Bắc Kinh : Hà Nội 'không có quyền' bình luận về lệnh đánh bắt cá trên Biển Đông (VOA, 12/05/2020)
Trung Quốc phản pháo lại sự chống đối của Việt Nam về lệnh đánh bắt cá mà Hà Nội gọi là "đơn phương" mới được Bắc Kinh ban hành cho hơn ba tháng mùa hè.
Tàu Hải cảnh Trung Quốc trên Biển Đông - Ảnh minh họa
Theo Tân Hoa Xã, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm 11/5 tuyên bố rằng Việt Nam "không có quyền bình luận về lệnh đánh bắt cá vào mùa hè này của Trung Quốc trên vùng Biển Nam Trung Hoa (Việt Nam gọi là Biển Đông) vì các biện pháp này thuộc quyền hành chính của Trung Quốc".
Phát ngôn của ông Triệu Lập Kiên được đưa ra 3 ngày sau khi người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng lên tiếng phản đối "quyết định đơn phương" của Trung Quốc. Bà Hằng hôm 8/5 đề nghị phía Trung Quốc "không làm phức tạp thêm tình hình Biển Đông".
Lệnh cấm của Bắc Kinh có hiệu lực trong vòng 3 tháng rưỡi, từ ngày 1/5 cho đến 16/8, và lực lượng hải cảnh Trung Quốc tuyên bố sẽ áp dụng các biện pháp nghiêm ngặt nhất để ngăn chặn "mọi hoạt động đánh bắt cá bất hợp pháp".
Lệnh cấm này được Bắc Kinh đưa ra sau khi Mỹ cáo buộc Trung Quốc lợi dụng sự tập trung của cộng đồng quốc tế vào đại dịch virus corona để bành trướng trên Biển Đông.
Tân Hoa Xã cho biết, lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm vừa được ban hành áp dụng cho vùng hải lý phía bắc trên vĩ tuyến 12 của biển Nam Trung Hoa – tức Biển Đông. Hơn 50.000 tàu đánh cá của Trung Quốc sẽ ngừng hoạt động trong thời gian lệnh cấm.
Trong khi đó, người phát ngôn Bộ Ngoại giao ở Hà Nội hôm 8/5 cho rằng ngư dân Việt Nam "hoàn toàn có quyền đánh bắt cá trong vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam".
Ông Lập nói với các phóng viên tại cuộc họp báo ở Bắc Kinh hôm 11/5 rằng không thể tranh cãi về việc Tây Sa – mà Việt Nam gọi là Hoàng Sa – là một phần lãnh thổ của Trung Quốc. Người phát ngôn này nhấn mạnh rằng việc tiến hành lệnh cấm đánh bắt cá trên vùng biển có liên quan của Biển Đông là một biện pháp hợp lệ của Trung Quốc nhằm thực hiện các quyền hành chính và các nghĩa vụ quốc tế có liên quan theo luật pháp. Theo ông Lập, biện pháp này có lợi cho việc bảo vệ nguồn lợi thủy sản và sự phát triển bền vững trên Biển Đông.
Người phát ngôn BNG Trung Quốc nói rằng Việt Nam "không nên khuyến khích ngư dân của mình vi phạm các quyền và lợi ích của Trung Quốc cũng như làm suy yếu sự phát triển bền vững của các nguồn lợi thủy sản" trên Biển Đông.
Theo Tuổi Trẻ, Hội Nghề cá Việt Nam vào tuần trước đã gửi công văn tới Văn phòng Chính phủ và nhiều bộ sở khác để "kịch liệt phản đối hành động hết sức phi lý của phía Trung Quốc".
*********************
Trung Quốc nói Việt Nam 'không có quyền' phản đối lệnh cấm đánh cá trên Biển Đông (BBC, 12/05/2020)
Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm thứ Hai nói Việt Nam không có quyền bình luận về lệnh cấm đánh bắt cá mùa hè của Trung Quốc ở vùng biển Biển Đông vì biện pháp này thuộc về quyền hành chính của Trung Quốc, theo Tân Hoa Xã.
Năm 2019, ngư dân Việt Nam được chính phủ động viên ra khơi bám biển trong thời gian TQ áp lệnh cấm đánh bắt cá, nhưng các tàu có giấy phép khai thác chung trên biển được khuyến cáo không đi quá sang phía Đông đường phân định Vịnh Bắc Bộ
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Triệu Lập Kiên đưa ra phát biểu này sau khi người đồng cấp Việt Nam lên tiếng phản đối lệnh cấm đánh bắt cá của nước này và yêu cầu Trung Quốc không "làm phức tạp thêm tình hình ở Biển Đông".
Lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm của Trung Quốc trong năm nay bắt đầu vào ngày 1/5 và dự kiến sẽ kết thúc vào ngày 16/ 8 ở vùng biển phía bắc, trong phạm vi từ 12 độ vĩ Bắc đến vùng biển giao giữa tỉnh Phúc Kiến và Quảng Đông, bao gồm quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam, một phần khu vực Vịnh Bắc Bộ và bãi cạn Scarborough, theo tin từ truyền thông Việt Nam.
Còn theo Tân Hoa Xã, hơn 50.000 tàu đánh cá sẽ bị cấm hoạt động tại khu vực nói trên trong thời gian kéo dài ba tháng rưỡi.
Trung Quốc cũng tuyên bố sẽ tăng cường tàu chấp pháp giám sát hai tới ba lần một ngày để bắt và xử phạt các trường hợp tàu cá bị coi là vi phạm.
Trong bài phát biểu, ông Triệu Lập Kiên nói rằng "không thể chối cãi rằng Quần đảo Hoàng Sa là một phần của lãnh thổ Trung Quốc", đồng thời nhấn mạnh rằng Trung Quốc có quyền chủ quyền và quyền tài phán ở vùng biển có liên quan của Biển Đông theo luật pháp quốc tế và luật pháp trong nước của Trung Quốc.
"Thực hiện lệnh cấm đánh bắt cá mùa hè ở vùng biển có liên quan của Biển Đông là một biện pháp hợp pháp của Trung Quốc để thực hiện các quyền hành chính và thực thi các nghĩa vụ quốc tế có liên quan theo luật pháp", ông này nói. Ông nói thêm rằng biện pháp này có lợi cho việc bảo vệ nguồn lợi thủy sản và phát triển bền vững ở Biển Đông.
"Việt Nam không nên khuyến khích ngư dân xâm phạm quyền và lợi ích của Trung Quốc và làm suy yếu sự phát triển bền vững của nguồn lợi thủy sản ở Biển Đông", ông Triệu Lập Kiên nói, theo trích dẫn của Tân Hoa Xã.
Khu vực Trung Quốc đơn phương cấm đánh bắt cá ở Biển Đông theo đồ họa Google được VnExpress công bố
Việt Nam nói gì ?
Tuần trước, bà Lê Thị Thu Hằng, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, cho biết : Việt Nam yêu cầu Trung Quốc không làm phức tạp thêm tình hình ở Biển Đông.
Hôm 04/5/2019, bà Lê Thị Thu Hằng nói :
"Việt Nam phản đối và kiên quyết bác bỏ quyết định đơn phương này của phía Trung Quốc. Quy chế này xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, vi phạm các quyền và lợi ích pháp lý của Việt Nam trên các vùng biển của mình, vi phạm luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, đi ngược lại tinh thần và lời văn của Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc (DOC), trái với Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc".
Hồi năm 2019, Trung Quốc cũng đưa ra lệnh cấm đánh bắt cá tương tự. Và sau khi lệnh này được dỡ bỏ sau ba tháng rưỡi, Trung Quốc cho hơn 3. 000 tàu cá của mình ra khơi, khiến căng thẳng trong khu vực gia tăng.
Cùng lúc đó, hồi tháng 8/2019, tàu Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc cùng một số tàu hộ tống đã quay trở lại khu vực Bãi Tư chính thuộc Vùng Đặc quyền Kinh tế (EEZ) của Việt Nam sau một thời gian ngắn rút đi, khiến bầu không khí tưởng chừng đã dịu đi chút ít giữa Bắc Kinh và Hà Nội trở nên căng thẳng trở lại.
Lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm được Trung Quốc bắt đầu đưa ra từ năm 1999.
Lệnh này, theo Trung Quốc, là nhằm để bảo vệ các nguồn tài nguyên biển và môi trường sinh thái.
Tuy nhiên, Việt Nam luôn phản đối và coi đây là lệnh cấm bất hợp pháp.
Quyền đánh bắt cá đã trở thành một trong những vấn đề gây căng thẳng giữa Trung Quốc và một số nước khác trong khu vực.
Hồi năm 2019, Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte đã rút lại thỏa thuận miệng mà ông nói đã hứa với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình hồi 2016, theo đó cho phép ngư dân Trung Quốc vào đánh bắt ở vùng biển có tranh chấp quanh khu vực bãi Cỏ Rong.
Lệnh cấm đánh bắt cá năm 2020 của Trung Quốc được đưa ra trong bối cảnh căng thẳng trên Biển Đông đã leo thang, khi Trung Quốc bị cáo buộc lợi dụng tình hình dịch bệnh Covid-19 để tăng cường các hoạt động tại vùng biển này.
Ngay trước lệnh đánh bắt cá, Trung Quốc đã tiến hành khai thác khí tự nhiên trên Biển Đông, đưa tàu và máy bay tới diễn tập, khánh thành hai trạm nghiên cứu ở Đá Subi và Đá Chữ Thập. Trung Quốc cũng cho đánh chìm tàu cá của Việt Nam, và ra quyết định nâng cấp đơn vị hành chính của quần đảo mà nước này gọi là Tây Sa, Nam Sa thành quận Tây Sa, quận Nam Sa, thuộc thành phố Tam Sa - nằm trên đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam
Trước đó, trả lời BBC News tiếng Việt hôm 4/5, Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên lãnh đạo Ban Biên giới Chính phủ Việt Nam nói rằng ngoài tiếp tục lên tiếng phản đối, Việt Nam cần cung cấp và trang bị thêm cho ngư dân một số biện pháp nâng cao hơn để giúp cho việc tự bảo vệ và đấu tranh pháp lý hiệu quả hơn.
Ông Nguyễn Đức Huy cho VOA biết sau sự kiện này, ban tổ chức sẽ tiếp tục có những buổi trao đổi với Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và các dân biểu về vấn đề nhân quyền tại Việt Nam.
Ngày 11/5 đánh dấu ngày bác sĩ bất đồng chính kiến Nguyễn Đan Quế vào năm 1990 ra công bố Tuyên ngôn củ a Phong trào đấu tranh bất bạo động cho Nhân quyền tại Việt Nam.
Từ năm 1994, ngày này được Quốc hội Mỹ công nhận là Ngày Nhân quyền Việt Nam để nhấn mạnh sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với việc bảo vệ và khuyến khích các quyền tự do căn bản của công dân tại Việt Nam được quốc tế công nhận.
Kể từ 1995, Ngày Nhân Quyền Việt Nam 11/5 được tổ chức hằng năm tại trụ sở Quốc hội Hoa Kỳ.
Biển Đông : Trung Quốc toan tính gì khi lập 2 ‘quận’ mới cho ‘Tam Sa’ ?
Thụy My, RFI, 13/05/2020
AMTI : Trung Quốc gia tăng mở rộng sự hiện diện về mặt hành chính trên Biển Đông một cách âm thầm, nên ẩn giấu phía sau là những hậu quả thực sự cho các quốc gia yêu sách khác. Việc lập hai "quận" mới cho "thành phố Tam Sa" không chỉ mang tính biểu tượng.
Đảo Phú Lâm, nơi có miếu thần Hoàng Sa thời vua Minh Mạng, nay trở thành thủ phủ "thành phố Tam Sa". Ảnh vệ tinh của AMTI. © AMTI
Ngày 18/04/2020, Quốc vụ viện Trung Quốc đã ra quyết định lập hai "quận" mới trực thuộc "thành phố Tam Sa" (Sansha), đặt trụ sở tại đảo Phú Lâm (Woody Island) trên quần đảo Hoàng Sa - cưỡng chiếm của Việt Nam năm 1974.
Một số nhà quan sát có thể cho rằng việc lập hai "quận" mới này chỉ mang tính biểu tượng mà thôi. Tuy nhiên theo nhận định của cơ quan Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á (AMTI) của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược (CSIS) ngày 12/05/2020, động thái này sẽ cải thiện việc quản lý hành chính và thúc đẩy các chính sách mới của Trung Quốc về Biển Đông.
Đảo Phú Lâm chiếm của Việt Nam thành đại bản doanh
Cái gọi là "Thành phố Tam Sa" được Bắc Kinh lập ra từ tháng 7/2012, trực thuộc tỉnh Hải Nam. "Thẩm quyền" của "thành phố" này được cho là trải rộng khắp 280 đảo, bãi cát ngầm, rạn san hô và các thực thể khác, cùng với các vùng biển xung quanh, tổng cộng lên đến gần 800.000 dặm vuông biển và đất liền.
Khu vực này bao trùm phần lớn yêu sách của Trung Quốc trong khuôn khổ đường 9 đoạn tự vẽ, gồm quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa, cùng với bãi Macclesfield và bãi cạn Scarborough (mà Trung Quốc gọi là quần đảo Trung Sa).
Việt Nam và Philippines phản đối, cho rằng hành động đơn phương của Trung Quốc vi phạm chủ quyền của hai nước láng giềng tại vùng biển tranh chấp.
Từ năm 2012, đảo Phú Lâm nói riêng và "thành phố Tam Sa" nói chung đã phát triển rất nhanh chóng. Trong tám năm qua, đã mở một trường học, thu hút được nhiều đầu tư, xây dựng các cơ sở hạ tầng mới như cầu cảng, nhà máy lọc nước biển. Du lịch nở rộ, kinh tế đa dạng hóa, hậu cần và viễn thông phát triển, nhiều nhà ở kiên cố được dựng lên và khuyến khích định cư.
Đảo Phú Lâm và các thực thể khác được cho là thuộc quyền tài phán của "thành phố Tam Sa" là nơi đặt các hệ thống vũ khí, và các cơ quan của "địa cấp thị" này phối hợp trong việc phát triển và hoạt động của lực lượng dân quân biển Trung Quốc. Và nay trên các thực thể đa dạng của "Tam Sa" đầy dẫy các hệ thống thiết bị tình báo, giám sát hiện đại.
Việc thành lập hai "quận" mới Tây Sa (Xisha) tại Hoàng Sa và Nam Sa (Nansha) ở Trường Sa là sự tiếp tục quỹ đạo phát triển của "Tam Sa".
Vai trò "Tây Sa" và "Nam Sa"
Trong cách tổ chức của Trung Quốc, các địa cấp thị bao gồm các quận và phường trực thuộc, có bộ máy chính quyền của từng cấp. Thế nên khi Quốc vụ viện lập ra hai quận mới cho "thành phố Tam Sa", cũng đồng thời lập ra hai chính quyền cấp quận mới. Đó là "Tây Sa khu" đặt trụ sở trên đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa, và "Nam Sa khu" đặt tại Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) thuộc Trường Sa, bị Trung Quốc chiếm năm 1988.
Ngoài việc nắm "quyền tài phán" trên quần đảo Hoàng Sa, chính quyền "Tây Sa khu" cũng quản lý luôn "quần đảo Trung Sa" (Zhongsha), trong khi chính quyền "Nam Sa khu" sẽ quản lý quần đảo Trường Sa. Vì chính quyền do đảng chỉ đạo, nên quận ủy cũng sẽ hiện diện tại các quận mới.
"Tây Sa" và "Nam Sa" giúp mở rộng năng lực hành chính của Trung Quốc trên Biển Đông. Nhà nước đảng trị từ lâu đã tìm cách tăng cường hiệu quả quản trị trên các lãnh thổ yêu sách tại vùng biển này.
Đầu tiên Bắc Kinh cho thành lập ủy ban đảng và chính quyền tại đảo Phú Lâm từ tháng 3/1959 (đảo Phú Lâm bị Trung Quốc bí mật chiếm đóng năm 1956, và quản lý toàn bộ hòn đảo sau trận Hải chiến Hoàng Sa năm 1974), có quyền tài phán như "thành phố Tam Sa" hiện nay. Đến cuối năm 2008, đảng và chính quyền Phú Lâm lập ra 18 ban hành chính chức năng và 20 định chế công mới.
Khi "thành phố Tam Sa" ra đời tháng 7/2012, các tổ chức chính quyền mới đã thay thế các bộ phận cũ. Từ năm 2012, Tam Sa liên tục đưa ra các hình thức quản trị địa phương mới, trong đó có ít nhất 4 ủy ban công tác và ủy ban quản lý, cũng như 10 ủy ban thường trú khu phố. Do đó việc lập thêm hai quận Tây Sa và Nam Sa là bước đi mới nhất trong một kế hoạch dài hạn của Trung Quốc nhằm bành trướng trên Biển Đông.
Các tổ chức của "thành phố Tam Sa" là trợ thủ cho sự hiện diện của Trung Quốc trên Biển Đông, thông qua việc thực hiện chức năng điều phối và hoạch định chính sách quan trọng. Có thể kể : định ra chính sách thuế và công nghiệp địa phương, hỗ trợ hoạt động dân quân biển, đưa vào vận hành các tàu mới, điều phối nguồn lực dân sự và quân sự. Bên cạnh đó là cải thiện điều kiện sống, lập các chương trình tuyên truyền, thiết trí các hệ thống viễn thông mới…
Những người được giao điều hành "Tam Sa" sẽ có tám năm bận rộn với việc biến đảo Phú Lâm và các thực thể khác thành trung tâm cho các hoạt động của Trung Quốc trên Biển Đông. Hai quận "Tây Sa" và "Nam Sa" sẽ cung cấp người quản lý, nhân sự và nguồn lực cần thiết cho việc xây dựng và thực thi chính sách địa phương ở mức độ rộng lớn hơn, qua đó nâng cao năng lực hành chính tổng thể của "thành phố Tam Sa".
Cạnh tranh giữa hai "quận" mới ?
Việc bổ sung thêm hai quận mới cho "thành phố Tam Sa" còn có thể thúc đẩy các chính sách mới về Biển Đông. Được cho là "Tây Sa" và "Nam Sa" sẽ quản lý về địa lý và chính trị tại hai khu vực khác nhau, hai cơ quan này rốt cuộc có thể theo đuổi các lợi ích khác biệt.
"Tây Sa khu" sẽ quản lý một khu vực tương đối ổn định trên Biển Đông, tại đó Trung Quốc đã có sự hiện diện dân sự đông đảo. Còn "Nam Sa khu" sẽ phụ trách một khu vực tranh chấp nóng bỏng, với nhiều lực lượng quân sự, chấp pháp và dân quân biển. Do vậy các nhà quản lý sẽ phải áp dụng các chính sách phù hợp với đặc điểm của địa phương mình.
Chẳng hạn, chính quyền "Tây Sa khu" có thể thúc đẩy việc tổ chức cho du khách Trung Quốc đến tham quan quần đảo Trường Sa, một thủ thuật đầy khiêu khích nhằm phát triển kinh tế địa phương, dân sự hóa sự hiện diện ở Trường Sa và xác quyết chủ quyền.
Hai quận này có cạnh tranh lợi ích với nhau hay không và ở mức độ nào, còn tùy thuộc vào quyền tự chủ tương đối của họ đối với chính quyền "thành phố Tam Sa". Do hành vi của Trung Quốc trên Biển Đông là kết quả tương tác giữa nhiều nhân tố trung ương và địa phương khác nhau, nên sự thay đổi quan hệ giữa các cấp hành chính của "Tam Sa" cần được theo dõi chặt chẽ.
AMTI kết luận, vì Trung Quốc gia tăng mở rộng sự hiện diện về mặt hành chính trên Biển Đông một cách âm thầm, nên ẩn giấu phía sau là những hậu quả thực sự cho các quốc gia yêu sách khác. Các quận mới sẽ cung cấp các nguồn lực xây dựng và thực thi chính sách bổ sung cho "thành phố Tam Sa", giúp những người lãnh đạo theo đuổi các chủ trương cụ thể.
Nằm ở tuyến đầu tranh chấp Biển Đông, "thành phố Tam Sa" và các tổ chức hành chính trực thuộc chịu trách nhiệm hằng ngày đều phải thúc đẩy lợi ích về lãnh thổ của Trung Quốc. Thế nên việc tăng cường năng lượng hành chính cho "Tam Sa" sẽ nâng cao vị trí tổng thể của Trung Quốc trên vùng biển náo động này. Các quốc gia đòi hỏi chủ quyền, đặc biệt là Việt Nam, cần phải chú ý "nhất cử nhất động" trong chính sách bành trướng Bắc Kinh.
Thụy My
Nguồn : RFI, 13/05/2020
******************
Tiền đồn quân sự Trung Quốc ở Biển Đông - Thách thức của cộng đồng quốc tế
David Geaney, Nghiên cứu Biển Đông, 13/05/2020
Trong khi thế giới đang chật vật đương đầu với đại dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus Corona (Covid-19) gây ra, Trung Quốc tiếp tục củng cố các đảo mà nước này tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông, mà không có bất kỳ phản ứng nào từ cộng đồng quốc tế.
Hình ảnh các cấu trúc của Trung Quốc và một phi đạo trên rạn san hô Subi nhân tạo tại nhóm đảo Trường Sa ở Biển Đông chụp ngày 21 tháng 4 năm 2017 từ một chiếc C-130 của Không quân Philippines. (Francis Malasig / AP)
Ngay cả vụ đâm chìm tàu cá của Việt Nam cũng chỉ xuất hiện phản ứng tối thiểu từ cộng đồng quốc tế, cho dù Philippines và quân đội Mỹ đã đưa ra tuyên bố phản đối vụ việc này.
Trước đại dịch Covid-19, chiến lược "chiến tranh không khói súng" của Trung Quốc đã dẫn đến việc "gần như bình thường hóa" sự tăng cường sức mạnh quân sự và các yêu sách "đường chín đoạn" của Bắc Kinh trên Biển Đông. Kể từ năm 2013, "Vạn lý Trường Thành Cát" (do cựu Chỉ huy Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ, Đô đốc Harry Harris đặt tên) thậm chí đang ngày càng trở nên ghê gớm hơn. Cùng với việc bất tuân thủ phán quyết năm 2016 của Tòa trọng tài thường trực (PCA) ở La Hay liên quan tới việc bác bỏ yêu sách "đường chín đoạn", rõ ràng Trung Quốc sẽ tiếp tục kiên quyết đưa ra các yêu sách của họ.
Bất chấp điều này, Mỹ, Liên hợp quốc (LHQ) và Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) có thể cùng nhau nhanh chóng hành động để ngăn chặn việc Trung Quốc tiếp tục quân sự hóa các đảo mà nước này tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông.
Ở thời điểm hiện tại, Trung Quốc đã có các đường băng và hàng chục nhà chứa máy bay chiến đấu trên một số đảo, cũng như tên lửa hành trình chống hạm, hệ thống phòng không và phòng thủ tên lửa. Trung Quốc đã tận dụng những hòn đảo này để khởi động các chiến dịch gây sức ép ở quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa và thậm chí cả biển Natuna (do Indonesia tuyên bố chủ quyền).
Mặc dù họ đã kiềm chế việc triển khai hàng loạt máy bay chiến đấu đến các căn cứ trên đảo, nhưng trong trường hợp xảy ra một cuộc xung đột, các phi đội chiến đấu cơ có khả năng nhanh chóng tổ chức và sử dụng các cơ sở quân sự này làm căn cứ tiền tiêu. Sau đó, Trung Quốc có thể sử dụng các hệ thống phòng không, phòng thủ tên lửa và chống hạm được lắp đặt gần đây để hạn chế các cuộc xâm nhập vào Biển Đông, qua đó ngăn chặn hữu hiệu kẻ thù khi bắt đầu chiến sự. Trên thực tế, những hòn đảo này nên được coi là mối đe dọa hiện hữu đối với Đài Loan, vì chúng giảm nhẹ sự răn đe do Mỹ lãnh đạo nhằm vào nỗ lực thống nhất đảo Đài Loan bằng vũ lực của Đại lục.
Mỹ, LHQ và ASEAN nên hợp tác để đối phó các công sự này của Trung Quốc trên Biển Đông, vì mỗi bên đều bị tổn hại nếu không hành động. Mỹ nên khuyến khích hợp tác giữa các quốc gia ASEAN và xây dựng các mối quan hệ dân sự, kinh tế, ngoại giao và quân sự mạnh mẽ hơn với mỗi nước để giúp giảm bớt áp lực từ Trung Quốc cũng như trấn an các nước này bằng sự hỗ trợ của Mỹ. Nhiều quốc gia Đông Nam Á đã dự đoán và hy vọng Mỹ và LHQ sẽ thực thi hơn nữa phán quyết năm 2016 của PCA, và một mối quan tâm lâu dài hơn trong khu vực này sẽ mang lại một sự thay thế đáng hoan nghênh đối với "người hàng xóm nguy hiểm" ở phương bắc.
Các hòn đảo này tạo điều kiện cho Trung Quốc thiết lập các căn cứ, qua đó có thể hăm dọa các quốc gia ASEAN từ bỏ yêu sách của mình hoặc phục tùng các yêu sách của Bắc Kinh. Các lực lượng bán quân sự và tàu cá Trung Quốc lợi dụng các căn cứ trên đảo làm nơi tập trung để quấy rối và thậm chí đánh chìm các tàu thương mại của các nước ASEAN. Cần có một phản ứng phối hợp của cộng đồng quốc tế để hạn chế sự thành công của Học thuyết Monroe phiên bản Trung Quốc trên toàn Châu Á.
LHQ hiện có vai trò sống còn trong việc đảm bảo rằng Trung Quốc tuân thủ luật pháp quốc tế và tôn trọng chủ quyền của các quốc gia thành viên khác. LHQ cần phải có hành động gây sức ép đối với bất kỳ quốc gia nào không tuân thủ luật pháp hoặc không ủng hộ hệ thống quốc tế. Sự ủng hộ và tham gia ngày càng gia tăng của LHQ trong các hoạt động tuần tra tự do hàng hải sẽ giúp tạo áp lực quốc tế bền vững đối với Trung Quốc để chấm dứt việc nước này tiếp tục quân sự hóa Biển Đông.
Đàm phán song phương luôn đặt các nước vào thế bất lợi trước Trung Quốc, song các cuộc đàm phán đa phương sẽ giúp ASEAN có thêm sức mạnh thương lượng. Trung Quốc sẽ cố gây áp lực với từng quốc gia, nhưng nếu các thành viên ASEAN hợp tác với nhau, họ có thể khiến các cuộc đàm phán đa phương tăng thêm áp lực đối với Trung Quốc, qua đó ngăn chặn sự quấy rối và xâm lấn lãnh thổ hơn nữa của Bắc Kinh.
Indonesia và Việt Nam có thể rất phù hợp để đóng vai trò lãnh đạo trong việc điều phối một phản ứng thống nhất của ASEAN với Washington. Mỹ có thể hạn chế việc mở rộng tầm ảnh hưởng của Trung Quốc ở Châu Á bằng một thỏa thuận đa phương với Nhật Bản, Hàn Quốc, Mông Cổ và các quốc gia ASEAN, tương tự như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) ban đầu được thực thi vào năm 2015, nhưng với nhiều thành tố chính trị và quân sự hơn. Nếu không có một sáng kiến ASEAN thống nhất được hỗ trợ bởi Mỹ và các đồng minh chủ chốt, các quốc gia Châu Á sẽ phải đối mặt với tình trạng khó xử khi cố gắng chống lại các nỗ lực gây áp lực, hăm dọa của Trung Quốc. Trước đại dịch Covid-19, điều quan trọng hơn bao giờ hết là Mỹ cần phải ủng hộ ASEAN vì Trung Quốc đang chờ đợi để nhanh chóng "giúp đỡ" trong khi củng cố tầm ảnh hưởng và thắt chặt sự kìm kẹp đối với khu vực này.
Hiện Mỹ, LHQ và ASEAN đều bị đe dọa bởi trạng thái gần như bình thường trong hành động xâm lược và quân sự hóa các đảo của Trung Quốc trên Biển Đông. Cần phải có một nỗ lực phối hợp và thống nhất để chống lại các tác động đang diễn ra của các căn cứ đảo này đối với thương mại quốc tế, luật pháp quốc tế và an ninh Đông Nam Á. Nếu việc Trung Quốc mở rộng vòng ảnh hưởng và dấu tích quân sự ở Biển Đông không bị ngăn chặn một cách hiệu quả, thì Mỹ sẽ mất ảnh hưởng đáng kể ở Châu Á và gặp khó khăn trong việc chống lại chủ nghĩa phiêu lưu kinh tế và quân sự của Trung Quốc, qua đó gây nguy hiểm cho các đồng minh chủ chốt cũng như những lợi ích của chính nước Mỹ.
Minh Anh giới thiệu
Nguồn : Nghiên cứu Biển Đông, 13/05/2020
David Geaney là Đại úy Không quân Hoa Kỳ, từng là diễn giả về sự trỗi dậy của Trung Quốc cho Hiệp hội Nghiên cứu Quốc tế. Bài viết được đăng trên DefenseNews
Khả năng cuộc chiến Biển Đông định hình lại Châu Á
Kerry K. Gershaneck & James E. Fanell, Nghiên cứu Biển Đông, 13/05/2020
Một cuộc chiến có thể nổ ra bất kỳ lúc nào ở Biển Đông có thể định hình lại Châu Á nói riêng và thế giới nói chung, trong bối cảnh cả Mỹ lẫn Trung Quốc đều đang chuẩn bị cho kịch bản này.
Cả Trung Quốc lẫn Hoa Kỳ đang tăng cường lực lượng hải quân trên Biển Đông. Ảnh minh họa
Tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với Biển Đông là phi pháp, nhưng các quan chức theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan ở Bắc Kinh vẫn không ngừng khuyến khích các lực lượng của mình tấn công tàu hải quân Mỹ hoạt động hợp pháp tại vùng biển này.
Có vẻ như Trung Quốc đang kích động chiến tranh – một cuộc chiến mà rất có thể sẽ khiến nước này phải gánh chịu hậu quả. Thế nhưng, cuộc chiến đó sẽ không chỉ giới hạn ở vùng biển này mà cuối cùng có thể kết thúc bằng sự thay đổi chính trị ở Bắc Kinh.
Một sĩ quan của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) gần đây đã hô hào tàu hải quân PLA đâm chìm các tàu hải quân Mỹ đang thực thi các hoạt động tự do hàng hải tại Biển Đông. Một sĩ quan khác thì kêu gọi đánh chìm hai tàu sân bay của Mỹ và tiêu diệt 10.000 lính thủy Mỹ để buộc nước này phải rời khỏi vùng biển tranh chấp này.
Tại một hội thảo ở Bắc Kinh do tờ Thời báo Hoàn Cầu tài trợ ngày 8/12/2018, Đại tá Không quân PLA Đới Húc, Viện trưởng Viện nghiên cứu an ninh và hợp tác hàng hải Trung Quốc, tuyên bố : "Nếu tàu Mỹ còn tiếp tục xâm phạm lãnh hải của Trung Quốc, đề nghị điều hai tàu chiến : một để ngăn chặn và một để đâm chìm".
Một sĩ quan cấp cao của Hải quân PLA sau đó đã kêu gọi đánh chìm hai tàu sân bay của Hải quân Mỹ để dọa cho Mỹ phải sợ mà rời khỏi Biển Đông. Trong một bài phát biểu ngày 20/12/2018, Chuẩn đô đốc La Viện, Phó viện trưởng Viện khoa học quân sự Trung Quốc, khẳng định yếu tố then chốt để Trung Quốc kiểm soát tình hình tại Biển Đông là sử dụng tên lửa hành trình đánh chìm hai tàu sân bay, tiêu diệt càng nhiều lính thủy Mỹ càng tốt. Trong lời hô hào tiêu diệt 10.000 lính Mỹ, ông tuyên bố : "Điều khiến Mỹ lo sợ nhất là bị thương vong. Chúng ta sẽ thấy Mỹ sợ hãi như thế nào".
Có thể có những ý kiến bao biện rằng thái độ hiếu chiến như vậy của các sĩ quan PLA cấp cao không phản ánh chủ trương chính thức của Trung Quốc hoặc đơn giản đây chỉ là một cuộc chiến tranh thông tin, nhưng những lời biện hộ như vậy là không thỏa đáng. Không một ai trong số các sĩ quan cấp cao nói trên bị Trung Quốc công khai chỉ trích vì kích động chiến tranh, và Hải quân Trung Quốc vẫn có những hành động ngày càng nguy hiểm trên Biển Đông.
Ngày 30/9/2018, tàu khu trục Lan Châu của Hải quân Trung Quốc chỉ còn cách tàu USS Decatur khoảng 40 m khi cắt ngang mũi tàu chiến Mỹ tại khu vực gần Đá Ga Ven ở Biển Đông. Thuyền trưởng tàu Decatur buộc phải đánh lái đột ngột để tránh hành động khiêu khích của tàu Lan Châu. Hải quân Mỹ cho rằng hành động có toan tính của tàu Lan Châu nói theo ngôn ngữ ngoại giao là không an toàn và thiếu chuyên nghiệp, còn nói thẳng ra thì là hành động mưu sát.
Hải quân Trung Quốc, cùng với Lực lượng cảnh sát biển và các lực lượng dân quân biển, cũng đã đe dọa – và đánh chìm – tàu Việt Nam, truy đuổi tàu hải quân và tàu đánh cá của Philippines khỏi vùng biển này.
Đài Loan cũng có một vai trò quan trọng trong toan tính của Bắc Kinh ở Biển Đông. Nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình đã ra lệnh cho PLA sẵn sàng đánh chiếm Đài Loan vào năm 2020. Với việc kiểm soát toàn bộ Biển Đông, Trung Quốc sẽ mở thêm một hướng tấn công khác cho lực lượng đánh chiếm Đài Loan của họ, qua eo biển Ba Sĩ.
Tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với Biển Đông đương nhiên là không có giá trị. Ngày 12/07/2016, Tòa trọng tài thường trực tại La Hay đã ra phán quyết khẳng định tuyên bố chủ quyền lịch sử của Trung Quốc đối với Biển Đông, thông qua "đường 9 đoạn", là phi pháp. Tuy nhiên, nếu xét tới tham vọng theo đuổi cuộc phục hưng vĩ đại của Tập Cận Bình thì có thể thấy quyền kiểm soát vùng biển trọng yếu giàu tài nguyên và có giá trị chiến lược toàn cầu này rõ ràng là mục tiêu đáng để Trung Quốc gây chiến – một cuộc chiến toàn cầu.
"Đại họa với những hậu quả khôn lường"
Theo cựu Trung tướng Thủy quân lục chiến Mỹ Wallace C. Gregson, Chiến tranh thế giới thứ nhất là câu chuyện cảnh giác về một sự việc tưởng chừng nhỏ nhặt nhưng lại dẫn đến thảm họa toàn cầu.
Gregson cho biết : "Năm 1914, khi mà chiến tranh được xem là điều phi lý và khó xảy ra, một công nhân lang bạt đã ám sát Đại công tước Ferdinand và vợ ông ta. Hành động bạo lực này đã thổi bùng một cuộc chiến tranh không ai ngờ tới với mức độ khốc liệt chưa từng thấy". Hơn 8 triệu binh lính đã thiệt mạng khi tham gia cuộc chiến, và có lẽ khoảng 13 triệu dân thường đã thiệt mạng do hậu quả của cuộc xung đột.
Bốn đế quốc lớn chịu trách nhiệm gây ra cuộc đại chiến – Nga, Áo-Hung, Đức và Ottoman – đều sụp đổ. Gregson nhận định : "Hiện nay, Biển Đông là khu vực nguy hiểm nhất trên thế giới. Những tuyên bố thù địch và hành động khiêu khích tạo thành mồi lửa khô, chỉ còn chờ tia lửa là bùng lên thành thảm họa".
Vậy thì bằng cách nào Trung Quốc có thể tạo ra "tia lửa" ở Biển Đông để làm bùng lên một thảm họa với những hậu quả khôn lường – một cuộc chiến tranh thế giới mới ?
Nhìn lại năm 2019 : Môi trường chính trị bất ổn
Trong suốt năm 2019, Tập Cận Bình tiếp tục theo đuổi giấc mộng về "cuộc phục hưng vĩ đại" để thống nhất những vùng mà Bắc Kinh xem là thuộc chủ quyền lãnh thổ của mình. Công cụ của ông bao gồm cuộc chiến chính trị hung hăng và lực lượng quân sự ngày càng mạnh mẽ và tự tin thái quá.
Bất chấp lời cam kết của Tập Cận Bình năm 2014 về việc không quân sự hóa các đảo nhân tạo tại quần đảo Trường Sa, Trung Quốc vẫn xây dựng các căn cứ không quân và công trình phòng thủ tại đó và triển khai tàu chiến đến những căn cứ hải quân mới ở đá Chữ Thập, đá Vành Khăn và đá Subi. Tại Biển Đông, lực lượng Hải quân, Cảnh sát biển và dân quân biển Trung Quốc đã quấy nhiễu tàu đánh cá và tàu quân sự của các nước khác.
Tuy nhiên, các nước trên thế giới đã bắt đầu từng bước chống lại sự hung hăng quá mức của Trung Quốc tại Biển Đông.
Khi Hải quân Hoàng gia Anh và Hải quân Mỹ tổ chức tập trận chung tại Biển Đông đầu năm 2019, Bắc Kinh đã được thông báo trước. Cuộc diễn tập Mỹ-Anh diễn ra ngay sau hoạt động tự do hàng hải đầu tiên của Hải quân Hoàng gia Anh vào tháng 8/2019, gần khu vực quần đảo Hoàng Sa đang tranh chấp. Anh cam kết tái can dự vào khu vực để đối chọi với sức mạnh ngày càng lớn của Trung Quốc và hoạt động quân sự hóa của nước này tại Biển Đông.
Đương nhiên là Trung Quốc chỉ trích gay gắt những hành động của Anh. Nhưng có lẽ giới cầm quyền Bắc Kinh đã đánh giá thấpmối quan ngại ngày càng lớn của Liên minh Châu Âu (EU) và Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) trước những hành động hung hăng, bất hợp pháp của Trung Quốc tại Biển Đông và những hành động cưỡng ép thể hiện sự tha hóa của nước này trên toàn cầu.
Tổng thư ký NATO Jens Stoltenberg thường bày tỏ mối lo ngại của NATO về tình hình tại Biển Đông và biển Hoa Đông, cũng như tái khẳng định việc NATO phản đối những hành động hăm dọa đơn phương mà có thể làm thay đổi nguyên trạng và gia tăng căng thẳng. Quyết tâm chính trị này được phản ánh trong cam kết mới của NATO về việc tăng chi tiêu quốc phòng và hiện đại hóa tiềm lực.
Điều cũng quan trọng không kém đối với vấn đề Biển Đông là cam kết của NATO về việc thúc đẩy sự ổn định ở nước ngoài thông qua các lực lượng viễn chinh có khả năng triển khai nhanh. Mặc dù vậy, Bắc Kinh tỏ ra xem nhẹ những quan ngại của NATO, cũng như khả năng đã được chứng minh của liên minh này trong việc tiến hành các hoạt động tác chiến lâu dài ở những vị trí xa xôi như Afghanistan sau vụ tấn công khủng bố 11/9 vào nước Mỹ.
Các quan chức cấp cao của EU cũng bày tỏ sự lo lắng về hành động phi pháp của Trung Quốc tại Biển Đông. Chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc được xem là mối đe dọa trực tiếp đối với EU, trong bối cảnh EU đang tập trung vào việc tăng cường an ninh và hội nhập quốc phòng. EU đã tăng cường khả năng sẵn sàng chiến đấu, cũng như hợp nhất chính sách và năng lực phòng thủ với Quỹ phòng thủ Châu Âu và Thỏa thuận hợp tác cấu trúc thường trực về quốc phòng (PESCO), bằng cách phát triển các lực lượng triển khai nhanh, và xây dựng Sáng kiến can thiệp Châu Âu do Pháp thúc đẩy.
Để nêu bật mối lo ngại ngày càng lớn trước sự bành trướng của Trung Quốc, tháng 3/2019, Pháp đã điều tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân Charles de Gaulle cùng một đội tác chiến gồm ba tàu khu trục, một tàu ngầm và một tàu tiếp tế đến khu vực này.
Lúc này, Trung Quốc phải đối mặt với một mặt trận thống nhất đang được hình thành gồm những quốc gia quyết tâm duy trì quyền tự do hàng hải tại một trong những tuyến hàng hải quan trọng nhất thế giới.
Trong bối cảnh thái độ hung hăng trên biển và cuộc chiến chính trị của Trung Quốc với các quốc gia cũng có tuyên bố chủ quyền trong khu vực ngày càng gia tăng, các nước Đông Nam Á như Philippines và Việt Nam đã bắt đầu tìm kiếm sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế.
Chính phủ Philippines trước thời Duterte đã chính thức đề nghị Mỹ hỗ trợ theo Hiệp ước phòng thủ chung. Năm 1994 và một lần nữa vào năm 2012, các nhà lãnh đạo của Philippines đã sửng sốt khi không được Chính phủ Mỹ ủng hộ trong cuộc tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc. Tuy nhiên, việc Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo tuyên bố hôm 1/3/2019 rằng bất kỳ cuộc tấn công vũ trang nào nhằm vào các lực lượng, máy bay hoặc tàu thuyền của Chính phủ Philippines ở Biển Đông đều sẽ kích hoạt các cam kết theo Điều 4 của Hiệp ước phòng thủ chung, chứng tỏ rằng một thế hệ quan chức an ninh quốc gia mới của Mỹ đã rút được kinh nghiệm từ những sai lầm trong mối quan hệ đồng minh trước đây. Quân đội Mỹ đã nhanh chóng tăng cường sự hiện diện của họ tại vùng đặc quyền kinh tế của Philippines.
Trong một động thái tăng cường liên minh khác, Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ và Lực lượng phòng vệ trên biển Nhật Bản tại Biển Đông đã mở rộng các hoạt động có sự phối hợp của tàu sân bay, tàu chiến mặt nước và tàu ngầm. Động thái này phát đi một thông điệp rõ ràng tới Bắc Kinh rằng Biển Đông vẫn là vùng biển chung chứ không phải cái "ao nhà" của Trung Quốc và Biển Đông sẽ không phải nơi ẩn náu an toàn cho lực lượng tàu ngầm có trang bị tên lửa đạn đạo của nước này. Màn thể hiện tinh thần đoàn kết này là sự khích lệ đáng kể chưa từng có đối với nhiều nước trước những hoạt động bành trướng của Trung Quốc.
Trong khi đó, Úc kêu gọi một giải pháp hòa bình cho tình hình căng thẳng ngày càng gia tăng, nhưng tuyên bố nước này sẽ không để Trung Quốc thống trị Biển Đông. Máy bay do thám hàng hải P-8A Poseidon của Không quân Hoàng gia Úc đã bắt đầu các chuyến bay hàng ngày trên Biển Đông như một phần của chiến dịch tuần tra hàng hải Operation Gateway. Quan trọng không kém, Úc cũng đã bắt đầu công khai những hình ảnh về các hoạt động bành trướng trên biển của Trung Quốc tại khu vực này.
Ngày càng lo lắng trước sự bành trướng của Trung Quốc ở Ấn Độ Dương, Ấn Độ cũng đã tăng cường, dẫu có phần muộn màng, việc hợp tác với các thành viên khác của nhóm Bộ Tứ là Úc, Nhật Bản và Mỹ. Bốn nước này đã bắt đầu lên kế hoạch về việc phối hợp các hoạt động răn đe ở Biển Đông.
Năm 2020 : Những dấu hiệu, cảnh báo và chiến tranh
Trung Quốc đã để lộ các báo cáo cho rằng Tập Cận Bình ra lệnh cho PLA dùng vũ lực để giành lại Đài Loan vào năm 2020. Bước sang năm 2020, Tập Cận Bình đã để mắt tới Biển Đông và coi đó là mục tiêu cũng có thể đạt được trong năm nay. Hai mục tiêu đan xen mật thiết với nhau. Trong đó, Biển Đông là mục tiêu cần đạt trước.
Ngày 21/1/2020, Tập Cận Bình ra lệnh triển khai 5 tàu nạo vét xây đảo cỡ lớn từ đảo Hải Nam, cùng với các tàu và trang thiết bị phụ trợ liên quan đến giai đoạn đầu của việc xây dựng đảo nhân tạo ở Biển Đông. Đích đến của những con tàu này là bãi cạn Scarborough, cách Luzon, hòn đảo mà Philippines tuyên bố chủ quyền nhưng trên thực tế lại thuộc sở hữu của Trung Quốc sau khi bị nước này chiếm đóng bất hợp pháp vào năm 2012, 124 dặm (gần 200 km). Cơ quan tình báo của Mỹ và các nước khác đã nhanh chóng phát hiện ra hoạt động này.
Một hòn đảo nhân tạo tại bãi cạn Scarborough sẽ mang đến cho Trung Quốc một căn cứ không quân và hải quân mà có thể ngăn chặn các lực lượng quân sự của Mỹ xâm nhập Biển Đông qua eo biển Ba Sĩ. Nó cũng mở đường cho cuộc tấn công của Trung Quốc vào Đài Loan từ phía Nam.
Đáp lại, Mỹ và Philippines đã nhất trí tăng cường sự hiện diện quân sự quanh bãi cạn Scarborough. Bộ tư lệnh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Mỹ đã chỉ đạo các hoạt động chuẩn bị, bao gồm cả việc điều các lực lượng thuộc Hạm đội 7 của Mỹ "hạ trại" cách bãi cạn này 12 hải lý muộn nhất vào ngày 24/1.
Trong khi đó, Trung Quốc cho dàn hàng trăm tàu đánh cá, tàu hải cảnh và tàu dân quân biển khắp vùng Biển Đông, như trong chiến dịch dàn tàu để ngăn cản hoạt động xây dựng của Philippines tại quần đảo Trường Sa năm 2018. Trung Quốc hy vọng có thể hăm họa và đánh lạc hướng lực lượng liên quân do Mỹ đứng đầu tại Biển Đông, và kéo lực lượng này ra khỏi bãi cạn. Trong trường hợp xảy ra đối đầu quân sự, các tàu không trực tiếp chiến đấu sẽ làm nhiệm vụ đánh lạc hướng và gây lúng túng cho các nhà chỉ huy liên quân, đồng thời liên tục cung cấp thông tin tình báo và hỗ trợ hỏa lực cho PLA.
Ngày 26/1, Trung Quốc tuyên bố thiết lập Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) ở Biển Đông và thành lập một lực lượng đặc nhiệm gồm 1 tàu sân bay, 15 tàu chiến mặt nước và 10 tàu ngầm từ đảo Hải Nam tiến về phía Nam. Đồng thời, Không quân PLA đã triển khai máy bay chiến đấu tới đảo Hải Nam và các căn cứ dọc bờ biển Đông Nam của Trung Quốc, bao gồm các phi đội Su-27 Flankers và FB-7 Flounders có khả năng thực hiện các cuộc tấn công trên biển. Lực lượng tên lửa của PLA được bố trí ở Đông Nam Trung Quốc, đối diện với Đài Loan, cũng được đặt trong tình trạng báo động cao và được bổ sung nhiều trung đoàn với các loại tên lửa đạn đạo tầm ngắn và tầm trung.
Theo đề nghị của Trung Quốc, lực lượng không quân và hải quân của Nga tại khu quân sự Viễn Đông cũng được đặt trong tình trạng báo động cao. Trung Quốc và Nga đã tiến hành các cuộc tập trận chung ngày càng tinh vi trong gần một thập kỷ qua. Trung Quốc kỳ vọng khả năng can dự quân sự của Nga sẽ giúp ngăn ngừa Mỹ tham chiến vì Biển Đông. Mặc dù Nga đã gián tiếp thông tin cho Mỹ rằng nước này sẽ không can dự vào cuộc chiến tại Biển Đông, nhưng Mỹ và Nhật Bản vẫn bắt tay vào việc xây dựng các phương án đối phó.
Trên phạm vi toàn cầu, Bắc Kinh đã dàn dựng các cuộc biểu tình hòa bình quy mô lớn thông qua các tổ chức thuộc Mặt trận thống nhất của họ tại những thành phố lớn. Đồng thời, nước này cũng tăng cường các cuộc tấn công mạng và bắt đầu các hoạt động phá hoại tại những nước thù địch nhằm làm gián đoạn các hoạt động quân sự và tiến trình ra quyết định cấp quốc gia.
Tuy nhiên, các chiến dịch ép buộc, răn đe và cuộc chiến chính trị của Bắc Kinh đều đã thất bại. Sau khi từ bỏ chính sách nhượng bộ kéo dài gần 4 thập kỷ đối với Trung Quốc, Mỹ đã chuẩn bị cho tình huống đối đầu quân sự.
Cùng với lực lượng không quân và hải quân của Nhật Bản, các lực lượng Mỹ đóng tại Nhật Bản đã được đặt trong tình trạng báo động cao. Các máy bay chiến đấu bổ sung được triển khai tới khu vực này, và các tàu chiến đấu mặt nước được điều động tới quần đảo Ryukyu ở phía Nam. Các lực lượng lục quân bổ sung của Nhật Bản được triển khai tới khu vực Nansei Shoto và được trang bị tên lửa chống hạm.
Ý thức được việc các hoạt động thù địch tại Biển Đông có thể đe dọa nghiêm trọng tới Đài Loan, Đài Bắc cũng đặt các lực lượng vũ trang của mình vào tình trạng báo động cao nhất và bắt đầu các bước chuẩn bị cho phòng thủ dân sự.
Tàu USS Ronald Reagan, tàu xung kích của Hải quân Mỹ, cùng một nhóm tác chiến đã khởi hành về phía Đông đảo Okinawa, và nhóm tác chiến tàu sân bay thứ hai đã khởi hành từ San Diego. Hai phi đội máy bay tiêm kích tàng hình F-22 được tăng cường tới Thái Bình Dương, một phi đội tới căn cứ không quân Kadena trên đảo Okinawa và phi đội còn lại tới Guam. Trong khi đó, hai máy bay ném bom tàng hình B-2 được triển khai tới Guam.
Thủy quân lục chiến Mỹ nhanh chóng thiết lập một loạt tiền đồn và đổ bộ lên các đảo nhỏ rải khắp khu vực. Được trang bị tên lửa phòng không và tên lửa chống hạm tầm xa, Thủy quân lục chiến có thể góp phần quan trọng vào chiến lược "chống xâm nhập/ngăn chặn tiếp cận" của liên quân tại Biển Đông. Các lực lượng vũ trang với khả năng tác chiến tương tự cũng bắt đầu được triển khai từ các căn cứ của Mỹ tới Nhật Bản.
Ngày 28/1, Bắc Kinh tuyên bố tất cả các vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) ven bờ biển nước này đều là những khu vực cấm đối với lực lượng quân sự nước ngoài và toàn bộ vùng biển bên trong cái mà Trung Quốc gọi là "đường 9 đoạn" Vùng chủ quyền lãnh thổ trên biển". Bắc Kinh kiên quyết không cho phép bất kỳ ai xâm phạm chủ quyền không được nước nào công nhận này.
Ngày 29/1, Trung Quốc tái dựng sự kiện giữa tàu Lan Châu và tàu USS Decatur ngày 30/9/2018. Bắc Kinh hoàn toàn chắc chắn về hệ quả của nó : Sẽ có nổ súng, và thương vong.
Tập Cận Bình và đội ngũ thân tín của ông tin rằng Mỹ sẽ xuống thang giống như lần trước. Nếu không thì giới lãnh đạo Trung Quốc cũng tin rằng lực lượng của họ sẽ đánh bại liên quân do Mỹ đứng đầu trong trường hợp xảy ra giao tranh.
Dường như không ai trong Bộ Chính trị bị ám ảnh bởi hồn ma của gần 22 triệu người chết trong cuộc đại chiến, hoặc những hình ảnh về sự sụp đổ và tiêu vong của các đế quốc Áo-Hungary, Nga, Đức và Ottoman.
Giống như vụ ám sát đã thổi bùng ngọn lửa Chiến tranh thế giới thứ nhất, vụ việc châm ngòi cho cuộc chiến tranh ở Biển Đông cũng đơn giản nhưng nghiêm trọng.
Một tàu đánh cá treo cờ Trung Quốc, được tàu hải cảnh Trung Quốc hộ tống, đã tiến thẳng về phía tàu USS Chancellorsville, một tàu tuần dương được trang bị tên lửa dẫn đường thuộc Hạm đội 7 của Mỹ. Mặc dù tàu Chancellorsville đã cảnh báo qua loa phát thanh về nguy cơ va chạm, nhưng hai con tàu Trung Quốc vẫn lao thẳng về phía tàu Mỹ.
Sau khi cố gắng tránh né hai con tàu đang lao về phía mình và sử dụng mọi biện pháp hòa bình, tàu Chancellorsville đã bắn 4 phát cảnh báo từ khẩu pháo cỡ nòng 5 inch (127 mm) đặt phía trước tàu.
Chỉ trong vài phút, tàu khu trục Lan Châu (DDG-170) được trang bị tên lửa dẫn đường của Hải quân Trung Quốc, vốn đang hoạt động cách đó khoảng 100 hải lý, đã bắn một loạt 4 tên lửa hành trình chống hạm tầm xa YJ-62. Vậy là Trung Quốc đã bắt đầu cuộc chiến tranh giành Biển Đông.
NATO lập tức kích hoạt Điều 5 của Hiệp ước Washington và tiến hành các phản ứng quân sự, bao gồm cả việc nhanh chóng triển khai lực lượng tới Biển Đông và biển Hoa Đông để hỗ trợ các đối tác dân chủ truyền thống của họ tại đó. EU cũng nhanh chóng can dự, bằng việc khởi động các cuộc tham vấn để kích hoạt Hiệp ước về Liên minh Châu Âu, với lý do phòng thủ trước nguy cơ hành động gây hấn của Trung Quốc ảnh hưởng tới các vùng lãnh thổ của Pháp ở Châu Á-Thái Bình Dương. Trên phạm vi toàn cầu, các nước trước kia vẫn hy vọng sẽ không bao giờ phải chọn phe trong một cuộc chiến giữa Mỹ và Trung Quốc nhận ra rằng cuối cùng cũng đến lúc phải đứng về một bên.
Vậy là Trung Quốc đã thực sự bắt đầu cuộc chiến tranh thế giới thứ ba.
Kerry K. Gershaneck & James E. Fanell
Minh Anh giới thiệu
Nguồn : Nghiên cứu Biển Đông, 13/05/2020
Giáo sư Kerry K. Gershaneck là học giả tham cứu tại Viện nghiên cứu Đông Á (Đại học Chính trị Quốc gia, Đài Loan), cựu sĩ quan Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ và nghiên cứu viên cao cấp tại Diễn đàn Thái Bình Dương CSIS. Bài viết được đăng trên The National Interest
*************************
Biển Đông : Chiến hạm Mỹ trở lại vùng biển có đối đầu giữa tàu Malaysia và Trung Quốc
Trọng Nghĩa, RFI, 13/05/2020
Trong một thông cáo đăng trên trang web của Hạm Đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ vào hôm qua, 12/05/2020, lực lượng Hải Quân Mỹ cho biết là một chiến hạm Mỹ đã được phái đến làm nhiệm vụ ngay trong khu vực ở Biển Đông nơi có tàu thăm dò dầu khí cho Malaysia hoạt động và một chiếc tàu khảo sát Trung Quốc gần đấy.
Tàu cận chiến duyên hải USS Gabrielle Giffords (LCS 10) hoạt động gần tầu khoan dò dầu khí West Capella, treo cờ Panama, tại Biển Đông, ngày 12/05/2020. © U.S. Navy photo by Mass Communication Specialist 2nd Class Brenton Poyser
Bản thông cáo nói rõ là tàu cận chiến duyên hải USS Gabrielle Giffords (LCS 10) đã thực hiện những hoạt động "hiện diện" gần tầu khoan dò dầu khí West Capella, treo cờ Panama ở Biển Đông ngày 12/05.
West Capella là tàu khoan dò được tập đoàn dầu khí Petronas của Malaysia thuê để thăm dò trong vùng biển mà nước này tuyên bố là vùng đặc quyền kinh tế của họ.
Thông cáo kèm theo một bức ảnh chụp chiếc Gabrielle Giffords di chuyển sát tàu khoan của Malaysia, và trích lời chuẩn đô đốc Fred Kacher, chỉ huy nhóm tác chiến viễn chinh số 7 xác định rằng hoạt động của chiến hạm Mỹ cho thấy khả năng to lớn của Hải Quân Hoa Kỳ trong khu vực và là tín hiệu tốt nhất thể hiện sự ủng hộ của Mỹ đối với một khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và rộng mở.
Thông cáo cũng nhắc lại rằng đây là lần thứ hai trong không đầy một tuần mà một chiến hạm Mỹ đến hoạt động gần tàu khoan Malaysia. Ngày 07/05 vừa qua, tàu cận chiến duyên hải USS Montgomery (LCS-8) cùng tàu tiếp liệu USNS Cesar Chavez (T-AKE 14) cũng đã đến vùng biển này.
Tàu chiến Mỹ hiện diện trong khu vực vào lúc Trung Quốc cũng cho tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 cùng các tàu hải cảnh hộ tống đến hoạt động trong khu vực, vừa bám đuôi tàu Malaysia, vừa làm công việc khảo sát như từng làm vào năm ngoái tại khu vực Bãi Tư Chính và bờ biển miền Trung Việt Nam, sâu bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông.
Tàu thăm dò Malaysia đã rời khu vực
Theo hãng tin Anh Reuters, chiếc tàu thăm dò dầu khí cho Malaysia West Capella đã rời khu vực vào hôm qua, 12/05. Giới điều hành chiếc tàu cho biết là con tàu đã rời đi sau khi hoàn thành công việc của mình.
Reuters ghi nhận là sự kiện này diễn ra sớm hơn so với kế hoạch, lẽ ra phải kéo dài đến cuối tháng.
Về phần đội tàu Trung Quốc, Reuters cho biết là các cứ liệu định vị hàng hải cho thấy là chiếc Hải Dương Địa Chất 8 vẫn hiện diện gần đây, ở vùng biển cách bờ biển Malaysia khoảng 230 hải lý.
Trọng Nghĩa
Nguồn : RFI, 13/05/2020
***********************
Hải quân Hoa Kỳ duy trì hiện diện gần tàu khoan West Capella
RFA, 23/05/2020
Tàu tác chiến ven bờ lớp Independence USS Gabrielle Giffords (LCS 10) của Hoa Kỳ triển khai hoạt động gần tàu khoan dầu khí mang cờ Panama là West Capella tại khu vực nam Biển Đông.
Tàu tác chiến ven bờ lớp Independence USS Gabrielle Giffords hoạt động gần tàu khoan West Capella. U.S. Navy
Thông cáo báo chí của Hải Quân Hoa Kỳ phát đi hôm 12 tháng 5 nói rõ sự hiện diện của tàu LCS 10 là lần thứ hai một tàu tác chiến ven bờ thực hiện tuần tra ở khu vực nam Biển Đông kể từ khi tàu USS Montgomery (LCS 8) di chuyển cùng tàu USNS Cesar Chaves (T-AKE 14) vào ngày 7/5 để hỗ trợ tự do hàng hải và hàng không tại khu vực này.
Chuẩn đô đốc Fred Kacher, Tư lệnh Nhóm tác chiến viễn chinh 7, các tàu chiến ven bờ được luân phiên triển khai đến Đông Nam Á thực sự làm thay đồi tình hình và thể hiện sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.
Còn Tư lệnh Hạm đội 7, Phó Đô đốc Bill Merz, tái khẳng định rằng các máy bay và tàu thuyền sẽ được điều động đến Biển Đông ở bất kỳ nơi nào và thời điểm nào mà luật pháp quốc tế cho phép.
Hải quân Hoa Kỳ cam kết ủng hộ trật tự dựa trên luật pháp ở Biển Đông, tiếp tục thúc đẩy tự do hàng hải và thượng tôn pháp luật, đồng thời phản đối các hành động phi pháp của Trung Quốc tại khu vực này.
Trong biên chế Biên đội tàu khu trục 7, tàu Gabrielle Giffords đang luân phiên triển khai hoạt động tại khu vực tác chiến của Hạm đội 7 nhằm hỗ trợ đảm bảo an ninh và ổn định trong khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.
Tàu tác chiến ven bờ lớp Independence USS Gabrielle Giffords (LCS 10) của Hoa Kỳ triển khai hoạt động gần tàu khoan dầu khí mang cờ Panama là West Capella tại khu vực nam Biển Đông.
Nguồn : RFA, 13/05/2020
Cẳng thẳng vì Lệnh của Trung Quốc cấm đánh bắt cá ở Biển Đông
VOA, 08/05/2020
Dự kiến căng thẳng sẽ tăng ở Biển Đông sau khi Bắc Kinh ra lệnh cấm đánh bắt cá mùa hè, gây bất bình cho các bên tranh chấp. Trung Quốc loan báo sẽ cấm hoạt động đánh bắt cá ở vùng biển mà Bắc Kinh tuyên bố thuộc chủ quyền sở huu họ trên vĩ tuyến 12 - bao gồm các khu vực gần bãi cạn Scarborough, quần đảo Hoàng Sa và Vịnh Bắc Bộ - để bảo tồn các kho dự trữ.
Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng (Twitter MoFAVietNam Spokesperson)
Lệnh cấm có hiệu lực từ trưa ngày 1/5 cho đến ngày 16/8 và lực lượng hải cảnh Trung Quốc đã tuyên bố sẽ áp dụng các biện pháp nghiêm ngặt nhất để ngăn chặn ‘mọi hoạt động đánh bắt cá bất hợp pháp’.
Cộng đồng ngư dân ở Việt Nam và Philippines hối thúc chính phủ nước họ phải có lập trường mạnh mẽ chống lại lệnh cấm.
Hôm thứ Sáu 8/5, phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Việt Nam, bà Lê Thị Thu Hằng, nòi Hà Nội bác bỏ quyết định đơn phương cấm đánh bắt cá của Trung Quốc .
Người phát ngôn của Bộ ngoại giao Việt nam nói :
"Trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay, Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc không làm phức tạp thêm tình hình Biển Đông".
Bà Lê Thị Thu Hằng ngư dân Việt Nam "hoàn toàn có quyền đánh bắt cá trong vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Báo Tuổi Trẻ cho biết là hồi đầu tuần này, Hội Nghề cá Việt Nam đã gửi công văn tới Văn phòng Chính phủ, và nhiều bộ sở khác, "kịch liệt phản đối hành động hết sức phi lý của phía Trung Quốc".
***********************
Biển Đông : Việt Nam có nên kiện Trung Quốc ?
VOA, 08/05/2020
Việt Nam được cho là đang cân nhắc giải pháp kiện Trung Quốc ra trước tòa án trọng tài quốc tế về các yêu sách chủ quyền phi lý của Trung Quốc (Trung Quốc) trên một vùng biển rộng lớn ở Biển Đông, để đáp trả những hành động đe dọa và quấy nhiễu của Trung Quốc trên tuyến đường thủy đang tranh chấp này.
Dân Việt ký thỉnh nguyện thư đòi kiện TQ ra tòa quốc tế - Ảnh minh họa
Theo Asia Times, giới phân tích tin rằng Hà Nội có thể thưa Trung Quốc ra tòa án quốc tế, tương tự như Philippines đã làm vào tháng Bảy năm 2016. Trong vụ kiện này, Tòa án Trọng tài Thường trực ở La Haye đã ra phán quyết trao phần thắng cho Philippines, và khẳng định rằng Trung Quốc không có "quyền lịch sử" trong phạm vi của "đường 9 đoạn" do chính họ vẽ ra, để tuyên bố chủ quyền trên 90% diện tích Biển Đông. Bắc Kinh từ chối tham gia vụ kiện và tuyên bố "làm ngơ" phán quyết của tòa án quốc tế vốn không có cơ chế để thực thi.
Giáo sư Alexander Vuving thuộc Trung tâm nghiên cứu An ninh châu Á-Thái Bình Dương Daniel K Inouye ở Honolulu, Hawaii, cho biết là từ năm ngoái đã có nhiều tiếng nói trong giới lãnh đạo ở Hà Nội kêu gọi đưa Trung Quốc ra tòa..
Nhà phân tích Derek Grossman thuộc RAND Corporation, tổ chức nghiên cứu và tư vấn chính sách có trụ sở tại Washington, nói ông không có thông tin về việc Hà Nội chuẩn bị đưa Trung Quốc ra tòa án quốc tế, nhưng ông nghe được từ các nguồn tin chính phủ rằng đề xuất này đang được xem xét nghiêm túc.
Một nguồn tin ngoại giao Việt Nam xin giấu tên xác nhận với Asia Times rằng các cuộc thảo luận tại Hà Nội về một vụ kiện quốc tế có vẻ đang khẩn trương hơn trước.
Tại một hội nghị thường niên ở Biển Đông do Học viện Ngoại giao Việt Nam tổ chức vào tháng 11 năm ngoái, Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Lê Hoài Trung đã công khai đề cập tới giải pháp kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế, lần đầu tiên sau gần 5 năm, một quan chức cấp cao của Việt Nam nói tới giải pháp này. Ông Lê Hoài Trung nói Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển UNCLOS 1982 có cơ chế đầy đủ để áp dụng biện pháp này.
Trung Quốc tăng cường sách nhiễu
Việt Nam gần đây có lý do để đòi đưa Trung Quốc ra tòa vì những hành động sách nhiễu của Trung Quốc, như trong suốt năm 2019, đưa tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam (EEZ) để quấy rối hoạt động của liên doanh Việt Nam với một công ty Nga khai thác năng lượng ở Biển Đông.
Những hành động đe dọa đó vẫn tiếp tục trong năm nay, bất chấp vụ khủng hoảng do dịch Covid-19. Ngày 3/4, một tàu cá của Việt Nam bị một tàu Trung Quốc đâm chìm tại quẩn đảo Hoàng SA. Ngày 13/4, Trung Quốc lại đưa tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 vào vùng EEZ của Việt Nam. Vài ngày sau, Trung Quốc tuyên bố thành lập hai quận Tây Sa và Nam Sa tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mà Việt Nam tuyên bố thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Đài Tiếng Nói Việt Nam- VOV hôm 7/5 dẫn lời ông James Kraska, Giáo sư Luật Hàng hải quốc tế tại Đại học Hải chiến Hoa Kỳ, nói : "Việc Trung Quốc ngang nhiên thành lập cái gọi là "khu Tây Sa" và "khu Nam Sa" vi phạm nghiêm trọng Hiến chương Liên Hợp Quốc và UNCLOS 1982".
Trong cuộc phỏng vấn với VOV, Giáo sư James Kraska nói rằng hành động của Trung Quốc còn vi phạm điều 87 và 58 của UNCLOS trong đó khẳng định quyền tự do hàng hải và hàng không trong khu vực. Ông nói "rõ ràng Trung Quốc đang lợi dụng việc các nước phải tập trung chống dịch Covid để đạt "những mục tiêu chiến lược" mà nước này đề ra trên Biển Đông. Và vì vậy, những hành vi sai trái của Trung Quốc cần sự phản đối mạnh mẽ hơn nữa của cộng đồng quốc tế".
Việt Nam không phải là nước duy nhất bị Trung Quốc đe dọa gần đây, tháng trước, tàu Trung Quốc cũng tiến vào vùng EEZ Malaysia, ngay tại khu vực khai thác dầu khí của nước này.
Kiện Trung Quốc là giải pháp duy nhất ?
Theo các nhà phân tích, Hà Nội có thể thắng nếu đưa vụ tranh chấp ra tòa án quốc tế, nhưng thắng lợi này chỉ có tính biểu tượng, và Bắc Kinh không dễ gì tuân theo bất cứ phán quyết nào trao phần thắng cho Việt Nam. Ngược lại, cẳng thẳng còn có thể leo thang hơn nữa dẫn tới xung đột.
Tuy vậy Việt Nam không có nhiều lựa chọn. Ông Bill Hayton, một chuyên gia về Biển Đông tại Chatham House, nói với Reuters hồi tháng 11 năm ngoái rằng một vụ kiện quốc tế có lẽ là giải pháp duy nhất còn lại cho Việt Nam.
Phát biểu với Asia Times, nhà phân tích Vuving nói, Hà Nội có thể nghĩ rằng họ không có lựa chọn nào khác hơn là kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế.
Mỗi khi Bắc Kinh gây hấn ở Biển Đông, Việt Nam về cơ bản có hai lựa chọn : hoặc công khai chỉ trích Trung Quốc hoặc tìm cách xoa dịu căng thẳng thông qua các cuộc gặp gỡ giữa hai đảng cộng sản.
Khi Bắc Kinh công bố thành lập 2 quận mới, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng lên án động thái này, bà yêu cầu Trung Quốc "tôn trọng chủ quyền của Việt Nam và bỏ các quyết định sai trái đó".
Tháng 8 năm ngoái, Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp, chuyên gia về các vấn đề quốc tế thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á -Singapore, viết rằng ngoại giao dường như là tuyến phòng thủ đầu tiên và cũng là tuyến phòng thủ cuối cùng của Việt Nam chống lại sự quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông.
Đã đến lúc tốt nhất để kiện Trung Quốc
Bài báo của Asia Times nói tuy vậy Hà Nội có thể cảm thấy rằng bây giờ là thời điểm chín muồi cho một giải pháp pháp lý có thể giúp xoay chuyển công luận quốc tế theo hướng có lợi cho Việt Nam.
Tác giả bài báo nói rằng đây là lúc mà nhiều người dân Việt Nam sẵn lòng tập hợp xung quanh Đảng Cộng sản cầm quyền, khi Bắc Kinh đang trong giai đoạn suy yếu và dễ bị tổn thương nhất.
Tâm lý chống Trung Quốc trên toàn thế giới chưa bao giờ rõ rệt như thế này trong nhiều thập kỷ, vì những thất vọng do cách Trung Quốc xử lý cuộc khủng hoảng dịch Covid-19 và chiến dịch tung tin sai trái sau đó.
Hãng tin Reuters trích dẫn Viện Quan hệ Quốc tế Đương đại Trung Quốc, thuộc Cục An ninh Trung Quốc, cơ quan tình báo hàng đầu Trung Quốc, nhận định trong một báo cáo mới đây rằng "tình cảm chống Trung Quốc toàn cầu đang ở mức cao nhất kể từ vụ đàn áp tại Quảng trường Thiên An Môn năm 1989".
Vị thế của Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng suy yếu ở trong nước khi lần đầu tiên trong hơn 4 thập kỷ, tăng trưởng kinh tế dự kiến sẽ co cụm trong năm 2020, trong khi Đảng cộng sản Trung Quốc có được tính chính danh chủ yếu là nhờ tăng trưởng kinh tế.
Chọn lựa của Việt Nam
Việt Nam đang là chủ tịch luân phiên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), một vị trí có thể được tận dụng để tạo ra một mặt trận thống nhất hơn giữa các nước láng giềng Đông Nam Á, trong đó có một số nước tranh chấp trên biển với Trung Quốc.
Việt Nam còn là thành viên không thường trực tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2021-22. Giáo sư Carl Thayer thuộc Đại học New South Wales ở Úc nói vị trí này cho phép Việt Nam nêu lên các hành động hung hăng của Trung Quốc với Hội đồng Bảo an.
Nhưng ông lưu ý rằng Trung Quốc có quyền phủ quyết tại Hội đồng Bảo An, trong khi Việt Nam chưa dứt khoát về hành động pháp lý sẽ thực hiện và sẽ nêu ra những vấn đề nào.
Thay vì khiếu nại thông qua Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, Hà Nội có thể theo đuổi mô hình Philippines bằng kiện Trung Quốc dựa trên Công ước quốc tế về Luật Biển, tức UNCLOS, quy định về chủ quyền ranh giới trên biển. Nếu theo con đường này, Hà Nội sẽ phải quyết định nên kiện Trung Quốc tại tòa nào, Tòa án quốc tế về Luật biển, Tòa án công lý quốc tế, Tòa trọng tài hay một Tòa án trọng tài đặc biệt.
Giáo sư Thayer giải thích rằng tất cả các quốc gia thành viên của UNCLOS được quyền chọn một trong 4 cơ chế đó. Nếu không chọn, cơ chế mặc định là Tòa án Trọng tài. Đây là điều đã xảy ra trong vụ Philippines kiện Trung Quốc.
Giáo sư Thayer nói nếu Tòa án Trọng tài ra phán quyết có lợi cho Việt Nam, có nghĩa là Hà Nội đã chứng minh một số vấn đề gây tranh cãi về yêu sách lịch sử, thì Việt Nam sẽ hưởng lợi nhờ vấn đề được công khai ra trước công luận, và áp lực chính trị đối với Trung Quốc.
Giáo sư Thayer nói phán quyết đó sẽ tạo cơ sở cho Việt Nam để chống lại các hành động của Trung Quốc và sẽ tạo cơ hội để cộng đồng quốc tế ủng hộ Việt Nam, nhưng Việt Nam cũng không thể làm được gì nếu Trung Quốc làm ngơ phán quyết, như đã làm với Philippines.
Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp lưu ý rằng các quan chức cấp cao của Việt Nam lo ngại rằng đưa Trung Quốc ra tòa trọng tài và dù cho Việt Nam thắng kiện, điều đó không ngăn Trung Quốc xâm lấn vùng biển của Việt Nam trong tương lai.
Thậm chí còn tệ hơn, ông nói, vì Trung Quốc có thể còn hung hăng hơn, gây bất ổn cho quan hệ Việt -Trung, đe dọa triển vọng kinh tế của Việt Nam và đẩy đất nước vào vị thế chiến lược bấp bênh.
Nhà phân tích Grossman của Rand Corporation hồi năm ngoái khẳng định rằng, nếu Trung Quốc muốn gây hấn, Việt Nam sẽ là "mục tiêu chọn lựa để khởi động xung đột. Như vậy quân đội Trung Quốc sẽ có được kinh nghiệm chiến đấu cần thiết trên không, trên biển, không sợ bị Hoa Kỳ can thiệp, và trong tình huống có khả năng chiến thắng".
Áp lực của đồng minh
Không biết được liệu Việt Nam có bị áp lực của các đồng minh quốc tế, cụ thể là Mỹ, để kiện Trung Quốc lên tòa trọng tài, với hy vọng tạo ra một án lệ thứ hai chống lại tham vọng của Bắc Kinh.
Một vụ kiện như thế, theo các nhà phân tích, sẽ tạo cơ sở để Hoa Kỳ tăng cường các hoạt động bảo vệ tự do hàng hải trên Biển Đông.
Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo nói với các đồng nhiệm ASEAN hồi tháng trước :
"Điều quan trọng cần nhấn mạnh là đảng cộng sản Trung Quốc lợi dụng cả thế giới tập trung vào đại dịch virus corona để tiếp tục thái độ khiêu khích. Hoa Kỳ cực lực phản đối hành động đe dọa của Trung Quốc, chúng tôi hy vọng các quốc gia khác cũng buộc Bắc Kinh phải trả giá".
Bài báo Asia Times nói Việt Nam đang ở trong tình huống tiến thoái lưỡng nan. Các nỗ lực ngoại giao và phản kháng công khai đã thất bại, không ngăn chặn được Trung Quốc, như những hành động gây hấn gần đây đã nêu bật.
Nhưng quốc tế hóa các căng thẳng có thể đẩy Việt Nam và Trung Quốc – và có thể cả Hoa Kỳ và Trung Quốc - gần hơn tới xung đột vũ trang, mà Hà Nội biết rõ là không thể thắng nếu không có sự hậu thuẫn lớn của nước ngoài.
********************
Biển Đông : Việt Nam có thể sắp kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế
Thụy My, RFI, 08/05/2020
Theo tác giả David Hutt trên Asia Times ngày 07/05/2020, Hà Nội đang cân nhắc việc kiện Bắc Kinh trước một tòa án trọng tài quốc tế về vấn đề Biển Đông.
Việt Nam được cho là đang chuẩn bị hồ sơ kiện lên tòa trọng tài quốc tế chống lại yêu sách chủ quyền Biển Đông phi lý của Trung Quốc. Đây có thể là đáp trả về pháp lý trước việc Trung Quốc ngày càng gia tăng đe dọa và quấy nhiễu trên tuyến đường hàng hải tranh chấp.
Nhiều tiếng nói trong chính quyền đòi kiện Trung Quốc
Các nhà phân tích đang theo dõi tình hình tin rằng, Hà Nội có thể nộp đơn kiện - tương tự như Philippines đã tiến hành trước đây, và đã chiến thắng Trung Quốc tại Tòa án Trọng tài Thường trực La Haye hồi tháng 7/2016. Phán quyết của tòa khẳng định Trung Quốc "không có quyền lịch sử" về đường lưỡi bò 9 đoạn mà Bắc Kinh sử dụng để đòi hỏi chủ quyền gần 90% Biển Đông. Trung Quốc từ chối tham gia vụ kiện và tuyên bố không chấp nhận phán quyết, vốn không có cơ chế buộc phải thực thi.
Ông Alexandre Vuving, giáo sư của Trung tâm nghiên cứu an ninh Daniel K Inouye ở Honolulu, Hawai cho biết từ năm ngoái "đã có thêm rất nhiều tiếng nói trong giới cầm quyền ở Hà Nội, kêu gọi đưa Trung Quốc ra tòa".
Nhà phân tích Derek Grossman thuộc think tank RAND Corporation ở Washington nói rằng ông không có thông tin nào về việc Hà Nội đang chuẩn bị kiện lên tòa quốc tế, nhưng nghe được từ các nguồn tin chính phủ rằng đề xuất này đang được xem xét một cách nghiêm túc.
Một nguồn tin ngoại giao giấu tên nói với Asia Times, các cuộc thảo luận tại Hà Nội về một vụ kiện quốc tế nay đang căng thẳng hơn trước. Trong một hội nghị thường niên về Biển Đông do Học viện Ngoại giao Việt Nam tổ chức tháng 11 năm ngoái, thứ trưởng ngoại giao Lê Hoài Trung đã công khai nêu ra vấn đề này. Đây là lần đầu tiên kể từ gần 5 năm qua, một quan chức cao cấp đề cập đến. Ông Trung nói : "Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 đã dự trù đầy đủ các cơ chế để áp dụng biện pháp này".
Bắc Kinh tăng cường quấy nhiễu Biển Đông
Việt Nam ngày càng có thêm động lực để đưa Trung Quốc ra tòa. Chiếc tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất (Haiyang Dizhi) 8 đã dành hầu như cả năm 2019 để quấy rối một liên doanh khai thác năng lượng với Nga tại vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam ở Biển Đông. Việc quấy nhiễu này năm nay lại tiếp tục, bất chấp đại dịch virus corona.
Ngày 03/04, một tàu đánh cá Việt Nam bị một tàu tuần duyên Trung Quốc đánh đắm ở gần quần đảo Hoàng Sa. Đến ngày 13/04, chiếc Hải Dương Địa Chất 8 lại tái xuất hiện tại EEZ của Việt Nam. Vài ngày sau, chính quyền Trung Quốc loan báo thành lập hai quận "Tây Sa" và "Nam Sa" tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mà Việt Nam luôn khẳng định chủ quyền.
Không chỉ đe dọa Việt Nam, mà tháng trước tàu hải cảnh Trung Quốc còn tuần tra ở khu vực thuộc EEZ của Malaysia trên Biển Đông, kể cả một khu vực đang khai thác dầu khí.
Không còn cách nào khác ngoài kiện lên tòa quốc tế
Theo các nhà phân tích, tuy việc đưa vấn đề ra tòa án quốc tế có thể mang lại cho Hà Nội một chiến thắng mang tính biểu tượng, nhưng khó có khả năng Bắc Kinh tuân thủ bất kỳ một phán quyết nào có lợi cho Việt Nam. Động thái này có thể làm gia tăng căng thẳng, tiến gần đến xung đột.
Tuy nhiên dường như Việt Nam không còn bao nhiêu lựa chọn. Chuyên gia về Biển Đông Bill Hayton của think tank Chatham House hồi tháng 11 nói với Reuters, một vụ kiện quốc tế có lẽ là "điều duy nhất mà Việt Nam còn có thể làm được".
Trả lời Asia Times, nhà phân tích Vuving nhận định "Hà Nội có thể nghĩ rằng không có chọn lựa nào khác ngoài việc đưa Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế".
Mỗi lần có va chạm với Trung Quốc tại Biển Đông, chính phủ Việt Nam cơ bản có hai khả năng : hoặc công khai chỉ trích Trung Quốc, hoặc cố gắng làm giảm căng thẳng thông qua các cuộc họp giữa hai đảng. Khi Bắc Kinh loan báo lập hai "quận" mới vào tháng trước, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng tuyên bố : "Việt Nam yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền của Việt Nam và hủy bỏ các quyết định sai trái".
Tháng Tám năm ngoái, nhà phân tích Việt Nam Lê Hồng Hiệp viết trên một tờ báo khu vực là "ngoại giao chừng như là tuyến phòng thủ đầu tiên và cuối cùng (của Việt Nam) để chống lại sự quyết đoán của Trung Quốc trên Biển Đông".
Tâm lý chống Trung Quốc dâng cao trên toàn cầu
Tuy nhiên Hà Nội có thể cảm thấy rằng thời điểm đã chín muồi cho một động thái pháp lý mới, có thể làm dư luận quốc tế thiên về hướng có lợi cho Việt Nam.
Thật vậy, nếu có khi nào người dân Việt Nam có thể tập hợp xung quanh đảng cầm quyền, còn Bắc Kinh yếu ớt, dễ tổn thương hơn bao giờ hết, thì đó chính là lúc này.
Viện Quan hệ Quốc tế Đương đại Trung Quốc, một think tank thuộc bộ An ninh Quốc gia, cơ quan lãnh đạo tình báo cao nhất, dường như trong một báo cáo mới đây đã nhận định "tình cảm chống Trung Quốc trên toàn cầu đang ở mức cao nhất, kể từ sau vụ đàn áp quảng trường Thiên An Môn năm 1989 cho đến nay" - theo Reuters.
Đồng thời đảng cộng sản Trung Quốc bị yếu đi trong nước, do tăng trưởng kinh tế - mà nhờ đó đảng có được tính chính danh suốt một thời gian dài - bị sụt giảm trong năm 2020, lần đầu tiên kể từ hơn bốn chục năm.
Sự bất mãn đối với Trung Quốc trên toàn cầu, chủ yếu do việc xử lý khủng hoảng virus corona và chiến dịch bóp méo thông tin sau đó, chưa bao giờ mạnh mẽ như thế kể từ nhiều thập niên qua.
Tận dụng thế mạnh của Việt Nam hiện nay
Trong khi đó, đảng cộng sản Việt Nam lại được trong và ngoài nước khen ngợi vì khả năng và sự minh bạch bất ngờ trong việc xử lý nạn dịch Covid-19. Việt Nam còn có thể được hưởng lợi lớn khi Hoa Kỳ, Nhật Bản và các nước châu Âu tìm cách tách rời khỏi nền kinh tế Trung Quốc và dịch chuyển các chuỗi cung ứng khỏi Hoa lục.
Bên cạnh đó, Hà Nội có thể tận dụng vị thế quốc tế mạnh mẽ hiện nay để tiến hành vụ kiện chống lại Trung Quốc.
Năm nay Việt Nam là chủ tịch luân phiên ASEAN, một vị trí có thể cố vận dụng để tạo nên một mặt trận đoàn kết hơn với các nước láng giềng Đông Nam Á, trong đó có những nước cũng tranh chấp trên biển với Trung Quốc.
Việt Nam còn giữ chiếc ghế thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2021-2022. Theo giáo sư Carl Thayer, đại học New South Wales, Úc, vai trò này giúp Việt Nam có thể tố cáo sự hung hăng của Bắc Kinh với các thành viên khác của Hội đồng Bảo an.
Nhưng ông Thayer lưu ý, vấn đề là "Trung Quốc có quyền phủ quyết" ; và "Việt Nam vẫn còn mơ hồ về hành động pháp lý sẽ tiến hành và những vấn đề nêu ra".
Thay vì khiếu nại ở Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, Hà Nội có thể áp dụng "kiểu Philippines" : kiện theo UNCLOS, tức Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, quy định về chủ quyền ranh giới trên biển.
Nếu theo con đường này, Hà Nội cần phải quyết định sẽ kiện ở đâu : Tòa án Quốc tế về Luật Biển, Tòa án Công lý Quốc tế, Tòa Trọng tài hay một Tòa Trọng tài Đặc biệt.
Ông Thayer giải thích : "Tất cả các quốc gia thành viên UNCLOS đều được tự do chỉ định một trong bốn cơ chế mình thích. Nếu không, thì cơ chế mặc định là Tòa Trọng tài. Đó là điều đã diễn ra giữa Philippines và Trung Quốc".
Nếu Tòa Trọng tài ra phán quyết có lợi cho Việt Nam, sau khi Hà Nội chứng minh được nhiều vấn đề gây tranh cãi về yêu sách lịch sử, thì "Việt Nam sẽ có lợi nhờ được quảng bá trong dịp này, và áp lực chính trị đè lên Trung Quốc".
Cũng theo giáo sư Thayer, sự kiện này còn mang lại cho Việt Nam "cơ sở để chống lại các hành động của Trung Quốc, và cộng đồng quốc tế có thể căn cứ vào đó để ủng hộ Việt Nam". Nhưng Việt Nam khó thể làm được gì nhiều nếu Trung Quốc làm ngơ trước phán quyết, như đã xử sự với Philippines.
Rủi ro cần cân nhắc
Thật vậy, có những rủi ro khi đưa Trung Quốc ra tòa. Nhà phân tích Lê Hồng Hiệp hồi tháng Tám viết rằng các quan chức cao cấp Việt Nam nghi ngại về việc đưa ra tòa trọng tài vì "ngay cả nếu Hà Nội thắng kiện, thì cũng không ngăn cản được Trung Quốc lấn chiếm vùng biển Việt Nam trong tương lai".
Và "Thậm chí lại còn tệ hơn, vì có thể làm Trung Quốc càng thêm hung hăng, gây bất ổn thêm quan hệ Việt-Trung, đe dọa viễn cảnh kinh tế Việt Nam và đẩy đất nước vào một thế chiến lược bấp bênh".
Nhà phân tích Grossman năm ngoái khẳng định nếu Bắc Kinh tìm kiếm xung đột, Việt Nam có thể là mục tiêu ưu tiên để khởi động. Qua đó quân đội Trung Quốc sẽ có được kinh nghiệm chiến đấu cần thiết trên không, trên biển mà không sợ bị Hoa Kỳ can thiệp, và trong tình huống có thể chiến thắng.
Khó thể biết được Việt Nam có bị áp lực của các đồng minh quốc tế hay không, cụ thể là Mỹ, để kiện Trung Quốc lên tòa trọng tài, với hy vọng tạo ra một án lệ thứ hai chống lại tham vọng trên biển của Bắc Kinh. Một bản án như thế, theo các nhà phân tích, sẽ giúp cho Hoa Kỳ thêm cơ sở vững chắc để tăng cường các hoạt động vì tự do hàng hải trên Biển Đông.
"Điều quan trọng cần nhấn mạnh là đảng cộng sản Trung Quốc lợi dụng việc cả thế giới tập trung vào đại dịch virus corona để tiếp tục thái độ khiêu khích như thế nào" - Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo nói với các đồng nhiệm ASEAN trong một hội nghị truyền hình vào tháng trước. "Hoa Kỳ cực lực phản đối hành động đe dọa của Trung Quốc, chúng tôi hy vọng các quốc gia khác cũng buộc Bắc Kinh phải trả giá".
Việt Nam đang trong tình huống đầy nghịch lý. Những nỗ lực ngoại giao và phản đối công khai đã không thành công trong việc ngăn chận Trung Quốc, mà các trò đe dọa mới đây đã chứng tỏ. Nhưng quốc tế hóa tình hình có thể đẩy Việt Nam và Trung Quốc - nói rộng ra là Hoa Kỳ và Trung Quốc - tiến gần đến điểm xung đột vũ trang, mà Hà Nội biết rằng không có cơ hội thắng nếu không có sự hỗ trợ mạnh mẽ từ bên ngoài.
Thụy My
Biển Đông : Trung Quốc hung hăng - Mỹ vào nhập cuộc
Trung Kiên, Thoibao.de, 07/05/2020
Sự xuất hiện của các tàu chiến, khu trục hạm, phi cơ oanh tạc chiến lược của Mỹ ở Biển Đông với tần suất liên tục những tuần gần đây đã thể hiện sự cam kết mạnh mẽ của Mỹ với an ninh khu vực Thái Bình Dương khiến Trung Quốc không khỏi ‘tức tối’.
Oanh tạc cơ B-1 Lancer. Một chiếc đã cất cánh ở South Dakota (Mỹ) ngày 28/4 để bay đến Biển Đông
Ông Hoàng Ngọc Giao Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách, Pháp luật và Phát triển nhận định với BBC rằng diễn biến tàu hải quân và phi cơ Mỹ hoạt động ở Biển Đông vừa thể hiện ‘chính sách nhất quán’ của Mỹ, vừa là một tín hiệu ‘cảnh báo’.
Ông Giao phân tích :
"Việc mà Mỹ gần đây đã điều hai oanh tạc cơ chiến lược B1B Lancer đến vùng Biển Đông, bay từ lãnh thổ Mỹ với thời gian đến hơn 30 tiếng đồng hồ, thể hiện một chính sách nhất quán của Mỹ về việc đảm bảo tự do, an ninh, an toàn hàng hải, cũng như an ninh của chiến lược về Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương rộng mở và tự do".
"Nó khẳng định sự nhất quán về chính sách, cũng như quyết tâm của chính phủ Mỹ với đảm bảo duy trì hòa bình, an ninh và ổn định ở khu vực".
"Thứ hai, đây cũng là một động thái có thể hiểu như một sự cảnh báo đối với những hành động có tính chất hung hăng và khiêu khích ngày càng mạnh mẽ hơn từ phía Trung Quốc".
"Chính phủ Mỹ đã rất kiên định, kiên quyết thực hiện đường lối đối ngoại và quốc phòng của mình để đảm bảo an ninh trong khu vực".
Hoa Kỳ từ ngày 01/5 đã điều động bốn oanh tạc cơ B-1B cùng với 200 quân nhân từ căn cứ Không Quân Dyess ở Texas đến căn cứ Andersen, trên đảo Guam ở Thái Bình Dương.
Trong đó, ba oanh tạc cơ chiến lược B-1B của Mỹ đã bay thẳng đến căn cứ Guam trên Thái Bình Dương, phi cơ còn lại bay đến Nhật Bản nhằm tập huấn với hải quân của Hoa Kỳ tại khu vực.
Không lâu trước đó, hôm 30/04, hai oanh tạc cơ B-1B Lancer, có khả năng mang theo nhiều vũ khí hơn B-52, bao gồm bom dẫn đường JDAM và tên lửa hành trình chống hạm, xuất phát từ căn cứ Nam Dokota của Hoa Kỳ, đã có phi vụ bay diễn tập trong vòng 33 giờ với trọng tâm nhấn vào Biển Đông.
Trên Facebook ngày 29/4, Hạm đội 7 thuộc Hạm đội Thái Bình Dương thông báo tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường USS Bunker Hill "quá cảnh" tại vùng biển gần quần đảo Trường Sa trong một hoạt động tự do hàng hải (FONOPs).
Bài đăng của Hạm đội 7 viết :
"Tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường USS Bunker Hill (CG 52) lớp Ticonderoga quá cảnh tại vùng biển gần Trường Sa ở Biển Đông, ngày 29/4. Bunker Hill được triển khai cho Hạm đội 7 của Mỹ nhằm ủng hộ các hoạt động an ninh và ổn định trong khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương".
Vài giờ trước đó, Hạm đội 7 cũng thông báo về hoạt động của tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường USS Barry với hoạt động tương tự ở quần đảo Hoàng Sa, thuộc chủ quyền Việt Nam nhưng bị Trung Quốc chiếm đóng phi pháp.
Ảnh chụp bài đăng trên Facebook ngày 29/4 của Hạm đội 7 thuộc Hạm đội Thái Bình Dương về lộ trình của USS Bunker Hill
Động thái của hai tàu USS Bunker Hill và USS Barry gây chú ý trong bối cảnh Trung Quốc ngay trước đó tuyên bố đã "trục xuất" một tàu chiến Mỹ hoạt động ở Hoàng Sa.
Con tàu bị nói "bị trục xuất" này được xác định là USS Barry. Nhưng trong trao đổi với trang tin của Học viện Hải quân Mỹ USNI News, quan chức Hải quân Mỹ cho rằng USS Barry hoạt động như kế hoạch, "không hề gặp bất kỳ hành động thiếu an toàn hay thiếu chuyên nghiệp từ tàu hay máy bay quân sự Trung Quốc".
Nhận định về tuyên bố đã "trục xuất" tàu Mỹ khỏi vùng Biển Đông gần đây của Trung Quốc, Giáo sư Carl Thayer, nhà nghiên cứu chính trị Việt Nam và bang giao quốc tế tại Úc, nói rằng điều này hoàn toàn là một bịa đặt có tính cách tuyên truyền nhằm cảnh báo các quốc gia khác trong khu vực.
Ông Thayer nói :
"Mỗi khi Hải quân Hoa Kỳ thực thi quyền tự do hàng hải ở Biển Đông, Trung Quốc lại đưa ra loại tuyên bố tương tự là họ đã theo dõi, kiểm soát và "trục xuất" tàu chiến Hoa Kỳ. Đây hoàn toàn là những lời ngoa ngữ, cường điệu.
Trung Quốc có phương tiện giám sát để xác định khi nào tàu chiến của Hoa Kỳ đi vào vùng biển mà Trung Quốc tuyên bố là của riêng họ. Và mỗi lần như thế Trung Quốc thường điều một máy bay để rình rập tàu chiến Mỹ trên biển. Thường thì tàu chiến Hoa Kỳ và nhân sự của Hải quân Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLAN) có liên lạc với nhau trong những lần nghênh chiến đó. Sau khi tàu chiến Hoa Kỳ hoàn thành nhiệm vụ và rời khỏi vùng biển do Trung Quốc tuyên bố chủ quyền, Trung Quốc tuyên bố sẽ họ vừa "trục xuất" tàu Mỹ.
Trung Quốc đang sử dụng chiến tranh thông tin để cảnh báo các quốc gia trong khu vực là họ sẽ chịu chung số phận này, nếu tàu của họ xâm nhập vào vùng biển mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền. Công bố cường điệu này của Bắc Kinh cũng nhằm vào đối tượng trong nước để chứng minh rằng chế độ Tập Cận Bình đang bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc một cách kiên quyết chống lại chủ nghĩa quân phiệt của Hoa Kỳ.
Người phát ngôn của Hạm đội 7 Hoa Kỳ chắc chắn đã công bố rõ nếu Trung Quốc có bất kỳ động thái quân sự không chuyên nghiệp nào với tàu chiến USS Barry (DDG-52). Ví dụ, trong việc liên quan đến một tàu chiến của Hải quân Quân đội Giải phóng Nhân dân nhào đến tàu chiến USS Decatur một cách nguy hiểm hồi tháng 9/2018, Hoa Kỳ đã công bố khúc phim về cuộc chạm trán này để chứng minh quan điểm của mình.
Trong trường hợp USS Barry, một phát ngôn viên của Hải quân Hoa Kỳ tuyên bố rằng, hoạt động của tàu được tiến hành theo kế hoạch mà không gặp phải bất kỳ hành vi không an toàn hoặc không chuyên nghiệp nào từ máy bay hoặc tàu chiến của Trung Quốc.
Chúng ta không nên đánh giá là những tuyên bố của Trung Quốc và Hoa Kỳ có giá trị ngang nhau. Khi Trung Quốc sử dụng thuật ngữ "trục xuất", thì đó là một điều bịa đặt trong việc tuyên truyền của Hải quân Quân đội Giải phóng Nhân dân".
Vụ việc một lần nữa phản ánh căng thẳng giữa Trung Quốc và Mỹ trong vấn đề tự do hàng hải ở Biển Đông.
Lâu nay, Mỹ cho rằng các hoạt động của tàu hải quân nước này là đúng luật quốc tế, nằm trong khuôn khổ các cuộc tuần tra tự do hàng hải FONOPs. Ngược lại, Trung Quốc khẳng định hành động của Mỹ là "vi phạm chủ quyền".
Ngoài mục đích thực thi quyền tự do hàng hải, giới chuyên gia cho rằng Hoa Kỳ còn có động cơ khác khi đưa hai tàu chiến USS Barry và USS Bunker Hill đến Hoàng Sa giữa lúc hai nước đang căng thẳng vì Mỹ buộc tội Trung Quốc xử lý sai và giữ bí mật về sự bùng phát virus khi nó vừa xảy ra.
Hoa Kỳ đang chứng minh rằng Hoa Kỳ có thể duy trì sự hiện diện của hải quân nước này ở Biển Đông trong bối cảnh bộ máy tuyên truyền của Trung Quốc lợi dụng thời cơ thủy thủ Hoa Kỳ trên tàu USS Theodore Roosevelt và tàu USS Kidd đã bị nhiễm virus corona để lập luận rằng Hoa Kỳ đang hoạt động ở một vị trí yếu kém.
Trên mặt trận ngoại giao, trong một động thái đáng chú ý, hôm 28/4/2020, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam, ông Daniel Kritenbrink đã công khai nói với truyền thông Việt Nam rằng Mỹ phản đối kịch liệt và lên án các hành vi ‘phi pháp, khiêu khích’của Trung Quốc trên Biển Đông khi lợi dụng thế giới và khu vực đang dành toàn tâm toàn lực đối phó với đại dịch Covid-19.
Trong cuộc phỏng vấn với Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), ông Krintenbrink nêu rõ quan điểm :
"Chúng tôi kịch liệt phản đối và lên án Trung Quốc lợi dụng việc các nước trong khu vực đang tập trung chống dịch để thúc đẩy những hành vi phi pháp và mang tính khiêu khích ở Biển Đông.
Thay vì cùng tham gia tập trung chống dịch Covid-19 với các nước khác, Trung Quốc trong vài tháng qua đã tiến hành nhiều hành vi khiêu khích gây bất ổn trong khu vực như đâm chìm tàu cá của Việt Nam gần quần đảo Hoàng Sa, điều các tàu ra dọa dẫm tàu các nước khác cũng như tuyên bố thành lập các khu hành chính mới ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Quốc cũng đã thiết lập "các trạm nghiên cứu đại đương" trên đá Subi và đá Chữ thập.
Đây không phải là những hành vi thể hiện thiện chí đối tác cũng như có thể giúp Trung Quốc nhận được sự tin cậy trong khu vực. Tôi muốn nhắc lại quan điểm đã nêu ở trên, Mỹ kịch liệt lên án và phản đối những hành vi khiêu khích của Trung Quốc khi lợi dụng tình hình dịch bệnh để thúc đẩy những hành vi phi pháp và hiếu chiến hòng đạt được những yêu sách phi lý".
Nhà ngoại giao đại diện Hoa Kỳ tại Việt Nam nhân dịp này nhấn mạnh quan điểm của Mỹ qua các động thái của hai cơ quan là Bộ Ngoại giao và cả Bộ Quốc phòng Mỹ, trong đó kêu gọi các quốc gia trong khu vực ‘lên tiếng phản đối hành vi Trung Quốc’ và tái khẳng định các nguyên tắc, quan điểm của Mỹ về an ninh khu vực.
Ông phát biểu :
"Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Mỹ đều đã ra tuyên bố lên án hành vi lợi dụng việc các nước tập trung chống dịch để thúc đẩy những yêu sách phi pháp của Trung Quốc.
Chúng tôi cho rằng, điều quan trọng nhất hiện nay là mọi quốc gia trong khu vực cần lên tiếng phản đối hành vi này của Trung Quốc. Trong hai tuyên bố được nêu ở trên, tôi muốn nhấn mạnh tuyên bố của Ngoại trưởng Mike Pompeo trong đó nêu bật 2 yếu tố quan trọng :
Thứ nhất là tái khẳng định cam kết của Mỹ đối với khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và mối quan hệ đối tác với Việt Nam.
Thứ hai, tôi cho rằng, tuyên bố của Ngoại trưởng Mike Pompeo cũng nhấn mạnh đến sức mạnh của mối quan hệ đối tác toàn diện Việt - Mỹ…".
Đại sứ Mỹ tại Hà Nội kêu gọi các quốc gia tin tưởng vào những "nguyên tắc và giá trị" mà Mỹ chia sẻ, đồng thời nhấn mạnh mục tiêu chung vào thời điểm hiện nay ở Biển Đông và khu vực :
"…Chúng tôi kêu gọi mọi quốc gia tin tưởng vào những nguyên tắc và giá trị nêu trên cần lên tiếng mạnh mẽ. Đó chính là lý do Mỹ đang khuyến khích các quốc gia cùng phản đối các hành vi sai trái của Trung Quốc và rất nhiều đối tác và bạn bè của chúng tôi đã làm như vậy.
Tôi được biết, Việt Nam đã ra tuyên bố bày tỏ quan ngại về những hành vi khiêu khích của Trung Quốc. Philippines cùng rất nhiều đối tác khác trong khu vực như Australia và Nhật Bản cũng đã làm như vậy. Mục tiêu của chúng ta là nhấn mạnh điều quan trọng nhất trong thời điểm này chính là cần có các biện pháp thúc đẩy hòa bình, thịnh vượng trong khu vực trong khi tập trung ứng phó với Covid-19 chứ không phải những bước đi có thể làm mất ổn định trong khu vực".
Có thể nói, trên cả mặt trận ngoại giao và quân sự, Mỹ đều thể hiện sự quyết tâm theo đuổi cam kết của Mỹ đối với hòa bình và an ninh khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương trong đó có mối quan hệ đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ.
Trong khi những chuyến tuần tra thực thi quyền tự do hàng hải của Hoa Kỳ từ nhiều năm qua đã đến và đi mà không tạo bất kỳ suy giảm nào trong an ninh khu vực và sự hiện diện của Hải quân Hoa Kỳ còn được các nước nhỏ quanh vùng hoan nghênh. Thì Trung Quốc liên tục thực hiện các hành vi khiêu khích trên Biển Đông và nhất là thời gian qua còn lợi dụng thời điểm các nước phải đối phó với đại dịch Covid-19 khởi nguồn từ Trung Quốc để tăng cường các hoạt động phi pháp, vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế.
Trung Kiên
Nguồn : Thoibao.de, 07/05/2020
*******************
Hiếu Linh, VNTB, 07/05/2020
Tập Cận Bình phát biểu trên một chiến hạm Trung Quốc ngoài khơi biển Hoa Nam - Ảnh minh họa
Động cơ của cuộc chiến là gì ? Rõ ràng là đa dạng. Có thể là bảo vệ lợi ích của quốc gia hoặc nhóm chính trị. Áp đặt ý thức hệ hoặc tìm kiếm giá trị kinh tế hoặc duy trì tính liên tục của ngành công nghiệp quân sự.
Ai phát động chiến tranh ? Có thể là người đứng đầu chính phủ. Quyết định đó dựa trên cáo buộc của nhóm tư vấn cấp chính phủ hoặc dựa theo quan điểm của các nhà vận động hành lang kinh doanh.
Ví dụ, căng thẳng Trung Đông mang lại giá trị kinh tế lớn cho các nhà buôn vũ khí. Năm 2019, Hoa Kỳ đã xuất khẩu 55,4 tỷ USD thiết bị quân sự cho 98 quốc gia. Khoảng 49% các điểm đến xuất khẩu trong năm 2019 là ở Trung Đông, đứng đầu là Saudi Arabia chiếm 18%, theo số liệu từ Viện nghiên cứu hòa bình Stockholm (SIPRI) (1).
Triền miền chiến tranh
Chiến tranh hiện đại bắt đầu trong giai đoạn từ ngày 28/7/1914 đến ngày 11/11/1918. Sau Thế chiến thứ nhất là Chiến tranh thế giới thứ hai từ năm 1939 đến năm 1945.
Chiến tranh thế giới thứ nhất đã diễn ra trên lục địa Châu Âu. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, ngoài việc càn quét Châu Âu, cuộc chiến này còn thu hút nhiều quốc gia ở Châu Phi và Châu Á cũng tham gia. Khoảng 20 triệu binh sĩ và 60 triệu dân thường trở thành nạn nhân.
Tại Trung Đông, cuộc chiến Ả Rập-Israel đầu tiên diễn ra vào năm 1948, nguồn gốc vì Anh ủng hộ người Do Thái định cư ở Palestine.
Tại Đông Á, cuộc chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên, kết thúc bằng việc thành lập một Hàn Quốc dân chủ và tự do và một nhà nước cộng sản Bắc Hàn bắt đầu vào ngày 25/6/1950 và cho đến ngày 27/7/1953, 3 triệu người đã thiệt mạng.
Chiến tranh lan sang Đông Nam Á, cụ thể là Lào, Campuchia và Việt Nam. Tại đây, Mỹ và các đồng minh chiến đấu chống lại những người theo chủ nghĩa dân tộc - cộng sản ở Việt Nam, Lào và Campuchia với sự hỗ trợ của Trung Quốc và Nga. Số người chết là từ 1,3 triệu đến 4,2 triệu từ ngày 1/11/1957 đến ngày 30/4/1975.
Quay lại Trung Đông một lần nữa, trong giai đoạn 1967 - 1973. Mỹ hỗ trợ Israel và Nga bảo vệ các nước Ả Rập. Israel đã giành chiến thắng bằng cách kiểm soát Dải Gaza và bán đảo Sinai ở Ai Cập, Bờ Tây ở Jordan (bao gồm Đông Jerusalem) và Cao nguyên Golan ở Syria.
Chiến tranh Iraq-Iraq diễn ra từ năm 1980 đến 1988, cuộc chiến có sự tham gia của vũ khí hóa học. Gần 2 triệu người đã chết. Trong cuộc chiến này, Mỹ ủng hộ Iraq vì họ lo lắng về việc mở rộng ảnh hưởng của Imam Khomeini (thuộc dòng Hồi giáo Shiite) đến các đồng minh của mình ở Vịnh Ba Tư. Kế đến, trong Chiến tranh vùng Vịnh, Mỹ đã lật đổ Iraq và tử hình Tổng thống Saddam Hussein.
Chiến tranh vùng Vịnh diễn ra từ ngày 2/8/1990 đến ngày 28/2/1991. Đi ra từ cuộc chiến này, Mỹ có bảy căn cứ quân sự ở Kuwait, 2 căn cứ quân sự ở Bahrain và 5 căn cứ quân sự ở Saudi Arabia. Mặc dù kết thúc chiến tranh, quân đội Mỹ vẫn hiện diện tại các khu vực này. Sau đó, từ năm 1992 đến 1995, đã xảy ra cuộc chiến ở Trung Âu - cuộc chiến Bosnia cướp đi mạng sống của hơn 300.000 người Hồi giáo.
Gần đây, trong cuộc chiến ở Afghanistan. Mỹ đã phát động một cuộc tấn công dưới cái cớ lùng bắt Osama Bin Laden, người được cho là đã lên kế hoạch tấn công vào tòa nhà Trung tâm Thương mại Thế giới vào ngày 11/9/2001, nổi bật là nhóm Taliban. Cuộc chiến chống khủng bố được mở rộng vì "những kẻ khủng bố" đang lan rộng khắp nơi, bao gồm cả Syria. Cuối cùng, Mỹ và Taliban đã ký một thỏa thuận hòa bình, do Osama Bin Laden lãnh đạo và được tổ chức tại Doha, Qatar vào ngày 28/2/2020. Bất chấp những thay đổi đó, Mỹ dường như duy trì sáu căn cứ quân sự ở Afghanistan vì nó gần với Nga và Trung Quốc.
Đi đâu và về đâu ?
Thế giới sẽ đặt câu hỏi chiến tranh sẽ xảy ra ở đâu nữa ? Có phải Iran không ? Có phải ở Tân Cương và Hồng Kông và Trung Quốc, hay nó đang gia tăng ở Biển Đông ? Hoặc nảy sinh xung đột lớn giữa Syria và Yemen ?
Sự thật đã chứng minh rằng chiến tranh mở đường cho việc một quốc gia có được chỗ đứng, một thị trường thiết bị quân sự và cho thấy uy quyền tối cao của nền dân chủ và chủ nghĩa tư bản tự do.
Từ chiến tranh, Mỹ có ít nhất 800 căn cứ quân sự ở nước ngoài. Số lượng quân ở các vị trí đóng quân là khác nhau, Trung Đông ít nhất 225.000 quân, trong khi riêng tại Nhật Bản, có 63.000 lính Mỹ.
Là đối thủ chính với Mỹ, khi Cộng sản Phương Đông biến mất cùng với sự sụp đổ của Xô Viết, thì sự hiện diện của quân đội Mỹ ở nước ngoài tiếp tục bị nghi ngờ.
Liệu sự duy trì quân đồn trú này của Mỹ có liên quan đến kế hoạch ứng phó với chủ nghĩa thực dân mới đã hình thành ?
Chủ nghĩa thực dân mới
Sự bùng phát virus corona (Covid-19) ở Vũ Hán vào tháng 12/2019 đã xuất hiện vào thời điểm thích hợp. Virus dễ dàng nhân lên trong thời tiết mùa đông. Nguồn gốc dịch bệnh theo giả thuyết là phù hợp với thói quen ăn thịt động vật hoang dã của người Trung Quốc, xảy ra trước kỳ nghỉ Tết Nguyên đán và trong giai đoạn đầu tiên của thỏa thuận, khi cuộc chiến thương mại Trung-Mỹ bắt đầu lắng xuống.
Dựa trên tất cả những sự thật này, có thể giả định rằng sự bùng phát virus là một công cụ bất đối xứng của chiến tranh. Virus là một trong những công cụ bên cạnh kinh tế, thương mại, văn hóa khiến các đối thủ suy yếu.
Ai sẽ sớm bắt đầu cuộc chiến kế tiếp ?
Cho đến nay, gần 300.000 nạn nhân của dịch Covid-19 đã chết (2), ít hơn nhiều so với số ngưởi tử vong trong Thế chiến thứ hai. Tuy nhiên, 65 quốc gia đã bị lây nhiễm, nhiều hơn nhiều so với các quốc gia trong Thế chiến II.
Corona tấn công nền kinh tế thế giới. Theo dự báo của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và một số tổ chức quốc tế khác, nền kinh tế sẽ giảm xuống chỉ còn 1,5% đến 2,4%.
Trung Quốc đã bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Standard & Poor’s (S&P) ước tính rằng tăng trưởng kinh tế năm nay của Bắc Kinh dự kiến là 5%, so với các quốc gia khác ở ngưỡn 1,5 đến 2,4% thì tình hình Trung Quốc cũng không đến nỗi nào. Thế nhưng tác động của nền kinh tế yếu kém Trung Quốc rất rộng : nông dân Nam Mỹ khó khăn trong xuất khẩu nông sản ; Việt Nam rất khó trở thành nhà xuất khẩu gạo ; nông dân Mỹ đang mất thị trường của họ ; nguồn khách du lịch Trung Quốc cho các thị trường dịch vụ trên thế giới bị chao đảo… Ngoài ra, ảnh hưởng chuỗi cung ứng cũng là vấn để gây đau đầu với các quốc gia. Ví dụ : Ấn Độ mất nguồn cung cấp thiết bị của Trung Quốc, buộc quốc gia này phải hoãn việc xây dựng nhà máy điện. Nhiều hãng hàng không "nhàn rỗi" máy bay, công nhân trong nhà máy của Volkswagen, Land Rover, Apple… đều rơi vào tình trạng mất việc.
Sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế Trung Quốc đã ảnh hưởng đến hàng chục quốc gia. Và Trung Quốc đã lợi dụng điều đó để mưu đồ các lợi ích quốc gia riêng. Độc chiếm Biển Đông, trấn áp Hồng Kông, dập tắt Tây Tạng, chi phối Phi Châu bằng khoảng nợ, đe dọa thống nhất Đài Loan bằng vũ lực.
Đại dịch Covid-19 khiến Trung Quốc trở nên bất trị, mưu đồ và tham vọng hơn dưới sự lãnh đạo của Tập Cận Bình.
Từ "nanh sói" trong ngoại giao đến "nanh sói" trong quân sự đang tiến triển nhanh, Biển Đông sớm trở thành nơi bùng phát một cuộc chiến mà quân đội Trung Quốc chờ đợi từ lâu để lực lượng này rèn giũa thực lực trong hoàn cảnh thực tế, sau quá trình tinh gọn quân đội thời ông Tập Cận Bình.
Nhắc lại rằng xung đột quân sự gần nhất mà quân đội Trung Quốc tham gia là Hải chiến Trường Sa 1988, cách đây 32 năm. Xung đột lớn hơn liên quan đến cuộc chiến Biên giới Viêt-Trung diễn ra cách đây 41 năm (1979).
Hiếu Linh
Nguồn : VNTB, 07/05/2020
Chú thích :
(1) https://www.sipri.org/sites/default/files/2018-03/fssipri_at2017_0.pdf
********************
"Vạn lý trường thành" trên Biển Đông ?
Hiếu Linh, VNTB, 07/05/2020
Khu vực nhận dạng phòng không (ADIZ) chồng chéo ở vùng biển Hoa Đông giữa Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc
Taiwan News gần đây tải tin tức về Biển Đông nhưng ít người Việt chú ý đến.
"Bộ Quốc phòng Đài Loan vào sáng thứ Hai (4/5) xác nhận rằng Trung Quốc đang lên kế hoạch thiết lập một khu vực nhận dạng phòng không (ADIZ) ở Biển Đông".
ADIZ là không phận của một quốc gia, trong khu vực đó tất cả các máy bay được yêu cầu cung cấp nhận dạng, vị trí và chịu kiểm soát nhằm bảo đảm an ninh quốc gia.
"Trung Quốc đã tuyên bố rằng họ sẽ thành lập một ADIZ ở Biển Đông, nhưng họ vẫn chưa chính thức công bố".
Tính pháp lý của ADIZ là "đơn phương đặt ra dựa trên nhu cầu quốc phòng của quốc gia đó và nó không có cơ sở trong luật pháp quốc tế".
Vào tháng 5 năm 2013, quân đội Trung Quốc đã đệ trình một đề xuất chính thức cho một ADIZ ở biển Hoa Đông. Kế hoạch này đã được phê duyệt vào tháng 8 bởi các cơ quan đảng, nhà nước và quân đội hàng đầu của Trung Quốc. Mục đích của Trung Quốc nhằm bảo vệ chủ quyền cốt lõi tại vực này. Kế hoạch này sẽ giúp Bắc Kinh bảo vệ tốt hơn trước các mối đe dọa trên không. Các hành động ngăn chặn, giám sát, cảnh báo mở rộng với các máy bay chiến đấu trong vùng Biển Đông sẽ được Bắc Kinh tiến hành thường xuyên hơn trong tương lai.
Có thể hình dung "tương lai Biển Đông" qua bài viết đăng tải trên Brookings (1), đó là "Vạn lý trường thành trên không" của Trung Quốc.
Ý tưởng ban đầu về "Vạn lý trường thành trên không" có thể bắt nguồn vào ngày 1 tháng 11 năm 2009, nhân kỷ niệm 60 năm Không quân Trung Quốc. Thời điểm đó, Nhân dân Nhật báo đã xuất bản một bài báo có tựa đề "Xây dựng Vạn lý trường thành trong Vạn lý trường thành", Tân Hoa Xã cũng đã thực hiện một cuộc phỏng vấn độc quyền với Hứa Kỳ Lượng, Tư lệnh Không quân Trung Quốc, với tựa đề "Xây dựng Vạn lý trường thành trên bầu trời xanh". Kết quả Bắc Kinh tuyên bố vào ngày 23 tháng 11 về ADIZ biển Hoa Đông mà không cần tham vấn bất kỳ quốc gia liên quan nào.
Thực hiện ADIZ giúp Bắc Kinh thực hiện "vùng đệm" trên bờ biển, gia tăng các hoạt động quân sự của Bắc Kinh, làm thay đổi hiện trạng tranh chấp trong khu vực tương tự như lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm và bồi lấp đảo nhân tạo, thúc đầu nhiều quốc gia lớn trong khu vực tăng cường quân sự, làm tăng căng thẳng và khả năng xảy ra va chạm trong vùng Biển Đông. ADIZ là cơ sở củng cố quan điểm "các lực lượng vũ trang Trung Quốc sẽ thực hiện các biện pháp phòng thủ khẩn cấp để đối phó với các máy bay không hợp tác trong nhận dạng".
Biện pháp phòng thủ khẩn cấp bao gồm : thẩm vấn, ngăn chặn, buộc hạ cánh hoặc thậm chí bắn hạ.
Như vậy kế hoạch này sẽ hỗ trợ đắc lực cho Bắc Kinh trong tham vọng "đường chín đoạn" trên Biển Đông. Giới lãnh đạo Trung Quốc hiện giờ đang chứng tỏ mình đủ khả năng và sự quyết đoán trong duy trì lập trường cứng rắn về lợi ích chủ quyền tại Biển Đông.
Dù thiếu các quy tắc ADIZ quốc tế nhưng với tham vọng của Trung Quốc, ADIZ sẽ hoàn tất tham vọng quân sự hóa tại Biển Đông của Bắc Kinh.
Hãy tưởng tượng người Việt nhìn ra Biển Đông sẽ thấy vùng nhận dạng phòng không, lệnh cấm đánh bắt cá, chuỗi đảo nhân tạo với đầy đủ khí tài quân sự và cơ quan hành chính của Trung Quốc (2).
Liệu các phiên bản máy bay chiến đấu "Su" từ đất liền phóng ra các đảo tại quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam sẽ dễ dàng như trước hay sẽ gặp khó như tàu cá Việt Nam bị cảnh cáo, húc, đâm chìm khi đang khai thác hải sản tại ngư trường Việt Nam.
Biển Đông không còn "dịu êm" như thời kỳ 2014 - khi Bắc Kinh đã quyết liệt hơn trên các cơ sở Biển Đông mà quốc gia này cưỡng chiếm có được.
Chính quyền Việt Nam có thể làm gì ?
Điều cần thiết là sớm có động thái phản ứng, cùng các quốc gia có yêu sách trong ASEAN ra tuyên bố phản đối Bắc Kinh, tăng cường sức sẵn sàng chiến đấu của giới quân nhân, dung dưỡng lòng yêu nước của nhân dân cũng là điều cần thiết trước khi mọi thứ trở nên tồi tệ hơn.
Hiếu Linh
Nguồn : VNTB, 07/05/2020
Chú thích :
(1)https://www.brookings.edu/opinions/chinas-adiz-over-the-east-china-sea-a-great-wall-in-the-sky/
(2) https://tuoitre.vn/bien-dong-adiz-va-nhung-he-luy-1141501.htm
*******************
Biển Đông : Trung Quốc khoe tập trận liên tục, chuẩn bị đáp trả "khiêu khích" của Mỹ
Tú Anh, RFI, 06/05/2020
Ngoài việc chuẩn bị chuẩn bị lập vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) ở Biển Đông, theo phát biểu của bộ trưởng quốc phòng Đài Loan ngày 05/05, Hải quân Trung Quốc liên tiếp tăng cường các hành động gia tăng căng thẳng, tiến hành tập trận trong những ngày gần đây ở Biển Đông để củng cố tham vọng độc chiếm vùng biển.
Tàu sân bay Trung Quốc Liêu Ninh tiến vào cảng Hồng Kông ngày 07/07/2017. Ảnh minh họa. Reuters- Bobby Yip
Theo giới phân tích, được Global Times (bản tiếng Anh của Hoàn Cầu Thời Báo) trích dẫn ngày 05/05/2020, Hải quân Trung Quốc tổ chức thao dượt hoàn thiện phối hợp ba lực lượng : chiến đấu cơ J-15, tầu sân bay và tầu ngầm để giám sát Biển Đông và "sẵn sàng đáp trả hành động khiêu khích quân sự của Mỹ", kể cả khi Hải quân Hoa Kỳ điều tầu sân bay trở lại khu vực, sau khi trang Navy Times của Hải quân Mỹ đưa tin ngày 27/04 rằng tầu sân bay USS Nimitz đã rời cảng đến hoạt động ở vùng Thái Bình Dương vào mùa hè này.
Đài truyền hình trung ương Trung Quốc CCTV ngày 04/05 đưa tin về cuộc diễn tập của chiến đấu cơ J-15 cất cánh từ một hải cảng trên đảo Hải Nam, được cho là để bổ sung cho lực lượng của tầu sân bay thứ hai Sơn Đông (Shandong), mới được đưa vào hoạt động và đang neo đậu ở Hải Nam. Trước đó, tầu sân bay Liêu Ninh đã hoàn thành đợt tập trận ở Biển Đông hôm 30/04.
Ngoài ra, vẫn theo CCTV, ba tầu chiến thuộc hạm đội hộ tống số 35 của Hải quân Trung Quốc, gồm tầu khu trục Thái Nguyên (Taiyuan), tầu hộ tống Kinh Châu (Jingzhou) và tầu tiếp liệu Sào Hồ (Chaohu), cũng tham gia tập trận bắn đạn thật ở quần đảo Trường Sa vào thứ Bẩy 02/05, sau khi đã tiến hành chiến dịch chống hải tặc ở Vịnh Aden, ngoài khơi Somalia.
Giới chuyên gia, được báo Hồng Kông South China Morning Post trích dẫn ngày 05/05, cho rằng cuộc diễn tập ở Trường Sa, trên danh nghĩa là nhằm tăng cường bảo vệ tầu hàng của Trung Quốc trong phạm vi từ Biển Đông đến eo biển Miyako và Ba Sĩ (Bashi) ở biển Hoa Đông, nhưng thực chất là thu hút sự chú ý của Hoa Kỳ.
Một cuộc tập trận khác, được trang mạng báo quân đội Trung Quốc PLA Daily đưa tin ngày 04/05, liên quan đến đợt luyện tập tuần tra của đội máy bay chống tầu ngầm thuộc Bộ Tư Lệnh Chiến Khu miền nam Trung Quốc. Tờ báo nhắc lại chính lực lượng của chiến khu miền nam đã "đuổi" tầu USS Barry của Mỹ ra khỏi khu vực Hoàng Sa hôm 28/04.
Hải quân Trung Quốc tăng cường tập trận trong bối cảnh Hoa Kỳ liên tục thực hiện các chuyến tuần tra ở Biển Đông sau khi Bắc Kinh ngang nhiên lập hai huyện đảo quản lý Hoàng Sa và Trường Sa và liên tục khiêu khích các nước trong vùng.
Tú Anh
Nguồn : RFI, 06/05/2020
*******************
Liệu Việt Nam có dùng lá bài chủ, cho Mỹ thuê Vịnh Cam Ranh ?
VOA, 07/05/2020
Biển Đông gần đây lại dậy sóng vì những hành động khiêu khích của Trung Quốc giữa mùa dịch Covid-19, và đang có nhiều tin đồn rằng Hà Nội đang cân nhắc giải pháp cho Hoa Kỳ thuê dài hạn Vịnh Cam Ranh hoặc một đảo nào đó ở Biển Đông để làm căn cứ, nhằm đối trọng với các hành động gây hấn dồn dập của Trung Quốc gần đây. Giáo sư Carl Thayer thuộc Học viện Quốc phòng Úc/Đại học New South Wales, một chuyên gia về các vấn đề Việt Nam, phân tích chính sách của Việt Nam và của Hoa Kỳ, xem liệu các diễn biến phức tạp ở Biển Đông có đủ nghiêm trọng để lãnh đạo Việt Nam phải sửa đổi chính sách quốc phòng và cân nhắc việc dùng "con bài chủ", cho thuê cảng Cam Ranh ?
Đoàn các nhà lập pháp Mỹ do Thượng nghị sĩ John McCain dẫn đầu đến thăm tàu USS John McCain tại quân cảng Cam Ranh, Khánh Hòa, ngày 2/6/2017. (Ảnh Người Lao động)
Cam Ranh là một trong các cảng nước sâu tốt nhất trong vùng, có tầm quan trọng chiến lược đối với Đông Nam Á, và khu vực Châu Á-Thái Bình Dương-Ấn Độ Dương. Một bài báo trên tờ National Interest từng nói rằng căn cứ Cam Ranh có thể thay đổi cục diện Biển Đông, và Việt Nam nắm trong tay con bài chiến lược, có thể quyết định chọn nước nào trong các đại cường đang nhòm ngó an ninh khu vực để cho thuê cảng Cam Ranh.
Trong một bài viết đăng trên báo The Diplomat hôm 6/5/2020, chuyên gia về các vấn đề Việt Nam, Giáo sư Carl Thayer thuộc Học viện Quốc Phòng Úc, đặt câu hỏi liệu tin đồn vừa kể có cơ sở hay không ?
Biển Đông và quan hệ Mỹ-Philippines
Hiệp ước phòng thủ chung giữa Hoa Kỳ và Philippines đã có từ năm 1951, cho phép quân đội Mỹ hiện diện tại các căn cứ chiến lược của Philippines.
Tình hình Biển Đông có lẽ đã khác đi nếu người Mỹ không rút ra khỏi lãnh thổ Philippines vào đầu thập niên 1990, vì những mâu thuẫn dẫn tới việc đàm phán lại Hiệp ước phòng thủ chung (MDT), khiến Mỹ rút ra khỏi Philippines.
Sự vắng mặt của Mỹ trong khu vực từ đó, đã tạo chỗ trống cho phép Trung Quốc bành trướng và mở rộng phạm vi ảnh hưởng, để cuối cùng trở thành một mối đe dọa đối với các nước nhỏ hơn trong khu vực.
Vì mối đe dọa này, Manila đề xuất một thỏa thuận cho phép quân đội Mỹ "tạm thời" có mặt tại Philippines, dẫn tới Hiệp Ước Thăm Viếng Quân Sự với Mỹ (VFA) năm 1998, và sau đó Thỏa thuận Hợp tác Quốc phòng Tăng cường (EDCA) giữa Manila và Washington năm 2014.
Tuy nhiên, loan báo của Tổng thống Philippines Duterte sẽ chấm dứt Hiệp Ước Thăm Viếng Quân Sự với Mỹ sẽ tác động tới EDCA bởi vì khó có chuyện người Mỹ sẽ tiếp tục hoạt động và hỗ trợ Philippines nếu nhân sự của họ không được bảo vệ theo các điều khoản ghi trong thỏa thuận VFA.
Những khúc mắc trong quan hệ hai nước và chính sách bất nhất của TT Duterte đã buộc người Mỹ xoay sang các nước láng giềng, và trong bối cảnh đó, các cơ sở tại Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn đối với Hoa Kỳ, dẫn tới nhiều đồn đoán cho rằng Hà Nội đang cân nhắc việc cho Hoa Kỳ thuê dài hạn Vịnh Cam Ranh hoặc một vài đảo ở Biển Đông.
Giáo sư Carlyle Thayer nói khả năng này bị hạn chế bởi chính sách "Ba Không" của Việt Nam, ngăn cấm việc cho thuê cảng Cam Ranh hay các đảo đá ở Biển Đông.
Chính sách Ba Không
Chính sách đối ngoại và quốc phòng của Việt Nam dựa trên nguyên tắc Ba Không đã được ghi trong Sách trắng Quốc phòng đầu tiên của Việt Nam vào năm 1998. Nguyên tắc Ba Không gồm : "Không liên minh quân sự với nước nào, Không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam, và Không về phe nước nào chống lại một nước khác".
Chính sách này được Hà Nội tái khẳng định nhiều lần. Sách trắng Quốc phòng mới nhất, công bố vào cuối năm 2019, đổi chính sách Ba không thành Bốn Không :
"Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự ; không liên kết với nước này để chống nước kia ; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác ; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế".
Giáo sư Thayer nói như vậy nếu chỉ dựa trên nguyên tắc Ba Không, thì chính sách quốc phòng của Việt Nam ngăn cấm việc cho Hoa Kỳ hoặc bất kỳ nước nào khác, thuê Vịnh Cam Ranh hay các đảo trên Biển Đông.
Nhưng Giáo sư Thayer lưu ý rằng Sách Trắng Quốc phòng năm 2019 gợi lên triển vọng Việt Nam có thể cứu xét sửa đổi chính sách Ba Không. Các đoạn sau đây đã thu hút nhiều chú ý :
"Việt Nam sẽ tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước và giải quyết các thách thức an ninh chung".
Và,
"Tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế".
Cảng Cam Ranh & Biển Đông
Việt Nam chiếm từ 49 đến 51 tiền đồn trên Biển Đông, trải rộng trên 27 thực thể tại quần đảo Trường Sa, theo Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và quốc tế tại Washington.
Năm 2009, Thủ tướng Việt Nam thời đó, ông Nguyễn Tấn Dũng, loan báo các cơ sở thương mại bảo trì, sửa chữa tàu của Việt Nam tại Cảng Cam Ranh sẽ mở cửa đón các tàu hải quân của thế giới. Hoa Kỳ là nước đầu tiên nhận lời mời, đưa tàu USNS Safeguard tới cảng Sài Gòn vào tháng 9/2009.
Năm 2010, Hoa Kỳ và Việt Nam ký hợp đồng để sửa chữa và bảo trì các tàu hải quân Mỹ.
Theo Giáo sư Thayer, từ hơn một thập niên nay, số tầu chiến Mỹ cập cảng Việt Nam để viếng thăm chính thức, hoặc để bảo trì, sửa chữa ngày càng nhiều.
Cảng Cam Ranh gồm một cảng quân sự và một cảng dân sự. Cảng Quốc tế Cam Ranh, cảng dân sự, chính thức đi vào hoạt động vào tháng Ba năm 2016.
Tàu hải quân đầu tiên của Mỹ trở lại Cam Ranh là tàu tiếp liệu đạn dược của Hạm đội 7, chiếc USNS Richard E. Byrd, ghé Việt Nam vào tháng 8/2011.
Trong năm 2016, có tới 3 tàu chiến Mỹ ghé Cảng dân sự Cam Ranh gồm : USS John McCain, USS Frank Cable và chiếc USS Mustin.
Mỹ tránh lập căn cứ quân sự
Hoa Kỳ từ lâu chủ trương dàn xếp các "điểm tiếp nhận chứ không lập căn cứ" dựa trên lập luận rằng căn cứ có vị trí cố định, dễ là mục tiêu bị tấn công, trong khi điểm tiếp nhận cho phép Hoa Kỳ tiếp cận các cơ sở đó vào những thời khắc quan trọng như thảm họa thiên nhiên hay một cuộc khủng hoảng nào đó. Cho nên theo Giáo sư Thayer, có khả năng Hoa Kỳ sẽ điều đình với phía Việt Nam để cho phép các tầu chiến của Mỹ được thường xuyên cập cảng Việt Nam, hơn là thuê một cơ sở để thiết lập căn cứ.
Hoa Kỳ đã có nhiều căn cứ quân sự ở Thái Bình Dương như Yokosuka ở Nhật Bản, đảo Guam hay như ở Hawai. Và nhất là các tầu chiến của Mỹ có khả năng nhận tiếp tế trên biển.
Gần đây, vì những động thái ngày càng gây hấn của Trung Quốc, đe dọa chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam ở Biển Đông, Việt Nam và Mỹ đã có các cuộc đàm phán nhằm nâng mối quan hệ đối tác toàn diện lên thành thành quan hệ đối tác chiến lược.
Tuy nhiên, theo chuyên gia này, chính phủ Việt Nam sẽ vô cùng thận trọng trong việc áp dụng bất kỳ thay đổi nào đối với chính sách đối ngoại và quốc phòng dài hạn trong thời gian dẫn tới đại hội Đảng lần thứ 13, dự kiến diễn ra trong quý I năm 2021.
Ông nói căn cứ trên quá khứ, Việt Nam có nhiều khả năng tiếp tục chính sách "đa dạng hóa và đa phương hóa" trong các quan hệ với các cường quốc thế giới. Do đó, sẽ khó có chuyện Việt Nam liên kết với Mỹ để chống Trung Quốc.
Giáo sư Thayer nói điều này giải thích vì sao ông đi đến kết luận là "khó xảy ra chuyện Việt Nam cho Hoa Kỳ thuê cảng Cam Ranh" hay một đảo nào đó ở Biển Đông để làm căn cứ.
Nguồn : VOA, 07/05/2020
*****************
Biển Đông : Trung Quốc khoe tập trận liên tục, chuẩn bị đáp trả "khiêu khích" của Mỹ
Thu Hằng, RFI, 06/05/2020
Ngoài việc chuẩn bị chuẩn bị lập vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) ở Biển Đông, theo phát biểu của bộ trưởng Quốc Phòng Đài Loan ngày 05/05, Hải quân Trung Quốc liên tiếp tăng cường các hành động gia tăng căng thẳng, tiến hành tập trận trong những ngày gần đây ở Biển Đông để củng cố tham vọng độc chiếm vùng biển.
Tàu sân bay Trung Quốc Liêu Ninh tiến vào cảng Hồng Kông ngày 07/07/2017. Ảnh minh họa. Reuters- Bobby Yip
Theo giới phân tích, được Global Times (bản tiếng Anh của Hoàn Cầu Thời Báo) trích dẫn ngày 05/05/2020, Hải quân Trung Quốc tổ chức thao dượt hoàn thiện phối hợp ba lực lượng : chiến đấu cơ J-15, tầu sân bay và tầu ngầm để giám sát Biển Đông và "sẵn sàng đáp trả hành động khiêu khích quân sự của Mỹ", kể cả khi Hải quân Hoa Kỳ điều tầu sân bay trở lại khu vực, sau khi trang Navy Times của Hải quân Mỹ đưa tin ngày 27/04 rằng tầu sân bay USS Nimitz đã rời cảng đến hoạt động ở vùng Thái Bình Dương vào mùa hè này.
Đài truyền hình trung ương Trung Quốc CCTV ngày 04/05 đưa tin về cuộc diễn tập của chiến đấu cơ J-15 cất cánh từ một hải cảng trên đảo Hải Nam, được cho là để bổ sung cho lực lượng của tầu sân bay thứ hai Sơn Đông (Shandong), mới được đưa vào hoạt động và đang neo đậu ở Hải Nam. Trước đó, tầu sân bay Liêu Ninh đã hoàn thành đợt tập trận ở Biển Đông hôm 30/04.
Ngoài ra, vẫn theo CCTV, ba tầu chiến thuộc hạm đội hộ tống số 35 của Hải quân Trung Quốc, gồm tầu khu trục Thái Nguyên (Taiyuan), tầu hộ tống Kinh Châu (Jingzhou) và tầu tiếp liệu Sào Hồ (Chaohu), cũng tham gia tập trận bắn đạn thật ở quần đảo Trường Sa vào thứ Bẩy 02/05, sau khi đã tiến hành chiến dịch chống hải tặc ở Vịnh Aden, ngoài khơi Somalia.
Giới chuyên gia, được báo Hồng Kông South China Morning Post trích dẫn ngày 05/05, cho rằng cuộc diễn tập ở Trường Sa, trên danh nghĩa là nhằm tăng cường bảo vệ tầu hàng của Trung Quốc trong phạm vi từ Biển Đông đến eo biển Miyako và Ba Sĩ (Bashi) ở biển Hoa Đông, nhưng thực chất là thu hút sự chú ý của Hoa Kỳ.
Một cuộc tập trận khác, được trang mạng báo quân đội Trung Quốc PLA Daily đưa tin ngày 04/05, liên quan đến đợt luyện tập tuần tra của đội máy bay chống tầu ngầm thuộc Bộ Tư Lệnh Chiến Khu miền Nam Trung Quốc. Tờ báo nhắc lại chính lực lượng của chiến khu miền Nam đã "đuổi" tầu USS Barry của Mỹ ra khỏi khu vực Hoàng Sa hôm 28/04.
Hải quân Trung Quốc tăng cường tập trận trong bối cảnh Hoa Kỳ liên tục thực hiện các chuyến tuần tra ở Biển Đông sau khi Bắc Kinh ngang nhiên lập hai huyện đảo quản lý Hoàng Sa và Trường Sa và liên tục khiêu khích các nước trong vùng.
Thu Hằng
Nguồn : RFI, 06/05/2020
******************
Diễm My, VNTB, 06/05/2020
Đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam bị Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng trái phép từ năm 1974
Thế giới đang nỗ lực để kiềm chế đại dịch corona toàn cầu, nhưng điều đó không ngăn cản Hoa Kỳ và Trung Quốc có những cuộc tập trận Biển Đông.
Biển Đông, một trong những tuyến đường thủy nhộn nhịp nhất thế giới, nơi có tranh chấp lãnh thổ chồng chéo giữa các quốc gia như Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Đài Loan, Malaysia và Brunei.
Tranh chấp hiện đã trở thành một tiêu điểm trong quan hệ Châu Á-Trung Quốc.
Trong sự cố leo thang gần đây, một hạm đội của Hải quân Trung Quốc đã tổ chức diễn tập (hộ tống) trong chuỗi đảo thuộc quần đảo Trường Sa (khu vực thuộc chủ quyền Việt Nam).
Diễn tập lần này của Hải quân Trung Quốc nhằm mục đích, "tăng cường huấn luyện tàu chiến trên biển và tăng cường chống cướp biển, bảo vệ các tàu thương mại Trung Quốc", theo South China Morning Post.
Cuộc diễn tập diễn ra sau khi một hạm đội khác của Hải quân Trung Quốc đã hoàn thành các hoạt động chống cướp biển, và trở về từ Vịnh Aden, ngoài khơi Somalia.
Theo "Taiwan News", các máy bay ném bom của Mỹ đã thách thức các yêu sách hàng hải của Bắc Kinh với cái gọi là "tự do hàng hải" và bắt đầu tiến đến Biển Hoa Đông vào ngày thứ Hai.
Tờ báo nói rằng hai máy bay ném bom siêu thanh B-1B của Hoa Kỳ đã bay từ đảo Guam đến Biển Hoa Đông và tiếp cận biên giới trên biển ở phía đông bắc Đài Loan trên đường đi.
Chuyến bay của máy bay ném bom Mỹ đã diễn ra vài ngày trước và quân đội Trung Quốc bày tỏ sự phản đối "sự tăng cường sự hiện diện hải quân nước ngoài ở Biển Đông".
Phát ngôn nhân Bộ Quốc phòng Trung Quốc Wu Qian tuyên bố : "Một lần nữa, Mỹ đã chứng minh rằng nước này thúc đẩy quân sự hóa lớn nhất ở Biển Đông và là kẻ gây rối cho hòa bình và ổn định khu vực".
Ông gọi những hành động này là "bất lợi cho hòa bình và ổn định khu vực".
Yang Aibin, một sĩ quan Hải quân Trung Quốc, nói rằng lực lượng hải quân không ngừng cải thiện các kế hoạch để cải thiện khả năng của hạm đội trong thực hiện các nhiệm vụ hộ tống.
Tuần trước, tàu chiến Mỹ - USS Barry đã di chuyển gần Quần đảo Hoàng Sa (khu vực thuộc chủ quyền Việt Nam mà Trung Quốc chiếm đóng trái phép). Đáp lại, Trung Quốc đã triển khai một lực lượng hải quân để cảnh báo.
Đầu tháng 4, một chiếc thuyền đánh cá của Việt Nam đã bị cảnh sát biển Trung Quốc đánh chìm trong vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam. Trung Quốc cũng đã triển khai tàu thăm dò địa chất "Hải Dương 8" gần vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Vào ngày 18 tháng 4, Trung Quốc tuyên bố rằng họ đã mở rộng và thiết lập quyền kiểm soát hành chính đối với Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa gây ra phản ứng dữ dội từ nhiều nước. Philippines kêu gọi "tôn trọng luật pháp quốc tế" và bác bỏ tuyên bố của Trung Quốc.
Theo Amid pandemic, US, China rival in the South China Sea
Diễm My
Nguồn : VNTB, 06/05/2020
******************
Hải quân Trung Quốc diễn tập ở Trường Sa
RFA, 06/05/2020
Hải quân Trung Quốc vừa tiến hành đợt huấn luyện ở vùng biển xung quanh quần đảo Trường Sa Việt Nam vào ngày 2/5.
Buổi diễn tập của tàu hải quân Trung Quốc. PLA Daily
South China Morning Post vào ngày 5/5 dẫn nguồn từ PLA Daily, cơ quan ngôn luận của Giải Phóng Quân Nhân dân Trung Quốc, cho biết đội tàu Trung Quốc đã có buổi huấn luyện chống hải tặc và huấn luyện bắn đạn thật.
Đây là hoạt động mới nhất của Trung Quốc tại Biển Đông.
Vào ngày 18/4, Trung Quốc công bố thành lập "quận Tây Sa" và "quận Nam Sa" để kiểm soát quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sang ngày 19 tháng tư Trung Quốc đặt cái gọi là "danh xưng tiêu chuẩn" cho 80 thực thể trên Biển Đông,
Gần đây Trung Quốc tăng cường tập trận ở Biển Đông với việc cử phi công lái máy bay J-15 tham gia cuộc tập trận được tổ chức từ cảng hải quân ở tỉnh Hải Nam. Bên cạnh đó là việc điều tàu chiến và máy bay chống tàu ngầm thực hiện giám sát ở Biển Đông.
Trước những hành động gần đây của Trung Quốc, trong cuộc họp báo vào ngày 5/5, ông Mark Esper, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, đã chỉ trích Trung Quốc hành xử ngang ngược ở Biển Đông khi đe dọa tàu hải quân Philippines và đâm chìm tàu cá Việt Nam, trong lúc cả thế giới nỗ lực chống lại dịch bệnh Covid-19.
Ông Esper cho biết hai tàu chiến Hoa Kỳ tuần trước thực hiện chiến dịch tuần tra tự do hàng hải ở Biển Đông để gửi thông điệp đến Trung Quốc rằng phía Hoa Kỳ sẽ tiếp tục bảo vệ tự do hàng hải và thương mại cho các quốc gia lớn nhỏ. Ông Esper cáo buộc Trung Quốc đã không minh bạch ngay từ khi đại dịch bắt đầu và dùng những hành vi này tại Biển Đông để đánh lạc hướng thông tin về Covid-19.
Nguồn : RFA, 06/05/2020
'Việc trục xuất tàu Mỹ mà Trung Quốc tuyên bố hoàn toàn bịa đặt'
Carl Thayer, Tina Hà Giang, BBC, 05/05/2020
Nhận định về tuyên bố đã "trục xuất" tàu Mỹ khỏi vùng Biển Đông gần đây của Trung Quốc, Giáo sư Carl Thayer nói rằng điều này hoàn toàn là một bịa đặt có tính cách tuyên truyền.
Tàu khu trục USS Barry của Mỹ tuần tra trên biển - Ảnh minh họa
Hôm 28/4, Trung Quốc cáo buộc tàu chiến USS Barry của Mỹ đã đi vào vùng đảo Hoàng Sa ở Biển Đông, nơi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền, mà "không được Trung Quốc cho phép". Trung Quốc cũng nói họ sau đó đã thiết lập một thủ tục để theo dõi, theo dõi, xác minh, xác định và trục xuất USS Barry ra khỏi Biển Đông.
Nhưng ngay sau đó, một quan chức của Hải quân Hoa kỳ nói rằng USS Barry không hề bị trục xuất như Trung Quốc tuyên bố, và tàu khu trục, được đặt theo tên của "Cha đẻ của Hải quân Mỹ", đã tuần tra theo đúng kế hoạch mà không gặp phải bất kỳ hành vi không an toàn hoặc không chuyên nghiệp nào từ máy bay hoặc tàu chiến của Trung Quốc.
Trao đổi với BBC News tiếng Việt qua email từ Canberra, Úc, nhà nghiên cứu chính trị Việt Nam và bang giao quốc tế giải thích rằng Trung Quốc tuyên bố như thế với mục đích tuyên truyền và cảnh báo các quốc gia khác trong khu vực.
Carl Thayer : Mỗi khi Hải quân Hoa Kỳ thực thi quyền tự do hàng hải ở Biển Đông, Trung Quốc lại đưa ra loại tuyên bố tương tự là họ đã theo dõi, kiểm soát và "trục xuất" tàu chiến Hoa Kỳ. Đây hoàn toàn là những lời ngoa ngữ, cường điệu.
Trung Quốc có phương tiện giám sát để xác định khi nào tàu chiến của Hoa Kỳ đi vào vùng biển mà Trung Quốc tuyên bố là của riêng họ. Và mỗi lần như thế Trung Quốc thường điều một máy bay để rình rập tàu chiến Mỹ trên biển. Thường thì tàu chiến Hoa Kỳ và nhân sự của Hải quân Quân đội Giải phóng Nhân dân (People's Liberation Army Navy - PLAN) có liên lạc với nhau trong những lần nghênh chiến đó. Sau khi tàu chiến Hoa Kỳ hoàn thành nhiệm vụ và rời khỏi vùng biển do Trung Quốc tuyên bố chủ quyền, Trung Quốc tuyên bố sẽ họ vừa "trục xuất" tàu Mỹ.
Trung Quốc đang sử dụng chiến tranh thông tin để cảnh báo các quốc gia trong khu vực là họ sẽ chịu chung số phận này, nếu tàu của họ xâm nhập vào vùng biển mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền. Công bố cường điệu này của Bắc Kinh cũng nhằm vào đối tượng trong nước để chứng minh rằng chế độ Tập Cận Bình đang bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc một cách kiên quyết chống lại chủ nghĩa quân phiệt của Hoa Kỳ.
Người phát ngôn của Hạm đội 7 Hoa Kỳ chắc chắn đã công bố rõ nếu Trung Quốc có bất kỳ động thái quân sự không chuyên nghiệp nào với tàu chiến USS Barry (DDG-52). Ví dụ, trong việc liên quan đến một tàu chiến của PLAN nhào đến tàu chiến USS Decatur một cách nguy hiểm hồi tháng 9/2018, Hoa Kỳ đã công bố khúc phim về cuộc chạm trán này để chứng minh quan điểm của mình.
Trong trường hợp USS Barry, một phát ngôn viên của Hải quân Hoa Kỳ tuyên bố rằng, hoạt động của tàu được tiến hành theo kế hoạch mà không gặp phải bất kỳ hành vi không an toàn hoặc không chuyên nghiệp nào từ máy bay hoặc tàu chiến của Trung Quốc.
Chúng ta không nên đánh giá là những tuyên bố của Trung Quốc và Hoa Kỳ có giá trị ngang nhau. Khi Trung Quốc sử dụng thuật ngữ "trục xuất", thì đó là một điều bịa đặt trong việc tuyên truyền của PLAN.
BBC : Theo giáo sư thì sự duy chuyển của USS Barry trong thời gian đó ở Biển Đông có tầm quan trọng gì ? USS Barry đến đó theo một lộ trình thường xuyên, hay với một mục đích nào khác ?
Carl Thayer : USS Barry có cuộc tuần tra với mục đích thực thi quyền tự do hàng hải (FONOP) để thách thức những gì Hoa Kỳ cáo buộc là yêu cầu bất hợp pháp của Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam là phải báo trước cho những nước này biết trước khi vào vùng biển gần đảo Hoàng Sa. Trung Quốc đã vẽ những đường cơ sở quanh quần đảo Hoàng Sa. Chúng tôi không có thông tin chi tiết về đường đi chính xác của USS Barry, nhưng có khả năng đó là hành động thách thức yêu sách quá mức của Trung Quốc đối với vùng biển bên ngoài Hoàng Sa dựa trên các đường cơ sở này.
Hiện dưới sự lãnh đạo của quyền Bộ trưởng Quốc phòng Mark Esper, Hoa kỳ rõ ràng đã có một sự thay đổi trong chính sách FONOP's, để hoạt động hải quân phù hợp hơn với Chiến lược Quốc phòng được ban hành năm 2018 của nước này. Tài liệu của chính sách Quốc phòng 2018 kêu gọi các lực lượng quân sự Hoa Kỳ phải làm sao để thể hiện châm ngôn "chiến lược đoán được, nhưng hành tung khôn lường". Chuyến tuần tra của USS Barry, được tháp tùng ngay ngày hôm sau bởi việc thực thi quyền tự do hàng hải chưa từng có của USS Bunker Hill (CG-52) ở vùng biển quanh Đá Lạc (Gaven Reef) ở Trường Sa.
Tàu khu trục USS Bunker Hill (CG-52) tuần tra trên biển - Ảnh minh họa.
BBC : Ông nghĩ gì về thái độ khá lớn lối của Bắc Kinh khi bảo quân đội Hoa Kỳ hãy "về nhà và tập trung vào phòng ngừa Covid-19 đi", thay vì đi "gây bất ổn cho hòa bình và an ninh khu vực" ?
Carl Thayer : Hành động quan trọng hơn lời nói. Hòa bình và an ninh khu vực ở Đông Nam Á, chưa kể trên toàn cầu, đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi virus corona xuất hiện lần đầu tiên ở Trung Quốc. Rõ ràng là ngay từ đầu, Trung Quốc đã đàn áp những báo cáo trong nước về Covid-19, và không minh bạch trong việc truyền đạt cho cộng đồng quốc tế rằng virus này có thể lây truyền giữa người và cực kỳ nguy hiểm. Các hành động chỉ vì tư lợi của Trung Quốc đã dẫn đến sự lây lan của Covid-19, khiến hơn 3,4 triệu người bị lây nhiễm tại ít nhất 187 quốc gia, gây ra cái chết của gần 250.000 người.
Hai chuyến tuần tra thực thi quyền tự do hàng hải gần đây nhất của Hoa Kỳ đã đến và đi mà không tạo bất kỳ suy giảm nào trong an ninh khu vực. Trên thực tế, hoàn toàn ngược lại, Trung Quốc đang bị chỉ trích nặng nề là đã lợi dụng đại dịch để khẳng định mạnh mẽ hơn các tuyên bố chủ quyền đối với Biển Đông và khu vực, và các nước nhỏ quanh vùng hoan nghênh sự hiện diện của Hải quân Hoa Kỳ.
BBC : Nhắc đến virus corona, thì ngoài mục đích thực thi quyền tự do hàng hải, Hoa Kỳ còn có động cơ nào khác khi đưa hai tàu chiến USS Barry và USS Bunker Hill đến Hoàng Sa giữa lúc hai nước đang căng thẳng vì Mỹ buộc tội Trung Quốc xử lý sai và giữ bí mật về sự bùng phát virus khi nó vừa xảy ra ?
Carl Thayer : Cũng có một động lực khác. Thủy thủ Hoa Kỳ trên tàu USS Theodore Roosevelt và tàu USS Kidd đã bị nhiễm virus corona. Bộ máy tuyên truyền của Trung Quốc lợi dụng thời cơ này để lập luận rằng Hoa Kỳ đang hoạt động ở một vị trí yếu kém. Trong khi đó Hoa Kỳ đang cố gắng khắc phục một trở ngại về quan hệ công cộng, bằng cách chứng minh rằng Hoa Kỳ có thể duy trì sự hiện diện của hải quân nước này ở Biển Đông.
Về mặt này, USS Barry đã tuần tra hai lần qua Eo biển Đài Loan vào tháng Tư trước khi triển khai đến Hoàng Sa. USS Bunker Hill đã tham gia với USS America ở vùng biển ngoài khơi Đông Malaysia để chứng minh sự hiện diện của Hoa kỳ khi Lực lượng Bảo vệ Bờ biển Trung Quốc và tàu khoan Hai Yang Dizhi 8 đang quấy rối các hoạt động thăm dò dầu khí của Petronas, công ty dầu khí của nhà nước Malaysia.
Tina Hà Giang thực hiện
Nguồn : BBC, 05/05/2020
******************
Biển Đông : Kế sách nào giúp Việt Nam đối phó với Trung Quốc ?
Trọng Nghĩa, RFI, 05/05/2020
Một loạt động thái mới đây của Trung Quốc tại Biển Đông cho thấy là Bắc Kinh lại thừa cơ thế giới bận đối phó với đại dịch Covid-19 để bắt nạt các nước Đông Nam Á – đặc biệt là Việt Nam - đang cố bảo vệ chủ quyền của mình trên vùng biển mà Trung Quốc tự nhận làm của riêng. Thế yếu của Việt Nam về mặt quân sự trước Trung Quốc đã thúc đẩy nhiều chuyên gia lên tiếng đề nghị những kế sách nhằm giúp Việt Nam đẩy lùi tham vọng của Bắc Kinh.
Hàng không mẫu hạm USS Theodore Roosevelt ghé cảng Đà Nẵng ngày 05/03/2020, bắt đầu chuyến thăm Việt Nam lần thứ hai trong vòng 3 năm của một tàu sân bay Mỹ. Ảnh minh họa. Reuters - Nguyen Huy Kham
Trong bài phân tích đăng trên chuyên san Nhật Bản The Diplomat ngày 05/05/2020, chuyên gia phân tích quốc phòng Derek Grossman thuộc RAND Corporation, giảng viên trường Đại Học Mỹ University of Southern California, một người theo dõi sát tình Biển Đông, đã cho rằng trong bối cảnh Trung Quốc không từ bỏ "thái độ xấu xa", Việt Nam cần phải tính tới một số phương án mới để đối phó.
Bài viết mang tựa đề "Rà soát lại các phương án ‘đấu tranh’ của Việt Nam tại Biển Đông (Reviewing Vietnam’s ‘Struggle’ Options in the South China Sea).
Việt Nam tiếp tục bị Trung Quốc bắt nạt ở Biển Đông
Trước hết, tác giả đã nêu bật ba sự kiện gần đây nhất của Trung Quốc ở Biển Đông mà Việt Nam là nạn nhân trực tiếp.
Sự kiện đầu tiên là vụ một tàu Hải Cảnh Trung Quốc đâm chìm một tàu đánh cá Việt Nam hôm 03/04 ở vùng biển tranh chấp ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa.
Sự kiện thứ hai diễn ra 10 hôm sau, vào ngày 13/04, khi Bắc Kinh lại cho chiếc tàu khảo sát địa chất Hải Dương Địa Chất 8 xâm nhập vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (trên đường đi xuống vùng biển ngoài khơi Malaysia). Chính chiếc tàu này vào năm ngoái đã được Bắc Kinh cử đến khảo sát hàng tháng trời tại khu vực Bãi Tư Chính và vùng biển ngoài khơi miền Trung, sâu bên trong vùng thềm lục địa của Việt Nam.
Qua ngày 18/04, Bắc Kinh tuyên bố đã thiết lập quyền kiểm soát hành chính đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang tranh chấp bằng quyết định thành lập hai quận đảo tại các khu vực này.
Phản đối suông không thay đổi được hành vi xấu của Trung Quốc
Các hành vi gây căng thẳng của Trung Quốc đã bị Việt Nam công khai phản đối, nhưng theo chuyên gia Mỹ, các tuyên bố đó vẫn không thay đổi được "hành vi xấu xa" của Bắc Kinh.
Vì vậy, câu hỏi hiển nhiên là ngoài việc công khai tỏ thái độ bất bình, Việt Nam có thể làm gì khác để kiềm chế sự quyết đoán của Trung Quốc trong tương lai ?
Chuyên gia Grossman nhắc lại rằng trong quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam vẫn chủ trương "vừa hợp tác, vừa đấu tranh", tức là luôn luôn tìm cách duy trì quan hệ song phương hữu hảo và hữu ích với Bắc Kinh, nhưng đồng thời kháng lại Trung Quốc trên vấn đề Biển Đông và một số vấn đề khác.
Vấn đề mà chuyên gia Mỹ đặt ra là vế hợp tác đã được Việt Nam coi trọng hơn trong quan hệ với Trung Quốc, vốn đã được nâng lên thành quan hệ "đối tác hợp tác chiến lược toàn diện". Trong số 3 đối tác chiến lược toàn diện của Việt Nam (Trung Quốc, Ấn Độ và Nga), duy nhất Trung Quốc được ghi nhận là đối tác "hợp tác".
Tuy nhiên, rõ ràng là sau cuộc đối đầu Việt Trung kéo dài hàng tháng trời vào năm ngoái ở khu vực Bãi Tư Chính, Hà Nội cần phải suy tính đến những phương thức mới trong việc đấu tranh chống Trung Quốc.
Nên đình chỉ một số hợp tác với Trung Quốc để tỏ thái độ
Một trong những phương thức mới mà ông Grossman đề xuất là công khai tỏ thái độ bằng cách đình chỉ một số hợp tác với Trung Quốc.
Chuyên gia Mỹ ghi nhận là cho đến nay, Việt Nam vẫn chủ trương tách biệt vấn đề Biển Đông ra khỏi các lãnh vực hợp tác khác với Bắc Kinh, không để cho phản ứng của mình đối với hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông phá vỡ các phần khác trong quan hệ song phương.
Hủy bỏ tuần tra chung, không tham gia Con đường tơ lụa
Một ví dụ : Ngày 21 và 23/04 vừa qua, Việt Nam quyết định vẫn cùng với Trung Quốc tiến hành các cuộc tuần tra bảo vệ bờ biển thường niên trong Vịnh Bắc Bộ. Theo ông Grossman, mặc dù Hà Nội và Bắc Kinh vào năm 2000 đã đạt thỏa thuận về việc phân định Vịnh Bắc Bộ, Việt Nam không có nghĩa vụ phải tiếp tục các cuộc tuần tra chung này. Thay vào đó, Hà Nội có thể gửi một thông điệp rõ ràng tới Bắc Kinh rằng các lĩnh vực khác của quan hệ sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực, đặc biệt là trong lĩnh vực nhạy cảm của chính sách trên biển.
Ngoài ra, Việt Nam cũng có thể quyết định chấm dứt tham gia vào sáng kiến Một vành đai, Một con đường của Trung Quốc, một dự án mà chính Hà Nội cũng rất nghi kỵ, cả ở Việt Nam lẫn ở các láng giềng Lào và Cam Bốt.
Đối với chuyên gia Grossman, Việt Nam còn có nhiều lựa chọn khác để gửi tín hiệu đến Trung Quốc.
Kiện Trung Quốc trước tòa án quốc tế, giảm cấp quan hệ đối tác
Hà Nội chẳng hạn có thể biến thành thực tế lời đe dọa gợi lên vào tháng 11 là sẽ kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế về các yêu sách chủ quyền ở Biển Đông, như Philippines đã làm vào năm 2013 và được Việt Nam hỗ trợ vào năm 2014. Chuyên gia Grossman cho biết là đã nghe thấy được từ một số nguồn tin từ chính phủ Việt Nam rằng khả năng kiện Trung Quốc đang được xem xét nghiêm túc.
Trong một lãnh vực khác, Việt Nam cũng có thể quyết định là thôi không kiểm duyệt, để cho các phương tiện truyền thông trong nước nói về các hành vi quyết đoán của Trung Quốc, qua đó hun đúc tinh thần chống Trung Quốc, có thể đe dọa đến lợi ích kinh doanh của Trung Quốc tại Việt Nam.
Hà Nội cũng có thể hạ thấp vị thế đối tác của Trung Quốc, chỉ đơn giản là "đối tác chiến lược toàn diện" để cho thấy rằng quan hệ song phương đang bị ảnh hưởng do các hành động của Bắc Kinh tại Biển Đông.
Học tập thái độ cứng rắn của Indonesia
Trong lĩnh vực quân sự, chuyên gia Mỹ cho rằng Việt Nam có thể học tập cách Indonesia đối phó với Trung Quốc trong vụ Natuna, sẵn sàng leo thang quân sự để buộc Bắc Kinh lùi bước.
Trong một thời gian ngắn vào cuối tháng 12/2019 và đầu tháng 01/2020 ở vùng biển xung quanh quần đảo Natuna, quân đội Indonesia đã phản ứng mạnh mẽ trước việc lực lượng hải cảnh và tàu cá Trung Quốc xâm nhập vào vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia. Jakarta đã cho triển khai tàu Hải Quân và máy bay chiến đấu đến khu vực và tàu Trung Quốc đã rút lui ngay sau đó.
Theo ông Grossman, một phản ứng tương tự của Việt Nam có thể sẽ liên quan đến việc cho triển khai các tàu khu trục lớp Gepard, tàu ngầm lớp Kilo và chiến đấu cơ Su-30MMK để chứng tỏ quyết tâm, mặc dù làm như vậy sẽ có nguy cơ xung đột rộng hơn và do đó cần có chừng mực cẩn thận.
Ở mức thấp hơn, Việt Nam có thể triển khai lực lượng Cảnh Sát Biển và Dân Quân Biển (vừa được xây dựng) để tuần tra thường xuyên tại các vùng bị tranh chấp, giống như cách mà Bắc Kinh đã làm trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, phương án này rất tốn kém cho các nguồn lực vốn hiếm hoi của Việt Nam.
Tận dụng chức chủ tịch ASEAN và ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an
Đối với chuyên gia Grossman, trên bình diện đa phương, Hà Nội cũng có nhiều phương án khả thi để tăng cường đấu tranh.
Năm nay, Việt Nam vừa là chủ tịch ASEAN vừa là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Cho dù hồ sơ phối hợp hành động chống dịch Covid-19 về cơ bản đã chiếm lĩnh chương trình nghị sự của ASEAN vào năm 2020, Hà Nội vẫn có thể tìm cách thúc đẩy các thành viên hướng tới việc hoàn tất Bộ Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông mang tính ràng buộc về pháp lý, có lợi cho an ninh của Việt Nam.
Hiện đang có tin đồn cho rằng Hà Nội có thể tìm cách gia hạn nhiệm kỳ chủ tịch của mình, cho đến năm 2021, để có thêm thời gian để nắm giữ ảnh hưởng tại diễn đàn quan trọng này.
Còn tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, Việt Nam đã cho lưu hành một công hàm phản đối yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông. Trong tương lại, Việt Nam có thể tiếp tục nêu bật hơn nữa vấn đề thông qua diễn đàn của Hội đồng Bảo an.
Việt Nam cũng có thể tìm cách tiếp tục tăng cường hơn nữa quan hệ đối tác an ninh với các cường quốc.
Liên kết chặt chẽ với nhóm Bộ Tứ Quad
Ngoài các nước truyền thống như Úc, Ấn Độ, Nhật Bản và Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và Pháp cũng có thể hỗ trợ Hà Nội ngăn chặn sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực.
Mặc dù có rất ít khả năng Việt Nam tham gia nhóm Bộ Tứ Quad - Úc, Ấn Độ, Nhật Bản và Mỹ - để cùng tiến hành các cuộc tập trận quân sự hoặc tuần tra để biểu thị quyết tâm đoàn kết chống lại Trung Quốc trên khắp vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương, nhưng Việt Nam có thể đóng vai trò đối tác đối thoại với Bộ Tứ về các vấn đề Trung Quốc. Dẫu sao thì Việt Nam cũng đã tham gia nhóm Quad Plus, cùng với New Zealand và Hàn Quốc, để hợp tác về các nỗ lực chống dịch Covid-19.
Củng cố nhóm nước Đông Nam Á bị Bắc Kinh chèn ép
Ngoài ra, Hà Nội có thể tìm đến các nước ASEAN có cùng chí hướng để được hỗ trợ. Trong những tháng gần đây, Philippines, Malaysia và Indonesia đều đã tức giận trước các hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông. Có lẽ ba quốc gia này có thể tiến hành các cuộc tập trận quân sự hoặc tuần tra cùng nhau. Ý tưởng này đang được gợi lên một cách không chính thức ở Philippines.
Cuối cùng, sách trắng quốc phòng mới nhất của Việt Nam, công bố vào tháng 11/2019, đã mở ra cơ hội tăng cường hợp tác an ninh với Hoa Kỳ.
Thắt chặt thêm quan hệ an ninh quốc phòng với Hoa Kỳ
Tài liệu này nhắc lại chính sách quốc phòng "3 không" của Hà Nội - không liên minh, không có căn cứ nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam và không liên kết với một nước để chống lại nước thứ ba - nhưng cũng lưu ý rằng, tùy thuộc vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể, chuyên gia Grossman nhấn mạnh, Việt Nam sẽ xem xét việc phát triển các quan hệ quân sự và quốc phòng phù hợp và cần thiết với các nước khác.
Đối với ông Grossman, trên tinh thần đó, Hà Nội hoàn toàn có thể nhờ Washington hỗ trợ thêm nếu hành vi của Bắc Kinh ở Biển Đông không thay đổi. Hà Nội có thể làm việc này dựa trên đà cải thiện quan hệ đáng kinh ngạc trong những năm gần đây với Washington, mà một cái mốc quan trọng được ghi dấu tháng Ba vừa qua khi Hàng không mẫu hạm Mỹ USS Theodore Roosevelt ghé cảng Đà Nẵng. Đấy là lần thứ hai trong ba năm mà một tàu sân bay Mỹ đến thăm Việt Nam.
Chuyên gia Grossman kết luận : Việt Nam hiện có nhiều phương án hợp lý khác nhau để đấu tranh chống lại Trung Quốc, vấn đề là Việt Nam cần xác định sẽ đi đến đâu để thành công.
Trọng Nghĩa
Nguồn : RFI, 05/05/2020
********************
Trung Quốc sẵn sàng "hải chiến" với Việt Nam trên Biển Đông ?
Thu Thủy, Thoibao.de, 05/05/2020
Trung Quốc vừa ngang ngược đơn phương tuyên bố lệnh cấm đánh bắt cá mùa hè ở Biển Đông
Sở Nông nghiệp và Nông thôn tỉnh đảo Hải Nam, miền Nam Trung Quốc, ngày 30/4 cho biết, lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm ở Biển Hoa Nam (Biển Đông) đã bắt đầu từ hôm 29/4 và kéo dài đến ngày 16/8 tới.
Khu vực Trung Quốc đơn phương cấm đánh bắt cá ở Biển Đông
Phạm vi cấm đánh bắt trải dài từ vùng biển phía bắc biển Đông đến 12 độ vĩ Bắc, bao gồm cả một phần vịnh Bắc Bộ và quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Ngoài ra, còn có bãi cạn Scarborough mà Trung Quốc chiếm đóng trái phép sau cuộc đối đầu với tàu Philippines vào năm 2012.
Theo cơ quan trên, không hoạt động đánh bắt cá nào được phép ở các vùng biển thuộc thẩm quyền của Trung Quốc, ngoại trừ câu cá trong thời gian này. Tất cả các tàu đánh cá đã trở về các cảng ở đảo Hải Nam lúc 0 giờ ngày 29/4.
Theo Tân Hoa xã dẫn thông báo từ lực lượng hải cảnh Trung Quốc, 50.000 tàu cá sẽ dừng hoạt động đánh bắt trong thời gian 3 tháng rưỡi và lực lượng này sẽ thực thi lệnh cấm một cách nghiêm ngặt theo cái gọi là quy định và luật pháp liên quan.
Trong thời gian áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá kéo dài 3 tháng rưỡi, Trung Quốc sẽ tiến hành kiểm tra an toàn ngư lưới cụ và tàu thuyền, đồng thời tập huấn về các quy định và kỹ năng liên quan cho ngư dân.
Trước đó, lực lượng Hải Cảnh và Bộ Nông Nghiệp Trung Quốc thông báo tăng cường tuần tra và giám sát kể từ ngày 01/5 nhằm bắt giữ tầu thuyền vi phạm.
Báo mạng Anh Express ngày 02/5 cho rằng với lệnh cấm đánh cá ở Biển Đông, Bắc Kinh tự cho quyền bắt giữ tàu cá Việt Nam và Philippines đánh bắt "trái phép", trong khi hai nước Đông Nam Á này luôn bác bỏ và lên án lệnh cấm đơn phương của Trung Quốc.
Kể từ năm 1995, Trung Quốc đã thi hành lệnh cấm đánh bắt cá thường niên để bảo vệ hệ sinh thái và đa dạng sinh học của đại dương khỏi nguy cơ đánh bắt quá mức. Lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông bắt đầu được áp đặt đơn phương vào năm 1999.
Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nhiều lần liên tục phản đối và kịch liệt bác bỏ việc Trung Quốc đơn phương ra quyết định cấm đánh bắt. Quan điểm của phía Việt Nam là quy chế do chính quyền Bắc Kinh ban hành đã xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Ngoài ra, phía Trung Quốc cũng xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam tại các vùng biển của Việt Nam.
Quan trọng hơn, nếu chiếu theo luật pháp quốc tế, trong đó bao gồm Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), quy chế của Trung Quốc cũng bất hợp pháp. Quy chế này đi ngược lại với tinh thần và nội dung quy định trong Tuyên bố về cách ứng xử ở biển Đông (DOC) giữa Trung Quốc và ASEAN.
Thậm chí, quy chế cấm đánh bắt còn vi phạm Thỏa thuận về những Nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước Việt Nam và Trung Quốc (ký năm 2011).
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng trong nhiều lần phát biểu đã khẳng định : Việt Nam cho rằng những biện pháp bảo tồn các nguồn tài nguyên sinh vật cần phải được thực hiện phù hợp với những quy định của UNCLOS năm 1982, đồng thời không làm phương hại đến quyền chủ quyền, các quyền tài phán trên biển của tất cả quốc gia liên quan.
"Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như các quyền hợp pháp đối với các vùng biển của Việt Nam được xác định phù hợp với UNCLOS năm 1982" – bà Hằng nhấn mạnh.
Ngày 4/5, Hội Nghề cá Việt Nam có văn bản gửi Văn phòng Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Ngoại giao, Ban Đối ngoại trung ương… phản đối phía Trung Quốc ban hành quy chế cấm đánh bắt cá trên biển Đông từ ngày 01/5 đến 16/8.
Tại văn bản này, Hội Nghề cá Việt Nam kịch liệt phản đối việc Trung Quốc có thông báo về quy chế cấm đánh bắt cá trên biển Đông, phạm vi cấm đánh bắt trải dài từ vùng biển phía bắc biển Đông đến 12 độ vĩ Bắc, bao gồm cả một phần vịnh Bắc bộ và quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.
"Quy chế này xâm phạm chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và các vùng biển của Việt Nam, vi phạm các quyền và lợi ích pháp lý, gây cản trở sản xuất trên biển của ngư dân Việt Nam. Đồng thời vi phạm luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 và các văn bản pháp lý quốc tế liên quan" – Hội Nghề cá Việt Nam khẳng định.
"Quy chế này không có giá trị pháp lý đối với các vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Ngư dân Việt Nam hoàn toàn có quyền đánh bắt trên các vùng biển thuộc chủ quyền của mình" – Hội Nghề cá Việt Nam nhấn mạnh.
Hội đề nghị các cơ quan chức năng có biện pháp phản đối mạnh mẽ nhằm ngăn chặn, chấm dứt hành động ngang ngược của Trung Quốc. Cùng với đó, thường xuyên tăng cường lực lượng chấp pháp trên biển để hỗ trợ và bảo vệ ngư dân Việt Nam khi hoạt động trên vùng biển của Việt Nam.
Về phía Hội Nghề cá Việt Nam, hội sẽ tích cực chỉ đạo các hội thủy sản, hội nghề cá địa phương tuyên truyền cho ngư dân hiểu và chấp hành các quy định của pháp luật khi đi đánh bắt trên biển. Đồng thời kêu gọi ngư dân bình tĩnh, yên tâm bám biển, đẩy mạnh sản xuất và kiên quyết thực hiện quyền lợi chính đáng của mình, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo Tổ quốc.
Việc thông báo cấm đánh bắt cá nói trên là động thái mới nhất trong chuỗi động thái khiêu khích và ngang ngược gần đây của Trung Quốc ở Biển Đông.
Hồi đầu tháng 4, một tàu cá của Việt Nam đang hoạt động bình thường tại vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa thì bị tàu hải cảnh Trung Quốc ngăn cản và đâm chìm, khiến 8 ngư dân Việt Nam gặp nạn.
Chính quyền Trung Quốc hôm 19/4 đã công bố cái gọi là danh xưng tiêu chuẩn của 25 đảo và rạn san hô cùng 55 thực thể ở biển Đông, một ngày sau khi ngang ngược thành lập hai cơ quan hành chính nhằm kiểm soát phi pháp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Trước đó, hôm 16/4, tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc đã bám theo tàu khai thác dầu West Capella của công ty dầu khí Petronas (Malaysia) hoạt động ở biển Đông.
Những hành động liên tiếp mang tính chất hung hăng thời gian gần đây của Trung Quốc trên Biển Đông bị cộng đồng quốc tế chỉ trích dữ dội nhất là trong thời điểm cộng đồng quốc tế vẫn đang đối phó với đại dịch Covid-19.
Hoa Kỳ không tỏ ra khoanh tay trước những hành động lấn lướt của Trung Quốc trong khu vực, đặc biệt trong thời gian cả thế giới chống dịch Covid-19.
Bốn oanh tạc cơ B-1B cùng với 200 quân nhân từ căn cứ Không Quân Dyess ở Texas đã được điều đến căn cứ Andersen, trên đảo Guam ở Thái Bình Dương, từ ngày 01/5 và chưa rõ thời gian kết thúc. Ba chiếc B-1B bay thẳng đến căn cứ Guam, chiếc còn lại bay đến Nhật Bản tập huấn với Hải Quân của Hoa Kỳ trong khu vực.
Trong thông cáo ngày 01/5 của bộ Chỉ huy Chiến lược Mỹ (STRATCOM), nhiệm vụ của đội máy bay B-1B là hỗ trợ lực lượng tại Thái Bình Dương và đồng minh, tham gia các nhiệm vụ mang tính răn đe chiến lược, ổn định trật tự dựa trên luật lệ ở khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương.
Trước đó, ngày 30/04, hai chiếc B-1B Lancer, thuộc Không đoàn Ném bom số 28 xuất phát từ căn cứ Nam Dokota (Mỹ), đã có chuyến bay diễn tập trong vòng 33 giờ với trọng tâm là Biển Đông.
Đây là lần đầu tiên oanh tạc cơ hạng nặng trở lại Guam sau khi rời khỏi căn cứ này vào giữa tháng 4/2019, kết thúc chiến dịch 6 tháng của các loại oanh tạc cơ B-52, B-1 và B-2 ở căn cứ Andersen. Loại máy bay ném bom B-1 có khả năng chở nhiều vũ khí nhiều hơn máy bay B-52, trong đó có bom dẫn đường JDAM và tên lửa hành trình chống hạm.
Trước đó, ngày 21/4, Hải quân Mỹ xác nhận đã điều hai tàu chiến ra Biển Đông, trong khi nguồn tin của Reuters nói các tàu này hoạt động gần khu vực được cho là diễn ra sự "đối đầu" giữa Trung Quốc và Malaysia.
Theo giới quan sát, đây được xem là thông điệp cảnh báo gửi đến Bắc Kinh khi tàu Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc đã bị phát hiện đang tiến hành khảo sát gần khu vực mà tàu thăm dò của công ty dầu khí nhà nước của Malaysia Petronas đang hoạt động. Hành động của Hải Dương Địa Chất 8 giống với những gì tàu này đã làm ở vùng biển Việt Nam vào năm ngoái.
Bà Nicole Schwegman, người phát ngôn Bộ tư lệnh Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Mỹ, ngày 21/4 cho biết tàu tấn công đổ bộ USS America và tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường USS Bunker Hill đã được triển khai ở Biển Đông.
"Thông qua sự hiện diện liên tục ở Biển Đông, chúng tôi đang nỗ lực… thúc đẩy tự do hàng hải, hàng không và nguyên tắc quốc tế vốn làm nền tảng an ninh và thịnh vượng ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương… Mỹ ủng hộ các nỗ lực của đồng minh và đối tác trong việc quyết định lợi ích kinh tế của riêng mình", bà Schwegman viết trong một tuyên bố bằng email gửi Reuters.
Bộ Quốc phòng Australia ngày 22/4 cũng thông báo, tàu hộ vệ HMAS Parramatta của Australia cùng 3 tàu Mỹ, gồm tàu tấn công đổ bộ USS America, tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường USS Bunker Hill và tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường USS Barry đã thực hiện cuộc diễn tập chung tại Biển Đông.
Trong hai ngày 28 và 29/4, Mỹ lại tiếp tục điều động máy bay ném bom và tàu chiến hoạt động ở Biển Đông thể hiện một thông điệp mạnh mẽ nhằm thách thức các hành vi gần đây của Trung Quốc.
Hãng tin USNI dẫn thông cáo của Trung tá Reann Mommsen, phát ngôn viên Hạm đội 7 Hải quân Mỹ, cho biết tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường USS Bunker Hill ngày 29/4 đã tiến hành hoạt động "tự do hàng hải" ở quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông. Thông cáo nêu rõ, hoạt động này "khẳng định quyền hàng hải và tự do ở quần đảo Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế". Một quan chức giấu tên của Hải quân Mỹ cho biết, tàu USS Bunker Hill đã di chuyển trong phạm vi 12 hải lý quanh Đá Ga Ven thuộc quần đảo Trường Sa.
Đây là lần thứ hai trong một tuần Hải quân Mỹ thực hiện các hoạt động tuần tra dự do hàng hải ở Biển Đông. Hôm 28/4, tàu khu trục USS Barry cũng tiến hành hoạt động tuần tra gần quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Đây là một chuỗi trong các hoạt động của Mỹ nhằm thể hiện cam kết trong chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở.
Rõ ràng Trung Quốc đang thúc đẩy yêu sách phi lý ở Biển Đông lợi dụng bối cảnh các nước phải dồn lực cho cuộc chiến chống Covid-19.
Hành vi phi pháp của Trung Quốc suốt từ nhiều năm qua tại Biển Đông vốn đã liên tục bị phía Việt Nam phản đối. Hơn nữa, Trung Quốc lại tiếp tục hung hăng, đẩy mạnh hành vi ngang ngược của mình vào thời điểm các nước đang phải vật lộn với đại dịch mà ít nhất trong đó có một phần lỗi của Bắc Kinh thì lại càng chứng tỏ sự nguy hiểm và của thể chế độc tài này.
Dã tâm của Trung Quốc là ép các nước Đông Nam Á từ bỏ quyền lợi hợp pháp của mình được quy định trong Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982), ép họ chia sẻ vùng đặc quyền kinh tế với Bắc Kinh. Để làm được điều này, Trung Quốc đang ra sức hợp pháp hóa việc trừng phạt các nước Đông Nam Á khi cố gắng tự khai thác tài nguyên trong vùng chủ quyền của mình.
Nhà cầm quyền Bắc Kinh sẽ khó thực hiện được âm mưu thôn tính lãnh thổ, vì Việt Nam đã hiểu bản chất của những người đồng chí ở phương Bắc, họ sẽ đấu tranh bằng mọi biện pháp, kể cả dùng lực lượng hải quân tự vệ khi bị tấn công.
Mỹ cùng các đồng minh cùng các quốc gia liên đới, cộng đồng quốc tế sẽ không để những hành vi coi thường luật pháp quốc tế tái diễn, đe dọa đến trật tự, an ninh và hòa bình thế giới.
Thu Thủy (Thành phố Hồ Chí Minh)
Nguồn : Thoibao.de, 05/05/2020
**********************
Biển Đông : Việt Nam tìm ngoại lực để đối phó với Trung Quốc
Alexander Vuving, Thu Hằng, RFI, 04/05/2020
Tầu Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc hoành hành trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam từ đầu tháng 07 đến nay, sau khoảng một tuần gián đoạn (07-13/08/2019. Ngày 24/08, tầu Hải Dương Địa Chất 8 còn ngang nhiên tiến sâu vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, chỉ cách bờ biển Phan Thiết khoảng 185 km. - Tạp chí phát lần đầu ngày 27/08/2019.
Sau thời gian đầu im lặng, Việt Nam phản đối ngày càng kịch liệt và huy động lực lượng hải cảnh bám sát hoạt động của đội tầu Trung Quốc. Về mặt ngoại giao, Việt Nam tìm cách vận động công luận quốc tế thông qua những tuyên bố quan ngại tự do lưu thông hàng hải ở Biển Đông đang bị đe dọa.
Trung Quốc có ý đồ gì khi đưa tàu khảo sát quay lại vùng biển Việt Nam ? Việt Nam có khả năng chống trả như thế nào ? RFI Tiếng Việt phỏng vấn giáo sư Alexander Vuving, Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á-Thái Bình Dương (Asia-Pacific Center for Security Studies, APCSS), Hawai.
RFI :Tàu Hải dương Địa chất 8 của Trung Quốc đã hai lần thâm nhập khu vực bãi Tư Chính, thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, và hiện vẫn đang hoạt động trong khu vực này. Trung Quốc có ý đồ gì với sự kiện gây hấn mới nhất này ?
Alexander Vuving : Tôi nghĩ ý đồ lớn nhất của Trung Quốc là họ muốn tiếp tục hiện thực hóa yêu sách "đường lưỡi bò" của họ ở Biển Đông. Yêu sách đó đương nhiên là bị Tòa Trọng Tài Quốc Tế bác bỏ năm 2016. Nhưng Trung Quốc thấy rằng họ gần như muốn làm gì cũng được nên họ tiếp tục hiện thực hóa. Tôi nghĩ là những hành động vi phạm hiện nay của Trung Quốc cũng có ý đồ thiết lập một hiện thực mới ở khu vực Biển Đông. Điều này thể hiện cán cân sức mạnh nghiêng về Trung Quốc.
Thứ hai là họ cũng muốn gây áp lực để Việt Nam và các nước ASEAN phải chấp nhận lập trường của họ về bản Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC). Như chúng ta biết là Trung Quốc và các nước ASEAN vẫn đang thương thảo về bản Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông. Và mới đây, năm 2018, bộ trưởng Ngoại Giao Trung Quốc đưa ra đề nghị là phải ký kết bản quy tắc này trong vòng 3 năm tới, có nghĩa là đến năm 2021. Thời gian đó chính là thời gian mà Trung Quốc, có thể nói là "vừa đánh vừa đàm", đặc biệt là sẽ gây áp lực rất mạnh trên thực địa để buộc các nước chấp nhận lập trường của Trung Quốc.
Điều thứ ba mà theo tôi nghĩ, đó cũng là một hình thức Trung Quốc muốn gây áp lực với Việt Nam để Việt Nam lo ngại và không dám nâng cao mối quan hệ với Mỹ lên mức "đối tác chiến lược", hiện mới chỉ là "đối tác toàn diện". Có dự định là Việt Nam và Mỹ sẽ nâng quan hệ lên thành "đối tác chiến lược" khi tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sang thăm Mỹ vào cuối năm nay (2019).
Những hành động này của Trung Quốc cũng có ý là làm cho lãnh đạo Việt Nam phải cân nhắc lại, suy nghĩ lại, xem là có nên tiếp tục như thế nữa không.
RFI : Trường hợp bãi Scarborough của Philippines bị Trung Quốc chiếm năm 2012 và trường hợp bãi Tư Chính hiện nay của Việt Nam có gì giống và khác nhau ? Philippines có Mỹ là đồng minh vào thời điểm đó, mà vẫn bị mất.
Alexander Vuving : Trường hợp mà hiện nay chúng ta gọi là "bãi Tư Chính", trên thực tế là không có gì xảy ra ở bãi Tư Chính cả. Hiện nay, cuộc đụng độ giữa Việt Nam và Trung Quốc xảy ra ở hai nơi : một là khu vực Block 06-01, nằm ở phía cao hơn Tư Chính rất là nhiều ; khu vực thứ hai là phía gần đảo Đá Tây của Việt Nam, nơi mà tầu Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc đang khảo sát, cũng không dính líu gì đến bãi Tư Chính. Chỉ có điều là ta cứ tạm gọi như thế. Trước hết, phải nói rõ như thế !
Còn khu vực mà mọi người hay gọi là bãi Tư Chính, trên thực tế là có rất nhiều bãi ngầm, trong đó bãi Tư Chính nằm ở phía cực nam, ngoài ra còn có nhiều bãi khác như Phúc Tần, Phúc Nguyên, Quế Đường, bãi Huyền Trân… Tất cả những bãi này đều nằm chìm dưới mặt biển, từ khoảng 6-7 mét cho đến hơn 20 mét.
Bãi này khác với Scarborough của Philippines có những mỏm đá nhoi lên và thậm chí là có những lúc có một hồ bên trong. Đối với bãi Scarborough, sự chiếm đoạt cũng tương đối dễ dàng hơn rất nhiều so với những bãi, gọi là bãi nhưng thực ra hoàn toàn chìm dưới biển. Nếu muốn chiếm những bãi đó, cũng rất là khó.
Trên thực tế hiện nay, Việt Nam đã xây dựng mười mấy nhà giàn ở khu vực như bãi Tư Chính, Phúc Tần, Phúc Nguyên, Quế Đường, Huyền Trân và về phía xa hơn là ngoài bãi Ba Kè. Bây giờ Trung Quốc muốn chiếm những khu vực này, có lẽ cũng phải mang cấu trúc tương tự như nhà giàn của Việt Nam đến và lắp đặt vào đấy. Những công việc này cũng không phải là đơn giản.
Điểm khác biệt thứ hai trong trường hợp Scarborough và "trường hợp tạm gọi là Tư Chính", vấn đề chủ quyền Scarborough vẫn có sự tranh chấp. Đứng về phía trung lập của quốc tế, người ta không rõ ai có chủ quyền. Vào thời điểm năm 2012, chưa có phán quyết của Tòa Trọng Tài vào năm 2016 cho nên bên ngoài vẫn chưa rõ là khu vực này như thế nào.
Nhưng hiện nay, chúng ta đã có phán quyết của Tòa Trọng Tài năm 2016, và vấn đề vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) được xác định rất rõ ràng, bởi vì Tòa Trọng Tài nói rằng là không một thực thể nào trong quần đảo Trường Sa có được vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Từ đó suy ra là vùng biển hiện nay, nơi đang có đụng độ giữa Việt Nam và Trung Quốc, mà tạm gọi là bãi Tư Chính, là hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam. Và về mặt luật pháp quốc tế, không thể gọi là vùng tranh chấp được.
Đối với những nước thứ ba bên ngoài trung lập, chấp nhận chiểu theo luật pháp quốc tế, họ sẽ phải thừa nhận rằng những vùng này là hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Trung Quốc không có lý do gì để đòi hỏi chủ quyền bởi vì "đường lưỡi bò" - yêu sách của Trung Quốc - đã bị bác bỏ bởi Tòa Trọng Tài năm 2016.
Một điểm khác biệt nữa là Philippines có Mỹ là đồng minh, còn Việt Nam không có nước nào là đồng minh cả. Thế nhưng, thời điểm đó, tuy rằng Mỹ là đồng minh của Philippines nhưng chính quyền Obama lại quá ngây thơ về ý đồ và hành vi của Trung Quốc. Do đó, thay vì đứng về phía Philippines để bảo vệ đồng minh, họ lại đóng vai trò trung gian hòa giải. Điều đó dồn Philippines, là một nước nhỏ, vào thế yếu hơn nữa và cuối cùng dẫn đến việc Philippines bị mất bãi Scarborough vào tay Trung Quốc.
RFI : Vậy Việt Nam có nên tin vào hứa hẹn ủng hộ, giúp đỡ của Mỹ không ? Trong khi chính quyền tổng thống Trump hiện nay bắt đầu phàn nàn về nhập siêu trong lĩnh vực thương mại từ Việt Nam.
Alexander Vuving : Tôi nghĩ chính quyền Trump hiện nay không đến nỗi ngây thơ về những ý đồ và hành vi của Trung Quốc như chính quyền Obama. Họ đã lên tiếng, nói rõ rằng họ chống lại việc Trung Quốc bắt nạt Việt Nam ở vùng biển của mình. Và về vấn đề pháp lý, họ thấy rõ rằng vùng đó là thuộc về chủ quyền của Việt Nam.
Chỉ có điều là Mỹ không có quan hệ đồng minh, cũng chẳng có quan hệ hợp tác quân sự chặt chẽ với Việt Nam, như đối với Philippines. Cho nên tôi không nghĩ là Mỹ có hứa hẹn ủng hộ gì Việt Nam hay không ngoài việc tuyên bố. Nhưng việc nâng cấp quan hệ lên "đối tác chiến lược" là việc lâu dài, không nên bị ảnh hưởng bởi chính quyền hiện nay là thế nào.
Bản thân Việt Nam cũng nhận thức được thực tế là họ phải cân bằng mối quan hệ với các nước khi mà họ đã có một mối quan hệ "đối tác hợp tác chiến lược toàn diện" với Trung Quốc. Đương nhiên là họ phải có một mối quan hệ đối tác chiến lược khá toàn diện với Mỹ để cân bằng. Nhưng hiện nay, quan hệ với Mỹ lại bị đặt ở cấp thấp, chỉ là "quan hệ toàn diện". Rõ ràng là có độ vênh mà Việt Nam sẽ cần phải lấp vào.
RFI : Việt Nam có những tiềm lực gì về ngoại giao, quân sự để phản đối và đối phó những hoạt động trên, cũng như chiến lược thâu tóm Biển Đông của Trung Quốc ?
Alexander Vuving : Với những mối quan hệ ngoại giao và khả năng quân sự của Việt Nam hiện tại, thì hoàn toàn cán cân sức mạnh, kể cả ngoại giao lẫn quân sự, đều nghiêng hẳn về phía Trung Quốc. Lực lượng của Việt Nam chưa đủ mạnh để có thể thực sự cản phá được những hoạt động của Trung Quốc. Việt Nam, kể cả về ngoại giao lẫn quân sự, đều thiếu khả năng răn đe Trung Quốc. Có thể nói thẳng là như vậy !
Cho nên những gì Việt Nam cố gắng làm ở Biển Đông chỉ là giữ những gì mình đang làm, chẳng hạn những giàn khoan dầu, đã khoan rồi thì tiếp tục giữ. Còn bây giờ, đặt thêm giàn khoan mới cũng không phải dễ dàng. Chúng ta đã biết trong hai năm vừa qua, 2017 và 2018, Việt Nam cũng muốn đưa một số giàn khoan ra để khoan thăm dò, cuối cùng là phải rút về, thậm chí là phải hủy. Lần này đưa ra thì tiếp tục giữ được, nhưng khi tầu Trung Quốc xuống và khảo sát cả một vùng biển lớn như đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam thì Việt Nam cũng không ngăn chặn được.
Hy vọng là những sự kiện như này sẽ có tác dụng như những cú hích, giống thời kỳ giàn khoan năm 2014, để Việt Nam thực sự đầu tư, phát triển, tăng cường khả năng chống tiếp cận và cản phá sự lấn lướt của Trung Quốc trên thực địa, cũng như là mở rộng quan hệ ngoại giao.
Nhìn về vấn đề ngoại giao, thì thấy rằng tiềm năng là đủ để Việt Nam có thể cản phá được Trung Quốc vì các nước lớn trong khu vực như Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ đều có chung lợi ích chiến lược là không để cho Trung Quốc độc chiếm Biển Đông. Vấn đề là những tiềm năng này vẫn chưa được khai phá một cách tương ứng với áp lực và cách thức từ phía Trung Quốc.
RFI : Vậy phải chăng ưu tiên hiện nay là cần tập trung tố cáo Trung Quốc không tôn trọng luật pháp quốc tế, qua đó mới lôi kéo được các nước, như giáo sư vừa nêu, tham gia tích cực hơn để ngăn chặn tham vọng của Trung Quốc ?
Alexander Vuving :Vâng. Tôi nghĩ là trước mắt, Việt Nam vẫn chưa làm đủ mạnh bằng năm 2014. Năm 2014, Việt Nam đưa nhà báo quốc tế ra tận thực địa để quay phim, chụp ảnh, để đưa những bằng chứng về sự ăn hiếp của Trung Quốc ra quốc tế. Và chính điều đó, theo tôi, có tác dụng không nhỏ đến việc buộc Trung Quốc rút giàn khoan sau hai tháng rưỡi.
Bây giờ, rõ ràng là về mặt luật pháp quốc tế, Trung Quốc hoàn toàn sai, Việt Nam là đúng. Tại sao lại không đưa nhà báo quốc tế ra tận nơi ? Tại sao không công bố những hành động của Trung Quốc ở ngoài biển để làm "mất mặt" Trung Quốc trên trường quốc tế ? Tôi thấy rằng những hành động hiện nay của Việt Nam chưa đủ để Trung Quốc buộc phải trả giá.
Chưa nói đến chuyện tăng cường mối quan hệ với những nước lớn (như Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ) có thể giúp được Việt Nam và gây áp lực đối với Trung Quốc. Đây là vấn đề không thể giải quyết được ngay bây giờ, nhưng phải làm và đẩy mạnh lên để khi cần thì vận động được các nước đó có hành động giúp mình, chẳng hạn như một chương trình đưa tầu cảnh sát biển của một số nước vào giúp Việt Nam thực thi quyền chủ quyền của mình trong khu vực EEZ của Việt Nam. Điều này hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế. Đã có rất nhiều tiền lệ trên thế giới.
Nhưng để làm điều đó thì phải bắt đầu, vào một thời điểm nào đó, nhưng tôi chưa thấy Việt Nam bắt đầu những công việc như này. Có thể nói là tiềm năng thì có rất nhiều nhưng chưa được khai thác đầy đủ.
RFI : Vào đầu tháng 8/2019, Việt Nam và Liên Hiệp Châu Âu bàn về hợp tác quốc phòng, hướng tới một thỏa thuận khung nhân chuyến thăm Hà Nội của lãnh đạo ngành ngoại giao Châu Âu Mogherini. Gần đây, hai tướng Không quân Mỹ sang thăm Việt Nam, ủng hộ quyền tự vệ và phòng vệ chính đáng của Việt Nam. Phải chăng Việt Nam công khai mở rộng hợp tác quân sự, mà mục tiêu trước mắt là đối phó với sức mạnh của Trung Quốc ?
Alexander Vuving : Thực ra Việt Nam đã đi nhiều bước để mở rộng hợp tác quân sự với nhiều nước, gồm cả Nga, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc, Pháp từ nhiều năm nay. Việc này nằm trong sách lược mà Việt Nam gọi là "giữ nước từ xa", tức là một cách để cân bằng các mối đe dọa, đồng thời san sẻ rủi ro, tránh bị phụ thuộc vào một đối tác nhất định.
Chỉ có điều những bước đi đó vẫn còn rất rụt rè, những bước đi vẫn còn rất ngắn, chưa đủ để tạo những hợp tác sâu và mạnh đến mức độ có thể thực sự nâng cao được khả năng của Việt Nam, cũng như là tạo được sức mạnh răn đe đối với Trung Quốc.
RFI tiếng Việt xin chân thành cảm ơn giáo sư Alexander Vuving.
Thu Hằng thực hiên
Nguồn : RFI, 04/05/2020
Trung Quốc đơn phương ra lệnh cấm đánh cá ở Biển Đông (RFI, 03/05/2020)
Trung Quốc vừa đơn phương ban hành lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm ở Biển Đông trong vòng ba tháng rưỡi, từ ngày 29/04 đến 16/08. Trước tình hình ở Biển Đông và biển Hoa Đông trở nên căng thẳng trong thời gian gần đây, Hoa Kỳ điều bốn máy bay ném bom B-1B đến ở đảo Guam, đánh dấu sự trở lại của loại oanh tạc cơ hạng nặng trong khu vực Thái Bình Dương.
Ảnh minh họa: Một đội tàu cá Trung Quốc tại cảng Đông Phương, Hải Nam. © Reuters (tư liệu)
Theo thông tin của Sở Nông Nghiệp Hải Nam, được báo mạng Hoàn Cầu Thời Báo trích dẫn ngày 02/05, "mọi hoạt động đánh bắt cá không được phép trong những vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc". Trong thời gian không được ra khơi, tầu thuyền của ngư dân được kiểm tra an toàn miễn phí và ngư dân được đào tạo hoàn thiện kỹ năng và luật lệ liên quan đến đánh bắt cá.
Trước đó, lực lượng Hải Cảnh và bộ Nông Nghiệp Trung Quốc thông báo tăng cường tuần tra và giám sát kể từ ngày 01/05 nhằm bắt giữ tầu thuyền vi phạm.
Báo mạng Anh Express ngày 02/05 cho rằng với lệnh cấm đánh cá ở Biển Đông, Bắc Kinh tự cho quyền bắt giữ tầu cá Việt Nam và Philippines đánh bắt "trái phép", trong khi hai nước Đông Nam Á này luôn bác bỏ và lên án lệnh cấm đơn phương của Trung Quốc. Hiện tại, Việt Nam và Philippines chưa lên tiếng về quyết định của Trung Quốc.
Bốn chiến đấu cơ B-1B đến đảo Guam
Hoa Kỳ không tỏ ra khoanh tay trước những hành động lấn lướt của Trung Quốc trong khu vực, đặc biệt trong thời gian cả thế giới chống dịch Covid-19. Bốn oanh tạc cơ B-1B cùng với 200 quân nhân từ căn cứ Không Quân Dyess ở Texas đã được điều đến căn cứ Andersen, trên đảo Guam ở Thái Bình Dương, từ ngày 01/05 và chưa rõ thời gian kết thúc. Ba chiếc B-1B bay thẳng đến căn cứ Guam, chiếc còn lại bay đến Nhật Bản tập huấn với Hải Quân của Hoa Kỳ trong khu vực.
Trong thông cáo ngày 01/05 của bộ Chỉ huy Chiến lược Mỹ (STRATCOM), nhiệm vụ của đội máy bay B-1B là hỗ trợ lực lượng tại Thái Bình Dương và đồng minh, tham gia các nhiệm vụ mang tính răn đe chiến lược, ổn định trật tự dựa trên luật lệ ở khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương.
Trước đó, ngày 30/04, hai chiếc B-1B, xuất phát từ căn cứ Nam Dokota (Mỹ), đã có chuyến bay diễn tập trong vòng 33 giờ với trọng tâm là Biển Đông.
Đây là lần đầu tiên oanh tạc cơ hạng nặng trở lại Guam sau khi rời khỏi căn cứ này vào giữa tháng 04/2019, kết thúc chiến dịch 6 tháng của các loại oanh tạc cơ B-52, B-1 và B-2 ở căn cứ Andersen. Loại máy bay ném bom B-1 có khả năng chở nhiều vũ khí nhiều hơn máy bay B-52, trong đó có bom dẫn đường JDAM và tên lửa hành trình chống hạm.
Thu Hằng
*********************
Tổng thống Philippines và Covid-19 : Từ đối phó chậm vì sợ Bắc Kinh đến đòi bắn bỏ dân chống phong tỏa (RFI, 02/05/2020)
Tính đến hết tháng Tư 2020, Philippines là quốc gia đứng thứ hai Đông Nam Á về số ca tử vong vì Covid-19, với 568 người chết, trong lúc vẫn đứng thứ ba về số lây nhiễm, xấp xỉ mức 8.500 trường hợp.
Quân đội Philippines kiểm tra giấy tờ tại thành phố Pasay ngày 22/04/2020 vào lúc quốc gia Đông Nam Á bị phong tỏa chặt chẽ để chống dịch Covid-19. Reuters - Eloisa Lopez
Đặc điểm của quốc gia có gần 110 triệu dân này là việc tổng thống Philippines Rodrigo Duterte đã chậm trễ hơn các láng giềng trong việc chống Covid-19 để không làm phật ý đồng minh Trung Quốc, để rồi khi bắt tay vào chống dịch thì lại vô cùng cứng rắn, đe dọa bắn bỏ những ai không tuân lệnh phong tỏa mà ông đã ban hành.
Trong một phóng sự đăng ngày 27/04/2020, Marianne Dardard, thông tín viên tạp chí Pháp L’Express tại Philippines đã không ngần ngại mỉa mai, gọi tổng thống Philippines là một chàng "Cao bồi chống virus corona".
Phóng viên L’Express nhắc lại là một người nổi tiếng với những biện pháp không nương tay, tổng thống Philippines đã ra lệnh cho cảnh sát "bắn bỏ" những kẻ "gây loạn" không tôn trọng phong tỏa. Với cách nói thô bạo, ông đã gởi đến những thành phần này lời đe dọa "nếu gây phiền phức thì tao sẽ đưa bọn mày xuống mồ".
Cách phát biểu không khác gì lúc ông khởi động "cuộc chiến chống ma túy", đã làm ít nhất 27.000 người chết theo các tổ chức phi chính phủ, lần này cũng gây lo ngại về những biện pháp trấn áp thô bạo hơn "trong lúc mà người dân các khu phố nghèo lại mất thu nhập vì phải ở nhà". Ông Duterte đe dọa sử dụng những biện pháp của thiết quân luật với việc triển khai quân đội.
Tuy nhiên, nhiều người cũng lưu ý là trước khi có giọng điệu "oai hùng" như thế, trong những tuần lễ đầu năm 2020, ông Duterte đã làm tất cả để khỏi làm phật lòng Trung Quốc, vào thời điểm Bắc Kinh còn cố tìm cách che giấu quy mô dịch bệnh.
Tổng thống Philippines đã xích lại gần Trung Quốc để có được đầu tư, nên đã đi theo đúng quan điểm của Bắc Kinh. Ngày nay, ông đang bị chỉ trích là chỉ chăm lo chiều ý Trung Quốc hơn là bảo vệ người dân. Theo Marianne Dardard, những lời chỉ trích này không sai !
Duterte : Hãy chấm dứt những lời lẽ bài Trung Quốc
Vào cuối tháng Giêng, bộ trưởng y tế Philippines Francisco Duque vẫn từ chối cấm người Trung Quốc vào Philippines vi e ngại "tác động chính trị và ngoại giao".
Qua ngày 01/02, ca tử vong đầu tiên vì virus corona ngoài Trung Quốc được chính thức ghi nhận tại Philippines : Một du khách Trung Quốc, người ở Vũ Hán, trước đó đã đi khắp nơi trên lãnh thổ Philippines.
Lẽ ra chính quyền Philippines phải đi tìm những người đã có liên hệ, tiếp xúc với "bệnh nhân số 0" này để ngăn chặn việc lây lan trong dân chúng, nhưng họ lại không làm vì điều tra quá kỹ về một người Trung Quốc sẽ làm Bắc Kinh tức giận.
Theo ghi nhận của nhà nghiên cứu Pháp François Xavier Bonnet ở Manila, thuộc Viện Nghiên Cứu về Đông Nam Á Đương Đại, để không bị dư luận chỉ trích quá nhiều, bộ trưởng Y Tế Philippines đã giải thích là các hãng hàng không đã từ chối cung cấp cho ông tên các hành khách đi cùng chuyến bay với bệnh nhân số 0 đó.
Và cùng một lúc, chính quyền Philippines cũng đi tìm số 500 du khách Trung Quốc đến từ Vũ Hán đến mừng Tết Nguyên Đán trên các bãi biển nổi tiếng, đầy ắp người của đảo Boracay. Việc tìm kiếm rất miễn cưỡng vì phải mất 4 ngày để tìm ra !
Để đối phó với những lời chỉ trích, tổng thống Duterte đã lên tiếng kêu gọi "Hãy chấm dứt những lời lẽ bài Trung Quốc".
Duterte : Trung Quốc không có lỗi gì về việc virus xuất hiện
Vào trung tuần tháng 3, tổng thống Philippines đã ban hành lệnh phong tỏa trên một phần lớn lãnh thổ, cùng một lệnh giới nghiêm rất nghiêm ngặt ở thủ đô Manila. Trong mọi phát biểu, ông không quên cám ơn nồng nhiệt chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình về sự trợ giúp của Trung Quốc trong lúc mà nhiều nước chỉ trích sự thiếu minh bạch của Bắc Kinh về nạn dịch.
Gần đây tổng thống Philippines có cố bào chữa cho đồng minh : "Không phải lỗi của Trung Quốc nếu virus xuất hiện trên đất họ".
Tuy nhiên, giới quan sát đã ghi nhận là chiến lược thân thiện của Manila đã không mấy có kết quả. Bệnh dịch tại Philippines dự trù sẽ tiếp tục lan rộng, trái với những lời khẳng định là dịch bệnh đang lùi bước của chính quyền.
Bắc Kinh chẳng trợ giúp bao nhiêu cho Philippines để chống dịch
Duterte đã được Bắc Kinh thưởng công như thế nào ? Theo nhà báo của L’Express thì chẳng bao nhiêu : Chỉ có 400.000 khẩu trang giải phẫu, và 40.000 chiếc loại FFP2, theo số liệu của đại sứ quán Trung Quốc tại Manila.
Ngoài ra, lãnh đạo ngành y tế Philippines còn than phiền là chỉ 40% xét nghiệm mà Bắc Kinh gởi qua là cho kết quả chính xác. Sau đó Y Tế Philippines đã phải đổi ý kiến và xin lỗi về tuyên bố này.
Vấn đề là Philippines hiện thiếu phương tiện chống dịch một cách nghiêm trọng. Các số liệu chính thức, theo giới quan sát, không đúng với thực tế tại quần đảo hơn 100 triệu dân. Bác sĩ Karl Henson, nhà nhiễm trùng học tại một bệnh viện tư ở Manila, rất lo ngại trước nguy cơ "một kịch bản như tại Ý với ca tử vong tăng vọt trên một đất nước mà hệ thống y tế vô cùng tự do theo kiểu Mỹ".
Bác sĩ giải phẫu Kitchie Guanzon-Ridon tại một bệnh viện công lớn ở Manbila không giấu bực tức : "Tại sao các lãnh đạo của chúng tôi có thể khẳng định là dịch đã chậm lại khi mà chỉ có không đầy 1% dân chúng là được xét nghiệm ?"
Trong một chuyến thăm Philippines gần đây, các chuyên gia y tế Trung Quốc cũng kết luận là "có một nguy cơ đáng kể là Philippines không thể diệt trừ được nguồn gốc lây nhiễm".
Phóng viên L’Express kết luận dí dỏm : "Liệu chàng cao bồi Manila có dám nói ngược lại các chuyên gia Trung Quốc hay không ?"
Mai Vân
Biển Đông : Bắc Kinh lên án Mỹ-Úc tập trận "gây bất ổn hòa bình khu vực" (RFI, 01/05/2020)
Khẩu chiến giữa Trung Quốc và Mỹ cùng đồng minh về Biển Đông tiếp tục. Ngày 01/05/2020, đến lượt Bộ Quốc phòng Trung Quốc tố cáo Hoa Kỳ thúc đẩy "quân sự hóa" Biển Đông. Tuyên bố được đưa ra hơn một tuần sau cuộc tập trận của Hải Quân Mỹ - Úc tại một khu vực phía nam Biển Đông.
Tầu chở trực thăng HMAS Parramatta của Hải Quân Úc tập trận với tầu đổ bộ Mỹ USS America, khu trục hạm có tên lửa dẫn đường USS Barry và tầu USS Bunker Hill, tại Biển Đông, ngày 18/04/2020. © Reuters - Australia Department Of Defence
Trang mạng Financial Review dẫn lời người phát ngôn Bộ Quốc phòng Trung Quốc Ngô Khiêm (Wu Qian) lên án cuộc tập trận nói trên, với nhận định : "Thực tế đã một lần nữa chứng minh Hoa Kỳ là kẻ tạo điều kiện lớn nhất cho việc quân sự hóa Biển Đông và là kẻ gây bất ổn hòa bình và ổn định khu vực".
Phát ngôn viên Bộ Quốc phòng Trung Quốc khẳng định : "Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân luôn trong tình trạng báo động cao, kiên quyết bảo vệ chủ quyền, an ninh và các lợi ích phát triển của quốc gia, cũng như hòa bình và thịnh vượng của khu vực".
Căng thẳng tại Biển Đông tăng thêm một nấc vào lúc tàu thăm dò Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc tiến hành khảo sát ở khu vực gần nơi mà tàu thăm dò của công ty dầu khí Nhà nước của Malaysia Petronas hoạt động, trong vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia.
Hôm 21/04, Hải Quân Mỹ xác nhận tàu tấn công đổ bộ USS America và tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường USS Bunker Hill đã được triển khai ở Biển Đông. Hôm 22/04, Bộ Quốc phòng Úc cho biết tàu hộ vệ tên lửa HMAS Paramatta của Hải quân Hoàng gia Úc tập trận cùng với ba chiến hạm Mỹ. Hãng tin Anh Reuters cũng xác nhận ba chiến hạm Mỹ đã đến gần khu vực tàu Trung Quốc khảo sát.
Bắc Kinh bị nhiều quốc gia, trước hết là Hoa Kỳ tố cáo lợi dụng thế giới đang chao đảo vì đại dịch Covid-19, để lấn lướt ở Biển Đông. Ngày 18/04, Trung Quốc loan báo thành lập "hai quận" quản lý quần đảo Hoàng Sa, mà Việt Nam đòi hỏi chủ quyền, và quần đảo Trường Sa, mà một số nước Đông Nam Á, như Việt Nam, Philippines và Malaysia đòi hỏi chủ quyển toàn bộ hay một phần. Cùng lúc đó, Bắc Kinh thông báo đặt tên cho 80 thực thể địa lý, trong đó có nhiều vị trí dưới đáy biển. Hành động của Trung Quốc bị nhiều luật gia lên án là vi phạm luật pháp quốc tế.
Trước đó, ngày 17/04, Trung Quốc gửi công hàm đến Liên Hiệp Quốc đòi hỏi đích danh chính quyền Việt Nam "rút mọi lực lượng và phương tiện khỏi các đảo và đá mà nước này đã xâm lược và chiếm đóng bất hợp pháp" ở quần đảo Trường Sa. Công hàm nói trên được nhiều nhà quan sát cho là ngầm ẩn đe dọa sử dụng vũ lực. Một số nhà nghiên cứu khẳng định lần gần nhất Bắc Kinh yêu cầu Việt Nam rút khỏi quần đảo Trường Sa là vào cuối tháng 2/1988, tức chỉ ít tuần trước khi Trung Quốc tấn công đảo Gạc Ma, quần đảo Trường Sa.
Chính quyền Mỹ dường như đang gia tăng sự hiện diện tại Biển Đông để ngăn ngừa nguy cơ Trung Quốc manh động. Ngày 30/04, theo Bộ Tư Lệnh Ấn Độ - Thái Bình Dương Hoa Kỳ, hai oanh tác cơ chiến lược B-1B Lancer đã có chuyến bay diễn tập trong vòng 33 giờ với trọng tâm là Biển Đông. Lần diễn tập trước đó của oanh tạc cơ B-1B Lancer là cùng với Lực Lượng Phòng Vệ Nhật Bản, cách đây một tuần.
Trọng Thành
*******************
Tin tặc Trung Quốc tấn công mạng chính phủ Việt Nam giữa căng thẳng Biển Đông (VOA, 01/05/2020)
Nghiên cứu mới nhất của công ty an ninh mạng hàng đầu của Mỹ cho biết nhóm tin tặc được xem là do nhà nước Trung Quốc hậu thuẫn có thể đang đứng sau một chiến dịch nhằm thu thập dữ liệu từ các quan chức chính phủ Việt Nam, giữa bối cảnh tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông đang làm gia tăng căng thẳng giữa hai nước.
Pirate Panda là nhóm tin tặc chuyên tập trung tấn công và khai thác dữ liệu xung quanh vấn đề xung đột chủ quyền lãnh thổ trên Biển Đông
Theo nghiên cứu của công ty chuyên cung cấp thông tin về các mối đe doạ tình báo, Anomali, thì nhóm tin tặc có tên Pirate Panda đang cố gắng lừa các quan chức Việt Nam mở các tài liệu Microsoft Excel độc hại được đính kèm trong email có nội dung chi tiết về các ngày lễ.
Địa điểm bị tin tặc nhắm tới là các quan chức ở Đà Nẵng, khu vực gần quần đảo Hoàng Sa, nơi được xem là "điểm nóng" gây ra căng thẳng gần đây giữa Việt Nam và Trung Quốc vì các hoạt động nhằm khẳng định chủ quyền của Bắc Kinh.
Pirate Panda là nhóm tin tặc chuyên thực hiện các cuộc tấn công có chủ đích (APT) được nhà nước Trung Quốc hậu thuẫn. Nhóm này nổi tiếng về các cuộc tấn công mạng nhắm vào các chính phủ và các tổ chức chính trị.
Pirate Panda cũng là nhóm tin tặc chuyên tập trung tấn công và khai thác dữ liệu xung quanh vấn đề xung đột chủ quyền lãnh thổ trên Biển Đông.
Trong những ngày gần đây, Việt Nam công khai phản đối các hoạt động mới của Trung Quốc và không công nhận các yêu sách của Bắc Kinh đối với các đảo, đá ở Hoàng Sa, trong khi Trung Quốc nói rằng các yêu sách của Việt Nam đối với khu vực này là bất hợp pháp.
Tin tặc Trung Quốc thường xuyên phát động các chiến dịch gián điệp mạng nhắm vào các mục tiêu liên quan đến xung đột lãnh thổ của mình. Năm 2018, tin tặc Trung Quốc đã tấn công vào các công ty kỹ thuật và quốc phòng của Mỹ, nơi có quyền truy cập vào những thông tin nhạy cảm liên quan đến vấn đề tranh chấp Biển Đông. Những thông tin này được xem là rất hữu ích cho Bắc Kinh.
Hiện cả Việt Nam lẫn Trung Quốc đều chưa phản ứng gì đối với thông tin về cuộc tấn công mạng mới nhất này.
Trong khi đó, một công ty an ninh mạng khác của Mỹ, FireEye, tuần rồi công bố một báo cáo cho thấy một nhóm tin tặc, được cho là do chính phủ Việt Nam hậu thuẫn, đã thực hiện chiến dịch tấn công vào các trang mạng của chính phủ Trung Quốc nhằm tìm kiếm thông tin liên quan đến cách xử lý của Bắc Kinh đối với dịch Covid-19.
*********************
Mỹ điều hai máy bay ném bom chiến lược tuần tra ở Biển Đông (RFA, 30/04/2020)
Hôm 29/4 Hoa Kỳ đã điều động hai máy bay ném bom chiến lược B-1B Lancer tuần tra trên Biển Đông.
Ảnh được chụp vào ngày 18 tháng 9 năm 2017 do Bộ Quốc phòng Hàn Quốc cung cấp cho thấy máy bay Lực lượng Không quân Hoa Kỳ B-1B Lancer thả bom vào khu vực bắn súng ở tỉnh Gangwon, phía đông Seoul, trong cuộc tập trận chung sau các vụ thử hạt nhân và tên lửa mới nhất của Bắc Triều Tiên. AFP
Bộ Tư lệnh Không quân Thái Bình Dương Hoa Kỳ công bố thông tin vừa nói hôm 30/4/2020.
Tin cho biết, hai chiến đấu cơ ném bom B-1B cất cánh từ căn cứ không quân Ellsworth, bang South Dakota, Mỹ bay thẳng đến Biển Đông, sau khi tuần tra đã quay ngược về Mỹ. Toàn bộ hành trình xuyên Thái Bình Dương kéo dài trong 32 giờ.
Hoạt động này thể hiện cam kết của Mỹ đối với các đồng minh và đối tác trong khu vực. Đồng thời cho thấy mô hình xây dựng chiến lược không quân của Mỹ trở nên năng động hơn, phù hợp chiến lược quốc phòng quốc gia về sự hiện diện liên tục của máy bay ném bom chiến lược.
Việc điều động chiến đấu cơ này này diễn ra cùng thời điểm Mỹ liên tiếp có hai chiến hạm thuộc Hạm đội 7, trong các hoạt động tuần hành tự do hàng hải ở biển Đông.
Cụ thể vào ngày ngày 29/4, Tuần dương hạm mang tên lửa dẫn đường USS Bunker Hill (CG 52), thuộc lớp Ticonderoga, 4 đã di chuyển qua vùng biển gần quần đảo Trường Sa.
Tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường USS Barry (DDG 52), vào hôm 28/4 cũng đã tiến vào vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa đang tranh chấp.
Cả hai tàu này trước đó cũng đã hộ tống tàu đổ bộ USS America (LHA 6) tiến gần khu vực ngoài khơi Malaysia, nơi có tàu thăm dò Hải dương Địa chất 8 (HD 8) của Trung Quốc đang hoạt động.
Được biết trước đó, hôm 18/4 tàu USS Bunker Hill cũng tham dự cuộc tập trung trên Biển Đông cùng USS America và HMAS Parramatta của Australia trên Biển Đông.
Đây là đợt thứ 2, làm nhiệm vụ bay thẳng từ lục địa Mỹ đến Châu Á của máy bay ném bom B-1B Lancer. Trước đó, vào ngày 22/4, một chiếc tương tự cũng đã bay thẳng từ Mỹ đến tập trận cùng với lực lượng phòng vệ đường không Nhật Bản.
Việc triển khai máy bay ném bom bay thẳng từ lục địa Mỹ nhằm phù hợp với chiến lược "không thể đoán trước được" của chiến lược không quân Mỹ. Nhiệm vụ đầu tiên diễn ra vào tháng 4/2014, khi máy bay ném bom B-52H Stratofortresses và B-2 Spirits bay thẳng từ lục địa Mỹ đến căn cứ không quân liên hợp Hickam ở Trân Châu Cảng.
Theo tác giả David Koh trên South China Morning Post ngày 28/04/2020, khi đụng đến vấn đề Biển Đông, cả Việt Nam lẫn Trung Quốc đều thấy rằng quá khứ của tình đồng chí không thể là cơ sở cho chính sách quốc gia. Hà Nội chẳng bao lâu nữa có thể nhận ra rằng đã bị Bắc Kinh chơi xỏ, trong khi đó Mỹ vẫn quan sát diễn tiến trong khu vực.
Trên 300 người biểu tình trước đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội ngày 05/06/2011 phản đối việc tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp tàu khảo sát Bình Minh 02 của Việt Nam, trong lúc đang hoạt động tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trên Biển Đông. Reuters/Kham
Có nhiều điều đã làm nên tình đồng chí giữa Việt Nam và Trung Quốc, hai quốc gia do đảng cộng sản lãnh đạo. Hai nước thường tuyên bố bên này là chỗ dựa của bên kia, và nhắc lại thời kỳ anh em thân thiết, cùng chung sức chiến đấu với đế quốc và thực dân. Tuy nhiên sự lãng mạn không thể là nền tảng bền vững cho chính sách quốc gia.
Khi nói đến vấn đề Biển Đông, yêu sách của Trung Quốc và Việt Nam không có điểm nào chung - cũng như mọi yêu sách về vùng biển tranh chấp. Và cũng không có thương thảo thực sự về chia sẻ chủ quyền, cùng sử dụng, khai thác hay cùng hợp tác về bất kỳ phương diện nào.
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đứng ngoài cuộc trong việc nhanh chóng giúp giải quyết căng thẳng. Hoa Kỳ nhận thấy lợi ích của mình về tự do hàng hải trên Biển Đông bị ảnh hưởng bởi yêu sách của tất cả các bên, và bên cạnh đó mục tiêu của Mỹ còn là chận bước Trung Quốc.
Hoa Kỳ cũng tìm cách có được một vùng đất để đặt chân sát cạnh Biển Đông, từ khi Philippines có thái độ thất thường trong quan hệ quân sự với Washington. Trong số các kịch bản khác có thể kể thêm việc bảo vệ các đối tác quốc phòng như Nhật Bản, Hàn Quốc, đồng thời trợ giúp Đài Loan.
Các nhà quan sát cho rằng sự thất vọng của Hà Nội về Bắc Kinh sẽ khiến Việt Nam xoay trục sang Hoa Kỳ - vốn mong muốn có chiến lược sâu hơn và thậm chí quan hệ quân sự gắn bó hơn với các quốc gia chủ chốt ở Đông Nam Á. Tuy nhiên Việt Nam hoàn toàn không thể chuyển nhanh sang quan hệ với Mỹ, vì như vậy Trung Quốc có thể có phản ứng mạnh bất ngờ. Thế nên Hà Nội tiếp tục nhấn mạnh nguy cơ nếu hoàn toàn thuận theo phía Mỹ, chẳng hạn việc Mỹ định hình dân chủ hóa cho chính quyền cộng sản Việt Nam. Hoa Kỳ trở thành quân cờ của Việt Nam nhằm đối phó với Trung Quốc.
Ý kiến trong nước về chiến lược của Việt Nam rất khác nhau. Có những tranh cãi trong xã hội về cách thức theo đuổi mục tiêu. Người thì cho rằng chính quyền ngây thơ, vẫn còn chìm đắm trong lý tưởng xã hội chủ nghĩa và tình hữu nghị anh em, sẵn sàng chấp nhận tạm thời mất chủ quyền. Người khác thấy Hà Nội đã thận trọng đúng mức, muốn tránh chiến tranh, nhưng cũng không sợ chiến tranh nếu đó là cần thiết.
Còn bên trong chính phủ và đảng cộng sản, các quan điểm ít khác biệt hơn, tập trung vào sự cần thiết sử dụng nhiều cấp độ chiến thuật và chiến lược thay vì chỉ tỏ ra hiếu chiến. Trong hai thập niên qua, Việt Nam đã tăng tiến rất nhiều trong việc siết chặt quan hệ với các quốc gia thành viên thường trực Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc (mặt trận ngoại giao), mời gọi hợp tác đa phương về quốc phòng (mặt trận quân sự), củng cố tăng trưởng và nguồn lợi (vốn là nền tảng kinh tế của hai chiến thuật trên đây).
Theo tác giả, phương thức thận trọng và chậm chạp của Việt Nam đã bị các nhà lãnh đạo Bắc Kinh khai thác, vì vấn đề quan trọng là chiếm giữ các đảo trên Biển Đông, biến thành một chuỗi căn cứ giúp Trung Quốc có được sức mạnh cấm đoán tàu bè các nước đi qua. Thế nên Bắc Kinh làm ngơ trước những phản kháng của Hà Nội, khiến cho sự chia rẽ trong nội bộ Việt Nam càng sâu sắc thêm. Tuy nhiên, sự kiên trì của Trung Quốc để một ngày nào đó sẽ giành chiến thắng toàn diện, đã khiến cho Việt Nam không thể kéo dài chính sách lửng lơ không muốn nghiêng hẳn sang phía khác. Có điều không ai biết được khi nào việc xoay trục này sẽ diễn ra.
Tình hữu nghị anh em nếu được thổi bùng trở lại, mỉa mai thay có thể giúp giải quyết vấn đề Biển Đông giữa Trung Quốc và Việt Nam. Năm 2000, khi giải quyết vấn đề biên giới trên bộ và ký kết hiệp ước phân định, hai bên đã có nhượng bộ lẫn nhau, và thỏa ước này được coi như điển hình cho việc thực hiện chính sách "đồng chí tốt, láng giềng tốt".
"Đồng chí tốt, láng giềng tốt" là phiên bản mờ nhạt của "môi hở răng lạnh", "tình anh em", những câu nói cửa miệng thường được sử dụng để mô tả mối quan hệ trong thời kỳ các nhà sáng lập cộng sản Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh. Tuy nhiên hiệp ước năm 2000 đã đánh bạt khả năng xảy ra một cuộc xung đột trên đất liền, và hai bên có thể tiến tới.
Liệu Việt Nam và Trung Quốc một lần nữa có thể viện đến tình hữu nghị anh em ? Tác giả David Koh cho rằng bối cảnh năm 2000 rất khác với năm 2020, có rất nhiều sự kiện đã diễn ra, đặc biệt có ba trở ngại lớn đang ngăn cản.
Trước hết, Trung Quốc không còn coi Việt Nam là quan trọng về mặt tình hữu nghị xã hội chủ nghĩa, trong khi Việt Nam vẫn còn cần tình liên đới này, trong nỗ lực chống lại sự thôi thúc dân chủ hóa từ phía Hoa Kỳ. Từ cuối thập niên 80, Trung Quốc đã tuyên bố với Việt Nam là quan hệ song phương giữa đôi bên không phải là đặc biệt, không có gì khác với quan hệ giữa Trung Quốc và các láng giềng khác.
Khó thể tin rằng sự tham vấn giữa hai đảng cộng sản về kinh nghiệm chủ nghĩa xã hội và những bất bình giữa đôi bên có thể tác động đến chính sách đối ngoại của Trung Quốc với Việt Nam. Đặc biệt là trong việc chặn bớt tốc độ bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông, mà Việt Nam vô cùng căm ghét. Tuy rất nhiều người Việt Nam lên án các hành động của Trung Quốc trên biển, một tỉ lệ tương tự người Trung Quốc có thái độ ngược lại. Tình hữu nghị và ý thức hệ được đặt sau lợi ích quốc gia.
Trở ngại thứ hai là Việt Nam không mang lại cho Trung Quốc lợi ích kinh tế hoặc chính trị quan trọng nào, để có thể một lần nữa coi Việt Nam là anh em, hoặc nhường bước trước đòi hỏi của Việt Nam. Mối nghi ngờ lẫn nhau vẫn nung nấu, và quan hệ kinh tế không mạnh mẽ như tiềm năng thực sự.
Cũng như những gì đã diễn ra trong quá khứ, Việt Nam chỉ là một phần nhỏ trong nỗ lực của Trung Quốc nhằm ngăn chận sườn phía nam chống lại sự xâm lấn của tư tưởng phương Tây. Mục tiêu rộng lớn hơn của Trung Quốc là đạt được các lợi ích cốt lõi, quan hệ tốt với Hoa Kỳ và Nga. Nói cách khác, Việt Nam chỉ mang lại lợi ích chiến lược nhỏ nhoi, trừ phi Hà Nội liên kết chặt chẽ, hoặc đang trên đường liên minh với Hoa Kỳ hoặc Nga.Đăng ký
Trở ngại thứ ba : có thể Bắc Kinh đã bao vây Hà Nội bằng cách siết rất chặt quan hệ với Lào, Thái Lan và Cam Bốt, tìm cách đẩy các nước này ra xa khỏi Việt Nam. Bên cạnh quan ngại này còn có những đồn đãi rằng Trung Quốc thiết lập căn cứ quân sự ở Cam Bốt, tăng cường hợp tác quân sự và kinh tế với Thái Lan.
Lào vốn là căn cứ quan trọng của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ chống Pháp, cũng trở thân thiết hơn với Bắc Kinh (nước này cũng có đường biên giới chung với Trung Quốc). Sự xâm nhập của Trung Quốc vào Lào đã trở nên rất bền chắc. Tác giả tự hỏi không biết lần tới, khi mặt trận phía bắc bị Trung Quốc đe dọa, Việt Nam còn có thể dựa vào Lào để đảm bảo an toàn hay không.
Nói cách khác, Trung Quốc đã khóa chặt lối ra bán đảo Đông Dương của Việt Nam. Lợi ích của Việt Nam trong khu vực bị giảm sút, đóng vai trò thứ yếu sau Trung Quốc, trừ phi Hà Nội nhanh chóng tăng cường năng lực quân sự và quốc phòng.
Trong Sách Trắng quốc phòng năm 2019, Việt Nam tái khẳng định chủ trương không tham gia liên minh quân sự nào, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự, không liên kết với nước này để chống nước kia. Đồng thời thêm vào một khái niệm thứ tư là không sử dụng vũ lực, hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Nhưng với Sách Trắng quốc phòng mới, quan điểm đối nghịch có thể xuất hiện trong ngày một ngày hai để tái định hướng chính sách quốc gia, nếu Việt Nam cứ liên tục bị Trung Quốc o ép.
Theo David Koh
Nguyên tác : Is China and Vietnam’s ‘brotherly love’ adrift in the South China Sea?, South China Morning Post, 28/04/2020
Thụy My tóm lược
Nguồn : RFI, 29/04/2020
Tác giả David Koh nghiên cứu về Việt Nam và các vấn đề khu vực từ ba thập niên qua, hiện làm việc tại Viện hợp tác hòa bình Cam Bốt.
Mỹ và Trung Quốc đang sử dụng quân đội của họ để phát đi tín hiệu rằng trong đại dịch Covid-19, sẽ không bên nào lơ là cảnh giác ở Đài Loan và Biển Đông.
Hải quân Hoa Kỳ phối hợp vận chuyển các thủy thủ được giao cho tàu sân bay USS Theodore Roosevelt (CVN 71) đã thử nghiệm âm tính với COVID-19 tại đảo Guam. Ngày 4 tháng 4 năm 2020. (Ảnh của Hải quân Hoa Kỳ bởi Chuyên gia Truyền thông Đại chúng Matthew R. White).
Ngay sau khi Phó tổng thống Đài Loan Lại Thanh Đức thăm Mỹ vào đầu tháng 2/2020, máy bay quân sự Trung Quốc đã bay qua đường phân giới ở eo biển Đài Loan xâm nhập không phận Đài Loan trong hai ngày liên tiếp. Những cuộc xâm nhập này có sự tham gia của máy bay ném bom H-6, máy bay chiến đấu J-11 và máy bay cảnh báo sớm KJ-500 của Trung Quốc. Đài Loan đã phản ứng bằng cách triển khai máy bay chiến đấu F-16 bám sát và đuổi máy bay của Trung Quốc ra khỏi không phận Đài Loan. Ngày 19/3, cả hai tàu khu trục USS Barry (DDG 52) và USS Shiloh (CG 67) cùng phóng tên lửa SM-2 trong cuộc tập trận bắn đạn thật ở biển Philippines. Một số nhà phân tích quân sự của Trung Quốc cho rằng cuộc tập trận này là một lời cảnh báo bất thường đối với Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA).
Sau đó, ngày 25/3, tàu khu trục USS McCampbell (DDG 25) đã đi qua eo biển Đài Loan – đây là lần thứ ba một tàu chiến Mỹ đi qua eo biển này trong năm 2020. Phản ứng trước vụ việc này, người phát ngôn Bộ Quốc phòng Trung Quốc gọi hành động của Mỹ là "vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế về quyền tự do hàng hải".
Theo Bộ Quốc phòng Đài Loan, sau khi tàu USS McCampbell đi qua eo biển Đài Loan, hòn đảo này đã tổ chức các cuộc tập trận quy mô lớn nhằm ngăn chặn một cuộc xâm nhập trên không toàn lực của Trung Quốc. Ngày 24/3, Tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn nói thêm rằng các lực lượng vũ trang của Đài Loan đang cảnh giác hơn bao giờ hết. Mặc dù từng hành động quân sự đơn lẻ của Trung Quốc, Mỹ và Đài Loan là không đáng chú ý, nhưng khi cùng diễn ra, chúng phát đi tín hiệu mà một nhà phân tích gọi là "trạng thái chứng tỏ dịch Covid-19 không ảnh hưởng đến tinh thần sẵn sàng chiến đấu".
Ngoài Đài Loan, các nhà phân tích an ninh cho rằng Trung Quốc có thể đang nắm bắt lợi thế từ Covid-19 ở Biển Đông. Có tin Trung Quốc đã đạt được những bước phát triển ở cả các cơ sở nghiên cứu mới lẫn hoạt động khai thác tài nguyên tại Biển Đông kể từ khi dịch Covid-19 bắt đầu bùng phát. Ngày 20/3, truyền thông Trung Quốc đưa tin Trung Quốc đã khánh thành 2 trạm nghiên cứu mới trên các cấu trúc địa hình mà nước này chiếm đóng ở quần đảo Trường Sa. Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc sẽ điều hành 2 cơ sở này trên đá Chữ Thập và đá Subi để thực hiện các hoạt động nghiên cứu thực địa về "sinh thái vùng biển sâu, địa chất, môi trường, khoa học vật liệu và năng lượng biển".
Tờ International Business Times nhấn mạnh rằng những hoạt động được cho là vì mục đích khoa học dân sự của Trung Quốc diễn ra khi phần còn lại của thế giới đang bị phân tâm bởi Covid-19. Sau đó, ngày 26/3, Bộ Tài nguyên Trung Quốc tuyên bố rằng lượng khí đốt tự nhiên mà họ khai thác và sản xuất được trong một ngày ở Biển Đông đã đạt mức cao kỷ lục. Quá trình sản xuất diễn ra từ ngày 17/2 đến ngày 18/3, khi Covid-19 bắt đầu lan nhanh trên toàn thế giới.
Xung quanh Biển Đông, hai nước Đông Nam Á đối địch cùng tuyên bố chủ quyền là Malaysia và Philippines đang dồn sức vào việc thực thi các biện pháp cách ly bắt buộc. Trước đó, Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte đã phải tự cách ly để phòng dịch, và gần đây, Tham mưu trưởng Lực lượng vũ trang Philippines cũng mới bình phục sau khi bị xét nghiệm dương tính với Covid-19. Việt Nam và Indonesia cũng đang thực hiện các biện pháp nhằm hạn chế virus này lây lan.
Tuy nhiên, hiện nay, các hoạt động của Hải quân Trung Quốc ở Biển Đông dường như không quá nhộn nhịp. Một số bài viết suy đoán rằng một nền kinh tế đang giảm tốc và quân đội bị ảnh hưởng bởi Covid-19 có thể buộc Trung Quốc phải giảm bớt những tham vọng trên biển của họ ở Biển Đông.
Bất chấp những khó khăn này, Bắc Kinh vẫn đang tìm cách phô trương hình ảnh về sức mạnh của quân đội. Truyền thông Trung Quốc đưa tin các tàu nổi, tàu ngầm và máy bay chiến đấu của Hải quân PLA đã thực hiện các cuộc tập trận sẵn sàng chiến đấu ở Biển Đông hồi cuối tháng 3. Ngày 24/3, tờ Thời báo Hoàn Cầu, cơ quan ngôn luận của Đảng cộng sản Trung Quốc đã tuyên bố rằng tàu sân bay CNS Liêu Ninh (CV 16) của Trung Quốc đang tiến hành tập trận với máy bay chiến đấu giữa dịch Covid-19. Tờ báo này cho biết thêm rằng hoạt động huấn luyện sẵn sàng chiến đấu sẽ không dừng lại ngay giữa đợt dịch Covid-19.
Tuy nhiên, có lý do để nghi ngờ cách Bắc Kinh tuyên truyền về tinh thần sẵn sàng của họ. Bài viết của Thời báo Hoàn Cầu đăng kèm một bức ảnh từ tháng 4/2018 và nói rằng các cuộc tập trận này diễn ra hồi đầu mùa Xuân ở eo biển Bột Hải, mà một vài tờ báo đã hiểu nhầm và đưa tin sai rằng nó được tiến hành ở Biển Đông. Tàu sân bay neo đậu ở cảng Thanh Đảo, phía Đông Bắc Trung Quốc, thuộc biển Bột Hải, cách Biển Đông gần 1.500 hải lý. Bài viết hôm 24/3 của Thời báo Hoàn Cầu cũng đưa tin không có ca mắc Covid-19 nào trên tàu sân bay mới CNS Sơn Đông (CV 17) đóng ở Biển Đông trong ngày 17/2. PLA khẳng định không một ai trong lực lượng quân đội quy mô 2 triệu người của họ mắc Covid-19, một điều thật khó tin giống như số lượng người dân thường mắc Covid-19 được công bố thấp hơn thực tế. Do đó, vẫn chưa thể đánh giá tác động thực sự của Covid-19 đối với hai tàu sân bay của Trung Quốc và Hải quân PLA.
Trái lại, Covid-19 đã có tác động đáng kể và công khai đến ít nhất một trong các tàu sân bay của Hải quân Mỹ ở Tây Thái Bình Dương. Ngày 31/3, tờ San Francisco Chronicle đã đăng bức thư của thuyền trưởng tàu sân bay USS Theodore Roosevelt (CVN 71) Brett Crozier gửi cho giới lãnh đạo quân đội đề nghị tăng thêm hỗ trợ để kiểm soát sự bùng phát của Covid-19 trong đoàn thủy thủ hơn 4.800 người của tàu này. Ông Crozier đã so sánh tình hình trên tàu của mình với tình trạng bùng phát Covid-19 trên du thuyền Diamond Princess và viết : "Chúng ta không tham chiến, các thủy thủ không cần phải hy sinh. Nếu chúng ta không hành động ngay bây giờ, chúng ta sẽ không thể bảo vệ tài sản đáng tin cậy nhất của mình đó là các thủy thủ". Trước khi dịch bệnh bùng phát, nhóm tác chiến tàu sân bay Theodore Roosevelt đang thực hiện các hoạt động chung ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
Ngày 1/4, Quyền Bộ trưởng Hải quân Thomas Modly phát biểu : "Thực tế rằng việc thuyền trưởng Crozier gửi bức thư đó cho cấp trên để bày tỏ những quan ngại của ông chắc chắn sẽ không dẫn đến bất kỳ kiểu trả đũa nào". Tuy nhiên, ngày 2/4, Quyền Bộ trưởng Modly đã sa thải Crozier vì thái độ hoảng loạn khi phải chịu sức ép và chặn trước không để Tổng thống Trump "can thiệp với lý do Hải quân không quyết đoán". Sau đó, trong một bài phát biểu trước các thủy thủ của tàu sân bay này vào ngày 6/4, mà cũng nhanh chóng xuất hiện trên truyền thông, Quyền Bộ trưởng phát biểu rằng thuyền trưởng Crozier quá ngây thơ hoặc quá ngu ngốc đến mức không thể giữ vị trí chỉ huy nếu ông ấy tin rằng bức thư của mình sẽ không bị rò rỉ. Hiện vẫn chưa rõ ai tiết lộ bức thư của Thuyền trưởng Crozier, Tổng thống Donald Trump nói ông ủng hộ quyết định sa thải thuyền trưởng Crozier, tuyên bố rằng : "Tôi đoán thuyền trưởng đã cho tàu dừng ở Việt Nam và các thủy thủ đã xuống tàu ở Việt Nam. Có lẽ ông ấy không nên làm vậy khi đang có dịch bệnh hoặc điều gì trông có vẻ như vậy". Sau đó, ngày 7/4, Modly đã từ chức vì những phát biểu của ông với đoàn thủy thủ tàu Theodore Roosevelt và cách xử lý kém cỏi khi ứng phó với dịch Covid-19.
Ngày 5/3, tàu Theodore Roosevelt đã thăm cảng Đà Nẵng, Việt Nam trong 5 ngày. Đây là một chuyến thăm cảng có ý nghĩa quan trọng về ngoại giao, trong khuôn khổ kỷ niệm 25 năm bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ. Nó cũng phục vụ cho một mục đích chiến lược, nhấn mạnh sự hiện diện liên tục của Hải quân Mỹ ở Biển Đông vào thời điểm quan hệ của họ với quân đội Philippines có xung đột. Tham mưu trưởng Hải quân, Đô đốc Michael Gilday nói rằng ở Việt Nam chỉ có 16 ca dương tính Covid-19 khi tàu Theodore Roosevelt cập cảng, và Tư lệnh Bộ chỉ huy Mỹ tại Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương Đô đốc Philip Davidson đã đưa ra một quyết định dù biết rõ là có rủi ro là cho phép chuyến thăm cảng này. Vào thời điểm đó, tất cả các ca mắc Covid-19 của Việt Nam đều ở Hà Nội, không có ca nào được báo cáo ở Đà Nẵng. Ngày 9/3, khi tàu Theodore Roosevelt hoàn thành chuyến thăm cảng Việt Nam, thì Tổng thống Trump vẫn đổ lỗi cho truyền thông tin giả và đảng Dân chủ về việc tìm cách kích động tình hình Covid-19.
15 ngày sau khi rời khỏi Đà Nẵng, 3 thủy thủ trên tàu Theodore Roosevelt đã có kết quả xét nghiệm dương tính với virus SARS-CoV-2. Trong các hoạt động thường xuyên, các thủy thủ được điều đến điều đi tàu sân bay, do vậy không rõ virus đã lan lên tàu từ Việt Nam, trong quá trình tiếp tế hay quá trình vận chuyển quân bằng máy bay - một khả năng mà cựu quyền Bộ trưởng Modly đã nêu ra.
Tính đến ngày 7/4, đã có 230 thủy thủ tàu Theodore Roosevelt có kết quả xét nghiệm dương tính với SARS-CoV-2, trong số đó chưa có thủy thủ nào cần nhập viện. Thuyền trưởng Crozier cũng có kết quả dương tính, nhưng không phải từ trước khi hàng nghìn thủy thủ tàu Theodore Roosevelt reo hò tên ông khi ông rời tàu lần cuối cùng. Tàu sân bay USS Ronald Reagan (CVN 76) neo đậu ở cảng Yokosuka, Nhật Bản, cũng đã có ít nhất 2 thủy thủ dương tính với SARS-CoV-2.
Việc cách chức Thuyền trưởng Crozier đã làm dấy lên một vài quan ngại đối với các hoạt động của Hải quân Mỹ. Một trong số đó là việc các sĩ quan chỉ huy sẽ dè dặt hơn khi nêu ra các vấn đề mang tính hệ thống trong tương lai do văn hóa "bắn người đưa tin" - điều đã góp phần vào những thiếu sót về đào tạo và chuẩn bị, vốn là nguyên nhân gây ra vụ va chạm đặc biệt nghiêm trọng giữa tàu USS Fitzgerald (DDG 62) và USS John S. McCain (DDG 56) ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương vào năm 2017. Phó đô đốc Mỹ đã nghỉ hưu William Douglas Crowder, từng là Tư lệnh Hạm đội số 7 kiêm Phó Tham mưu trưởng hải quân, cho biết ông lo ngại về tín hiệu mà tàu sân bay gặp nạn đã gửi tới Trung Quốc, Triều Tiên và Nga. Chia sẻ với tờ New York Times, ông nói : "Họ đã tính toán sai về khả năng phản ứng của chúng ta". Quan ngại này dường như hoàn toàn có cơ sở, khi vào ngày 3/4, truyền thông Trung Quốc đưa tin rằng "sự bùng phát của dịch Covid-19 đã làm suy giảm đáng kể khả năng triển khai tàu chiến của Hải quân Mỹ trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương".
Đảng cộng sản Trung Quốc cũng đã bày tỏ phản đối việc cách chức Thuyền trưởng Crozier thông qua tờ Thời báo Hoàn cầu. Trong bài viết ngày 3/4, Tổng biên tập tờ báo này Hồ Tích Tiến đã viết : "Theo quan điểm của chúng tôi, Crozier còn sáng suốt hơn các quan chức Lầu Năm Góc". Đảng cộng sản Trung Quốc rõ ràng muốn Hải quân Mỹ tuân thủ khuyến cáo "ở nhà chống dịch". Ông Hồ Tích Tiến cũng so sánh Thuyền trưởng Crozier với "liệt sĩ" bác sĩ Lý Văn Lượng - người đã cảnh báo về sự lan truyền của virus corona chủng mới ở Vũ Hán trong giai đoạn đầu của dịch bệnh, sau đó đã qua đời vì Covid-19 ; Đảng cộng sản Trung Quốc đã trao tặng danh hiệu liệt sĩ cao quý nhất cho bác sĩ Lý Văn Lượng. Đảng cộng sản Trung Quốc cũng đã và đang tiến hành chiến dịch tuyên truyền phối hợp nhằm định hình lại câu chuyện về Covid-19 và nguồn gốc Vũ Hán của đại dịch này, cùng với đó là hành vi cố tình bỏ sót số lượng lớn các ca bệnh và tử vong vì Covid-19 ở Trung Quốc khi khai báo số liệu.
Trong thời kỳ thực hiện các biện pháp giãn cách xã hội và ở nhà chống dịch, các đội tàu hải quân trên toàn thế giới đang bị giới hạn trong không gian hẹp và phải xa nhà. Các nhà hoạch định chính sách và chỉ huy quân sự trên khắp Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương sẽ phải quyết định xem liệu những lợi ích chiến lược của các hoạt động hải quân có xứng đáng với nguy cơ Covid-19 lây lan nhanh chóng giữa các thuyền viên hay không. Như người ta thường nói, "con tàu neo đậu ở cảng thì an toàn, nhưng đó không phải là nhiệm vụ của một con tàu".
Thông tin về các vụ va chạm trên biển khác
Ngày 30/3, một tàu khu trục của Nhật Bản đã va chạm với một tàu cá Trung Quốc ở biển Hoa Đông. Vụ va chạm đã để lại một lỗ hổng dài hơn 90 cm, rộng 15 cm ở mạn trái tàu JS Shimakaze (DDG 172). Tàu này vẫn tiếp tục hoạt động và không có thương tích xảy ra trên tàu. Một trong số 13 thuyền viên trên tàu cá Trung Quốc cho biết đã bị đau lưng nhẹ sau vụ việc. Vụ va chạm xảy ra trong khu vực giữa Thượng Hải và đảo Yakushima của Nhật Bản - nằm rất xa về phía Bắc so với các đảo bị tranh chấp (mà Nhật Bản gọi là Senkaku còn Trung Quốc gọi là Điếu Ngư) ở biển Hoa Đông.
Ngày 2/4, có tin một tàu của Cảnh sát biển Trung Quốc đã đâm và đánh chìm một tàu cá của Việt Nam gần quần đảo Hoàng Sa ở Biển Đông. Trung Quốc đã bắt giữ và sau đó đã trả tự do cho 8 ngư dân Việt Nam trên con tàu bị chìm. Cả Việt Nam và Trung Quốc đều khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa. Trong vụ việc, Cảnh sát biển Trung Quốc bị cáo buộc đã bắt giữ và kéo ít nhất 2 tàu cá khác của Việt Nam tới đảo Phú Lâm hiện do Trung Quốc kiểm soát. Chính phủ Việt Nam đã chính thức trao công hàm phản đối với Chính phủ Trung Quốc sau vụ việc, nhưng Cảnh sát biển Trung Quốc trả lời rằng các tàu của Việt Nam đã đánh bắt cá bất hợp pháp trong vùng biển của Trung Quốc.
Đây là lần thứ hai trong vòng chưa đầy một năm, một tàu Trung Quốc đánh chìm một tàu cá Việt Nam gần quần đảo Hoàng Sa. Bộ Ngoại giao Mỹ bày tỏ quan ngại sâu sắc trước vụ việc, kêu gọi Trung Quốc ủng hộ "các nỗ lực quốc tế nhằm chống lại đại dịch toàn cầu, và ngừng lợi dụng sự mất tập trung hoặc dễ bị tổn thương của các nước khác để mở rộng các tuyên bố chủ quyền phi pháp của mình ở Biển Đông". Tờ New York Times cho biết lực lượng Cảnh sát biển Trung Quốc cũng đang tăng cường bảo vệ các tàu cá Trung Quốc đánh bắt trái phép trong Vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia.
Tin tức về Hải quân Mỹ
Bốn năm kể từ khi chính thức đi vào hoạt động, tàu USS Zumwalt (DDG 1000) đang được tiếp nhận hệ thống tác chiến nhằm đưa tàu này tiến một bước gần hơn tới mục tiêu trở thành tàu khu trục tàng hình có đủ khả năng hoạt động đầu tiên của Hải quân Mỹ. Các khoản chi vượt mức và việc cải biến tàu đã gây khó khăn cho chương trình DDG-1000 của Hải quân Mỹ trong vài năm trở lại đây. Vốn dự kiến được trang bị súng điện từ tối tân để tăng cường hỏa lực của hải quân, Zumwalt giờ đây được thiết kế là tàu chống hạm, với hệ thống tác chiến được tích hợp tên lửa Tomahawk tấn công trên biển và SM-6. Việc mua sắm và triển khai tên lửa chống hạm là ưu tiên hàng đầu của ban lãnh đạo Hải quân Mỹ nhằm đối phó và ngăn chặn hạm đội tàu chiến của Hải quân PLA Trung Quốc đang ngày càng phát triển.
Phân tích
Trong bài viết trên trang mạng War on the Rocks, Giáo sư James Kraska thuộc Đại học Chiến tranh Hải quân Mỹ cho rằng về mặt pháp lý, Chính phủ Trung Quốc có thể phải bồi thường hàng nghìn tỷ USD thiệt hại trong dịch Covid-19. Kraska viện dẫn việc truyền thông nhà nước Trung Quốc che giấu thông tin về virus SARS-CoV-2, việc chính quyền Vũ Hán bác bỏ khả năng virus lây từ người sang người và việc Trung Quốc từ chối cung cấp dữ liệu và khả năng tiếp cận Tổ chức Y tế thế giới là những bằng chứng tạo thành "sự vi phạm nghĩa vụ pháp lý của Trung Quốc đối với các nước khác theo luật pháp quốc tế, và vì lẽ đó các nước chịu thiệt hại - hiện vào khoảng 150 quốc gia - có thể tìm kiếm biện pháp pháp lý". Các biện pháp đối phó của các quốc gia khác có thể bao gồm việc phổ biến thông tin bên trong Trung Quốc về các chủ đề như ý kiến của truyền thông Đài Loan hoặc các tin tức về sự hiếu chiến của Trung Quốc đối với các quốc gia khu vực ở biển Hoa Đông và Biển Đông - những hành động thường cấu thành sự vi phạm chủ quyền quốc gia theo luật pháp quốc tế.
Đại tá Thủy quân lục chiến Mỹ đã nghỉ hưu Mark Cancian và Brandon Schwartz biện luận trên tạp chí Proceedings rằng Mỹ cần cấp giấy phép chặn bắt cho các tàu tư nhân nhằm tạo ra "lợi thế lớn trong thời chiến và tăng cường sự răn đe trong thời bình" chống lại Trung Quốc. Họ chỉ ra rằng các giấy phép chặn bắt này là hợp pháp theo Điều I, Mục 8 của Hiến pháp Mỹ cũng như theo luật pháp quốc tế thông thường. Do giới hạn về ngân sách quốc phòng của Mỹ và đội tàu buôn rất lớn của Trung Quốc, giấy phép chặn bắt có thể cho phép Hải quân Mỹ tập trung vào Hải quân PLA trong khi các tàu tư nhân tập trung vào đội tàu gồm hơn 4.600 tàu buôn và tàu đánh bắt xa bờ của Trung Quốc. Các tác giả đề xuất rằng các tàu tư nhân sẽ phục vụ trong phạm vi tương tự như các tàu tư nhân Mỹ nhằm vào quân Anh trong chiến tranh năm 1812 và 20.000 nhà thầu quân sự tư nhân được trang bị vũ khí từng hoạt động trong giai đoạn đỉnh điểm của Chiến tranh Iraq.
Sean Quirk
Sean Quirk, cử nhân Khoa học Chính trị tại Đại học Columbia, từng là sĩ quan tác chiến mặt biển trong Hải quân Hoa Kỳ. Bài viết được đăng trên Lawfare