Nếu ai đó cho rằng nhóm tàu này khi đã rút ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế là nó đã không còn vi phạm các quyền hợp pháp của Việt Nam, là mắc bẫy pháp lý.
Tàu Hải Dương địa chất 08 (Ảnh : Getty)
Mấy ngày nay, dư luận đang xôn xao, bàn tán về việc tàu khảo sát địa chất Trung Quốc số hiệu Hải Dương 08 lại rút ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế phía Nam Việt Nam và di chuyển về khu vực đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Câu hỏi được đặt ra là động thái trên của Trung Quốc diễn ra trong thời điểm này có ý nghĩa gì và có phải đây là một cuộc "rút lui" hay không ? Nó mang tính chiến lược hay chỉ là chiến thuật ?
Thực chất đây là bước lùi hay bước tiến trong tính toán của Trung Quốc khi họ triển khai các hoạt động nhằm độc chiếm Biển Đông bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, hiểm độc ?
Trước tình hình này, là đối tượng bị Trung Quốc xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán trên Biển Đông, chúng ta nên ứng xử như thế nào để phá được những kế sách nguy hiểm này ?
Chúng tôi xin được trao đổi với bạn đọc Báo điện tử Giáo dục Việt Nam về những câu hỏi được đặt ra nói trên nhằm góp phần tìm ra được những câu trả lời thích hợp nhất trước những diễn biến phức tạp của cuộc chiến bảo vệ các quyền hợp pháp của chúng ta trong Biển Đông.
Thôn tính phi truyền thống
Nhiều nhà nghiên cứu, học giả, chính trị gia, chuyên gia quân sự… đã sử dụng thuật ngữ "xâm lược mềm" để ám chỉ một loại hành động thôn tính phi truyền thống mà nội hàm của nó là kẻ thôn tính không sử dụng đến những vũ khí sát thương, không sử dụng đến lực lượng vũ trang như đã từng thấy trong các cuộc "xâm lược cứng".
Vũ khí của cuộc "xâm lược mềm" mà kẻ thôn tính sử dụng là những biện pháp kinh tế, khoa học kỹ thuật, truyền thông, ngoại giao, pháp lý…
Mặc dù không có tiếng súng, tiếng bom đạn, không thấy cảnh khói lửa binh đao, cuộc "xâm lược mềm" là một cuộc chiến tranh kiểu mới hết sức nguy hiểm, đáng sợ.
Bởi vì, kẻ thôn tính có thể đạt được mục tiêu buộc đối phương phải khuất phục, phải lệ thuộc hoàn toàn về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng, phải mặc nhiên thừa nhận những yêu sách phi lý về lãnh thổ, biển, đảo.
Điều đó đồng nghĩa với việc đã để mất chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia vào tay kẻ thôn tính...mà nhiều trường hợp kẻ bị thôn tính lại khó thể nhận ra những thứ "vũ khí mềm"nguy hiểm đó…
Từ đầu tháng 7/2019 đến nay, Trung Quốc đã liên tiếp huy động nhóm tàu Hải Dương địa chất 08 tiến hành hoạt động bất hợp pháp trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý phía Đông Nam Việt Nam.
Động thái này là sự nối tiếp các hoạt động tương tự ở khu vực các bãi cạn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines, Malaysia.
Trung Quốc đang triển khai các "mũi tiến công mềm" nhằm chọc thủng "nồi cơm" của những quốc gia ven Biển Đông, nhất là Việt Nam quốc gia mà Trung Quốc cho rằng có khả năng cản trở bước tiến của họ nhằm thôn tính Biển Đông.
Khi triển khai bất kỳ động thái nào trong Biển Đông , Trung Quốc thường tính toán nhằm vào nhiều mục đích khác nhau : mục đích ngắn hạn, mang tính chiến thuật ; mục đích lâu dài, mang tính chiến lược.
Tuy nhiên, khác với những động thái trước đây, lần này, hoạt động bất hợp pháp của nhóm tàu thăm dò Hải Dương địa chất 08 trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Đông Nam Việt Nam, Trung Quốc nhằm vào những mục đích sau đây :
- Về pháp lý : tìm cách tạo ra vào tình huống "sự đã rồi" với sự hiện diện thường xuyên của các phương tiện thăm dò khai thác tài nguyên dầu khí tại khu vực này để buộc Việt Nam, quốc gia luôn luôn chủ trương giải quyết mọi tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, tránh đối đầu, xung đột, buộc phải chấp nhận chủ trương "cùng khai thác" với Trung Quốc.
Âm mưu này đồng nghĩa với việc ép Việt Nam chấp nhận đây là "khu vực tranh chấp", hoàn toàn có lợi cho Trung Quốc.
- Về kinh tế : Trung Quốc đang gây sức ép để buộc mọi hoạt động kinh tế hợp pháp của Việt Nam ở khu vực này bị đình đốn.
Các công ty của nước ngoài đang khai thác dầu khí ở đây sẽ phải rút lui để tránh những rủi ro do có thể xảy ra xung đột, chiến tranh. Rõ ràng, có thể thấy được mục đích kinh tế của Trung Quốc trong bối cảnh này.
Họ muốn "xí phần" khai thác dầu khí, tài nguyên khoáng sản…bằng cách tạo nên môi trường bất ổn, làm suy giảm tốc độ phát triển kinh tế của các quốc gia trong khu vực để họ dễ bề thao túng, điều khiển…
Có thể nói, với những động thái nói trên, Trung Quốc đang tính toán áp dụng binh pháp Tôn Tử "hỗn thủy mạc ngư", hay nói như người Việt Nam ta, là đục nước béo cò.
Và chừng nào Trung Quốc "chưa bắt được cá", chưa "đạt được mục đích" thì chừng đó Trung Quốc vẫn tiếp tục quấy phá, tiếp tục duy trì "mũi tấn công mềm" nguy hiểm này.
Cho đến nay, việc con tàu khảo sát Hải Dương địa chất 08 di chuyển quanh quẩn, lúc vào xâm phạm, lúc lại rút khỏi khu vực bãi cạn Tư Chính phải chăng thực chất là Trung Quốc đang vận dụng mưu chước "Tiếu lý tàng đao" (Cười nụ giấu dao, lập mưu kín kẽ không để đối phương biết) ?
Không những không rút mà còn tiến mạnh hơn
Xin được lưu ý thêm rằng, xét trên phương diện pháp lý quốc tế, việc nhóm tàu Hải Dương địa chất 08 mấy lần "rút khỏi" khu vực biển bãi cạn Tư Chính để quay về đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, thực chất chỉ là sự "nâng cấp" vi phạm.
Đó là từ vi phạm quyền chủ quyền, quyền tài phán ở vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, lên vi phạm chủ quyền ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam mà thôi.
Nếu ai đó cho rằng nhóm tàu này khi đã rút ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế là nó đã không còn vi phạm các quyền hợp pháp của Việt Nam, cho nên không cần làm "nóng" sự việc lên, không cần phải lên tiếng phản đối…là một sai lầm nguy hiểm, nếu không muốn nói là thiếu trách nhiệm trước sự sống còn của quốc gia, dân tộc…
Bởi vì, điều đó đồng nghĩa với việc mặc nhiên thừa nhận Trung Quốc có chủ quyền ở quần đảo Trường Sa, chí ít là đối với các thực thể địa lý mà Trung Quốc đã dùng vũ lực đánh chiếm từ năm 1988.
Với "mũi tấn công mềm" này, Trung Quốc đã vi phạm không chỉ các quyền và lợi ích chính đáng của các quốc gia ven Biển Đông, mà còn của các quốc gia liên quan khác ngoài khu vực được Luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 đã quy định rõ ràng, đang có hiệu lực.
Với động thái này, nếu không kịp thời lên án mạnh mẽ và ngăn chặn kịp thời thì sẽ tạo ra tiền lệ xấu về cách ứng xử dựa vào sức mạnh, bất chấp công lý và đạo lý trong quan hệ quốc tế ở thời đại văn minh, tiến bộ hiện nay ; gây bất ổn về chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng, có tác động tiêu cực đến sự tăng trưởng kinh tế quốc gia, khu vực và quốc tế hiện đang lâm vào tình trạng khủng hoảng và đình trệ.
Điều nghiêm trọng hơn, nếu không kiểm soát được sẽ đẩy nhân loại vào những cuộc xung đột, chiến tranh hủy diệt, tàn khốc.
Tiến sĩ Trần Công Trục
Nguồn : GDVN, 29/09/2019
Biển Đông : Trung Quốc bị tố dùng tàu hải cảnh để áp đặt chủ quyền (RFI, 27/09/2019)
Trong thời gian qua, tàu hải cảnh Trung Quốc đã xuất hiện nhan nhản trên Biển Đông, đặc biệt là trong các vùng biển của các nước láng giềng nhưng bị Trung Quốc tự nhận chủ quyền. Trong một bài phân tích công bố ngày 26/06/2019, cơ quan Sáng Kiến Minh Bạch Hàng Hải Châu Á AMTI, thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Tế và Chiến Lược CSIS, trụ sở tại Washington, đã vạch trần ý đồ của Bắc Kinh, dùng các phương tiện bán quân sự này để áp đặt chủ quyền.
Tàu tuần duyên Trung Quốc phun vòi rồng vào tàu cảnh sát biển Việt Nam, tiếp cận khu vực giàn khoan 981, ngày 08/05/2016. Ảnh : Reuters
Bài phân tích đã nêu rõ một loạt hành vi sách nhiễu mà tàu hải cảnh Trung Quốc đã và đang thực hiện nhắm vào ba nước láng giềng đang có tranh chấp biển đảo với Bắc Kinh : Việt Nam, Philippines và Malaysia.
Trong lúc Malaysia là nạn nhân của hải cảnh Trung Quốc tại vùng bãi cạn Luconia Shoals, thì Philippines bị Bắc Kinh quấy nhiễu ở các khu vực Bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal), Scarborough Shoal, và cả đảo Thị Tứ.
Về Việt Nam, AMTI quan tâm đến các diễn biến mới nhất, với việc tàu hải cảnh Trung Quốc liên tục quấy rối giàn khoan Hakuryu 5 hoạt động tại lô 6.1 của Việt Nam gần Bãi Tư Chính kể từ tháng 6 vừa qua, hay vụ đội tàu hải cảnh hùng hậu của Trung Quốc hộ tống tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 tiến vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở phía nam Biển Đông kể từ tháng 7.
Điểm được AMTI đặc biệt chú ý là khi hoạt động tại các vùng biển gần các bãi Luconia, Cỏ Mây và Scarborough, tàu hải cảnh Trung Quốc hầu như luôn luôn bật tín hiệu nhận dạng tự động AIS, dù đó không phải là điều bắt buộc đối với tàu quân sự hay chấp pháp.
Mục tiêu của việc này, theo AMTI, chính là để tất cả mọi người thấy rõ là tàu chấp pháp Trung Quốc đang hiện diện trong khu vực, qua đó khẳng định rằng vùng đó là thuộc chủ quyền Trung Quốc.
Báo cáo của AMTI nhận định : "Rõ ràng Bắc Kinh quan tâm đặc biệt đến các bãi cạn Luconia, Cỏ Mây và Scarborough. Trung Quốc như đang cho rằng nếu duy trì được sự hiện diện bán thường trực của lực lượng hải cảnh của họ trong một thời gian đủ lâu, thì các nước trong vùng rốt cuộc sẽ chấp nhận quyền kiểm soát trên thực tế của Trung Quốc tại những khu vực đó".
Cũng theo AMTI, nếu chiến lược đó thành công tại những nơi này, Trung Quốc hoàn toàn có thể mang qua áp dụng tại những nơi có tranh chấp khác.
Đối với AMTI, để dự phòng phản ứng của các nước láng giềng, tàu tuần tra Trung Quốc thường to lớn hơn nhiều so với tàu cảnh sát biển, thậm chí tàu chiến của những nước đó. Tại ba bãi cạn của Malaysia và Philippines, Bắc Kinh dùng loại tàu tương đối nhỏ không trang bị vũ khí mạnh, nhưng mang theo vòi rồng và vũ khí nhỏ, đủ để đâm vào xua đuổi tàu đối phương mà không sử dụng đến vũ lực sát thương.
Riêng trong trường hợp Bãi Tư Chính hiện nay (hay tại khu vực đảo Thị Tứ từ cuối năm 2018 ), Trung Quốc đã triển khai thêm loại tàu lớn, trang bị súng 76 ly.
Trả lời báo Hồng Kông South China Morning Post số ra hôm nay, 27/09/2019, ông Collin Koh, chuyên gia về hải quân thuộc Chương Trình An Ninh Hàng Hải tại Trường Nghiên Cứu Quốc Tế S Rajaratnam ở Singapore, cho rằng hành động phô trương sự hiện hiện của các tàu hải cảnh là cách thức Trung Quốc áp đặt quyền tài phán của họ trong khu vực.
Theo chuyên gia này : "Chỉ riêng việc những con tàu này có mặt ở đó (những nơi có tranh chấp), phát đi tín hiệu AIS một cách công khai, đã có thể có tác dụng uy hiếp đối với người thường, đặc biệt là ngư dân của những quốc gia thường hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của họ - đặc biệt là khi những người này không được hoặc không mong đợi có sự bảo vệ hiệu quả từ các cơ quan hàng hải của chính phủ họ".
Chuyên gia Singapore kết luận là sự hiện diện của hải cảnh Trung Quốc "chắc chắn sẽ có tác dụng xua đuổi ngư dân nước khác, hoặc buộc họ làm theo ý của Trung Quốc".
Trọng Nghĩa
******************
Hôm 26/9, thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ David Hale gặp Phó Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh tại New York, nói rằng Mỹ có lợi ích trong việc đảm bảo an ninh, an toàn hàng hải và hàng không tại Biển Đông.
TTXVN tường thuật rằng ông Hale khẳng định cam kết của Mỹ đối với hoà bình, an ninh và thịnh vượng tại khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
"Mỹ có lợi ích trong việc đảm bảo trật tự dựa trên luật lệ, tự do, an ninh, an toàn hàng hải và hàng không tại Biển Đông", nhà ngoại giao hàng đầu của Hoa Kỳ chuyên trách các vấn đề chính trị nói.
Ngoài ra, thứ trưởng David Hale bày tỏ mong muốn hai bên duy trì tiếp xúc ở các cấp, thường xuyên tham vấn và phối hợp trong quan hệ song phương cũng như các diễn đàn đa phương, theo Cổng thông tin Chính phủ Việt Nam.
Đài truyền hình VTV dẫn lời Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh khẳng định Việt Nam coi trọng và mong muốn tăng cường quan hệ với Mỹ trong bối cảnh hai nước chuẩn bị kỷ niệm 25 năm bình thường hóa quan hệ vào năm 2020, đề nghị hai bên phối hợp tăng cường tiếp xúc và đối thoại, nhất là cấp cao, làm sâu sắc hơn và mở rộng khuôn khổ quan hệ thương mại-đầu tư, an ninh-quốc phòng..., tăng cường hợp tác trong các vấn đề quốc tế và khu vực.
Ông Phạm Bình Minh vừa tới New York để tham dự Phiên thảo luận chung cấp cao khóa 74 Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc (Liên Hiệp Quốc) và Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN không chính thức (IAMM) từ 26 đến 29/9.
Văn phòng của Người phát ngôn cho Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc cho VOA tiếng Việt biết rằng, theo lịch trình tạm thời, một phó thủ tướng của Việt Nam sẽ có bài phát biểu tại cuộc họp của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc (UNGA) vào ngày 28/9.
Trước sự kiện này, giới phân tích cho VOA biết rằng Hà Nội nên nêu vụ "đối đầu" với Trung Quốc ở Bãi Tư Chính để vận động sự ủng hộ của nhiều quốc gia hơn nữa.
******************
Các nhà lập pháp Hoa Kỳ vừa trình hai dự luật nhằm đối đầu sự bành trướng về sức mạnh quân sự và kinh tế của Trung Quốc, cũng như cho phép chính phủ Mỹ hợp tác chặt chẽ hơn nữa với các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, để đảm bảo an ninh khu vực trước hành động hung hăng của Bắc Kinh.
Hôm 25/9, Thượng nghị sĩ Mitt Romney và các thượng nghị sĩ lưỡng đảng của Hoa Kỳ đã giới thiệu dự luật Hợ p tác Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương(The Indo-Pacific Cooperation Act of 2019), theo đó cho phép Hoa Kỳ hợp tác với các đồng minh ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương và cả Châu Âu để cùng đưa ra một giải pháp thống nhất nhằm đối phó sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Trao đổi với VOA Tiếng Việt qua email hôm 26/9, Văn phòng của Thượng nghị sĩ Mitt Romney trích lời ông cho biết trong một thông cáo : "Đã đến lúc chúng ta phải xây dựng một chiến lược toàn diện để đối đầu với hành động hung hăng của Trung Quốc khi họ đang mở rộng sức mạnh kinh tế và quân sự".
"Để làm tốt nhất điều đó, chúng ta phải liên kết sức mạnh quân sự với các quốc gia khác và phát triển cách tiếp cận thống nhất với các đồng minh để giải quyết mối đe dọa đáng kể của Trung Quốc đối với nền tự do của chúng ta và trên khắp thế giới", Thượng nghị sĩ Romney nói thêm.
Trong một thông cáo hôm 25/9, nữ Thượng nghị sĩ Cortez Masto, đồng bảo trợ Dự luật Hợ p tác Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, nói : "Các liên minh và các đối tác mạnh mẽ trên khắp thế giới của Hoa Kỳ là một nguồn sức mạnh hợp nhất. Dự luật này sẽ đảm bảo cho chúng ta phối hợp hiệu quả hơn với các quốc gia khác để có cách tiếp cận thống nhất, toàn diện đối với Trung Quốc…"
Trước đó, vào chiều 24/9, Hạ viện Hoa Kỳ đã thông qua Dự luật Chiế n lược Đông Nam Á (Southeast Asia Strategy Act) nhằm tăng cường sự can dự của Hoa Kỳ vào khu vực Đông Nam Á và đảm bảo rằng các đối tác quan trọng trong khu vực nhận được sự hẫu thuẫn mạnh mẽ của Hoa Kỳ. Ngày hôm sau, 25/9, dự luật này đã được chuyển cho Thượng viện xem xét.
Nữ Dân biểu Ann Wagner, người giới thiệu Dự luật Chiế n lược Đông Nam Á, cho biết trong một thông cáo hôm 18/9 : "Cho đến nay, Hoa Kỳ chưa bao giờ đưa ra một chiến lược toàn diện cho khu vực Đông Nam Á. Dự luật Chiế n lược Đông Nam Á sẽ thực hiện điều đó bằng cách thiết lập một chiến lược khu vực sâu sắc, rành mạch, nhằm giải quyết tất cả các khía cạnh của mối quan hệ quan trọng của chúng ta với Đông Nam Á và ASEAN".
"Quốc hội đang làm việc với Chính phủ để thông báo với đối tác của chúng ta rằng Hoa Kỳ sẽ ủng hộ họ khi họ mở rộng thương mại và phát triển, bảo đảm an ninh biên giới, tăng cường nhân quyền và bảo vệ trước sự hung hăng của Trung Quốc", bà Wagner cho biết.
Thông cáo cho biết Dự luật Chiế n lược Đông Nam Á sẽ yêu cầu Ngoại trưởng Hoa Kỳ, có tham vấn với Bộ trưởng Thương mại và Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, cùng thiết lập và truyền đạt một chiến lược toàn diện để tăng cường mối quan hệ với khu vực Đông Nam Á và khối ASEAN, mà trong đó Việt Nam là một thành viên.
Ba trọng tâm của Dự luật Chiế n lược Đông Nam Á bao gồm thứ nhất là xác định các lợi ích lâu dài của Hoa Kỳ trong khu vực và nỗ lực thúc đẩy ASEAN trở thành một nhà lãnh đạo khu vực ; thứ hai, lập danh sách các sáng kiến đang diễn ra và có kế hoạch nhằm tăng cường các mối quan hệ của Hoa Kỳ trong khu vực thông qua thương mại, đầu tư, năng lượng và ngoại giao về chính trị và kinh tế ; và thứ ba, đánh giá những nỗ lực liên tục để các quốc gia trong khu vực tăng cường các hoạt động vì nhân quyền và dân chủ.
****************
Vụ Bãi Tư Chính : Tàu Trung Quốc ‘cố ý’ để lộ diện trên dữ liệu theo dõi (VOA, 27/09/2019)
Một báo cáo vừa mới công bố hôm 26/9 của tổ chức Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á (AMTI) có trụ sở ở Washington cho biết các tàu hải cảnh mà Trung Quốc triển khai trên Biển Đông trong thời gian qua cùng với tàu thăm dò Hải Dương Địa Chất 8 đã "cố ý" để lộ diện trên dữ liệu theo dõi hàng hải nhằm khẳng định chủ quyền.
Tàu thăm dò Hải Dương Địa Chất 8 của Cục Khảo sát Địa chất Trung Quốc. Ảnh : China Geological Survey.
AMTI cho biết họ xác định được 14 tàu hải cảnh Trung Quốc đã phát tín hiệu AIS (hệ thống nhận dạng tự động) trong lúc tuần tra ở các bãi cạn Luconia, Second Thomas và Scarborough trong năm qua.
Theo quy định, các tàu thương mại trên 300 tấn phải phát tín hiệu AIS để tránh va chạm, trong khi các tàu công lực và quân sự có quyền quyết định phát tín hiệu này khi nào và ở đâu.
Theo báo cáo của nhóm chuyên gia nghiên cứu ở Mỹ, nhiều tàu hải cảnh của Trung Quốc đang tuần tra ở những khu vực khác trên Biển Đông chỉ phát tín hiệu khi ra vào cảng. Tuy nhiên, chỉ trong 365 ngày qua, các tàu hải cảnh Trung Quốc đã phát tín hiệu AIS lên đến 258 ngày ở bãi Luconia, 215 ngày ở bãi Second Thomas và 162 ngày ở bãi Scarborough.
Kể từ đầu tháng 7, tàu thăm dò Hải Dương 8 của Trung Quốc cùng với nhóm tàu hải cảnh hộ tống đã xâm nhập vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, gần khu vực Bãi Tư Chính, nơi Việt Nam đang hợp tác với một số nước để thăm dò và khai thác dầu khí.
Sự kiện này đã đẩy căng thẳng trong quan hệ Việt-Trung lên đến đỉnh điểm, kể từ sau khi Bắc Kinh đưa giàn khoan HD-981 vào Biển Đông năm 2014.
Báo cáo của AMTI cho biết trong khoảng thời gian từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 9 năm 2019, tín hiệu AIS cho thấy đã có 3308 cuộc tuần tra của tàu hải cảnh Trung Quốc được thực hiện xung quanh ba bãi cạn trên, ngoài việc tham gia vào hoạt động quấy rối khu vực thăm dò và khai thác dầu khí của Việt Nam tại Lô 06-01, cũng như hộ tống tàu thăm dò Hải Dương 8.
Theo các nhà nghiên cứu Mỹ, cách tuần tra tạo thành "khuôn mẫu" và "thông lệ" này càng cho thấy ý định "khẳng định chủ quyền" của Trung Quốc ở những nơi mà Bắc Kinh đã tuyên bố yêu sách chủ quyền nhưng chưa xây dựng được cơ sở vật chất tại đó.
Giải thích vì sao số lượng phát tín hiệu AIS ở bãi Luconia và bãi Second Thomas lại thường xuyên hơn ở bãi Scarborough, báo cáo của AMTI nói là vì hai bãi cạn trên vẫn đang nằm dưới sự quản lý của Philippines và Malaysia trong khi bãi Scarborough xem như đã nằm dưới sự "kiểm soát chặt chẽ" của Trung Quốc nên "không nhất thiết phải phát tín hiệu nhận dạng vị trí của tàu như một cách tuyên bố chủ quyền".
Theo AMTI, Trung Quốc có vẻ như sẽ tiếp tục thực hiện cách thức cho tàu hải cảnh hiện diện "bán thường trực" ở những khu vực tranh chấp trên Biển Đông trong một thời gian đủ lâu để dần dần tạo thành tình trạng kiểm soát "trên thực tế" khiến các quốc gia trong khu vực buộc phải chấp nhận.
******************
Việt Nam - Hoa Kỳ tham vấn quốc phòng (RFA, 27/09/2019)
Vào ngày 27 tháng 9, thứ trưởng Bộ Quốc Phòng Việt Nam, thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh có cuộc tiếp đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, ông Daniel Krintenbrink và đoàn Cục Kế hoạch Chiến lược & Hoạch định Chính Sách Bộ Tư Lệnh Ấn Độ - Thái Bình Dương của Mỹ nhân dịp đoàn sang dự Tham vấn quốc phòng Việt Nam - Hoa Kỳ.
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh và Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Hoa Kỳ tại Việt Nam Daniel J. Kritenbrink tại buổi tiếp ngày 27/9/2019. Ảnh chụp màn hình VTC.vn
Thông tấn xã Việt Nam loan tin, Thiếu tướng Stephen Sklenka, Cục trưởng Cục Kế hoạch Chiến lược & Hoạch định Chính sách Bộ Tư Lệnh Ấn Độ - Thái Bình Dương của Mỹ tại cuộc gặp đã thông báo kết quả của buổi làm việc giữa đoàn Hoa Kỳ với Cục Đối ngoại, Bộ Quốc Phòng Việt Nam.
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh của Việt Nam bày tỏ mong muốn hai phía tiếp tục xây dựng và đẩy mạnh các kế hoạch hợp tác trong tương lai ; đặc biệt trong các lĩnh vực hàng hải, an ninh biển ; khắc phục hậu quả chiến tranh, góp phần xây dựng khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương ngày cảng ổn định, hòa bình và phát triển.
Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, ông Daniel Kritenbrink cho rằng hợp tác an ninh - quốc phòng giữa Washington và Hà Nội là một điểm sáng trong quan hệ song phương Mỹ - Việt.
Cũng tin liên quan, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh Việt Nam và thứ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ David Hale trong ngày 26/9 có cuộc gặp tại New York. Nhân dịp này ông Phạm Bình Minh bày tỏ mong muốn tăng cường quan hệ hai nước, nhất là kỷ niệm 25 năm Việt – Mỹ bình thường hóa quan hệ sẽ diễn ra vào năm 2020.
Về phía Hoa Kỳ, thứ trưởng David Hale khẳng định cam kết của Mỹ đối với hòa bình, an ninh và thịnh vượng trong khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.
Đồng thời ông cũng nhấn mạnh Mỹ có lợi ích trong việc đảm bảo trật tự dựa trên luật lệ, tự do, an ninh an toàn hàng hải và hàng không tại Biển Đông.
Chiến tranh thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc ngày càng căng thẳng, đã dẫn đến một sự hỗn loạn thị trường và nguy cơ kinh tế suy thoái cho cả toàn cầu chứ không riêng gì cho hai nước.
Tại Châu Âu, những tác động của cuộc chiến thương mại và quyết định của Anh rời khỏi Liên Hiệp Châu Âu (Brexit) đã kìm hãm đà tăng trưởng kinh tế của các nước trong Liên Hiệp Châu Âu (EU). Nhưng hơn hết nó đang làm thay đổi cục diện địa chính trị, làm lung lay nền tảng cán cân quyền lực tại Châu Âu, buộc EU phải định hình lại vai trò của liên minh trên thế giới.
EU đánh giá Châu Á, đặc biệt Đông Nam Á là khu vực đang phát triển và là trọng tâm của một chiến lược mới hướng về Châu Á, nên EU muốn xây dựng mối liên kết sâu rộng đồng thời tăng cường sự hiện diện tại khu vực, thông qua quan hệ thương mại và quốc phòng.
Hợp tác và triển khai chiến lược an ninh
Tại hội nghị Đối thoại Shangri-La (tháng 5/2019), bà Federica Mogherini, Phó Chủ tịch Ủy ban EU, Đại diện cấp cao của EU về Chính sách Đối ngoại và An ninh, xác nhận, EU hiện đã hợp tác chặt chẽ hơn bao giờ hết với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), không chỉ về chính trị và kinh tế, mà còn về an ninh. Từ nhiều năm qua, EU luôn tham dự các phiên họp của Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN và các Hội nghị thượng đỉnh Đông Á thường niên.
Vào tháng 5, Thứ trưởng quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh dẫn một phái đoàn Việt Nam tới Brussels để tham dự cuộc họp của các Bộ trưởng Quốc phòng EU theo lời mời của ông Claudio Graziano, Chủ tịch Ủy ban Quân sự Liên Hiệp Châu Âu, cơ quan quân sự cao nhất của EU.
Cũng trong tháng 5, cuộc họp ủy ban chung đầu tiên theo Hiệp định khung đối tác và hợp tác toàn diện Việt Nam và EU (EU-Vietnam Framework Agreement on Comprehensive Partnership and Cooparation – EV-PCA) đã được tổ chức. Đây là thỏa thuận được ký vào năm 2012 và có hiệu lực vào năm 2016. Cuộc họp này do Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam, Tô Anh Dũng và Gunnar Wiegand, giám đốc Châu Á và Thái Bình Dương thuộc Cơ quan hành động đối ngoại Châu Âu, đồng chủ trì.
Vào ngày 5 tháng 8, báo Asia Times loan tin, Federica Mogherini và Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch ký thỏa thuận khung hợp tác quốc phòng (Framework Participation Agreement – FPA). Theo đó, Việt Nam được khuyến khích đóng góp vào các hoạt động trong khuôn khổ Chính sách An ninh và Quốc phòng chung của EU, một chiến lược phối hợp chính sách tình báo và quốc phòng của khối này cũng như tham gia vào các công tác gìn giữ hòa bình, phòng ngừa xung đột và tăng cường an ninh quốc tế trong khu vực lân cận EU.
Đây là dấu hiệu mới nhất, cho thấy, EU đang cố gắng thiết lập mối quan hệ quốc phòng chặt chẽ hơn với khu vực và đặc biệt với Việt Nam, vốn là trọng tâm tranh chấp với Bá quyền Trung Quốc ở Biển Đông. Trước đó EU đã ký kết FPA với Úc, Tân Tây Lan và Hàn Quốc.
Can dự vào Biển Đông, bảo vệ tự do hàng hải
Cho đến nay, EU từ chối công khai ủng hộ các bên tranh chấp ở Biển Đông, nhưng đã đưa ra quan điểm đòi Bắc kinh phải tuân thủ công pháp quốc tế, dựa trên các nguyên tắc của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (United Nations Convention on the Law of the Sea -UNCLOS). Trong chiến lược toàn cầu được công bố vào tháng 6.2016, Liên Hiệp Châu Âu cam kết các yêu cầu: Duy trì tự do hàng hải, bảo đảm sự tuân thủ Công pháp quốc tế bao gồm Luật biển và thủ tục tài phán, cũng như giải quyết các tranh chấp vùng biển trong hoà bình.
Hiện có hai quốc gia thành viên EU đang tham gia tự do hoạt động hàng hải ở Biển Đông là Pháp và Vương quốc Anh.
Quan hệ an ninh Pháp – Việt đã được cải thiện nhiều. Hai bên đã ký thỏa thuận hợp tác quốc phòng từ năm 2009 và bắt đầu Đối thoại chính sách quốc phòng vào cuối năm 2016.
Cuộc đối thoại cấp thứ trưởng đầu tiên giữa hai nước về chiến lược an ninh và quốc phòng diễn ra vào tháng 9.2018 và ký kết thành lập một Ủy ban hợp tác quốc phòng Việt- Pháp.
Pháp là quốc gia nhiều lần lên tiếng phản đối Trung Quốc chiếm đóng và quân sự hóa nhiều nơi trên Biển đông. Các tàu của Pháp tham gia vào các cuộc diễn tập tự do hàng hải trên Biển Đông năm 2017 và năm 2018.
Vào tháng 5/2019, tàu khu trục FS Forbin của Pháp đã cập cảng Việt Nam lần đầu tiên. Tại Hội nghị Shangri-La 2019 ở Singapore, một cuộc đối thoại quốc phòng khu vực thường niên được tổ chức hồi cuối tháng 5, Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Florence Parly đã hứa rằng, các tàu của Pháp "sẽ đi vào biển Đông nhiều hơn hai lần một năm".
Khởi động thành lập "Liên minh các quốc gia dân chủ Châu Á"
Vào cuối tháng 6/2019 Tổng thống Pháp Emmanuel Macron thăm Nhật Bản với mục đích thảo luận với Thủ tướng Nhật Shinzo Abe về dự án lập một liên minh với các quốc gia dân chủ, nhằm chống lại bá quyền Trung Quốc trong vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương. Sáng kiến này trước đây đã được Abe trình bày trong diễn văn đọc trước Quốc hội Ấn vào năm 2007. Theo đó, Nhật, Ấn, Úc và một số quôc gia dân chủ khác sẽ cùng liên kết đối đầu Trung Quốc, một bá quyền trỗi dậy đang đe dọa sự ổn định tại Châu Á và thế giới.
Nay Pháp, quốc gia thành viên EU đầu tiên muốn tham gia sáng kiến của Thủ tướng Abe. Tổng thống Macron tuyên bố Pháp-Nhật hợp tác nhằm lập một liên minh tranh đấu cho một khu vực phi bá quyền và phi nguyên tử. Ngân sách quốc phòng ba quốc gia Pháp, Nhật và Ấn hợp chung là 177 tỷ USD, trong khi Trung Quốc chi 250 tỷ USD cho quân sự. Trung Quốc hiện có 450 đầu đạn hạt nhân : 150 đầu đạn hạt nhân chiến lược, 150 bom hạt nhân, và 150 đầu đạn pháo hạt nhân.
Thủ tướng Abe đang nỗ lực sửa đổi Hiến pháp, cho phép Nhật trong tương lai tham gia hỗ trợ quân sự cho các quốc gia đồng minh. Chẳng hạn, trong trường hợp Trung Quốc lấn vào một quần đảo của Pháp ở Thái Bình Dương, Nhật có thể can dự mà không bị kết án vi hiến. Dominique Moisi, nguyên giáo sư Harvard, chuyên gia đối ngoại Pháp so sánh sáng kiến Abe và Macron với một liên minh của ba nước Phổ, Áo và Anh đã liên kết chống lại Đế quốc hùng mạnh Napoleon trong thế kỷ 18 và đã thành công. Ông giải thích thêm, lý do hình thành Liên minh Nhật, Ấn, Úc và Pháp là thực tại thế giới mới đang ở vào thời điểm, Trung Quốc đã là mối đe dọa lớn và không ai còn tin tưởng vào Hoa Kỳ nữa.
Trong tương lai, Châu Âu sẽ là một tác nhân toàn cầu (global player) như Mỹ, Trung và Nga và hơn bao giờ hết EU không muốn duy trì vị thế bánh mì kẹp Sandwich (Sandwich position) phụ thuộc vào mối tương quan quyền lợi giữa hai siêu cường Mỹ-Trung.
Quan hệ Việt Nam-Liên Hiệp Châu Âu (EU)
Bối cảnh toàn cầu phức tạp thúc đẩy EU mở rộng quan hệ và tìm kiếm thỏa thuận thương mại với mọi quốc gia, đặc biệt với các nước thành viên ASEAN. Hiện tại bang giao Việt Nam-EU cũng đã có nhiều cải thiện và đang phát triển. Trong thời gian tới Việt Nam sẽ trở thành thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc và Việt Nam chuẩn bị đảm nhận vị trí chủ tịch của khối ASEAN.
Các mốc lớn trong quan hệ Việt Nam – EU
1990 : Việt Nam và Cộng đồng Châu Âu chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao.
1995 : Việt Nam và Cộng đồng Châu Âu ký Hiệp định Khung Hợp tác Việt Nam – EC.
1996 : Ủy ban Châu Âu thành lập Phái đoàn Đại diện thường trực tại Việt Nam.
2003 : Việt Nam và EU chính thức tiến hành đối thoại nhân quyền.
2004 : Hội nghị cấp cao Việt Nam – EU lần đầu tiên tại Hà Nội.
2012 : Ký chính thức PCA Việt Nam – EU và khởi động đàm phán EVFTA.
2015 : Ký Tuyên bố chính thức kết thúc đàm phán EVFTA.
Thương mại
Thương mại là trụ cột quan trọng trong quan hệ Việt Nam – EU. EU là đối tác thương mại lớn thứ tư (sau Trung Quốc, Hàn Quốc và Mỹ) và là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai (sau Mỹ) của Việt Nam. Tổng kim ngạch thương mại hai chiều trong năm 2018 là 47.286 tỷ USD trong đó xuất khẩu là 35,522 tỷ USD, nhập khẩu là 11,764 tỷ USD.
Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA)
Bốn năm sau khi các cuộc đàm phán kết thúc (2015), Việt nam và Liên Hiệp Châu Âu cuối cùng đã ký hiệp định thương mại tự do (FTA) và thỏa thuận bảo hộ đầu tư vào ngày 30 tháng 6 tại Hà Nội. Các thỏa thuận này có ý nghĩa không chỉ đối với mối quan hệ của Việt Nam với Châu Âu, mà còn là một dấu mốc quan trọng trong quan hệ kinh tế giữa EU và khu vực Đông Nam Á. Mục tiêu dài hạn của EU là can dự mở rộng ảnh hưởng ở Châu Á.
Bốn năm sau khi các cuộc đàm phán kết thúc (2015), Việt nam và Liên Hiệp Châu Âu cuối cùng đã ký hiệp định thương mại tự do (FTA) và thỏa thuận bảo hộ đầu tư vào ngày 30 tháng 6 tại Hà Nội.
Theo sau Singapore và Việt Nam, nước kế tiệp EU ký kết là Indonesia. EVFTA là Hiệp định thương mại quan trọng là giữa Việt Nam với EU. Đây là cơ hội lớn cho xuất khẩu Việt Nam khi hàng hoá luôn xuất siêu vào thị trường này.
Theo cam kết trong EVFTA, trong vòng 7 năm, EU sẽ xóa bỏ 99,2% số dòng thuế trong biểu thuế, tương đương 99,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU. Trong vòng 10 năm, Việt Nam sẽ xóa bỏ trên 99% số dòng thuế đối với nhập khẩu từ EU. Đối với thương mại dịch vụ và đầu tư, EU cam kết tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam.
Khả năng EVFTA được phê chuẩn ?
Trong quá trình đàm phán kéo dài nhiều năm, Hiệp định EVFTA đã gây nhiều tranh cãi giữa các chính đảng trong EU. Những nghị sĩ ủng hộ cho rằng, EU nên nhượng bộ thương mại để khuyến khích Việt Nam nỗ lực bảo vệ môi sinh và tôn trọng nhân quyền. Ngược lại, phe chống đối lo ngại tính khả thi trong trường hợp thoả thuận với Cộng sản Việt Nam.
Nội dung EV-FTA cho thấy, hiệp định không thuần túy là thỏa ước thương mại mà còn đính kèm các điều kiện nhân quyền mà cả hai bên đều phải tuân thủ. EU ký kết các thỏa thuận thương mại không chỉ đơn giản nhằm tăng lợi ích kinh tế mà còn sử dụng như một công cụ quảng bá các giá trị tự do, dân chủ, công lý, pháp trị và nhân quyền.
Trong 8 phiên họp Đối thoại nhân quyền giữa Việt nam và EU, EU luôn nhấn mạnh vào sự cần thiết đạt được tiến bộ quan trọng trong các quyền về chính trị và dân sự. EU đã phê bình các vụ giam giữ và kết án, cũng như những hạn chế quyền tự do đi lại của những nhà bảo vệ nhân quyền. EU đòi hỏi tất cả những cá nhân bị bắt giam vì đã thực hiện quyền tự do biểu đạt của mình một cách ôn hòa trên mạng hay không qua mạng cần phải được trả tự do. Ngoài ra EU đề cao vai trò rất quan trọng của các tổ chức xã hội dân sự trong việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người cũng như trong việc tăng cường sự phát triển kinh tế, xã hội bền vững.
Trong năm qua, nhiều Nghị sĩ của Nghị viện Châu Âu đã gửi thư ngỏ thúc giục chính quyền Việt Nam phải thực hiện những bước cải thiện đáng kể trong hồ sơ nhân quyền trước khi EVFTA có thể được phê chuẩn.
Trong quá khứ Hiệp định EVFTA dự kiến phê chuẩn vào năm 2018, đã bị Liên Hiệp Châu Âu hoãn lại vì chế độ Hà nội vi phạm luật quốc tế qua việc mật vụ Việt Nam bắt cóc trắng trợn một viên chức Việt nam xin tị nạn tại Đức hồi mùa hè 2017 cũng như tình trạng nhân quyền ngày càng trầm trọng ở Việt Nam. Vụ bắt cóc dẫn đến khủng hoảng bang giao Việt-Đức. Chính quyền Berlin đã tạm ngưng đối tác chiến lược với Hà Nội.
Lần này trước tình hình mới Hiệp định sẽ được đưa ra Nghị viện Châu Âu phê chuẩn vào cuối năm nay hoặc sang năm 2020. Nếu được Nghị viện Châu Âu phê chuẩn, EV-FTA sẽ tạo ra những chuyển biến lớn về kinh tế, đồng thời sẽ có những ảnh hưởng nhất định đến giới hoạt động nhân quyền ở Việt Nam.
Vũ Ngọc Yên
Nguồn : Tiếng Dân (27/09/2019)
Trung Quốc điều một giàn khoan nước sâu hiện đại ra Biển Đông (26/09/2019)
Theo nhật báo Hồng Kông South China Morning Post ngày 25/09/2019, Trung Quốc vừa đưa một giàn khoan dầu hỏa nước sâu xuống hoạt động tại Biển Đông.
Ảnh minh họa - Một giàn khoan dầu khí ngoài biển. Getty Images/HeliRy
Việc Bắc Kinh đưa giàn khoan mang tên Hải Dương Thạch Du 982 xuống Biển Đông gợi lại vụ Trung Quốc cho giàn khoan Hải Dương 981 vào cắm trong vùng thềm lục địa của Việt Nam năm 2014, làm dấy lên phản ứng dữ dội của Việt Nam.
Trích dẫn một bài viết trên trang mạng Trường An Kiếm (Chang An Jian) của Ủy ban Chính pháp Trung ương Trung Quốc, South China Morning Post cho biết là giàn khoan dầu Hải Dương Thạch Du 982 (Haiyang Shiyou 982) bắt đầu hoạt động từ hôm 21/09 tại một vùng biển sâu đến 3.000 m ở Biển Đông.
Theo bài viết, đây là giàn khoan lớn nhất và hiện đại nhất trong số các giàn khoan cùng loại của Trung Quốc, có thể khoan ở độ sâu đến 5.000 m dưới biển. Tuy nhiên, tác giả không cho biết là giàn khoan đang hoạt động ở khu vực nào tại Biển Đông.
Vụ Bắc Kinh đưa giàn khoan Hải Dương 982 xuống Biển Đông chắc chắn sẽ được chính quyền Việt Nam theo dõi sát, trong bối cảnh hồi tháng 7 vừa qua, Trung Quốc cho tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 vào hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, gần khu vực Bãi Tư Chính.
Chiếc tàu này hiện đã quay về neo đậu tại Đá Chữ Thập ở vùng Trường Sa, nhưng giới quan sát không loại trừ khả năng chiếc tàu đó trở lại khu vực Bãi Tư Chính như đã từng làm.
Ngoài ra, Trung Quốc cũng đã cho chiếc tàu cẩu Lam Kình di chuyển qua vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, mà theo South China Morning Post, có lúc chỉ cách bờ biển Quảng Ngãi khoảng 90 km.
Vụ Hải Dương Thạch Du 982 xuống Biển Đông còn đặc biệt gợi lên vụ giàn khoan nước sâu đầu tiên của Trung Quốc, Hải Dương Thạch Du 981, bắt đầu hoạt động tại Biển Đông vào năm 2012, và hai năm sau đã được Bắc Kinh lắp đặt trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, làm dấy lên phong trào phản đối Trung Quốc xâm lấn Việt Nam.
Theo tờ báo Hồng Kông, từ năm 2016 đến nay, Bắc Kinh đã tăng cường các hoạt động thăm dò đầu khí nhằm giảm lệ thuộc vào nguồn cung ứng dầu thô từ nước ngoài. Mối quan ngại của Trung Quốc về việc thiếu nhiên liệu càng gia tăng, trong bối cảnh các cơ sở dầu hỏa của Ả Rập Xê Út vừa bị tấn công, mà vương quốc này là nguồn cung cấp dầu thô thứ hai cho Trung Quốc.
Trọng Nghĩa
*******************
Trung Quốc đưa giàn khoan nước sâu mới vào Biển Đông (RFA, 25/09/2019)
Giàn khoan nước sâu Hải Dương Thạch Du 982 của Trung Quốc xúc tiến hoạt động tại Biển Đông kể từ ngày thứ bảy tuần qua.
Hình minh họa. Một tàu cảnh sát biển Việt Nam gần giàn khoan 981 của Trung Quốc ở Biển Đông hôm 14/5/2014 - AFP
Mạng báo South China Morning Post vào ngày 25 tháng 9 dẫn nguồn từ truyền thông Nhà nước Trung Quốc về tin vừa nêu ; cũng như theo tài khoản mạng xã hội Trường An Kiếm của Ủy ban Chính Pháp Trung ương Trung Quốc.
Cụ thể, giàn khoan Hải Dương Thạch Du 982 được triển khai hoạt động tại vùng nước sâu đến 3.000 mét. Đây là giàn khoan dầu lớn nhất và hiện đại nhất thuộc loại này của Trung Quốc và độ sâu nhất mà giàn có thể khoan là 5.000 mét.
Tin không nói rõ giàn khoan Hải Dương Thạch Du 982 được hạ đặt ở tọa độ cụ thể nào.
Bắc Kinh cho tăng cường hoạt động thăm dò tài nguyên kể từ năm 2016 nhằm giảm bớt lệ thuộc vào nguồn cung ứng dầu thô từ nước ngoài.
Trong khi đó từ cuối tháng 6 và đầu tháng 7 vừa qua, Trung Quốc cho tàu thăm dò đại dương được hộ tống bởi tàu hải cảnh đi vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ở khu vực Bãi Tư Chính. Có những lúc tàu này chỉ cách bờ biển Việt Nam 155 kilomet.
Hà Nội kêu gọi Bắc Kinh chấm dứt hoạt động vi phạm luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982, như thế.
Trung Quốc không những không đáp ứng yêu cầu từ phía Việt Nam mà vào ngày 18 tháng 9, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, ông Cảnh Sảng, cho rằng Bãi Tư Chính thuộc vùng nước quanh quần đảo Trường Sa. Ông Cảnh Sảng còn yêu cầu Việt Nam chấm dứt các hoạt động dầu khí tại đó.
Giàn khoan nước sâu đầu tiên của Trung Quốc, Hải Dương Thạch Du 981, được đưa vào hoạt động tại Biển Đông vào năm 2012. Đến giữa năm 2014, giàn khoan này được hạ đặt trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam dẫn đến đợt biểu tình chống Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Việt Nam tại nhiều nơi trên cả nước.
Tình hình Biển Đông hiện nay đang xuất hiện ba xu hướng : Trung Quốc tăng cường xâm lấn chủ quyền của Việt Nam ; Hà Nội lúng túng ; và người dân Việt phần lớn bày tỏ sự lãnh đạm.
Gấu sao Trung Quốc độc chiếm Biển Đông - Tranh biếm họa
Trung Quốc và an ninh năng lượng dầu khí
Vào ngày 22/9, Global Times xuất bản nội dung bài viết, cho biết thành công của một tập đoàn năng lượng nước này trong làm chủ công nghệ để tìm kiếm, thăm dò dầu khí nước sâu ở Biển Đông. Tập đoàn dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc (CNOOC), đã thiết lập một lý thuyết về tích tụ khí đốt tự nhiên ở vùng nhiệt độ và áp suất cao của lưu vực Ying-qiong, một khu vực khí mới được phát hiện ở vùng biển gần đảo Hải Nam.
Bài viết dẫn lời ông Lin Boqiang, Giám đốc trung tâm nghiên cứu kinh tế năng lượng Trung Quốc tại Đại học Hạ Môn, ca ngợi những bước đột phá là một đóng góp quan trọng cho an ninh năng lượng và phát triển kinh tế và xã hội của Trung Quốc.
Lin Boqiang khẳng định, phát triển công nghệ khai thác biển ở Biển Đông là một trong những giải pháp khả thi để giải quyết cuộc khủng hoảng năng lượng và đảm bảo an ninh năng lượng trong tương lai.
Như vậy, những tiến triển trong công nghệ thăm dò của Trung Quốc có thể trở thành một trong những nền tảng cơ sở để Bắc Kinh tiến tới thăm dò và khai thác dầu khí mở rộng tại vùng Biển Đông. Và điều này, cùng với đẩy mạnh hiện đại hóa quốc phòng đã khiến vùng Bãi Tư Chính trở nên phức tạp hơn lệ thường.
Trong một thông tin có liên quan, Alexia Frangopoulos trong một bài viết trên Harvard Politics, cho biết, Trung Quốc đang tiến hành hiện đại hóa nhanh quân đội như là một bước tiến nhanh đạt được tham vọng bá quyền của nước này. Ngoài hạm đội tàu ngầm, Bắc Kinh sở hữu hành lang dài 5.000km, với hàng trăm ICBM hạt nhân.
Năm 2019, ngân sách quốc phòng hàng năm của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc là 177,5 tỷ USD, tăng 7,5% so với ngân sách quốc phòng năm ngoái. Trung Quốc đang phân bổ số tiền ngày càng tăng cho các chương trình và sáng kiến làm tăng số lượng và chất lượng vũ khí quân sự. Bộ Quốc phòng Trung Quốc tuyên bố rằng một trong những phát triển gần đây nhất của nước này chính là tàu khu trục tên lửa dẫn đường Type 055 mới - gần giống với tàu khu trục biển của Washington.
Ngoài ra, PLA đang phát triển kho dự trữ vũ khí hạt nhân. Dean Cheng, một chuyên gia trong quân đội Trung Quốc trong một cuộc phỏng vấn với HPR rằng lực lượng ICBM của Trung Quốc hiện đang rất hạn chế, ở ngưỡng 50. Nhưng có những báo cáo cho thấy Trung Quốc đang đẩy mạnh chương trình hiện đại hóa để mở rộng số lượng vũ khí hạt nhân mà nó khai thác.
Vào tháng 4/2017, Bắc Kinh tuyên bố rằng một trong những tàu sân bay của nước này đã đạt đến giai đoạn thử nghiệm cuối cùng, và hai chiếc tương tự đang được sản xuất. Điều đó sẽ mang lại cho Trung Quốc tổng cộng bốn tàu sân bay vào năm 2022.
Một phần lý do của tiến trình quân sự hóa PLA là nhằm duy trì quyền lực ở Biển Đông.
Biển Đông là con đường trung gian nối kết Bắc Kinh với châu Phi và Âu châu, và nước này có hơn 40% lượng hàng hóa thương mại được vận chuyển qua khu vực này. Đây cũng là tuyến đường giúp Bắc Kinh nhập dầu vào Trung Quốc, với hơn 80% lượng dầu nhập khẩu.
Biển Đông không chỉ hỗ trợ thương mại - nó cung cấp một nguồn tài nguyên quý giá mới như khí đốt và dầu mỏ. Các nhà khoa học ước tính rằng có từ 11 đến 22 tỷ thùng dầu dưới biển.
Trung Quốc phát triển lực lượng hải quân, nhằm mục đích kiểm soát phần còn lại của Biển Đông.
Trong khi đó, Mỹ với vai trò trở lại ở Châu Á – Thái Bình Dương đã tìm cách duy trì các căn cứ quân sự ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc và Singapore. Căn cứ hải quân Singapore, nằm cạnh bờ Biển Đông, đảm bảo Mỹ duy trì một vị trí thường trực trong khu vực, ngăn chặn tốc độ mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc. Nước này cũng có căn cứ tương tự tại Nhật Bản, nơi có 54.000 quân đồn trú.
Quay trở lại với vấn đề hiện đại hóa quân đội Trung Quốc. Vào năm 2017, Tập Cận Bình cam hiện đại hóa quân sự vào năm 2035. Đến năm 2050, Tập mong đợi một quân đội có khả năng chiến thắng các cuộc chiến tranh trên nhiều mặt trận, đặc biệt là thông qua công nghệ quốc phòng.
Trung Quốc đang tiến dần hoạt động ra phía Bắc ?
Trong khi đó, theo Dự án Đại sự ký Biển Đông, nhóm Hải Dương Địa Chất 8 thì vẫn đang đan áo sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam như thường lệ, và đang dịch dần lên hướng bắc. Điều này càng gia cố quan điểm, Bắc Kinh đang tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu bất ổn và Biển Đông là khu vực được lựa chọn. Và những diễn biến ở Bãi Tư Chính với hoạt động của nhóm tàu Hải Dương Địa Chất 8 càng đưa Hà Nội vào thế khó xử. Tính đến thời điểm hiện nay, ngoài những phản đối về mặt ngoại giao có liên quan, với mức độ ‘mạnh mẽ’ hơn so với trước đó (bao hàm yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền Việt Nam ở Biển Đông của Phó Thủ tướng Việt Nam - Vũ Đức Đam), Hà Nội vẫn chưa cho thấy những động thái kế tiếp.
Ông Nguyễn Phú Trọng, người đứng đầu tổ chức Đảng cộng sản Việt Nam, và Nhà nước Việt Nam vẫn giữ 'quyền im lặng' cho đến hiện nay.
Facebooker Ngọc Trần bày tỏ : chính quyền Việt Nam đang được đưa vào thế khó xử, bởi chính chính sách đu dây của mình. Chính sách đã khiến cho Mỹ và các quốc gia Tây phương trở nên dè dặt trong hợp tác trong những trường hợp mà chủ quyền quốc gia bị xâm phạm.
Quan điểm của Ngọc Trần phản ánh quan điểm chung của người dân, đặc biệt là giới trí thức Việt Nam hiện tại, đó là Việt Nam đang cô đơn trên mặt trận quốc tế, nơi mà Việt Nam không có một đồng minh thực tế hỗ trợ mình trước mối đe dọa của Bắc Kinh. Những đồng minh truyền thống như Nga, Cuba,… thực sự ‘vô dụng’ trong trường hợp này, khi một ‘cường quốc lỗi thời’ như Nga chỉ thuần túy là con buôn vũ khí, còn Cuba – người anh em thân thiết Tây Bán Cầu vẫn chật vật với nền kinh tế yếu ớt, và tiếng nói không có trọng lượng trên trường quốc tế. Còn đối với những quốc gia lên tiếng mạnh mẽ nhất như Úc, Nhật, Mỹ, Anh,… lại là những quốc gia chưa bao giờ được Hà Nội coi là đồng minh. Và đó là lý do vì sao, chuyến thăm lịch sử của Thủ tướng Úc Scott Morrison đến Hà Nội, vấn đề Biển Đông chỉ thể hiện qua tuyên bố mang tính chung chung, và cái tên Trung Quốc đã không được nhắc đến. Bắc Kinh – đồng minh của Hà Nội trong quá khứ, mối quan hệ đặc biệt trong cấp độ ngoại giao của Việt Nam, và quốc gia đồng ý thức hệ lại đang gia tăng ‘quấy rối, xâm lấn’ chủ quyền quốc gia của Việt Nam.
Điều đáng báo động hơn cả những đe dọa từ bên ngoài là vấn đề cảm xúc của xã hội Việt Nam về sự kiện nay. Khi dư luận Việt Nam cũng thể hiện sự lãnh đạm với sự kiện Bãi Tư Chính, một trong những biểu hiện liên quan đến điều này bao gồm lời kêu gọi nhà nước Việt Nam kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế và đẩy mạnh hợp tác quốc phòng với các nước có chung quyền lợi hợp pháp trên biển đông do trang Bauxite tiến hành đến nay chỉ thu hút được 9 tổ chức tham gia, và 683 cá nhân ký tên. Hiện tượng này được cho là đến từ phản ứng đối với những chính sách và chủ trương của Hà Nội trong ứng xử chủ quyền trước đó. Cụ thể là bưng bít về mặt thông tin liên quan đến tình hình Biển Đông và những hoạt động xâm lấn Biển Đông của Trung Quốc, và điều động lực lượng vũ trang, bán vũ trang trong trấn áp người biểu tình. Đó là lý do vì sao, một bài viết với nội dung rất bình thường của báo Tuổi Trẻ ngày 22/9, với tiêu đề ‘Cảnh Sảng, đừng ngụy biện nữa !’, lại được ‘hoan hô’ như một bài viết thẳng thắn bởi ‘công khai thông tin để người dân thấy bộ mặt thật của Trung Quốc’.
Phải chăng, Việt Nam đang chết dần bởi chính sách duy ý chí của mình về ngoại giao - quốc phòng, với chính sách ba không ? Và việc giữ gìn chủ quyền quốc gia vẫn dựa vào yếu tố mang tính thiếu bền vững - ‘đại cục quan hệ tốt đẹp’ ?
Nguyễn Hiền
Nguồn : VNTB, 24/09/2019
Lợi nhiều hơn hại nếu Việt Nam kiện Trung Quốc về Biển Đông (VOA, 23/09/2019)
Trong gần 2 tuần nay, 9 tổ chức và gần 700 cá nhân đã và đang vận động chữ ký cho một văn bảnkêu gọi chính quyền Việt Nam "kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế" về tranh chấp ở Biển Đông.
Hình ảnh tuần duyên Trung Quốc và bản đồ khu vực Bãi Tư Chính trên Biển Đông. (Ảnh chụp màn hình Thanh Niên)
Một nhà nghiên cứu lâu năm về Biển Đông bình luận với VOA rằng việc đưa Trung Quốc ra tòa trọng tài quốc tế sẽ có lợi cho Việt Nam nhiều hơn là có hại, song ông cũng phân tích về 2 lý do có thể làm Việt Nam còn e ngại chưa tiến hành bước đi quyết đoán.
Thư kêu gọi được đưa lên mạng xã hội hôm 10/9 với những chữ ký đầu tiên của các nhân vật có nhiều ảnh hưởng như nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai, tiến sĩ Nguyễn Quang A, nhà văn Nguyên Ngọc, tiến sĩ Chu Hảo, nguyên Giám đốc Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh Võ Văn Thôn, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh Đào Công Tiến, và nhiều học giả, nhà hoạt động trong và ngoài nước, kể cả ở Mỹ, Pháp, v.v…
Bức thư xuất hiện trong bối cảnh 2 tháng đã trôi qua kể từ khi tàu khảo sát địa chất của Trung Quốc bắt đầu hoạt động tại Bãi Tư Chính nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam từ đầu tháng 7.
Theo tìm hiểu của VOA, từ đó đến nay, tàu của Trung Quốc thực hiện 3 đợt khảo sát, gây ra một số cuộc đấu khẩu ngoại giao giữa hai nước láng giềng.
Có tin đợt khảo sát thứ 3 vừa kết thúc. Trang Facebook mang tên Dự án Đại sự ký Biển Đông cho biết đội tàu Trung Quốc gồm tàu Hải Dương Địa Chất 8 và 4 tàu hải cảnh hộ tống vào sáng sớm ngày 22/9 "bất ngờ rời khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam về Đá Chữ Thập".
Thông tin trên được Dự án Đại sự ký Biển Đông đưa ra căn cứ vào dữ liệu trên hệ thống nhận dạng tự động tàu bè AIS, là hệ thống quốc tế nhận và phát tín hiệu qua vệ tinh để thông báo về vị trí, tốc độ, hướng đi, tên tàu, số nhận dạng, kích thước tàu, v.v…
"Đây là lúc thuận lợi nhất để kiện Trung Quốc ra toà án quốc tế", một đoạn trong thư của 9 tổ chức và gần 700 cá nhân viết, đồng thời thư nhấn mạnh rằng "đã đến lúc không thể nhân nhượng để cầu mong yên bình trước sự thách thức ngang ngược của nhà cầm quyền Trung Quốc đối với chủ quyền quốc gia".
Bức thư kêu gọi chính quyền Việt Nam thực hiện 3 việc gồm kiện nhà cầm quyền Trung Quốc về việc nước này "xâm phạm quyền lợi kinh tế biển của Việt Nam ở Biển Đông", bên cạnh đó là đòi họ "trả lại các đảo" của Việt Nam thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc đã cưỡng chiếm bằng vũ lực, và nâng quan hệ đối tác toàn diện với Mỹ thành "đối tác chiến lược toàn diện".
Thạc sĩ luật quốc tế Hoàng Việt, một nhà nghiên cứu lâu năm về Biển Đông, nói với VOA rằng trong hai yêu cầu đầu tiên mà những người vận động đưa ra, việc kiện đòi Trung Quốc tôn trọng lợi ích của Việt Nam có tính khả thi hơn.
Nhà nghiên cứu Hoàng Việt giải thích rằng việc đòi Hoàng Sa, Trường Sa là tranh chấp về chủ quyền, lãnh thổ, do đó nếu Việt Nam muốn đưa Trung Quốc ra tòa về vấn đề này, nước láng giềng phương bắc phải đồng ý là một bên trong vụ kiện thì một tòa án quốc tế mới có thể xét xử. "Nhưng đó là điều khó khăn vì Trung Quốc luôn luôn từ chối đưa ra tòa", thạc sĩ Hoàng Việt nói.
Ngược lại, Việt Nam hoàn toàn có thể "đạt hiệu quả" nếu làm tương tự như Philippines là kiện Trung Quốc tại tòa trọng tài quốc tế để yêu cầu đất nước có hơn 1,4 tỉ dân phải tuân thủ Công ước về Luật biển Liên Hiệp Quốc, trong đó phải tôn trọng vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và dừng các hành vi xâm phạm, ông Hoàng Việt nói với VOA.
Trong trường hợp này, dù Trung Quốc từ chối ra tòa, phiên tòa vẫn có thể thiết lập được và ra phán quyết được, theo thạc sĩ Hoàng Việt.
Lưu ý rằng dù phán quyết tại tòa trọng tài dù "không có giá trị thi hành" vì không có cơ quan quốc tế bắt buộc thi hành án, song nhà nghiên cứu Biển Đông này cho rằng Việt Nam vẫn có lợi nếu làm như vậy.
Dẫn lại phán quyết của tòa quốc tế hồi tháng 7/2016 về vụ Philippines kiện Trung Quốc, ông Hoàng Việt nói dù Trung Quốc tuyên bố không công nhận giá trị của phán quyết song Trung Quốc kể từ đó đã phải đối phó rất nhiều.
Ông nói thêm :
"Trong tuyên bố gần đây nhất, của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, Cảnh Sảng, ngày 18/9, họ không nhắc đến yêu sách đường 9 đoạn/đường lưỡi bò nữa. Có lẽ Trung Quốc thấy rằng phán quyết của tòa bác bỏ đường này, và đường này hoàn toàn vô lý, nên Trung Quốc thay đổi chăng. Thứ hai, có rất nhiều giới chức Trung Quốc ở nhiều tầng lớp khác nhau, mức độ khác nhau phải tìm cách chống lại phán quyết này, và điều đấy cũng khiến cho Trung Quốc bị mệt mỏi rất nhiều".
Một điểm lợi khác mà Việt Nam có thể xem xét, theo nhận định riêng của thạc sĩ Hoàng Việt, là Trung Quốc đã phải "xuống thang rất nhiều" sau phán quyết. Trước đây, Trung Quốc khẳng định toàn bộ vùng Scarborough thuộc chủ quyền nước này, nhưng kể từ khi có phán quyết, Tổng thống Duterte của Philippines đã có lợi thế để đàm phán về khai thác dầu khí chung ở vùng biển nêu trên.
"Nếu không có phán quyết, còn lâu ông Duterte mới có thể đàm phán với Trung Quốc trên vùng biển này được. Nói gì thì nói, phán quyết vẫn có tác động của nó", nhà nghiên cứu Hoàng Việt nói với VOA.
Thư kiến nghị của 9 tổ chức và gần 700 cá nhân cho rằng các động thái phản ứng của Việt Nam về việc Trung Quốc tiến hành khảo sát ở Bãi Tư Chính cũng như chưa kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế cho thấy sự "yếu ớt" của Việt Nam.
Từ góc nhìn của nhà nghiên cứu, thạc sĩ Hoàng Việt bình luận với VOA rằng Việt Nam đang ở vào thế khó vì có 2 điều cản trở. Ông giải thích thêm :
"Lý do thứ nhất, là lý do lớn, là sức ép và sự đe dọa trả đũa từ Trung Quốc. Trung Quốc đã gây sức ép với Philippines rất là mạnh. Chắc chắn với Việt Nam, Trung Quốc sẽ làm mạnh và còn căng thẳng hơn. Điều đấy cũng chứng tỏ một điều là nếu Trung Quốc không coi phán quyết của tòa là cái gì, tại sao Trung Quốc lại phải lo ngại khi Việt Nam có thể khởi kiện. Thứ hai, một số người ở Việt Nam cho rằng trong tuyên bố về đường cơ sở năm 1982 của Việt Nam, nó còn có một số vấn đề".
Cụ thể, theo ông Hoàng Việt, Việt Nam công bố đường cơ sở trên biển vào tháng 11/1982, một tháng trước khi Công ước về Luật biển Liên Hiệp Quốc được ký kết, nhưng đường cơ sở này vấp phải sự phản đối của 10 nước trong đó có Trung Quốc, Thái Lan và Campuchia vì một số điểm mốc không phù hợp, hay một số viện dẫn lịch sử của Việt Nam, nhất là gắn với Vịnh Bắc Bộ, đã bị "lạc hậu". Đây là những điểm yếu mà Trung Quốc có thể tìm cách khai thác để chống lại vụ kiện tiềm tàng của Việt Nam, ông Hoàng Việt đưa ra ý kiến.
Những người khởi xướng bức thư kiến nghị Việt Nam kiện Trung Quốc chưa đặt ra hạn chót sẽ gửi thư đến chính quyền Việt Nam.
Trong khi đó, hôm 21/9, Phó thủ tướng Việt Nam Vũ Đức Đam đã gặp Phó thủ tướng Trung Quốc Hàn Chính nhân Hội nghị thượng đỉnh thương mại-đầu tư Trung Quốc-ASEAN tại Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
Nói về Biển Đông, Phó Thủ tướng Đam "đề nghị Trung Quốc tôn trọng quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam, không để tiếp diễn tình hình phức tạp trên biển".
Đáp lại, Phó thủ tướng Trung Quốc Hàn Chính khẳng định coi trọng phát triển quan hệ láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện với Việt Nam.
******************
Philippines tập trận chiếm đảo gần Biển Đông (RFI, 23/09/2019)
Từ ngày 16/09/2019 vừa qua, quân đội Philippines đã khởi động cuộc tập trận mang tên DAGIT-PA tại ba địa điểm : Quezon City, Zambales, and Nueva Ecija, dự trù kéo dài cho đến ngày 27/09 tới đây.
Xe thiết giáp lội nước của thủy quân lục chiến Philippine trong cuộc tập trận ở Vịnh Subic, ngày 21/09/2019 TED ALJIBE / AFP
Theo giới quan sát, điểm đáng chú ý trong cuộc tập trận lần này là lần đầu tiên thủy quân lục chiến Philippines đã sử dụng các phương tiện đổ bộ tấn công mới do Hàn Quốc chế tạo, trong những bài tập đổ bộ đánh chiếm đảo tại một khu vực sát cạnh Biển Đông.
Theo nhật báo Manila Bulletin, vào hôm 21/09 vừa qua, các đơn vị thủy quân lục chiến phối hợp với không quân và hải quân đã huy động các phương tiện tấn công đổ bộ (AAV) mới để thực hiện một cuộc tập trận theo một kịch bản đổ bộ tái chiếm một hòn đảo.
Địa điểm tập trận là một một bãi biển ở vùng Subic Bay, đối diện Biển Đông - nơi mà Bắc Kinh đã xây dựng nhiều cơ sở quân sự trên các thực thể mà Trung Quốc chiếm đóng tại quần đảo Trường Sa.
Tuy nhiên, theo nhật báo Hồng Kông South China Morning Post ngày 22/09, phát ngôn viên các lực lượng vũ trang Philippines, đại tá Noel Detoyato, đã khẳng định rằng cuộc tập trận không nhắm trực tiếp vào Trung Quốc, hay "bất kỳ một vụ việc, hay khu vực cụ thể nào".
Theo phát ngôn viên này : "Khu vực tập trận đã được sử dụng trong thời gian dài vì tọa lạc gần các doanh trại hải quân của chúng tôi".
Còn trung tá Henry Espinosa, chỉ huy lực lượng đổ bộ Philippines thì đã cho rằng cuộc tập trận mang tính "lịch sử" vì đây là lần đầu tiên lực lượng thủy quân lục chiến Philippines sử dụng đến phương tiện đổ bộ tấn công của riêng mình.
Trước đây, binh lính Philippines cũng đã tập đổ bộ, những chủ yếu là tập trận chung với quân đội Mỹ, và sử dụng các phương tiện của Mỹ.
Theo tạp chí Quốc Phòng Anh, các loại xe đổ bộ tấn công mà Philippines tung vào cuộc tập trận lần này là loại xe mà cựu tổng thống Philippines Aquino đã đặt mua của Hàn Quốc vào năm 2016, và mới tháng Tư vừa qua mới được bàn giao.2019)
Trọng Nghĩa
Biển Đông : Mỹ nên bỏ thái độ trung lập trước việc Trung Quốc xâm lấn Bãi Tư Chính
Trọng Nghĩa, RFI, 19/09/2019
Ngày 18/09/2019, Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại lên tiếng khẳng định rằng các hoạt động của tàu Trung Quốc tại vùng Bãi Tư Chính hoàn toàn hợp pháp, đồng thời tố cáo Việt Nam là đã "đơn phương" khoan dò dầu khí tại vùng Biển Đông "thuộc chủ quyền" Trung Quốc, và đòi Việt Nam phải "đình chỉ ngay lập tức các hoạt động xâm phạm đơn phương".
Vị trí lô dầu khí 6.01 (màu tím) của Việt Nam ở vùng Bãi Tư Chính (Biển Đông). Bản đồ do AMTI - CSIS công bố. Capture d'écran
Luận điệu của Trung Quốc đã lập tức làm dấy lên những tiếng nói từ giới chuyên gia, cho rằng Trung Quốc đã công khai biện minh cho những hành động vi phạm luật quốc tế. Do đó, Hoa Kỳ phải từ bỏ thái độ trung lập cố hữu và có những biện pháp cụ thể để chống lại các hành vi của Trung Quốc.
Tuyên bố ngày 18/09 của phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã lập tức bị giới chuyên gia đả kích.
Trên mạng Twitter, ngay từ hôm18/09, giáo sư Ryan Martinson thuộc trường Hải Chiến Hoa Kỳ, người đã theo dõi ngay từ đầu vụ Trung Quốc cho tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 và đội tàu bán quân sự hộ tống vào hoành hành tại vùng gần Bãi Tư Chính trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, cho rằng "chính quyền Mỹ có thể / nên chọn phe trong vụ này vì đây không phải là vấn đề chủ quyền các đảo mà là quyền của Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh tế của mình. Phán quyết của Tòa Án (Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye) năm 2016 đã giải thích rõ điều đó".
Theo giáo sư Martinson, điều mà chính quyền Mỹ trước mắt có thể tiến hành là :
1) Lên án Bắc Kinh vì đã sử dụng sự ép buộc để duy trì một yêu sách bất hợp pháp ;
2) Cấm các tàu của cơ quan Khảo sát Địa Chất Trung Quốc tiếp cận các cảng của Hoa Kỳ và tiến hành nghiên cứu trong các vùng đặc quyền kinh tế của Mỹ ;
3) Chia sẻ thông tin về những gì đang diễn ra ở khu vực Biển Đông.
Cùng một quan điểm với giáo sư Martinson, cũng vào ngày 18/09 trên Twitter, ông Mike Mazarr, chuyên gia nghiên cứu chính trị học cấp cao tại trung tâm tham vấn Mỹ Rand Corporation, chuyên trách các vấn đề quốc phòng Mỹ và an ninh Đông Á, cho rằng lập trường không đứng về bên nào của Mỹ trong vấn đề Biển Đông "thực sự là một hạn chế".
Theo ông Mazarr, chính quyền Washington nhất thiết phải "gởi đi những thông điệp đa phương mạnh mẽ cho thấy là các hành vi ép buộc không thể chấp nhận được và thực hiện các bước có ý nghĩa để hỗ trợ Việt Nam".
Đối với chuyên gia của Rand Corporation, đã đến lúc phải phá vỡ sơ đồ tranh chấp hiện hữu theo đó hễ Trung Quốc cưỡng chế là quốc gia bị cưỡng chế rút lui.
Theo ông Mazzarr, Mỹ nên sử dụng sức mạnh của mình để giúp những nước khác đứng lên bảo vệ chủ quyền của mình và khiến cho các hành vi ép buộc phải trả giá đắt.
Trong cuộc họp báo ngày 18/09/2019 tại Bắc Kinh, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng đã đưa ra các biện minh và tố cáo Việt Nam.
Sau khi nhắc lại chủ quyền của Trung Quốc trên quần đảo Nam Sa (tên Trung Quốc đặt cho Trường Sa) và "quyền chủ quyền và quyền tài phán trên vùng biển lân cận là Vạn An Than (Wan'an Tan – tên Trung Quốc gọi Bãi Tư Chính) thuộc quần đảo Nam Sa", đại diện Bộ Ngoại giao Trung Quốc tố cáo là "kể từ tháng 05/2019, phía Việt Nam đã tiến hành khoan dầu khí đơn phương tại vùng biển Vạn An Than của Trung Quốc, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của Trung Quốc".
Bắc Kinh còn tố cáo Việt Nam "vi phạm" các thỏa thuận song phương, Điều thứ năm của bản Tuyên Bố về ứng xử trên Biển Đông cũng như Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển !
Trung Quốc đã đòi Việt Nam "chấm dứt ngay các hoạt động xâm phạm đơn phương của mình để khôi phục sự yên tĩnh cho vùng biển liên quan".
Bắc Kinh tiếp tục khẳng định rằng các hoạt động của Trung Quốc ở Bãi Tư Chính là "trong vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc ở Biển Đông là hợp pháp, chính đáng và không thể chê trách".
Trọng Nghĩa
******************
Các nước Châu Âu quyết tâm hiện diện thường xuyên tại Biển Đông
Thụy My, RFI, 19/09/2019
"Việc gởi chiến hạm đến các vùng biển tranh chấp mang lại cho các chính phủ Châu Âu thêm nhiều ảnh hưởng trong quan hệ với Hoa Kỳ và Trung Quốc trên các vấn đề địa chính trị thiết thân".
Hộ tống hạm Courbet của Pháp ghé Việt Nam hồi tháng 4/2017, trong khuôn khổ "chiến dịch" Jeanne d’Arc.Ảnh : Bộ Quốc Phòng Pháp
Nhật báo South China Morning Post xuất bản tại Hồng Kông dẫn lời các nhà phân tích nhận định, trong lúc căng thẳng đang tăng lên trong khu vực, các cường quốc Châu Âu như Anh, Pháp, Đức rất muốn chứng tỏ họ không phải là các đối tác thương mại thụ động.
Châu Âu nay phải chọn phe
Các nước lớn Châu Âu tìm cách nâng cao vị thế tại Châu Á-Thái Bình Dương. Theo các nhà phân tích, những cuộc tuần tra vì tự do hàng hải và các tuyên bố quan ngại về sự gia tăng căng thẳng ở Biển Đông cho thấy ý muốn duy trì sự hiện diện thường xuyên trong khu vực của các quốc gia này.
Ông Frans-Paul Van Der Putten, nhà nghiên cứu thuộc Viện Clingendael, một think tank độc lập ở Hà Lan nhận xét : "Cho đến cách đây vài năm, các nước Châu Âu thường chỉ thích đóng vai trò thứ yếu trong an ninh khu vực vùng Đông Á. Nhưng trong hoàn cảnh hiện nay, họ thấy rằng cần phải khẩn trương tham gia".
Vẫn theo ông Putten : "Việc gởi chiến hạm đến các vùng biển tranh chấp giúp cho các chính phủ Châu Âu gia tăng ảnh hưởng trong quan hệ với Hoa Kỳ và Trung Quốc, trên các vấn đề địa chính trị thiết thân.
Châu Âu từ lâu đã quen với việc đứng giữa hai đại cường là Hoa Kỳ và Nga, tuy nhiên chính quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc đang ngày càng làm Châu Âu phải xác định lại quan điểm địa chính trị. Điều này đặt các chính phủ Châu Âu vào thế lưỡng nan, họ chịu đựng áp lực ngày càng tăng là phải chọn phe".
Đánh giá của ông Van Der Putten được đưa ra sau khi ba nước Anh, Pháp, Đức trong một thông cáo chung vào cuối tháng trước đã tuyên bố "quan ngại về tình hình Biển Đông, có thể dẫn đến mất an ninh và căng thẳng trong khu vực".
Anh, Pháp, Đức cũng kêu gọi tất cả các bên liên quan đến tranh chấp lãnh thổ "có những bước đi và biện pháp làm dịu căng thẳng, góp phần duy trì và thúc đẩy hòa bình, an ninh, ổn định và an toàn trong khu vực".
Mỹ, Anh, Pháp tập trận và tuần tra Biển Đông
Trung Quốc vốn đòi hỏi chủ quyền trên hầu hết Biển Đông, liên tục lao vào tranh chấp với các nước láng giềng, trong đó có Việt Nam, Malaysia, Philippines, Brunei.
Hoa Kỳ tuy không yêu sách chủ quyền, nhưng coi khu vực này là một phần của chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương nhằm ngăn chận sự bành trướng quân sự của Trung Quốc tại Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.
Trong nỗ lực chứng tỏ phô trương sức mạnh và sự đoàn kết, Hoa Kỳ và Anh quốc đã tiến hành một cuộc tập trận hải quân chung trên Biển Đông hồi tháng Hai, trong khi Pháp gởi chiến hạm chở trực thăng Dixmude thuộc lớp Mistral hiện đại, và một khinh hạm đến quần đảo Trường Sa vào năm ngoái.
Anh quốc quyết tâm khẳng định quyền tự do hàng hải tại các vùng biển quốc tế, cùng với các đồng minh Hoa Kỳ và Úc, đã thẳng thừng bảo vệ các hành động tương tự chống lại một Trung Quốc ngày càng thêm hiếu chiến. Năm ngoái, Luân Đôn loan báo đã có kế hoạch đưa hàng không mẫu hạm mới mang tên HMS Queen Elizabeth đến Châu Á-Thái Bình Dương trong lần triển khai hoạt động đầu tiên, dự kiến vào năm 2021.
Phát biểu tại Luân Đôn tuần trước, thiếu tướng Tô Quảng Huy (Su Guanghui), tùy viên quân sự Trung Quốc ở Anh nói : "Nếu Hoa Kỳ và Anh quốc liên kết lại để thách thức hoặc vi phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc, thì đó sẽ là một hành động thù địch".
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam, bà Lê Thị Thu Hằng cuối tuần trước tuyên bố Hà Nội hoan nghênh tất cả các hoạt động nhằm bảo đảm tự do hàng hải và hàng không trên Biển Đông.
EU-Mỹ : Hợp tác quân sự, bất đồng về kinh tế chính trị
Mặc dù hợp tác về quân sự, Hoa Kỳ và Châu Âu vẫn có những bất đồng trên lãnh vực kinh tế và chính trị.
Tuần trước, Ngân hàng Trung ương Châu Âu loan báo một đợt cắt giảm lãi suất mạnh mẽ và các biện pháp thúc đẩy nền kinh tế trong ba năm, khiến tổng thống Mỹ Donald Trump bực tức. Ông viết trên Twitter : "Họ đang thử và thành công trong việc hạ giá đồng euro để chống lại đồng đô la rất mạnh, làm phương hại đến xuất khẩu của Hoa Kỳ".
Tháng trước, ông Trump cũng chỉ trích chính phủ Pháp về việc đánh thuế vào dịch vụ kỹ thuật số, mà ông cho rằng nhắm vào các tập đoàn công nghệ của Hoa Kỳ, đe dọa sẽ trả đũa bằng cách đánh thuế vào rượu vang Pháp. Chủ tịch Hội đồng Châu Âu Donald Tusk tuyên bố, Liên Hiệp Châu Âu (EU) sẽ "đáp trả tương tự" nếu Washington dùng đến biện pháp trừng phạt này.
EU-Trung Quốc : Xung đột về nhân quyền và kinh tế
EU cũng bị lôi kéo vào một cuộc xung đột gay gắt với Trung Quốc, vì các doanh nghiệp Châu Âu bị phân biệt đối xử khi hoạt động tại nền kinh tế lớn thứ nhì thế giới.
Trong một văn bản công bố hồi đầu năm nay, Ủy ban Châu Âu kêu gọi các nhà lãnh đạo EU thông qua bản kế hoạch 10 điểm, coi Trung Quốc là "đối thủ cạnh tranh về kinh tế" và "địch thủ mang tính hệ thống, đang xúc tiến một mô hình quản trị thay thế".
Về mặt nhân quyền, căng thẳng giữa Bắc Kinh và Berlin gia tăng sau khi ngoại trưởng Đức Heiko Maas gặp gỡ nhà hoạt động dân chủ Hoàng Chi Phong (Joshua Wong) tuần trước. Bộ Ngoại Giao Trung Quốc nói "rất không hài lòng" về cuộc gặp này, còn đại sứ Trung Quốc tại Đức cho biết đồng nhiệm Đức ở Bắc Kinh đã được triệu mời vì sự kiện trên.
Biển Đông : EU muốn trở thành một trong những nhân tố chính
Sarah Raine, nhà tư vấn về địa chính trị của Viện Nghiên cứu Quốc tế về Chiến lược ở Luân Đôn nói rằng bà không ngạc nhiên trước việc Liên Hiệp Châu Âu muốn can dự vào tranh chấp Biển Đông và mở rộng ảnh hưởng trong khu vực.
Bà nhận xét : "Đó là hệ quả tự nhiên của một thực tế là tại Châu Á, Liên Hiệp Châu Âu đã quá chán ngán khi luôn bị coi là một đối tác thương mại đơn thuần. Nói cách khác, coi như EU không liên quan đến các vấn đề chiến lược lớn của lục địa này, cho dù vai trò của Châu Á là quan trọng đối với Liên Hiệp Châu Âu".
Theo Sarah Raine, "Khi can dự chặt chẽ hơn vào các diễn tiến tại Biển Đông, các quốc gia hàng đầu của Liên Hiệp Châu Âu cùng phối hợp với nhau để ủng hộ các giải pháp đa phương, cho các vấn đề đa phương, thông qua các đối tác đa phương – theo kiểu ASEAN – tất cả nằm trong khuôn khổ luật pháp quốc tế".
Còn theo Siemon Wezeman, nhà nghiên cứu chủ chốt của chương trình chuyển giao vũ khí và chi tiêu quân sự, thuộc Viện nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm (SIPRI), Thụy Điển, Liên Hiệp Châu Âu cố gắng gia tăng ảnh hưởng lên Trung Quốc và Hoa Kỳ qua việc chứng tỏ EU cũng là một nhân tố chính tại vùng biển tranh chấp.
Ông nói : "Liên Hiệp Châu Âu không phải là Trung Quốc, và chắc chắn không phải là Hoa Kỳ của ông Donald Trump. EU muốn chứng tỏ là mình luôn hiện diện và vẫn đóng một vai trò. Ba quốc gia ký vào thông cáo chung về Biển Đông là Anh, Pháp, Đức đều có quyền lợi đặc biệt quan trọng trong khu vực, có lợi ích thương mại…Nếu có sự cố xảy ra trên Biển Đông, các ngành kỹ nghệ liên quan của Châu Âu sẽ bị ảnh hưởng".
Trung Quốc : Phương Tây không nên "đổ dầu vào lửa" tại Biển Đông
Tác giả Trần Tướng Miểu (Chen Xiangmao) của Viện nghiên cứu Nam Hải, Trung Quốc trên diễn đàn US China Focus tức tối cho rằng "Phương Tây không nên đổ dầu vào lửa tại Biển Đông" - tựa của bài viết. Tác giả này đặt câu hỏi, các nước Liên Hiệp Châu Âu lâu nay ít quan tâm đến Biển Đông, vì sao lại ra tuyên bố chỉ trích việc quân sự hóa vùng biển và nhắc đến phán quyết của Tòa Trọng tài tháng 7/2016 vào lúc này ?
Trần Tướng Miểu cho rằng có ba lý do. Thứ nhất, Hoa Kỳ luôn mong có sự hỗ trợ của Châu Âu để cùng ngăn chận Trung Quốc tại Biển Đông. Thứ hai, Việt Nam cần có sự trợ giúp khẩn cấp về mặt tinh thần của các quốc gia Châu Âu đối với việc khai thác dầu khí tại Bãi Tư Chính, mà tác giả này gọi là "hành động phi lý và đơn phương". Thứ ba, Nhật Bản với tư cách thành viên G7 đã đòi ghi vấn đề Biển Đông vào chương trình nghị sự trong cuộc họp thượng đỉnh của nhóm này, với cùng mục đích với Việt Nam là tập hợp các lực lượng bên ngoài nhằm ngáng chân Bắc Kinh.
Theo nhà nghiên cứu của Viện Nam Hải, cả hai bản thông cáo của Liên Hiệp Châu Âu và của ba nước Anh, Pháp, Đức "không chỉ gây áp lực lên Trung Quốc mà còn làm xấu đi quan hệ giữa Châu Âu và Bắc Kinh". Trần Tướng Miểu nhấn mạnh Biển Đông phải là "vùng biển của hòa bình, hữu nghị và hợp tác", cáo buộc "các nước phương Tây do Mỹ dẫn đầu đang cố gắng phá hoại chủ trương này" của Trung Quốc.
Thụy My
*************
Anh, Pháp, Đức ‘cần chống Trung Quốc trên Biển Đông’
Ngọc Lễ, VOA, 19/09/2019
Anh, Pháp, Đức đã thấy sự cần thiết phải lên tiếng chống lại những hành vi hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông để bảo vệ lợi ích của họ trên tuyến đường hàng hải quốc tế quan trọng này mặc dù họ có quan hệ thương mại mạnh mẽ với Trung Quốc, một nhà nghiên cứu Biển Đông nhận định với VOA.
Tàu hải quân Pháp tham gia tập trận chung với Mỹ, Anh, Nhật ở căn cứ hải quân Guam hồi năm 2017
Trong thời gian qua, Bắc Kinh đã tăng cường quấy rối hoạt động của các nước ven biển Đông trong vùng biển đặc quyền kinh tế (EEZ) của họ, nhất là đối với Việt Nam khi họ đưa tàu khảo sát vào quấy nhiễu quanh khu vực Bãi Tư Chính.
Trong một động thái hiếm hoi, hồi cuối tháng trước, ba nước lớn nhất Âu Châu là Anh, Pháp và Đức đã cùng đưa ra một tuyên bố chung rằng họ ‘quan ngại về tình hình ở Biển Đông, vốn có thể dẫn đến mất an ninh và căng thẳng trong khu vực’.
Đáp ứng kêu gọi của Việt Nam ?
Trao đổi với VOA, Giáo sư Ngô Vĩnh Long hiện đang giảng dạy tại Đại học Maine, Hoa Kỳ, giải thích rằng ba nước này (gọi tắt là EU3) đã đáp ứng sau khi có lời kêu gọi của Việt Nam nhằm quốc tế hóa vấn đề trên Bãi Tư Chính.
Thứ nhất, theo ông Long, do Trung Quốc trong những tháng vừa qua đã xâm phạm vào EEZ của Việt Nam và các nước khác (Malaysia), ngày càng bất chấp luật pháp quốc tế nên các nước EU3 cần phải lên tiếng.
"Họ là những bên đã ký kết vào UNCLOS (Công ước Quốc tế về Luật Biển) nên họ phải lên tiếng bảo vệ luật pháp quốc tế. Nếu không Trung Quốc sẽ tiếp tục làm tới", ông nói.
Thứ hai, trước giờ EU3 cho rằng để Mỹ đương đầu với Trung Quốc trên Biển Đông để bảo vệ tự do hàng hải và hàng không là ‘đã đủ rồi’, nhưng bây giờ ‘họ thấy rằng Bắc Kinh đã coi Mỹ không ăn thua gì mà ngày càng lớn tiếng với Mỹ’ nên họ cho rằng vấn đề Biển Đông ‘không chỉ là giữa Mỹ với Trung Quốc, hay giữa các nước đông nam Á với Trung Quốc mà là vấn đề quốc tế’.
Thứ ba, vẫn theo chuyên gia này, Anh, Pháp, Đức có mậu dịch rất lớn ở Á Châu thông qua con đường hàng hải trên Biển Đông. "Nếu có việc gì xảy ra trên Biển Đông, lợi ích của họ sẽ bị đe dọa", ông nói.
Cuối cùng, ông cho rằng lập trường mạnh mẽ của Việt Nam đã tạo động lực thúc đẩy EU3 phải lên tiếng.
"Trước giờ Việt Nam nhẫn nại, nhẫn nhục trước Trung Quốc", ông giải thích. "Việt Nam có đường bờ biển dài nhất ở Biển Đông mà không lên tiếng mạnh mẽ thì các nước bên ngoài lên tiếng có thể bị Trung Quốc cho là không phù hợp, phá đám".
Thật ra, ngoài tuyên bố chung của ba nước Anh, Pháp, Đức, Liên Hiệp Châu Âu (EU) cũng lên tiếng chỉ trích hành động của Bắc Kinh trên Biển Đông, nhưng do đây là ba nước mạnh nhất EU nên việc họ cùng đồng thanh lên tiếng nên có tiếng vang lớn đối với Trung Quốc, ông Long nói.
Khi được hỏi việc ba nước này, vốn không phải là quốc gia Thái Bình Dương, lên tiếng về vấn đề ở cách xa khu vực địa chính trị của họ, liệu có phù hợp, ông Long nói rằng ba nước này là ‘bên ký vào UNCLOS nên có nghĩa vụ bảo vệ Luật Biển’ và ‘có dính líu quyền lợi trên Biển Đông’.
Việc ba nước này cùng lên tiếng lên án Trung Quốc sau khi Hà Nội kêu gọi quốc tế giúp đỡ, theo ông Long, đã là ‘thắng lợi cho Việt Nam’ vì nó giúp Việt Nam không đơn độc trong việc đối đầu Trung Quốc.
Chấp nhận rủi ro đến đâu ?
Bản thân Châu Âu cũng chứng kiến sự hung hăng của Nga ở trên Biển Đen khi Moscow dùng vũ lực sát nhập bán đảo Crimea của Ukraine hồi năm 2014 nên hành động tương tự của Bắc Kinh trên Biển Đông cũng khiến họ lo ngại. Theo Giáo sư Long, ‘Biển Đông là vấn đề quốc tế, lớn hơn Crimea rất nhiều’ nên ‘sự lên tiếng của EU3 là rất quan trọng’.
Khi được hỏi, EU3 có quan hệ thương mại lớn với Trung Quốc nên họ có bị hạn chế trong việc chống đối Bắc Kinh trên Biển Đông hay không, ông Long nói: "Họ phải cân nhắc vì nếu có chuyện gì xảy ra ở trên biển thì quyền lợi của họ bị thiệt hại vì họ không chỉ buôn bán với Trung Quốc mà còn với nhiều nước khác trong khu vực như Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc…".
Về vấn đề quan hệ quân sự với EU3 có dễ dàng chấp nhận hơn đối với Hà Nội so với quan hệ quân sự với Mỹ hay không, ông cho rằng Việt Nam ‘càng mở rộng quan hệ quân sự thì càng có nhiều cơ hội bảo vệ an ninh và quyền lợi của mình’.
"Nếu Việt Nam có quan hệ tốt với EU3 thì điều này sẽ gây sức ép lên Mỹ để có quan hệ tốt hơn với Việt Nam", ông nói thêm. "Ngoài ra, nếu chỉ Việt Nam có quan hệ với Mỹ thì Mỹ có thể vì lợi ích với Trung Quốc lớn hơn lợi ích với Việt Nam mà có thể nhượng bộ Trung Quốc một phần nào đó".
"Càng đa dạng hóa quan hệ thì càng có lợi cho Việt Nam", ông nói.
Trả lời câu hỏi EU3 có những đòn bẩy nào để sử dụng với Trung Quốc trên Biển Đông, ông Long nói ba nước này ‘có buôn bán lớn với Trung Quốc và là đồng minh của Mỹ’.
"Họ có thể cùng với Mỹ và một số nước khác tuần tra trên Biển Đông để Trung Quốc khỏi thao túng".
Riêng đối với Việt Nam, nước này có thể ‘xem xét cho các nước EU3 vào quân cảng Cam Ranh hay bất cứ chỗ nào để tiếp liệu’ và nếu cần ‘Việt Nam có thể cùng tuần tra chung’.
"Việt Nam có thể kêu gọi hải quân các nước EU3 ra chứng kiến những gì đang xảy ra (như ở Mỏ Cá Voi Xanh) để xem Trung Quốc đang làm gì", ông cho biết.
"Nếu E3 không hành động thì rủi ro sẽ càng lớn. Trung Quốc sẽ bẻ từng chiếc đũa. Nhiều nước hợp lại nói rõ với Trung Quốc rằng anh đang phạm pháp thì Trung Quốc sẽ phải nhượng bộ nếu không họ sẽ bị thế giới coi là nước không coi luật pháp ra gì. Khi đó họ sẽ bị cô lập".
"Khi có sự cố xảy ra (trên Biển Đông), EU3 phải chọn bên tuân theo luật pháp quốc tế (chống lại bên vi phạm)", ông nói.
‘Chứng tỏ sự hiện diện’
Tờ South China Morning Post dẫn lời các nhà phân tích cho rằng khi căng thẳng gia tăng trong khu vực, các nước lớn ở Châu Âu như Anh, Pháp và Đức ‘sốt sắng muốn chứng tỏ họ không chỉ là những đối tác thương mại thụ động’ và rằng ‘họ vẫn hiện diện trong khu vực’.
"Cho đến vài năm trước đây, các nước Châu Âu vẫn muốn giữ vai trò khiêm tốn về các vấn đề an ninh khu vực ở Đông Á, nhưng trong hoàn cảnh hiện tại, họ cảm thấy có một sự khẩn cấp khiến họ phải can dự", ông Frans-Paul van der Putten, một nhà nghiên cứu cao cấp tại Viện Clingendael, một viện nghiên cứu độc lập ở Hà Lan, được South China Morning Post dẫn lời nói.
"Đưa chiến hạm đến vùng biển tranh chấp giúp các nước Châu Âu có nhiều đòn bẩy hơn để đối phó với Mỹ và Trung Quốc trong các vấn đề địa chính trị ở gần Châu Âu", ông nói thêm.
"Từ lâu, Châu Âu đã quen với việc nằm giữa hai cường quốc Mỹ và Nga – nhưng chính mối quan hệ Mỹ-Trung ngày càng xác lập lập trường địa chính trị của Châu Âu. Điều này đem đến thế khó xử mới cho các nước Châu Âu, vốn đang chịu áp lực ngày càng tăng là phải chọn phe".
Trong một màn thể hiện rõ ràng sức mạnh và sự đoàn kết, Mỹ và Anh đã tiến hành một cuộc tập trận hải quân chung ở Biển Đông hồi tháng 2, trong khi Pháp đưa chiến hạm tấn công Dixmude và một tàu khu trục đến gần quần đảo Trường Sa hồi năm ngoái.
Anh rất muốn khẳng định quyền tự do hàng hải trên các vùng biển quốc tế và cùng với các đồng minh là Mỹ và Úc đã bảo vệ quyền tự do hàng hải trước Trung Quốc ngày càng hiếu chiến. Nước này hồi năm ngoái nói rằng họ đang tính đưa tàu sân bay mới HMS Queen Elizabeth tới Châu Á - Thái Bình Dương trong lần triển khai sứ mạng đầu tiên của tàu này vào năm 2021.
Ba nước này đã kêu gọi tất cả các bên liên quan đến tranh chấp lãnh thổ trên biển ‘có các bước đi và các biện pháp làm giảm căng thẳng, và góp phần duy trì và thúc đẩy hòa bình, an ninh, ổn định và an toàn trong khu vực.’
Liên minh Châu Âu cũng đang dính vào tranh chấp gay gắt với Trung Quốc về điều mà họ cho là đối xử không công bằng đối với các doanh nghiệp EU hoạt động ở Trung Quốc.
Hồi đầu năm, Ủy ban Châu Âu đã kêu gọi các nhà lãnh đạo EU chấp nhận kế hoạch hành động 10 điểm trong đó gọi Trung Quốc là ‘đối thủ cạnh tranh kinh tế’ và ‘đối thủ thúc đẩy các mô hình quản trị thay thế một cách có hệ thống’.
Sarah Raine, chuyên gia tư vấn cao cấp về địa chính trị và chiến lược tại Viện nghiên cứu chiến lược quốc tế tại London, nói với South China Morning Post rằng không có gì đáng ngạc nhiên khi EU muốn tham gia vào các tranh chấp ở Biển Đông và mở rộng ảnh hưởng trong khu vực.
"Đó là hậu quả tự nhiên của thực tế là ở Châu Á, EU đã chán ngấy với việc bị đối xử chỉ hơn đối tác thương mại một chút nếu không muốn nói là không có vai trò trong các vấn đề chiến lược lớn của Châu lục này, mặc dù họ có lợi ích lớn ở đây", bà được dẫn lời nói.
"Với việc tham gia sâu sát hơn vào tình hình trên Biển Đông, các quốc gia dẫn đầu EU đang làm việc cùng nhau để hỗ trợ các giải pháp đa phương cho các vấn đề đa phương thông qua các đối tác đa phương - dưới hình thức giống như Asean - tất cả đều trong khuôn khổ luật pháp quốc tế".
Siemon Wezeman, nhà nghiên cứu cao cấp của Chương trình chuyển giao vũ khí và chi tiêu quân sự (SIPRI) ở Thụy Điển, nói rằng EU đang cố gắng làm tăng đòn bẩy của mình đối với Trung Quốc và Mỹ bằng cách cho thấy họ cũng là nhân tố chủ chốt trong vùng biển tranh chấp.
"EU không phải là Trung Quốc, và chắc chắn không phải là nước Mỹ dưới thời ông Trump (vốn chủ trương nước Mỹ trên hết và rút lui khỏi các cam kết quốc tế). Họ muốn cho thấy họ vẫn có mặt ở đó, và vẫn có vai trò quan trọng", ông nói.
"Ba nước ký vào tuyên bố chung (Anh, Pháp và Đức) có lợi ích đặc biệt mạnh mẽ trong khu vực", Wezeman nói.
"Nếu xảy ra sự cố ở Biển Đông, các ngành công nghiệp tương ứng của Châu Âu sẽ bị ảnh hưởng".
Ngọc Lễ
Anh, Pháp, Đức đã thấy sự cần thiết phải lên tiếng chống lại những hành vi hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông để bảo vệ lợi ích của họ trên tuyến đường hàng hải quốc tế quan trọng này mặc dù họ có quan hệ thương mại mạnh mẽ với Trung Quốc, một nhà nghiên cứu Biển Đông nhận định với VOA.
Tàu hải quân Pháp tham gia tập trận chung với Mỹ, Anh, Nhật ở căn cứ hải quân Guam hồi năm 2017
Trong thời gian qua, Bắc Kinh đã tăng cường quấy rối hoạt động của các nước ven biển Đông trong vùng biển đặc quyền kinh tế (EEZ) của họ, nhất là đối với Việt Nam khi họ đưa tàu khảo sát vào quấy nhiễu quanh khu vực Bãi Tư Chính.
Trong một động thái hiếm hoi, hồi cuối tháng trước, ba nước lớn nhất Âu Châu là Anh, Pháp và Đức đã cùng đưa ra một tuyên bố chung rằng họ ‘quan ngại về tình hình ở Biển Đông, vốn có thể dẫn đến mất an ninh và căng thẳng trong khu vực’.
Đáp ứng kêu gọi của Việt Nam ?
Trao đổi với VOA, Giáo sư Ngô Vĩnh Long hiện đang giảng dạy tại Đại học Maine, Hoa Kỳ, giải thích rằng ba nước này (gọi tắt là EU3) đã đáp ứng sau khi có lời kêu gọi của Việt Nam nhằm quốc tế hóa vấn đề trên Bãi Tư Chính.
Thứ nhất, theo ông Long, do Trung Quốc trong những tháng vừa qua đã xâm phạm vào EEZ của Việt Nam và các nước khác (Malaysia), ngày càng bất chấp luật pháp quốc tế nên các nước EU3 cần phải lên tiếng.
"Họ là những bên đã ký kết vào UNCLOS (Công ước Quốc tế về Luật Biển) nên họ phải lên tiếng bảo vệ luật pháp quốc tế. Nếu không Trung Quốc sẽ tiếp tục làm tới", ông nói.
Thứ hai, trước giờ EU3 cho rằng để Mỹ đương đầu với Trung Quốc trên Biển Đông để bảo vệ tự do hàng hải và hàng không là ‘đã đủ rồi’, nhưng bây giờ ‘họ thấy rằng Bắc Kinh đã coi Mỹ không ăn thua gì mà ngày càng lớn tiếng với Mỹ’ nên họ cho rằng vấn đề Biển Đông ‘không chỉ là giữa Mỹ với Trung Quốc, hay giữa các nước đông nam Á với Trung Quốc mà là vấn đề quốc tế’.
Thứ ba, vẫn theo chuyên gia này, Anh, Pháp, Đức có mậu dịch rất lớn ở Á Châu thông qua con đường hàng hải trên Biển Đông. "Nếu có việc gì xảy ra trên Biển Đông, lợi ích của họ sẽ bị đe dọa", ông nói.
Cuối cùng, ông cho rằng lập trường mạnh mẽ của Việt Nam đã tạo động lực thúc đẩy EU3 phải lên tiếng.
"Trước giờ Việt Nam nhẫn nại, nhẫn nhục trước Trung Quốc", ông giải thích. "Việt Nam có đường bờ biển dài nhất ở Biển Đông mà không lên tiếng mạnh mẽ thì các nước bên ngoài lên tiếng có thể bị Trung Quốc cho là không phù hợp, phá đám".
Thật ra, ngoài tuyên bố chung của ba nước Anh, Pháp, Đức, Liên Hiệp Châu Âu (EU) cũng lên tiếng chỉ trích hành động của Bắc Kinh trên Biển Đông, nhưng do đây là ba nước mạnh nhất EU nên việc họ cùng đồng thanh lên tiếng nên có tiếng vang lớn đối với Trung Quốc, ông Long nói.
Khi được hỏi việc ba nước này, vốn không phải là quốc gia Thái Bình Dương, lên tiếng về vấn đề ở cách xa khu vực địa chính trị của họ, liệu có phù hợp, ông Long nói rằng ba nước này là ‘bên ký vào UNCLOS nên có nghĩa vụ bảo vệ Luật Biển’ và ‘có dính líu quyền lợi trên Biển Đông’.
Việc ba nước này cùng lên tiếng lên án Trung Quốc sau khi Hà Nội kêu gọi quốc tế giúp đỡ, theo ông Long, đã là ‘thắng lợi cho Việt Nam’ vì nó giúp Việt Nam không đơn độc trong việc đối đầu Trung Quốc.
Chấp nhận rủi ro đến đâu ?
Bản thân Châu Âu cũng chứng kiến sự hung hăng của Nga ở trên Biển Đen khi Moscow dùng vũ lực sát nhập bán đảo Crimea của Ukraine hồi năm 2014 nên hành động tương tự của Bắc Kinh trên Biển Đông cũng khiến họ lo ngại. Theo Giáo sư Long, ‘Biển Đông là vấn đề quốc tế, lớn hơn Crimea rất nhiều’ nên ‘sự lên tiếng của EU3 là rất quan trọng’.
Khi được hỏi, EU3 có quan hệ thương mại lớn với Trung Quốc nên họ có bị hạn chế trong việc chống đối Bắc Kinh trên Biển Đông hay không, ông Long nói: "Họ phải cân nhắc vì nếu có chuyện gì xảy ra ở trên biển thì quyền lợi của họ bị thiệt hại vì họ không chỉ buôn bán với Trung Quốc mà còn với nhiều nước khác trong khu vực như Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc…".
Về vấn đề quan hệ quân sự với EU3 có dễ dàng chấp nhận hơn đối với Hà Nội so với quan hệ quân sự với Mỹ hay không, ông cho rằng Việt Nam ‘càng mở rộng quan hệ quân sự thì càng có nhiều cơ hội bảo vệ an ninh và quyền lợi của mình’.
"Nếu Việt Nam có quan hệ tốt với EU3 thì điều này sẽ gây sức ép lên Mỹ để có quan hệ tốt hơn với Việt Nam", ông nói thêm. "Ngoài ra, nếu chỉ Việt Nam có quan hệ với Mỹ thì Mỹ có thể vì lợi ích với Trung Quốc lớn hơn lợi ích với Việt Nam mà có thể nhượng bộ Trung Quốc một phần nào đó".
"Càng đa dạng hóa quan hệ thì càng có lợi cho Việt Nam", ông nói.
Trả lời câu hỏi EU3 có những đòn bẩy nào để sử dụng với Trung Quốc trên Biển Đông, ông Long nói ba nước này ‘có buôn bán lớn với Trung Quốc và là đồng minh của Mỹ’.
"Họ có thể cùng với Mỹ và một số nước khác tuần tra trên Biển Đông để Trung Quốc khỏi thao túng".
Riêng đối với Việt Nam, nước này có thể ‘xem xét cho các nước EU3 vào quân cảng Cam Ranh hay bất cứ chỗ nào để tiếp liệu’ và nếu cần ‘Việt Nam có thể cùng tuần tra chung’.
"Việt Nam có thể kêu gọi hải quân các nước EU3 ra chứng kiến những gì đang xảy ra (như ở Mỏ Cá Voi Xanh) để xem Trung Quốc đang làm gì", ông cho biết.
"Nếu E3 không hành động thì rủi ro sẽ càng lớn. Trung Quốc sẽ bẻ từng chiếc đũa. Nhiều nước hợp lại nói rõ với Trung Quốc rằng anh đang phạm pháp thì Trung Quốc sẽ phải nhượng bộ nếu không họ sẽ bị thế giới coi là nước không coi luật pháp ra gì. Khi đó họ sẽ bị cô lập".
"Khi có sự cố xảy ra (trên Biển Đông), EU3 phải chọn bên tuân theo luật pháp quốc tế (chống lại bên vi phạm)", ông nói.
‘Chứng tỏ sự hiện diện’
Tờ South China Morning Post dẫn lời các nhà phân tích cho rằng khi căng thẳng gia tăng trong khu vực, các nước lớn ở Châu Âu như Anh, Pháp và Đức ‘sốt sắng muốn chứng tỏ họ không chỉ là những đối tác thương mại thụ động’ và rằng ‘họ vẫn hiện diện trong khu vực’.
"Cho đến vài năm trước đây, các nước Châu Âu vẫn muốn giữ vai trò khiêm tốn về các vấn đề an ninh khu vực ở Đông Á, nhưng trong hoàn cảnh hiện tại, họ cảm thấy có một sự khẩn cấp khiến họ phải can dự", ông Frans-Paul van der Putten, một nhà nghiên cứu cao cấp tại Viện Clingendael, một viện nghiên cứu độc lập ở Hà Lan, được South China Morning Post dẫn lời nói.
"Đưa chiến hạm đến vùng biển tranh chấp giúp các nước Châu Âu có nhiều đòn bẩy hơn để đối phó với Mỹ và Trung Quốc trong các vấn đề địa chính trị ở gần Châu Âu", ông nói thêm.
"Từ lâu, Châu Âu đã quen với việc nằm giữa hai cường quốc Mỹ và Nga – nhưng chính mối quan hệ Mỹ-Trung ngày càng xác lập lập trường địa chính trị của Châu Âu. Điều này đem đến thế khó xử mới cho các nước Châu Âu, vốn đang chịu áp lực ngày càng tăng là phải chọn phe".
Trong một màn thể hiện rõ ràng sức mạnh và sự đoàn kết, Mỹ và Anh đã tiến hành một cuộc tập trận hải quân chung ở Biển Đông hồi tháng 2, trong khi Pháp đưa chiến hạm tấn công Dixmude và một tàu khu trục đến gần quần đảo Trường Sa hồi năm ngoái.
Anh rất muốn khẳng định quyền tự do hàng hải trên các vùng biển quốc tế và cùng với các đồng minh là Mỹ và Úc đã bảo vệ quyền tự do hàng hải trước Trung Quốc ngày càng hiếu chiến. Nước này hồi năm ngoái nói rằng họ đang tính đưa tàu sân bay mới HMS Queen Elizabeth tới Châu Á - Thái Bình Dương trong lần triển khai sứ mạng đầu tiên của tàu này vào năm 2021.
Ba nước này đã kêu gọi tất cả các bên liên quan đến tranh chấp lãnh thổ trên biển ‘có các bước đi và các biện pháp làm giảm căng thẳng, và góp phần duy trì và thúc đẩy hòa bình, an ninh, ổn định và an toàn trong khu vực.’
Liên minh Châu Âu cũng đang dính vào tranh chấp gay gắt với Trung Quốc về điều mà họ cho là đối xử không công bằng đối với các doanh nghiệp EU hoạt động ở Trung Quốc.
Hồi đầu năm, Ủy ban Châu Âu đã kêu gọi các nhà lãnh đạo EU chấp nhận kế hoạch hành động 10 điểm trong đó gọi Trung Quốc là ‘đối thủ cạnh tranh kinh tế’ và ‘đối thủ thúc đẩy các mô hình quản trị thay thế một cách có hệ thống’.
Sarah Raine, chuyên gia tư vấn cao cấp về địa chính trị và chiến lược tại Viện nghiên cứu chiến lược quốc tế tại London, nói với South China Morning Post rằng không có gì đáng ngạc nhiên khi EU muốn tham gia vào các tranh chấp ở Biển Đông và mở rộng ảnh hưởng trong khu vực.
"Đó là hậu quả tự nhiên của thực tế là ở Châu Á, EU đã chán ngấy với việc bị đối xử chỉ hơn đối tác thương mại một chút nếu không muốn nói là không có vai trò trong các vấn đề chiến lược lớn của Châu lục này, mặc dù họ có lợi ích lớn ở đây", bà được dẫn lời nói.
"Với việc tham gia sâu sát hơn vào tình hình trên Biển Đông, các quốc gia dẫn đầu EU đang làm việc cùng nhau để hỗ trợ các giải pháp đa phương cho các vấn đề đa phương thông qua các đối tác đa phương - dưới hình thức giống như Asean - tất cả đều trong khuôn khổ luật pháp quốc tế".
Siemon Wezeman, nhà nghiên cứu cao cấp của Chương trình chuyển giao vũ khí và chi tiêu quân sự (SIPRI) ở Thụy Điển, nói rằng EU đang cố gắng làm tăng đòn bẩy của mình đối với Trung Quốc và Mỹ bằng cách cho thấy họ cũng là nhân tố chủ chốt trong vùng biển tranh chấp.
"EU không phải là Trung Quốc, và chắc chắn không phải là nước Mỹ dưới thời ông Trump (vốn chủ trương nước Mỹ trên hết và rút lui khỏi các cam kết quốc tế). Họ muốn cho thấy họ vẫn có mặt ở đó, và vẫn có vai trò quan trọng", ông nói.
"Ba nước ký vào tuyên bố chung (Anh, Pháp và Đức) có lợi ích đặc biệt mạnh mẽ trong khu vực", Wezeman nói.
"Nếu xảy ra sự cố ở Biển Đông, các ngành công nghiệp tương ứng của Châu Âu sẽ bị ảnh hưởng".
Ngọc Lễ
Nguồn : VOA tiếng Việt, 19/9/2019
Malaysia duy trì lập trường trung lập, chống quân sự hoa Biển Đông (RFA, 19/09/2019)
Chính phủ Malaysia hôm 18/9 công bố chính sách đối ngoại mới, kêu gọi phi quân sự hóa khu vực Biển Đông, đồng thời duy trì lập trường trung lập không liên kết của nước này giữa các cường quốc.
Hình minh họa. Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Viễn Đông ở Vladivostok, Nga hôm 5/9/2019 - AFP
Đây là chính sách đối ngoại đầu tiên được chính phủ của Thủ tướng Mahathir Mohamad công bố kể từ khi ông lên nắm quyền vào năm ngoái.
Tài liệu dài 80 trang có tên "Thay đổi liên tục" được coi nhưng khung hướng dẫn cho các chính sách liên quan của Malaysia.
Liên quan đến Biển Đông, tài liệu xác định : "Biển Đông phải là vùng biển của hợp tác, kết nối và xây dựng cộng đồng, không phải nơi đối đầu hay xung đột"
Khi đề cập đến mối quan hệ với các cường quốc, tài liệu không nêu cụ thể tên Hoa Kỳ hay Trung Quốc nhưng nêu rõ "trong mối quan hệ với các cường quốc, Malaysia sẽ thực hiện hướng tiếp cận và chính sách không liên kết".
Trong phát biểu của mình ở buổi lễ công bố chính sách mới, Thủ tướng Mahathir nói "chủ nghĩa đa phương hiện đang bị đe dọa và các cường quốc đang đơn phương áp đặt ý muốn của mình lên các nước khác".
Malaysia là một trong những nước đòi chủ quyền ở Biển Đông cùng các nước khác bao gồm Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Brunei, Đài Loan.
Từ tháng 5 vừa qua, Malaysia đã phải đối đầu với những đe dọa từ Trung Quốc khi Bắc Kinh cho tàu hải cảnh vào vùng nước gần bãi Luconia của Malaysia để quấy nhiễu các hoạt động khai thác dầu khí tại đây.
Trung Quốc hiện là nước đòi chủ quyền phần lớn khu vực Biển Đông qua đường đứt khúc 9 đoạn mà nước này tự vẽ ra trên biển, chiếm đến gần 90% diện tích Biển Đông. Tòa Trọng tài Quốc tế ở The Hague hồi năm 2016 đã bác bỏ tính hợp lệ của đường đứt khúc này nhưng Trung Quốc không chấp nhận phán quyết của tòa.
****************
Thủ tướng Malaysia đề nghị phi quân sự hóa Biển Đông (RFI, 19/09/2019)
Theo nhật báo South China Morning Post, hôm 19/09/2019, thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad kêu gọi phi quân sự hóa Biển Đông, biến vùng biển này thành một khu vực hòa bình, hữu nghị và thương mại.
Thủ tướng Mahathir đưa ra lời kêu gọi này trong một tài liệu cập nhật hóa chính sách đối ngoại của Malaysia.
Theo tài liệu này, chính phủ Kuala Lumpur giữ nguyên lập trường phi liên kết với các cường quốc, đồng thời tăng cường hợp tác với các nước Hồi Giáo. Thủ tướng Mahathir nhấn mạnh là về cơ bản chính sách ngoại giao của Malaysia không có gì thay đổi, nhưng sẽ có cách tiếp cận khác đối với các vấn đề ảnh hưởng đến lợi ích của nước này.
Riêng về hồ sơ Biển Đông, tài liệu này viết : "Biển Đông phải là một vùng biển của hợp tác, chứ không phải là nơi đối đầu hoặc xung đột. Điều này phù hợp với tinh thần của hiệp định về Vùng Hòa bình Tự do và Trung lập (ZOPRAN)".
Được Malaysia, Indonesia, Philippines, Thái Lan và Singapore ký kết vào năm 1971, ZOPRAN có mục tiêu giữ cho vùng Đông Nam Á không có sự can thiệp các thế lực bên ngoài dưới bất kỳ hình thức
Biển Đông phải là một vùng biển của hợp tác, chứ không phải là nơi đối đầu hoặc xung đột. Điều này phù hợp với tinh thần của hiệp định về Vùng Hòa bình Tự do và Trung lập ( ZOPRAN )
Là một trong những con đường giao thương quan trọng nhất của thế giới, Biển Đông đang trở thành một điểm nóng trong quan hệ Mỹ- Trung. Hoa Kỳ đang tăng cường các chiến dịch tuần tra bảo vệ tự do hàng hải tại Biển Đông, trong khi Trung Quốc đã bồi đắp một số đảo mà họ kiểm soát và xây dựng trên đó nhiều cơ sở quân sự. ASEAN đang đàm phán với Trung Quốc về Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) nhằm ngăn ngừa tranh chấp chủ quyền biến thành xung đột quân sự.
Trong tài liệu cập nhật chính sách đối ngoại, chính phủ Malaysia khẳng định gia tăng nỗ lực hợp tác với "các đối tác quốc tế thích hợp" nhằm chống các mối đe dọa an ninh "phi truyền thống" và chống nạn buôn người, nạn khủng bố trên vùng Biển Đông.
Philippines sẽ không đưa phán quyết 2016 ra Liên Hiệp Quốc
Về phần Philippines, phát ngôn viên của tổng thống Rodrigo Duterte hôm nay tuyên bố là Manila sẽ tiếp tục đối thoại hòa bình với Trung Quốc để giải quyết tranh chấp Biển Đông, thay vì đưa phán quyết 2016 của Tòa Trọng Tài Thường Trực ra trước Liên Hiệp Quốc.
Phán quyết năm 2016 bác bỏ các đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc trên vùng Biển Đông.
Phát ngôn viên Salvador Panelo cho rằng đề nghị của cựu ngoại trưởng Albert del Rosario đưa vấn đề này ra Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc là "vô ích", vì Liên Hiệp Quốc không có thẩm quyền buộc thi hành phán quyết của Tòa Trọng Tài.
Thanh Phương
Nguồn : RFI tiếng Việt, 19/09/2019
Ngay sau khi xuất hiện tàu cẩu lớn nhất thế giới của Trung Quốc là Lam Kình ngoài khơi tỉnh Quảng Ngãi vào ngày 3/9/2019, chỉ cách đường cơ sở của Việt Nam chưa tới 11 hải lý và cách đảo Lý Sơn chỉ khoảng 30 hải lý về phía nam, đã nổi lên dư luận "ta đang chuẩn bị cho tình huống xấu nhất" đầy lo lắng và lo sợ trong nội bộ đảng cầm quyền ở Việt Nam.
Tàu cẩu lớn nhất thế giới của Trung Quốc là Lam Kình ngoài khơi tỉnh Quảng Ngãi vào ngày 3/9/2019.
‘Tình huống xấu nhất’ là gì ?
Đó là một thuật ngữ của giới quân sự Việt Nam nhằm mô tả tình trạng sẵn sàng chiến đấu ở cấp cao nhất. Nghĩa là có thể nổ ra chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Quốc - cái tương lai rất gần mà vào thời hữu hảo ‘Bốn Tốt’ và Mười Sáu Chữ Vàng’ chỉ nghĩ đến cũng thấy hoang tưởng.
Nỗi lo sợ và khiếp nhược đến mức ‘đái ra quần’ của giới quan chức Việt là rất có cơ sở, bởi khác hẳn với tàu Hải Dương 8 chỉ làm nhiệm vụ thăm dò địa chất, Lam Kình làm cho người ta lập tức nhớ lại giàn khoan Hải Dương 981 mà Trung Quốc cho tấn công vào vùng biển Việt Nam trong năm 2014 và suýt gây ra xung đột quân sự. Khi đó về mặt công khai, chính quyền Việt Nam đã chẳng có nổi một tuyên bố ra hồn phản đối Trung Quốc, trong lúc rậm rịch thông tin ngoài lề về những cuộc chuyển quân lên biên giới phía Bắc và ở Biển Đông với cấp độ báo động ‘sẵn sàng chiến đấu cao’ - tức đã đạt đến trạng thái thứ ba trong 4 cấp sẵn sàng chiến đấu của quân đội (sẵn sàng chiến đấu thường xuyên, sẵn sàng chiến đấu tăng cường, sẵn sàng chiến đấu cao, sẵn sàng chiến đấu toàn bộ).
Còn vào lần này, khả năng Bắc Kinh đưa một giàn khoan đến hoạt động trong vùng biển của Việt Nam là hoàn toàn có thể xảy ra. Nhưng mục tiêu lần này không chỉ ‘thăm dò dầu khí’ như năm 2014 mà có thể là… khoan luôn.
Đó có thể là giàn khoan Hải Dương 981, hoặc giàn sản xuất dầu khí lớn thứ hai của Trung Quốc là Đông Phương.
Đánh hay không dám ?
Trong phương trình khoan dầu nhiều ẩn số của Trung Quốc, Đông Phương có thể là đáp án đầu tiên. Bởi vào tháng 4 năm 2019, giàn khoan này đã hờm sẵn tại lưu vực Yinggehai ở Biển Đông, sẵn sàn gây áp lực với Việt Nam trong bối cảnh ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng sắp công du Hoa Kỳ (nhưng cũng vào tháng 4 đó, ông Trọng bất thần bị một cơn bạo bệnh tại Kiên Giang nên chuyến đi Mỹ của ông ta phải dời lại).
Nếu sắp tới Trung Quốc liều lĩnh điều cả một giàn khoan vào Bãi Tư Chính để ‘cùng hợp tác khai thác dầu khí với Việt Nam’ - như cái cách mà Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã trịch thượng yêu sách với giới chóp bu Hà Nội khi đến Việt Nam vào đầu năm 2018, với tỷ lệ ăn chia có thể lên đến 60% cho Trung Quốc và chỉ còn lại 40% cho chủ nhà Việt Nam - được hiểu thực chất là phải mời một tên cướp vào nhà mình để cùng chia bôi tài sản…, đó sẽ là một thảm họa với Nguyễn Phú Trọng và những đồng đảng của ông ta vẫn mơ màng về ‘Mười Sáu Chữ Vàng’.
Kịch bản ngày càng áp sát là Việt Nam khó có thể tránh thoát nguy cơ một cuộc tấn công quân sự, dù có thể chỉ ở cấp độ chiến dịch, từ phía Trung Quốc. Chiến dịch tấn công này, nếu xảy ra, chắc chắn sẽ diễn ra trên biển và rất gần gũi về mặt kinh tuyến và vĩ tuyến với những mỏ dầu mà Việt Nam đang dự định khai thác nhưng nằm trong "đường lưỡi bò" mới được Trung Quốc vẽ bổ sung. Điểm nổ chiến tranh lộ diện nhất là Bãi Tư Chính.
Còn Bộ Chính trị và cấp dưới của nó là Bộ Quốc phòng Việt Nam sẽ làm gì ?
Đánh thì sợ, mà không đánh thì bị cướp trắng và mặt mũi chẳng còn ra thể thống gì.
Trong thời gian qua, đã có những thông tin ngoài lề về việc quân đội Việt Nam điều quân để củng cố vùng biên giới phía Bắc và cả biên giới tây nam giáp Campuchia. Tuy nhiên, đó chỉ là cách phòng thủ hết sức thụ động, một kiểu che chắn theo cách ‘kịch liệt phản đối’ nhưng cứ ngồi đờ ra, giương mắt thao láo nhìn kẻ cướp xông vào nhà mình và lần lượt bỏ túi từng món đồ.
Trong khi đó các tàu chiến và tàu hải cảnh Việt Nam vẫn chỉ lọ mọ theo đuôi tàu Hải Dương 8 mà không có được bất cứ hành động mạnh mẽ nào, dù chỉ là… bắn lên trời.
Trong lúc 6 tàu ngầm lớp Kilo của Hải quân Việt Nam được cho là còn phải đi chống ngập ở Hà Nội và Sài Gòn, còn các tàu chiến khác, kể cả ‘tàu buồm hiện đại nhất thế giới’ mang tên Lê Quý Đôn tuyệt đối mất dạng, toàn bộ lực lượng hải quân Việt Nam vẫn phủ phục trong tư thế bất lực và kiên định… bám bờ, các tàu Trung Quốc đã thả giàn tung hoành ở Biển Đông và ngay trong ‘vùng chủ quyền không thể tranh cãi’ của Việt Nam.
Việc nhóm tàu khảo sát Hải Dương-8 của Trung Quốc đã tiến sâu thêm 30 km vào vùng biển Việt Nam vào đầu tháng 9 năm 2019, chỉ còn cách bờ biển tỉnh Ninh Thuận, miền trung Việt Nam khoảng 155 km, đã gián tiếp tiết lộ một sự thật bi thảm : trong suốt thời gian từ đầu tháng 6 năm 2019 khi tàu Trung Quốc bắt đầu xâm nhập bãi Tư Chính, Bộ Quốc phòng và Cảnh sát biển Việt Nam đã đối phó tệ hại đến mức Trung Quốc hoàn toàn coi thường những hành động đối phó này.
Đã không có một tàu hải quân nào của Việt Nam ra ngăn chặn Hải Dương 8 đến gần Phan Thiết. Thật đúng là ‘ngư dân bám biển, hải quân bám bờ’ !
Trung Quốc đang thực hiện chiến thuật nuốt từng hải lý biển Việt Nam. Có thể vào một ngày đẹp trời không lâu nữa, các lực lượng quân đội lẫn cảnh sát ở Phan Thiết hoặc ở một thành phố duyên hải nào đó của Việt Nam sẽ trố mắt trước những chiếc tàu giương cờ Trung Quốc lừng lững ngự ngay trước mắt họ ở vùng biển sát bờ.
Trong khi đó, chiến thuật Việt Nam dùng một số tàu chiến và tàu hải cảnh bao vây tàu Trung Quốc, hoặc bám chặt tàu Trung Quốc đã tỏ ra vô ích và vô tích sự, bởi về số lượng thì tàu Trung Quốc luôn vượt gấp ít ra vài ba lần số tàu Việt Nam, còn việc bị bám đuôi thì Trung Quốc chẳng coi ra gì.
Kiện hay không dám ?
Cũng trong khi đó, toàn bộ công tác ‘vận động quốc tế ủng hộ Việt Nam’ đã chỉ nhận được nhưng lời lẽ chia sẻ chung chung và xã giao, còn lại đã chẳng có bất kỳ hành động quân sự đáng chú ý nào từ các nước ‘đối tác chiến lược’ của Việt Nam.
"Chúng ta đã kiên trì, kiên quyết đấu tranh bằng mọi biện pháp đối với các hoạt động của nước ngoài vi phạm chủ quyền trên biển của ta" - Thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc hé miệng lần đầu tiên về tình hình ở Biển Đông vào ngày 4/9/2019 trong một cuộc họp Chính phủ thường kỳ tháng 8 tại Hà Nội, nhưng vẫn không hề dám nhắc đến cái tên Trung Quốc.
‘Bản lĩnh Nguyễn Xuân Phúc’, cộng thêm trạng thái bị coi là câm nín của Nguyễn Phú Trọng trước vụ Hải Dương 8, thậm chí còn tệ hơn cả cấp dưới là Phó thủ tướng kiêm bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh. Bởi trước đó, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã ba lần lên tiếng cáo buộc tàu Trung Quốc vi phạm chủ quyền và thềm lục địa của Việt Nam, dù rốt cuộc cơ quan này cũng chỉ đánh võ miệng.
Khi ngay cả những quan chức chóp bu như Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Xuân Phúc mà còn không dám nêu tên Trung Quốc thì làm sao chính thể Việt Nam dám kiện Bắc Kinh ra tòa án quốc tế ?
Chỗ dựa dẫm duy nhất
Nếu nổ ra ‘tình huống xấu nhất’ với Trung Quốc, hải quân Việt Nam sẽ đánh chác ra sao ?
Sẽ tiếp tục phát cờ cho ngư dân để "thuyền ra biển lớn" và lại khiến rộ lên câu vè dân gian "Chống giặc bằng cờ, chống ngập bằng lu, đứa nào nói đảng ngu là thằng phản động" ?
Nếu ai đó cho rằng hải quân Việt Nam còn đang ‘giấu mình’, vẫn nêu cao tinh thần yêu nước và sẽ ra đòn quyết định vào một thời điểm thuận lợi, làm thế nào để giải thích việc mới đây một thứ trưởng bộ quốc phòng kiêm đô đốc của quân chủng này - Nguyễn Văn Hiến, cùng một số tướng tá hải quân khác đã bị tống vào ‘lò’ của ‘tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng vì tội ‘ăn đất’ ?
Nguy cơ Việt Nam bị tấn công đang hiển thị dần sau một tháng và mỗi quý. Đến giờ phút này, giới chóp bu Việt Nam phải quyết định cho chính số phận tồn vong của nó : thêm một lần đánh đu với người anh em cộng sản Bắc Kinh sẽ rất dễ khiến lục phủ ngũ tạng của dân tộc Việt Nam bị kẻ thù phanh thây - theo đúng cái cách mà chính quyền Trung Quốc đã làm để mổ sống nội tạng các tín đồ Pháp Luân Công.
Chỗ dựa dẫm duy nhất giờ đây của Hà Nội chỉ còn là Hoa Kỳ - đối trọng duy nhất của Trung Quốc tại Biển Đông.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 14/09/2019