Lối thoát nào cho vấn đề Biển Đông trong mối quan hệ Việt - Trung
Hoàng Bích Sơn, RFA, 18/01/2020
Báo Sputnik ngày 16/1/2020 có bài viết "Tổng bí thư, Chủ tịch Việt Nam Nguyễn Phú Trọng nói gì với ông Tập Cận Bình qua điện thoại". Bài báo cho biết, "Đồng chí Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, quan hệ truyền thống hữu nghị giữa Việt Nam và Trung Quốc, trải qua 70 năm kể từ khi hai quốc gia thiết lập quan hệ ngoại giao đến nay, dù có lúc thăng, lúc trầm, nhưng trong thực tiễn lịch sử cho thấy, hữu nghị và hợp tác luôn là dòng chảy chính trong quan hệ hai đảng cộng sản, hai nước láng giềng. Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định, quan hệ hữu nghị và đối tác hợp tác chiến lược toàn diện là phù hợp với nguyện vọng thiết tha và lợi ích căn bản của nhân dân hai nước Việt Nam, Trung Quốc".
Hình minh họa. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng bắt tay tại văn phòng Trung ương đảng Cộng sản VN ở Hà Nội hôm 5/11/2015 - AFP
Và cũng thời điểm ngày 16/1/2020, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS-Yusof Ishak) đã công bố kết quả khảo sát "Thông điệp Đông Nam Á 2020" (The State of Southeast Asia 2020) . Trong kết quả khảo sát này thì cho thấy có đến 86% số người Việt Nam được khảo sát chọn Mỹ nếu buộc phải chọn giữa Mỹ và Trung Quốc trong cuộc đối đầu giữa hai cường quốc này. Và đây là tỉ lệ cao nhất trong số 10 nước ASEAN. Xếp thứ nhì là Philippines, một đồng minh của Mỹ, với 83%. Kế đến là Singapore với 61%. 7 nước còn lại đều có tỷ lệ nghiêng về Trung Quốc. (Báo cáo của Viện ISEAS-Yusof Ishak dựa trên kết quả khảo sát 1.308 người đến từ 10 quốc gia ASEAN. Thành phần chủ yếu là các quan chức chính phủ (40%), giới nghiên cứu, học giả (36,2%) và giới doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ và giới truyền thông.)
Mặc dù việc cân bằng quan hệ giữa các nước lớn là cần thiết, hơn thế nữa, Việt Nam đang cần phải tranh thủ được cả Hoa Kỳ và Trung Quốc. Tuy nhiên, việc cân bằng quan hệ này của Việt Nam có một số vấn đề cần tranh luận.
Thứ nhất, trong cuộc nói chuyện của ông Nguyễn Phú Trọng với ông Tập Cận Bình như tờ Sputnik tường thuật, ông Nguyễn Phú Trọng khẳng định rằng: "quan hệ hữu nghị và đối tác hợp tác chiến lược toàn diện là phù hợp với nguyện vọng thiết tha và lợi ích căn bản của nhân dân hai nước Việt Nam, Trung Quốc". Tuy nhiên, khảo sát của Viện nghiên cứu Đông Nam Á lại cho thấy người dân Việt Nam thể hiện ý kiến qua cuộc khảo sát lại cho rằng nên chọn Mỹ thay vì chọn Trung Quốc. Như vậy, quan điểm của người đứng đầu Đảng cộng sản và cũng là người đứng đầu nhà nước thể hiện quan điểm của Đảng cộng sản (đảng cầm quyền ở Việt Nam hiện nay) và quan điểm của Nhà nước Việt Nam khác xa quan điểm của người dân, nhưng Tổng Bí thư, Chủ tịch nước lại nhân danh "nhân dân Việt Nam". Vậy thì phải chăng, quan điểm trên chỉ thuộc về Đảng cầm quyền chứ không thể hiện chính xác nguyện vọng của người dân Việt Nam về vấn đề này?
Hình minh họa. Tàu hải cảnh của Trung Quốc nhìn từ tàu cảnh sát biển Việt Nam ở Biển Đông Reuters
Thứ hai, vấn đề khó khăn nhất trong quan hệ hai Đảng cộng sản, hai nước Việt - Trung chính là vấn đề Tranh chấp biển Đông. Tất cả các nhà nghiên cứu, chuyên gia ở Việt Nam và trên thế giới đều biết, đều nói rằng, tranh chấp biển Đông khó giải quyết chính vì từ phía Trung Quốc. Với tham vọng trở thành một "siêu cường" nhằm thay thế Mỹ, để "cai trị" thế giới. Muốn làm được điều đó, Trung Quốc trước hết phải trở thành một "cường quốc biển". Muốn trở thành "cường quốc biển", Trung Quốc phải độc chiếm bằng được biển Đông, để từ đó vươn ra biển và đại dương, trong chiến lược "chuỗi ngọc trai" của họ. Viện cớ để thực hiện tham vọng ấy, Trung Quốc vẽ ra một thứ "yêu sách" mơ hồ, gọi là "đường lưỡi bò". Cái gọi là "yêu sách" này đã bị thế giới phản đối và đặc biệt bị Toà trọng tài trong vụ Philippines bác bỏ vì nó "trái với UNCLOS 1982 và do đó vô giá trị". Và các chuyên gia này cũng khẳng định là Trung Quốc không dễ gì từ bỏ tham vọng đó, cho dù nó vô lý.
Và để biến nó thành hiện thực, Trung Quốc đã sử dụng đủ mọi biện pháp, từ việc sử dụng sức mạnh cứng như đe dọa quân sự, cho tàu quấy nhiễu trong EEZ của Việt Nam đến việc sử dụng các lợi ích kinh tế trong BRI để "đưa Việt Nam vào tròng" của họ.
Và trong các lần phản ứng lại Trung Quốc về vấn đề biển Đông của Việt Nam, chính mối quan hệ giữa hai Đảng Cộng sản đã "trói tay" chính phía Việt Nam. Ngay khi ông Nguyễn Phú Trọng nắm chức Tổng Bí thư hồi 2011, ông Nguyễn Phú Trọng đã có chuyến viếng thăm Trung Quốc. Trong chuyến thăm đó, hai bên Việt - Trung đã ký kết "Thoả thuận những nguyên tắc cơ bản giải quyết những vấn đề trên biển". Bản Thoả thuận đó do phía Trung Quốc đã soạn thảo sẵn, và phía Việt Nam chỉ có thể đồng ý ký vào mà thôi. Nhóm chuyên gia luật quốc tế Bộ Ngoại giao Việt Nam đi cùng đoàn nhưng không được tham gia góp ý vào bản Thoả thuận vì đây là "chuyện nội bộ giữa hai Đảng". Và kết quả là trong bản Thoả thuận đó, bản tiếng Trung lại có điểm khác bản tiếng Việt. Theo nội dung bản tiếng Trung thì Việt Nam đồng ý tham gia "Gác tranh chấp, cùng khai thác", nhưng đối với bản tiếng Việt thì ghi là Việt Nam đồng ý tham gia "Hợp tác cùng phát triển". Cũng theo Thoả thuận này, Hai nước sẽ thành lập một kênh ngoại giao đặc biệt để "cùng nhau xử lý các bất đồng trên biển", nhưng ngay trong năm 2011, đã xảy ra sự kiện tàu Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 02 ngay trong vùng EEZ của Việt Nam.
Đến năm 2014, với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 được Trung Quốc cho hạ đặt ngay trong vùng EEZ của Việt Nam, phía Việt Nam đã liên lạc với phía Trung Quốc theo kênh này, nhưng chỉ là sự im lặng "ngoài vùng phủ sóng, trong vòng phủ phê" của phía Trung Quốc.
Năm 2017, phía Trung Quốc đã "ngầm đe doạ tấn công" khu vực Trường Sa mà Việt Nam đang kiểm soát, khiến Bộ chính trị Việt Nam đã quyết định rút việc thăm dò tại hai khu vực lô 07-03 và 136-03.
Hình Mình Họa. Giàn khoan JDC Hakuryu-5 ngoài khơi Vũng Tàu hôm 16/5/2018 Reuters
Năm 2019, Trung Quốc dùng nhiều loại tàu để quấy nhiễu các giàn khoan thăm dò Việt Nam ngay trong EEZ của Việt Nam cà hơn trăm ngày.
Như vậy, chúng ta có thể thấy, tham vọng của Trung Quốc trên biển Đông là không đổi, với nhiều chiến thuật phức tạp, tinh vi và khó dự đoán. Và Việt Nam luôn bị Trung Quốc sử dụng một "vòng kim cô" trói tay chính Việt Nam, đó chính là dùng "mối quan hệ hai Đảng" để "bịt miệng" mỗi khi Trung Quốc "đe doạ, quấy nhiễu" Việt Nam trên biển Đông.
Chính vì vậy, năm 2019, hơn một trăm ngày tàu Trung Quốc hoành hành tại EEZ của Việt Nam, lãnh đạo Việt Nam sợ ảnh hưởng tới tình hữu nghị hai đảng nên đã tỏ ra hoà hoãn. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đang ở thăm Trung Quốc khi sự kiện xảy ra vẫn coi như không có chuyện gì. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước thì khẳng định "Kiên quyết, kiên trì giữ vững độc lập, đấu tranh bảo vệ chủ quyền, nhưng phải giữ được môi trường hòa bình để phát triển". Ông Nguyễn Thiện Nhân, Bí thư thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh thì nói "chúng ta không quay lưng được với Trung Quốc".
Trước sự hoà hoãn đến mức "cố gắng bằng mọi cách" như vậy, cho thấy Trung Quốc đang làm chủ cuộc chơi ở biển Đông như thế nào. Và mặc dù các lãnh đạo Việt Nam luôn khẳng định sẽ làm tất cả để bảo vệ chủ quyền nhưng vấn đề người dân cần biết là họ sẽ bảo vệ bằng cách nào? Chứ không thể chỉ bảo vệ bằng lời nói suông và khi Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nằm trong "rọ" của Bắc Kinh.
Hoàng Bích Sơn
Nguồn : RFA, 18/01/2020
*****************
Khảo sát : Việt Nam muốn ASEAN làm đồng minh với Mỹ hơn là Trung Quốc
VOA, 18/01/2020
Một khảo sát mới của Viện nghiên cứu Đông Nam Á ISEAS-Yusof Ishak ở Singapore cho thấy ASEAN bị chia rẽ nếu phải lựa chọn giữa Mỹ và Trung Quốc làm đồng minh.
Việt Nam muốn ASEAN làm đồng minh với Mỹ hơn là Trung Quốc
Việt Nam đứng đầu trong khu vực Đông Nam Á về thái độ "ưa chuộng" dành cho Mỹ so với Trung Quốc, trong khi ASEAN bị chia rẽ về quan điểm nếu phải lựa chọn giữa hai cường quốc này, theo một khảo sát mới nhất của Viện ISEAS-Yusof Ishak.
Khảo sát qua mạng do viện nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore tiến hành cho thấy 86% người Việt Nam nói họ thích Mỹ hơn khi được hỏi : "Nếu ASEAN buộc phải làm đồng minh với một trong hai địch thủ chiến lược, Mỹ và Trung Quốc, bạn sẽ chọn ai ?".
Đứng thứ 2 trong khu vực về sự ưa chuộng dành cho Mỹ là Philippines với 81%. Singapore đứng thứ 3 với 61%.
Sự ủng hộ mạnh mẽ của những người tham gia khảo sát từ Việt Nam, Philippines và Singapore đối với Mỹ dường như có phần xuất phát từ những tranh chấp hàng hải trên biển Đông giữa các quốc gia của họ với Trung Quốc, theo nhận định của Nikkei Asia Review.
Quan hệ giữa Hà Nội và Bắc Kinh tăng cao trong năm 2019 do Trung Quốc điều tàu khảo sát Hải Dương 8 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trong nhiều tháng mà Hà Nội cáo buộc là vi phạm chủ quyền của họ.
Đồ thị do Nikkei Asian Review thực hiện dựa trên dữ liệu khảo sát của Viện nghiên cứu Đông Nam Á ISEAS-Yusof Ishak.
Ngoài 3 quốc gia kể trên, 7 nước còn lại trong số 10 quốc gia ASEAN muốn đồng minh với Trung Quốc hơn là với Mỹ, theo khảo sát của ISEAS có tên "Tình trạng của Đông Nam Á 2020".
Lào đứng đầu trong nhóm này với 74%, trên Brunei với 69%, Myanmar với 62%, Malaysia với 61%, và Campuchia với 58%.
Indonesia và Thái Lan là hai quốc gia tương đối trung lập khi có số lượng 52% người được hỏi cho biết thích Trung Quốc hơn.
Với mức trung bình 54% thích Mỹ và 46% nghiêng về Trung Quốc trong toàn khối ASEAN, khảo sát này cho thấy sự bế tắc trong lựa chọn giữa hai cường quốc đối với khu vực.
Theo nhà nghiên cứu Hoàng Thị Hà của ISEAS nói với Nikkei Asian Review, sự chia rẽ trong khu vực về quan điểm đối với Mỹ và Trung Quốc cho thấy rõ ràng là "ASEAN phải làm mọi thứ để tránh phải lựa chọn giữa Mỹ và Trung Quốc hay thậm chí phải đưa điều này ra bàn thảo".
Đông Nam Á không chỉ đang nổi lên như một khu vực kinh tế năng động mà với vị trí nối liền Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, nó còn là một khu vực quan trọng về mặt chiến lược đối với hai siêu cường kình địch này.
Biển Đông : Trung Quốc tỏ hòa dịu, trấn an Việt Nam và Indonesia (RFI, 17/01/2020)
Ngày 16/01/2020, Trung Quốc liên tục thể hiện cử chỉ hòa hoãn, trấn an Việt Nam và Indonesia liên quan đến các tranh chấp ở Biển Đông và trong khu vực.
Giàn khoan JDC Hakuryu-5 và tàu hộ vệ ở ngoài khơi Vũng Tàu. Trong vòng ba tháng của năm 2019, các tàu Trung Quốc liên tục quấy phá hoạt động giàn khoan này tại bãi Tư Chính. Ảnh tư liệu chụp ngày 29/04/2019. Reuters/Maxim Shemetov/File Photo
Chủ tịch Trung Quốc đã điện đàm với đồng nhiệm Việt Nam ngày 16/01. "Tiếp tục củng cố niềm tin chính trị song phương" là điều được cả hai nhà lãnh đạo nhấn mạnh. Ngoài ra, ông Tập Cận Bình hy vọng Hà Nội và Bắc Kinh "giải quyết các tranh chấp một cách thích hợp về lâu về dài".
Tuy nhiên, giữa hai nước dường như vẫn thiếu tin tưởng lẫn nhau. Báo mạng Hồng Kông South China Morning Post nhắc lại những căng thẳng tại Biển Đông trong thời gian gần đây, đặc biệt việc tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc xâm nhập bất hợp pháp vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam từ tháng 07 đến 09/2019.
Năm 2020 là một năm quan trọng đối với Trung Quốc và Việt Nam, một mặt, đánh dấu 70 năm thiết lập bang giao, mặt khác, Việt Nam giữ vai trò nước chủ tịch luân phiên của ASEAN. Trong hai kỳ họp thượng đỉnh ASEAN được tổ chức ở Việt Nam vào tháng 04-05 và/10-11, Biển Đông có lẽ sẽ là một trong những chủ đề được thảo luận gay gắt.
Trung Quốc thừa nhận xâm phạm vùng biển của Indonesia
Bắc Kinh cũng có thái độ hòa dịu hơn đối với Jakarta, khi thừa nhận tàu cá Trung Quốc xâm phạm vùng biển Natuna của Indonesia vào/12/2019 và hứa "giải quyết tình hình một cách ổn thỏa".
Trả lời báo giới tại Jakarta ngày 16/01 sau cuộc họp với bộ trưởng Điều phối Indonesia, đại sứ Trung Quốc Tiếu Thiên (Xiao Qian) giảm nhẹ tình hình khi cho rằng ngay cả giữa những nước láng giềng tốt của nhau còn xảy ra mâu thuẫn, và điều quan trọng là thảo luận vấn đề đó một cách thân thiện.
Indonesia đã phản ứng mạnh mẽ về việc tàu cá Trung Quốc xâm nhập lãnh hải. Trong lĩnh vực ngoại giao, chính quyền Jakarta gửi công hàm phản đối, khẳng định vùng biển Natuna không nằm trong vùng tranh chấp với Trung Quốc. Về quân sự, nhiều tàu chiến, máy bay chiến đấu được điều tới khu vực, buộc thuyền đánh cá Trung Quốc phải rút lui sau ba tuần hiện diện. Thậm chí, đầu tháng Giêng, tổng thống Joko Widodo đích thân đến thăm Natuna để khẳng định quyết tâm bảo vệ chủ quyền.
Thu Hằng
*******************
Trung Quốc thừa nhận ngư dân Hoa Lục xâm phạm vùng biển Indonesia (RFA, 17/01/2020)
Trung Quốc thừa nhận ngư dân nước này đã đánh bắt cá trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Indonesia quanh quần đảo Natuna, phía nam Biển Đông. Hãng thông tấn Kyodo đưa tin hôm 17/1.
Tổng thống Joko Widodo của Indonesia tới một căn cứ quân sự ở quần đảo Natuna hôm 8/1/2020. AFP
Tuyên bố được Đại sứ Trung Quốc, ông Tiêu Thiên, đưa ra tại buổi họp báo sau cuộc gặp với Bộ trưởng Điều phối Indonesia về các vấn đề Chính trị, Pháp lý và An ninh, Mahfud, ngày 16/1.
Tuy thừa nhận ngư dân Trung Quốc xâm phạm vùng biển xung quanh đảo Natuna của Indonesia nhưng ông Tiêu Thiên lại cho rằng đây không phải là điều nghiêm trọng và ông tin tưởng chính phủ hai bên có thể xử lý và giải quyết vấn đề một cách phù hợp. Ông cho biết thêm rằng chính phủ Trung Quốc đang chịu sức ép từ ngư dân đòi cho phép họ tiếp tục hoạt động trong EEZ của Indonesia. Phía Indonesia coi đây là hành động phi pháp, xâm phạm chủ quyền quốc gia.
Trước sự hiện diện đông đảo của tàu cá Trung Quốc tại khu vực đảo Natuna, ngày 30/12 năm 2019, Jakarta đã triệu Đại sứ Trung Quốc tại Indonesia đến để phản đối.
Phát biểu tại họp báo ở Bắc Kinh hôm 31/12/2019, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng nói Trung Quốc có chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa và vùng nước quanh đó và ngư dân hai nước vẫn có hoạt động đánh bắt cá bình thường tại vùng nước này.
Bộ Ngoại giao chính phủ Jakarta hôm 1/1/2020 tiếp tục lên tiếng phản đối và sau đó điều nhiều tàu chiến, thậm chí cả máy bay chiến đấu tới khu vực, buộc tàu Trung Quốc phải rút lui sau gần 3 tuần có mặt trong vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia.
Quần đảo Natuna của Indonesia nằm về phía nam quần đảo Trường Sa và không nằm trong đường đứt khúc 9 đoạn mà Trung Quốc tự ý vẽ ra trên Biển Đông, đòi chủ quyền phần lớn diện tích vùng biển này.
Tòa Trọng tài Quốc tế ở The Hague hồi năm 2016 đã bác bỏ tính hợp lệ của đường đứt khúc, đồng thời không công nhận quần đảo Trường Sa có vùng đặc quyền kinh tế.
Indonesia đề nghị Nhật Bản đầu tư vào quần đảo Natuna để đối phó với Trung Quốc (RFA, 10/01/2020)
Tổng thống Joko Widodo của Indonesia hôm thứ Sáu 10/1 đề nghị Nhật Bản đầu tư vào nghề cá, năng lượng và du lịch ở quần đảo Natuna của Indonesia.
Hình chụp hôm 10/1/2020 từ Phủ Tổng thống Indonesia : cuộc gặp giữa Ngoại trưởng Nhật Toshimitsu Motegi (trái) và Tổng thống Indonesia Joko Widodo (phải) - AFP
Reuters loan tin cùng ngày trích thông cáo của Văn phòng Ngoại trưởng Nhật Bản Toshimitsu Motegi cho biết Tổng thống Indonesia đã đưa ra lời mời đầu tư các cơ hội kinh tế với phía Nhật Bản như trên.
Lời đề nghị này được đưa ra vào khi có những căng thẳng giữa Jakarta và Bắc Kinh sau khi Trung Quốc điều các tàu hải cảnh vào vùng biển quanh Natuna từ hồi tháng 12 đến nay.
Trong buổi đàm thoại với Tổng thống Joko Widodo, Ngoại trưởng Nhật Toshimitsu Motegi không nhắc tới cụ thể tên Trung Quốc, nhưng nói nước Nhật cảnh giác với tình hình Biển Đông.
Năm ngoái Nhật đã đầu tư 7,26 triệu USD để xây một chợ cá ở Natuna được đặt tên là Tsukiji theo tên một chợ nổi tiếng ở Tokyo.
Hôm 8/1, tổng thống Joko Widodo cũng đã có chuyến thăm đến quần đảo Natuna để khẳng định chủ quyền của Indonesia ở vùng nước này sau vụ việc một số tàu Hải cảnh và tàu cá của Trung Quốc xuất hiện ở đây nhiều lần từ cuối tháng 12/2019.
Trung Quốc không đòi Natuna thuộc về nước này nhưng nói vùng nước gần Natuna là nơi các ngư dân Trung Quốc vẫn đánh bắt cá. Trung Quốc đòi chủ quyền phần lớn diện tích Biển Đông với đường đứt khúc 9 đoạn tự vẽ ra trên Biển Đông, đi qua vùng nước gần Natuna.
Một người phát ngôn của quân đội Indonesia nói những tàu cá của Trung Quốc đã rời khỏi vùng nước sau chuyến tuần tra của ông Joko Widodo.
*******************
Biển Đông : Trung Quốc giăng đội tầu cá quanh đảo Thị Tứ (RFI, 09/01/2020)
Trong khi Jakarta phải triển khai thêm tầu chiến và bính lính đến vùng biển Natuna, gần Biển Đông, để sẵn sàng đáp trả việc tầu cá Trung Quốc, được tầu hải cảnh hộ tống, thâm nhập vùng đặc quyền kinh tế Indonesia, Philippines cũng phải đối đầu với lực lượng tầu cá hùng hậu của Trung Quốc gần đảo Thị Tứ, ở quần đảo Trường Sa.
Ảnh minh họa : Đội tàu cá của Trung Quốc tại tỉnh Giang Tô chuẩn bị ra khơi hồi tháng 8/2017. STR / AFP
Ngày 08/01/2020, phó đô đốc Rene Medina, người đứng đầu Bộ Chỉ huy miền Tây Philippines, cho biết có đến 38 tầu Trung Quốc neo đậu suốt đêm 07/01 tại ba dải cát, nằm giữa đảo Thị Tứ (Philippines gọi là đảo Pag-asa), hiện do Philippines kiểm soát và đá Subi, bị Trung Quốc quân sự hóa.
Trả lời trang Inquirer, phó đô đốc Medina cho biết vẫn tiếp tục theo dõi các tầu nước ngoài hoạt động trong vùng thuộc quyền tài phán của Philippines và sẽ phản ánh đến các cơ quan ngoại giao liên quan.
Tầu thuyền Trung Quốc hoạt động gần đảo Thị Tứ thường xuyên hơn kể từ năm 2018 sau khi Philippines xây một dải đất và một cảng biển ở trên đảo. Năm 2019, chính quyền Manila đã nhiều lần gửi công hàm ngoại giao phản đối sự hiện diện của tầu cá, được cho là đội dân quân biển của Trung Quốc. Đội tầu này lầm lũi chiếm ưu thế ở Biển Đông mà không gây đáp trả quân sự, theo một bản báo cáo của Nghị Viện Philippines năm 2019.
Trung Quốc đóng tầu tuần tra lớn nhất
Cũng nhằm mục đích uy hiếp các nước bé trong khu vực, Trung Quốc khởi công đóng tầu tuần tra dân sự lớn nhất, dài 165 mét, rộng 20,6 mét. Theo trang South China Morning Post ngày 08/01, con tầu trị giá 97 triệu đô la là đơn đặt hàng của Cục An Toàn Hàng Hải Quảng Đông, theo dự kiến được hạ thủy vào tháng 09/2021.
Có trọng lượng 10.700 tấn, con tầu mới sẽ nặng gấp đôi tầu lớn nhất hiện nay của Trung Quốc là Hải Tuần 01 (Haixun 01, 5.418 tấn) và có thể chứa được nhiều loại máy bay trực thăng. Truyền thông Nhà nước Trung Quốc cho biết nhiệm vụ của tầu tuần tra mới sẽ rất đa năng, từ các hoạt động khẩn cấp, thực thi pháp luật đến các nhiệm vụ tìm kiếm và cứu hộ, thậm chí là xử lý ô nhiễm.
Thu Hằng
*******************
Hà Nội ‘xác minh’ tin tàu Trung Quốc ‘kéo về hướng Việt Nam’ (VOA, 09/01/2020)
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng hôm 9/1 lên tiếng sau khi xuất hiện tin "tàu 35111 của Trung Quốc đang kéo về hướng Việt Nam" tiếp sau vụ "đụng chạm với Indonesia".
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng hôm 9/1 lên tiếng xác nhận thông tin tàu hải cảnh 35111 của Trung Quốc đang tiến gần về khu vực Bãi Tư Chính của Việt Nam - AP
"Chúng tôi sẽ xác minh thông tin như bạn hỏi", bà Hằng trả lời câu hỏi của phóng viên trong nước trong cuộc họp báo thường kỳ. "Xin khẳng định các lực lượng chức năng Việt Nam luôn giám sát chặt chẽ mọi hoạt động trên vùng biển Việt Nam được xác định bởi Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982. Mọi hoạt động trên vùng biển của Việt Nam cần tuân thủ các quy định có liên quan của Việt Nam và các quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982".
Cùng ngày, Reuters dẫn lời quân đội Indonesia nói rằng các tàu tuần duyên cũng như đánh cá của Trung Quốc đã rời vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia quanh quần đảo Natuna giáp Biển Đông sau khi Tổng thống Joko Widodo tới đó để khẳng định chủ quyền lãnh hải.
Khi được một phóng viên hỏi về quan điểm của Việt Nam về "tình hình Natuna" với việc "Indonesia đưa tàu và máy bay ra khi tàu Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền của Indonesia", bà Hằng nói rằng "mọi hoạt động trên biển cần tuân thủ các quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển đối với các vùng biển được xác lập phù hợp với Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, không làm phức tạp tình hình, có đóng góp thiết thực, phù hợp, tích cực, thúc đẩy việc duy trì hòa bình, ổn định và tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác tại khu vực".
Cũng liên quan tới vấn đề Biển Đông, khi được hỏi về phản ứng về việc "Malaysia đã đệ trình lên Liên Hợp Quốc về bản đồ giới hạn thềm lục địa của nước này ở Biển Đông", phát ngôn viên Lê Thị Thu Hằng nói rằng "Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và chứng cứ lịch sử để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa".
"Là quốc gia thành viên của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS), Việt Nam được hưởng đầy đủ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia đối với các vùng biển của mình được xác lập phù hợp với công ước luật biển. Đồng thời, Việt Nam cũng bảo lưu quyền chủ quyền đối với thềm lục địa mở rộng bên ngoài 200 hải lý khu vực giữa Biển Đông như đã nêu tại Công hàm gửi Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa năm 2009", bà Hằng nói.
****************
Bộ Ngoại giao lên tiếng về vụ tàu hải cảnh Trung Quốc quay lại vùng biển Việt Nam (RFA, 09/01/2020)
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng hôm 9/1 lên tiếng xác nhận thông tin tàu hải cảnh 35111 của Trung Quốc đã vào Biển Đông và hiện Việt Nam đang theo dõi sát tình hình.
Indonesia điều 8 tàu chiến cùng 4 máy bay chiến đấu ra khu vực có tàu Trung Quốc đi vào vùng biển quanh quần đảo Natuna.
Trước đó vài ngày, trên mạng xã hội đã loan truyền thông tin tàu hải cảnh Trung Quốc Haijing 35111 đang tiến gần về khu vực Bãi Tư Chính của Việt Nam.
Hôm 8/1, chuyên gia hàng hải Ryan Martinson đã đăng trên Twitter hình ảnh đường đi của tàu hải cảnh Trung Quốc gần Bãi Tư Chính.
Bà Lê Thị Thu Hằng nói với báo giới tại cuộc họp báo ở Hà Nội rằng : "Các lực lượng chức năng của Việt Nam bám sát Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) 1982. Mọi hoạt động trên vùng biển của Việt Nam cần tuân thủ quy định của Việt Nam và UNCLOS 1982".
Trước đó tàu hải cảnh 35111 cũng đã vào vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia gần quần đảo Natuna, phía tây nam quần đảo Trường Sa. Vụ việc đã khiến Indonesia phản đối và điều thêm tàu chiến, máy bay cùng dân quân biển ra đối phó.
Tàu 35111 cũng đã vào vùng biển của Việt Nam gần Bãi Tư Chính hồi năm ngoái để quấy nhiễu hoạt động thăm dò dầu khí của Việt Nam.
Việt Nam lần đầu công khai tên lửa đạn đạo ‘mạnh nhất khu vực’ (VOA, 06/01/2020)
Việt Nam lần đầu tiên ra mắt công chúng hệ thống tên lửa đạn đạo Scud được coi là duy nhất và mạnh nhất ở Đông Nam Á, theo truyền thông trong nước.
Hệ thống tên lửa đạn đạo Scud của Việt Nam lần đầu tiên ra mắt công chúng tại lễ kỷ niệm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam hôm 23/12/2019. (Ảnh chụp màn hình An ninh Thủ đô)
Hệ thống tên lửa đạn đạo chiến thuật Scud của Việt Nam được ra mắt tại lễ kỷ niệm 75 năm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam và 30 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân vừa qua ở Hà Nội.
Bản tin ra hôm 6/1 của VietNamNet cho biết mặc dù đã có trong biên chế từ lâu song đây là lần đầu tiên hệ thống tên lửa đạn đạo Scud được công khai ra mắt ở Việt Nam hôm 23/12.
Các loại tên lửa đạn đạo chiến thuật Scud ban đầu được Liên bang Xô Viết phát triển trong thời gian chiến tranh lạnh, theo The National Interest. Sau 6 thập kỷ, các phiên bản của Scud đã được nhân lên trên toàn cầu, hiện diện trong các loại tên lửa đạn đạo từ Triều Tiên cho tới Iran.
Theo số liệu của Viện nghiên cứu Hòa bình và Quốc tế Stockhom (SIPRI) được VietNamNet trích dẫn, Việt Nam nhận được một số bệ phóng di động cùng hàng chục quả đạn Scud-B vào năm 1981. Scud được Liên Xô xuất khẩu cho rất nhiều quốc gia đồng minh trên khắp thế giới – trong đó có Việt Nam, theo Báo Mới.
Loại tên lửa này chính gốc có tên R-11 (với phiên bản đầu tiên) và R-17 (sau này đổi thành R-300) Elbrus (phiên bản sau). Tuy nhiên cả thế giới vẫn quen gọi với cái tên Scud do NATO đặt cho loại tên lửa này.
Cũng theo SIPRI, vào năm 1998 Việt Nam đã mua từ Triều Tiên hàng chục quả tên lửa đạn đạo tầm ngắn Hwasong-6 (Hỏa Tinh 6), một phiên bản sao chép dựa trên nguyên mẫu Scud-C, với tầm bắn lên tới 600km.
Số tên lửa Scud phiên bản B và C được coi là một trong những vũ khí uy lực của lực lượng pháo binh Việt Nam hiện nay. Theo An Ninh Thủ Đô, đến thời điểm này, Việt Nam là quân đội đầu tiên và cũng là duy nhất tại khu vực Đông Nam Á có tên lửa đạn đạo chiến thuật Scud trong biên chế.
Hệ thống tên lửa SPYDER của Việt Nam mua từ Israel mà truyền thông trong nước gọi là "sát thủ". (Ảnh chụp màn hình An Ninh Thủ Đô)
Cũng vào tháng 12 vừa qua, Việt Nam lần đầu tiên công khai hệ thống tên lửa phòng không SPYDER, mà báo chí trong nước gọi là ‘sát thủ’, mua từ Israel. Trong vài năm gần đây, truyền thông trong nước và quốc tế đã đưa tin về việc Việt Nam sở hữu tên lửa phòng không SPYDER hiện đại từ Israel nhưng không có bất cứ hình ảnh chính thống nào về các tổ hợp này được công khai.
Việt Nam trong một thập kỷ qua đã tăng mạnh chi tiêu quốc phòng nhằm hiện đại hóa quân đội trong bối cảnh Trung Quốc không ngừng mở rộng sức mạnh trong khu vực. Dữ liệu của SIPRI cho thấy chi tiêu quốc phòng của Việt Nam tăng từ 1,3 tỷ vào năm 2006 lên 5,5 tỷ vào năm 2018, với mức tăng hơn 320%.
Vào tháng 3 năm ngoái, viện nghiên cứu SIPRI cũng đưa ra một phúc trình về các giao dịch vũ khí quốc tế, trong đó nói Việt Nam nằm trong top 10 nước mua nhiều thiết bị quan sự nhất thế giới.
Trong những năm gần đây, khoảng hơn 80% đơn hàng quân sự của Việt Nam đặt mua của Nga, theo CNN. Việt Nam sử dụng các khoản chi để hiện đại hóa khả năng – đặc biệt là các đội tầu ngầm và chiến hạm.
Kể từ khi Tổng thống Barack Obama dỡ bỏ lệnh cấm vận bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, Hà Nội đã có các hợp đồng mua các thiết bị quân sự với Mỹ trị giá tới 94,7 triệu USD, theo một nguồn tin của Bộ Ngoại giao Mỹ.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng năm 2018 nói rằng "chính sách quốc phòng của Việt Nam là để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc, hòa bình của đất nước và đóng góp vào hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới".
******************
Indonesia gia tăng tuần tra biển sau vụ tàu Trung Quốc xâm nhập vùng nước gần Natuna (RFA, 05/01/2020)
Indonesia đã gia tăng tuần tra vùng biển quanh quần đảo Natuna nơi tàu hải cảnh của Trung Quốc đã xâm nhập thời gian qua. Hãng tin Reuters trích lời giới chức Indonesia cho biết như vậy hôm 5/1.
Hình minh họa. Hình do Lực lượng Vũ trang Indonesia cung cấp hôm 3/1/2020 cho thấy tư lệnh vùng 1, Phó đô đốc Yudo Margono (hàng trên bên trái) đang duyệt quân ở căn cứ quân sự Natuna trên đảo Riau. AFP
Tàu của Trung Quốc đã vào vùng biển quanh Natuna vào khoảng giữa tháng 12 vừa qua khiến Bộ Ngoại giao Indonesia phải chính thức len tiếng phản đối.
Tuy nhiên, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng sau đó lại khẳng định trong một họp báo ở Bắc Kinh rằng Trung Quốc có chủ quyền đối với toàn bộ vùng nước quanh quần đảo Trường Sa, phía bắc Natuna, và tàu cá của Trung Quốc vẫn hoạt động bình thường trong vùng nước này. Phía Indonesia sau đó đã gọi đòi hỏi chủ quyền này là không có căn cứ pháp lý.
Nursyawal Embut, Giám đốc các hoạt động biển của Cơ quan An ninh biển Indonesia được Reuters trích lời cho biết cơ quan này đã điều nhiều tàu hơn đến Natuna.
"Chúng tôi đang tăng cường tuần tra ở vùng biển để chuẩn bị ứng phó với những vi phạm và đánh cá lậu tại phía bắc Natuna. Chúng tôi đang cố gắng ngăn chặn những tàu nước ngoài vi phạm chủ quyền của chúng tôi", ông Embut nói với Reuters.
Ngoại trưởng Indonesia Retno Marsudi cũng nói với các phóng viên rằng Indonesia đã đồng ý tăng cường tuần tra ở vùng nước quanh Natuna đồng thời nhắc lại những cáo buộc của Jarkata với Bắc Kinh.
******************
Malaysia khẳng định đăng ký vùng thềm lục địa mở rộng ở Biển Đông (RFA, 05/01/2020)
Bộ trưởng Ngoại giao Malaysia Saifuddin Abdullah hôm 3/1 nói với báo giới rằng nước này tiếp tục khẳng định lập trường trong việc đăng ký vùng thềm lục địa mở rộng ở khu vực Biển Đông, bất chấp những phản đối của Bắc Kinh.
Hình minh họa. Ngoại trưởng Malaysia Saifuddin Abdullah phát biểu trước các phóng viên sau cuộc gặp Bộ trưởng Ngoại giao Trung quốc Vương Nghị ở Bắc Kinh hôm 12/9/2019 - AP
Hôm 12/12/2019, chính phủ Malaysia đã đệ trình lên Liên Hiệp quốc đăng ký vùng thềm lục địa mở rộng ra ngoài vùng 200 hải lý ở phía bắc Biển Đông.
Phái đoàn thường trực của Trung Quốc ở UN sau đó đã gửi thư tới Tổng thư ký UN Antonio Guterres, phản đối đăng ký của Malaysia, cho rằng đăng ký của Malaysia đã "vi phạm nghiêm trọng chủ quyền và quyền tài phán của Trung quốc ở Biển Đông".
Ông Saifuddin nói với các phóng viên rằng Malaysia đã biết là Bắc Kinh sẽ phản đối nhưng mục tiêu của Malaysia là duy trì đòi hỏi của nước này,
"Thứ nhất, sẽ luôn có tranh chấp cũng giống như các vùng khác ở Biển Đông. Thứ hai, cuối cùng, điều hiếm khi xảy ra, là bạn mang ra toà", ông Saifuddin nói.
Hồi năm 2009, Malaysia và Việt Nam cũng đã cùng đệ đơn lên UN về vùng thềm lục địa ở Biển Đông. Động thái này cũng vấp phải sự phản đối của Trung Quốc.
‘Có vẻ như’ mọi chuyện đã hoàn tất trên Biển Đông ? !
Khi Manila nhún nhường phán quyết 2016 để đổi lấy lợi ích kinh tế dưới thời Tổng thống Duteter, Việt Nam ‘kiên quyết, khôn khéo’ nhưng mãi đến tháng 10/2019, trong hội nghị Trung ương lần thứ 11 (khóa XII) tình hình Biển Đông mới được ‘Tổng bí thư, Chủ tịch nước đề nghị Trung ương phân tích, dự báo có căn cứ, cơ sở khoa học’.
Ảnh vệ tinh Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) trong chuỗi đảo Trường Sa ở Biển Đông. Maxar via AP
Malaysia, Indonesia... và nhiều nước khác bắt đầu phản ứng mạnh bạo hơn với vấn đề Biển Đông. Trong đó, Jakarta ngày 1/1/2020 đã lên tiếng bác bỏ các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với một phần tranh chấp ở Biển Đông vì các tuyên bố này ‘không có cơ sở pháp lý.’
Các quốc gia bắt đầu đẩy mạnh ‘tự do hàng hải’ gắn liền với ‘chủ quyền quốc gia’ nhằm chống lại yêu sách đường lưỡi bò của Bắc Kinh.
Nhưng tất cả có vẻ quá muộn. Bắc Kinh với sự kiểm soát chuỗi đảo chiến lược và quân sụ hóa các chuỗi đảo này đã gần như hoàn tất về mặt chính sách và chiến lược đưa Biển Đông trở thành ao nhà. Chiến lược này gắn liền với chủ nghĩa quốc gia của Trung Quốc và thể hiện sự quyết đoán chính trị ngày càng tăng của Tập Cận Bình. Với thành quả này, Tập Cận Bình dù đối diện với các thách thức liên quan đến vấn đề Hồng Kông, Tân Cương hay thậm chí cuộc chiến thương mại với Mỹ, nhưng vẫn nghiễm nhiên là nhà ‘lãnh đạo của nhân dân’.
Và khi Bộ Chính trị Trung Quốc tiếp tục tín nhiệm Tập Cận Bình, thì khó khăn đối với Hà Nội trong tương lai không chỉ dừng ở mỗi sự kiện ‘3 tháng bị quấy rối’ tại Bãi Tư Chính. Và lần nữa, vấn đề liên minh với Washington cần được đặt ra trong phân tích, dự báo tình hình và sự tiếp cận của Việt Nam trong gìn giữu chủ quyền tại Biển Đông, ngay trong Trung ương đảng khóa XIII.
Jamie Seidel, một cây bút từ New Zealand đã nhận định được tình hình thực tế tại Biển Đông. Kế hoạch Biển Đông đầy mạo hiểm của Trung Quốc gần như hoàn tất.
Mọi phản ứng giờ đây đã quá muộn, theo cây viết này.
Việt Nam trên tuyến đầu
Asean, khối các quốc gia Đông Nam Á với truyền thống rụt rè giờ đây phải tự đánh giá lại mình trước các động thái quân sự tích cực của Bắc Kinh, news.com đưa tin.
Chi tiêu quốc phòng gia tăng, hiện đại hóa lưch lượng vũ trang được đẩy mạnh hơn gấp đôi trong 15 năm qua. Nhưng các quốc gia đơn lẻ sẽ khó chống lại một Bắc Kinh hùng mạnh, và vào tháng 9/2019, tám tàu chiến – bốn máy bay đã hiện diện trong cuộc tập trận chung với Mỹ.
Tàu sân bay Sơn Đông đang cập cảng cảng hải quân ở Tam Á, phía nam tỉnh Hải Nam của Trung Quốc. Ảnh / AP
Việt Nam, quốc gia đang bất chấp sự chênh lệch quá lớn giữa nền kinh tế và lực lượng vũ trang của hai quốc gia, đã không lùi bước.
Trong bốn tháng, lực lượng bảo vệ bờ biển nhỏ bé của Việt Nam đã trực tiếp chống lại các tàu lớn hơn nhiều của Trung Quốc trên các mỏ dầu và khí đốt của Bãi Tư chính (thuộc chủ quyền Việt Nam). Bằng cách thuê một công ty Nga để triển khai giàn thăm dò và đe dọa sẽ đưa tranh chấp ra cùng tòa án trọng tài quốc tế. Hà Nội khiến Bắc Kinh phẫn nộ, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố Hà Nội ‘cần tránh các hành động có thể làm phức tạp vấn đề hoặc phá hoại hòa bình và ổn định ở Biển Đông cũng như quan hệ song phương của hai nước.’
Chủ tịch nước, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tuyên bố : Việt Nam sẽ không bao giờ nhân nhượng các vấn đề về chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ’.
Đó là một lập trường mà Washington muốn khuyến khích.
‘Chúng tôi sẽ không chấp nhận các nỗ lực để khẳng định các yêu sách hàng hải bất hợp pháp’, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mark Esper tuyên bố trong chuyến thăm Hà Nội vào tháng 11.
‘Mỹ kiên quyết phản đối sự đe dọa của bất kỳ bên yêu sách nào để khẳng định các yêu sách lãnh thổ hoặc hàng hải của mình và chúng tôi kêu gọi chấm dứt các hành động bắt nạt, các hoạt động bất hợp pháp.’
Sau đó, Mark Esper tuyên bố cung cấp các tàu hải cảnh Mỹ cho Việt Nam.
Nhà phân tích quốc phòng cấp cao Derek Grossman của nhóm chuyên gia cố vấn chiến lược Rand cho biết sự hợp tác này chỉ là bước đầu tiên.
‘Hà Nội cũng có thể tiếp tục phát triển và tăng cường mạng lưới quan hệ quốc phòng với các nước Asean, Úc, Nhật Bản và Ấn Độ’, ông Grossman nói.
‘Làm cho các quốc gia đó lên tiếng trong cuộc khủng hoảng tiếp theo – sẽ là một thách thức nhưng không phải là không thể.’
Cuộc chiến kiểm soát
‘Bắc Kinh hiện đang củng cố và bình thường hóa việc kiểm soát Biển Đông năm 2015 sau 20 năm chiến tranh’, cựu nhà phân tích tình báo của ADF, Tiến sĩ Mark Baily cảnh báo trong một bài báo cáo do Viện Hải quân Úc công bố.
‘Giai đoạn bình thường hóa của họ sẽ bao gồm việc dân sự hóa các đảo căn cứ quân sự nhân tạo, thiết lập tuyến ‘du lịch yêu nước’ và tiếp tục củng cố luận điểm các đảo căn cứ quân sự nhân tạo mà Bắc Kinh cưỡng chiếm là lãnh hải quốc gia và vùng đặc quyền kinh tế,’ ông đã viết.
Sự tồn tại này đại diện cho cả một chiến thắng chiến lược và ý thức hệ cho Bắc Kinh.
Các pháo đài trên đảo mở rộng phạm vi của máy bay chiến đấu, tàu và tên lửa. Và nhóm đảo cũng đóng vai trò là nền tảng giám sát đối với bất kỳ hoạt động nào đi qua Biển Đông.
Giáo sư James Goldrick của UNSW Canberra cho biết : ‘Các cơ sở của Trung Quốc có lẽ đã đạt đến một mức độ mà không có lực lượng bên ngoài nào xâm nhập vào Biển Đông, và có thể hoàn toàn tin tưởng rằng nó không bị theo dõi’.
Các pháo đài trên đảo trở thành ‘tường thành lớn’ của Bắc Kinh, giúp nước này cố thủ mục tiêu của mình ở ‘vùng biển và đại lục.’
Các hòn đảo này có phải là hàng không mẫu hạm hay mục tiêu bất động hay không ? Ông Goldrick nói. ‘Chúng là một tuyên bố rất công khai về sức mạnh của Trung Quốc theo chủ nghĩa dân tộc’.
Câu hỏi tiếp theo ?
Tiến sĩ Baily nhấn mạnh đây là lần thứ hai Biển Đông nằm dưới sự kiểm soát chiến lược của một cường quốc khu vực.
Lần đầu tiên là giữa Nhật Bản và Anh trong những năm 1930. Yếu tố leo thang xây dựng căn cứ và tư thế quân sự. Và đỉnh điểm là sự thất bại của người Anh tại Singapore và sự phá hủy hạm đội Mỹ tại Trân Châu Cảng.
‘Việc mất quyền kiểm soát chiến lược Biển Đông đã gây bất ổn cho khu vực và cho thấy Bắc Kinh có ý định bá quyền khu vực. Điều này phản ánh tình hình chiến lược của những năm 1930, tạo ra một cuộc chiến tranh khu vực lớn vào năm 1937 và mở rộng sang chiến tranh chung vào năm 1941. Mức độ rủi ro chiến lược này là không có tiền lệ từ cuối những năm 1950.
Mục tiêu của các hành động ở Biển Đông của Bắc Kinh rất rõ ràng, ông lập luận : ‘Một tuyến đường thương mại đang được đồn trú thông qua việc xây dựng pháo đài.’
Do đó, Tiến sĩ Baily nói, các quốc gia trong khu vực phải hợp tác với nhau để ngăn chặn tham vọng bành trướng tiếp theo của Trung Quốc.
‘Mối nguy hiểm đã được nhận thức muộn màng sau 15 năm, các sáng kiến như kế hoạch hàng hải có thể giúp ngăn chặn sự mất kiểm soát chiến lược.’
Và khi Biển Đông hoàn tất, Bắc Kinh dự kiến sẽ đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động của mình ở Nam bán cầu. Đặc biệt, ‘vành đai’ giữa Vịnh Ba Tư và Trung Quốc, nơi có 43% nguồn cung cấp dầu của nó.
‘Điều này giúp giải thích sự xâm lược lãnh thổ của Bắc Kinh ở vùng Biển Đông và nỗ lực thống trị Ấn Độ Dương như một phần của Sáng kiến Vành đai và Con đường của nước này’, Tiến sĩ Baily cảnh báo. ‘Đảng Cộng sản Trung Quốc đang hành động theo các yêu cầu chủ quyền quốc gia mà bỏ qua ‘trật tự quốc tế dựa trên quy tắc.’
Jamie Seidel
Biển Đông 2019 : Một năm dậy sóng
VOA tiếng Việt, 01/01/2020
Căng thẳng ở Bãi Tư Chính
Từ ngày 3/7, tàu thăm dò Hải Dương Địa chất 8 của Trung Quốc dưới sự hộ tống của các tàu hải cảnh đã đi vào phạm vi 12 hải lý của Bãi Tư Chính thuộc quần đảo Trường Sa để quấy nhiễu hoạt động khoan dầu khí của Việt Nam hợp tác tập đoàn Rosneft của Nga. Mặc dù Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với vùng biển này trong phạm vi đường chín đoạn, khu vực này lại nằm hoàn toàn trong thềm lục địa của Việt Nam theo luật pháp quốc tế.
Biển Đông là nơi nhiều nước có tranh chấp chủ quyền
Mục đích của hành động này của Bắc Kinh, theo các chuyên gia, là không để cho các nước bên ngoài tham gia khai thác năng lượng trên Biển Đông – điều mà họ khăng khăng đòi hỏi trong quá trình đàm phán Bộ Quy tắc Ứng xử (COC).
Trong khoảng thời gian gần 4 tháng, tàu Hải Dương đã vài lần rời đi để hướng về Bãi Chữ Thập, nơi Trung Quốc đã bồi đắp thành đảo nhân tạo, trước khi trở lại quấy nhiễu – mỗi lần rời đi khoảng một tuần lễ. Việc này đã cho thấy sự lợi hại của các hòn đảo nhân tạo mà Trung Quốc bồi đắp vốn giờ đây giúp họ có thể duy trì sự hiện diện liên tục để gây sức ép lên các nước quanh Biển Đông.
Chính quyền Việt Nam loan báo đã dùng mọi kênh để tranh đấu với Trung Quốc, từ phản đối ngoại giao, vận động quốc tế cho đến đối đầu trên thực địa, trong khi Mỹ, Anh, Pháp, Đức đều lên án hành động của Trung Quốc mà họ cho là ‘bắt nạt’.
Đến ngày 24/10, sau gần 4 tháng quấy nhiễu, tàu Hải Dương Địa chất 8 đã rời đi vì ‘đã hoàn tất công việc khảo sát khoa học ở vùng biển do Trung Quốc kiểm soát’.
Việt Nam cân nhắc hành động pháp lý chống Trung Quốc
Căng thẳng trên Bãi Tư Chính dâng cao dẫn đến nhiều lời kêu gọi Việt Nam nên có hành động pháp lý đối với Trung Quốc cũng giống như vụ kiện của Philippines vốn được Tòa trọng tài Thường trực (PCA) ra phán quyết hồi năm 2016.
Sau thời gian dài im tiếng về vấn đề này, hồi đầu tháng 11, Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Lê Hoài Trung nói rằng Việt Nam ưu tiên đàm phán nhưng ‘cũng có lựa chọn khác’ đối với tình hình Biển Đông, trong đó có các biện pháp pháp lý.
Các học giả quốc tế đều cho rằng Hà Nội sẽ có khả năng thắng lợi rất cao nếu đi theo con đường pháp lý như Manila là kiện Trung Quốc trong khuôn khổ các điều khoản của Công ước Quốc tế về Luật Biển, tức UNCLOS.
Tuy nhiên, cũng có ý kiến lo ngại kết quả vụ kiện sẽ không làm thay đổi được gì tình hình trên thực tế vì Bắc Kinh sẽ từ chối tuân thủ phán quyết trong khi việc kiện tụng lại làm phức tạp thêm quan hệ Việt Nam-Trung Quốc và Hà Nội sẽ phải trả giá về chính trị và kinh tế.
Phản ứng trước việc này, Bắc Kinh đã kêu gọi Hà Nội ‘không nên có những hành động làm phức tạp thêm vấn đề’.
Hồi năm 2014, Thủ tướng Việt Nam khi đó là ông Nguyễn Tấn Dũng từng tuyên bố Việt Nam cân nhắc kiện Trung Quốc sau khi nước này hạ đặt một giàn khoan khổng lồ vào thềm lục địa của Việt Nam.
Philippines được Mỹ đảm bảo
Manila đã được Washington nói rõ rằng trong trường hợp họ bị Trung Quốc tấn công trên Biển Đông thì Mỹ sẽ đứng ra bảo vệ họ theo đúng tinh thần của Hiệp ước Phòng vệ Tương hỗ giữa hai nước được ký vào năm 1951.
Trước đó, phía Mỹ chưa bao giờ nói rõ điều này với Philippines khiến cho nước này lo ngại về mức độ cam kết của Mỹ đối với đồng minh có hiệp ước.
Phát biểu ở Hà Nội hồi tháng Ba, Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo nói rằng ‘bất kỳ cuộc tấn công nào vào lực lượng, máy bay hay tàu bè của Philippines trên Biển Đông sẽ kích hoạt các nghĩa vụ phòng vệ tương hỗ’.
Ông cũng cho rằng các hoạt động quân sự và việc xây dựng đảo của Trung Quốc trên Biển Đông ‘đe dọa chủ quyền, an ninh và sinh kế của Philippines cũng như của Mỹ’.
Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Delfin Lorenzana đã tìm cách xem xét lại hiệp ước này để có được sự đảm bảo lớn hơn từ phía Mỹ trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng hành xử hung hăng đối với các lợi ích của Philippines trên Biển Đông, nhất là xung quanh các hòn đảo nhân tạo xung quanh quần đảo Trường Sa mà nước này tuyên bố có chủ quyền.
Tuy nhiên, Tổng thống Rodrigo Duterte không tin vào quan hệ đồng minh với Mỹ và cho rằng hiệp ước với Mỹ khiến nước ông trở thành mục tiêu tiềm tàng của Trung Quốc, quốc gia mà ông muốn phát triển quan hệ kinh tế.
Malaysia có lập trường mạnh mẽ hơn
Malaysia, nước cũng có tranh chấp trên Biển Đông nhưng trước giờ vẫn tỏ ra nhẫn nhịn trước Trung Quốc chứ không mạnh miệng như Việt Nam hay Philippines, đã có lập trường mạnh mẽ hơn khi Ngoại trưởng Saifuddin Abdullah hồi cuối tháng 12 đã thẳng thừng gọi đường chín đoạn của Trung Quốc ôm trọn gần hết Biển Đông là ‘nực cười’.
"Việc Trung Quốc đòi hỏi quyết sở hữu đối với toàn bộ Biển Đông – tôi nghĩ đó là điều nực cười", ông Saifuddin phát biểu ở Kuala Lumpur hôm 20/12.
Trước đó, nước này đã đệ trình hồ sơ lên Ủy ban về Giới hạn Thềm lục địa của Liên Hiệp Quốc để xác định rõ giới hạn thềm lục địa của họ đi sâu vào phạm vi đường chín đoạn của Trung Quốc. Bắc Kinh đã đáp trả với việc cáo buộc Kuala Lumpur xâm phạm chủ quyền, vi phạm luật pháp quốc tế và kêu gọi Liên Hiệp Quốc đừng xem xét hồ sơ này.
Cách nay một thập kỷ, Malaysia cũng đã liên minh cùng với Việt Nam đệ trình lên Liên Hiệp Quốc hồ sơ xác định ranh giới thềm lục địa. Hành động này đã bị Trung Quốc phản đối mạnh mẽ và họ đã lần đầu tiên công bố với thế giới yêu sách đường chín đoạn.
Khác với cựu thủ tướng Najib Razak vốn ngập trong khoản vay của Trung Quốc, Thủ tướng Mahathir Mohammad ít bị Trung Quốc ràng buộc hơn. Ông đã bật đèn xanh cho các hành động pháp lý đối với Trung Quốc trong vùng biển tranh chấp và thẳng thừng lên án các khoản đầu tư của Trung Quốc vào cơ sở hạ tầng của Malaysia.
Hồi tháng 10, Ngoại trưởng Abdullah cũng từng kêu gọi củng cố năng lực hải quân của đất nước để chuẩn bị cho khả năng xảy ra xung đột trên Biển Đông. Ông nói Malaysia sẽ ra công hàm phản đối nếu cường quốc nào đó xâm phạm vào lãnh thổ của họ.
Trung Quốc muốn hợp tác cùng khai thác với Philippines
Bắc Kinh tìm cách thuyết phục Manila hợp tác cùng khai thác dầu khí với họ trên các vùng biển tranh chấp trên Biển Đông. Họ đưa ra các điều kiện hợp đồng hấp dẫn để lôi kéo Philippines hòng làm nước này bỏ qua hoàn toàn phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực hồi năm 2016 tuyên bố chiến thắng cho Philippines trong vụ kiện của nước này về Biển Đông.
Khi tiếp Tổng thống Duterte hồi tháng 9 ở Bắc Kinh, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nói hai nước có thể ‘có bước tiến lớn hơn’ trong việc hợp tác cùng khai thác dầu khí ở Biển Đông nếu họ có thể ‘giải quyết thỏa đáng tranh chấp chủ quyền’.
Ông Duterte sau đó đã tiết lộ rằng ông Tập đã hứa sẽ cho Philippines hưởng 60% lượng tài nguyên khai thác trong dự án khai thác chung trong khi Bắc Kinh chỉ hưởng 40% với điều kiện là Philippines ‘phải dẹp qua một bên phán quyết của tòa án’.
Tuy nhiên, vùng biển mà hai bên dự định cùng khai thác chung là nằm trong Bãi Cỏ Rong vốn nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế, tức EEZ của Philippines. Điều này đã dẫn đến sự lên án từ nội bộ Philippines.
Trong khi đó, ông Duterte, vốn đang tìm cách lôi kéo hàng tỷ đô la đầu tư của Trung Quốc, được cho là rất háo hức thúc đẩy hợp tác khai thác dầu khí với Trung Quốc
Tàu chiến Mỹ tiếp tục đi vào Biển Đông
Trong năm 2019, các chiến hạm của Mỹ tiếp tục đi vào Biển Đông, có khi tiến gần đến phạm vi 12 hải lý của các thực thể nhân tạo mà Trung Quốc xây dựng trên Biển Đông trong nỗ lực đảm bảo quyền tự do hàng hải cũng như thách thức đòi hỏi chủ quyền thái quá của Trung Quốc.
Hồi tháng 1, chiến hạm USS McCampbell đã thực hiện chuyến tuần tra vì tự do hàng hải (FONOP) ở Biển Đông khi đi vào phạm vi 12 hải lý của quần đảo Hoàng Sa.
Hồi tháng 2, hai khu trục hạm có tên lửa dẫn đường của Mỹ đã đi vào phạm vi 12 hải lý của bãi đá Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa.
Hồi tháng 5, các khu trục hạm có tên lửa dẫn đường Preble và Chung Hoon đã đi vào phạm vi 12 hải lý của bãi Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa.
Cũng trong tháng 5, khu trục hạm Preble cũng đã đi vào 12 hải lý của bãi cạn Scarborough mà Trung Quốc chiếm giữ từ phía Philippines.
Đến tháng 8, tàu hải quân Mỹ Wayne E. Meyer, khu trục hạm thuộc lớp Arleigh Burke có tên lửa dẫn đường đã đi vào 12 hải lý của đảo đá Chữ Thập và Bãi Vành Khăn.
Phía Trung Quốc đã lên án các hành động này của Mỹ là ‘khiêu khích’, xâm phạm ‘chủ quyền’ của Trung Quốc và ‘làm tổn hại hòa bình, an ninh của khu vực’. Bắc Kinh đe dọa ‘sẽ có những biện pháp cần thiết để bảo vệ chủ quyền và an ninh’.
Tàu Trung Quốc đâm tàu Philippines rồi bỏ chạy
Tranh cãi nổi lên giữa Manila và Bắc Kinh sau vụ va chạm hôm 9/6 tại Bãi Cỏ Rong khi tàu cá Trung Quốc đâm chìm tàu cá Philippines rồi bỏ chạy, bỏ mặc 22 ngư dân Philippines trên biển. Hành động này đã bị công chúng Philippines lên án dữ dội.
Đại sứ quán Trung Quốc ở Manila cho rằng tàu cá của họ đã tìm cách cứu vớt các ngư dân Philippines nhưng do họ ‘bất ngờ bị bảy, tám tàu cá Philippines bao vây nên phải bỏ chạy’.
Bắc Kinh đã đề xuất mở cuộc điều tra chung về vụ việc và Tổng thống Duterte đã chấp nhận đề xuất này.
Trước đó, ông Duterte đã bị dư luận lên án vì nói theo lập trường của Trung Quốc thay vì lên tiếng bảo vệ các ngư dân Philippines sau khi ông gọi vụ đâm tàu là ‘sự cố nhỏ trên biển’.
Trong khi đó, thuộc cấp của ông Duterte từ bộ trưởng quốc phòng, bộ trưởng ngoại giao và tư lệnh hải quân đều lên án Trung Quốc. Ngoại trưởng Teodoro Locsin đã phản đối chính thức với Trung Quốc và bác bỏ ý tưởng một cuộc điều tra chung.
Sự cố này đã làm phức tạp thêm nỗ lực của ông Duterte muốn xích lại gần Trung Quốc.
Toàn bộ các ngư dân Philippines gặp nạn đã được các tàu thuyền Việt Nam cứu.
Phim ‘Abominable’ bị chỉ trích vì có cảnh đường chín đoạn
Phim hoạt hình chiếu rạp ‘Abominable’ của hãng Dreamworks của Mỹ đã đối mặt làn sóng phản đối khi được trình chiếu ở các nước đông nam Á do có cảnh cho thấy tấm bản đồ có vẽ đường chín đoạn, cơ sở để Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với 90% diện tích Biển Đông.
Ở Việt Nam, phim này đã bị rút giấy phép và rút ra khỏi hệ thống các rạp chiếu chỉ sau hơn một tuần trình chiếu sau khi hệ thống kiểm duyệt bỏ sót cảnh có đường chín đoạn này, khiến dư luận Việt Nam phản ứng gay gắt.
Trong khi đó, Malaysia vẫn cho trình chiếu phim với điều kiện là cảnh có bản đồ đường chín đoạn phải bị cắt bỏ. Tuy nhiên, nhà phát hành phim này quyết định không tuân theo yêu cầu kiểm duyệt của chính phủ Malaysia và do đó phải rút bỏ phim này khỏi thị trường quốc gia này.
Trong khi đó, Bộ trưởng Ngoại giao Philippines Teodoro Locsin kêu gọi người dân nước này tẩy chay bộ phim này thay vì ban hành lệnh cấm như ở Việt Nam.
‘Abominable’ kể về một cô bé Trung Quốc phát hiện ra một con bò Tây Tạng sống trên mái nhà của cô. Phim là dự án hợp tác giữa hãng phim Pearl có trụ sở ở Thượng Hải và hãng hoạt hình DreamWorks.
Nguồn : VOA, 01/01/2020
******************
Tổ chức Mỹ cảnh báo khả năng đụng độ vũ trang ở Biển Đông năm 2020
Viễn Đông, VOA, 31/12/2019
Một tổ chức nghiên cứu của Hoa Kỳ mới đưa ra nhận định về khả năng xảy ra xung đột vũ trang trong năm 2020 ở nhiều "điểm nóng" trên thế giới, trong đó có Biển Đông.
Dựa trên đánh giá của các chuyên gia chính sách đối ngoại của Mỹ về 30 cuộc xung đột tiềm tàng có thể xảy ra hoặc leo thang trong năm tới, cũng như tác động của chúng đối với các quyền lợi của Hoa Kỳ, Hội đồng Đối ngoại nhận định rằng "một cuộc đối đầu giữa Mỹ và Iran, Triều Tiên, hoặc với Trung Quốc ở Biển Đông vẫn là những điều gây ra mối quan ngại lớn nhất ở nước ngoài".
Tổ chức, nơi Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh từng tới phát biểu về chính sách đối ngoại của Việt Nam, nói rằng Biển Đông là một trong các "ưu tiên hàng đầu đối với Hoa Kỳ" trong năm 2020.
Với nhận định về tác động "cao" và khả năng xảy ra ở mức "vừa phải", Hội đồng Đối ngoại đề cập tới "một cuộc đối đầu vũ trang quanh các khu vực lãnh hải tranh chấp ở Biển Nam Trung Hoa [Biển Đông] giữa Trung Quốc và một hoặc nhiều hơn các nước Đông Nam Á cũng tuyên bố chủ quyền như Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, hay thậm chí với cả Đài Loan.
Tình hình Biển Đông nóng lên những tháng cuối năm 2019 vì vụ "đối đầu" của tàu hải cảnh hai nước láng giềng phương bắc ở Bãi Tư Chính, cũng như việc tàu thăm dò Hải Dương 8 của Trung Quốc đi vào lãnh hải mà Hà Nội nói là Vùng Đặc quyền Kinh tế của mình.
Ông Brahma Chellaney từ Trung tâm Nghiên cứu Chính sách ở New Delhi từng nhận định với VOA tiếng Việt rằng hành động của Bắc Kinh nhằm "bào mòn quyết tâm" của Hà Nội.
Nhà nghiên cứu này nói thêm rằng giống nhưẤn Độ, Việt Nam "không có đồng minh quân sự và buộc phải một mình đối đầu với sự xâm lược của Trung Quốc".
Năm 2019 đánh dấu lần đầu tiên trong vòng một thập kỷ Việt Nam công bố Sách Trắng Quốc phòng, trong đó Trung Quốc nhiều lần được đề cập, nhất là về các vấn đề liên quan tới Biển Đông.
"Sự khác biệt giữa Việt Nam và Trung Quốc trong vấn đề chủ quyền trên Biển Đông cần được xử lý hết sức tỉnh táo, cẩn trọng, không đểảnh hưởng tiêu cực đến đại cục hòa bình, hữu nghị và hợp tác phát triển của hai nước", Sách Trắng Quốc phòng Việt Nam viết.
"Giải quyết tranh chấp trên Biển Đông là một quá trình lâu dài, khó khăn, phức tạp vì liên quan đến nhiều nước, nhiều bên. Hai bên cần tiếp tục đàm phán, hiệp thương tìm kiếm giải pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế".
Viễn Đông
Nguồn : VOA, 31/12/2019
Indonesia bác bỏ tuyên bố chủ quyền Biển Đông của Trung Quốc (VOA, 01/01/2020)
Hôm 01/01, Indonesia bác bỏ các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với một phần tranh chấp ở Biển Đông vì các tuyên bố này "không có cơ sở pháp lý", theo Reuters.
Trước đó, hôm 30/12/2019, Jakarta đã phản đối Bắc Kinh về sự hiện diện của một tàu tuần duyên Trung Quốc đi vào vùng lãnh hải của họ.
Các quan chức hàng đầu của Indonesia đã lên tiếng "phản đối mạnh mẽ" và triệu tập đại sứ Trung Quốc tại Jakarta, nói rằng tàu tuần duyên Trung Quốc đã xâm phạm vào vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia, ngoài khơi bờ biển phía bắc đảo Natuna.
Phát biểu tại Bắc Kinh hôm 31/12/2019, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng cho biết Trung Quốc có chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa và vùng biển của họ, và cả Trung Quốc và Indonesia đều có các hoạt động đánh bắt "bình thường" ở đó.
Hôm 01/01/2020, Bộ Ngoại giao Indonesia đã đáp trả mạnh mẽ và kêu gọi Trung Quốc ra tuyên bố để giải thích "cơ sở pháp lý và biên giới rõ ràng" về các tuyên bố chủ quyền đối với khu vực này, dựa trên Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS).
Bộ Ngoại giao Indonesia cho biết : "Tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với vùng đặc quyền kinh tế [của Indonesia] lấy lý do là ngư dân của họ đã hoạt động từ lâu ... nhưng không có cơ sở pháp lý và chưa bao giờ được UNCLOS 1982 công nhận".
Jakarta cũng nhắc lại tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trong tranh chấp lãnh hải với Philippines đã bị Tòa Trọng tài Thường trực ở The Hague bác bỏ năm 2016.
Bộ Ngoại giao Indonesia cũng nhắc lại lập trường của họ rằng Indonesia là một quốc gia không có tranh chấp ở Biển Đông và nước này không có quyền tài phán chồng chéo với Trung Quốc.
Tuy nhiên, Jakarta đã nhiều lần đụng độ với Trung Quốc về quyền đánh bắt cá quanh Quần đảo Natuna, bắt giữ ngư dân Trung Quốc và mở rộng sự hiện diện quân sự tại khu vực này.
******************
Đến lượt Indonesia bị Bắc Kinh khiêu khích sát Biển Đông (RFI, 31/12/2019)
Trong vấn đề tranh chấp trên biển, Trung Quốc càng lúc càng tỏ thái độ coi thường các nước Đông Nam Á. Sau Việt Nam và Malaysia, trong những tuần lễ cuối năm 2019, Bắc Kinh đã tung tàu hải cảnh xâm nhập vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia sát cạnh Biển Đông, trong một vùng biển mà Trung Quốc cho là thuộc chủ quyền của họ. Jakarta đã phát giác sự hiện diện của tàu Trung Quốc từ giữa tháng, nhưng mãi đến hôm qua, 30/12/2019, mới loan báo quyết định gởi công hàm ngoại giao phản đối Bắc Kinh.
Thứ trưởng Indonesia đặc trách vấn đề hàng hải Arif Havas Oegroseno chỉ trên bản đồ vùng gọi là 'Biển Bắc Natuna', trong cuộc nói chuyện với nhà báo tại Jakarta, ngày 14/07/2017. Ảnh tư liệu. Reuters/Beawiharta
Theo Bộ Ngoại giao Indonesia, chính quyền nước này đã chính thức phản đối Bắc Kinh về sự hiện diện của một chiếc tàu hải cảnh Trung Quốc bên trong lãnh hải của Indonesia sát cạnh Biển Đông.
Theo hãng tin Anh Reuters, Jakarta đã tố cáo việc chiếc tàu Trung Quốc xâm nhập vào vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia ở ngoài khơi bờ biển phía bắc quần đảo Natuna, xem đấy là một hành động "vi phạm chủ quyền".
Tuy nhiên, Bộ Ngoại giao Indonesia không nói rõ vụ việc xảy ra vào thời điểm nào, chỉ cho biết rằng họ đã triệu tập đại sứ Trung Quốc tại Jakarta lên để "phản đối mạnh mẽ" về vụ việc này. Công hàm phản đối cũng đã được gửi đi.
Cho dù vậy, Indonesia xác định rằng hai bên vẫn quyết định duy trì mối quan hệ song phương tốt đẹp.
Nếu chính quyền Jakarta rất tiết kiệm lời nói, thì báo chí Indonesia đã loan tin chi tiết hơn, ghi nhận lời chứng của nhiều ngư dân đã nhìn thấy một tàu tuần duyên Trung Quốc hộ tống các tàu cá Trung Quốc nhiều lần trong những ngày gần đây. Sau đó, họ đã báo cáo lại cho cơ quan quản lý an ninh hàng hải Indonesia mang tên Bakamla.
Trả lời hãng tin BenarNews, cơ quan này xác nhận rằng từ ngày 19/12, đã có ít nhất 65 chiếc tàu Trung Quốc xâm nhập vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia ngoài khơi quần đảo Natuna, đại đa số là tàu đánh cá, nhưng đã có hai chiếc tàu hải cảnh Trung Quốc đi theo bảo vệ.
Theo giới phân tích, cung cách hành động của Bắc Kinh trong sự cố mới với Indonesia đi đúng theo bài bản, cho tàu dân sự tiến vào vùng biển của nước khác nhưng bị Trung Quốc tự nhận là của mình, và cho tàu hải cảnh hộ tống để sẵn sàng can thiệp khi lực lượng chấp pháp của nước sở tại đến chặn bắt các tàu Trung Quốc.
Đó cũng là một cách được Bắc Kinh sử dụng để áp đặt quyền kiểm soát của họ trong những vùng biển tranh chấp với Philippines, với Malaysia, với Việt Nam, và một lần nữa với Indonesia.
Riêng trong trường hợp Indonesia, trên nguyên tắc nước này không có tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc. Bộ ngoại giao Indonesia luôn luôn khẳng định rằng Jakarta không phải là một bên tranh chấp ở Biển Đông.
Quan điểm của Jakarta là như thế, nhưng cái nhìn của Bắc Kinh lại khác. Đường lưỡi bò mà Trung Quốc vẽ ra để khẳng định yêu sách chủ quyền lịch sử của họ trên hầu như toàn bộ Biển Đông, có chỗ ăn sâu vào bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia ngoài khơi quần đảo Natuna.
Bản thông cáo hôm qua của Bộ Ngoại giao Indonesia một lần nữa nhắc lại lập trường của Jakarta theo đó nước này không có quyền tài phán chồng lấn với Trung Quốc, và nhất là không công nhận cái gọi là Đường 9 Đoạn mà Bắc Kinh dùng để yêu sách chủ quyền trên Biển Đông.
Trọng Nghĩa
***************
Indonesia phản đối tàu tuần duyên Trung Quốc xâm nhập lãnh hải (VOA, 31/12/2019)
Hôm 30/12, Indonesia cho biết đã phản đối Bắc Kinh về sự hiện diện của một tàu tuần duyên Trung Quốc đi vào vùng lãnh hải gần Biển Đông đang có tranh chấp, nói rằng hành động này "vi phạm chủ quyền" của Indonesia, theo Reuters.
Hôm 30/12, Indonesia cho biết đã phản đối Bắc Kinh về sự hiện diện của một tàu tuần duyên Trung Quốc đi vào vùng lãnh hải gần Biển Đông. Photo The Jakarta Post.
Tàu xâm nhập vào vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia, ngoài khơi bờ biển phía bắc đảo Natuna, Bộ Ngoại giao Indonesia nói trong một tuyên bố, nhưng không cho biết thời điểm sự cố xảy ra.
Cơ quan An ninh Hàng hải (Bakamla) đã thúc giục Bộ Ngoại giao thực hiện hành động ngoại giao ngay lập tức đối với các hoạt động gần đây ở Biển Natuna, nơi các tàu Trung Quốc đã bị bắt gặp xâm phạm vùng biển Indonesia gần đây như tuần trước, theo Jakarta Post.
Cơ quan này đã ghi nhận rằng từ ngày 19 đến 24 tháng 12, ít nhất 63 tàu đánh cá và bảo vệ bờ biển của Trung Quốc đã vào vùng biển Natuna ở tỉnh có tên gọi Quần đảo Riau mà không được phép.
Bộ Ngoại giao đã triệu tập đại sứ Trung Quốc tại Jakarta và truyền đạt một sự phản đối mạnh mẽ về vụ việc này. Một công hàm ngoại giao về việc phản đối này cũng đã được gửi đi, theo Reuters.
Đại sứ sẽ báo cáo lại cho Bắc Kinh, nhưng cả hai bên đã quyết định duy trì quan hệ song phương tốt đẹp.
Các ngư dân địa phương đã nhìn thấy một tàu bảo vệ bờ biển Trung Quốc hộ tống các tàu đánh cá nhiều lần trong những ngày gần đây và sau đó báo cáo những gì họ đã thấy cho Cơ quan An ninh Hàng hải, truyền thông địa phương cho biết.
Bộ Ngoại giao Indonesia nhắc lại lập trường rằng nước này là một quốc gia không có yêu sách ở Biển Đông và nước này không có quyền tài phán chồng chéo với Trung Quốc.
Tuy nhiên, Jakarta trước đây đã đụng độ với Bắc Kinh về quyền đánh bắt cá quanh Quần đảo Natuna và cũng đã mở rộng sự hiện diện quân sự trong khu vực.
Trung Quốc tuyên bố hầu hết Biển Đông, một tuyến thương mại quan trọng được cho là chứa một lượng lớn dầu và khí đốt tự nhiên.
******************
Jakarta phản đối Bắc Kinh đưa tàu xâm nhập vùng biển của Indonesia (RFA, 31/12/2019)
Indonesia vào ngày 30 tháng 12 cho biết đã có phản đối Trung Quốc về sự hiện diện của một tàu hải cảnh mà Bắc Kinh đưa vào vùng biển thuộc lãnh hải Indonesia vi phạm chủ quyền của nước này.
Tàu Indonesia tiếp cận một tàu cá Trung Quốc hồi năm 2016 AFP/Indonesia Navy
Reuters loan tin dẫn tuyên bố của Bộ Ngoại giao Indonesia như vừa nêu. Theo đó thì tàu hải cảnh của Trung Quốc xâm nhập vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia ngoài khơi đảo Natuna. Tuyên bố không nói rõ việc xâm nhập đó diễn ra vào thời điểm nào.
Bộ Ngoại giao Indonesia đã triệu đại sứ Trung Quốc ở Jakarta đến và đưa ra phản đối về sự vụ vừa nêu.
Vào ngày 31 tháng 12, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng lên tiếng tại Bắc Kinh rằng Trung Quốc có chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa và vùng biển xung quanh. Ông Cảnh Sảng nói thêm là cả Trung Quốc và Indonesia đều có những hoạt động đánh bắt hải sản bình thường tại khu vực đó.
Ông Cảnh Sảng nói đại sứ Trung Quốc ở Indonesia đã giải thích những điểm vừa nêu với phía Indonesia.
Tin tức từ truyền thông được Reuters dẫn lại rằng ngư dân địa phương Indonesia trong những ngày gần đây phát hiện tàu hải cảnh Trung Quốc hộ tống tàu đánh cá của Hoa Lục nên báo cho Cơ quan An toàn Hàng Hải Indonesia.
Bộ Ngoại giao Indonesia lặp lại quan điểm không hề có tranh chấp lãnh hải tại khu vực Biển Đông chồng lấn với phía Trung Quốc. Tuy vậy, hai phía từng xung đột về quyền đánh bắt gần đảo Natuna, phía bắc Indonesia. Jakarta đã cho tăng cường sự hiện diện quân sự tại khu vực này.
*****************
Indonesia bắt tàu cá Việt Nam, phản đối tàu Trung Quốc ở Biển Đông (BBC, 30/12/2019)
Indonesia hôm thứ Hai lên tiếng phản đối Bắc Kinh về sự hiện diện của tàu tuần duyên Trung Quốc tại vùng lãnh hải gần khu vực có tranh chấp ở Biển Đông.
Indonesia đã nhiều lần bắt giữ, đánh chìm tàu cá Việt Nam và tàu các nước khác bị cho là vào đánh bắt cá bất hợp pháp trong vùng biển nước này
Cùng ngày, nước này tuyên bố đã bắt giữ ba tàu cá Việt Nam ở cùng vùng biển mà tàu Trung Quốc xâm phạm.
Quan chức Bộ Hàng hải và Nghề cá Indonesia, Tổng thư ký Nilanto Perbowo nói với BBC Tiếng Indonesia tối hôm 30/12/2019 rằng "vài giờ đồng hồ trước" nước này đã bắt giữ ba tàu cá Việt Nam.
Thông tin về việc bắt giữ các tàu Việt Nam chỉ được công bố sau khi tàu chấp pháp Indonesia đã đưa ba tàu này tiến vào sâu bên trong vùng an toàn của Indonesia, ông Perbowo nói với BBC Tiếng Indonesia.
Việc này, ông giải thích, là để nhằm tránh việc tàu tuần duyên Việt Nam đuổi theo giải cứu các tàu cá nước mình.
Tin cho hay ba tàu cá Việt Nam sẽ được tàu tuần tra thuộc Bộ Hàng hải và Nghề cá Indonesia lai dẫn đến neo đậu tại Pontianak, Tây Kalimantan.
'Tàu Trung Quốc vi phạm vùng đặc quyền kinh tế'
Chiếc tàu tuần duyên Trung Quốc đã tiến vào vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia, khu vực ngoài khơi quần đảo Natuna ở phía bắc, thông cáo của Bộ Ngoại giao Indonesia cho biết.
Ban BBC Tiếng Indonesia được biết tàu này đã ra ra vào vào vùng biển của Indonesia trong hôm 10/12, với lần vào mới nhất là hôm 24/12. Lần nào tàu cũng bị tàu Indonesia chặn đuổi.
Ngư dân Indonesia nói họ thấy một tàu tuần duyên Trung Quốc hộ tống các tàu cá Trung Quốc nhiều lần trong những ngày gần đây, và họ đã báo cáo cho Cơ quan An ninh Biển Indonesia (hình minh họa)
Jakarta gọi việc này là "vi phạm chủ quyền lãnh thổ", hãng tin Reuters tường thuật.
Trong lúc đó, truyền thông địa phương nói rằng các tàu cá Indonesia đã thấy một tàu tuần duyên Trung Quốc hộ tống các tàu cá Trung Quốc nhiều lần trong những ngày gần đây, và họ đã báo cáo cho Cơ quan An ninh Biển Indonesia.
Tuy nhiên, không có thông tin chi tiết về việc có bao nhiêu tàu Trung Quốc tiến vào vùng biển quanh Natuna, và liệu các tàu đó có bị bắt giữ hay không.
"Bộ Ngoại giao đã triệu tập Đại sứ Trung Quốc tại Jakarta tới và chuyển nội dung phản đối mạnh mẽ về vụ việc", bản thông cáo nói thêm.
Tin cho hay đại sứ Trung Quốc sẽ báo cáo về Bắc Kinh, nhưng hai bên quyết định vẫn duy trì quan hệ song phương hữu hảo, thông cáo của Bộ Ngoại giao Indonesia khẳng định.
Jakarta giữ quan điểm Indonesia không phải là một bên tham gia tranh chấp ở Biển Đông, và không có các vùng chồng lấn với Trung Quốc.
Tuy nhiên, nước này trước đây đã có những đụng độ với Bắc Kinh về quyền đánh bắt cá quanh khu vực Quần đảo Natuna, và cũng đã tăng hiện diện quân sự tại khu vực.
Một trong những sự kiện đáng chú ý nhất trong thời sự Việt Nam năm 2019, đó là áp lực ngày càng tăng của Trung Quốc đối với Việt Nam trên Biển Đông, thể hiện qua vụ Bắc Kinh đưa tàu khảo sát xâm nhập khu vực Bãi Tư Chính, nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Trong năm 2019, Trung Quốc ngày càng tăng áp lực với Việt Nam trên Biển Đông
Trong khoảng thời gian từ ngày 04/07 đến 24/10/2019, Trung Quốc đã điều tàu Hải Dương Địa Chất 8 đến tiến hành bốn cuộc khảo sát địa chất trong vùng biển 200 hải lý của Việt Nam, có lúc tiến gần bờ biển tỉnh Phú Yên khoảng hơn 65 hải lý. Trong cùng thời gian đó, tàu Hải Cảnh 35111 của Trung Quốc quấy nhiễu hoạt động của giàn khoan Nhật Bản Hakyryu-5 do một công ty liên doanh Việt - Nga sử dụng tại Lô 06.01 nằm cách bờ biển Việt Nam 190 hải lý.
Đối với Hà Nội, rõ ràng đây là một mưu toan của Bắc Kinh nhằm biến "vùng biển không tranh chấp" thành "vùng biển tranh chấp", lấy cớ để ngăn chặn các nước ven bờ hợp tác với các công ty dầu khí quốc tế trong khu vực này.
Căng thẳng chỉ giảm bớt sau khi Trung Quốc cho rút tàu khảo sát ra khỏi vùng biển Việt Nam hôm 23/10. Sau đó, vào cuối tháng 11, một phái đoàn do thứ trưởng ngoại giao Lê Hoài Trung dẫn đầu đã qua Bắc Kinh để thảo luận về những vấn đề quan hệ song phương, trong đó có Biển Đông. Bản thông cáo cho biết là phía Việt Nam đã "nêu rõ lập trường" của mình về Biển Đông, nhưng xác định rằng hai bên nhất trí "xử lý thỏa đáng các bất đồng" để duy trì ổn định trong khu vực. Bản thông cáo cũng không đề cập đến vụ Bãi Tư Chính.
Trong bài viết đề ngày 06/12/2019, đăng trên trang mạng East Asia Forum, ông Đỗ Thanh Hải, Học viện Ngoại giao Việt Nam, nhận định về căng thẳng Biển Đông năm 2019 :
"Việt Nam chưa bao giờ loại trừ giải pháp quân sự để phòng thủ, nhưng rõ ràng dùng đến vũ lực có nghĩa là thất bại về ngoại giao. Mặc dù lực lượng quốc phòng đang trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, nhưng chính sách của Hà Nội là tận dụng các biện pháp hòa bình. Các quan chức Việt Nam đã gởi hàng chục công hàm phản đối cho phía Trung Quốc. Trong khi các đối tác ASEAN im hơi lặng tiếng về mặt ngoại giao, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã ra 4 tuyên bố công khai lên án Trung Quốc vi phạm Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển UNCLOS".
Về đối sách của Việt Nam đối với Trung Quốc trong vụ Tư Chính, nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp, Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore nhận định :
"Nhiều người cho rằng trong trường hợp này, Việt Nam tương đối đã kiềm chế và phản ứng có vẻ yếu ớt hơn rất nhiều so với vụ Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam năm 2014. Cũng đã có những chỉ trích nhất định đối với cách ứng xử của Việt Nam.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào phản ứng của hai bên và so sánh với năm 2014, chúng ta có thể hiểu được ít nhiều tại sao lần này Việt Nam lại hành xử như vậy và không có những phản ứng quyết liệt như vào năm 2014.
Trong trường hợp này, chúng ta có hai lựa chọn. Thứ nhất là điều các tàu Việt Nam ra ngăn chặn, cản trở các hành vi vi phạm của phía Trung Quốc, như trong trường hợp năm 2014. Thứ hai là dùng các biện pháp phản đối ngoại giao và kiên nhẫn chờ Trung Quốc rút tàu vì một lý do nào đó. Có lẽ Việt Nam đã cân nhắc thiệt hơn và cho rằng chọn phương án thứ hai thì hợp lý hơn, vì những lý do như sau :
Nếu sử dụng phương án thứ nhất thì sẽ đẩy căng thẳng lên cao và có thể dẫn tới các phản ứng tiêu cực, như các cuộc biểu tình, bạo loạn chống Trung Quốc năm 2014. Đây là điều Việt Nam rất muốn tránh.
Thứ hai là, trong trường hợp Việt Nam đưa các tàu ra đâm, va vào tàu của Trung Quốc, do tương quan lực lượng thì Việt Nam yếu hơn, số lượng tàu ít hơn, cho nên có thể gây ra các thiệt hại cho lực lượng Việt Nam, mà lại không nhất thiết dẫn đến các kết quả mà Việt Nam mong muốn.
Thứ ba, tôi nghĩ cũng là nguyên nhân quan trọng, đó là so với vụ Trung Quốc năm 2014 hạ đặt giàn khoan trên vùng biển của Việt Nam, trường hợp tàu khảo sát của Trung Quốc, mặc dù đi ra đi vào rất là ngang nhiên, trắng trợn, nhưng hành động khảo sát ấy không nghiêm trọng bằng việc hạ đặt giàn khoan, không tới mức mà Việt Nam phải hành động cứng rắn.
Như chúng ta đã thấy, sau hơn 3 tháng thì Trung Quốc đã rút tàu khảo sát và tình hình đã trở lại nguyên trạng như lúc trước khi xảy ra vụ việc. Mặc dù vậy, rất có nhiều khả năng là trong thời gian tới, phía Trung Quốc sẽ tiếp tục có những hành động gây hấn, xâm phạm vùng biển Việt Nam. Việt Nam cũng phải suy nghĩ thêm những cách đối phó khác hiệu quả hơn những sự vi phạm trở lại của Trung Quốc đối với các vùng biển của Việt Nam".
Căng thẳng Việt Trung đã lên cao đến mức mà vào đầu tháng 11/2019, thứ trưởng ngoại giao Việt Nam Lê Hoài Trung đã tuyên bố, nếu các nỗ lực ngoại giao thất bại, chính phủ Việt Nam có thể sẽ sử dụng các cơ chế pháp lý quốc tế để ngăn chặn đà bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông. Đây cũng là đòi hỏi của công luận Việt Nam trong những tháng qua. Thế nhưng, vì sao Hà Nội chưa đưa vấn đề ra trước tòa án quốc tế, nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp giải thích :
"Đưa Trung Quốc ra một tòa trọng tài quốc tế để phân xử vẫn là lựa chọn mà Việt Nam đang suy nghĩ, cân nhắc và tôi hiểu là cũng cần có một sự chuẩn bị nhất định. Tuy nhiên, trong vụ Tư Chính cũng như trong các vụ việc khác, Việt Nam vẫn kiềm chế và chưa áp dụng biện pháp này.
Thứ nhất, kiện về vấn đề nào, kiện ở tòa án nào vẫn là vấn đề còn gây nhiều tranh cãi và có thể là chưa có sự đồng thuận trong phía Việt Nam để làm sao phương án này mang lại hiệu quả tối ưu cho Việt Nam, đồng thời giảm thiểu những hệ lụy về mặt chính trị, về mặt pháp lý mà Việt Nam có thể phải gánh chịu.
Thứ hai, biện pháp pháp lý, cho dù có thể mang lại chiến thắng cho Việt Nam, nhưng tác dụng thực tế có thể không như mong đợi. Chúng ta có thể nhìn vào vụ Philippines kiện Trung Quốc. Mặc dù Philippines thắng kiện, nhưng điều đó không mang lại tác dụng tích cực, tức thì cho phía Philippines và Trung Quốc vẫn tiến hành các vi phạm như chưa từng có phán quyết đó.
Trong trường hợp của Việt Nam cũng vậy, nếu Việt Nam thắng kiện thì chưa chắc đã đảo ngược được tình thế và Trung Quốc sẽ tiếp tục làm ngơ phán quyết đó và tiếp tục vi phạm các vùng biển của Việt Nam. Trong khi đó, nếu Việt Nam kiện Trung Quốc thì sẽ khiến quan hệ song phương xấu đi rất nhiều. Tôi nghĩ phía lãnh đạo Việt Nam chưa sẵn sàng chấp nhận quan hệ căng thẳng hơn với Trung Quốc, vì nó có thể gây ra nhiều hệ lụy, nhiều tác động, mà có thể phía Việt Nam chưa lường trước được hoặc chưa sẵn sàng để đối phó.
Việt Nam vẫn tiếp tục cân nhắc hành động pháp lý, nhưng đang trì hoãn thời điểm để thực hiện biện pháp đó và có thể sử dụng trong tương lai, khi mà thời điểm đã chín muồi hoặc là khi mà Việt Nam không có lựa chọn nào khác khả dĩ hơn để đối phó với các vi phạm của Trung Quốc".
Sách trắng Quốc phòng mới của Việt Nam được công bố vào tháng 11 cũng phản ánh mối lo ngại về nguy cơ Trung Quốc xâm lăng, như nhận định của chuyên gia phân tích cao cấp Lê Thu Hương, thuộc Viện Chính Sách Chiến Lược Úc (ASPI) trong một bài viết đăng trên trang mạng Foreign Policy ngày 06/12/2019.
Theo nhận xét của bà Lê Thu Hương, Sách trắng Quốc phòng đầu tiên từ 10 năm qua không nêu chi tiết về những thay đổi trong cơ cấu và tổ chức lực lượng quân sự Việt Nam, nhưng điều đáng quan tâm nhất đó là Sách trắng này nói rõ về bối cảnh chiến lược và chiến lược quốc gia để bảo vệ Tổ quốc.
Sách trắng Quốc phòng 2019 của Việt Nam nhấn mạnh tranh chấp Biển Đông là một trong những yếu tố đe dọa đến ổn định, hòa bình và thịnh vượng của khu vực. Chuyên gia Lê Thu Hương còn ghi nhận một điểm mới trong Sách trắng Quốc phòng 2019 : "Việt Nam không chấp nhận hợp tác quốc phòng dưới áp lực hoặc dưới những điều kiện áp đặt nào".
Điều này có nghĩa là Việt Nam bác bỏ mọi quan hệ đối tác bất lợi cho mình và khẳng định quyền tự chủ trong quyết định về các mối quan hệ quốc phòng và về các lợi ích an ninh, nhưng vẫn để mở cửa cho các hợp tác thân thiện để bảo vệ biên giới trên biển cũng như trên bộ. Lập trường này ngầm bác bỏ lập trường của Trung Quốc về Biển Đông, vốn chỉ muốn giải quyết tranh chấp trên cơ sở song phương, không chấp nhận các giải pháp đa phương, cũng như sự can dự của một nước thứ ba, như Hoa Kỳ.
Việc Trung Quốc gia tăng áp lực lên Việt Nam càng khiến Hà Nội xích gần lại Washington, nhưng Việt Nam trong thời gian tới sẽ vẫn duy trì chính sách "ba không" (không tham gia liên minh quân sự ; không liên kết với nước này để chống nước kia ; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác), theo nhận định của nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp :
"Theo tôi, Việt Nam vẫn kiên trì chính sách "ba không", như Sách trắng Quốc phòng 2019 vừa đề cập. Nhưng đó là về mặt chính thức, còn trên thực tế Việt Nam không để cho chính sách "ba không" ràng buộc, trói tay mình trong việc phát triển quan hệ hợp tác với các đối tác khác, để giúp Việt Nam có một ưu thế chiến lược tốt hơn trên Biển Đông và có thể cân bằng lại các sức ép của Trung Quốc. Chính vì vậy, trong thời gian qua, một mặt Việt Nam vẫn duy trì và tuyên truyền chính sách "ba không", mặt khác vẫn kiên trì mở rộng và làm sâu sắc hơn hợp tác quốc phòng với một số cường quốc chủ chốt, có chung các lợi ích chiến lược với Việt Nam trên hồ sơ Biển Đông, đặc biệt là Hoa Kỳ và Nhật Bản.
Cả hai nước này đều đã hỗ trợ Việt Nam rất nhiều trong việc xây dựng năng lực hàng hải để giúp Việt Nam đối phó tốt hơn với Trung Quốc trên Biển Đông. Những nước này cũng hỗ trợ Việt Nam rất nhiều trên mặt trận ngoại giao, cung cấp cho Việt Nam những sự hỗ trợ cần thiết khi Trung Quốc o ép Việt Nam trên Biển Đông.
Tôi nghĩ là trong thời gian tới, xu hướng này sẽ tiếp tục. Việt Nam sẽ cố gắng thúc đẩy hơn nữa hợp tác chiến lược với các cường quốc này, đặc biệt Nhật và Mỹ. Tuy nhiên, do Việt Nam vẫn muốn giữ sự cân bằng giữa Trung Quốc với Mỹ và các cường quốc khác, cũng như do các cam kết của Việt Nam với chính sách "ba không", mặc dù thúc đẩy quan hệ với các cường quốc, nhưng Việt Nam sẽ cố gắng thận trọng về tốc độ, cũng như phạm vi hợp tác, để làm sao vừa nâng cao vị trí chiến lược của mình, đặc biệt là trên Biển Đông, vừa bảo đảm là không bị Trung Quốc nhìn nhận là đã từ bỏ chính sách "ba không" hoặc chọn nghiêng về phía Mỹ và các đồng minh để chống lại Trung Quốc.
Đây sẽ là xu hướng tiếp diễn trong những năm tới và là một sự lựa chọn không hề đơn giản, sẽ có nhiều khó khăn, thử thách đối với Việt Nam trong thời gian tới".
Nhưng Hà Nội cũng ngày càng gặp khó khăn trong việc giữ thế cân bằng giữa hai siêu cường quốc đối địch, đó là nhận định của tờ Asia Times trong một bài viết đăng ngày 04/12/2019.
Lý do là vì, theo Asia Times, Trung Quốc rõ ràng là gây áp lực ngày càng mạnh để buộc Việt Nam từ bỏ các yêu sách chủ quyền trên Biển Đông, và ngưng thăm dò dầu khí tại các vùng đang tranh chấp. Nhưng đồng thời, Hoa Kỳ cũng phản ứng mạnh mẽ hơn trước những mưu đồ bành trướng của Bắc Kinh ở khắp vùng Châu Á - Thái Bình Dương. Trong các Sách trắng Quốc phòng do Lầu Năm Góc công bố, Trung Quốc ngày càng bị chỉ đích danh là kẻ thù của Mỹ.
Nếu Hà Nội không còn giữ tư thế trung lập và ngả theo Trung Quốc nhiều hơn thì họ gần như chắc chắn là sẽ phải từ bỏ một số yêu sách chủ quyền ở Biển Đông, và đổi lại Bắc Kinh chắc là sẽ hứa gia tăng đầu tư và trao đổi mậu dịch với Việt Nam.
Cũng theo Asia Times, về mặt chính trị, ngả hoàn toàn theo Trung Quốc sẽ làm xấu đi hình ảnh của đảng đối với người dân, vốn có tinh thần chống Trung Quốc ngày càng mạnh. "Chơi với Mỹ mất chế độ, chơi với Trung Quốc mất nước". Nhưng theo Asia Times, ngả hẳn theo Trung Quốc thật ra sẽ khiến chế độ cộng sản sụp đổ nhanh hơn là ngả hẳn theo Mỹ.
Tuy nhiên, Hà Nội chắc là vẫn nghi ngại không biết Hoa Kỳ có sẽ bảo vệ Việt Nam trong trường hợp xung đột vũ trang với Trung Quốc hay không. Nhiều người trong khu vực vẫn còn nhớ là vào năm 2012, Washington đã không có phản ứng gì khi Bắc Kinh chiếm bãi cạn Scarborough từ Philippines, một đồng minh đã ký hiệp định phòng thủ với Hoa Kỳ.
Thanh Phương
Nguồn : RFI, 31/12/2019
2019 : Bãi Tư Chính là 'cái bẫy' của Trung Quốc cài cho Việt Nam
Quốc Phương, BBC, 25/12/2019
Năm 2019, Việt Nam đã tránh được 'cái bẫy pháp lý' mà Trung Quốc cài khi đối đầu với Việt Nam ở bãi Tư Chính và vùng biển lân cận, theo một phân tích được đưa ra trong năm của một nhà quan sát an ninh Biển Đông của Việt Nam.
Chiến hạm Hải quân Nhân dân Việt Nam Trần Hưng Đạo đến cảng quân sự dự mọt cuộc tập trận quân sự giữa ASEAN-Trung Quốc 2018 hôm 21/10/2018 tại Trạm Giang, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.
"Cái bẫy pháp lý của người ta là người ta bảo là họ hoạt động vào khu vực ở bãi Tư Chính là một bộ phận của Nam Sa, quần đảo 'thuộc chủ quyền' Trung Quốc", Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban Biên giới Chính phủ Việt Nam nói với BBC trong một phỏng vấn về bang giao quốc phòng của Việt Nam vào quý cuối năm.
"Rõ ràng ở đây Tư Chính và các bãi ngầm nằm ở trên thềm lục địa của Việt Nam, nó chẳng liên quan gì đến vấn đề quần đảo mà họ gọi là Nam Sa cả, tức là quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
"Đây là những bãi ngầm mà chìm sâu dưới mặt nước, chỗ sâu nhất là phải đến 17 mét mặt nước. Thế thì điều đó nó không có ý nghĩa gì, nhưng mà nếu như chúng ta phản đối rằng Trung Quốc vi phạm chủ quyền của Việt Nam thì như vậy cái bẫy pháp lý của họ đã thành công.
"Nghĩa là anh thừa nhận rằng các bãi ngầm này là thuộc bộ phận của quần đảo Trường Sa".
Theo chuyên gia này, đây là một 'cái bẫy' tinh tế được Trung Quốc 'giăng ra' mà ngay cả giới nghiên cứu cũng có thể 'nhầm lẫn', nếu không thực sự chú ý.
"Điều này ngay cả những người nghiên cứu cũng bị nhầm lẫn, thực ra đây là một bãi cạn ngầm mà nằm trong thềm lục địa được gọi là trên bãi cạn Tư Chính, chứ thực ra vùng biển ở vùng thềm lục địa của nó mới chính là điều chúng ta cần lưu ý, chứ không phải là bãi cạn.
"Vì nó chẳng có ý nghĩa khác gì cả, có là một cấu trúc của thềm lục địa thôi. Đó chính là bẫy pháp lý.
"Hay là họ nói rằng vùng biển mà xung quanh bãi Tư Chính là vùng biển phụ cận liên quan, nhưng trong luật biển chẳng có thuật ngữ 'phụ cận liên quan' như họ nói như vậy là nói một cách mơ hồ để người ta nhầm tưởng.
Mạng xã hội ở Việt Nam 'đi đầu' trong chủ động phát hiện các thông tin liên quan yêu sách đường lưỡi bò được 'cài' vào nhiều hàng hóa, dịch vụ, hoạt động của Trung Quốc đưa vào Việt Nam, theo nhà quan sát
"Thì thực sự mà nói là bãi cạn này về mặt pháp lý, Công ước luật biển thì nó chẳng có ý nghĩa gì để mà nói là vùng biển cái gọi là 'phụ cận liên quan' cả, bởi vì nó là bãi cạn mà nằm trên thềm lục địa, nó lại nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam.
"Trung Quốc họ muốn nói như vậy, nếu chúng ta (Việt Nam) không cẩn thận, khi mà phản đối, khi nêu thực chất của vấn đề thì có thể họ dùng cái đó để nói rằng như vậy là Việt Nam đã đồng ý, hay là các nước có thể đồng ý với quan niệm yêu sách của Trung Quốc, đấy là vấn đề pháp lý của Trung Quốc mà họ đã giăng ra.
"Việt Nam vừa rồi tôi nghĩ đã không bị vướng vào cái bẫy pháp lý, bẫy của họ và nói rất rõ rằng việc vi phạm đó là vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam và vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán, không nói một cách chung chung như là 'chủ quyền lãnh hải' như là trước đây thường nói", Tiến sĩ Trần Công Trục nói.
Kịch tính, bị động, khó khăn ?
Bãi Tư Chính là một sự kiện quan trọng không phải chi cho năm nay, mà cho cả suốt 5 năm qua, một nhà quan sát chuyển động thời sự và truyền thông từ Hà Nội, nói với cuộc hội luận Bàn Tròn Thứ Năm cuối cùng của năm 2019.
"Sự kiện quan trọng và cực kỳ quan trọng không chỉ cho 2019, mà tôi cho là quan trọng nhất trong 5 năm qua, đó là vụ Bãi Tư Chính và vấn đề đường lưỡi bò, gọi là đường lưỡi bò", blogger Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh nêu nhận định hôm 19/12/2019.
"Hai cái này tôi phải nêu làm một, bởi vì là nó đều rất liên quan đến âm mưu của Trung Quốc thôn tính Biển Đông. Vụ Tư Chính kéo dài hơn ba tháng và nó lôi kéo sự quan tâm rất là lớn của nhân dân cả nước (Việt Nam) và quốc tế".
Nhìn sang 2020, nhà điểm báo, điểm tin thời sự này cho rằng vụ việc Tư Chính trên Biển Đông sẽ có thể tiếp tục là thách thức cân não "kịch tính" đối với chính quyền Việt Nam :
"Về bãi Tư Chính và Biển Đông, đây là vấn đề mà chính quyền Việt Nam có thể nói gần như là hoàn toàn bị động, bây giờ xem xem, chờ xem Trung Quốc sẽ hành xử như thế nào và khi đó họ sẽ đối phó như thế nào là điều rất khó khăn.
"Và cái đó họ (chính quyền Việt Nam) không thể dễ như năm vừa qua, tức là năm nay, đó sẽ là vấn đề kịch tính. Hoặc rất ít khả năng là Trung Quốc không làm gì, nhưng nhiều khả năng là có chuyện và có chuyện thì nó sẽ rất kịch tính và Việt Nam đối phó như thế là điều cực kỳ khó".
Một tàu cá Trung Quốc hoạt động trên Biển Đông, phía xa là các tàu tuần duyên của Trung Quốc (hình minh họa)
Bình luận về một tác động mà biến cố đối đầu ở bãi Tư Chính và các vùng biển lân cận trên Biển Đông gây ra với nội bộ Việt Nam trong năm 2019, nhà quan sát này nói :
"Đó là một điều cũng cho thấy rõ rằng người dân hiểu hơn về chính quyền và chính quyền cũng hiểu phần nào về người dân trong cái phản ứng với Trung Quốc.
"Tóm tắt chuyện này, tôi cho rằng đảng Cộng sản và chính quyền Việt Nam cho rằng là người dân cứ hãy yên tâm, yên trí là đảng và nhà nước rất sáng suốt, người dân không nên một chút nào là có những hoạt động riêng lẻ, mà nên tất cả mọi cái đều phải nằm trong sự hoạt động và tổ chức của nhà nước.
"Nhưng ngược lại, người dân cho rằng là rất nhiều động thái không thấy yên tâm và gây khó hiểu và thấy bí ẩn trong việc xử lý vấn đề bãi Tư Chính này.
"Rõ nhất là việc Trung Quốc quấy nhiễu như thế nào ngoài bãi Tư Chính cụ thể ra sao, hàng ngày như thế nào, rồi họ gây khó cho các tàu cảnh sát biển của chúng ta (Việt Nam) như thế nào, thì hoàn toàn báo chí không nêu gì cả. Ít nhất đó là một yếu tố mà người dân không thể nào hiểu nổi và không tin tưởng.
"Thứ hai nữa là một số phản ứng hoặc một số hoạt động có tính chất khoa học của những người rất có uy tín đối với cả chính quyền lẫn nhân dân thì lại bị một thái độ 'rất khó chịu' của chính quyền và thể hiện kể cả người lãnh đạo nhà nước cho đến báo chí của nhà nước cũng thể hiện là 'rất khó chịu' về những lời nói, cho đến những hoạt động như thế.
"Thì đấy là một hiện tượng không phải chỉ nằm trong chuyện chủ quyền và quan hệ Trung Quốc - Việt Nam mà nó còn thể hiện thêm nữa thái độ của chính quyền đối với nhân dân trong vấn đề biển đảo, trong vấn đề dân chủ. Và hai nữa là thể hiện thái độ của nhân dân đối với chính quyền trong vấn đề này, thì nó càng ngày càng rõ thêm vấn đề này".
Về điều được cho là cần quan tâm liên quan đến yêu sách chủ quyền bằng bản đồ đường chín đoạn, hay còn được gọi là 'đường lưỡi bò' và cách thức Trung Quốc tiếp cận trên thực tế và khoảng cách trong đối phó trong nội bộ giữa chính quyền và nhân dân Việt Nam, blogger Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh nhấn mạnh :
Yêu sách chủ quyền dựa trên bản đồ đường chín đoạn (đường lưỡi bò) gây tranh cãi của Trung Quốc trên Biển đông
"Vấn đề đường lưỡi bò liên quan như thế, rất là nhiều sản phẩm của Trung Quốc tìm mọi cách rất là 'nham hiểm', 'khôn khéo' để mà đưa vào Việt Nam và chính hiện tượng mà không khích lệ lòng yêu nước của nhân dân bằng chính những hoạt động của họ - là họ phải chủ động phát hiện, chủ động để bảo vệ, chủ động để phản biện với chính quyền những hiện tượng đáng nghi ngờ.
"Không khích lệ cái đó, thì chính nó đã làm cho bộ lộ rất nhiều hiện tượng mà Trung Quốc đã âm thầm đưa những cái hình đường lưỡi bò vào Việt Nam và may, rất may là trên mạng xã hội, người ta bất chấp những sự gọi là gây khó chịu và thậm chí đe dọa, nhưng người ta vẫn có mọi cách để người ta phát hiện.
"Và chính báo chí nhà nước và nhà nước nhờ mạng xã hội để biết được chuyện đó", cựu sĩ quan an ninh từng làm việc trước đây trong ngành Công an của Việt Nam nói.
'Làm mạnh, xâm lược mềm' ?
Gần đây, tin tức nói Việt Nam đã gián tiếp lưu ý Trung Quốc điều chỉnh thái độ và ngưng động thái gây căng thẳng trên Biển Đông khi Việt Nam cho hay nước này đảm nhi ghế Chủ tịch luân phiên Asean, tuy nhiên, có ý kiến trong giới quan sát an ninh, quân sự và chính trị khu vực cho rằng Trung Quốc sẽ có thể tiếp tục 'làm mạnh' và có thể 'đưa giàn khoan' vào vùng biển mà Việt Nam có chủ quyền.
"Có những khả năng và giả thuyết thực tế rằng Trung Quốc tiếp tục làm mạnh ở Biển Đông, đặc biệt là có khả năng họ sẽ đưa giàn khoan vào khoan thăm dò và thậm chí là khoan khai thác ở trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và vùng thềm lục địa của Việt Nam mà họ coi đấy là vùng tranh chấp với đường chín đoạn của họ, mà họ tuyên bố" Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu cao cấp khách mời thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (Iseas, Singapore) nói với BBC tại một tọa đàm Bàn tròn thứ Năm cuối năm.
Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Ngô Xuân Lịch và phái đoàn tiếp và làm việc với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ và phái đoàn tại Hà Nội cuối tháng 11/2019
"Đấy là những khả năng thực tế và khả năng ấy là khả năng cao".
Bình luận tại chỗ về nhận định này, nhà nghiên cứu chính trị và bang giao quốc tế, Giáo sư Ngô Vĩnh Long từ Đại học Maine, Hoa Kỳ nói với BBC :
"Trung Quốc tiếp tục gây hấn như chúng ta đều biết. Vấn đề bây giờ là các nước trong khu vực và các nước ngoài sẽ làm gì ?
"Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ gần đây không chỉ sang thăm Việt Nam mà cũng sang thăm Philippines và nói với Philippines rằng nước này là đồng minh của Mỹ và Bộ trưởng Quốc phòng của Mỹ gặp Bộ trưởng Quốc phòng của Philippines và đã khẳng định lại quan hệ giữa Mỹ và Philippines.
"Thì chúng ta thấy rằng hiện nay có một chiều hướng của Mỹ là thúc đẩy các nước trong khu vực lên tiếng mạnh mẽ và có lên tiếng mạnh mẽ thì Mỹ và các nước khác mới có thể ủng hộ được.
"Mà ở đây vấn đề tôi thấy rất là lạc quan là bởi vì Việt Nam đã không những tuyên bố sẽ đem vấn đề Biển Đông ra Asean để đàm phán hay là để cho mọi người chú ý, mà cũng sẽ đem vấn đề Việt Nam ra trước Liên Hợp Quốc.
"Mà tôi nghĩ nếu Việt Nam đưa vấn đề Biển đông ra Liên Hợp Quốc thì Mỹ và các nước khác sẽ vận động ủng hộ Việt Nam".
Trước thông tin Việt Nam có thể 'kiện' Trung Quốc ra tòa quốc tế, Giáo sư Ngô Vĩnh Long bình luận thêm :
"Nói như vậy, có lẽ làm những nước quan tâm phấn khởi khi Việt Nam lần đầu tiên lên tiếng mạnh mẽ hơn là lúc trước".
Trở lại với khả năng Trung Quốc có thể làm gì tiếp theo trong năm mới 2020 ở trên Biển Đông, tại các khu vực mà Việt Nam quan tâm, Tiến sĩ Trần Công Trục với cái nhìn từ cuối năm 2019, đưa ra dự phóng :
"Hiện nay mà nói, để mà có thể xác định vị trí nào cụ thể thì rất khó, bởi vì Trung Quốc như đã biết thì họ đưa ra một yêu sách chiếm hầu hết Biển Đông rồi.
"Thì bất kỳ điểm nào mà nằm trong yêu sách đường lưỡi bò thì họ đều có thể sẽ tính họ làm, tùy thuộc vào tình huống, tùy thuộc vào thái độ của các nước có liên quan ở khu vực từ đó đến nay và tùy thuộc vào tình hình quốc tế, quan hệ quốc tế và thái độ của các nước trong việc lên tiếng đối với hoạt động đó của Trung Quốc để họ làm.
Người biểu tình Việt Nam xuống đường phản đối Trung Quốc ở trung tâm thành phố Hồ Chí Minh hôm 11/5/2014, sau khi Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 vào vùng biển Việt Nam tuyên bố và thực thi chủ quyền
"Tôi nghĩ là như vậy, (Trung Quốc) có thể tiến hành ngay khu vực thềm lục địa, trên vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam như trước đây, hoặc là trong vùng quần đảo Trường Sa của Việt Nam, hay là vùng thềm lục địa của Malaysia hay là của Philippines.
"Tất cả những vị trí đó có thể có khả năng xảy ra, chứ bây giờ không thể nói chính xác được, nhưng cách làm của họ, theo tôi nghĩ là ở giai đoạn hiện nay, thời buổi hiện nay, có lẽ họ sẽ sử dụng các hoạt động mang tính chất như là kinh tế, khoa học - kỹ thuật.
"Nhưng theo nhiều người nói đây là họ tổ chức cuộc 'xâm lược mềm', họ không dùng vũ lực như trước đây để mà xâm chiếm nữa, mà họ sẽ sử dụng những biện pháp về mặt kinh tế, về mặt dân sự về mặt khoa học - kỹ thuật để họ giành lấy trên thực tế yêu sách của họ.
"Nếu như các nước không có một sự cảnh giác cần thiết, không có một biện pháp cần thiết, thì như vậy có thể là một cách mà họ muốn chấp nhận yêu sách của họ, từ yêu sách đó, so với đàm phán, họ muốn các hợp tác cùng khai thác với Trung Quốc, mà loại bỏ những hoạt động khác khai thác, hợp tác với các nước khác.
"Ví dụ như vậy cũng là một cái cách và tôi nghĩ họ sẽ tiến hành làm", Tiến sĩ Trần Công Trục đưa ra dự đoán với BBC trong một phỏng vấn cuối năm hôm 21/11 từ Hà Nội.
Quốc Phương
Nguồn : BBC, 25/12/2019
********************
Trung Quốc sẽ tiếp tục gây sức ép lên Việt Nam trong năm 2020
RFA, 23/12/2019
Trung Quốc sẽ tiếp tục gây sức ép lên Việt Nam trong hoạt động khai thác dầu khí năm 2020
Trung Quốc có nhiều khả năng sẽ tiếp tục gây sức ép lên Việt Nam nếu công ty Rosneft nối lại hoạt động khai thác dầu khí ở Biển Đông trong năm 2020, theo nhận định của một chuyên gia quốc tế về tình hình khu vực, đưa ra nhân dịp cuối năm 2019.
Hình minh họa. Hình chụp hôm 1/6/2014 từ tàu Cảnh sát biển Việt Nam cho thấy tàu hải cảnh của Trung Quốc dang đuổi tàu Việt Nam gần giàn khoan dầu HD 981 ở Biển Đông - AFP
Trong bài phân tích hôm 16/12, Giáo sư Carl Thayer thuộc Học viện Quốc phòng Úc nhận định :
"Năm 2020 sẽ rất quan trọng. Nếu (công ty) Rosneft Vietnam nối lại hoạt động khai thác tại lô dầu khí của công ty thì (công ty) sẽ có nguy cơ bị các tàu hải cảnh của Trung Quốc quấy nhiễu".
Theo giáo sư Carl Thayer : "Trong năm 2020, chúng ta sẽ có khả năng thấy sự tiếp tục của những nỗ lực từ phía Trung Quốc để gây sức ép lên các quốc gia ven Biển Đông để ngưng hoặc chấm dứt các hoạt động của các tàu khai thác dầu của nước ngoài".
Từ tháng 5 đến tháng 10 năm nay, Trung Quốc đã điều hàng chục tàu hải cảnh, dân binh và khảo sát vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước Malaysia và Việt Nam, quấy nhiễu các hoạt động khai thác dầu khí ở hai nước.
Từ giữa tháng 6, Trung Quốc đã điều các tàu hải cảnh vào vùng thềm lục địa Việt Nam, quấy nhiễu hoạt động hậu cần phục vụ giàn khoan dầu ở lô 06 - 01 thuộc công ty liên doanh giữa Nga và Việt Nam là Rosneft Vietnam. Theo báo cáo của Minh Bạch Hàng Hải (một trang chuyên theo dõi về an ninh biển), tàu hải cảnh của Trung Quốc đã có lúc đi rất sát, gây nguy hiểm cho tàu hậu cần phục vụ giàn khoan dầu của Việt Nam.
Từ khoảng đầu tháng 7, Trung Quốc cũng điều hàng chục tàu bao gồm hải cảnh, dân binh và tàu khảo sát Hải Dương 8 vào khu vực phía bắc Bãi Tư Chính của Việt Nam. Tàu khảo sát Hải Dương đã có lúc chỉ còn cách bờ biển Phát Thiết ở miền trung của Việt Nam khoảng 185 km, tức là trong vòng 200 hải lý thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, căn cứ theo luật quốc tế.
Vị trí giàn khoan Hakuyru 5, tàu hải cảnh của Trung Quốc và tàu chấp pháp của Việt Nam gần lô 06 - 01 Courtesy of AMIT – Hình minh họa
Hôm 24/10, Trung Quốc tuyên bố rút tàu thăm dò Hải Dương 8 khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam sau khi có thông tin giàn khoan Hakuryu 5 phục vụ lô 06 - 01 đã được rút đi sau khi hoàn thành nhiệm vụ.
Theo Giáo sư Carl Thayer, trong năm 2020 : "Các tàu khảo sát của Trung Quốc sẽ không xin phép khi vào vùng nước mà Trung Quốc đòi chủ quyền. Điều này cho thấy là Trung Quốc đòi quyền đưa tàu khảo sát vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam bất cứ khi nào Trung Quốc muốn".
Vào khi quan hệ giữa Hà Nội và Bắc Kinh căng thẳng, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng đã lên tiếng khẳng định Trung Quốc có chủ quyền đối với toàn bộ vùng nước ở Bãi Tư Chính. Trung Quốc coi vùng nước này thuộc khu vực quần đảo Trường Sa mà nước này đòi chủ quyền toàn bộ.
"Kể từ tháng 5 năm nay, phía Việt Nam đã đơn phương thực hiện việc khoan tìm khí đốt ở vùng nước ở Wan'an Tan (Bãi Tư Chính) của Trung Quốc, điều này đã vi phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích của Trung Quốc. Nó cũng vi phạm thỏa thuận song phương về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết các vấn đề trên biển giữa Trung Quốc và Việt Nam, điều 5 của Tuyên bố chung của các bên ở Biển Đông (DOC), và các điều khoản liên quan trong UNCLOS (Công ước về luật biển của Liên Hiệp Quốc). Việt Nam nên ngay lập tức dừng các hoạt động vi phạm đơn phương để lập lại sự yên tĩnh tại vùng nước liên quan", ông Cảnh Sảng phát biểu trước các phóng viên ở Bắc Kinh hôm 18/9.
Giáo sư Carl Thayer, trong bài viết của mình hôm 16/9 cũng nhận định, Trung Quốc sẽ tiếp tục huy động sự có mặt thường xuyên của các tàu chiến, hải cảnh, dân binh và tàu cá ở khu vực Biển Đông.
"Trung Quốc sẽ tiếp tục thực hiện những tuần tra khẳng định chủ quyền tại những vùng nước mà đường đứt khúc 9 đoạn đi qua chồng lên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các quốc gia ven biển", giáo sư Carl Thayer viết.
Đường đứt khúc 9 đoạn của Trung Quốc đòi chủ quyền đến khoảng 90% diện tích khu vực Biển Đông, bao gồm cả hai quần đảo đang tranh chấp với các nước là Hoàng Sa và Trường Sa. Tòa Trọng tài Quốc tế ở The Hague, trong một phán quyết vào năm 2016, đã bác bỏ tính hợp lệ của đường đứt khúc này. Tuy nhiên, Bắc Kinh không chấp nhận phán quyết của tòa.
Không những thế, Giáo sư Carl Thayer cũng nhận định, trong năm 2020, Trung Quốc sẽ vẫn tiếp tục "quân sự hóa các đảo nhân tạo theo từng bước một, tiến hành nhữn cải tiến về chất lượng đối với các hệ thống vũ khí (trên các đảo)".
Từ khoảng cuối năm 2014, Trung Quốc đã tiến hành xây lấp các đảo nhân tạo ở Biển Đông và triển khai vũ khí ra các đảo này, bất chấp phản đối của quốc tế.
Theo đánh giá của chuyên gia Greg Poling, Giám đốc Sáng Kiến Minh Bạch Hàng Hải (AMTI), việc xây lấp các đảo nhân tạo đã giúp Trung Quốc gây sức ép lên các nước khác và duy trì sự hiện diện của các tàu nước này tại các vùng biển xa.
"Việc xây dựng các cơ sở quân sự ở Trường Sa đã cho phép Bắc Kinh có thể triển khai tàu. Họ có thể triển khai tàu hải cảnh và thậm chí tàu dân quân biển đến các nơi và thường trực ở đó 24 giờ một ngày, 7 ngày một tuần trong toàn bộ khu vực nằm trong đường đứt khúc 9 đoạn. Họ có thể liên tục gây sách nhiễu theo cách mà họ đã không thể làm được vào năm 2015".
Trong năm 2020, Trung Quốc được cho là cũng sẽ thúc đẩy việc hoàn tất các vòng tham vấn về Bộ Quy tắc về ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC). Bắc Kinh trước đó đã đưa ra một khung thời gian để hoàn thành các vòng tham vấn này vào năm 2021.
Theo đánh giá của Giáo sư Carl Thayer, việc Bắc Kinh hối thúc các nước ASEAN hoàn tất các vòng tham vấn COC là khiến "các nước ASEAN sẽ có ít thời gian để mặc cả với Trung Quốc về các vấn đề còn tranh cãi như phạm vi địa lý, liệu COC có tính ràng buộc về pháp lý hay không, các tranh chấp sẽ được giải quyết thế nào, và việc giải quyết các tranh chấp sẽ được thực hiện ra sao, và vai trò của các bên thứ ba".
Trong đề nghị về COC, Bắc Kinh cũng muốn loại bỏ việc tham gia khai thác dầu khí của các công ty ngoài khu vực tại Biển Đông.
Năm 2020, Việt Nam sẽ là Chủ tịch luân phiên của ASEAN. Đây được cho là cơ hội nhưng cũng là một thách thức đối với Việt Nam. Năm 2010, khi là Chủ tịch luân phiên của ASEAN, Hà Nội đã thành công trong việc khiến Mỹ lên tiếng khẳng định quyền lợi của Mỹ ở Biển Đông ngay tại diễn đàn ASEAN. Lần này, theo Giáo sư Carl Thayer, Hà Nội có cơ hội tham vấn với các thành viên ASEAN, định hình nghị trình và kết quả các cuộc gặp của ASEAN và đưa ra tuyên bố của quốc gia chủ tịch. Mặc dù vậy thách thức cho Việt Nam là nguyên tắc đồng thuận của ASEAN trong mọi vấn đề. Đây cũng cũng chính là nguyên tắc khiến ASEAN có lúc đã không thể đưa ra được các tuyên bố chung, nhất là khi nói đến các hành động lấn lướt của Trung Quốc ở Biển Đông.
Nguồn : RFA tiếng Việt, 23/12/2019
Nhiều người vẫn hy vọng rằng, với vai trò là Chủ tịch ASEAN vào năm 2020, Việt Nam sẽ có cơ hội để thúc đẩy sự đồng thuận của ASEAN để từ đó, có một tiếng nói mạnh mẽ hơn trong vấn đề Biển Đông cũng như tìm kiếm sự bình ổn cho khu vực.
Trong năm 2020, Bắc Kinh sẽ vẫn thị uy sức mạnh để khẳng định ưu thế của nuớc này ở Biển Đông ?
Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, việc thiếu một định chế chung khiến ASEAN khó có tiếng nói mạnh mẽ trên trường quốc tế.
Điều này sẽ khiến cho Việt Nam khó làm được gì nhiều, với cương vị Chủ tịch ASEAN và cũng là thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc trong năm 2020.
Tuy ASEAN bị chia rẽ nhưng Việt Nam 'vẫn có cơ hội'
Tại một cuộc hội thảo Chiến lược và pháp luật trong tranh chấp Biển Đông, do nhóm nghiên cứu An ninh hàng hải, thuộc Học viện Quốc phòng Úc (Canberra) tổ chức, hồi tháng 11/2019, một nghiên cứu đã phân tích sự khác biệt trong cách tiếp cận của các bên liên quan trong các quốc gia ASEAN về Biển Đông.
Theo đó, Philippines từng bước thực hiện các thỏa thuận phát triển chung với Trung Quốc.
Tuy nhiên, điều này sẽ phải đối mặt với những khó khăn đáng kể trong một quốc gia có cả những ràng buộc về chính trị nội bộ lẫn các ràng buộc tiềm năng về hiến pháp.
Trong khi đó, Malaysia lại có một cách tiếp cận khác, hạ thấp bất đồng và tranh chấp với Trung Quốc. Ưu tiên hàng đầu của Malaysia là thắt chặt quan hệ kinh tế với Trung Quốc.
Còn hiện tại, giữa Indonesia và Trung Quốc chưa có tranh chấp gay gắt, dẫu một trong những đường chín đoạn của Trung Quốc đang cắt vào biển Natuna của Indonesia.
Như vậy, theo phân tích tại hội thảo nói trên mà Phó Giáo sư Douglas Guilfoyle gửi tóm tắt cho BBC News Tiếng Việt, xét ra Việt Nam vẫn là quốc gia chịu áp lực lớn nhất, đặc biệt là sau khi tàu Hải Dương địa chất 8 củaTrung Quốc tiến hành khảo sát ngay trong vùng đặc quyền kinh tế của nước này.
Sự chia rẽ ngay trong nội bộ các nước ASEAN cũng là một thách thức với Việt Nam trong vai trò chủ tịch, theo Giáo sư Carl Thayer (Đại học News South Wales, Canberra), trong bài phân tích đăng trên Facebook cá nhân.
Tuy nhiên, ông cũng viết thêm rằng, Việt Nam còn có một thách thức khác là nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Thư ký ASEAN và bộ máy giúp việc.
Theo Giáo sư Thayer, một trong những việc đầu tiên mà Việt Nam sẽ phải đối mặt vào năm tới là củng cố sự đồng thuận của ASEAN với lời mời của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump tham gia Hội nghị thượng đỉnh đặc biệt giữa các nhà lãnh đạo ASEAN và Hoa Kỳ tại Washington vào đầu năm 2020.
Trả lời phỏng vấn BBC News Tiếng Việt hôm 19/12, Tiến sĩ Collin Koh Swee Lean, nhà nghiên cứu tại Trường Nghiên cứu quốc tế S.Rajaratnam, Đại học Kỹ thuật Nanyang, ở Singapore, nhìn nhận rằng, tuy ASEAN luôn bị chia rẽ nhưng Việt Nam vẫn có thể tận dụng cơ hội là Chủ tịch của tổ chức này để tạo ảnh hưởng nhằm định hình chung quan điểm cho khối.
Ông nói : "ASEAN bị chia rẽ như lâu nay vẫn vậy. Tuy nhiên, Việt Nam có thể tạo ảnh hưởng bằng cách sử dụng các quyền ưu tiên của mình với tư cách là chủ tịch ASEAN để định hình các tiếng nói chung và thậm chí có thể đưa ra các sáng kiến khi cần thiết. Ảnh hưởng đó không phải là để nhắm tới các quốc gia thành viên ASEAN khác, quan trọng hơn là để ứng phó với Trung Quốc hoặc nhằm định hình thái độ của nước này khi đề cập đến vấn đề biển Đông".
Trong một bài viết gần đây đăng trên East Asia Forum, Tiến sĩ Collin Koh Swee Lean đưa ra một ví dụ, đó là việc tại Hội nghị quan chức cấp cao ASEAN- Trung Quốc về Thực hiện Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông (SOM-DOC) lần thứ 18 tại Đà Lạt hồi tháng 10/2019, Hà Nội đã tố Trung Quốc cản trở các hoạt động khai thác dầu khí của nước này trong Vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam tại Biển Đông.
Điều này có thể đã gây áp lực lên các nước thành viên ASEAN, vốn không muốn thấy tiến trình thảo luận COC bị cản trở. Từ đó, có thể đã ảnh hưởng đến quyết định của Trung Quốc rút tàu khảo sát Hải Dương Đại chất 8.
Theo Tiến sĩ Collin, diễn tiến nói trên là sự nhắc nhở về cách Hà Nội có thể tận dụng vị trí mới Chủ tịch ASEAN của mình để vượt qua những trở ngại trong tiến trình đàm phán COC.
Sự cạnh tranh giữa hai cường quốc đem lại cả sự bất lợi lẫn cơ hội cho các quốc gia Đông Nam Á.
Tiến sĩ Collin lý giải rằng, các quốc gia khác trong khối ASEAN cũng có thể có kỳ vọng như vậy về COC ; từ đó, sẽ gián tiếp tạo áp lực với Bắc Kinh.
"Có khả năng Trung Quốc có thể cố gắng không ở vào thế đối kháng với Việt Nam, trừ khi họ muốn quá trình đàm phán COC dẫn đến kết quả tồi tệ như những gì từng xảy ra tại Đà Lạt hồi tháng 10/2019", ông viết.
Tiến sĩ Colllin cũng cho rằng, sự kiện Bãi Tư chính diễn ra năm 2019 này cho thấy, Trung Quốc không ngần ngại trong việc vừa sử dụng vũ lực để tranh giành lợi ích của mình ở Biển Đông nhưng đồng thời cũng tham gia vào các cuộc đàm phán.
Trong năm 2020, Trung Quốc sẽ dịu hơn trong ứng xử ở Biển Đông do nước này phải bận tâm tới các vấn đề trong nước, từ suy thoái kinh tế do cuộc thương chiến với Hoa Kỳ, đến tình hình ở Hong Kong.
Tuy nhiên, ông cho rằng, Bắc Kinh sẽ không hoàn toàn từ bỏ việc sử dụng sức mạnh để ép buộc các nước nhằm giành phần thắng về mình.
Tìm cơ hội trong rủi ro
Ian Storey, một chuyên gia thuộc Viện Nghiên cứu Đông Á của Singapore, từng nhận định rằng, Biển Đông sẽ là nơi mà trong nay mai các nước lớn đọ sức với nhau.
Bên cạnh tham vọng của Trung Quốc, sự cạnh tranh giữa Trung Quốc và Mỹ ắt hẳn cũng sẽ có những tác động đến giải quyết căng thẳng ở Biển Đông và sự ổn định trong khu vực.
Tiến sĩ Collin cũng cho rằng, tất nhiên, cạnh tranh Trung-Mỹ mang theo những rủi ro liên quan đến cuộc đối đầu quân sự giữa hai cường quốc và điều đó có thể làm suy yếu hòa bình và ổn định của khu vực Đông Nam Á.
Việc Đô đốc Phil Davidson, chỉ huy Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, gần đây nói rõ rằng Hải quân Mỹ sẽ tiếp tục thực hiện hoạt động tuần tra tự do hàng hải trên Biển Đông để bảo vệ quyền tự do hàng hải, theo Tiến sĩ Collin, là lời nhắc nhở đến Trung Quốc và ASEAN rằng, quyền tự do hải hành không nên bị xâm phạm trong COC.
Bởi vậy, Tiến sĩ Collin cho rằng, bất chấp những căng thẳng do cuộc chiến thương mại đang diễn ra, hay những bất đồng liên quan đến công nghệ 5G, vấn đề Tân Cương và Hong Kong, nói chung, Bắc Kinh và Washington vẫn duy trì mối quan hệ quân sự ổn định. Và hai bên có khả năng duy trì thế ổn định này trong năm 2020 sắp tới.
"Tuy nhiên, tôi cho rằng, chúng ta không nên quá lo lắng về những rủi ro đó, bởi có một điều đó rõ ràng là cả Trung Quốc và Mỹ đều không muốn leo thang căng thẳng. Họ có thể sẽ cố gắng để quản lý sự cạnh tranh của họ trong một ngưỡng chấp nhận được", ông nhấn mạnh.
Hơn nữa, cũng theo Tiến sĩ Colllin, tác động của cạnh tranh giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ cũng không hẳn là bất lợi.
"Sự cạnh tranh này có thể có lợi cho các quốc gia Đông Nam Á, những nước đang cố gắng tìm thế cân bằng trong cuộc cạnh tranh giữa hai cường quốc, đứng ngoài tầm ngắm của cuộc đối đấu một cách tốt nhất có thể, trong khi vẫn giành được nhiều lợi lộc từ cả hai bên".
Về việc vậy cụ thể Việt Nam nên làm gì để bảo đảm rằng tiến trình giải quyết các căng thẳng ở Biển Đông trong năm 2020 cũng như vào các năm sau sẽ tương thích với lợi ích của nước này, Tiến sĩ Collin nhấn mạnh rằng, Việt Nam hoàn toàn có thể sử dụng vai trò Chủ tịch ASEAN của nước này để thúc đẩy việc thông qua các điều khoản mà nước này đề xuất trong văn bản đàm phán dự thảo COC duy nhất.
Trong văn bản này, Việt Nam đã đưa ra các đề xuất toàn diện và chi tiết nhất, nhất là trong việc đưa ra các biện pháp xây dựng lòng tin và an ninh tại Biển Đông, theo Tiến sĩ Collin.
Việt Nam tiếp nhận vai trò Chủ tịch ASEAN tại Thượng đỉnh ASEAN ở Bangkok.
Giáo sư Carl Thayer thì phân tích những gì mà theo ông Việt Nam có thể làm trong cương vị Chủ tịch ASEAN cũng như thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc.
"Việt Nam nên hợp tác chặt chẽ với Philippines vì đây là điều phối viên quốc gia ASEAN về quan hệ với Trung Quốc cho đến năm 2021. Và Bắc Kinh cũng đã phát đi tín hiệu rằng, họ sẽ hợp tác chặt chẽ với Manila…"..
Đồng thời, Việt Nam cũng có thể sử dụng vai trò là Chủ tịch ASEAN vào năm 2020 để thúc đẩy các biện pháp thiết thực nhằm thúc đẩy Cộng đồng An ninh Chính trị ASEAN ; chủ động định hình kết quả của các diễn đàn, hội nghị của khu vực và quan trọng nhất là Hội nghị thượng đỉnh Đông Á.
"Hội nghị thượng đỉnh Đông Á rất có thể sẽ được tổ chức sau cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ vào ngày 2/ 11. Việt Nam sẽ phải tìm hiểu xem nếu Tổng thống Trump tái cứ, liệu có thể mời ông đến dự được không. Còn nếu ông thất cử, tân tổng thống Hoa Kỳ sẽ nhậm chức vào tháng 1/2021, khi Brunei thay thế Việt Nam làm Chủ tịch ASEAN", Giáo sư Thayer viết.
Nguồn : BBC tiếng Việt, 23/12/2019