Trung Quốc lại sẽ tập trận tại Biển Đông (RFA, 14/08/2019)
Cục Hải sự Trung Quốc vào ngày 12 tháng 8 ra thông báo việc quân đội Hoa Lục tiến hành hoạt động ‘huấn luyện quân sự’ tại khu vực phía tây bắc quần đảo Hoàng Sa. Cụ thể thời gian bắt đầu từ 0 giờ ngày 18 tháng 8 cho đến 24 giờ ngày 20 tháng 8, theo giờ Bắc Kinh.
Ảnh minh họa : Biểu tình ở Manila ngày 25/2/2016 phản đối Trung Quốc bố trí tên lửa tại đảo Phú Lâm - AFP
Cơ quan này cảnh báo tàu bè trong thời gian diễn ra huấn luyện quân sự như thế không được đi vào khu vực diễn tập.
Vừa qua, trong hai ngày 6 và 7 tháng 8, Trung Quốc cũng tiến hành hoạt động tương tự tại khu vực quần đảo Hoàng Sa.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, Lê Thị Thu Hằng, sau đó ra thông cáo với nội dung cho rằng việc Trung Quốc tiến hành các cuộc huấn luyện quân sự ở Hoàng Sa thuộc Việt Nam là xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này.
Bà Lê Thị Thu Hằng cũng cho biết vào ngày 7 tháng 8, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã giao thiệp và trao công hàm phản đối sự vi phạm đó của Trung Quốc.
Cũng tin liên quan, vào ngày 9 tháng 8, Cục Hải Sự Trung Quốc cũng có thông báo hoạt động ‘diễn tập bắn đạn thật’ mỗi ngày theo khung giờ nhất định từ 12 đến 14 tháng 8 tại khu vực gần bờ phía đông đảo Hải Nam.
Tin Trung Quốc tiếp tục các hoạt động quân sự tại Biển Đông được đưa ra vào khi Bắc Kinh cho tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 vào khu vực Bãi Tư Chính nằm trong Vùng đặc quyền Kinh tế và Thềm lục địa của Việt Nam.
Việt Nam lúc đầu không thông tin rõ ràng về vấn đề này, mãi nhiều tuần lễ sau Bộ Ngoại giao Việt Nam mới lên tiếng và cuối cùng phản đối đích danh Trung Quốc về sự xâm phạm này được nêu ra từ phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh.
******************
Tổng thống Philippines bị coi là "bán rẻ" đất nước cho Bắc Kinh (RFI, 13/08/2019)
Trả lời phỏng vấn của hãng truyền thông Mỹ Bloomberg vào hôm nay 13/08/2019, phó tổng thống Philippines cho biết rằng công dân nước bà đang lo lắng trước việc tổng thống Duterte đã "bán đổ bán tháo" đất nước cho Bắc Kinh và kêu gọi ông có lập trường mạnh mẽ hơn để bảo vệ chủ quyền của đất nước ở vùng Biển Đông.
Phó tổng thống Philippines Leni Robredo. Ảnh chụp ngày 05/12/2016.@Reuters>
Trong cuộc phỏng vấn với kênh Bloomberg TV ở Manila, phó tổng thống Leni Robredo cho rằng tổng thống Duterte đã không biết tận dụng lợi thế của một phán quyết quốc tế khẳng định các quyền kinh tế của Philippines trong vùng biển mà Trung Quốc đòi chủ quyền.
Phó tổng thống Philippines giải thích :
"Tôi hiểu vì sao chính quyền mới của chúng tôi lại thân thiện hơn với Trung Quốc, nhưng tôi cho rằng cần có một đường lối rõ ràng trong việc bảo vệ lãnh thổ và chủ quyền của đất nước chúng tôi… Tổng thống (Duterte) đã đưa ra rất nhiều tuyên bố khiến mọi người có cảm giác là Philippines đang chấp nhận mọi đòi hỏi của Trung Quốc".
Bà Robredo khẳng định là công luận Philippines đang lo sợ là "một ngày nào đó mở mắt thức dậy thì thấy nhiều vùng lãnh thổ của mình không còn là của mình nữa".
Luật lệ tại Philippines quy định tổng thống và phó tổng thống được bầu riêng rẽ, vì vậy, bà Robredo hiện đang ở trong một tư thế bất bình thường : là lãnh đạo đối lập, nhưng lại làm phó tổng thống. Chính vì là chính khách đối lập nên bà liên tục bị tổng thống Duterte tấn công. Từ khi lên cầm quyền vào năm 2016, ông Duterte đã tìm cách bỏ tù hoặc loại trừ những người chỉ trích ông ra khỏi guồng máy chính quyền.
Trong bối cảnh đó, Robredo cho biết bà sẵn sàng ra tranh cử tổng thống trong nhiệm kỳ tới đây, nhưng chưa quyết định xem là có nên trở thành ứng cử viên chính của đảng Tự Do đối lập hay không. Ba năm nữa cử tri Philippines sẽ bầu người kế nhiệm ông Duterte.
Bà Robredo đã đắc cử phó tổng thống nhờ một chương trình tranh cử chủ trương thúc đẩy việc chống đói nghèo, hứa hẹn sẽ giúp đỡ những người sống bên lề xã hội. Tuy nhiên, trong những cuộc thăm dò gần đây, chỉ số được lòng dân của bà dưới mức 50%, trong lúc tỷ lệ tín nhiệm của ông Duterte mới đây đã tăng cao lên trên 68%.
Mai Vân
********************
Philippines cấm tất cả những tàu thăm dò ngoại quốc vào vùng biển nước này (RFA, 13/08/2019)
Bộ trưởng Ngoại giao Philippines Teodoro Locsin ban hành lệnh cấm những tàu thăm dò nước ngoài vào vùng biển Philippines.
Ảnh minh họa : Ngoại trưởng Philippines tại cuộc họp ở Manila ngày 1/3/2019 - AFP
Mạng báo Philstar loan tin ngày 13 tháng 8 dẫn ý kiến trên Twitter của ông Teodora Locsin rằng bộ trưởng ngoại giao Philippines cấm những tàu khảo sát biển, bổ sung thêm Trung Quốc vào lệnh giới hạn đối với Pháp và Nhật Bản.
Theo người đứng đầu ngành ngoại giao Philippines, thì nếu cấp ngoại lệ cho một quốc gia sẽ ngay lập tức khiến cho lệnh cấm bị bãi bỏ hoàn toàn.
Ý kiến của bộ trưởng ngoại giao Philippines được đưa ra sau khi có tin phát hiện hai tàu thăm dò của Trung Quốc hoạt động trong vùng Đặc Quyền Kinh tế của Philippines vào tuần qua. Đó là tàu thăm dò hải dương Zhanjian và Dong Fang Hong.
Mạng báo Inquirer vào ngày 13 tháng 8 cũng loan tin Phủ tổng thống Philippines ủng hộ biện pháp của Bộ Ngoại giao đưa Trung Quốc vào danh sách những quốc gia mà tàu thăm dò không được phép hoạt động tại vùng biển của Philippines.
Vụ bãi Tư Chính : Chưa kiện thì chưa tin
Phạm Phú Khải, VOA, 14/08/2019
Sự kiện Bãi Tư Chính trong những tuần qua cho thấy ba điều quan yếu.
Khoảng 10 nhà hoạt động biểu tình về vụ Bãi Tư Chính ở phía trước Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội, 6/8/2019.
Một, Bắc Kinh mạnh mẽ chứng tỏ uy thế và toàn bộ chủ quyền của họ trên Biển Đông, bất chấp sự phản đối của Hà Nội, hay của Washington, hay ngay cả phán quyết trước đây của Tòa án Trọng tài Thường trực (Permanent Court of Arbitration- PCA) có lợi cho Phi Luật Tân năm 2016.
Hai, Trung Quốc chủ động dùng cơ hội này để lên án Việt Nam vi phạm chủ quyền của họ, chứ không phải họ là kẻ xâm phạm. Tức không còn là tranh chấp mà đổi sang thành bảo vệ chủ quyền. Nếu họ tiếp tục sử dụng chiêu bài này và lập đi lập lại từ ngày này qua tháng nọ thì một ngày nào đó rất có thể họ thành công mưu kế tằm ăn dâu này.
Ba, Hà Nội tuy phản ứng mạnh mẽ, có lẽ là mạnh mẽ nhất từ trước đến nay, qua phát ngôn nhân hay qua các diễn đàn quốc tế, tòa đại sứ tại Canberra hay Washington v.v… nhưng vẫn chưa đủ dứt khoát. Hà Nội vẫn chưa dám đi đến quyết định kiện Trung Quốc ra Tòa án Trọng tài Thường trực, hay đi xa hơn nữa, nâng cấp quan hệ với Hoa Kỳ thành đồng minh chiến lược mà hiện tại chỉ dừng lại ở mức quan hệ đối tác toàn diện.
Hà Nội hiện đang đứng ở thế khó xử. Thế đu dây của họ, tuy phần nào hiệu quả từ trước đến nay, giờ đây rõ ràng cần xét lại, nhất là trong bối cảnh chính trị quyền lực leo thang giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Thương chiến giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc chỉ là bề mặt và chiến thuật, kiềm chế sự trổi dậy của Trung Quốc hiện nay và sắp tới để họ không trở thành bá quyền khu vực, thách thức trật tự thế giới, gây quan ngại về an ninh cho khu vực, mới là chiến lược lâu dài. Đảng Cộng hòa hay Dân chủ đều nhất quán tiến hành chiến lược hành động như thế. Hà Nội hiển nhiên thừa hiểu điều này. Bắc Kinh đưa tàu Hải Dương 8 và 80 chiếc tàu khác để tiến hành các hoạt động khảo sát trong khu vực, vừa dò xét thái độ của Hà Nội, vừa tạo áp lực để Hà Nội chọn phe, thay vì tiếp tục đu dây. Washington có lẽ cũng không muốn Hà Nội tiếp tục đu dây như xưa nay nữa.
Tóm lại, chính trị quyền lực trong vùng và thế giới bắt buộc Hà Nội phải có quyết định dứt khoát. Thời gian không đứng về phía họ.
Lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam biết rõ họ không thể trông đợi vào tổ chức ASEAN để lên tiếng hay bảo vệ quyền lợi và chủ quyền của mình trên Biển Đông. Về mặt pháp lý thì chỉ có quyết định của PCA mới giúp Hà Nội. Còn về mặt thực tiễn thì chỉ có Washington, và sức mạnh của người dân, mới giúp được.
Địa chính trị tại Châu Á - Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương không chỉ ảnh hưởng riêng đến Hà Nội, Bắc Kinh và Washington mà còn bao nhiêu quốc gia trong vùng cũng như thế giới. Úc cũng đang đứng ở thế khó xử, chẳng đặng đừng này. Trung Quốc là nước giao thương lớn nhất của Úc, chiếm gần một phần ba xuất khẩu và nhập khẩu tại đây. Nghĩa là nền kinh tế của Úc phụ thuộc rất nặng nề vào mối giao thương này. Nhưng về mặt an ninh thì Úc luôn là đồng minh của Mỹ, nhất là từ sau Thế Chiến II, đặc biệt khi Anh không còn khả năng đỡ đầu cho Úc và chính sách ngoại giao của Úc không còn phụ thuộc vào Anh nữa. Nhưng cân bằng giữa hai quan hệ này không hề dễ đối với Canberra.
Phần lớn các chiến lược gia của Úc hiểu rằng an ninh và chủ quyền quốc gia luôn là chiến lược ưu tiên, đứng trên thương mại và kinh tế. Cuộc viếng thăm của Ngoại trưởng Mike Pompeo và Bộ trưởng quốc phòng Mark Esper tại Úc vào đầu tuần này, trong bối cảnh căng thẳng tại Biển Đông và thương chiến leo thang, đã gửi tín hiệu đến Bắc Kinh là phải cẩn thận trong hành động. Ông Esper cho biết ý định của Washington là thiết lập các hệ thống hỏa tiễn có tầm 500km đến 5.500 km trên đất liền ở khắp vùng, và thẳng thừng cảnh báo "hành vi hung hăng một cách lập đi lập lại đáng quan ngại", và "hành vi gây bất ổn định" của Bắc Kinh. Vào thứ Ba 6 tháng 8 vừa qua, Hoa Kỳ đã gửi chiến hạm USS Ronald Reagan qua vùng biển này để bảo đảm "hòa bình qua sức mạnh".
Trong bối cảnh chính trị quyền lực leo thang như thế, Hà Nội khó thể nào mà không chọn, nhất là khi Bắc Kinh đã tăng cường áp lực tại Bãi Tư Chính. Chọn Bắc Kinh thì có thể Hà Nội giữ được ghế và quyền, nhưng sẽ mất mát quyền lợi quốc gia và chưa chắc sẽ được lòng dân. Chọn Washington thì Hà Nội vẫn có thể tiếp tục giữ ghế giữ quyền, và bảo đảm quyền lợi quốc gia, bởi vì Washington sẽ không đòi hỏi cải thiện nhân quyền hay thay đổi thể chế vào lúc này, và cũng có thể được lòng dân ; nhưng nguy cơ leo thang tại Biển Đông cũng rất cao. Thật ra nguy cơ đó sẽ luôn còn đó bởi vì, như đã trình bày trên, Bắc Kinh muốn khẳng định chủ quyền gần như toàn bộ của họ tại Biển Đông qua động thái của họ tại Bãi Tư Chính và bao nhiêu đảo lớn nhỏ khác trong vùng.
Đứng trước sự kiện này, người dân Việt Nam quan tâm đến vận nước nên làm gì ?
Theo tôi, nên áp dụng tối đa các chiến thuật đấu tranh bất tuân dân sự (civil disobedience). Nghĩa là không làm bất cứ điều gì mà Đảng cộng sản Việt Nam muốn người dân làm, và làm những gì đảng không muốn người dân làm.
Chiến lược là phải đặt trách nhiệm về phía đảng, phía lãnh đạo, đặt vấn đề với mọi lời nói hay không nói, mọi hành động hay không hành động, của họ.
Nếu đã biểu tình thì tập trung vào việc kêu gọi Hà Nội phải có thái độ mạnh mẽ và dứt khoát với Bắc Kinh, tập trung khẩu hiệu kêu gọi đưa Trung Quốc ra tòa PCA, chẳng hạn.
Còn nếu tiếp tục làm theo những lời kêu gọi của Đảng cộng sản Việt Nam thì chẳng khác gì giúp cho họ có thêm chính nghĩa và sức mạnh.
Bất tuân dân sự đối với chế độ này là chiến lược cần thiết cho cuộc đấu tranh hiện nay.
Bắc Kinh có thể tạo áp lực tại Bãi Tư Chính, nhưng họ sẽ không xâm chiếm Việt Nam trên đất liền, ít nhất là trong một hai thập niên tới. Chủ trương của Bắc Kinh là ủng hộ và ảnh hưởng lên các chế độ mà quan điểm chính trị có lợi cho họ, phục vụ cho các mục tiêu chiến lược lâu dài để trở thành bá chủ thiên hạ trong ba thập niên tới.
Do đó người Việt quan tâm không nên để cái sợ mất nước vào tay Trung Quốc chiếm hết đầu óc của mình, mà nên tìm cách làm sao cho đại đa số người dân thấy rằng Đảng cộng sản Việt Nam không còn khả năng lãnh đạo, không còn chính nghĩa, và không còn được sự hậu thuẫn của người dân nữa. Nghĩa là họ hoàn toàn bất tài, bất đức và bất lực.
Chỉ khi nào người dân Việt Nam có tiếng nói, trí thức tinh hoa Việt Nam có chỗ đứng và có phần quyết định vào vận mệnh đất nước, và quyền lực cũng như quyền lợi thuộc về toàn dân tộc Việt Nam, thì đất nước này mới thực sự có đủ sức mạnh để chống lại nạn ngoại xâm và để xây dựng lại nền tảng căn bản của quốc gia mà từ đó vươn lên.
Những người hiểu biết không nên để Đảng cộng sản Việt Nam lợi dụng cơ hội này để tiếp tục tuyên truyền hay kích động lòng yêu nước. Đảng cộng sản Việt Nam đã phản bội bao nhiêu lần những lời hứa hẹn, nào là độc lập, tự do, hạnh phúc, dân giàu, nước mạnh, công bằng, bình đẳng v.v…
Đủ rồi, đừng nên để họ lừa phỉnh nữa !
Phạm Khú Khải
Úc Châu, 08/08/2019
*******************
Tàu Hải Dương 8 và bài học từ dàn khoan HY-981
Lê Thu Hương, VNTB, 14/08/2019
Bế tắc hiện tại chứng tỏ rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục gây áp lực và tiến trình COC không tạo ra sự khác biệt nào trong các kế hoạch làm chủ Biển Đông của Bắc Kinh cả. Đây có thể là một cuộc khủng hoảng với riêng Việt Nam, nhưng cũng có thể là cơ hội cho cộng đồng quốc tế - ngoài Mỹ ra - phản ứng thích đáng với các vi phạm UNCLOS và xâm nhập thềm lục địa của Trung Quốc.
Biểu tình chống Trung Quốc năm 2014
Thách thức
Việc Trung quốc xâm nhập vào thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam hoàn toàn không lạ. Vụ việc nghiêm trọng nhất xảy ra gần đây vào năm 2014, khi Trung Quốc cho kéo giàn khoan dầu HY-981 vào cùng EEZ của Việt Nam và đã gây ra cuộc khủng hoảng ngoại giao giữa hai nước. Tuy nhiên, việc công khai cho tàu Hải Dương 8 khảo sát khu vực đáy biển phía đông bắc của Bãi Tư Chính ngoài khơi Việt Nam lại đặt ra những thách thức nghiêm trọng hơn ở nhiều mức độ.
Thách thức pháp lý : Trung Quốc kiên trì theo đuổi việc kiểm soát hành chính trong phạm vi đường lưỡi bò dù có mâu thuẫn với luật pháp quốc tế. Việc Trung Quốc cho tàu khảo sát ở vùng biển này lần đầu tiên sau khi tòa Trọng tài La Haye ra phán quyết năm 2016 thể hiện sự chống đối công khai của họ đối với tính hợp pháp của chủ quyền thềm lục địa theo UNCLOS và họ đang tạo ra tranh chấp ở vùng biển trước giờ chưa bao giờ có tranh chấp.
Thách thức ngoại giao : Bắc Kinh đang thử thách không chỉ Việt Nam mà cả Mỹ và cộng đồng quốc tế. Trung Quốc đang công khai xúc phạm việc theo đuổi giải quyết tranh chấp ôn hòa thông qua đàm phán theo các quy tắc ứng xử (COC) của các quốc gia ASEAN. Trung Quốc đã chứng tỏ rằng tiến trình đàm phán chỉ là dự thảo trên giấy và rằng bất kỳ COC nào cũng chẳng có mấy ảnh hưởng đến việc giải quyết tranh chấp hay hành vi của Trung Quốc.
Thách thức kinh tế : Trung Quốc liên tục tạo sức ép lên các quốc gia khác là nhằm buộc các quốc gia có tranh chấp này phải tham gia kế hoạch thăm dò tài nguyên thiên nhiên với Trung Quốc ngay cả ở những vùng không có tranh chấp.
Tại thời điểm này Hà Nội bận rộn chuẩn bị nhận chức Chủ tịch ASEAN, tham gia Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2020-2021, thêm vào đó là đại hội đảng 13 sắp tới. Và Bắc Kinh đang gây sức ép tâm lý cho Hà Nội ngay trước khi nhận chức chủ tịch ASEAN.
Bài học từ HYSY-981
Chiến thuật mà Việt Nam áp dụng vào năm 2014 để đối phó với HY-981 (Hai Yang Shi YouYou - 981) sẽ không có hiệu quả tương tự cho tình hình hiện nay khi Bắc Kinh hiện gia tăng áp lực ở Biển Đông không chỉ với Việt Nam mà cả với Malaysia và Philippines. Trung Quốc theo đuổi các hoạt động này trong khi biết rõ cái giá uy tín phải trả.
Nỗ lực ngoại giao : bất kỳ nỗ lực ngoại giao megaphone (nỗ lực ngoại giao thông qua họp báo, công hàm...) trong lần này sẽ phải được phối hợp nhiều hơn và phải có cả Hoa Kỳ khi họ tham gia ủng hộ trật tự quốc tế dựa vào luật pháp. Nhưng chỉ có ngoại giao như vậy thì không có khả năng đưa đến một giải pháp bền vững. Do đó, Việt Nam đã tránh theo đuổi các mối quan hệ quân sự chặt chẽ với các cường quốc hoặc các biện pháp pháp lý khác đối với Trung Quốc vì họ sẽ trở thành đối kháng với Bắc Kinh, nhưng đó vẫn là những sự lựa chọn nếu Hà Nội xác định họ cần bảo vệ chủ quyền của mình.
Kiểm soát tinh thần chống Trung Quốc : So với vụ dàn khoan HYSY-981, các hoạt động khảo sát và quấy rối hiện tại của Hải Dương 8 ít được truyền thông đưa tin cũng như ít cả về trao đổi ngoại giao. Nguyên do chủ yếu là Hà Nội muốn kiểm soát tinh thần chống Trung Quốc tại Việt Nam và muốn ngăn chặn khả năng nổ ra biểu tình hoặc tạo bất ổn.
Năm 2014, Việt Nam đã chứng kiến một loạt các cuộc biểu tình chống Trung Quốc dữ dội dẫn tới việc dân chúng hủy hoại tài sản ở các nhà máy thuộc sở hữu các nhà đầu tư Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và thậm chí của Việt Nam. Các cuộc bạo động đã gây ra thiệt hại cho uy tín môi trường đầu tư an toàn của Việt Nam. Chính phủ e ngại sẽ có điều tương tự xảy ra và họ cũng không muốn phải đối phó với xu hướng dân tộc chủ nghĩa biến thành bạo lực không thể kiểm soát được.
Sự phát triển tích cực : năm 2014, vụ HYSY-981 góp phần kích thích thêm tư duy chiến lược và các chính sách đối ngoại và quốc phòng của Việt Nam, cũng như tạo nên một cuộc tranh luận hiếm hoi trong nước về việc liệu Việt Nam có thể thoát khỏi quỹ đạo Trung Quốc. Vẫn còn quá sớm để nói kết quả sẽ ra sao trong thời gian này, nhưng hy vọng sẽ góp phần vào sự phát triển chính sách Biển Đông và quốc phòng của Việt Nam hơn nữa một khi Sách trắng Quốc phòng sẽ được công bố gần đây.
Sự kiện tàu Hải Dương 8 có thể sẽ dẫn đến sự phối hợp nhiều hơn nữa giữa Việt Nam và các đối tác trong khu vực Ấn Độ - Dương-Thái Bình Dương hoặc cũng có thể góp phần tạo nên sự thay đổi nhằm khuyến khích các quốc gia có tranh chấp ở Biển Đông trong ASEAN hợp tác với nhau nhiều hơn nữa trong vấn đề này.
Tác động rộng hơn
Không giống như năm 2014, Bắc Kinh đang đồng thời gây áp lực lên không chỉ một mà nhiều quốc gia có tranh chấp ở Đông Nam Á và đây là thử nghiệm thực sự cho sự sẵn sàng của cả ASEAN và cộng đồng quốc tế nhằm bảo vệ các quốc gia quyền chủ quyền và kinh tế theo luật pháp.
Nếu các nước trong khu vực không sẵn sàng nhìn xa hơn lợi ích quốc gia riêng và lên tiếng ủng hộ các quốc gia khác, thì việc vi phạm quy tắc hàng hải đang trở thành một điều bình thường mới và sẽ không còn tạo ra phản ứng mạnh mẽ. Tôn trọng luật pháp quốc tế, bao gồm các quyền được UNCLOS bảo đảm, phải được tất cả các quốc gia, kể cả những quốc gia không có tranh chấp hỗ trợ và bảo vệ. Cho đến nay, chỉ có Hoa Kỳ có lập trường công khai và rõ ràng về các hoạt động của Trung Quốc gần Bãi Tư Chính.
Dù các cuộc họp của Bộ trưởng Quốc phòng và Ngoại giao ASEAN diễn ra trong giai đoạn này tránh nêu đích danh các vấn đề này trong các tuyên bố chung, nhưng đã có tranh luận về vấn đề này trong các cuộc họp.
Tại Đối thoại chiến lược ba bên gần đây giữa Hoa Kỳ, Nhật Bản và Úc bên lề các cuộc họp ASEAN, Ngoại trưởng Mike Pompeo và Bộ trưởng Ngoại giao Taro Kono và Marise Payne đã bày tỏ quan ngại về các báo cáo đáng tin cậy về các hoạt động gây rối liên quan đến các dự án dầu khí ở Biển Đông.
Các cuộc tham vấn Bộ trưởng Úc-Hoa Kỳ (AUSMIN) tại Sydney cuối tuần trước đã đưa ra một tuyên bố ủng hộ chính quyền của UNCLOS, hiệu lực của phán quyết của tòa trọng tài năm 2016 và tầm quan trọng của tự do hàng hải. Trong khi bày tỏ sự phản đối mạnh mẽ đối với các hành động đơn phương vi phạm của bất kỳ quốc gia có tranh chấp nào cũng có thể thay đổi hiện trạng và làm gia tăng căng thẳng, một lần nữa tuyên bố chung lại cũng tránh nêu tên bất kỳ quốc gia hoặc sự cố nào là nguồn gốc gây căng thẳng.
Bế tắc hiện tại chứng tỏ rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục gây áp lực và tiến trình COC không tạo ra sự khác biệt nào trong các kế hoạch làm chủ Biển Đông của Bắc Kinh cả. Đây có thể là một cuộc khủng hoảng với riêng Việt Nam, nhưng cũng có thể là cơ hội cho cộng đồng quốc tế - ngoài Mỹ ra - phản ứng thích đáng với các vi phạm UNCLOS và xâm nhập thềm lục địa của Trung Quốc.
Lê Thu Hương
Nguyên tác : China's Incursion into Vietnam's EEZ and Lessons from the Past, AMTI/CSIS, 08/058/2019
Khánh Anh dịch
Nguồn : VNTB, 14/08/2019
******************
Trung Quốc sẽ quần nát bãi Tư Chính và kéo giàn khoan vào
C.Lynh, Người Việt, 13/08/2019
Sau một tuần lễ tạm rút đi, tàu khảo sát địa chất của Trung Quốc Hải Dương 8 (Haiyang Dizhi 8) đã quay lại hoạt động tại vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam ở khu vực bãi Tư Chính.
Tàu Hải dương Địa chất 8 của Trung Quốc. (Hình : Cơ quan Khảo sát Địa chất Trung Quốc)
Trên trang Twitter của ông Ryan Martinson, giáo sư của trường Cao Đẳng Hải Chiến Hoa Kỳ, có những hình ảnh vệ tinh cho thấy vị trí tàu Hải Dương 8 đang có mặt trong vùng chủ quyền kinh tế của Việt Nam. Đi cùng tàu HD08 có ít nhất hai tàu hải cảnh hộ tống 33111 và 31302.
Hai tàu hải giám này có trang bị súng pháo 76 mm, theo tin từ ông Ryan.
Ngoài ra, cũng theo thông tin từ Twitter của ông Ryan, Trung Quốc thay thế tàu hải giám 35111 bằng tàu 45111 đến khu vực gần Lô 06.1, bể Nam Côn Sơn, phía Tây Bắc bãi Tư Chính, nơi hoạt động của giàn khoan Hakuryu 5 Nhật và công ty Rosneft Việt Nam B.V. (công ty con của công ty Rosneft của Nga.) Rosneft vừa gia hạn hoạt động cho giàn khoan Hakuryu 5 đến hết ngày 15 tháng Chín, bất chấp yêu cầu của Bắc Kinh là phải dừng hoạt động.
Trung Quốc không từ bỏ tham vọng độc chiếm Biển Đông
Động thái mới nhất này của Trung Quốc thật ra đã được các chuyên gia nghiên cứu Biển Đông dự đoán trước. Trả lời nhật báo Người Việt hồi đầu tháng Bảy, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, chuyên gia nghiên cứu cao cấp thỉnh giảng tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS) ở Singapore, từng nói tàu Hải Dương 8 có thể sẽ rút lui, nhưng chỉ là tạm thời, vì nó cần tiếp ứng nhiên liệu, lương thực và cả nhân sự.
Tiến sĩ Nguyễn Thành Trung, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế (SCIS) có trụ sở tại Sài Gòn, hôm 9 tháng Tám trả lời BBC Việt Ngữ với quan điểm tương đồng. Ông nói rằng nhiều khả năng Trung Quốc sẽ quay lại. Và nếu quay lại, Trung Quốc được dự đoán sẽ mang theo tàu như Hải Dương 981, nghĩa là sẽ trở lại với các giàn khoan di động. Bởi vì Trung Quốc chắc chắn sẽ không từ bỏ tham vọng độc chiếm khu vực Biển Đông.
Sáng thứ Ba, 13 tháng Tám, từ Hà Nội, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp nhận định với nhật báo Người Việt về động thái mới nhất của Trung Quốc. Ông nói : "Cái chính sách của Bắc Kinh là nó muốn khẳng định vùng đó là vùng tranh chấp, nó có quyền. Nhưng thật ra vùng đó không phải là vùng tranh chấp. Nó nằm gọn trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam 200 hải lý. Vùng ở ngoài của nó cũng nằm lọt trong vùng thềm lục địa của Việt Nam tức là 350 hải lý tính từ đường cơ sở bờ biển".
Tiến sĩ Hợp khẳng định về mặt pháp lý quốc tế thì Trung Quốc không có gì ở đây cả. Nhưng Trung Quốc luôn khẳng định chủ quyền vì đã ngang nhiên vẽ ra đường lưỡi bò.
Nói về đường lưỡi bò, Tiến sĩ sử học Trần Đức Anh Sơn, người có hơn 10 năm nghiên cứu về Biển Đông, hiện sống tại Đà Nẵng, từng phân tích rất chi tiết. Ông đưa ra những dẫn chứng lịch sử trong buổi phỏng vấn với nhật báo Người Việt : "Họ dựa trên một bản đồ, được Bạch Mi Sơ là một quan chức của chính quyền của Trung Hoa Dân Quốc, lúc chưa tách khỏi Trung Hoa đại lục, lập ra. Ông này lập ra một bản đồ dựa trên bản đồ của người Anh và dịch tên gọi của các đảo trong Biển Đông chủ yếu do người phương Tây đặt tên, và chuyển các tên đó thành tiếng Trung Quốc".
"Trên bản đồ này, ông ta xác định một vùng nằm giữa Biển Đông bao gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam và vạch một đường hình lưỡi bò, gồm 11 đoạn, rồi cho rằng những gì hiện diện bên trong đường 11 đoạn này là thuộc về Trung Hoa Dân Quốc. Sau đó các học trò của ông này tiếp tục cũng cố bản đồ đó, trình lên chính phủ Trung Hoa Dân Quốc năm 1947", ông nói.
"Khi cuộc chiến tranh giữa Quốc Dân Đảng với phe cộng sản Trung Quốc kết thúc năm 1949, Đảng cộng sản Trung Quốc thắng lợi, nhà nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời, họ tiếp tục kế thừa những kiến thức này của Trung Hoa Dân Quốc. Tuy nhiên họ cũng không quan tâm lắm bởi vì lúc đó Trung Quốc là một nước có thủy quân rất yếu. Trong lịch sử họ đã có khoảng 400 năm từ thời cận đại đến thời hiện đại thực hiện chính sách ‘quay lưng lại với biển.’ Họ là tránh biển, chủ yếu tập trung vào lục địa", ông dẫn chứng.
Ông nhấn mạnh : "Cho đến năm 1953, thủ tướng Trung Quốc mới bắt đầu quan tâm đến đường 11 đoạn. Có lẽ vì tình hữu nghị với chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, cùng hệ thống tư tưởng cộng sản nên ông ta đã bỏ hai đoạn trong vịnh Bắc Bộ, biến bản đồ 11 đoạn thành bản đồ 9 đoạn".
Hai tàu hải giám của Trung Quốc vẫn ở Bãi Tư Chính. (Hình : Ryan Martinson)
Yêu sách của Bắc Kinh
Như thế, việc Bắc Kinh cho tàu Hải Dương 8 quay trở lại bãi Tư Chính, bất chấp lên án của quốc tế, phản đối của Việt Nam đang nói lên điều gì ?
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp phân tích : "Hai năm nay Trung Quốc có đề nghị với ASEAN đàm phán để đưa ra Quy Tắc Ứng Xử ở Biển Đông (COC) có tính chất ràng buộc pháp lý. COC họ đưa ra gần đây nhất gồm có ba đòi hỏi cực kỳ vô lý".
Theo ông, đòi hỏi thứ nhất là không được đưa công ước về luật biển 1962 của Liên Hiệp Quốc vào trong COC đó.
Đòi hỏi thứ hai là tất cả các nước ASEAN không được để cho một nước khác, tức là nước bên ngoài khối vào tập trận hay làm gì khác. Tất cả những việc như tập trận hay hoạt động chung về quân sự ở trong Biển Đông thì phải được sự đồng ý của tất cả các bên.
Đòi hỏi thứ ba là không có một nước nào để cho một nước ngoài khu vực đó được phép khai thác hay hoạt động khai thác trong vùng nếu không được sự cho phép của các nước còn lại.
"Ba đòi hỏi này hoàn toàn trái với luật pháp quốc tế, tức là nó bất chấp tất cả những quyền của các nước ASEAN, đặc biệt là bốn nước tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông", ông nhấn mạnh.
Có một sự kiện cần phải nhắc lại, vào tháng Bảy vừa qua, Bắc Kinh đã yêu cầu Việt Nam phải rút giàn khoan Hakuryu 5 Nhật Bản đang thăm dò dầu khí ở gần lô 06.1, bể Nam Côn Sơn.
Tiến sĩ Hợp cho biết khi đó, Bắc Kinh đã từng đe dọa là nếu giàn khoan Hakuryu 5 không ngưng hoạt động thì "sẽ có chuyện" nhưng không nói là chuyện gì. Và lúc đó, tàu thăm dò của Trung Quốc đã vào bãi Tư Chính cùng với một nhóm tàu hải cảnh.
"Trung Quốc muốn khẳng định chủ quyền trên thực địa mà Trung Quốc sẽ không bao giờ có. thứ hai, nó vào để thăm dò sau đó nó tiến hành khai thác. Tàu này không phải chỉ ra lấy dầu đâu, mà nó thay nhân sự, bổ sung thêm máy móc, lấy lương thực, nước ngọt và quay vào. Không chắc nó ở đây lâu, sẽ có một tàu to hơn sẽ đến. Tàu đấy sẽ cùng với Hải Dương 8 quần nát khu vực Bãi Tư Chính. Và cuối cùng là nó sẽ kéo giàn khoan vào để khai thác", ông khẳng định.
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp cho biết, theo dự đoán của ông, nếu tiếp tục những diễn biến này, thì phần nhiều sẽ xảy ra trận hải chiến, mà Trung Quốc sẽ là bên nổ súng trước.
Một nhận định rất ngắn gọn nhưng không kém phần sắc bén của ông Ryan Martinson khi đưa lên Twitter ngày 12 tháng Tám cho biết, gần đây có rất nhiều quan tâm đến các hoạt động khảo sát biển của Trung Quốc tại Đông Nam Á. Điều quan trọng chúng ta cần phải nhớ là tham vọng hàng hải của Bắc Kinh là "toàn cầu". Điều này đang xảy ra ngay tại Biển Đông.
C.Lynh
Nguồn : Người Việt, 13/08/2019
Ngày 7/8/2019, theo chuyên gia phân tích Devin Thorne, Trung tâm Nghiên cứu Quốc phòng (Center for Advanced Defense Studies C4ADS), các dữ kiện cho thấy tàu "Hải Dương Địa Chất 8" của Trung Quốc đã rời vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ) nhưng hai tàu hộ tống Trung Quốc còn lảng vảng trong khu vực.
Nhà hoạt động Nguyễn Thúy Hạnh (giữa) cùng bạn bè phản đối các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông, 6/8/2019.
Từ tháng 7, có tranh chấp giữa tàu Việt Nam và tàu Trung Quốc làm việc trong khu vực độc quyền kinh tế Việt Nam. Tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc đã nỗi lên khi chuyên gia Hoa Kỳ nói nhiều tàu Trung Quốc quấy nhiễu các tàu Nga và dàn khoan Hakuryu của Nhật do hãng dầu khí Nga (Rosneft) mướn.
Theo Twitter của Ryan Martison (Đại học Quân sự Hải quân Hoa Kỳ - US Naval War College) được nhiều báo chí trích dẫn, có hai diễn biến mới khác nhau đáng chú ý liên quan đến hoạt động của các tàu Trung Quốc và phản ứng của Việt Nam.
1. Từ ngày 3/7 đến 17/7/2019 tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc đi vào vùng biển gần với khu vực Bãi Tư Chính - Vũng Mây. Đi theo bảo vệ tàu này còn nhiều tàu Trung Quốc trong đó là tàu hải giám trên 10.000 tấn, số hiệu 3901, và tàu dân quân biển Qiong Sansah Yu0014. Cùng lúc có nhiều tàu cảnh sát biển Việt Nam.
2. Dữ kiện thứ hai, theo Ryan Martinson, thì từ ngày 18/6 tàu cảnh sát biển Trung Quốc trang bị vũ khí hạng nặng số hiệu 35111 của Trung Quốc neo đậu cách Bãi Tư Chính 40 dặm về phía tây (hôm 12/7 tàu này di chuyển đến Bãi Chữ Thập và đã quay trở lại khu vực Bãi Tư Chính). Tàu này luẩn quẩn quanh dàn khoan Hakuryu-5, ở lô 06-01 thuộc Dự án Nam Côn Sơn, liên doanh của Việt Nam với Nga.
Mãi đến ngày 19/7 thì các thông tin này mới được phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định. Như vậy, sau một thời gian, Biển Đông lại trở nên dậy sóng giữa Việt Nam và Trung Quốc. Các chính sách trấn an của Việt Nam đối với Trung Quốc không làm giảm tranh chấp, không làm bớt lòng tham của Trung Quốc. Vậy Việt Nam phải làm gì để giải quyết tình trạng bất ổn này ?
Các dữ kiện về tranh chấp dầu khí
Trái với vụ tàu Hải Dương 981 năm 2014, đây là một khu rõ ràng trong vùng 200 hải lý đặc quyền kinh tế của Việt Nam nơi có dự án liên doanh giữa Tập đoàn Rosneft của Nga với VietsovPetro của Việt Nam. Tại đây, Rosneft của Nga đã mướn một công ty Nhật thực hiện hợp đồng khoan dầu khí ở vùng biển phía đông nam Việt Nam.
Vụ Bãi Tư Chính bùng nổ từ đầu tháng 7/2019 cho thấy một vụ khác xảy ra ngay trước đó : Từ đầu tháng 6, Trung Quốc bắt đầu có động thái cản trở việc hãng Rosneft của Nga, và hành vi đó kéo dài từ đó đến nay.
Cũng nên nhớ trước đây, vào tháng 7/2017 và tháng 3/2018, các tàu Trung Quốc bao vây Bãi Tư Chính để gây sức ép buộc Repsol - công ty Tây Ban Nha liên doanh với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam phải rút khỏi mỏ dầu khí nhưng chưa đụng chạm trực tiếp đến mỏ dầu khí của Rosneft. Việc này làm cho công ty Repsol của Tây Ba Nha phải rút lui. Sau vụ Hải Dương 981, Nga chưa liên tiếng về vụ tàu Trung Quốc xâm nhập Bãi Tư Chính.
Sự kiện thứ hai là Tàu Hải Dương 8, được hỗ trợ bởi từ vài ba chục đến mức cao điểm là 80 tàu hải cảnh và tàu dân quân biển xâm phạm vào khu vực Bãi Tư Chính - gấp nhiều lần so với tàu hải cảnh của Việt Nam trong cùng khu vực.
Chính sách Việt nam và thế giới về Biển Đông
Chính sách Hoa Kỳ :
Sau 1972, Kissinger đã cho Trung Quốc thấy các ảnh vệ tinh về việc Liên sô sẽ dùng hạt nhân vũ khí nguyên tử nếu có chiến tranh với Trung Quốc. Hoa Kỳ lôi kéo Trung Quốc về phía họ chống Nga. Hậu quả là khi có Hoàng sa, hạm đội Mỹ làm ngơ khi hải quân Trung Quốc đánh Việt NamCH.
Sau 1975, Việt Nam rêu rao "đỉnh cao trí tuệ loài người, v.v". Thủ Tướng Phạm văn Đồng đi khắp Đông Nam Á như một nước đã thắng Hoa Kỳ làm nhiều nước sợ Việt Nam và càng bị cấm vận.
Trước khi "dạy Việt Nam một bài học", Đặng Tiểu Bình đàm phán với Tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter và HK cũng cho Trung Quốc cũng biết là Liên Xô không động binh. Từ 1981, Việt Nam rút quân khỏi Cambodia và làm hòa với các nước láng giềng và gia nhập ASEAN. Từ 2005, Việt Nam tiến gần Hoa Kỳ và lập lại bang giao. Năm 2016, Tổng thống Obama cho phía Việt Nam thấy là họ sẽ không can thiệp lật đổ chế độ - công nhận Đảng cộng sản Việt Nam.
Trong suốt thời gian 1979-1991, Việt Nam còn tiếp tục đụng độ với Trung Quốc, trong đó 1988, Trung Quốc chiếm thêm một hòn đảo tại Trường Sa (Bãi Johnson reef). Từ đó tới giờ Trung Quốc từ từ xây các đảo nhân tạo và tiếp tục ăn hiếp Việt Nam bằng cách đánh chìm các tàu đánh cá Việt Nam (mà phía Việt Nam gọi là "tàu lạ"), cấm đánh cá tại Biển Đông vv. Trong những năm đó tới nay, Trung Quốc có chính sách ‘lấy thịt đè người’, ăn hiếp láng giềng, tìm cách lấn lướt và ăn cướp quyền lợi chính đáng của các nước láng giềng. Điều này ngày càng lộ rõ.
Từ Hội nghị Thành Đô vào tháng 9/1990, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam là chịu phục Trung Quốc. Việt Nam bỏ Liên Xô nghiêng hẳn về Trung Quốc. Họ quan tâm đến việc giữ chế độ - giữ quyền lợi cho Đảng cộng sản Việt Nam. Hậu quả là quyền lợi của Việt Nam bị xem nhẹ.
Cuộc tranh chấp Hoa Kỳ - Trung Quốc thay đổi hẳn mọi việc. Việc Ngoại trưởng Hillary Clinton viếng Hà Nội năm 2010, Việt Nam có xích gần Hoa Kỳ hơn. Việt Nam có phần "mở hơn về quan điểm", có những bước "thay đối quan trọng" trong mối quan hệ Việt-Mỹ" nhưng vẫn tiếp tục đánh đu giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Việc xích lại Mỹ, Việt Nam chậm chạp và đòi hỏi thời gian vì chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam sau Thành Đô.
Từ 2010 đã có chính sách "xoay trục" của Hoa Kỳ và sự hiện diện của sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam. Chính sách tự do đi lại theo luật quốc tế theo luật biển UNCLOS cũng thay đổi phần nào. Đến nay Hoa Kỳ đã lên tiếng thêm là Trung Quốc không nên dùng sức mạnh "ăn hiếp các nước trong vùng".
Năm 2014, sau sự kiện Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 vào Biển Đông, đã có những bước tiến quan trọng. Trong nhiều năm, cộng đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ lên tiếng và Hoa Kỳ cũng đã lên tiếng chống Trung Quốc.
Từ 2018 -2019 đã có sự thay đổi trong quan hệ Mỹ - Trung. Hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan đến Biển Đông chỉ vài ngày sau khi Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ lên tiếng chỉ trích thẳng thừng Trung Quốc "gây bất ổn" trong khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Chính sách Trung Quốc :
Trong một thời gian rất lâu, Trung Quốc dùng chính sách thân thiện với Hoa Kỳ để tranh thủ dùng thời gian xây các đảo nhân tạo, dùng "chính sách tầm ăn dâu" chiếm Biển Đông. Họ không khi nào gây quá khó khăn để các nước bên ngoài Biển Đông phải can thiệp.
Tập Cận Bình và các quan chức phủ nhận việc họ "có gene đế quốc" hay theo Bộ trưởng quốc phòng là chưa bao giờ Trung Quốc xâm lược một quốc gia nào từ trước tới đây. Người Việt Nam thì ai cũng hiểu Trung Quốc "nói một đằng làm một nẻo".
Hết việc cấm đánh cá tới việc xây dựng đảo nhân tạo đến việc cho dân quân dọa nạt, đánh, phá rối Philippines, hay các quốc gia ASEAN khác như Malaysia và Indonesia.
Ngoài ra họ còn dùng tiền mua nhiều quốc gia trong ASEAN (Lào, Cambodia) gây chia rẽ và khó khăn trong việc thống nhất tiếng nói của tổ chức này trong việc thương thuyết về Biển Đông. Trung Quốc bị Philippines kiện vào 2016 và Trung Quốc đã thua. Tòa trọng tài Quốc tế không cống nhận chủ quyền "theo lịch sử" và dĩ nhiên đường "lưỡi bò". Họ dùng tiền để bịt miệng Philippnes.
Chính sách "tầm ăn dâu" của Trung Quốc càng ngày càng dồn Việt Nam vào chân tường. Nói tóm, chính sách của Trung Quốc là dùng mọi thủ đoạn để chiếm tài nguyên dầu khí vùng Biển Đông từ một nơi không có tranh cãi đền chỗ tranh cãi qua mọi thủ đoạn.
Hiện nay Trung Quốc đang gặp một số khó khăn :
1. Khó khăn tại Hong Kong : Dân Hong Kong không tin vào lời hứa để cho khu này tự trị. Việc này đang gây sóng gió cho nội bộ Đảng cộng sản Trung Quốc ;
2. Khó khăn tại Đài Loan : Hình ảnh Hong Kong cho thấy mô hình Trung Quốc dụ Đài Loan không mấy khả thi ;
3. Khó khăn tại Tân Cương : Bị quốc tế tố là giam giữ người Ngô Duy Nhĩ trong nhà tù khổng lồ ;
4. Khó khăn tại Biển Đông về chủ quyền : Tòa trọng tài quốc tế không công nhận chủ quyền dựa trên lịch sử và hình lưỡi bò. Trung Quốc không công nhận phán quyết tòa trọng tài (vì tòa không có các thi hành án nhưng phán quyết sẽ vĩnh viễn). Trung Quốc đành dùng các tàu khảo sát để cho thấy là họ có chủ quyền trong vùng lưỡi bò (tàu khảo sát tại Philippines, tại bãi Tư chính và tại Malaysia).
5. Khó khăn với tranh chấp thương mại Mỹ-Trung mà cả thế giới chú ý. Ngoài ra Tổng thư ký Khối Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) nêu đích danh Trung Quốc khi thăm Sydney hôm 07/08/2019. Ông Jens Stoltenberg đến Úc để họp với thủ tướng Scott Morrisson cùng hai bộ trưởng Quốc Phòng và Ngoại Giao về các vấn đề Trung Quốc, cuộc chiến ở Afghanistan, khủng bố và an ninh mạng. Theo ông Stoltenberg, khối NATO phải đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc bằng cách hợp tác chặt chẽ với các đối tác trong khu vực, như Úc, New Zealand, Nhật Bản và Hàn Quốc.
6. Khó khăn với Nhật, Triều Tiên và Ấn độ.
Chính sách Việt Nam :
Từ Hội nghị Thành Đô vào tháng 9/1990, Đảng cộng sản Việt Nam chịu phục tùng Trung Quốc. Việt Nam bỏ Liên Xô nghiêng hẳn về Trung Quốc. Họ quan tâm đến việc giữ chế độ - giữ quyền lợi cho Đảng cộng sản Việt Nam. Hậu quả là quyền lợi của tổ quốc bị xem nhẹ.
Trong nhiều năm, Việt Nam đã bị "4 tốt và 16 chữ vàng" ảnh hưởng. Chính sách của Việt Nam là phản ứng yếu ớt ; "giữ gìn tình hữu nghị anh em" ; đàn áp dân chúng biểu tình ; nhận viện trợ và ưu đãi từ Trung Quốc, v.v.., tìm chữ "bình an tạm thời". Với thời gian, việc mở ra phía ngoài, chính sách lấy thịt đè người của Trung Quốc đã làm một số người suy nghĩ về việc "thoát Trung".
Dần dần Việt Nam xích lại gần lập trường quốc tế, lên tiếng nhiều hơn về chủ quyền quốc gia. Giờ lãnh đạo Việt Nam mở ra ngoài và có nhiều quan hệ quốc phòng với nhiều nước. 2015 Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã gặp Tổng thống Obama và nghĩ đến việc xích lại Hoa Kỳ. Hà Nội còn muốn trở thành ‘đối tác chiến lược’ với Washington.
Nay Việt Nam phản kháng về việc cấm đánh cá tại Biển Đông, không còn tàu lạ đâm hay cướp ngư dân Việt Nam, mà nói thẳng là Trung Quốc đã gây những sự kiện này.
Hôm 7/8, Việt Nam lên án Trung Quốc xâm phạm chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa sau khi Bắc Kinh thông báo tập trận bắn đạn thật ở khu vực này trong hai ngày. Báo chí Việt Nam hôm thứ Tư đưa tin tuyên bố của Bộ Ngoại giao Việt Nam cho rằng hoạt động này "xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền Việt Nam" đối với Hoàng Sa, quần đảo mà Trung Quốc đã chiếm từ Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1974 và vẫn duy trì quyền kiểm soát tới nay.
Từ 2014 với vụ giàn khoan HQ 981 và nay vụ tàu Hải Dương 8, thì chính quyền vẫn không cho người dân lên tiếng, muốn "ỉm chuyện" Trung Quốc xâm lấn lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam vẫn không dám tin tức cho dân chúng, sợ dân xuống đường.
Việt Nam chưa dứt khoát về việc đánh đu, vẫn còn sợ Trung Quốc.
Giải pháp cho Việt Nam - Kiện hay không kiện ?
Việt Nam không có mấy giải pháp đối với Trung Quốc. 1) Quân sự ; 2) Chính trị ; 3) Luật Pháp.
Giải pháp số 1 : Về quân sự không mấy khả thi. Hải quân Việt Nam còn thua xa hải quân Trung Quốc. Giải pháp thứ 2 có nhiều thay đổi đi từ chỗ 90% theo Trung Quốc nay may ra còn 40%. Giải pháp chính trị chưa đủ vì ASEAN bị mua chuộc và "Trung Quốc vẫn lấy thịt đè người". Nay còn giải pháp thứ 3 về luật pháp mà cộng đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ và trên thế giới đề nghị. Với luật pháp thì mỗi nước lớn nhỏ đều có một lá phiếu ngang nhau.
Philippines đã thắng Trung Quốc vào 2016. Việt Nam đã bỏ cơ hội cùng kiện với Philippines.
Các chuyên gia quốc tế cũng như người Việt trên thế giới đã đề nghị Việt Nam kiện Trung Quốc từ lâu, trước cả Philippines. Nay các chuyên viên nghiên cứu luật Quốc tế tại Việt Nam cũng cho là đến lúc kiện Trung Quốc., mặc dù là phản ứng chậm trễ cho vụ Bãi Tư Chính.
Trả lời phỏng vấn đài VOA (Tiếng Nói Hoa Kỳ) James Kraska, Chủ tịch Trung tâm Stockton về Luật hàng hải Quốc tế thuộc Trường Hải Chiến của Mỹ, cho rằng Trung Quốc có hành động "bất hợp pháp" trên Biển Đông và vi phạm "nghiêm trọng" Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982)" mà cả Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên. Ông James Kraska cũng cho rằng Việt Nam "nên kiện" Trung Quốc ra tòa quốc tế, và nhận định "Việt Nam hầu như là sẽ thắng".
Ông Jonathan Odom - giáo sư luật quốc tế của Trung tâm Nghiên cứu An ninh Marshall của Mỹ thì viết trên Twitter nhận định rằng Hà Nội "có thể dùng hầu hết phần biện hộ" của Philippines trong vụ kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế năm 2016 là có khả năng giành chiến thắng về mặt pháp lý.
Câu hỏi chính là liệu sẽ có chiến tranh Việt-Trung nếu Việt Nam kiện Trung Quốc ? Tôi tin là căng thẳng ở Biển Đông sẽ không dẫn đến chiến tranh Việt - Trung vì Trung Quốc cũng sẽ mất nhiều hơn Việt Nam. Họ có thể làm khó như việc không cho xả nước gây hạn hán tại Đồng bằng sông Cửu Long, gây khó khăn kinh tế cho Việt Nam.
Chính phủ Việt Nam sẽ còn được nhiều nước giúp, kể cả ASEAN sát Biển Đông vì các hành động của Trung Quốc ngày càng trắng trợn. Việt Nam không còn gì để mất và với việc kiện Trung Quốc, Việt Nam cho thấy quyền lợi quốc gia trên hết.
Việt Nam cần lập tức kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế. Việc Tòa Trọng tài PCA năm 2016 tuyên bố Philippines thắng trong vụ nước này đơn phương kiện Trung Quốc, đúng là David chống Goliath. Việc này đã tạo thuận lợi lớn cho Việt Nam để khởi kiện Trung Quốc. Nay coi bộ việc đã chín mùi và có hoàn cảnh thuận lợi.
Kết luận
Những gì đã xảy ra tại Bãi Tư Chính trên Biển Đông chỉ là chính sách của Trung Quốc từ năm 1974 hay thậm chí sớm hơn nữa. Mặc dù tàu Hải Dương đã rời vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, nhưng chúng ta có thể đoán được là con tàu có thể trở lại, không những để khảo sát mà là để khoan và khai thác dầu khí.
Vấn đề là liệu lãnh đạo có tinh thần dân tộc, tầm nhìn xa, để kiện Trung Quốc vào lúc này, và khả năng tạo ra thay đổi bước ngoặt. Liệu các lãnh đạo Việt Nam có thể vùng lên ? Vận nước đã đến hồi thoát Trung.
Việt Nam chỉ còn con đường là đưa Trung Quốc ra tòa, ngay bây giờ.
Tiến Sĩ Đinh Xuân Quân
Nguồn : VOA, 10/10/2019
Vì sao chính thể Việt Nam hớn hở ‘tôn trọng tự do hàng hải ở Biển Đông’ ?
Thường Sơn, VNTB, 11/08/2019
Chỉ ít ngày sau khi Washington điều hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan - tới Biển Đông vào ngày 6/8/2019, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã mau mắn và như thể hớn hở ra tuyên bố ‘tôn trọng tự do hàng hải ở Biển Đông’.
Hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan
Nguồn cơn của động thái Mỹ điều hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan đến Biển Đông là có thể đã có một lời cầu cứu khẩn cấp từ Bộ Chính trị Việt Nam với Washington trong bối cảnh hàng đàn tàu Trung Quốc xâm phạm Bãi Tư Chính như chốn vô chủ quyền, trong khi toàn bộ lực lượng hải quân Việt Nam bất lực - tương tự việc Bộ trưởng quốc phòng Việt Nam Ngô Xuân Lịch đã phải gấp rút sang Mỹ gặp Bộ trưởng quốc phòng James Mattis để cầu cứu, ngay sau vụ Trung Quốc bao vây khu vực Bãi Tư Chính vào tháng 7/2017.
Một cách ‘nhẹ nhàng’ nhất, cho dù tuyên bố rút Hải Dương 8 khỏi Bãi Tư Chính, Trung Quốc vẫn có thể cho tàu địa chất này xuất hiện trở lại vào bất kỳ lúc nào, hoặc thay thế Hải Dương 8 bằng những tàu Hải Dương khác, cho đến khi nào chán thì thôi. Trong lúc đó, các tàu hải cảnh, tàu dân quân biển và tàu thương mại dân sự vẫn thả sức chơi trò ‘vờn tàu’ với phía hải quân và ‘lực lượng ngư dân tự vệ’ được trang bị hàng chục ngàn lá cờ của Việt Nam, và nếu hứng thú thì tổ chức xịt vòi rồng hoặc đâm va…
Đó là một kiểu hành hạ tinh thần giới chóp bu Việt Nam, hệt như cái cách chính quyền và công an Việt Nam đã hành hạ tinh thần và thân xác nhiều người dân bất đồng chính kiến lên tiếng phản đối vô số bất công của chế độ cầm quyền và dám xuống đường chống Trung cộng.
Một khi bộ phim Bãi Tư Chính đã được Trung Quốc công diễn đến 3 lần trong ba năm liên tiếp 2017, 2018 và 2019, thì chẳng có gì ngạc nhiên nếu cuốn phim này sẽ được tái diễn vào những năm sau, đều đặn mỗi năm một lần hoặc có thể đến hai lần.
Còn nếu Trung Quốc liều lĩnh điều cả một giàn khoan vào Bãi Tư Chính để ‘cùng hợp tác khai thác dầu khí với Việt Nam’ - như cái cách mà Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã trịch thượng yêu sách với giới chóp bu Hà Nội khi đến Việt Nam vào đầu năm 2018, đó sẽ là một thảm họa với Bộ Chính trị đảng Việt Nam. Đánh thì sợ mà không đánh thì chẳng còn ra thể thống gì.
Chỗ dựa dẫm duy nhất giờ đây của Hà Nội chỉ còn là Hoa Kỳ - đối trọng duy nhất của Trung Quốc tại Biển Đông.
Từ đầu năm 2019 đến nay, đã có ít nhất 3 lần chính thể Việt Nam mau mắn tuyên bố ‘tôn trọng tự do hàng hải ở Biển Đông’ - ứng với động thái tàu hải quân Mỹ vừa đi qua khu vực quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Vào tháng 2/2019, thậm chí Việt Nam không chỉ ‘tôn trọng tự do hàng hải’ mà còn ‘tôn trọng tự do hàng không’. Đây cũng là một chỉ dấu mới và đáng được mổ xẻ và phân tích, đặc biệt liên quan đến một Biển Đông cùng hai khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang ngày càng nóng lên bởi nguy cơ xung đột quân sự Mỹ - Trung, và nếu cuộc chiến này xảy ra, dù chỉ với quy mô nhỏ và phạm vi hẹp, Việt Nam sẽ không thể ‘vô can’, thậm chí còn phải đưa đầu chịu báng trong tư thế ‘trâu bò đánh nhau ruồi muỗi chết’.
Cách phát ngôn ‘tôn trọng tự do hàng không’ của Bộ Ngoại giao Việt Nam rất có thể đã mở đường cho máy bay chiến đấu của Mỹ hoạt động trên không phận Biển Đông như một hàm ý ‘máy bay Mỹ bay qua vô hại ở Biển Đông’, tiếp nối khẩu ngữ ‘tàu Mỹ đi qua vô hại ở Biển Đông’ bật ra lần đầu tiên vào đầu năm 2016.
Vào tháng 10/2018, hai máy bay B-52 của Mỹ đã áp sát các đảo đang tranh chấp ở Biển Đông.
Sau hải quân là không quân, và chỉ còn thiếu lục quân.
Lục quân và thủy quân lục chiến - đó sẽ là vấn đề Cam Ranh - một quân cảng khống chế đến 2/3 Biển Đông mà một cách tối thiểu, nó sẽ được dùng để làm căn cứ hậu cần cho một quốc gia nào đó đang giúp Việt Nam kháng Tàu. Vào lúc này, Mỹ là quốc gia duy nhất làm điều đó.
Thường Sơn
Nguồn : VNTB, 11/08/2019
******************
Việt Nam và EU ‘tăng cường đảm bảo tự do hàng hải’
Người đứng đầu Bộ Quốc phòng Việt Nam và một đại diện cấp cao của Liên Hiệp Châu Âu (EU) về chính sách đối ngoại và an ninh mới đây đi tới cam kết "tăng cường tham gia bảo đảm tự do hàng hải, hàng không", trong bối cảnh căng thẳng leo thang ở Biển Đông, quanh Bãi Tư Chính, giữa tàu hải cảnh của Việt Nam và Trung Quốc.
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh và bà Federica Mogherini, Phó Chủ tịch Uỷ ban Châu Âu, tại Hà Nội hôm 5/8.
Ngoài cam kết trên, tuyên bố chung giữa ông Ngô Xuân Lịch và bà Federica Mogherini, Phó Chủ tịch Uỷ ban Châu Âu, còn nói rằng hai bên cũng sẽ tăng cường "đối phó với các thách thức truyền thống và phi truyền thống như tìm kiếm cứu nạn, chống cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền, tội phạm có tổ chức và buôn lậu, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS)".
Tin cho hay, trong cuộc gặp tại Hà Nội hôm 5/8, quan chức chủ nhà và bà Mogherini đã "trao đổi về việc phát triển quan hệ đối tác, hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng an ninh dựa trên luật pháp quốc tế và cam kết chung".
"Hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng an ninh cũng nhằm tăng cường nhận thức và hiểu biết lẫn nhau, ủng hộ cấu trúc an ninh khu vực do ASEAN dẫn dắt và các hình thức hợp tác an ninh đa phương khác tại Châu Á, và hỗ trợ xây dựng năng lực, các chương trình đào tạo và hợp tác về quản lý khủng hoảng hiện nay trong khu vực", tuyên bố chung đăng trên trang web của Phái đoàn Liên Hiệp Châu Âu tại Việt Nam có đoạn.
Bộ Quốc phòng Việt Nam được cho là "ủng hộ mong muốn của Liên minh Châu Âu về việc tham gia vào các cấu trúc quốc phòng an ninh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương", trong khi "Liên minh Châu Âu mong đợi Việt Nam tiếp tục có những đóng góp vào duy trì hòa bình, ổn định và phát triển tại khu vực khi đảm nhiệm Chủ tịch ASEAN năm 2020".
Trang Facebook của chính phủ Việt Nam hôm 5/8 dẫn lời Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh, nói tại cuộc họp báo sau khi đôi bên thảo luận rằng Hà Nội "hoan nghênh lập trường của EU, ủng hộ tự do, an ninh, an toàn hàng hải tại Biển Đông".
Ông Minh được dẫn lời nói tiếp rằng "việc quân sự hóa và các hoạt động đơn phương đã và đang gia tăng căng thẳng, làm xói mòn lòng tin và làm suy yếu hòa bình, an ninh và ổn định khu vực".
Quan chức ngoại giao hàng đầu của Việt Nam không trực tiếp nhắc tới Trung Quốc, nhưng lâu nay, chính quyền quốc gia đông dân nhất thế giới đã bị phương Tây chỉ trích "vì quân sự hóa Biển Đông".
Cuộc họp giữa quan chức EU và Việt Nam diễn ra trong bối cảnh tàu chấp pháp của Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục "đối đầu" ở Bãi Tư Chính thuộc quần đảo Trường Sa, trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Tin cho hay, ông Minh đã "đề nghị phía EU tiếp tục tham gia đóng góp vào việc duy trì hòa bình, ổn định, thượng tôn pháp luật và tôn trọng UNCLOS, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các nước ở Biển Đông".
Trong cuộc họp báo chung với ông Minh, bà Mogherini được cho là đã "trấn an" nhà ngoại giao hàng đầu Việt Nam rằng "Liên Hiệp Châu Âu hoàn toàn chia sẻ quan điểm và quan ngại của ngài về tình hình gia tăng căng thẳng trên Biển Đông".
"Chúng tôi tin rằng sự căng thẳng cũng như quân sự hóa này hoàn toàn không có lợi cho môi trường hòa bình. Liên Hiệp Châu Âu luôn ủng hộ quyền tự do hàng hải và bay ngang, vốn là mối quan tâm của mọi quốc gia. Chúng tôi ủng hộ sự minh bạch cũng như sự hoàn tất mau chóng của các cuộc đàm phán về bộ quy tắc ứng xử ràng buộc về mặt pháp lý giữa Trung Quốc và ASEAN", Phó Chủ tịch Uỷ ban Châu Âu nói.
"Ngài có thể tin vào việc EU sẽ luôn bảo vệ không những sự cần thiết phải giảm căng thẳng mà còn trên hết là sự cần thiết phải tôn trọng hoàn toàn luật lệ quốc tế, trong đó có UNCLOS".
Theo chính phủ Việt Nam, EU hiện là đối tác thương mại lớn thứ 4 của Việt Nam, đứng thứ 5 trong số các nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam, đồng thời là đối tác cung cấp viện trợ không hoàn lại lớn nhất cho VN với 400 triệu euro giai đoạn 2014 - 2020.
Viễn Đông
Nguồn : VOA, 11/08/2019
*****************
"Việt Nam đã phải thất vọng về phản ứng của cộng đồng quốc tế, trừ Hoa Kỳ"
Thường Sơn, VNTB, 10/08/2019
"Tôi nghĩ rằng Việt Nam đã phải thất vọng về phản ứng của cộng đồng quốc tế trừ Hoa Kỳ", trả lời đài VOA, Giáo sư Carl Thayer của Học Viện Quốc phòng Úc nhận định và cho biết rằng đại sứ Việt Nam tại Úc đã bày tỏ lo ngại về việc báo chí ở Úc không đăng tải thông tin về sự việc và không có bình luận gì từ phía chính phủ Úc…
Giáo sư Carl Thayer
Úc lại là một đồng minh quân sự của Mỹ trong ‘bộ tứ’ ở vòng cung Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (Mỹ - Nhật - Ấn - Úc).
Nhưng vì sao Úc - cũng được giới chóp bu Việt Nam xem là ‘đối tác quan trọng’ - lại quá thờ ơ với vụ tàu Trung Quốc xâm phạm Bãi Tư Chính, nguồn lợi và danh thể của ‘Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam’ ?
Không thể cho rằng nước Úc bàng quan vụ Bãi Tư Chính vì không ‘dính’ gì Biển Đông. Bởi cũng như Nhật bản, Úc có một phần quyền lợi trong giao thương qua Biển Đông, với khoảng 50% lượng giao thương thông qua vùng biển này. Nếu Trung Quốc khống chế được khu vực hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và hơn thế nữa là ‘nuốt’ hẳn Bãi Tư Chính, Úc đương nhiên sẽ bị khó khăn và thách thức lớn trong giao thương do các tàu Trung Quốc ‘làm luật’.
Trong những năm gần đây, thỉnh thoảng tàu chiến Trung Quốc lại khiêu khích tàu Úc.
Tuy thế, sách lược của ‘bộ tứ’ dường như chẳng có gì phải vội vã với Việt Nam - quốc gia vẫn còn nằm nguyên trạng trong ‘chủ nghĩa xã hội anh em’ với Trung Quốc và luôn bị ‘đảng anh’ hiếp đáp. Khả năng Úc điều tàu chiến đến Biển Đông để hỗ trợ hải quân Việt Nam là gần như không có.
Còn Hoa Kỳ - đồng minh của Úc - thì sao ?
Tháng 7 năm 2019, Hoa Kỳ đã trở thành quốc gia đầu tiên lên tiếng gián tiếp ủng hộ Việt Nam trong vụ Bãi Tư Chính, dù quốc gia này vẫn chưa phải là ‘đối tác chiến lược’ trong bộ sưu tầm chẵn một tá đối tác chiến lược toàn diện của Việt Nam, trong đó nổi bật là ‘đối tác chiến lược toàn diện quan trọng nhất’ Trung Quốc - như lối ngợi ca rất thiếu máu não của giới chóp bu Việt Nam.
Nhưng từ đó đến nay, người Mỹ vẫn không có động thái quân sự thực chất nào để ‘dằn mặt’ Trung Quốc tại khu vực Bãi Tư Chính. Hành động mới nhất của Washington là điều hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan tới Biển Đông vào ngày 6/8/2019.
Tuy nhiên chưa có gì chắc chắn là hàng không mẫu hạm này sẽ trực tiếp can thiệp hay có một tác động nào đó tới Bãi Tư Chính nếu đối chiếu với yêu cầu can thiệp sâu hơn nhiều của chế độ bị xem là ‘hèn với giặc, ác với dân’.
Vì sao vào lần này Mỹ có vẻ thay đổi thái độ mà không hoặc chưa có những hành động cụ thể hỗ trợ Việt Nam ?
Chung quy cũng tại thói du dây trả treo của Hà Nội.
Vào năm 2014, khi giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc xông thẳng vào vùng lãnh hải Việt Nam như một cái tát nổ đom đóm vào mặt Bộ Chính trị Hà Nội, hầu hết các "đối tác chiến lược" của Việt Nam, kể cả nước Nga của Putin, đều thờ ơ hoặc quay lưng khi Việt Nam bị uy hiếp. Khi đó, tư lệnh quân đội Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương, Đô đốc Samuel Locklear, đã gợi ý vẫn còn cửa cho "đối tác chiến lược toàn diện" giữa Mỹ và Việt Nam, hàm ý rằng Việt Nam cần rõ ràng và dứt khoát hơn trong mối quan hệ quân sự với Mỹ chứ không thể đeo bám chính sách "đu dây" nguy hiểm giữa Mỹ và Trung Quốc. Tuy nhiên, chính thể Việt Nam đã phớt lờ hảo ý của người Mỹ mà vẫn đeo đuổi mối quan hệ ngày càng nguy hiểm hơn với người bạn "bốn tốt – mười sáu chữ vàng".
Đã 5 năm trời qua kể từ vụ Hải Dương 981 năm 2014, nhưng sự thể tồi tệ là não trạng ngả ngớn đu lắc và õng ẹo đu dây chính trị vẫn bị nén chặt trong những cái đầu bí bách và bế tắc của giới chóp bu Việt Nam.
Thường Sơn
Nguồn : VNTB, 10/08/2019
********************
EU nên mở rộng hoạt động hàng hải vì Trung Quốc đang đe dọa Đông Nam Á
Richard Heydariann, VNTB, 10/08/2018
Hiệp ước quốc phòng của EU với Việt Nam đóng vai trò lớn hơn trong an ninh toàn cầu
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc đón chào người đứng đầu chính sách đối ngoại của EU, bà Federica Mogherini, tại Hà Nội vào ngày 8/8/2019. (Ảnh từ thông cáo báo chí của chính phủ Việt Nam)
Vào ngày 5 tháng 8 có một dấu hiệu cho thấy mối quan hệ quốc tế đang nở rộ ngay cả khi sự thù địch toàn cầu về thương mại, tiền tệ và ngoại giao gia tăng : EU và Việt Nam đã ký một thỏa thuận quốc phòng lịch sử đầu tiên ở Đông Nam Á.
Thỏa thuận mở đường cho sự tham gia của Việt Nam vào các nhiệm vụ quân sự Châu Âu, hoạt động gìn giữ hòa bình và hợp tác quốc phòng chặt chẽ hơn, và khi Châu Âu mở rộng tham vọng chiến lược sang Đông Á, ngay khi Trung Quốc đang thách thức trật tự hiện có.
Mặc dù các cường quốc Châu Âu rất muốn duy trì mối quan hệ mạnh mẽ và hiệu quả với Bắc Kinh, nhưng họ đã thể hiện một cách đúng đắn khi sẵn sàng duy trì trật tự trong khu vực dựa trên luật lệ. Trong những năm gần đây, Hoa Kỳ và Pháp đã tăng cường sự hiện diện hải quân ở vùng biển lân cận Trung Quốc, trong khi EU và các thành viên chủ chốt đã củng cố quan hệ kinh tế và chiến lược với các quốc gia Đông Nam Á nhỏ hơn.
Có nhiều lý do để Châu Âu tham gia vào Đông Á.
Đầu tiên, điều này phù hợp với các nguyên tắc và học thuyết chiến lược của EU. Mặc dù vẫn trung lập về các vấn đề lãnh thổ và hàng hải ở Biển Đông, Chiến lược toàn cầu năm 2016 của EU kêu gọi các quốc gia thành viên "giữ vững tự do hàng hải", tôn trọng Luật Biển và "khuyến khích giải quyết hòa bình các tranh chấp trên biển".
Hơn nữa, Chiến lược an ninh hàng hải năm 2014 của EU hy vọng các lực lượng vũ trang của các thành viên EU sẽ "đóng vai trò chiến lược trên biển và từ ngoài biển", đảm nhận "toàn bộ trách nhiệm hàng hải". Điều này chủ yếu bao gồm hỗ trợ tự do hàng hải trong vùng biển quốc tế và ngăn chặn "các hoạt động bất hợp pháp".
Với cam kết bổ sung để duy trì an ninh hàng hải ở Biển Đông, dường như việc quân sự hóa không ngừng của Trung Quốc đối với các tranh chấp này là mối đe dọa trực tiếp đối với các giá trị cơ bản này.
Do đó, thỏa thuận quốc phòng của EU với Việt Nam nhấn mạnh cam kết hỗ trợ các quốc gia nhỏ hơn bảo vệ quyền chủ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, cũng như "bảo vệ trật tự đa phương dựa trên luật lệ", như một quan chức EU nói.
Thời điểm ký kết vô cùng quan trọng. Trong tháng qua, Việt Nam và Trung Quốc đã đối đầu ở Bãi Tư Chính, một khu vực giàu năng lượng đang có tranh chấp ở Biển Đông và thuộc thềm lục địa của Hà Nội.
Trong thập kỷ qua, Việt Nam đã củng cố các nỗ lực ngoại giao và quân sự của mình để ngăn chặn Trung Quốc xâm nhập của vào vùng biển và quấy rối các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí ở Biển Đông.
EU đã ký các thỏa thuận quốc phòng tương tự với các đồng minh chủ chốt của Hoa Kỳ như Úc, hiện cũng đang lo ngại về "sự hung hăng" của Trung Quốc trong khu vực của họ.
Thỏa thuận quốc phòng sẽ là khởi đầu cho hoạt động mở rộng của EU ở Đông Nam Á. Trong khi Hoa Kỳ và Nhật Bản đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của lực lượng Cảnh sát biển mạnh mẽ giữa các quốc gia Đông Nam Á nhỏ hơn trong một thập kỷ nay, EU nên đi theo hướng tương tự.
Cùng với Vương quốc Anh, Pháp và Đức, EU nên tiếp tục nâng cấp quan hệ chiến lược với các nước láng giềng đang bị Trung Quốc làm xáo trộn như Philippines, Malaysia, Indonesia và Singapore. Điều đó có nghĩa là nhiều thỏa thuận quốc phòng nên được đưa ra.
Châu Âu có thể và nên cung cấp hỗ trợ, dù thông qua các khoản tài trợ quốc phòng, tập trận và huấn luyện quân sự chung hoặc chuyển giao công nghệ, để cải thiện năng lực giám sát và an ninh hàng hải giữa các quốc gia này.
Các quốc gia Châu Âu cá nhân đã đang đối đầu với chủ nghĩa bành trướng hàng hải của Trung Quốc ở Đông Nam Á. Vẫn sở hữu các lãnh thổ hậu thuộc địa trên khắp Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, cả Anh và Pháp đã thường xuyên triển khai lực lượng hải quân đến vùng biển gần Trung Quốc.
Bắc Kinh đã phản đối kịch liệt những hoạt động này, thậm chí là còn không cho Pháp tham gia một cuộc tập trận hải quân quốc tế trong năm nay, đồng thời đe dọa những tác động tiêu cực đối với các cuộc đàm phán thương mại thời hậu Brexit với U.K.
Vương quốc Anh tuyên bố ý định triển khai tàu sân bay Queen Elizabeth tới Biển Đông. © Hình ảnh của Getty
Tuy nhiên, cả hai cường quốc đã báo hiệu cam kết sâu sắc trong việc duy trì tự do hàng hải và hàng không ở sân sau của Trung Quốc. Trên thực tế, Anh đã tuyên bố ý định điều hàng không mẫu hạm Queen Elizabeth tới Biển Đông, đồng thời hợp tác với Pháp trong các cuộc tập trận hàng hải chung và tăng cường khả năng phối hợp trong các tình huống quân sự với Nhật Bản, Ấn Độ và Úc trên khắp Ấn Độ - Thái Bình Dương.
Thông qua việc triển khai hải quân tới các vùng biển tranh chấp và thỏa thuận quốc phòng với các nước Châu Á nhỏ hơn, Châu Âu thừa nhận tính hợp pháp đối với các hoạt động tự do hàng hải của Washington. Trên thực tế, Châu Âu và Hoa Kỳ, cùng với các cường quốc hải quân Nhật Bản, Ấn Độ và Úc, hiện đang cùng nhau bảo vệ quyền tự do hàng hải.
EU cũng nhận ra rằng quốc phòng và thương mại có thể song hành với nhau như là một phần của lợi ích chiến lược lớn hơn. Thỏa thuận quốc phòng với Việt Nam diễn ra sau khi ký kết Hiệp định thương mại tự do EU-Việt Nam hồi tháng 6, mà Brussels đã mô tả là "thỏa thuận thương mại tự do tham vọng nhất giữa EU và một nền kinh tế mới nổi trội cho đến nay".
Vào tháng 10 năm 2018, EU đã ký một thoả thuận thương mại khác với Singapore, thể hiện sự phát triển của mối quan hệ chiến lược giữa EU và các thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. EU đang xem xét các thoả thuận thương mại với các nước ASEAN lớn khác là Philippines và Thái Lan, mặc dù cả hai nước này đều bị đình trệ vì bất ổn chính trị.
Sự đóng góp nhiều hơn cho hòa bình và ổn định trong khu vực của Châu Âu cho thấy rõ rằng căng thẳng gia tăng ở Đông Á sẽ không chỉ còn là giữa đối thủ Trung-Mỹ nữa.
Thay vào đó, chúng ta đang chứng kiến những nỗ lực đa phương giữa các cường quốc cùng chí hướng để bảo vệ công cộng quốc tế và kìm hãm tham vọng hàng hải của Trung Quốc. Châu Âu nên tham gia nhiều hơn xu hướng này để duy trì trật tự dựa trên luật lệ ở Châu Á.
Richard Heydarian
Nguồn : EU should expand maritime activity in Southeast Asia as China looms, Nikkei Asian Review, 09/08/2019
Khánh Anh dịch
Nguồn : VNTB, 10/08/2019
Richard Heydarian là một học giả, chuyên mục và tác giả của "Sự trỗi dậy của Duterte : Một cuộc nổi dậy dân túy chống lại nền dân chủ ưu tú" và sắp tới là "Ấn Độ-Thái Bình Dương : Trump, Trung Quốc và cuộc đấu tranh mới để làm chủ toàn cầu".
*****************
Liên Hiệp Châu Âu gia tăng hợp tác quốc phòng với Việt Nam
Anh Vũ, RFI, 09/08/2019
Giữa lúc tình hình Biển Đông đang nóng lên do những hành động gây hấn của Trung Quốc tại bãi Tư Chính trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Hà Nội đón bà Federica Mogherini, phó chủ tịch Ủy Ban Châu Âu, đồng thời là đại diện cấp cao của Liên Hiệp Châu Âu EU về chính sách đối ngoại-an ninh.
Bà Federica Mogherini, lãnh đạo ngành ngoại giao Liên Hiệp Châu Âu và ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh họp báo tại Hà Nội, ngày 05/08/2019. Reuters/Kham
Trong chuyến công du Hà Nội từ ngày 03 đến 05/08, bà Mogherini đã gặp gỡ và làm việc với ngoại trưởng Phạm Bình Minh rồi bộ trưởng Quốc Phòng Ngô Xuân Lịch và đặc biệt gặp thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc hôm 05/08. Trước khi quan chức cao cấp Liên Hiệp Châu Âu tới Hà Nội, một số trang báo của khu vực như Asia Times đã loan tin bà Federica Mogherini sẽ ký một thỏa thuận khung hợp tác quốc phòng FPA (Framework Participation Agreement), thỏa thuận an ninh đầu tiên giữa Bruxelles với một nước trong khu vực Đông Nam Á.
Hiệp định khung này vẫn chưa được được ký ngay trong chuyến công du của bà Mogherini, tuy vậy báo chí Việt Nam dẫn thông cáo chung hai bên cho biết :
"Việt Nam và Liên Hiệp Châu Âu hoan nghênh việc kết thúc đàm phán Hiệp định thiết lập khuôn khổ tham gia của Việt Namvào các hoạt động quản lý khủng hoảng của EU (Hiệp định FPA). Hiện nay, lộ trình đã rõ ràng theo hướng hoàn thiện các thủ tục nội bộ dẫn tới việc ký kết, phê chuẩn và thực hiện đầy đủ hiệp định trên".
Vẫn theo báo chí Việt Nam, trong cuộc gặp với bà Federica Mogherini hôm 05/08, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tỏ hi vọng hai bên sẽ sớm ký Hiệp định hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh (FPA).
Một khi được ký, Hiệp định FPA sẽ mở ra cho Việt Nam khả năng tham gia đóng góp vào các nhiệm vụ quốc phòng và an ninh của Châu Âu và mang lại lợi ích nhiều mặt hơn ở phía sau. Hiện tại trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, mới chỉ có Úc , New Zealand và Hàn Quốc ký hiệp định này với EU.
Chuyến thăm và kết quả làm việc của lãnh đạo cao cấp EU tại Hà Nội vừa rồi vẫn còn giới hạn trong những tuyên bố ủng hộ lập trường lẫn nhau mang tính biểu tượng, nhưng giới quan sát chính trị trong khu vực nhận thấy rõ Liên Hiệp Châu Âu đang cố gắng xây dựng mối quan hệ quốc phòng chặt chẽ hơn với khu vực và đặc biệt là với Việt Nam.
Châu Âu đang có tham vọng tăng cường hiện diện ở Đông Nam Á, với mục tiêu ngăn chặn đà bành trướng ảnh hưởng của Trung Quốc ở Biển Đông. Mặc dù các nước lớn trong Liên Hiệp Châu Âu vẫn muốn duy trì mối quan hệ lâu dài và có hiệu quả với Bắc Kinh, họ không chấp nhận để Bắc Kinh kiểm soát ảnh hưởng trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là độc chiếm Biển Đông, huyết mạch hàng hải thế giới.
Chuyên gia Richer Heydarian, giáo sư đại học Manila, tác giả nhiều cuốn sách về tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông và về chính sách bá quyền Trung Quốc, trong bài viết trên trang mạng Nikkei Asian Rewiew đăng ngày 09/08 liên quan đến chuyến đi của bà Federica Mogherini tới Hà Nội, nhận định :
"Liên Hiệp Châu Âu có nhiều lý do để cắm chân ở Đông Nam Á. Thứ nhất, điều đó phù hợp với chủ trương chiến lược của Liên Âu. Không đứng về bên nào trong các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, EU luôn kêu gọi bảo vệ tự do hàng hải trên tinh thần tôn trọng luật pháp quốc tế và ủng hộ giải quyết hòa bình các tranh chấp lãnh thổ. Tuy nhiên, dường như những hành động quân sự hóa, những hành vi gây hấn ngày càng hung hăng và những đòi hỏi chủ quyền ngày quá đáng của Trung Quốc trên Biển Đông đang trở thành một mối đe dọa trực tiếp đối với các giá trị căn bản mà Châu Âu bảo vệ".
Việt Nam đang phải đối mặt với đe dọa ngày càng lớn do chính sách bành trướng của nước láng giềng lớn Trung Quốc, chỉ có sự ủng hộ ngoại giao quốc tế, bên cạnh việc tăng cường khả năng quân sự, mới mong ngăn chặn được tham vọng của Bắc Kinh và giữ được chủ quyền biển đảo không để bị mất thêm hay tránh bị quấy nhiễu hăm dọa như trường hợp ở bãi Tư Chính.
Một thỏa thuận quốc phòng với Liên Hiệp Châu Âu sẽ giúp Việt Nam thêm bạn bớt thù, vì thỏa thuận cho phép EU giúp đỡ các quốc gia nhỏ bảo vệ quyền chủ quyền và lợi ích chính đáng, cũng như "giữ gìn trật tự đa phương trên cơ sở luật pháp quốc tế" như tuyên bố của bà Federica Mogherini tại Hà Nội.
Ký được một thỏa thuận quốc phòng với EU dù thế nào vẫn là thắng lợi về mặt ngoại giao của Hà Nội, trước những hành động ngày càng hung hăng của Bắc Kinh trên Biển Đông như hiện nay.
Sự quan tâm của Liên Hiệp Châu Âu đến an ninh của khu vực Đông Nam Á cho thấy các cường quốc đang chia sẻ những lo ngại để bảo vệ tài sản chung của quốc tế và để ngăn chặn tham vọng bá chủ trên biển của Trung Quốc. Theo chuyên gia Heydarian, được trích dẫn ở trên, "Châu Âu sẽ phải trở thành nhân tố quan trọng hơn trong những hành động tập thể nhằm duy trì trật tự trên cơ sở luật pháp tại Châu Á".
Anh Vũ
Nguồn : RFI, 09/08/2019
Lãnh đạo ngoại giao Liên Hiệp Châu Âu cảnh báo về quân sự hóa Biển Đông (RFI, 05/08/2019)
Tai Hà Nội hôm nay, 05/08/2019, Đại diện cao cấp về ngoại giao của Liên Hiệp Châu Âu Federica Mogherini cảnh báo là việc Trung Quốc "quân sự hóa" Biển Đông đang đe dọa hòa bình tại vùng biển tranh chấp này. Trung Quốc đã bị tố cáo triển khai nhiều chiến hạm, đặt nhiều vũ khí trên các đảo mà họ bồi đắp, tấn công các tàu cá, đặc biệt là của Việt Nam, ở vùng Biển Đông.
Đại diện cấp cao về ngoại giao của Liên Hiệp Châu Âu Federica Mogherini và ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh tại Hà Nội, ngày 05/08/2019. Reuters/Kham
Bà Mogherini thăm theo lời mời của ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh. Phát biểu trong cuộc họp báo chung với ông Phạm Bình Minh hôm nay, bà Federica Mogherini cho biết là Liên Hiệp Châu Âu rất quan ngại trước tình hình căng thẳng tại Biển Đông, cho rằng đó không phải là những yếu tố thuận lợi cho môi trường hòa bình, ổn định tại khu vực.
Căng thẳng giữa Việt Nam với Trung Quốc đã gia tăng, sau khi Bắc Kinh vào đầu tháng 7 vừa qua đưa tàu khảo sát với nhiều tàu hộ tống vào khu vực bãi Tư Chính, gần quần đảo Trường Sa, tức là nằm trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Hà Nội đã nhiều lần yêu cầu Trung Quốc rút các tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam, nhưng các tàu này cho tới nay dường như vẫn còn trong khu vực bãi Tư Chính.
Theo báo chí trong nước, trong bản thông cáo chung, được công bố hôm nay, Việt Nam và Liên Hiệp Châu Âu cho biết đã hoàn tất việc đàm phán Hiệp định về thiết lập khuôn khổ tham gia của Việt Nam vào các hoạt động quản lý khủng hoảng của Liên Hiệp Châu Âu (Hiệp định FPA). Hai bên đang "hoàn thiện các thủ tục nội bộ dẫn tới việc ký kết, phê chuẩn và thực hiện đầy đủ Hiệp định trên".
Thanh Phương
******************
EU chỉ trích Trung Quốc tiến hành quân sự hóa Biển Đông (RFA, 05/08/2019)
Hoạt động quân sự hóa Biển Đông đang đe dọa hòa bình tại khu vực có tranh chấp giữa các bên.
Trung Quốc đưa tiêm kích Su-35 ra Biển Đông - AFP
Đây là phát biểu của Phó Chủ tịch Ủy Ban Châu Âu, bà Federica Mogherini, nhân chuyến thăm đến Hà Nội vào ngày 5 tháng 8. Hãng AFP loan tin cho biết bà Federica Mogherini nói rõ Liên Minh Châu Âu quan ngại về tình hình căng thẳng gia tăng tại khu vực Bỉển Đông.
Cũng theo nguyên văn lời của bà Federica Mogherini thì hoạt động quân sự hóa chắc chắn không dẫn đến một môi trường hòa bình.
Bà này nhắc lại ủng hộ của quyền tự do đi lại, tự do hàng không trên biển và ủng hộ tiến trình hoàn tất đàm phán Bộ Quy Tắc Ứng Xử tại Biển Đông (COC) và tôn trọng Công ước Quốc tế về Luật Biển năm 1982.
Trong cùng ngày, theo truyền thông trong nước, Bà Federica Mogherini bày tỏ vui mừng lần đầu đến thăm Việt Nam tại cuộc hội đàm với Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh về chính sách đối ngoại và an ninh. Tại đây, bà Federica Mogherini khẳng định EU coi Việt Nam là đối tác hàng đầu tại khu vực và EU đang triển khai nhiều chính sách và biện pháp cụ thể để phát triển sâu rộng hơn các mối quan hệ hợp tác với Việt Nam.
Theo tin từ báo Tuổi Trẻ, Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh đánh giá cao hỗ trợ của EU và các nước thành viên EU dành cho Việt Nam. Nhân dịp này, ông Phạm Bình Minh đề nghị phía EU tiếp tục duy trì ODA cho Việt Nam để tăng cường lực thể chế, ứng phó với biến đổi khí hậu, thúc đẩy phát triển bền vững.
Theo thông cáo chung do phía EU công bố trong ngày 5/8/2019, EU và Việt Nam hoan nghênh việc kết thúc đàm phán Hiệp định về thiết lập khuôn khổ tham gia của Việt Nam vào các hoạt động quản lý khủng hoảng của EU (Hiệp định FPA).
Nếu đụng độ giữa Việt Nam và Trung Quốc trên biển chỉ dừng ở mức va chạm, Ba Đình có xu hướng bóp nghẹt truyền thông và ngăn chặn biểu tình vì rủi ro trên bờ khi đó sẽ lớn hơn trên biển.
Biển Đông : Phép thử ý Đảng lòng Dân
Khi đụng độ leo thang tới mức có nguy cơ xung đột vũ trang, sẽ bắt đầu xuất hiện những lời kêu gọi yêu nước, như đang râm ran hiện nay. Truyền thông bắt đầu được mở van nhỏ giọt, biểu tình được chiếu cố, miễn sao vẫn trong tầm kiểm soát về quy mô và chủ đề. Như cánh cửa mở hé, sẽ đóng sập lại ngay nếu chuyện ngoài biển không còn căng thẳng nữa.
Khi nguy cơ mất đảo hiển hiện, những lời kêu gọi sẽ bùng phát dưới giọng hiệu triệu, vực dậy cả hồn thiêng sông núi lẫn anh linh tử sĩ. Báo chí được lệnh lên bài thả ga, mọi cuộc biểu tình từ quốc doanh đến dân doanh đều được cổ vũ nhằm, như một tờ báo gần đây giật tít, ‘huy động toàn dân bảo vệ chủ quyền’.
Ngày 14/07/2019, 12 tàu kiểm ngư Việt Nam đang đối đầu với 20 tàu tuần duyên Trung Quốc ngoài khơi Việt Nam - Ảnh Hà Nội News
Nhưng vì sao lại phải nhọc công hiệu triệu toàn dân ?
Toàn dân sẽ giữ được đảo nếu Trung Quốc nhất quyết đánh chiếm hay sao ?
Chiến lược chiến tranh nhân dân (toàn dân đánh giặc) từng rất hiệu quả trước đây khi chiến cuộc chủ yếu diễn ra trên đất liền, nhưng với môi trường tác chiến trên biển dựa vào hải quân và không quân, thì chiến tranh nhân dân thế nào ?
Ngư dân được phát súng và huấn luyện sơ sài (dân quân biển), nòng cốt của chiến tranh nhân dân trên biển, sẽ làm được gì trước tàu chiến, máy bay và tên lửa hiện đại của Trung Quốc ?
Cũng có người cho rằng toàn dân hưởng ứng thì sẽ giúp lên tinh thần. Không sai, nhưng tinh thần lên cao liệu có bù đắp được chênh lệch về khí tài, năng lực, nhân sự đôi bên trong bối cảnh tác chiến hiện đại ?
Vậy tóm lại kêu gọi toàn dân để làm gì ?
Để chạy trách nhiệm.
Một khi có sự tham gia của toàn dân nhưng đảo vẫn bị mất thì Ba Đình có thể mạnh dạn nói rằng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đã cố gắng hết sức nhưng mà Trung Quốc mạnh quá nên rất tiếc là đảo đã bị mất. Trách nhiệm của chung thì không ai có trách nhiệm.
Thế nhưng có vẻ người dân đang làm phá sản tính toán này của Ba Đình bằng cách tỏ ra thờ ơ với mọi lời kêu gọi có đóng dấu đỏ.
Bằng cách đó họ gửi một thông điệp không thể rõ ràng hơn : Các ông bà lâu nay đòi độc quyền yêu nước - ‘để Đảng và Nhà nước lo’, vậy nên nếu mất biển mất đảo thì các ông bà phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước quốc dân và lịch sử, chứ không có cái gọi là trách nhiệm chung của toàn Đảng, toàn dân nữa. Chúng tôi để cho Đảng và Nhà nước lo hết, nhưng nếu để mất biển mất đảo, các ông bà trước thì mất hết với chúng tôi, sau thì mãi mãi ô danh với lịch sử.
Nhưng cớ sao người dân lại giữ một thái độ như vậy ?
Có ý kiến nói rằng vì lòng yêu nước của người dân đã nhiều lần bị xúc phạm : từng viết bài, xuống đường phản đối Trung Quốc nhưng nhẹ thì bị đánh đập, sách nhiễu, nặng thì bị bắt bớ, giam cầm nên giờ họ không còn tha thiết nữa.
Có thể là vậy, nhưng nếu lẽ thường thực tâm yêu nước thì đoạn đầu đài cũng chẳng ngán, huống chi chỉ là đòn roi và ngục tù.
Mấu chốt ở đây là, càng ngày người dân càng nhận rõ rằng đổ xương máu dưới lời hiệu triệu ấy để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, nếu có thành công đi chăng nữa, quốc gia vẫn chỉ là tài sản riêng của một nhóm nhỏ người mà chẳng có phần nào của mình trong đó. Vậy hà cớ gì phải hao tâm tổn trí cho cái không phải của mình ? Người dân đang và sẽ quay lưng trước lời hiệu triệu của đảng không khác gì từng nhếch mép trước lời kêu gọi kháng Pháp của triều đình nhà Nguyễn vậy.
Nghĩa là, yêu nước thì vẫn yêu đó, nhưng yêu chứ đâu có ngu. Lòng yêu nước trở thành thứ quý giá mà dân nhất quyết không đưa ra dù đảng luôn miệng : ‘hãy trao cho anh’.
Thế giải pháp ở đây là gì ? Làm sao còn có thể hiệu triệu được lòng dân ?
Chỉ bằng cách thực tâm cải cách chính trị, mở rộng các quyền tự do dân chủ, khiến người dân thực sự cảm thấy đất nước này là của họ, chứ không phải là của riêng một vài cá nhân, gia đình hay bè đảng nào. Mà động thái cần thiết đầu tiên là trả tự do cho tất cả những người đang bị giam cầm chỉ vì yêu nước khác cách của đảng.
Bởi lẽ, đến cuối cùng người ta chỉ dám sống dám chết để bảo vệ những gì người ta coi và tin là của mình. Đất nước cũng vậy, chỉ khi người ta thấy mình thực sự có quyền làm chủ thì chẳng cần ai kêu gọi cũng tự nhiên dốc lòng dốc sức, đổ xương đổ máu ra bảo vệ.
Trái lại, không thể khác, là thờ ơ, cho tới khi mất cả.
Nguyễn Anh Tuấn
Nguồn : RFA, 05/08/2019 (nguyenanhtuan's blog)
Sức mạnh đàm phán đơn phương của Việt Nam đang bị Trung Quốc bào mòn lại đã tỏ ra mỏng manh trong hai năm qua. Dựa vào Moscow, hoặc Washington để có được sự ủng hộ có thể không lý tưởng, nhưng Hà Nội lại chẳng còn mấy lựa chọn nào.
Các tàu chiến của hải quân Nga ra khơi trong cuộc diễu hành của hạm đội Nga như một phần của lễ kỷ niệm Ngày Hải quân tại St. Petersburg vào ngày 28 tháng 7. Hình ảnh Alexey Nikolsky/AF/Getty
Bennett Muray nhận định rằng công ty dầu mỏ lớn Rosneft của Nga đang âm thầm ủng hộ Hà Nội trong cuộc đụng độ với Bắc Kinh.
Sau một thời gian các tàu hải cảnh của Việt Nam và Trung Quốc đụng độ nhau khi Tàu Hải Dương 8 thực hiện việc thăm dò tại vùng biển Bãi Tư Chính, thì Hà Nội đã "tìm lại được cột sống lưng" để đứng thẳng "đương đầu" với Bắc Kinh. Hai năm trước, Hà nội lặng lẽ cúi đầu cho dừng dự án khoan dầu do Repsol thực hiện trước sức ép của Bắc Kinh. Lần này Hà Nội đã dám lên tiếng yêu cầu Bắc Kinh rút tàu thăm dò và các tàu hải cảnh hộ tống ra khỏi vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Điều theo tác giả đã làm cho Hà Nội tỏ ra cứng cỏi hơn lần này là nhờ vào Nga.
Vùng biển cách Việt Nam 200 hải lý với nhiều tiềm năng dầu mỏ, cách Trung Quốc tới 600 hải lý nhưng họ đã tự vẽ đường lưỡi bò bao trùm khu vực rộng gần 35.000 dặm vuông và tuyên bố chủ quyền trong khu vực này. Theo tác giả với khoảng cách địa lý xa như vậy, Trung Quốc không có lựa chọn đích thực nào để tuyên bố chủ quyền ở bãi Tư Chính.
Tuy nhiên, Việt Nam đã cho ngừng khoan dầu ở Lô 136/03 và 07/03, là các lô được Việt Nam cho phép khoan lần cuối cùng. Trong khi lý do hủy bỏ không bao giờ được Hà Nội tiết lộ công khai, các báo cáo từ Hà Nội và trong ngành cho rằng Trung Quốc đã đe dọa xâm chiếm các căn cứ của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa, lãnh thổ tranh chấp dữ dội trong những năm 1980. Việt Nam, cố gắng cứu vãn tình hình an ninh trong bối cảnh nghi ngờ về cam kết của chính quyền Trump đối với khu vực đã không còn. Ngoài ra sự việc cũng trở nên khó khăn cho Việt Nam hơn khi Philippines đột nhiên thay đổi quan điểm về đường lưỡi bò sau khi Tổng thống Rodrigo Duterte nắm quyền từ năm 2016.
Chính sách của Kremlin về tranh chấp Biển Đông chưa bao giờ được công khai. Moscow ngầm ủng hộ Bắc Kinh về mặt ngoại giao khi công khai khẳng định rằng các quốc gia không liên quan phải tránh xa tranh chấp. Nga cho rằng việc cho xung đột ở Biển Đông là một vấn đề toàn cầu là nhằm biện minh cho việc tăng cường sức mạnh của Mỹ.
Cũng như Trung Quốc, Moskva không tin tưởng các tổ chức "ngáng đường" Trung Quốc, Tổng thống Putin nói rằng Nga đã đoàn kết và ủng hộ lập trường của Trung Quốc, sau khi từ chối công nhận phán quyết của Tòa án Trọng tài Thường trực năm 2016 phản đối đường chín đoạn. Cách tiếp cận của Nga đối với Biển Đông giống như thái độ Trung Quốc đối với việc sáp nhập Crimea năm 2014 : trung lập nhưng kiên quyết phản đối việc vấn đề được giải quyết ở phương Tây.
Nhưng hành động của Nga trên biển lại không có lợi cho Trung Quốc như vậy. Mặc dù Nga có thể không chính thức đứng về phía Việt Nam, nhưng các công ty Nga là những công ty duy nhất hiện đang hoạt động trong khu vực đường lưỡi bò. Đây không phải là chuyện nhỏ vào thời điểm mà dân quân hàng hải Trung Quốc tàn nhẫn tấn công vào ngư dân nước ngoài và bài bố quân để mạnh tay đẩy Việt Nam ra khỏi các mỏ dầu và khí đốt của chính Việt Nam, sự hợp tác của Nga với Việt Nam để khai thác tài nguyên là sự thách thức nghiêm trọng, ngay cả khi Kremlin cẩn thận tránh lôi kéo sự chú ý đến đó.
Những nguyên do mà Muray cho rằng đã làm cho Nga phải tỏ thái độ là vì sự bành trướng của Sáng kiến Vành đai và Con đường, Kremlin không muốn Trung Quốc kiểm soát toàn bộ tuyến hàng hải xuyên Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương cũng như lợi ích của các công ty khai thác dầu khí của Nga ở Biển Đông.
Lần trước Repsol đã phải rút lui sau khi đã bỏ ra hàng trăm triệu đô la đầu tư và từ bỏ doanh thu tiềm năng. Lần này, khó khăn hơn nhiều vì có liên quan đến Rosneft, công ty có cổ đông chính là chính phủ Nga. Gazprom cũng hoạt động gần đó cùng với Zarubezhneft, một công ty nhà nước của Nga được thành lập vào năm 1967 và là công ty liên doanh Vietsovpetro với PetroVietnam. Trong khi Repsol chỉ là một công ty tư nhân từ một cường quốc nhỏ bé, nắm giữ rất ít địa chính trị, Nga được dự kiến sẽ đóng vai chính trị để bảo vệ dòng tiền cho Hà Nội.
Sáng kiến Vành đai và Con đường Trung Quốc, với các kế hoạch tham vọng để kết nối Á-Âu, phải cẩn thận luồn các tuyến đường qua những nơi mà Nga coi là sân sau của họ. Khoảng 7 tỷ đô la tài sản của Trung Quốc đã được đầu tư ở Ukraine, nơi vẫn đóng cửa trong một cuộc chiến thầm lặng chống lại Nga ở phía đông. Georgia, mối quan hệ với Nga từ lâu đã bị đầu độc, cũng đã "tán tỉnh" Sáng kiến Vành đai và Con đường. Trung Quốc cũng đang phát tán tầm ảnh hưởng của họ ở các quốc gia vốn là bạn của Nga trong Liên minh kinh tế Á-Âu, và một dự án đầy tham vọng nhằm liên kết Kazakhstan với Belarus đã được tiến hành.
Trung Quốc, bị cô lập vì giữa cuộc chiến thương mại của Hoa Kỳ và làn sóng không can dự chung của phương Tây, cũng không có tâm trạng đối đầu với cường quốc duy nhất ở Biển Đông. Mặc dù có thể không có lợi cho Nga khi đứng về phía Hoa Kỳ trong việc tố cáo chủ nghĩa bành trướng trên biển của Trung Quốc, Kremlin cũng không muốn Bắc Kinh kiểm soát các tuyến hàng hải trị giá hàng tỷ đô la nối liền các đại dương Ấn Độ và Thái Bình.
Về phía Việt Nam, liên kết công nghiệp dầu khí với các cường quốc có thể là cơ hội tốt nhất để bám vào một số các khu vực khai thác của họ trong phạm vi đường lưỡi bò. Hà Nội cũng đã đưa Hoa Kỳ vào cuộc, với dự án cùng với ExxonMobil ở mỏ Cá voi xanh ngoài khơi Đà Nẵng nằm giữa ranh giới với đường lưỡi bò. Nhưng sự thành công của chiến lược không còn phụ thuộc vào việc ra quyết định của Hà Nội nữa. Trong khi đó sức mạnh đàm phán đơn phương của Việt Nam đang bị Trung Quốc bào mòn lại đã tỏ ra mỏng manh trong hai năm qua. Dựa vào Moscow, hoặc Washington để có được sự ủng hộ có thể không lý tưởng, nhưng Hà Nội lại chẳng còn mấy lựa chọn nào.Bennett MurrayNguyên tác: Vietnam’s Strange Ally in Its Fight With China, Foreign Policy, 01/08/2019
Khánh Anh dịch
Nguồn : VNTB, 03/08/2019
Các cường quốc can dự vào Biển Đông đến đâu ?
Ngọc Lễ, VOA, 01/08/2019
Mặc dù các cường quốc trên thế giới đều ý thức những nguy cơ đến từ sức mạnh của Trung Quốc trên Biển Đông và đều có những lợi ích chiến lược đối với vùng biển này, sự can dự của họ cùng với Mỹ để thách thức Trung Quốc có những hạn chế nhất định, các nhà nghiên cứu đến từ các cường quốc này cho biết tại một hội nghị về Biển Đông mới đây ở Washington, Mỹ.
Tàu sân bay Mỹ Ronald Reagan tham gia tập trận cùng Nhật Bản ngoài khơi BIển Đông hồi tháng 8 năm 2018
Trong khuôn khổ chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương Mở và Tự do (FOIP) mà Bộ Quốc phòng Mỹ công bố hồi đầu tháng Sáu, Mỹ nhấn mạnh đến sự hợp tác của bốn cường quốc trong khu vực là Mỹ-Nhật-Ấn-Úc (còn gọi là The Quad - Bộ Tứ) và kêu gọi sự can dự mạnh mẽ hơn từ các nước Châu Âu, nhất là Anh và Pháp, để đảm bảo cấu trúc an ninh trong khu vực trước mối đe dọa từ Trung Quốc.
Tại Hội nghị Biển Đông hằng năm lần thứ 9 hôm 24/7/2019, Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) đã mời các học giả đại diện các nước Nhật, Ấn, Úc và Đức (đại diện cho khối Âu Châu) để trình bày về cam kết của các cường quốc này đối với an ninh trên Biển Đông.
Nhật ‘lo lắng’
Nhật Bản là nước ‘rất dễ bị tổn thương’ trước những diễn biến tiêu cực trên Biển Đông, Toshihiro Nakayama, giáo sư về quản lý chính sách ở Đại học Keio, khẳng định tại hội thảo.
"Nhật Bản phụ thuộc hoàn toàn vào giao thương…Hơn 90% giao thương của Nhật Bản lệ thuộc vào vận chuyển bằng đường biển", ông giải thích. "Do đó, vùng Biển Đông đặc biệt là huyết mạch hàng hải hết sức quan trọng đối với Nhật".
"Nếu con đường hàng hải đó bị chặn hoặc nếu một quốc gia đơn lẻ nào đó làm chủ vùng biển đó thì Nhật sẽ rơi vào tình thế dễ bị tổn thương".
Do đó, ông cho biết ý đồ của Trung Quốc muốn biển Biển Đông thành vùng biển của riêng họ là ‘quan ngại lớn của Nhật’.
Cho đến nay, mặc dù Tokyo không tham gia vào các cuộc tuần tra bảo vệ tự do hàng hải (FONOP) trên Biển Đông do Mỹ khởi xướng do những tranh cãi trong nước, nhưng nước này tham gia vào nhiều cuộc tập trận trong khu vực và công khai ủng hộ các chiến dịch FONOP của Mỹ, ông Nakayama nói.
"Hồi năm ngoái Nhật Bản đã công khai nói rằng họ đã tiến hành tập trận tàu ngầm ở Biển Đông và họ đã tập trận như thế hơn 15 năm nay", ông cho biết và nói việc Nhật công khai việc tập trận là ‘diễn biến quan trọng’.
Tuy nhiên, ông cho biết ở Nhật hiện đang có cảm nhận rằng thế cân bằng chiến lược ở Biển Đông đang ‘nghiêng về hướng có lợi cho Trung Quốc’ và lo lắng về cam kết của Mỹ đối với khu vực dưới thời Tổng thống Donald Trump với phương châm ‘Nước Mỹ trên hết’.
"Chúng tôi nhìn thấy tham vọng của Trung Quốc để thay thế Mỹ hay gạt Mỹ ra rìa trong vai trò lãnh đạo ở Châu Á-Thái Bình Dương", ông nói.
Mặc dù không ai nói về sự thoái lui hoàn toàn của Mỹ khỏi khu vực nhưng nếu có những dấu hiệu mờ nhạt về việc này thì nó sẽ gây tác động tiêu cực cho khu vực, ông nói thêm.
"Chỉ cần một dấu hiệu nhỏ về sự thoái lui của Mỹ sẽ tạo ra thay đổi lớn trong cán cân quyền lực", ông giải thích.
Ông Nakayama nói trước giờ ông đã trao đổi với rất nhiều quan chức ở khu vực Đông Nam Á và vấn đề Biển Đông ‘không bao giờ là về quyết tâm của Mỹ mà là về kiểm soát các vấn đề’.
"Nhưng giờ đây cảm nhận của các nước trong khu vực hay ít nhất là ở Nhật đã có sự thay đổi lớn", ông nói. "Chúng ta có chính quyền Trump do đó có cảm giác chung là sự bất định về vai trò của Mỹ ở Châu Á".
Tổng thống Trump đã không đến dự các hội nghị thượng đỉnh của khu vực ở Singapore và Papua New Guinea hồi cuối năm ngoái mà cử phó Tổng thống Mike Pence đi thay trong khi Chủ tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc đã có sự xuất hiện nổi bật.
Ông cho rằng Tổng thống Trump nên quan tâm đến cảm nhận của khu vực về cam kết của Mỹ, về sự hiện diện lâu dài của Mỹ ở khu vực. Đó là điều quan trọng hơn các chiến dịch FONOP hay triển khai vũ khí gì, nhất là trong bối cảnh Biển Đông.
Giáo sư Toshihiro Nakayama nói rằng nói rằng mặc dù ở Nhật mọi người đều lo về Trung Quốc nhưng họ ‘không muốn đối đầu trong quan hệ với Bắc Kinh’.
Hơn nữa, Nhật là nước ‘rất ngại rủi ro’ trong việc đảm nhận các vai trò an ninh nhưng ông cho rằng điều này ‘đang thay đổi đáng kể’.
Châu Âu quan ngại
Đối với các nước Châu Âu, vấn đề Biển Đông không quan hệ lắm đối với lợi ích sát sườn của họ trừ một vài nước như Anh, Pháp, nhưng cách hành xử ngày càng quả quyết nói chung của Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực đã khiến Châu Âu quan ngại, bà Sarah Kirchberger đến từ Viện Chính sách An ninh thuộc Đại học Kiel, Đức, cho biết.
"Mãi cho đến gần đây Biển Đông còn là một chủ đề ít người Châu Âu biết đến hay quan tâm bởi vì nó xa xôi và không có liên hệ gì đối với họ mặc dù nhiều nước Châu Âu dựa vào xuất khẩu qua hải lộ đó", bà giải thích.
Bà cho biết trong vòng hai năm qua, Châu Âu đã có ‘sự thay đổi đáng kể’ trong thái độ đối với Trung Quốc mà tất cả đều xuất phát từ cách hành xử ngày càng chuyên chế và quả quyết của Bắc Kinh.
Bà chỉ ra cách chính quyền Bắc Kinh đang kiểm soát và định hướng dư luận bên ngoài theo chiều hướng có lợi cho Trung Quốc và tìm cách bóp nghẹt những tiếng nói chỉ trích hay những cuộc thảo luận về những ‘tội ác’ trước đây của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Mặc dù cộng đồng doanh nghiệp vẫn nhìn thấy nhiều cơ hội trong việc hợp tác với Trung Quốc, cộng đồng an ninh đã ‘cảnh giác hơn nhiều’, bà nói. "Một số người từng chủ trương thỏa hiệp với Trung Quốc đã thật sự thay đổi quan điểm".
Ngoài ra, chiến lược ‘Made in China 2025’ mà Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đưa ra nhằm vươn lên dẫn đầu thế giới trong những ngành công nghệ chủ chốt khiến Berlin đặc biệt quan ngại vì nó thách thức sự thịnh vượng của nước Đức.
"Nếu nhìn vào tin tức, trao đổi với các chuyên gia hay thậm chí với cộng đồng doanh nghiệp sẽ thấy mối quan ngại này – ngay cả Hiệp hội các ngành Kỹ nghệ Đức cũng đã ra cảnh báo các doanh nghiệp đừng có quá phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc", bà nói thêm.
Bà cho biết Châu Âu nhìn vào Trung Quốc với nhiều mối quan ngại trong bối cảnh cuộc cạnh tranh quyền lực của nước này với Mỹ. Thứ nhất là quan ngại về cán cân quân sự ngày càng thay đổi giữa Mỹ và Trung Quốc. Thứ hai là Bắc Kinh ngày càng quả quyết trên một loạt phương diện từ quân sự cho đến kinh tế và ngoại giao và cách hành xử này đã ảnh hưởng trực tiếp đến Châu Âu. Thứ ba là những dấu hiệu của mối quan hệ chiến lược ngày càng sâu sắc giữa Trung Quốc với Nga mà EU xem là mối đe dọa an ninh chính.
Vị đại diện đến từ nước Đức này so sánh cách hành xử của Trung Quốc ở Biển Đông và eo biển Đài Loan với hành động hung hăng của Nga ở Ukraine.
Bà Kirchberger dẫn ra các dấu hiệu cho thấy nhiều khả năng Trung Quốc ‘đang xây dựng một hệ thống quân sự chống ngầm mang tính kết nối dưới Biển Đông’ với các thiết bị giám sát mọi động tĩnh và phân tích những dữ liệu thu thập được từ hệ thống phao nổi và vệ tinh trên Biển Đông. Nếu Trung Quốc có thể kiểm soát được hoạt động tàu ngầm của các nước khác, bà nói, thì điều này ‘sẽ thay đổi cán cân quân sự’ ở Biển Đông.
Với tư cách là đồng minh với Mỹ trong khối NATO, các nước Châu Âu ‘trước hết phải đảm bảo an ninh cho ngôi nhà của mình để người Mỹ có thể rảnh tay triển khai ở khu vực Thái Bình Dương’, bà nói. Bên cạnh đó, một số nước Châu Âu cũng có hành động giương cao ngọn cờ luật pháp quốc tế trên Biển Đông.
"Tôi nghĩ Pháp là quốc gia ở vị trí tốt nhất ở Châu Âu để tham gia tích cực vào các chiến dịch tuần tra bảo vệ tự do hàng hải (FONOP) mà họ đã tham gia lâu nay", bà Kirchberger cho biết. "Họ là quốc gia Thái Bình Dương (Pháp có nhiều lãnh thổ hải ngoại ở vùng biển này) và họ có sự hiện diện quân sự đáng kể ở Thái Bình Dương. Họ có nhiều kinh nghiệm và họ có năng lực hải quân rất tốt".
"Do đó nếu có chiến dịch đa phương nào (của Châu Âu) diễn ra thì theo quan điểm của tôi người Pháp sẽ nắm vai trò lãnh đạo bởi vì tàu chiến của họ thường đi qua khu vực này mà mới đây nhất chiến hạm Pháp đã băng qua eo biển Đài Loan trong một hành động bị Bắc Kinh lên án gay gắt".
Việc Trung Quốc hủy bỏ lời mời Pháp tham dự sự kiện kỷ niệm ngày thành lập của Hải quân Trung Quốc ngay sau đó cho thấy ‘sự thay đổi trong cách hành xử của Trung Quốc chắn chắn đang ảnh ưởng đến các nước Châu Âu’.
Về phần Đức, bà cho biết Berlin không sẵn sàng chấp nhận rủi ro về quân sự với Trung Quốc. ‘Hành động can đảm nhất’ mà Berlin có thể làm là dung chấp những người bất đồng chính kiến với chế độ như Ngãi Vị Vị hay Lưu Hà, vợ của Lưu Hiểu Ba.
Đức không muốn tham gia vào FONOP vì ‘không sẵn sàng’, bà nói và đưa ra lý do là hải quân Đức đã đi xuống sau nhiều thập niên bị bỏ bê và ở quốc gia có lịch sử gây chiến như Đức thì bất cứ hành động quân sự nào ‘cũng sẽ rất mất lòng dân và gần như là tự sát chính trị’. Do đó, hình thức đóng góp tốt nhất của Đức là tham gia vào một nỗ lực đa phương của Châu Âu.
Ấn Độ ‘hướng Đông’
Về phần Ấn Độ, một quốc gia nằm trong ‘Bộ Tứ’ trong chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Mỹ, bà Pooja Bhatt, nghiên cứu sinh tiến sĩ đến từ Đại học Jawaharlal Nehru, nói rằng lập trường của New Delhi đối với Biển Đông là ‘hòa bình, ổn định và an ninh dựa trên luật pháp và chuẩn mực được quốc tế chấp nhận’, ‘ủng hộ tự do hàng hải, tự do hàng không và thương mại không bị gián đoạn’.
Bà Bhatt chỉ ra rằng Ấn Độ có nhiều lợi ích ở Biển Đông và cũng sẽ ‘là một nạn nhân’ nếu vùng biển này xảy ra bất ổn.
Trước hết là lợi ích năng lượng khi các tập đoàn dầu khí của Ấn Độ trong vòng 10 năm qua đã tham gia thăm dò hai lô trong vùng biển của Việt Nam. Thứ hai là bảo vệ con đường giao thương của Ấn Độ với hơn một nửa kim ngạch ngoại thương của nước này phải thông qua con đường Biển Đông. Thứ ba là Ấn Độ muốn có một cấu trúc khu vực mang tính hội nhập, mở và tự do vốn cho phép tất cả các nước có lợi ích đều được tham gia. Thứ tư, Ấn Độ muốn cùng các nước trong khu vực xây dựng các dự án cơ sở hạ tầng và các dự án kết nối các nước trên nguyên tắc ‘minh bạch và bình đẳng’.
Trong khuôn khổ chính sách đối ngoại ‘Hướng Đông’, Ấn Độ trong những năm qua đã tích cực tăng cường sự hiện diện về kinh tế, chính trị và quân sự với các nước xung quanh Biển Đông, đặc biệt là với Việt Nam – nước mà Ấn Độ xem là then chốt trong chiến lược ‘Hướng Đông’. Chính sách ‘Hướng Đông’ này và lập trường về Biển Đông của Ấn Độ xuất phát từ khuôn khổ mối quan hệ ‘yêu và ghét’ của Ấn Độ đối với Trung Quốc, bà Bhatt cho biết.
"Mặc dù người Ấn Độ tự nhiên không thích các hành động của Trung Quốc vì những lý do lịch sử như chiến tranh và tranh chấp biên giới giữa hai nước, có một số nhân tố mà Ấn Độ phải xem xét", bà nói về ý định của Ấn Độ có sẵn sàng đi xa hơn trong việc thách thức Trung Quốc hay không.
Trước hết năng lực của Ấn Độ hiện nay chưa đến mức có thể tham gia vào cuộc đối đầu với Trung Quốc. Thứ hai, Ấn Độ đang đa dạng hóa các lợi ích ‘do sự quan tâm của Mỹ đến khu vực ngày càng suy giảm còn Trung Quốc thì hung hăng’. Thứ ba là lợi ích của chính Ấn Độ trong giao thương với Trung Quốc.
Bà cũng lưu ý lập trường của các nước Đông Nam Á là ‘không muốn có thêm cấu trúc an ninh khu vực mới (kiểu như Bộ Tứ)’ mà thay vào đó ASEAN muốn ‘củng cố các cấu trúc an ninh có sẵn để có thêm các chức năng mới’.
Bà khuyên rằng Mỹ không xem Ấn Độ hay các nước khác trong khu vực chỉ đơn thuần là đối tác an ninh hay quân sự mà cần phải chú trọng mối quan hệ đối tác kinh tế và xây dựng cơ sở hạ tầng như Trung Quốc đã làm với các dự án RCEP (Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực) và Ý tưởng Vành đai-Con đường (BRI).
"Tôi cho rằng các nước trong khu vực cảm thấy rất bất an khi trở thành đồng minh quân sự (với Mỹ)", bà nói.
Tổng thống Mỹ Donald Trump ngay khi lên nắm quyền đã từ bỏ Hiệp ước Đối tác Kinh tế Xuyên Thái Bình Dương (TPP) vốn nhằm tăng cường mối quan hệ kinh tế của Mỹ với các nước trong khu vực trước sức ảnh hưởng càng lớn của Trung Quốc.
Úc đề cao luật pháp
Cũng giống như các cường quốc bên ngoài khác, Canberra cũng có lợi ích trong việc duy trì hòa bình và ổn định trên Biển Đông và đây là ưu tiên trước hết của nước này, bà Bec Strating, giảng viên về Chính trị thuộc Đại học La Trobe, cho biết.
"Chính sách được công bố của Úc trong những năm qua là bày tỏ mối quan ngại lớn đối với các cường quốc đang nổi thách thức luật lệ trên biển, trên không và xem đó là mối đe dọa đối với ổn định khu vực – yếu tố rất quan trọng góp phần vào sự thịnh vượng và an ninh quốc gia của Úc", bà nói.
Cũng giống như Ấn Độ và Nhật Bản, Úc có khối lượng hàng hóa lớn được giao thương qua con đường Biển Đông với gần hai phần ba. Tuy nhiên, Canberra không lo lắng về việc con đường giao thương này bị gián đoạn vì phần lớn hàng hóa đó đi đến hay đi từ Trung Quốc.
"Không có khả năng Trung Quốc gây cản trở cho việc giao thương này vì đó cũng là lợi ích của họ", bà Strating giải thích. "Nguy cơ kinh tế thực sự đối với Úc là khả năng Trung Quốc sử dụng các đòn bẩy kinh tế mà họ có như buôn bán các mặt hàng thiết yếu, du lịch hay giáo dục bậc cao để trừng phạt Canberra nếu Úc có lập trường cứng rắn trên Biển Đông".
Bà cho rằng quan hệ giao thương với Trung Quốc là rất quan trọng để giúp nền kinh tế Úc mạnh mẽ và duy trì sự thịnh vượng. Tuy nhiên, về lâu dài thì Úc có lợi ích trong việc ‘bảo đảm quyền tự do hàng hải’.
"Tôi cho rằng lợi ích then chốt của Úc nằm ở việc duy trì trật tự thế giới dựa trên luật lệ", bà nói. "Vấn đề là liệu sự xói mòn luật lệ về biển trên Biển Đông sẽ đe dọa tính hợp pháp của toàn bộ UNCLOS (Công ước Quốc tế về Luật Biển) hay không".
Úc có lợi ích lớn trong việc bảo vệ tính toàn vẹn của UNCLOS vì nước này được hưởng vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) rộng đến 10 triệu km vuông, lớn thứ ba thế giới, theo quy định của UNCLOS.
"Úc dự đoán việc đánh bắt trái phép sẽ ngày càng tăng về quy mô và độ phức tạp trong vòng 20 năm tới trong vùng đặc quyền kinh tế của mình bởi vì tranh chấp Biển Đông sẽ đẩy các tàu cá xuống các vùng biển ở phía bắc Úc", bà cho biết.
Cho nên việc Canberra bảo vệ trật tự dựa trên luật pháp, bảo vệ UNCLOS, không chỉ đơn thuần là bảo vệ cho hiện trạng khu vực dưới sự lãnh đạo của Mỹ mà còn là bảo vệ những lợi ích cốt lõi của Úc liên quan đến chủ quyền và tài nguyên, bà giải thích.
Chính vì vậy, các nhà lãnh đạo Úc đã rất mạnh miệng công khai chỉ trích Trung Quốc không tuân thủ phán quyết hồi năm 2016 của Tòa Trọng tài Thường trực được thành lập theo UNCLOS. "Điều này hơi đặc biệt vì các lãnh đạo Úc thường rất do dự trong việc công khai lên án Trung Quốc về những vấn đề như nhân quyền", bà nói.
Tuy nhiên, cũng theo bà Strating, Úc cũng gặp vấn đề trong việc chỉ trích Trung Quốc vì nước này bị Bắc Kinh tố ngược là ‘đạo đức giả’ vì vi phạm luật pháp quốc tế trong tranh chấp chủ quyền với Đông Timor trên Biển Timor.
Do lịch sử an ninh vốn gắn chặt Úc với các cường quốc bên ngoài, trước hết là Anh và giờ là Mỹ, bà Strating cho rằng Úc vẫn là một đồng minh gắn bó với Mỹ và đã có lập trường mạnh mẽ trên các vấn đề liên quan đến Trung Quốc.
Bà đưa ra bằng chứng là khác với Ấn Độ, Úc rất sốt sắng với ý tưởng về ‘Bộ Tứ’. Dù vậy, trên một số vấn đề, Canberra ‘vẫn không sẵn sàng gây sức ép lên Bắc Kinh’.
Bà nhìn nhận rằng ‘có sự cách biệt’ giữa lời nói và hành động của Úc trên Biển Đông vì Canberra tuyên bố rất mạnh miệng nhưng trên thực tế họ không có hành động gì mới.
"Các nhà hoạch định chính sách của Úc cho đến nay vẫn từ chối tham gia FONOP một phần là vì họ cho rằng điều này sẽ làm gia tăng căng thẳng trên Biển Đông", bà cho biết và nói rằng Canberra ‘không sẵn sàng chấp nhận rủi ro’ khi đưa tàu chiến vào trong phạm vi 12 hải lý của các hòn đảo mà Trung Quốc chiếm giữ trên Biển Đông.
Đối với người dân Úc, họ biết những gì diễn ra ở Biển Đông nhưng họ không xem đó ảnh hưởng đến lợi ích sát sườn của Úc vốn được cho là giao thương và thịnh vượng, bà nói và cho biết nhiều người ở Úc ‘có quan điểm rất tích cực’ về quan hệ với Trung Quốc.
Về những gì mà Úc muốn ở Mỹ, bà Strating đề nghị chính quyền Trump nên quay trở lại với TPP và phê chuẩn UNCLOS. Vì không tham gia vào UNCLOS nên Mỹ không ở thế mạnh về pháp lý để đối phó với Trung Quốc.
Ngọc Lễ
Nguồn : VOA, 01/08/2019
*********************
Biển Đông : Thượng nghị sĩ Mỹ yêu cầu phản ứng mạnh với Trung Quốc
Trọng Nghĩa, RFI, 31/07/2019
Vào lúc Trung Quốc tiếp tục xâm lấn Biển Đông, đặc biệt là cho tàu vào khu vực Bãi Tư Chính trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, để khảo sát và sách nhiễu hoạt động dầu khí của Việt Nam, bốn thượng nghị sĩ Mỹ vừa lên tiếng yêu cầu chính quyền Hoa Kỳ có nhiều nỗ lực hơn nhằm "răn đe" Bắc Kinh ở Biển Đông.
Đảo Hải Nam và bản đồ đòi chủ quyền hình "lưỡi bò" của Trung Quốc tại Biển Đông. (@wikipedia.org)
Trong một bức thư đề ngày 29/07/2019 gởi đến ngoại trưởng Mỹ, các thượng nghị sĩ đã yêu cầu ông Mike Pompeo đưa những "hành vi hiếu chiến và bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông" lên hàng trọng tâm trong các cuộc thảo luận của ông tại Diễn Đàn Khu Vực ASEAN (ARF), mở ra ngày 02/08 tại Bangkok, trong khuôn khổ Hội Nghị Ngoại Trưởng thường niên của khối ASEAN.
Lá thư của các thượng nghị sĩ Bob Menendez, Ed Markey, Patrick Leahy và Brian Schatz gần như là một bản cáo trạng, nêu bật 4 loại hành động của Trung Quốc liên quan đến Biển Đông cần phải lên án.
Đó là những hành vi gây hấn trong vùng đặc quyền kinh tế của những nước khác, việc sử dụng các đảo nhân tạo đã được quân sự hóa để bức hiếp những quốc gia khác, quyết định phớt lờ phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực (của Liên Hiệp Quốc) bác bỏ yêu sách chủ quyền Trung Quốc, và các nỗ lực nhằm sức ép buộc ASEAN nhượng bộ trong đàm phán về Bộ Quy Tắc Ứng Xử trên Biển Đông.
Đối với các tác giả bức thư, các hành động "hù dọa, bức hiếp, bác bỏ phán quyết ngoại giao hòa bình, cũng như những đe dọa dùng vũ lực của Trung Quốc trong những năm qua đang tạo ra thách thức lớn cho lợi ích của Mỹ trong khu vực".
Chính quyền Mỹ, theo bức thư, đã đi đúng hướng trong việc vạch trần các hoạt động quân sự hóa của Trung Quốc ở Biển Đông, cũng như tổ chức các chiến dịch tuần tra nhằm đảm bảo tự do hàng hải trong khu vực. Tuy nhiên, Hoa Kỳ cần có thêm nhiều hành động để đối phó với các hoạt động hiếu chiến của Trung Quốc và ngăn chặn việc Trung Quốc tung hoành ở Biển Đông mà không bị trừng phạt.
Bức thư kết luận : "Hiện vẫn chưa muộn để buộc Trung Quốc phải chịu trách nhiệm về hành vi của họ, và răn đe những hành vi xâm lấn trên biển của Trung Quốc".
Trọng Nghĩa
*******************
Mỹ đẩy mạnh chiến lược an ninh vào lúc Trung Quốc làm khu vực lo ngại
VOA, 31/07/2019
Các sự cố gần đây liên quan đến tàu Trung Quốc ở các vùng biển Đông Nam Á đang làm lung lay lòng tin của khu vực về sự thành thật của Bắc Kinh muốn thấy hòa bình trên biển, đồng thời tiếp sức cho nỗ lực của Mỹ đẩy mạnh xây dựng liên minh với các quốc gia không khuất phục trước hành động lấn tới của Trung Quốc.
Tàu sân bay Mỹ USS Carl Vinson thăm Đà Nẵng, Việt Nam, tháng 3/2018
Hành động của Trung Quốc trên các vùng biển giàu năng lượng ở Biển Đông, kể cả vụ đối đầu tại Vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam, sẽ là chủ đề trong nghị trình thảo luận tại hội nghị an ninh giữa các ngoại trưởng ASEAN và đại diện các cường quốc thế giới vào ngày thứ Sáu 2/8.
Trong số các cường quốc đó có Hoa Kỳ, nước đã đề ra Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương thách thức cao vọng bá quyền về hàng hải của Trung Quốc và tìm cách thắt chặt quan hệ với các quốc gia phản kháng lại Bắc Kinh.
"Vai trò của Hoa Kỳ là không thể phủ nhận và rất quan trọng, và họ cần gây thêm áp lực đối với Trung Quốc", ông Nguyễn Hồng Hải, nhà nghiên cứu tại Đại học Công nghệ Queensland, Úc, nói.
"Cộng đồng quốc tế cũng cần phải làm điều đó. Tất cả các bên tuyên bố chủ quyền cần quốc tế hóa điều đó", ông Hải nói thêm.
Việc Việt Nam gần đây kêu gọi tập hợp cộng đồng quốc tế là bước đi rời khỏi những phản ứng thận trọng thường thấy của Việt Nam đối với Trung Quốc, nước tìm cách giải quyết các tranh chấp qua con đường song phương.
Theo chuyên gia về Biển Đông Carl Thayer, việc Trung Quốc gần đây gia tăng các hành vi lấn tới không phải là điều ngẫu nhiên, mà là một phản ứng đối với Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, cũng như vì Hoa Ky gia tăng điều động máy bay ném bom và tàu hải quân Hoa Kỳ thực hiện tuần tra ở Biển Đông, nơi có lượng hàng hóa trị giá 3,4 nghìn tỷ đô la đi qua hàng năm.
Ông Thayer cho rằng Trung Quốc đang tích cực ngăn chặn các nước láng giềng Đông Nam Á tiến hành thăm dò, khai thác các mỏ năng lượng ngoài khơi mà không có sự tham gia của Trung Quốc, đồng thời làm nản lòng các liên doanh nước ngoài.
"Việc Trung Quốc sử dụng ‘chiến thuật vùng xám’ chắc chắn sẽ khiến các quốc gia trong khu vực phải có biện pháp đối phó và chống đối", ông Thayer đưa ra ý kiến. Theo ông, "Điều này mang lại rủi ro là các cuộc đối đầu trên biển sẽ leo thang".
Bảo vệ quan điểm của Bắc Kinh, Đại sứ Trung Quốc tại Philippines, Zhao Jianhua, nói hôm 29/7 rằng Trung Quốc cam kết tuân theo luật pháp quốc tế và làm việc tích cực với ASEAN để hình thành bộ quy tắc ứng xử hàng hải trong vòng ba năm tới.
"Từ những bên ở đầu chiến tuyến như Hồng Kông và Đài Loan, cho đến Philippines, Malaysia, Indonesia và chắc chắn là cả Việt Nam nữa – quý vị có thể thấy sự chống đối mạnh mẽ của rất nhiều quốc gia nhỏ hơn", Richard Heydarian, một tay bút kiêm nhà phân tích thường trú ở Manila, đưa ra nhận định.
"Chắc chắn là Washington có không gian chiến lược đó để mà hành động", ông Heydarian nói.
Theo Reuters
***************
Thượng nghị sĩ Mỹ lên án Trung Quốc điều tàu xâm phạm vùng biển Việt Nam
RFA, 01/08/2019
Bốn Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ hôm 31/7 ra tuyên bố lên án Trung Quốc điều tàu khảo sát và các tàu Hải cảnh vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, gọi đây là một bằng chứng mới nhất về những hành động xâm lấn của Trung Quốc nhằm khẳng định những đòi hỏi về chủ quyền sai trái của Bắc Kinh ở Biển Đông.
Hình minh họa. Các Thượng nghị sĩ Mỹ và tuyên bố chung Photo : RFA
Các Thượng nghị sĩ tham gia ký tuyên bố bao gồm Thượng nghị sĩ Jim Risch, Bob Menendez – Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Thượng viện, Cory Gardner, và Edward Markey – Chủ tịch Tiểu ban Đông Á và Thái Bình Dương của Thượng viện.
Tuyên bố được đưa ra vào trước cuộc gặp của Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Mike Pompeo với Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị ở Bangkok, Thái Lan diễn ra vào chiều ngày 1/8.
"Xác định những cách chắc chắn để đẩy lùi những hành động gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông nên là ưu tiên hàng đầu trong nghị trình của Hoa Kỳ tại các cuộc họp ASEAN tại Bangkok tuần này. Ngoài vai trò lãnh đạo của Mỹ, điều quan trọng là các đối tác của chúng ta (Hoa Kỳ) trong khu vực, đặc biệt là các nước ASEAN, đoàn kết và cứng rắn trước hành động xâm lấn của Trung Quốc", tuyên bố có đoạn viết.
Thượng nghị sĩ Cory Gardner được trích lời trong tuyên bố cho biết việc Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông và sử dụng những hành động gây thù hằn với các nước đòi chủ quyền khác là sai pháp luật.
Vì vậy, Thượng nghị sĩ Gardner nói ông hy vọng Ngoại trưởng Pompeo sẽ nhân cơ hội này để khẳng định Hoa Kỳ luôn đứng cùng với các đối tác ASEAN và kêu gọi một chính sách hợp tác để đối phó với thái độ hiếu chiến của Bắc Kinh đối với các đồng minh của Mỹ ở khu vực.
Tại cuộc gặp với các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN hôm 1/8, Bộ trưởng Mike Pompeo nói rằng Hoa Kỳ không bao giờ yêu cầu các quốc gia ở Ấn Độ Thái Bình Dương phải chọn phe giữa các nước. Ông đồng thời cũng lên tiếng chỉ trích các hành động xâm lấn của Trung Quốc ở Biển Đông.
Trước đó, vào ngày 29/7, các nghị sĩ Bob Menendez, Ed Markey, Brian Schatz và Patrick Leahy cũng gửi thư đến Ngoại trưởng Mike Pompeo, đề nghị ông lên án các hành động của Trung Quốc trong các thảo luận tại hội nghị với Bộ trưởng các nước ASEAN lần này.
Bức thư chỉ rõ hành động đe dọa. lấn lướt của Trung Quốc trong những năm qua đang đặt ra một thách thức nghiêm trọng đối với những quyền lợi của Mỹ ở khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương.
Vào ngày 26/7, Dân biểu Eliot Engel – Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ cũng có tuyên bố riêng lên án hành động của Trung Quốc ở vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Ông cho rằng những hành động của Trung Quốc ở đây cũng đe dọa những quền lợi của các công ty Hoa Kỳ đang hoạt động trong khu vực.
Từ giữa tháng 6 và đầu tháng 7, Trung Quốc đã liên tiếp điều nhiều tàu Hải cảnh, tàu dân quân biển và tàu khảo sát HD-8 vào khu vực Bãi Tư Chính của Việt Nam, quấy nhiễu họa động thăm dò khai thác dầu khí ở lô 06.1 thuộc liên doanh giữa Việt Nam và Nga.
Việt Nam sau đó đã lên tiếng yêu cầu Trung Quốc phải rút toàn bộ tàu khỏi vùng nước.
Hôm 20/7, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã lên tiếng phản đối hành động bắt nạt của Trung Quốc ở Biển Đông.
RFA tiếng Việt
Ngư dân Việt Nam kêu gọi hành động chống lại Trung Quốc (VOA, 30/07/2019)
Một nhóm ngư dân Việt Nam kêu gọi chính phủ thực hiện các biện pháp quyết liệt hơn để đòi Trung Quốc phải lập tức rút nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 ra khỏi các vùng biển của Việt Nam.
Trang web của Hội Nghề Cá Việt Nam.
Ngày 29/7, Hội nghề cá Việt Nam ra tuyên bố "kịch liệt lên án hành động tàu Trung Quốc xâm phạm chủ quyền ngang ngược, cản trở ngư dân hoạt động", theo VNExpress.
Cũng hôm 29/7, Hội nghề cá đã gửi bản tuyên bố này đến Bộ ngoại giao, Bộ quốc phòng và các cơ quan chính phủ khác của Việt Nam, theo Reuters.
Hội nghề cá "kịch liệt lên án và phản đối hành động của phía Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền biển đảo Việt Nam", "hành vi này gây cản trở việc khai thác hải sản của ngư dân vùng Đông Nam Bộ và Nam Trung Bộ", tuyên bố của Hội viết.
Hội đề nghị các cơ quan chức năng Việt Nam phải phản đối mạnh mẽ hơn các hành động của Trung Quốc ; có các biện pháp đấu tranh kiên quyết với hành động ngang ngược và phi lý nêu trên, yêu cầu Trung Quốc rút ngay lập tức nhóm tàu Hải Dương 8 ra khỏi vùng biển Việt Nam.
Bản tuyên bố của Hội Nghề Cá Việt Nam hôm 29/7/2019.
Trong khi đó thì Phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, bà Hoa Xuân Oánh, cáo buộc Việt Nam là "vi phạm quyền chủ quyền của Trung Quốc đối với Bãi Tư Chính từ tháng Năm", theo South China Morning Post hôm 29/7.
"Trung Quốc đã thể hiện quan điểm của mình và đang liên lạc với phía Việt Nam", bà Hoa được tờ báo của Hong Kong trích lời nói tại một cuộc họp báo hôm 26/7. "Chúng tôi kêu gọi phía Việt Nam xử lý phù hợp vụ việc".
Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc tung ra lời tố cáo đó một ngày sau khi người đồng cấp Việt Nam, bà Lê Thị Thu Hằng, lên tiếng về vụ đối đầu ở bãi Tư Chính mà bà mô tả là "nghiêm trọng" và cho biết Hà Nội đã "trao công hàm phản đối cho phía Trung Quốc, yêu cầu nước này rút ngay ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam".
"Các lực lượng chức năng của Việt Nam triển khai các biện pháp phù hợp, đúng pháp luật", bà Hằng nói trong tuyên bố mới nhất về cuộc "đối đầu" giữa tàu chấp pháp Việt Nam và Trung Quốc nhiều tuần qua.
Đây là lần thứ ba trong vòng 10 ngày Bộ Ngoại giao Việt Nam lên tiếng về vụ Bãi Tư Chính, leo thang cuộc khẩu chiến với Trung Quốc.
*******************
Hội nghề cá phản đối hành động vi phạm vùng biển Việt Nam của tàu Trung Quốc (RFA, 30/07/2019)
Hội Nghề cá Việt Nam hôm 29/7 vừa có công văn lên án hành động của tàu Trung Quốc, xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông.
Hình minh họa. Tàu Hải cảnh của Trung Quốc đang đuổi theo một tàu Cảnh sát biển Việt Nam hôm 14/5/2014 ở Biển Đông - AFP
Theo công văn, Hội Nghề cá cho biết nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 cua Trung Quốc thời gian qua đã vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông (gần Bãi Tư Chính), gây cản rở công việc khai thác hải sản của ngư dân tại vùng biển này.
Hội Nghề cá đề nghị các cơ quan chức năng Việt Nam phản đối mạnh mẽ hơn nữa đối với các hành động của Trung Quốc.
Trong tháng 7 vừa qua, trên trang mạng Facebook lan truyền một video được ngư dân đảo Phú Quý quay cho thấy các tàu Hải cảnh của Trung Quốc xuất hiện ở vùng nước của Việt Nam.
Từ tháng 6 đến nay, Trung Quốc đã liên tục gửi các tàu Hải cảnh và tàu Hải Dương 8 đến khu vực Bãi Tư Chính và gần Bãi Tư Chính của Việt Nam, quấy nhiễu các hoạt động khai thác dầu khí của Việt Nam.
Trung Quốc coi khu vực này thuộc vùng nước lịch sử trong đường đứt khúc 9 đoạn mà nước này vẽ ra trên biển.
Tòa Trọng tài Quốc tế hồi năm 2016 đã bác bỏ tính hợp lệ của đường đứt khúc này nhưng Trung Quốc không chấp nhận phán quyết của tòa.
******************
Vụ Bãi Tư Chính : Vì sao người dân không biểu tình chống Trung Quốc ? (VOA, 29/07/2019)
Căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn tiếp tục sau nhiều tuần báo chí trong nước và quốc tế tường thuật, phân tích về tranh chấp giữa hai nước tại Bãi Tư Chính trên Biển Đông, thể hiện qua việc các đại diện ngoại giao hai nước liên tiếp đưa ra những bình luận mang tính chỉ trích, cao buộc lẫn nhau trong vài ngày gần đây.
Đông đảo nhân viên nhà nước ngăn cản người biểu tình phản đối Trung Quốc hồi hè 2014
Tuy nhiên, theo quan sát của VOA, cho đến nay, chưa có một cuộc biểu tình nào của người dân ở bất cứ địa điểm nào trên toàn đất nước Việt Nam về vấn đề này. Điều này trái ngược với những cuộc tuần hành, biểu tình nổ ra rầm rộ hồi mùa hè năm 2014, khi Trung Quốc đưa một giàn khoan thăm dò vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trên Biển Đông.
Giới những người cổ súy cho dân chủ, tiến bộ xã hội có chung một lời lý giải về tình trạng này. Họ cho rằng người dân từng bày tỏ lòng yêu nước, phản đối Trung Quốc trong quá khứ, nhưng đổi lại là sự "ngược đãi" của chính quyền. Vì vậy, giờ đây người dân có thái độ "thờ ơ", ngay cả khi xuất hiện bài viết với hàng tít có tính chất giục giã như "Huy động toàn dân bảo vệ chủ quyền và phẩm giá dân tộc" trên các báo nhà nước như VietNamNet, vốn thuộc quản lý của Bộ Thông tin và truyền thông.
Trong bài viết đăng hôm 27/7 trên Facebook cá nhân có tổng cộng gần 190.000 người theo dõi, nghệ sĩ, đạo diễn Nguyễn Công Vượng nhấn mạnh ngay từ đầu rằng "những người yêu nước bị tổn thương".
Điểm lại sự kiện tàu thăm dò Trung Quốc vào thềm lục địa Việt Nam tháng 5/2014, và các cuộc tưởng niệm những người lính Việt ngã xuống để bảo vệ Hoàng Sa, Trường Sa và biên giới phía bắc, ông Vượng tóm tắt rằng "những người xuống đường đã bị chính quyền quy chụp phản động, bắt bớ, đánh đập". Bên cạnh đó, vẫn theo ông Vượng, các thành phần thân nhà nước thường được gọi là dư luận viên "bêu rếu, bôi nhọ" những người biểu tình bằng những lời "vô liêm sỉ" chỉ vì họ "chống Trung quốc xâm lược Nước Ta".
Nghệ sĩ 39 tuổi còn có tên là Vượng Râu, nổi tiếng cả về diễn hài lẫn sự trực ngôn của ông về các vấn đề thời sự, xã hội, nói thêm : "Có lẽ hiếm nơi nào như Đất Nước chúng ta khi lòng yêu Nước là có tội ! Bởi bất cứ ai yêu Nước muốn gìn giữ non sông mà lên tiếng cho bất công hay phản đối xâm lăng của giặc tàu thì đều bị quy vào là Phản Động".
Hậu quả của việc gắn nhãn "phản động" là nó làm "tổn thương nhiều người, tổn thương đến trái tim Yêu Nước, tổn thương đến tấm lòng vì Sơn Hà Xã Tắc của những người yêu quê hương Việt Nam", ông Vượng bày tỏ quan điểm trong bài viết nhận được gần 7.500 phản ứng yêu, thích, trên 1.200 lời bình luận, và được hơn 2.000 người chia sẻ.
Trong bối cảnh như vậy, khi chủ quyền của đất nước bị đe dọa, "những người yêu nước khi xưa đôi khi họ dửng dưng, thậm chí Nhà nước có cho phép và kêu gọi xuống đường biểu tình thì những nhân sĩ, trí thức, những nhà dân chủ tiên phong cũng sẽ chẳng xuống đường nữa !", nghệ sĩ Vượng Râu nhận định.
Ông viết thêm rằng họ không xuống đường "không phải vì họ sợ" bị bắt bớ, mà đơn giản là "họ đã nản, họ đã chán" sau khi chịu "tổn thương quá nhiều vì yêu nước".
Phần nào chia sẻ quan điểm với nghệ sĩ, đạo diễn Nguyễn Công Vượng, nhà hoạt động nữ Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, tức blogger Mẹ Nấm, nói qua YouTube hôm 28/7 :
"Thủ phạm làm cho lòng yêu nước bị thui chột, bị vùi dập, đó chính là đảng cộng sản. Về sự thờ ơ đó, mình không thể trách người dân được. Bởi vì những người dân thờ ơ ngày hôm nay chính là những người bị đạp vào mặt, bị quăng xuống đường khi đi biểu tình chống Trung Quốc. Và những người dân thờ ơ ngày hôm nay chính là những người bị kết tội phản động, tuyên truyền chống nhà nước. Cho nên mình không thể nào mình trách dân được. Mình chỉ cảm thấy bi ai".
Xem đây như một chuyện gậy ông đập lưng ông, nhà văn kiêm võ sư Đoàn Bảo Châu viết hôm 29/7 trên trang cá nhân có tổng cộng hơn 110.000 người theo dõi rằng việc chính quyền đánh đập, bắt bớ người biểu tình phản đối Trung Quốc là cách hành xử "quái gở", khiến nhiều người "trở nên ghét bỏ chính quyền".
"Giờ thì những sự đàn áp, đánh đập người yêu nước đã có kết quả rồi đấy", ông Châu nêu ý kiến trong bài viết nhận được hơn 2.500 phản ứng yêu, thích. Dưới góc nhìn của ông, hành xử của chính quyền làm người dân cảm thấy lòng yêu nước của họ "bị rẻ rúng", đi kèm theo đó là "sự uất ức trong dân chúng tăng cao", dẫn đến thái độ mặc kệ và chờ xem chính quyền cùng với giới dư luận viên sẽ làm gì.
Nhìn về dài hạn, nhà văn, võ sư Đoàn Bảo Châu cho rằng hành động mà ông nói là "ngu xuẩn" của chính quyền "mang lại một sự phân rã tư tưởng trong con người Việt Nam". Ông bày tỏ lo ngại rằng "nếu có chiến tranh, điều ấy sẽ ảnh hưởng rất lớn đến thắng bại".
Ngay sau khi có tin tàu Trung Quốc hoạt động ở Bãi Tư Chính, gây căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc, hôm 23/7, trên diễn đàn Bàn luận về Kinh tế - Chính trị có gần 192.000 thành viên xuất hiện bài viết ngắn đặt câu hỏi "Biển Đông nếu có chiến tranh mấy anh chị có tự nguyện cầm súng bảo vệ chủ quyền đất nước không ? Giả sử nếu bảo vệ được rồi lại tiếp tục làm trâu ngựa cho lũ búa liềm [ý nói đảng cộng sản] đè đầu cưỡi cổ - vậy chúng ta chọn thế nào ?"
555555555555555
Đa số nói họ "mặc kệ" nếu chiến tranh xảy ra trên Biển Đông (23/7/2019, Bàn luận về Kinh tế -Chính trị)
Theo quan sát của VOA, trong số 255 lời bình luận, đa số ý kiến cho rằng "ngu gì đi làm bia đỡ đạn" hay "thời nông dân cầm súng giữ nước qua rồi. Bây giờ đến thời con ông cháu cha [của các quan chức] đánh giặc nhé". Bên cạnh đó là rất nhiều người khẳng định nếu họ có súng, họ "săn quan tham" trước, hoặc "diệt bọn phản quốc, bán nước, thù trong trước, diệt giặc ngoài sau". Một số ý kiến khác nói "chuyện đó có đảng, nhà nước lo" hay "hãy để cho đảng viên đi trước đã, dân đi theo sau".
Liên quan tới căng thẳng nhiều ngày qua giữa Hà Nội và Bắc Kinh trên vùng biển tranh chấp, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng hôm 25/7 nói rằng "Việt Nam đã có nhiều hình thức giao thiệp ngoại giao phù hợp, trao công hàm phản đối cho phía Trung Quốc, yêu cầu rút ngay khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam".
"Các lực lượng chức năng của Việt Nam triển khai các biện pháp phù hợp, đúng pháp luật", bà Hằng nói thêm.
********************
Dân Việt ‘biểu tình trên mạng’, kêu gọi đưa Trung Quốc ra tòa (VOA, 29/07/2019)
Hàng trăm người dân Việt Nam và các tổ chức xã hội đã tham gia ký vào một tuyên bố kêu gọi chính phủ Hà Nội kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế vì cho rằng "đất nước đang đứng trước hình hình rất nguy hiểm" trong bối cảnh Bắc Kinh tiếp tục các hoạt động "bất hợp pháp" tại Bãi Tư Chính trên Biển Đông.
Hình ảnh tuần duyên Trung Quốc và bản đồ khu vực Bãi Tư Chính trên Biển Đông. (Ảnh chụp màn hình Thanh Niên)
Trung Quốc được cho là đã cử một tàu khảo sát cùng nhiều tàu hải cảnh tới khu vực Bãi Tư Chính từ 3/7 và Bộ Ngoại giao ở Hà Nội hôm 19/7 cáo buộc tàu khảo sát Hải Dương 8 đã "vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam".
Theo cập nhật của chuyên gia hàng hải Ryan Martinson của Trường Hải chiến Mỹ hôm 28/7, tàu Hải Dương 8 vẫn tiếp tục các hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Đây là cuộc đụng độ căng thẳng nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc trên Biển Đông kể từ năm 2014, khi Bắc Kinh đưa tàu Hải Dương 981 vào khu vực mà Hà Nội nói là đặc quyền kinh tế của mình, làm bùng nổ nhiều cuộc biểu tình trong và ngoài nước chống lại hành động của Trung Quốc.
Tuy nhiên, Việt Nam chưa bao giờ kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế như Philippines đã làm để nhận được phán quyết có lợi cách đây 3 năm.
Một trong 4 nội dung kêu gọi của Tuyên bố Biển Đông, hiện đang được lan truyền trên mạng xã hội để lấy chữ ký, là chính phủ Việt Nam "cần khẩn trương chuẩn bị hồ sơ kiện Trung Quốc ra các Tòa án Quốc tế thích hợp" và "cần lên tiếng tố cáo trước Hội đồng Bảo an, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc và các tổ chức quốc tế việc Trung Quốc xâm phạm lãnh hải và [vùng] đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở bãi Tư Chính".
Nhà báo Võ Văn Tạo, nói với VOA từ Nha Trang, cho rằng việc quốc hội Việt Nam không ra được nghị quyết để phản đối Trung Quốc gây bức xúc trong người dân và ông ký vào bản Tuyên bố Biển Đông cũng vì thấy cần phải "đốc thúc chính phủ đưa Trung Quốc ra kiện trước tòa án quốc tế".
"Lý do mà tôi ký vào Tuyên bố Biển Đông chủ yếu là trong đó Tuyên bố đề cập đến vấn đề Việt Nam cần kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế trong việc Trung Quốc đã vi phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam", nhà văn Nguyễn Viện nói với VOA từ Thành phố Hồ Chí Minh, mặc dù ông cho rằng "thật tâm tôi không tin chính phủ Việt Nam đủ dũng cảm kiện Trung Quốc".
Hai chuyên gia Mỹ, Chủ tịch Trung tâm Stockton về Luật hàng hải Quốc tế của Trường Hải chiến Mỹ James Kraska và Giám đốc chương trình Sức mạnh Trung Quốc tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS), bà Bonnie Glaser, tuần trước nói với VOA rằng Việt Nam nên kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế để ngăn chặn hành vi xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam về lâu dài. Ông Kraska cho rằng Việt Nam có rất nhiều khả năng thắng kiện.
Cuối tuần rồi - ngày 26 tháng 7 – bà Hoa Xuân Oánh, Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc, tố cáo : "Từ tháng 5 đến nay, Việt Nam vi phạm quyền chủ quyền của Trung Quốc tại bãi Tư Chính" và theo bà : "Trung Quốc đang liên lạc với Việt Nam để thể hiện quan điểm của mình" (1).
Hình ảnh tuần duyên Trung Quốc và bản đồ khu vực Bãi Tư Chính trên Biển Đông. (Ảnh chụp màn hình Thanh Niên)
Trong tương quan Việt – Trung về chủ quyền tại biển Đông, có lẽ thông tin vừa kể là đáng chú ý nhất trong chuỗi thông tin liên quan đến sự kiện Trung Quốc điều động các tàu có vũ trang, hộ tống tàu Haiyang Dizhi 8 vào thăm dò địa chấn trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam.
Tố cáo của Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc chỉ ra rằng, người Việt nên đòi hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam "tuyên truyền, giáo dục" cặn kẽ hơn…
***
Cho đến giờ này, sự kiện Trung Quốc xâm nhập vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam để thăm dò dầu khí đã được xác định là xảy ra từ đầu tháng 7.
Cũng vì vậy, câu hỏi đầu tiên người Việt nên đòi đảng tổ chức "tuyên truyền, giáo dục" để biết tại sao sau đó, bà Nguyễn Thị Kim Ngân – Chủ tịch Quốc hội - vẫn cùng chín Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đang nắm giữ nhiều chức vụ khác nhau trong Quốc hội (như Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa - Giáo dục - Thanh niên - Thiếu niên và Nhi đồng Quốc hội), chính phủ (Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Văn hóa – Thể thao – Du lịch, Thứ trưởng Ngoại giao), chưa kể hàng loạt viên chức cao cấp khác của Đảng cộng sản Việt Nam (Phó Chủ nhiệm Thường trực Ủy ban Kiểm tra Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Phó Ban Đối ngoại Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Phó Bí thư Thành ủy TP.HCM, Phó Bí thư Tỉnh ủy Tiền Giang), của chính phủ Việt Nam (Thứ trưởng Kế hoạch – Đầu tư, Thứ trưởng Công Thương), của các đoàn thể (Chủ tịch Hội Phụ nữ, Chủ tịch Liên đoàn Luật sư),… sang thăm Trung Quốc ?
Tại sao không hủy chuyến thăm như một cách phản đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền của Việt Nam tại biển Đông ? Tại sao vẫn duy trì phái đoàn với thành phần hùng hậu như vậy để bày tỏ thành tâm, thiện ý với Trung Quốc (2) ?
***
Câu hỏi thứ hai người Việt nên đề nghị đảng tổ chức "tuyên truyền, giáo dục" để biết tại sao trong khi các loại tàu Trung Quốc đang ngang dọc thăm dò dầu khí trong EEZ của Việt Nam mà các cơ quan ngôn luận của Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam như báo Nhân Dân, của chính phủ như báo điện tử chính phủ vẫn khẳng định với "đồng chí, đồng bào" rằng, "quan hệ Việt – Trung là tài sản quý báu cần gìn giữ, kế thừa và phát triển" (?), vẫn nhấn mạnh "quan hệ hai nước sẽ phát triển theo chiều sâu, ủng hộ lẫn nhau trong sự nghiệp đổi mới, cải cách mở cửa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước, vì hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển ở khu vực và trên thế giới", tiếp tục bày tỏ mơ ước "mở rộng, nâng cao chất lượng hợp tác trên các lĩnh vực, duy trì xu thế phát triển tích cực của quan hệ hai nước" (?). Thậm chí qua Thông tấn xã Việt Nam, ông Đặng Minh Khôi, Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc còn khoe đã thiết lập khoảng "60 cơ chế giao lưu, hợp tác" và chuyến thăm Trung Quốc của phái đoàn do bà Ngân dẫn đầu "sẽ giúp củng cố sự tin cậy chính trị, phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt - Trung thiết thực, hiệu quả vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển trong khu vực và trên thế giới" (3) !
***
Câu hỏi thứ ba người Việt nên đề nghị đảng tổ chức "tuyên truyền, giáo dục" để biết tại sao ngày 19 tháng 7, Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam đã công khai lên án Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam biển Đông, đồng thời loan báo đã tiếp xúc với Trung Quốc nhiều lần qua các kênh khác nhau, đã trao công hàm phản đối (4) nhưng Trung Quốc không thèm bận tâm mà ông Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, vẫn tiếp tục dẫn một phái đoàn nữa, lần này thay mặt Đảng cộng sản Việt Nam sang Trung Quốc tham dự "Hội thảo lý luận lần thứ 15 giữa hai đảng cộng sản" ?
Cứ như báo chí Việt Nam tường thuật thì ông Thưởng có "đề nghị Trung Quốc tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Việt Nam trên biển theo luật pháp quốc tế, không để ảnh hưởng tiêu cực đến đà phát triển quan hệ hai nước". Tuy nhiên với thực tế quan hệ Việt – Trung như đã biết, ai tin Trung Quốc sẽ nghe "đề nghị" của ông Thưởng khi mục tiêu chính trong chuyến thăm Trung Quốc của ông Thưởng - mối quan tâm hàng đầu của Đảng cộng sản Việt Nam - vẫn chỉ là ước muốn "thúc đẩy quan hệ hai đảng, hai nước phát triển lành mạnh, ổn định trong thời gian tới" và tìm kiếm "phương hướng triển khai hợp tác, giao lưu giữa bộ phận tuyên giáo, tuyên truyền hai đảng" (5) ?
***
Từ ba câu hỏi chính như đã đề cập, có lẽ người Việt nên đề nghị đảng tổ chức "tuyên truyền, giáo dục" để tìm lời đáp cho câu hỏi thứ tư : Với đảng, chủ quyền quốc gia tại biển Đông quan trọng hơn hay tìm kiếm hậu thuẫn từ Trung Quốc để duy trì quyền lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của đảng tại Việt Nam quan trọng hơn ?
Chẳng riêng người Việt, đảng cũng hiểu rất rõ dã tâm của Trung Quốc. Những bài viết trên Nhân Dân, trên báo điện tử của chính phủ, những nhận định của Đại sứ Đoàn Minh Khôi về sự "quý báu" của quan hệ Việt – Trung mà Thông tấn xã Việt Nam phát tán khi bà Ngân dẫn một phái đoàn hùng hậu, đại diện cho cả đảng, lẫn quốc hội, chính phủ, các đoàn thể chính trị tại Việt Nam, sang thăm Trung quốc sau khi đảng cộng sản Trung Quốc vừa tổ chức xong đại hội thứ 19, hoàn toàn không dành cho Trung Quốc, tất cả những lời được gắn cánh để nâng quan hệ Việt – Trung bay cao là dành cho "đồng đội, đồng chí, đồng bào". Ngay cả "đề nghị" của ông Thưởng – được hệ thống truyền thông chính thức của Việt Nam loan báo rộng rãi – cũng vậy. Mục tiêu của tất cả những lời lẽ tốt đẹp hay được tụng ca là "thẳng thắn" đều nhắm vào người Việt, giữ cho họ không quá sốt ruột rồi vọng động, không có lợi cho nỗ lực duy trì sự "ổn định chính trị" tại Việt Nam của đảng.
Đó cũng là lý do tuy đảng không tụng "16 chữ vàng" và "tinh thần bốn tốt" nữa song "tuyên truyền, giáo dục" về quan hệ Việt – Trung vẫn thế, bất kể Trung Quốc không rút lại yêu sách về chủ quyền tại biển Đông, chưa bao giờ chấm dứt những hành động nhằm khẳng định, vùng biển vốn thuộc về người Việt là… của Trung Quốc !
***
Câu hỏi thứ năm người Việt nên đề nghị đảng tổ chức "tuyên truyền, giáo dục" để biết : Khi hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam tiếp tục bày tỏ thành tâm, thiện ý qua việc cử bà Ngân dẫn đầu một phái đoàn hơn 20 viên chức cao cấp sang thăm Trung Quốc, rồi cử ông Thưởng dẫn thêm một phái đoàn khác bày tỏ quyết tâm "hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa" theo gương Trung Quốc, bất chấp Trung Quốc đang xâm phạm EEZ của Việt Nam nhưng Trung Quốc vẫn không thèm… chứng, vẫn khơi khơi "tố cáo" : "Việt Nam vi phạm quyền chủ quyền của Trung Quốc tại bãi Tư Chính" thì trong mắt đảng, quan hệ Việt – Trung có còn "quý báu" hay không ? Trung Quốc xâm hại chủ quyền quốc gia tới mức nào thì quan hệ Việt – Trung mới hết "quý báu" ?
Tại sao nửa tháng sau khi Trung Quốc xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở phía Nam biển Đông, lúc dư luận đã sôi sùng sục vì người Việt chỉ có thể tìm biết về diễn biến trên hệ thống truyền thông quốc tế, mạng xã hội thì hệ thống truyền thông chính thức mới lên tiếng, Bộ Ngoại giao mới phản đối ? Sự phản đối mạnh mẽ của Bộ Ngoại giao, của hệ thống truyền thông chính thức, kể cả mượn miệng người ngoài để nói về "nhịn nhục và phẩm giá dân tộc" (6) nhằm "đối ngoại" hay "đối nội" ? "Tố cáo" của Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho thấy, giống như trước nay, "đối ngoại" là hoàn toàn vô ích, làm sao hữu ích khi Trung Quốc hiểu tường tận đảng muốn gì ! Còn "đối nội", đa số dân chúng đều tự cho là không cần phải bày tỏ thái độ của họ nữa ! Xả "áp suất", giảm áp lực dư luận theo phương thức đó lợi hay hại ? Sẽ dùng được bao nhiêu lần ?
Trân Văn
Nguồn : VOA, 30/07/2019
Chú thích :
(1) https://www.voatiengviet.com/a/tq-vn-vi-phạm-quyền-chủ-quyền-bãi-tư-chính-từ-tháng-năm/5018482.html
(2) http://baochinhphu.vn/Doi-ngoai/Chu-tich-Quoc-hoi-tham-chinh-thuc-Trung-Quoc/370155.vgp