn thế nữa Việt Nam có nguy cơ bị cô lập trong đất liền khi Trung Quốc tiếp tục tăng cường các hoạt động nhằm kiểm soát đường biển đi vào Việt Nam.
Việt Nam cần một chiến lươc mới
Để chống lại Trung Quốc, tiến sĩ Anders Corr cho rằng Việt Nam cần có một chiến lược mới trong đó có 4 thành tố quan trọng.
1/ Một là liên minh với các quốc gia có thể răn đe Trung Quốc ở mức cao nhất là răn đe hạt nhân, ví dụ như với Mỹ, Pháp và Anh.
2/ Hai là liên minh với các quốc gia có đủ năng lực triển khai nhanh chóng lực lượng quân sự thông thường (quy ước) để răn đe Trung Quốc, ví dụ như Hoa Kỳ ;
3/ Ba là sử dụng thành quả tăng trưởng kinh tế để nâng cao mức chi tiêu quân sự để răn đe Trung Quốc ngay tại chỗ, ví dụ như thông qua việc mua thêm tàu ngầm, tên lửa chống tăng và tên lửa phòng không ;
4) Và bốn là dân chủ hóa và cải thiện nhân quyền để tạo điều kiện thuận lợi cho việc liên minh kinh tế và quân sự chặt chẽ hơn với các quốc gia ít chịu ảnh hưởng nhất của Trung Quốc.
Ấn Độ, Nga, Úc không thể là đối tác liên minh cốt lõi ?
Danh sách các nước mà Việt Nam cần liên minh không có các nước Ấn Độ, Nga và Úc, mà Việt Nam đã kêu gọi hỗ trợ. Về vấn đề này, chuyên gia Anders Corr đã giải thích như sau :
Nga, Úc và Ấn có thể là đối tác chiến lược hữu ích cho Việt Nam, nhưng các nước đó không đủ khả năng làm một đối tác liên minh cốt lõi vì họ thiếu sức mạnh cần thiết để một mình đánh bại Trung Quốc.
Nga có ghế trong Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, và cả Nga lẫn Ấn Độ đều là các cường quốc hạt nhân có khả năng quan trọng để triển khai lực lượng quân sự thông thường đối phó với Trung Quốc, nhưng hai nước này không đủ sức mạnh về mặt kinh tế hay quân sự để đối đầu với Bắc Kinh. Cả hai đều là thành viên của Tổ Chức Hợp Tác Thượng Hải, trong thực tế do Trung Quốc lãnh đạo. Do đó, hai nước này không thể trở thành đồng minh cốt lõi đáng tin cậy cho Việt Nam.
Úc là một đồng minh đáng tin cậy tiềm tàng, nhưng lại không có sức răn đe hạt nhân hay quy ước cần thiết để đối đầu với Trung Quốc. Úc cũng không đặc biệt mạnh về mặt ngoại giao, quân đội Úc còn thiếu phương tiện so với Trung Quốc, và nhất là Úc chịu ảnh hưởng chính trị của Trung Quốc nhiều hơn là Hoa Kỳ, Pháp hoặc Anh Quốc.
Khoảng 40,8% hàng xuất khẩu của Úc được bán sang Trung Quốc, điều đó giải thích tầm ảnh hưởng to lớn của Trung Quốc đối với các doanh nghiệp Úc vốn có ảnh hưởng trên sân khấu chính trị Úc. Ngược lại, Hoa Kỳ, Pháp và Anh có ít hàng xuất khẩu sang Trung Quốc nếu tính theo tỷ lệ trong GDP của họ, do đó các nước này chịu ảnh hưởng chính trị ít hơn từ Trung Quốc. Mỹ, Anh và Pháp cũng có thế mạnh là thành viên thường trực Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc.
ASEAN chịu ảnh hướng của Trung Quốc lơ là trước hành vi ở Biển Đông
Còn về các tổ chức khu vực và quốc tế mà Việt Nam đã kêu gọi giúp đỡ để đối phó với Trung Quốc trên vấn đề Biển Đông, tiến sĩ Corr đã thẳng thắn cho rằng sự giúp đỡ của các định chế này gần bằng con số không.
Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN) đã giúp đỡ rất ít cho Việt Nam trong bối cảnh các nước thành viên ngày càng chịu ảnh hưởng lớn hơn của Bắc Kinh, và phủ quyết mọi chỉ trích thực sự về Trung Quốc. Các nước này chuẩn bị rất ít hay hầu như lơ là trong việc ngăn chặn các hoạt động gặm nhắm Biển Đông của Trung Quốc.
Sau khi Bắc Kinh phớt lờ phán quyết Biển Đông của Tòa Thường Trực La Haye trong vụ Philippines kiện đường 9 đoạn của Trung Quốc, chính Philippines chẳng hạn, lại là thành viên ASEAN mới nhất chịu ảnh hưởng của Bắc Kinh.
Theo chuyên gia Mỹ, hiện nay Việt Nam là nước bạo dạn nhất trong khối ASEAN vẫn cố duy trì sự độc lập của mình đối với Trung Quốc, nhưng điều này đã bớt có ý nghĩa trong bối cảnh Trung Quốc có ảnh hưởng sâu rộng đối với thượng tầng quyền lực của Việt Nam và khối giao dịch thương mại to lớn của Việt Nam với Trung Quốc…
Còn Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, với quyền phủ quyết của Trung Quốc, hoàn toàn không đủ khả năng để bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam.
Mỹ có đủ điều kiện để hỗ trợ Việt Nam chống Trung Quốc
Đối với ông Corr, trong tình hình như vừa kể, một liên minh hoặc thậm chí một quan hệ sâu sắc hơn với Mỹ sẽ giúp Việt Nam củng cố tiềm năng chống lại Trung Quốc, cải thiện sức mạnh răn đe của Việt Nam nhờ dựa được vào một người bạn mạnh mẽ nếu xảy ra xung đột quân sự.
Theo tiến sĩ Anders Corr, chỉ có Hoa Kỳ mới có tất cả các điều kiện để trở thành một đồng minh cốt lõi đáng tin cậy và đủ sức chống lại Trung Quốc. Các điều kiện đó là một chính sách đối ngoại độc lập với ảnh hưởng của Trung Quốc (so với các thành viên ASEAN và Nga), một sức mạnh kinh tế cần thiết để trừng phạt Trung Quốc, một sức mạnh ngoại giao cần thiết để phủ quyết Trung Quốc tại Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc.
Mỹ cũng có đủ khả năng quân sự cần thiết để triển khai sức mạnh quân sự quy ước đối phó với Trung Quốc, và sức răn đe hạt nhân cần thiết để bảo vệ chính mình khỏi sự trả đũa hạt nhân tiềm tàng của Trung Quốc.
Chuyên gia Mỹ khẳng định : Nếu không có Hoa Kỳ để làm đối trọng với Trung Quốc, an ninh Việt Nam không thể được bảo đảm. Sự tham gia của Hoa Kỳ là điều kiện thiết yếu cho bất kỳ liên minh hiệu quả nào chống lại Trung Quốc căn cứ vào tương quan lực lượng hiện tại.
Tuy nhiên, Mỹ chỉ ưu tiên cho những đồng minh có giá trị tương tự về dân chủ và nhân quyền. Vì vậy, để có được không chỉ liên minh với Hoa Kỳ, mà cả việc Hoa Kỳ sẵn sàng hy sinh cho Việt Nam, chấp nhận rủi ro trước một cường quốc hạt nhân, Việt Nam ít ra cần phải có những cải tiến dần dần nhưng ổn định về dân chủ và nhân quyền.
Liên minh Mỹ - Việt còn vì lợi ích của Hoa Kỳ
Đối với giáo sư Anders Corr, một liên minh Mỹ-Việt sẽ không chỉ vì lợi ích của Việt Nam mà còn vì lợi ích của Hoa Kỳ.
Vào lúc sức mạnh kinh tế và quân sự của Trung Quốc vượt qua Mỹ trên một số mặt, bao gồm từ GDP tính theo sức mua, tỷ lệ tăng trưởng, tốc độ tăng trưởng của chi tiêu quân sự, cho đến tầm bắn của tên lửa chống hạm, dân số trong hạn tuổi quân dịch, số lượng tàu hải quân mới, trí thông minh nhân tạo và siêu máy tính, Hoa Kỳ và phần còn lại của thế giới nên cân nhắc rất kỹ cách làm thế nào để kiềm chế sức mạnh và ảnh hưởng của Trung Quốc trước khi Bắc Kinh lấn lướt được các cấu trúc quyền lực hiện hữu…
Ảnh hưởng chính trị toàn cầu của Trung Quốc được nền kinh tế đang giàu lên hỗ trợ, kèm theo việc Bắc Kinh dùng tiền mua chuộc sự ủng hộ chính trị của giới tinh hoa nước ngoài, kể cả giới tinh hoa Mỹ.
Một liên minh mới với Việt Nam sẽ đảo ngược dòng chiến thắng ngoại giao mới của Bắc Kinh và sẽ làm cho Trung Quốc không chiếm được vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam để khai thác dầu khí và nguồn cá béo bở. Liên minh đó sẽ là một ví dụ cho các quốc gia khác trong khu vực về cách bảo vệ vùng đặc quyền kinh tế của họ và chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc. Nếu được mở rộng từ Việt Nam sang Indonesia và Ấn Độ, hai nơi cũng có chính sách không liên kết, Trung Quốc sẽ ngày càng bị ngăn chặn ngay trong sân sau của chính họ.
Mai Vân
*****************
Vì mối lợi kinh tế, Pháp thận trọng "lèo lái" chiến thuyền ở Biển Đông (RFI, 11/11/2019)
Chuyến công du Trung Quốc lần thứ hai của tổng thống Pháp Emmanuel Macron kết thúc ngày 06/11/2019 với những hợp đồng kinh doanh béo bở, các thỏa thuận hợp tác về khí hậu cũng như là việc bảo vệ các lợi ích của Liên Hiệp Châu Âu. Nguyên thủ Pháp tuyệt nhiên không một lời "đả động" đến các vấn đề tranh chấp ở Biển Đông.
Tổng thống Pháp Emmanuel Macron phát biểu tại Diễn đàn kinh tế Trung-Pháp, Bắc Kinh, Trung Quốc, ngày 06/11/2019 Reuters/Florence Lo/Pool
Lợi ích kinh tế là trên hết. Do vậy sẽ chẳng có gì là đáng ngạc nhiên khi tổng thống Macron tỏ ra thận trọng không công khai phản đối các chính sách của Trung Quốc tại vùng biển đang có tranh chấp ngày càng gay gắt này.
Thế nhưng, theo phân tích của ông Emanuele Scimia, một nhà báo độc lập chuyên phân tích về chính sách đối ngoại trên tờ South China Morning Post, sự im lặng của Macron không có nghĩa là Pháp sẽ ngừng kềm chế ảnh hưởng của Trung Quốc hoặc chấm dứt ngưng bán vũ khí cho các nước đối thủ của Bắc Kinh.
Nhiều dấu hiệu cho thấy Paris ngày càng tỏ ra lo ngại về tham vọng bành trướng quân sự của Bắc Kinh tại Biển Đông. Mối lo này đã được bộ trưởng Quân Lực Pháp, bà Florence Parly, trình bày rõ trong tập tài liệu "Pháp và An ninh tại Ấn Độ - Thái Bình Dương" cũng như là trong phiên điều trần trước Quốc Hội hồi tháng 7/2019 của tham mưu trưởng Hải quân Pháp, Kouthe Prazuck.
Do vậy, Paris những năm gần đây bền bỉ phản đối các hoạt động quân sự của Trung Quốc ở Biển Đông. Tự cho mình là một cường quốc của khu vực, do lẽ Pháp sở hữu nhiều vùng lãnh thổ hải ngoại và các vùng đặc quyền kinh tế bao la, một mặt, Pháp đã tái khởi động "Đối thoại An ninh Ấn Độ - Thái Bình Dương" với Mỹ, điều tầu sân bay Charles de Gaulle đến vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương, và cùng chia sẻ với Mỹ tầm quan trọng của việc xây dựng một mạng lưới các liên minh và đối tác chiến lược để duy trì một vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương tự do và mở rộng.
Mặt khác, Paris tăng cường hợp tác quân sự với các đối tác trong khu vực, đặc biệt là với Úc. Tháng trước, tham mưu trưởng Hải Quân Pháp Kouthe Prazuck đã đề xuất tiến hành tuần tra chung với Hải Quân Úc trong vùng biển Ấn Độ-Thái Bình Dương, chẳng hạn như Úc có thể gởi tầu chiến hộ tống tầu sân bay Charles De Gaulle, trong khi tầu khu trục Pháp hộ tống các tầu đổ bộ của Úc.
Làm thế nào cân đối các lợi ích xung đột giữa một bên là tăng cường hợp tác kinh tế với Trung Quốc mà Pháp rất cần đến và bên kia là giúp bảo vệ trật tự thế giới theo mô hình phương Tây trước những thách thức đến từ Trung Quốc ? Đây không phải là một bài toán dễ.
Điều này giải thích vì sao các hoạt động hải quân của Pháp tại vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương có vẻ "khiêm tốn" hơn so với đồng nghiệp Mỹ. Chính quyền Paris đều tìm cách tránh gây tổn hại đến các mối quan hệ với Bắc Kinh. Giữa Pháp và Trung Quốc đã có một sự thống nhất về nhịp độ "dừng nghỉ - stopover" của tầu chiến Pháp ở Trung Quốc và của các tàu chiến Trung Quốc tại Pháp. Hơn nữa, khi đi vào các khu vực đảo đang có tranh chấp, tàu chiến Pháp sẽ chọn hải trình nằm ngoài giới hạn lãnh hải, nhằm giảm rủi ro xảy ra xung đột với quân đội Trung Quốc.
Nhưng điều đó không có nghĩa là Paris từ bỏ việc kềm chế các hoạt động quân sự của Bắc Kinh. Chính phủ Pháp có thể giảm nhẹ mức độ phản đối các hoạt động quân sự của Bắc Kinh ở Biển Đông để bảo vệ các mối hợp tác thương mại, nhưng Paris ít có khả năng từ bỏ việc trang bị vũ khí cho các nước láng giềng của Trung Quốc. Bởi lẽ, bán vũ khí còn là một cột trụ trong chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương của Paris, cho dù Trung Quốc có hài lòng hay là không !
Các số liệu thống kê giai đoạn 2008-2017 cho thấy Pháp đã ký kết nhiều hợp đồng bán các loại hệ thống vũ khí với tổng trị giá 23 tỷ đô la cho các nước vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương như Hàn Quốc, Indonesia, Singapore hay Malaysia, và riêng với Ấn Độ là 15 tỷ đô la.
Minh Anh
****************
Đài Loan cảnh báo có thể bị tấn công nếu kinh tế Trung Quốc sa sút (RFI, 07/11/2019)
Bắc Kinh có thể gây chiến với Đài Loan để làm giảm áp lực trong nước nếu thương chiến Mỹ-Trung làm kinh tế Trung Quốc đi xuống, đe dọa tính chính danh của Đảng cộng sản. Ngoại trưởng Đài Loan Ngô Chiêu Tiếp (Joseph Wu) hôm nay 07/11/2019 cảnh báo như trên.
Ngoại trưởng Đài Loan Ngô Chiêu Tiếp (Joseph Wu) trong một cuộc trả lời phỏng vấn tại Đài Bắc, ngày 06/11/2019 Reuters/Fabian Hamacher
Trả lời phỏng vấn Reuters, ông Ngô Chiêu Tiếp lưu ý rằng tình hình kinh tế Trung Quốc đang sa sút do ảnh hưởng của cuộc chiến tranh thương mại với Hoa Kỳ, với mức độ tăng trưởng chậm nhất kể từ gần 30 năm qua.
Theo ngoại trưởng Đài Loan, nếu bất ổn chính trị, hay kinh tế chậm lại trở thành vấn đề trầm trọng đối với các nhà lãnh đạo Bắc Kinh, thì Đài Bắc lại cần phải nâng cao cảnh giác. Nhà cầm quyền Trung Quốc có thể gây sự để hướng sự chú ý ra bên ngoài. Ông Ngô Chiêu Tiếp nói : "Chúng tôi phải chuẩn bị cho tình huống tệ hại nhất là xung đột quân sự".
Vào lúc sắp đến cuộc bầu cử tổng thống Đài Loan, sẽ diễn ra vào tháng Giêng, Trung Quốc tăng cường chiến dịch nhằm "thống nhất" đảo quốc, dụ dỗ những đồng minh hiếm hoi của Đài Bắc và thường xuyên điều oanh tạc cơ đến gần eo biển để dọa nạt. Ông Ngô nói rằng Đài Loan hy vọng có thể chung sống hòa bình với Trung Quốc, nhưng cũng thấy rằng mọi vấn đề đều do Trung Quốc gây ra, thế nên đành phải "sống chung với lũ".
Cũng theo ông Ngô Chiêu Tiếp, phong trào phản kháng ở Hồng Kông đã mang lại cho Đài Loan một bài học về mô hình "một đất nước, hai chế độ" mà Bắc Kinh vẫn chiêu dụ : tuy có được một ít tự do nhưng chẳng lợi lộc gì khi bị một chính thể độc tài cai trị. Ông hứa sẽ giúp đỡ người dân Hồng Kông "đấu tranh cho tự do dân chủ".
Ngoại trưởng Đài Loan cũng mô tả chức vụ của ông là "khó khăn nhất thế giới". Từ năm 2016 đến nay, Đài Bắc đã bị bảy nước cắt đứt quan hệ ngoại giao vì lóa mắt trước những món đầu tư của Trung Quốc ; chưa kể những tập đoàn đa quốc gia chấp nhận cách mô tả Đài Loan là lãnh thổ Trung Quốc.
Ông Ngô Chiêu Tiếp cho rằng sắp tới Bắc Kinh sẽ còn tìm cách lôi kéo tiếp một số nước trong số 15 đồng minh còn lại của Đài Bắc, để gây ảnh hưởng lên cuộc bầu cử tổng thống mà bà Thái Anh Văn đang có nhiều hy vọng. Ông cho biết đang "phối hợp chặt với Hoa Kỳ và các quốc gia cùng chí hướng" để tránh tái diễn tình trạng này.
Thụy My