Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Kế hoạch khai thác thương mại nguồn tài nguyên băng cháy trên Biển Đông của Trung Quốc liệu có thành hiện thực ? 

Nội dung bài viết bao quát lịch sử quá trình từ khi Trung Quốc manh nha thúc đẩy ý tưởng nghiên cứu băng cháy (combustible ice) trên Biển Đông ; cho đến hiện trạng khai thác hiện nay để làm rõ thực chất Trung Quốc đã đi đến bước nào trong tiến trình khai thác một loại năng lượng mới ở trên Biển Đông.

bangchay11

Bản đồ tổng hợp phân bố băng cháy trên Biển Đông từ các báo cáo khác nhau. Nguồn : The Global Warming Policy Program, 21/05/2017

Mở đầu

Bộ Tài nguyên Thiên nhiên, Trung Quốc mới đây (26/3) đã công bố nước này vừa thiết lập 2 kỷ lục thế giới về tổng lượng khí tự nhiên thu được từ hoạt động khai thác thử nghiệm băng cháy và về tổng lượng khí thu được trong một ngày sau khi kết thúc đợt thử nghiệm lần thứ 2 kéo dài khoảng một tháng (17/2-18/3) tại khu vực biển Shenhu nằm ở phía bắc Biển Đông. Kế hoạch khai thác băng cháy của Trung Quốc đã được đưa vào Kế hoạch quốc gia từ năm 2002 và không ngừng được giới cầm quyền nước này thúc đẩy thông qua nhiều biện pháp và dự án cụ thể đặc biệt từ sau năm 2013. Điều này đặt ra câu hỏi liệu có chăng một chính sách cụ thể, mang tính dài hạn của chính quyền Trung Quốc liên quan đến kế hoạch khai thác băng cháy trên Biển Đông trong thời gian tới ?

Trên cơ sở phân tích về những đánh giá, nghiên cứu khảo sát của Trung Quốc về trữ lượng băng cháy ; mục tiêu được chính phủ Trung Quốc đề ra và quá trình triển khai hoạt động khai thác trên thực tế có thể thấy, mặc dù vấp phải rất nhiều trở lực và thách thức song chính phủ Trung Quốc đã có những bước triển khai trên thực tế và gặt hái được thành quả bước đầu trong tiến trình khai thác băng cháy trên Biển Đông. Nội dung bài viết dưới đây sẽ bao quát lịch sử quá trình từ khi Trung Quốc manh nha thúc đẩy ý tưởng nghiên cứu băng cháy trên Biển Đông ; cho đến hiện trạng khai thác hiện nay để làm rõ thực chất Trung Quốc đã đi đến bước nào trong tiến trình khai thác một loại năng lượng mới ở trên Biển Đông ; đồng thời nhìn nhận những thách thức, triển vọng cũng như ý đồ và tác động từ việc khai thác băng cháy trên Biển Đông của Trung Quốc.

Băng cháy - nguồn năng lượng dồi dào mà Trung Quốc muốn làm chủ trên Biển Đông

Theo các khảo sát đánh giá của Trung Quốc, băng cháy hiện được tìm thấy ở cả trên đất liền và dưới biển sâu, cụ thể ở 4 khu vực : Biển Đông, Biển Hoa Đông, vùng băng vĩnh cửu của cao nguyên Thanh Tạng và vành đai phía đông bắc Trung Quốc [1]. Đáng chú ý, Trung Quốc xác định, chỉ 3% trữ lượng băng cháy được tìm thấy ở các khu vực như tầng băng vĩnh cửu, vùng biển gần bờ ; còn lại 97% trữ lượng băng cháy được xác định ở vùng biển sâu của Biển Đông và biển Hoa Đông, trong đó chủ yếu là ở khu vực Biển Đông.

Theo báo cáo năm 2016 của Bộ Năng lượng Trung Quốc, vùng biển sâu ngoài khơi Trung Quốc được xác định là khu vực có trữ lượng băng cháy lớn nhất tương đương hơn 74,4 tỷ tấn dầu [2] quy đổi. Trữ lượng này ước tính đủ cho Trung Quốc sử dụng trong vòng khoảng gần 150 năm nếu khai thác được. Đặc biệt là, theo một số đánh giá của Trung Quốc, con số hơn 74 tỷ tấn dầu quy đổi trên mới chỉ là xác định bước đầu, trên thực tế, khu vực Biển Đông có thể còn tồn tại trữ lượng băng cháy lớn hơn rất nhiều mà Trung Quốc chưa xác định hết được [3].

Ở Biển Đông, theo Trung Quốc, băng cháy được phát hiện rải rác khắp khu vực, nhưng tập trung nhiều nhất ở khu vực phía bắc Biển Đông đặc biệt là khu vực đông bắc.

Phải lưu ý, các số liệu công bố về nguồn năng lượng băng cháy được phát hiện ở Biển Đông của Trung Quốc hiện còn chưa được hoàn thiện bởi lẽ việc tìm kiếm thăm dò nguồn năng lượng này tuy đã được triển khai ở Trung Quốc trong suốt hơn 10 năm qua nhưng những khu vực được Trung Quốc tiến hành khảo sát và thử nghiệm mới chỉ dừng lại ở phía bắc Biển Đông [4] do nhiều yếu tố liên quan đến kỹ thuật công nghệ, yếu tố hiệu quả kinh tế và cả vấn đề chính trị ở khu vực Biển Đông. Do đó, công cuộc phát triển nguồn năng lượng mới này ở Trung Quốc vẫn đang tiếp tục được coi là mục tiêu ưu tiên của Trung Quốc.

Trung Quốc xác định mục tiêu tiến tới sản xuất thương mại băng cháy trên Biển Đông vào năm 2030

Trên thực tế, Trung Quốc bắt đầu "nhòm ngó" đến nguồn năng lượng băng cháy từ rất sớm và không ngần ngại công bố lộ trình tiến tới mục tiêu cuối cùng là khai thác thương mại nguồn tài nguyên băng cháy trên Biển Đông.

Theo đó, trong Kế hoạch khai thác băng cháy quốc gia, Trung Quốc đặt ra mục tiêu cụ thể : "đến năm 2020 hoàn thành giai đoạn điều tra dữ liệu về băng cháy ; từ năm 2020 – 2030 là giai đoạn thử nghiệm khai thác sản xuất và từ sau năm 2030 Trung Quốc sẽ tiến tới sản xuất thương mại nguồn tài nguyên băng cháy" [5].

Để đạt được mục tiêu này, trong Kế hoạch 5 năm lần thứ 13 (2016 – 2020), Trung Quốc xác định tư tưởng và phương châm chỉ đạo việc tìm kiếm, thăm dò khai thác băng cháy ở Trung Quốc là "đẩy mạnh việc nghiên cứu kết hợp với thăm dò điều tra ; đổi mới, sáng tạo kết hợp với ứng dụng thực tiễn ; khai thác tài nguyên phải đi đôi với môi trường" [6]. Sở dĩ chính quyền nước này rất chú ý đến vấn đề môi trường vì nhiều nghiên cứu chỉ ra mặc dù là nguồn năng lượng sạch dồi dào, xong trong quá trình khai thác, nếu ứng dụng kỹ thuật chưa chính xác, băng cháy có thể sẽ thải ra một lượng lớn khí thải gây ảnh hưởng tiêu cực đến khí quyển mà khó có thể khắc phụ được hậu quả [7]. Chính vì vậy, chính quyền Trung Quốc luôn lo lắng đến hệ luỵ từ việc nghiên cứu ứng dụng chưa đầy đủ công nghệ kỹ thuật cao trong quá trình khai thác nguồn tài nguyên dồi dào này.

Thực tiễn triển khai các kế hoạch tìm kiếm thăm dò và thử nghiệm khai thác băng cháy ở phía bắc Biển Đông

Dưới chính sách tăng cường và đẩy nhanh hoạt động tìm kiếm, thăm dò và khai thác băng cháy trên biển, Trung Quốc hiện nay đã gần hoàn tất bước 3 trong lộ trình 5 bước để tiến tới sản xuất thương mại băng cháy trên biển.

Theo lộ trình Trung Quốc đặt ra, để tiến tới mục tiêu sản xuất thương mại vào năm 2030, Trung Quốc đã trải qua giai đoạn nghiên cứu lý thuyết và thử nghiệm mô phỏng (từ 1998 – 2008) ; hiện nay Trung Quốc đã cơ bản hoàn tất giai đoạn tìm kiếm, thăm dò thử nghiệm và đang triển khai giai đoạn khai thác thử nghiệm (dự kiến đến hết năm 2020). Theo Trung Quốc đánh giá, việc công bố thiết lập 2 kỷ lục vừa qua đã giúp Trung Quốc tiến một bước xa để chuẩn bị bước vào giai đoạn 4 là sản xuất thử nghiệm bằng cháy (từ 2020 – 2030) [8].

Theo báo cáo của Cục Điều tra Địa chất biển Trung Quốc, trong giai đoạn 1 về nghiên cứu băng cháy, Trung Quốc đã tập hợp được hầu hết dữ liệu về băng cháy trên toàn bộ Biển Đông dựa trên các dữ liệu địa chất biển mà Trung Quốc đã có từ trước đó cũng như sự hợp tác của các cơ quan nghiên cứu nước ngoài. Do đó, Trung Quốc có cơ sở để kết luận về trữ lượng băng cháy trên Biển Đông cũng như những khu vực phân bố băng cháy rải rác khắp Biển Đông. Bước vào giai đoạn 2 về tìm kiếm thăm dò, Trung Quốc đã triển khai khoan thăm dò thực tế được tại một số khu vực ở phía bắc Biển Đông. Còn trong giai đoạn 3 về thử nghiệm khai thác, Trung Quốc mới chỉ khai thác thử nghiệm được ở khu vực Shenhu, nằm ở phía đông bắc Biển Đông. Cụ thể :

- Về tìm kiếm thăm dò, trong Chương trình quốc gia về Điều tra trữ lượng băng cháy ở vùng biển Trung Quốc công bố năm 2002, nước này đã đặt mục tiêu khoan thăm dò tại các khu vực mà Trung Quốc đánh giá có tiềm năng băng cháy cao gồm các khu vực : 1) bể trầm tích Haizao Hoàng Sa (Xisha Trough Basin), 2) khu vực bể trầm tích Qiong Dongnan nằm ở phía tây bắc Biển Đông, 3) khu vực Shenhu ở phía đông bắc Biển Đông và 4) khu vực Đông Sa [9].

Tháng 4-6/2007, Trung Quốc lần đầu tiên triển khai thành công kế hoạch khoan thăm dò lấy mẫu băng cháy ở khu vực Shenhu và trở thành nước thứ 4 trên thế giới (sau Mỹ, Nhật và Ấn Độ) khoan thử nghiệm được băng cháy ở trên biển vào thời điểm đó. Tháng 6-9/2013, Trung Quốc lần đầu tiên tiến hành khoan thử nghiệm thành công băng cháy ở khu vực nước sâu, vị trí khoan khi đó của Trung Quốc nằm ở phía đông bồn địa Châu Giang (phía bắc Biển Đông). Tháng 6-9/2015, Trung Quốc tiếp tục khoan ở toàn bộ 19 điểm thăm dò tại khu vực Shenhu [10]. Sau khi kết thúc giai đoạn khoan thử nghiệm ở một số khu vực ở phía bắc Biển Đông, Trung Quốc nhận định trữ lượng băng cháy ở khu vực phía bắc Biển Đông cực kỳ dồi dào. Theo số liệu đã được Trung Quốc kiểm định tại thời điểm đó, trữ lượng băng cháy ở khu vực phía bắc Biển Đông ít nhất tương đương với hơn một nửa trữ lượng dầu mỏ đã được Trung Quốc xác định ở trên lục địa [11].

- Về khai thác thử nghiệm, tính đến thời điểm hiện tại, Trung Quốc mới chỉ tiến hành thành công 2 đợt khai thác thử nghiệm ở khu vực biển Shenhu, cách Hồng Kông khoảng 300 km về phía đông nam (phía đông bắc Biển Đông). Đợt khai thác thử nghiệm lần đầu tiên bắt đầu từ tháng 3-6/2017. Trong đợt khai thác này, Trung Quốc đã tiến hành khoan ở độ sâu 1266m dưới mực nước biển và thu được khoảng 300.000 mkhí tự nhiên từ băng cháy trong vòng khoảng 60 ngày [12]. Đợt khai thác thử nghiệm thứ 2 cũng ở khu vực biển Shenhu dưới độ sâu 1225m, được Trung Quốc tiến hành mới đây từ ngày 17/2-18/3/2020. Trong đợt khai thác này, Trung Quốc đã thu được 861.400 m3 khí tự nhiên từ băng cháy, tính trung bình mỗi ngày khai thác đạt khoảng 28.700 m3 khí. Với kết quả trên, Trung Quốc cho rằng, nước này đã lập kỷ lục thế giới về số lượng khí tự nhiên thu được từ băng cháy và trữ lượng khí thu được trong một ngày [13].

Như vậy, tính tới thời điểm hiện tại, mặc dù Trung Quốc đã thu thập được dữ liệu về băng cháy trên toàn bộ khu vực Biển Đông trong giai đoạn nghiên cứu lý luận ; song trong quá trình triển khai trên thực tế, Trung Quốc mới chỉ khoan thăm dò được ở toàn bộ khu vực biển Shenhu và một phần khu vực bồn địa Châu Giang ; về khai thác, Trung Quốc mới chỉ tiến hành thành công hai đợt khai thác thử nghiệm ở khu vực biển Shenhu và thu được hơn 1 triệu m3 khí tự nhiên từ băng cháy trong gần 3 tháng tác nghiệp của cả hai đợt thử nghiệm.

Triển vọng và thách thức phải đối mặt

Quyết tâm mang tính chính trị, sự hậu thuẫn về mặt chính sách thông qua việc phân bổ nguồn lực vào các chương trình, dự án nhằm nâng cao năng lực khai thác băng cháy ở Trung Quốc là những nhân tố thuận lợi thúc đẩy kế hoạch khai thác băng cháy của nước này sớm đạt được mục tiêu cuối cùng là tiến tới khai thác thương mại nguồn băng cháy dồi dào trên Biển Đông vào năm 2030. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, trong bối cảnh công nghệ kỹ thuật như hiện nay, việc đạt được mục tiêu đặt ra của Trung Quốc gặp phải nhiều khó khăn, thách thức cản trở hơn là những thuận lợi từ chính sách hay quyết tâm chính trị của giới cầm quyền nước này.

Thuận lợi đầu tiên phải kể đến là việc thúc đẩy triển khai kế hoạch tìm kiếm thăm dò và khai thác băng cháy của Trung Quốc được coi như "một mũi tên trúng hai đích", vừa giải quyết bài toán kinh tế, vừa xuất phát từ góc độ lợi ích chính trị. Nhìn lại lịch sử những lần Trung Quốc hạ đặt giàn khoan thăm dò dầu khí trên Biển Đông như sự kiện HD981 năm 2014 ; đưa tàu khảo sát HD8 vào phía nam Biển Đông từ tháng 7-10/2019 và tháng 4-5/2020 vừa qua có thể thấy, những hoạt động đó đều liên quan đến vấn đề chính trị chứ không chỉ là hoạt động khảo sát thăm dò dầu khí thông thường. Nói một cách khác, việc duy trì hoạt động thăm dò và khảo sát năng lượng trên Biển Đông gắn với mục tiêu về an ninh, chủ quyền và lãnh thổ của Trung Quốc. Hiện nay những nghiên cứu về băng cháy của Trung Quốc cũng chỉ ra các bể băng cháy có tiềm năng trên Biển Đông lại nằm ở những khu vực hết sức nhạy cảm, đặc biệt là nằm ven xung quanh cái gọi là "đường lưỡi bò" của Trung Quốc. Vì thế, trong tương lai, hoạt động thăm dò, khai thác băng cháy trên Biển Đông sẽ còn được chính quyền Trung Quốc quyết tâm thực hiện vì đây là cách thức để Trung Quốc thực hiện cái gọi là "chủ quyền không thể chối cãi trên Biển Đông" của mình.

Thứ hai, chính quyền Trung Quốc không ngừng ban hành các chính sách, thể chế và đầu tư nguồn nhân lực vào việc đẩy nhanh tiến độ khai thác khí tự nhiên từ băng cháy tạo điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh tiến trình khai thác băng cháy. Từ năm 2002, chính quyền trung ương Trung Quốc đã chính thức đưa việc thăm dò tìm kiếm băng cháy vào chương trình quốc gia. Năm 2004, Trung Quốc cho thành lập Trung tâm Nghiên cứu Băng cháy thuộc Viện Năng lượng Quảng Châu. Để tạo khuôn khổ chính sách thuận lợi, Trung Quốc cho thành lập nhiều dự án nghiên cứu trọng điểm như Dự án quốc gia về băng cháy mang tên "Thăm dò đánh giá tiềm năng tài nguyên băng cháy ở vùng biển nước ta" năm 2002 ; Dự án Kỹ thuật then chốt để thăm dò và khai thác nguồn tài nguyên băng cháy ở Trung Quốc được thành lập trong quá trình triển khai Kế hoạch 863 (Kế hoạch nghiên cứu phát triển công nghệ kỹ thuật cao Trung Quốc giai đoạn Năm năm lần thứ 11). Năm 2008, Trung Quốc tiếp tục thành lập dự án giai đoạn mới nằm trong Kế hoạch 973 mang tên "Nghiên cứu cơ sở về khai thác băng cháy trên Biển Đông". Có thể thấy, chính phủ Trung Quốc đặc biệt quan tâm và dành nhiều nguồn lực cho việc nghiên cứu, thăm dò tìm kiếm tiến tới khai thác nguồn băng cháy trên Biển Đông.

Thứ ba, dưới sự đầu tư nguồn lực của chính phủ, hiện Trung Quốc đã từng bước làm chủ và sáng tạo được các kỹ thuật và thiết bị công nghệ cao nhằm nâng cao hiệu quả thăm dò và khai thác băng cháy. Theo báo cáo của chính phủ Trung Quốc, đợt khai thác thử nghiệm diễn ra trong tháng 3 vừa qua, sở dĩ nước này đạt được 2 kỷ lục thế giới về sản lượng khai thác khí tự nhiên từ băng cháy do nước này đã nghiên cứu và ứng dụng thành công các kỹ thuật cũng như thiết bị mà nước này chế tạo. Ví dụ, về kỹ thuật khoan, Trung Quốc hiện nay là nước đầu tiên trên thế giới đã áp dụng thành công được kỹ thuật khoan ngang ở dưới biển sâu để khai thác khí tự nhiên từ băng cháy [14]. Mặc dù kỹ thuật khoan ngang ở tầng biển sâu đã được các nước khoa học tiên tiến như Mỹ thử nghiệm từ những năm 1980s, nhưng chưa nước nào áp dụng thành công kỹ thuật này vào hoạt động khai thác băng cháy [15]. Về các thiết bị kỹ thuật cao, hiện nay Trung Quốc cũng đã tự nghiên cứu chế tạo và từng bước làm chủ các thiết bị phục vụ cho công tác thăm dò và khai thác băng cháy, giảm sự phụ thuộc vào nước ngoài. Theo báo cáo vừa qua của chính phủ Trung Quốc, nước này hiện đã làm chủ được 32 chi tiết thiết bị liên quan đến các kỹ thuật then chốt trong khai thác băng cháy trong đó có 6 hạng mục đạt được ưu thế vượt trội và 12 hạng mục thiết bị Trung Quốc đã tự chế tạo được [16]. Ngoài ra, Trung Quốc cũng đã nghiên cứu chế tạo các hệ thống nhằm ngăn ngừa và kiểm soát rủi ro với môi trường do hoạt động khai thác băng cháy tạo ra. Hệ thống này cũng đã được ứng dụng thành công trong đợt tác nghiệm vừa rồi của Trung Quốc ở vùng biển Shenhu.

Mặc dù vậy, không thể chối cãi rằng, các giới nghiên cứu của Trung Quốc đều thừa nhận các vấn đề được coi là trở lực lớn nhất đối với Trung Quốc nếu tiến tới khai thác băng cháy trên Biển Đông trong tương lai gần là : vấn đề hiệu quả kinh tế, vấn đề kiểm soát rủi ro môi trường trong quá trình khai thác và cả những nhạy cảm mang tính chính trị ở khu vực Biển Đông.

Đầu tiên là tính bất khả thi về hiệu quả kinh tế. Hiện nay, chi phí sản xuất một mét khối khí tự nhiên là chưa đến 1 CNY/m3. Trong khi đó, chi phí sản xuất băng cháy được thế giới thống kê tương đương với 30 – 50 usd/ triệu đơn vị BTU khí tự nhiên từ băng cháy (khoảng 220 – 360 CNY). Theo như IEA dự tính, cho đến khi các nước áp dụng được một cách hiệu quả về kỹ thuật, phương pháp và quy trình khai thác thì cũng sẽ mất khoảng 4,7 – 8,5 USD (tương đương 33 – 80 CNY) để khai thác được một triệu đơn vị BTU khí tự nhiên từ băng cháy [17]. Chính vì vậy mà, theo ông Zhang Maorong, Trưởng ban nghiên cứu Năng lượng và Môi trường, Viện Nghiên cứu Quan hệ Quốc tế hiện đại Trung Quốc đánh giá cho rằng, việc đạt được đến mục tiêu khai thác thương mại băng cháy trên biển vào năm 2030 đối với Trung Quốc là không hề dễ dàng, vì để đạt được mục tiêu này, Trung Quốc phải đạt được song song rất nhiều mục tiêu, vừa thăm dò tìm kiếm được nhiều mỏ băng cháy với trữ lượng và điều kiện thuận lợi ; vừa nghiên cứu các kỹ thuật để giảm giá thành sản xuất, như vậy nghĩa là phải vừa đạt đột phá trong nghiên cứu lý luận, vừa đột phá trong công nghệ, thiết bị thì mới giúp Trung Quốc đạt được mục tiêu trên [18].

Bên cạnh đó là những rủi ro về vấn đề môi trường mà Trung Quốc chưa thể giải quyết. Để khai thác băng cháy, cần tăng nhiệt độ, giảm áp suất để giải phóng khí, do đó, các nước khi tiến hành khai thác băng cháy sẽ phải dùng tác động từ bên ngoài tạo môi trường thay đổi về nhiệt độ và áp suất để khai thác được băng cháy. Chính những tác động làm thay đổi nhiệt độ và áp suất lại dẫn đến những hệ luỵ như lở đất dưới đáy biển, sóng thần, hủy diệt sinh vật biển,… Ngoài ra, khi khai thác băng cháy sẽ giải phóng ra một lượng lớn khí metan, nếu kỹ thuật khoan không chuẩn, những lỗ khoan bị rò rỉ sẽ gây thoát một lượng lớn khí metan hủy hoại nghiêm trọng cho môi trường, gây hiệu ứng nhà kính, biến đổi khí hậu. Hiện nay, Trung Quốc nhận thức rằng, nếu khai thác băng cháy không an toàn và dẫn tới nổ băng cháy thì hậu quả có thể sẽ gấp mười nghìn lần năng lượng của vụ nổ hạt nhân [19]. Do đó, Trung Quốc tuyệt đối không thể xem nhẹ những hệ quả của việc khai thác băng cháy trong tương lai. Chính vì vậy, trọng tâm nghiên cứu chế tạo của Trung Quốc hiện nay vẫn tập trung làm sao để giảm thiểu những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình nước này tiến hành khai thác băng cháy. Đây vừa là rào cản lớn nhất, song cũng là nút thắt quan trọng trong việc mở ra triển vọng sản xuất thương mại băng cháy trong tương lai của Trung Quốc.

Những tác động và hệ luỵ trong tương lai

Trung Quốc nhận thức rằng, băng cháy là một nguồn năng lượng sạch của tương lai, sớm muộn sẽ thay thế nguồn năng lượng dầu khí truyền thống. Do đó, tương lai sẽ là cuộc cạnh tranh giữa những nước lớn trong công cuộc làm chủ lĩnh vực khai thác băng cháy. Trung Quốc cũng cho rằng, nước nào làm chủ được công nghệ và kỹ thuật khai thác, sớm sản xuất thương mại được băng cháy sẽ là nước có được lợi thế trong cục diện năng lượng trong tương lai [20]. Với tiềm năng có trữ lượng băng cháy ở ngoài khơi lớn, thêm vào đó là những thành tựu bước đầu như lập kỷ lục về sản lượng khai thác khí tự nhiên từ băng cháy cũng như sản lượng khí khai thác được trong một ngày, Trung Quốc hiện nay đang tự tin là quốc gia dẫn đầu thế giới về lĩnh vực khai thác nguồn năng lượng tương lai này. Thực tế này cũng củng cố thêm quyết tâm của chính quyền Trung Quốc trong việc đạt được mục tiêu đến năm 2030 khai thác thương mại từ băng cháy trên Biển Đông.

Quyết tâm này nằm trong tổng thể chính sách trở thành "cường quốc biển", đồng thời là một phần trong thực thi và triển khai chính sách Biển Đông của Trung Quốc. Do đó, Trung Quốc chắc chắn sẽ không bao giờ từ bỏ việc tìm kiếm, thăm dò và từng bước khai thác băng cháy trên Biển Đông.

Nếu thuận lợi, đến năm 2030 Trung Quốc đạt được mục tiêu sản xuất thương mại băng cháy ngoài khơi, khi đó Trung Quốc sẽ dành lợi thế, làm chủ được nguồn năng lượng khổng lồ và thay đổi cán cân nhập khẩu năng lượng đến 70% hiện nay. Xuất phát từ thực tế tìm kiếm thăm dò và thực nghiệm hiện nay, trong tương lai diễn tiến khai thác băng cháy của Trung Quốc sẽ bắt đầu từ những mỏ băng cháy ở phía bắc Biển Đông và lấn dần sang các mỏ ở phía vùng biển Đài Loan, Trung Sa, Hoàng Sa rồi sau đó trong tương lai dài, không loại trừ tham vọng tiến sâu tới cả các điểm cực của cái mà Trung Quốc vẫn gọi là "đường lưỡi bò". Khi đó, việc khai thác băng cháy của Trung Quốc ắt sẽ làm bùng lên tranh chấp ở khu vực phía nam Biển Đông bởi các quốc gia ven biển sẽ đều kiên quyết bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền ở Biển Đông của mình, kiên quyết phản đối các hành động ngang ngược và phi lý của Trung Quốc ở Biển Đông trong đó có cả kịch bản hoạt động khai thác băng cháy ở phía nam Biển Đông của Trung Quốc.

Kết luận

Với việc phát hiện ra một trữ lượng lớn băng cháy ở Biển Đông – nguồn năng lượng có thể đáp ứng gần 150 năm nhu cầu năng lượng của Trung Quốc, nhiều năm trở lại đây, nước này đã không ngừng thúc đẩy các hoạt động tìm kiếm, thăm dò và tiến tới khai thác thử nghiệm băng cháy trên Biển Đông. Tuy nhiên, cho tới hiện tại, Trung Quốc mới chỉ tiến hành thành công hai đợt khai thác thử nghiệm băng cháy ở khu vực Shenhu nằm ở phía đông bắc Biển Đông với tổng hơn 1 triệu m3 khí tự nhiên thu được từ hai đợt thử nghiệm này. Với kết quả trên, Trung Quốc tự tin cho rằng mình là quốc gia dẫn đầu thế giới trong lĩnh vực khai thác băng cháy và có đủ khả năng để đạt được mục tiêu sản xuất thương mại băng cháy vào năm 2030. Mặc dù vậy, phải khẳng định rằng, xét ở bối cảnh hiện tại, dù Trung Quốc đã làm chủ được nhiều công nghệ tiến tiến, nghiên cứu chế tạo thành công các thiết bị phục vụ công tác khai thác băng cháy, tuy nhiên, với chi phí kinh tế quá cao, đi kèm với đó là những rủi ro rất lớn về môi trường mà Trung Quốc chưa tìm được cách xử lý triệt để là những thách thức rất lớn cản trở triển vọng khai thác băng cháy trên Biển Đông trong tương lai gần của Trung Quốc. Song, với quyết tâm chính trị rất lớn trong việc "kiểm soát và làm chủ Biển Đông", khai thác băng cháy sẽ được chính quyền Trung Quốc sử dụng như một công cụ để khẳng định cái gọi là "chủ quyền không thể chối cãi của Trung Quốc trên Biển Đông". Khi đó, hoạt động khai thác băng cháy trong khu vực biển không thuộc chủ quyền, quyền của quyền của Trung Quốc trong tương lai chắc chắn sẽ tiếp tục là căn nguyên khiến tình hình Biển Đông thêm phức tạp và rối ren.

Hoàng Lan

Nguồn : Nghiên cứu Biển Đông, 18/06/2020

Hoàng Lan, nghiên cứu viên của Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao. Tác giả chân thành cảm ơn ông Lê Anh Thắng, Viện Nghiên cứu Biển và Hải đảo ; và ông Phạm Quý Ngọc, Viện Dầu khí Việt Nam đã có những góp ý, chỉnh sửa nội dung chuyên môn và nhận xét bài viết của tác giả. Bài viết phản ánh quan điểm riêng của tác giả.


[1] Zhang Yingyi, Li Yungang, 新型洁净能源可燃冰的研究发展, Tạp chí Tài nguyên và Công nghiệp Trung Quốc, Số 3, tháng 6/2011

[2]Bộ Công thương Trung Quốc, 中国为何此时大力开发可燃冰?开采理论上拥有优势ngày 10/6/2017

[3]Tham khảo Báo cáo của Công ty cổ phần thương gia Trung Quốc, 我国可燃冰实现首次试采点评, số ra ngày 11/5/2017

[4] Báo cáo số 055 của Cục Điều tra Hải dương Quảng Châu – Cục Điều tra địa chất Trung Quốc – Viện Nghiên cứu địa chất biển Thanh đảo về Tài nguyên băng cháy ở Trung Quốc, công bố năm 2015

[5]Tldd, 3 ;

[6]Tldd, 4

[7]Tldd, 5

[8] Viện Nghiên cứu Nam Hải, 试采创纪录我国率先实现水平井钻采深海"可燃冰"

[9] Wang Fenghua, 可燃冰试采成功:推动能源革命的重要一步,未来能源潜力无限, Báo cáo của công ty trách nhiệm hữu hạn chứng khoán Liên Tấn, đăng ngày 21/5/2017

[10]Tldd, 5

[11] Zong Xinxuan, 可燃冰的研究进展与思考, Tạp chí Chemistry and Adhesion, 2017 年第 39 卷第 1 

[12] Tạp chí Tài nguyên môi trường Trung Quốc, 我国南海能源资源地质调查实现历史性跨越开启"蓝色宝藏", số ra ngày 12/12/2018

[13] Viện Nghiên cứu Nam Hải, 试采创纪录我国率先实现水平井钻采深海"可燃冰" 

[14] Tldd, 14

[15]YouQi Wulian, 水平井的分类及优缺点

[16] Tldd, 14

[17] Zhang Mao Rong, 可燃冰离商业性开采还有多远, Tạp chí nghiên cứu năng lượng Trung Quốc, số ra ngày 23/10/2018 

[18] Tldd, 18

[19] Guan Jinan, 地球上的天然气水合物现状与展望

[20] Tldd, 18

Published in Diễn đàn

Biển Đông : Trung Quốc mượn gió bẻ măng nhưng thời thế hiện không dễ cho họ

Mỹ Hằng, Trần Công Trục, BBC, 21/06/2020

Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên trưởng ban Biên giới chính phủ Việt Nam phản hồi 'bốn kịch bản Trung Quốc có thể làm nếu bị Việt Nam kiện ra tòa quốc tế' do ông Ngô Sỹ Tồn (Wu Shicun) Giám đốc Viện Nghiên cứu Quốc gia Trung Quốc về Biển Đông (NISCSS) công bố mới đây.

bd1

Ảnh chụp ngày 4/7 2016 cho thấy các tàu Trung Quốc tham gia tập trận ở Biển Đông

Trao đổi với BBC News Tiếng Việt, Tiến sĩ Trần Công Trục cho hay ông từng gặp ông Ngô Sỹ Tồn trong một cuộc đám phán giữa Việt Nam và Trung Quốc về giải quyết vấn đề tranh chấp trên vịnh Bắc Bộ cách đây nhiều năm và từng đọc một số bài nghiên cứu của ông Tồn, trong đó có bài viết về 'bốn kịch bản'.

"Theo nhận định của tôi, với tư cách là một người nghiên cứu về luật pháp, tôi cho rằng ông này không phải là một chuyên gia luật. Vì những điều ông ấy viết không phản ánh tư duy khách quan của một chuyên gia luật pháp. Bốn kịch bản này thực sự chỉ là những lời mang tính chất hăm dọa, kích động, và không có gì mới. Trong thực tế Trung Quốc đã làm những điều này từ lâu", ông Trục nói.

BBC : Theo ông nếu đúng là Trung Quốc sẽ tiến hành bốn kịch bản này, chính phủ Việt Nam có 'dám' kiện nữa không ?

Trần Công Trục : Như tôi nói ở trên, bốn kịch này này Trung Quốc đã làm từ lâu. Trung Quốc chỉ lặp lại các các đe dọa trên phương diện ngoại giao kèm theo các hành động thô bạo trên thực tế.

Kịch bản một : Trung Quốc dọa sẽ công bố hệ thống đường cơ sở ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam mà họ gọi là Nam Sa.

Trên thực tế, Trung Quốc đã làm điều này từ 1996, khi họ nối tất cả các điểm ngoài cùng của các thực thể thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam mà Trung Quốc gọi là Tây Sa, để tạo thành đường cơ sở, như là một quốc gia quần đảo. Đây là việc Trung Quốc giải thích và áp dụng hoàn toàn sai Công ước Quốc tế về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982).

Nhiều học giả đã phân tích về hành động sai trái này. Đặc biệt trong công hàm của phái đoàn thường trực Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gửi cho Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc vừa qua cũng khẳng định quan điểm của UNCLOS 1982, quy định rằng không thể nối tất cả các điểm của các thực thể ở ngoài cùng quần đảo Trường Sa để biến nó thành một đường cơ sở, như là một quốc gia quần đảo.

bd2

Đường cơ sở thẳng do Trung Quốc tự công bố quanh quần đảo Hoàng Sa

Tôi cho rằng Trung Quốc đang làm tương tự với quần đảo Trường Sa. Sở dĩ họ chưa công bố đường cơ sở ở đây là do bị lên án rất nhiều, cho nên họ đang tính toán. Họ cũng đang tính toán để mở rộng, chiếm đóng thêm một số bãi cạn nằm ngoài quần đảo Trường Sa, gần thềm lục địa đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Malaysia, Brunei, Indonesia và Philippines.

Đây là việc cố tình giải thích, áp dụng sai công ước để hiện thực hiện yêu sách đường chín đoạn phi pháp. Bây giờ họ chỉ nhắc lại chuyện cũ này, nó không có giá trị gì về mặt luật pháp quốc tế.

Điều 7 UNCLOS quy định một nước chỉ có thể vạch đường cơ sở thẳng nếu bờ biển nước này thuộc một trong ba trường hợp sau :

1) bờ biển khúc khủy, lồi lõm sâu,

2) có chuỗi đảo chạy dọc theo bờ biển và ngay liền kề, hoặc

3) bờ biển không ổn định do có đồng bằng Châu thổ hoặc do các điều kiện tự nhiên khác.

Phán quyết năm 2016 của Tòa trọng tài (vụ Philippines kiện Trung Quốc) : Tòa biết rằng có một số quốc gia sử dụng đường cơ sở thẳng cho các quần đảo xa bờ như là đường cơ sở quần đảo. Theo quan điểm của Tòa, bất kỳ việc áp dụng đường cơ sở thẳng nào đối với quần đảo Trường Sa theo cách thức đó đều trái với UNCLOS 1982 (điều 7).

Kịch bản hai : Trung Quốc đe dọa đẩy mạnh việc ngăn cấm, đánh đập, giam cầm các ngư dân Việt Nam hoạt động trên vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa. Điều này họ cũng làm lâu rồi. Năm nào Trung Quốc cũng công bố quyết định cấm đánh bắt cá, năm nào cũng đốt tàu, bắt giam, đánh đập ngư dân Việt Nam.

Quốc tế cũng đã đánh giá đây là hành động "cướp biển" mang tính chất nhà nước. Nhưng tôi cho rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục làm điều này chừng nào họ đạt được tham vọng khống chế, độc chiếm Biển Đông, chứ không cần chờ đến lúc Việt Nam kiện.

Kịch bản ba : Trung Quốc dọa tăng cường ngăn cản Việt Nam quân sự hóa ở Trường Sa. Việc họ nói Việt Nam quân sự hóa là hoàn toàn bịa đặt. Trung Quốc mới chính là nước đang quân sự hóa trên Biển Đông.

Việt Nam có mặt ở đó, trên 21 vị trí trên quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam, và có các lực lượng quân đội, khoa học kỹ thuật, nhân sự để quản lý và bảo vệ chủ quyền của mình trên các thực thể đó là điều rất bình thường mà Việt Nam vẫn làm từ trước đến nay để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.

Từ lâu Trung Quốc đã uy hiếp Việt Nam, thậm chí dùng vũ lực để đánh chiếm, gây ra thảm họa cho người Việt Nam trong lúc đang làm nhiệm vụ bảo vệ quần đảo Hoàng Sa, như vụ Gạc Ma.

Trung Quốc sẽ tiếp tục các hành động này, nhưng trong bối cảnh hiện nay khi nhiều nước trên thế giới đã lên tiếng phản đối, họ có làm được hay không chúng ta cần phải chờ xem.

Kịch bản thứ tư : Trung Quốc dọa triển khai khai thác dầu khí ở Bãi Tư Chính. Trên thực tế Trung Quốc đã thực hiện rồi, nhưng mà làm không được. Năm ngoái Trung Quốc đưa tàu địa chất Hải Dương vào hoạt động ở Bãi Tư Chính hơn một tháng để thăm dò điều kiện nhằm tiến hành khai thác ở đây.

Mục tiêu của họ là hợp pháp hóa đường lưỡi bò và biến các bãi cạn hoặc chìm dưới mặt nước trở thành một cấu trúc địa lý thuộc quần đảo Trường Sa. Đây là điều hết sức vô lý mà trong công hàm tôi nói ở trên, Việt Nam đã phản đối điều này. Các bãi cạn nửa nổi nửa chìm, hoặc hoàn toàn chìm dưới nước, không phải là đối tượng để biến thành bộ phận của một lãnh thổ nước nào.

UNCLOS 1982 đã nói rõ điều này : Nghiêm cấm biến các bãi cạn nằm trên thềm lục địa trở thành một bộ phận lãnh thổ của một quốc gia. Nhưng Trung Quốc vẫn cứ làm liều. Họ muốn áp đặt tư duy phi pháp của mình để thực hiện tham vọng vô lý.

BBC : Trong bốn kịch bản mà học giả Trung Quốc đưa ra, theo ông thì kịch bản nào Trung Quốc có nhiều khả năng thực hiện nhất và kịch bản nào ít khả năng nhất ? Kịch bản nào 'đáng sợ' nhất đối với Việt Nam ?

Trần Công Trục : Tôi cho rằng bốn kịch bản đó Trung Quốc đều có thể triển khai và đang tính toán thực hiện cả bốn. Tất nhiên là họ phải chọn thời điểm thích hợp, nhất là sau vụ dịch Covid-19.

Nhưng kịch bản tôi cho rằng họ có khả năng làm được nhất là kịch bản thứ nhất : Công bố đường cơ sở của quần đảo Nam Sa, để thực thi sách lược mà Trung Quốc gọi là Tứ Sa, biện minh cho yêu sách đường lưỡi bò phi pháp.

Khi họ công bố đường cơ sở này thì các nước có thể phản đối, nhưng thực ra công bố đó chỉ trên giấy tờ thôi, giống như Trung Quốc từng tuyên bố đường cơ sở ở quần đảo Tây Sa. Còn các kịch bản khác, họ có thể chỉ làm ở những phạm vi và điều kiện cho phép.

Ví dụ như việc Trung Quốc đánh đập, bắt bớ, đốt tàu cá thì đang gặp phải phản đối. Vì càng ngày quốc tế càng nhận ra bản chất phi pháp, phi đạo lý của Trung Quốc. Họ làm được các kịch bản còn lại như thế nào thì còn phụ thuộc vào thái độ của Việt Nam và quốc tế. Tôi nghĩ rằng Việt Nam sẵn sàng lên án và tìm mọi cách để đối phó lại các hoạt động phi pháp và trắng trợn của Trung Quốc.

Còn việc Trung Quốc đe dọa sẽ ngăn chặn hoạt động bảo vệ, quản lý của các lực lượng của Việt Nam trên các thực thể thuộc chủ quyền của Việt Nam thì liệu có làm được không trong tình hình hiện nay ? Không phải dễ, bởi Việt Nam đang nỗ lực hợp tác cùng các quốc gia khác để tăng cường sức phòng thủ và sức chiến đấu của mình.

Khi chạm đến lãnh thổ thiêng liêng thì theo truyền thống của người Việt Nam "giặc đến nhà đàn bà cũng đánh". Dù kiềm chế xung đột, nhưng nếu lãnh thổ bị xâm phạm, thì chắc chắn người Việt Nam sẽ cầm súng đứng lên bảo vệ và chiến đấu đến phút cuối cùng. Do đó Trung Quốc không dễ dàng làm được điều này.

Việc thăm dò khai thác dầu ở Bãi Tư Chính liệu Trung Quốc cũng có làm được như đe dọa không ? Các công ty trên thế giới có hợp tác với họ không ? Với điều kiện địa lý kinh tế xa xôi như vậy thì lợi ích kinh tế Trung Quốc đạt được là gì hay họ chỉ nhằm vào mục đích khác : cố tính khuấy động khu vực này để Việt Nam không thể tiến hành thăm dò dầu khí được ? Nên nhớ là Trung Quốc đã làm việc này nhiều lần và cho tới nay Việt Nam vẫn đứng vững ở đó, vẫn tiến hành thăm dò khai thác dầu khí và vẫn bảo vệ được các quyền hợp pháp của mình trong khu vực này.

Trong bối dịch bệnh Covid-19 hiện nay, dù Trung Quốc đang tính toán để "đục nước béo cò", "mượn gió bẻ măng", nhưng nên nhớ những nước khác trong khu vực, cả kể những nước trước đây mềm mỏng với Trung Quốc như Malaysia, Philippines, Indonesia nay cũng có những tiếng nói phản đối mạnh mẽ Trung Quốc và ủng hộ lập trường của Việt Nam.

Các nước mạnh trên thế giới như Mỹ, EU, Ấn Độ, Nhật Bản đều lên tiếng phản đối Trung Quốc và kêu gọi cộng đồng quốc tế thượng tôn pháp luật. Nếu Trung Quốc tiếp tục các hành động trắng trợn này thì nhân loại sẽ không để yên. Với tình thế đó thì tôi cho rằng dù Trung Quốc đe dọa, hung hăng, nhưng có làm được không còn là câu chuyện khác.

BBC : Theo ông chính phủ Việt Nam có lường trước hết được các rủi ro của việc kiện Trung Quốc hay không và đã chuẩn bị cho việc này thế nào ?

Trần Công Trục : Để chuẩn bị một hồ sơ để gửi lên các cơ quan tài phán quốc tế, Việt Nam đã nghiên cứu rất kỹ tất cả các điều kiện trong nhiều năm qua. Vấn đề là Việt Nam không thể kiện Trung Quốc bất cứ nội dung nào.

Nhiều người lầm tưởng nếu kiện là kiện về vấn đề chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa. Không phải vậy. Nếu sau các đàm phán song phương, đa phương không có kết quả, Việt Nam chỉ có thể đơn phương kiện việc Trung Quốc áp dụng sai công ước UNCLOS 1982. Giống như Philippines đã làm.

Việt Nam không thể đơn phương kiện Trung Quốc vấn đề chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa hay chủ quyền ở các vùng nước chồng lấn. Vì việc này không thuộc phạm vi điều chỉnh của UNCLOS 1982. Để kiện những vấn đề này thì phải có sự thỏa thuận của các nước liên quan. Đơn phương kiện các nội dung đó thì các cơ quan tài pháp không xem xét đâu.

Nhiều người nói Việt Nam sợ Trung Quốc nên không kiện là không đúng. Khi có chân lý, pháp luật thì Việt Nam sẵn sàng làm, vì chính điều đó mới là cách đối xử văn minh, giữ vững hòa hiếu, bảo vệ uy tín của các bên liên quan. Khi đưa ra kiện có nghĩa động cơ của Việt Nam là thượng tôn pháp luật, đưa mọi việc ra dưới ánh sáng pháp lý.

Nếu thua, Việt Nam sẵn sàng không tiếp tục những điều mà từ trước đến nay Việt Nam đã làm một cách sai trái nếu đó là phán quyết của tòa. Nhưng để kiện thì cần phải tính đến nội dung, thủ tục, thời cơ, hiệu quả của việc kiện.

BBC : Theo nhận định của ông, nếu đặt lên bàn cân các thiệt hại mà Trung Quốc có thể gây ra cho Việt Nam, và cái mà Việt Nam đạt được nếu kiện, thì ông ủng hộ kiện hay không ?

Trần Công Trục : Tôi nghĩ rằng kiện là cách giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình. Việt Nam chưa bao giờ nói rằng sẽ không sử dụng biện pháp đó. Nhưng rõ ràng trong bối cảnh hiện nay, thì vấn đề kiện đòi chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa sẽ gác lại đó.

Cái có thể kiện hiện nay là như Philippines đã làm, kiện Trung Quốc về việc áp dụng sai công ước UNCLOS 1982. Nhưng nên nhớ rằng dù có phán quyết của tòa án, việc thực thi phán quyết lại không triển khai được do cơ chế thi hành án của các cơ quan tài phán quốc tế hiện nay phải thông qua Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc mà Trung Quốc là thành viên thường trực, có quyền phủ quyết.

Nghĩa là, thắng kiện thì được lợi về chính trị, ngoại giao, pháp lý, dư luận, và kết quả thắng đó sẽ trở thành một thực tiễn trong luật pháp quốc tế để người ta căn cứ vào đó đấu tranh để bảo vệ công lý. Nhưng như đã nói, việc thi hành phán quyết trên thực tế là không có. Do đó Việt Nam phải tính. Việc tập hợp ý kiến của các chuyên gia, luật sư, dư luận để cùng nhau có tiếng nói thống nhất là rất cần thiết.

BBC : Trong bối cảnh chính trị, xã hội toàn cầu hiện nay, khi các nước đang đương đầu với dịch bệnh Covid-19 và nền kinh tế nhiều nước trên thế giới đang phụ thuộc vào Trung Quốc, chính phủ Việt Nam cần chuẩn bị thêm những gì so để có thể đương đầu với Trung Quốc ?

Trần Công Trục : Nhưng như phân tích của tôi ở trên, có lẽ chúng ta chưa cần thiết đưa vấn đề ra cơ quan tài phán lúc này, nhất là vấn đề liên quan đến giải thích, áp dụng công ước UNCLOS 1982. Do hiệu quả của nó trong thực tế là hạn chế, như đã nói ở trên. Cần tập hợp thêm dư luận để đấu tranh ngoại giao, tăng cường đoàn kết để duy trì công ước UNCLOS 1982. Đây là điều quan trọng hiện nay.

Tôi không nói Việt Nam không nên kiện, nhưng cần tính kỹ nội dung, thủ tục, thời điểm và hiệu quả. Đến lúc mà tình hình xấu hơn, Trung Quốc trắng trợn hơn thì Việt Nam cũng sẽ phải mạnh mẽ hơn trong các phương diện đấu tranh, cả về quân sự và pháp lý.

bất chấp tất cả để thực hiện các hành vi phi pháp thì trước mắt tự bản thân Việt Nam phải đoàn kết, đánh giá bản chất các sự kiện một cách bình tĩnh, khoa học chứ không phải trên cơ sở duy ý chí. Muốn như vậy phải thể hiện rõ ràng lập trường pháp lý của mình để bạn bè quốc tế đồng tình ủng hộ. Tôi nghĩ vừa rồi Việt Nam đã làm được một số điều trong các việc này, do đó nhận được sự ủng hộ của nhiều nước trên thế giới.

Tiềm lực quốc phòng của Việt Nam ngày càng được cải thiện hơn. Việt Nam đủ sức tự vệ trước hành động phi pháp của các nước khác, đặc biệt là Trung Quốc.

Mỹ Hằng thực hiện

Nguồn : BBC, 21/06/2020

*********************

Bốn kịch bản Trung Quốc có thể thực hiện 'nếu bị Việt Nam kiện ra tòa quốc tế'

BBC, 17/06/2020

Tin chính phủ Việt Nam đang xem xét khả năng kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế dường như đang khiến Trung Quốc bận lòng, ít nhất trong giới học thuật nước này.

Có học giả Trung Quốc gần đây đặt câu hỏi liệu Việt Nam đã' nghĩ kỹ' chưa nếu biết đến các khả năng mà Trung Quốc có thể làm nếu điều này xảy ra.

kichban0

Người Việt phản đối Trung Quốc biển đảo Việt Nam nhân danh Thượng đế và nhân sinh - Ảnh minh họa

Trong bài "Liệu Việt Nam có nghĩ lại trước khi kiện Trung Quốc về vấn đề Biển Đông" trên SCSPI mới đây, ông Wu Shicun, Giám đốc Viện Nghiên cứu Quốc gia Trung Quốc về Biển Đông (NISCSS) cho rằng Việt Nam đang muốn học theo vụ kiện của Philippines năm 2013. Và rằng, Việt Nam đã chuẩn bị 'công phu và toàn diện' để kiện Trung Quốc nhiều năm nay, sẽ kiện ngay khi mọi thứ đã sẵn sàng.

"Nhưng Việt Nam có đánh giá đầy đủ các hậu quả của động thái liều lĩnh này không ? Bởi nó có thể khiến Trung Quốc tức giận, đe dọa hòa bình và ổn định ở Biển Đông, và khiến cộng đồng quốc tế hiểu lầm", ông Wu Shicun viết.

Ông Wu Shicun nhấn mạnh rằng Trung Quốc "không sợ bị Việt Nam kiện về vấn đề Biển Đông".

Để củng cố lập trường này, ông Wu Shicun chỉ ra rằng gần đây, Việt Nam "liên tục có những hành động liều lĩnh, đơn phương trong vùng biển tranh chấp", như "triển khai xây dựng quy mô lớn trên các đảo và các rạn san hô" mà Việt Nam "chiếm đóng bất hợp pháp", "dung túng và thậm chí khuyến khích ngư dân đánh bắt cá" trong vùng biển "của Trung Quốc", "bôi nhọ Trung Quốc trên các diễn đàn quốc tế". Và rằng những hành động này làm "cản trở các cuộc đàm phán COC" và "xói mòn sâu sắc niềm tin chính trị giữa hai nước".

Ông cho rằng Trung Quốc đã "kiềm chế", nhưng "sự kiên nhẫn này có thể chấm dứt sớm".

"Nếu Việt Nam không thừa nhận điều này, họ có thể sẽ phải trả giá cho quyết định thiếu khôn ngoan của mình. Nếu Việt Nam liều lĩnh đến mức kiện để đòi phân xử, tôi tin rằng Trung Quốc sẽ không án binh bất động", ông này viết.

Từ đó, ông Wu Shicun nêu ra bốn kịch bản chính mà Trung Quốc có thể thực hiện một khi bị Việt Nam kiện ra tòa quốc tế.

Trung Quốc 'có thể công bố các đường cơ sở của quần đảo Nam Sa'

Theo bài báo, năm 1996, Trung Quốc đã công khai 28 điểm cơ sở và các đường cơ sở được kết nối bởi các điểm này của Quần đảo Xisha (Hoàng Sa theo cách gọi của Việt Nam) theo Luật năm 1992 về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp của Trung Quốc.

Trong những năm gần đây, Trung Quốc "luôn tự kiềm chế trong việc công bố các đường cơ sở của lãnh hải thuộc quần đảo Nam Sa (cách Trung Quốc gọi quần đảo Trường Sa của Việt Nam) để bảo đảm mối quan hệ tốt với các nước ASEAN, duy trì sự ổn định ở Biển Đông và khuyến khích một môi trường thuận lợi cho các cuộc đàm phán COC".

Do đó, nếu Việt Nam "tiếp tục khiêu khích, bao gồm kiện lên tòa quốc tế và đe dọa nghiêm trọng đến chủ quyền lãnh thổ và an ninh của quần đảo Nam Sa, Trung Quốc sẽ buộc phải công khai các đường cơ sở của lãnh hải thuộc quần đảo Nam Sa".

'Trung Quốc sẽ không nương tay trước việc đánh bắt cá bất hợp pháp của Việt Nam'

Trung Quốc có thể sẽ mạnh tay hơn đối với các tàu cá Việt Nam mà nước này cho là 'đánh bắt trái phép' tại vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa, vẫn theo ông giám đốc NISCSS.

"Trong những năm gần đây, tàu đánh cá của Việt Nam đã xâm nhập vào vùng biển nội địa và lãnh hải của quần đảo Hoàng Sa của Trung Quốc. Họ nhắm mắt làm ngơ trước luật pháp và việc thực thi luật pháp của Trung Quốc, và thậm chí có những động thái nguy hiểm chống lại chính quyền Trung Quốc".

"Thay vì giáo dục và kiểm soát các tàu đánh cá và ngư dân của mình, chính phủ Việt Nam đã đổ lỗi, bêu xấu Trung Quốc và thậm chí đưa ra những yêu cầu bồi thường vô lý".

"Đối mặt với những hành động khiêu khích nghiêm trọng như vậy trên biển, Trung Quốc nên có những hành động quyết đoán và hiệu quả để răn đe".

"Trung Quốc không thể chịu trách nhiệm cho tất cả các hoạt động phi pháp và trấn áp hành vi đánh bắt cá bất hợp pháp của Việt Nam", học giả Trung Quốc viết.

'Trung Quốc có thể ngăn chặn quá trình quân sự hóa của Việt Nam'

Kịch bản thứ ba mà chuyên gia về Biển Đông của Trung Quốc đưa ra là Bắc Kinh có thể kiềm chế và ngăn chặn quá trình quân sự hóa Việt Nam trên các đảo và các rạn san hô mà Bắc Kinh cho rằng Việt Nam "đã chiếm đóng bất hợp pháp".

"Quần đảo và các rạn san hô bị Việt Nam chiếm đóng bất hợp pháp như Song Tử Tây và đảo Trường Sa mang giá trị chiến lược, gây ra mối đe dọa cho đảo Ba Bình, Xích Qua Tiêu (Gạc Ma theo cách gọi của Việt Nam), Đông Môn Tiêu (Đá Tư Nghĩa theo cách gọi của Việt Nam) và Nam Huân Tiêu (Đá Ga Ven) và các đảo và rạn san hô khác do Trung Quốc kiểm soát".

"Một khi tình hình xấu đi sau khi Việt Nam tiến hành kiện lên tòa trọng tài quốc tế, ngoài việc tiếp tục nhắc lại các quyền và yêu sách của mình trên Biển Đông, Trung Quốc sẽ có những biện pháp đối phó như thường xuyên đưa tàu đến vùng biển lân cận các đảo và rạn san hô liên quan, đánh chặn và xua đuổi tàu Việt Nam vào vùng biển mà không được chấp thuận".

"Việc này sẽ cắt đứt nguồn cung cấp hậu cần cho quân đội Việt Nam đồn trú trên các đảo và rạn san hô, cũng như kiềm chế và ngăn chặn quá trình quân sự hóa trên các đảo và các rạn san hô mà nước này chiếm đóng bất hợp pháp. Các biện pháp quản lý và kiểm soát sẽ được thực hiện nếu cần thiết".

'Trung Quốc có thể khởi xướng việc thăm dò dầu khí trong lô Wan'an Bei'

"Crestone Energy Corp, một công ty của Hoa Kỳ và Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc (CNOOC) đã ký hợp đồng vào ngày 8/5/1992 để khai thác dầu ở lô Wan'an Bei-21 (lô dầu 136-03 theo cách gọi của Việt Nam) tại Bãi Tư Chính ở vùng nước liền kề quần đảo Nam Sa (cách Trung Quốc gọi quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam), trong sự phản đối mạnh mẽ và sự quấy rối của nhà cầm quyền Việt Nam", ông Wu Shicun cho hay về kịch bản thứ tư.

"Để ngăn chặn tình hình xấu đi và xung đột leo thang, cuối cùng phía Trung Quốc đã tạm hoãn hợp đồng này".

"Tuy nhiên, để bảo đảm quyền kiểm soát vĩnh viễn đối với Bãi Tư Chính và độc quyền về tài nguyên dầu khí ở đó, Việt Nam đã tiếp tục hợp tác với các công ty dầu khí nước ngoài và tiến hành thăm dò đơn phương tại Bãi Tư Chính. Vào tháng 5/2019, Việt Nam đã tiến hành thăm dò dầu đơn phương tại vùng biển thuộc Bãi Tư Chính, dẫn đến đối đầu với Trung Quốc".

"Trong những năm qua, việc khai thác dầu trái phép ở Biển Đông đã trở thành trụ cột kinh tế chiínhcủa Việt Nam, chiếm 30% GDP. Nếu Việt Nam nộp đơn kiện lên tòa trọng tài, Trung Quốc có thể nắm bắt cơ hội này và trực tiếp vào Bãi Tư Chính mà không có bất kỳ "trách nhiệm pháp lý" nào trong việc khởi động thăm dò dầu khí trong lô Wan'an Bei".

"Đây sẽ là một bước đột phá cho Trung Quốc, thăm dò dầu khí đầu tiên tại khu vực Nam Sa", bài báo kết luận.

Việt Nam 'chuẩn bị' kiện Trung Quốc thế nào ?

Vấn đề kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế liên quan đến cách tranh chấp trên Biển Đông được các đại biểu quốc hội Việt Nam đưa ra nghị trường hồi cuối năm 2019.

Trong phiên họp Quốc hội sáng 31/10/2019, đại biểu Nguyễn Lân Hiếu cho rằng cần đưa Trung Quốc ra tòa quốc tế liên quan tới việc nước này xâm phạm bãi Tư Chính của Việt Nam và nhiều hoạt động xâm phạm chủ quyền khác.

Phát biểu của ông Dương Trung Quốc trước Quốc hội sáng cùng ngày được cho là 'thẳng thắn' khi ông đặt câu hỏi "sao báo cáo trước Quốc hội lại né tránh gọi tên Trung Quốc ?"

Sau đó, vào ngày 06/11/2019, tại một hội nghị ở Hà Nội, Thứ trưởng Ngoại giao Lê Hoài Trung nói Việt Nam sẽ ưu tiên chọn đàm phán, nhưng nếu đàm phán không mang lại kết quả, thì Việt Nam bắt buộc phải cân nhắc "những sự lựa chọn khác".

Ông Trung nói : "Chúng tôi hiểu rằng các biện pháp đó gồm tìm hiểu các tài liệu chứng minh, nhờ hòa giải, hàn gắn, thương thuyết, trọng tài và cả kiện tụng", theo tường thuật của Reuters.

Vào tháng 1/2020, Bộ Quốc phòng Việt Nam trong văn bản trả lời kiến nghị của cử tri Đà Nẵng về vấn đề Trung Quốc trên Biển Đông, đã nêu rõ "cần tích cực chuẩn bị, thu thập tài liệu, chuẩn bị sẵn hồ sơ đấu tranh pháp lý đưa ra quốc tế vào thời điểm phù hợp".

Quan điểm kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế cũng được nhiều chuyên gia về Biển Đông của Việt Nam ủng hộ. Trao đổi BBC tiếng Việt hồi cuối năm 2019, ông Hoàng Việt, giảng viên ĐH Luật TP Hồ Chí Minh, nhà nghiên cứu luật Quốc tế, nói Việt Nam đã khá chậm trong việc phản ứng lại hành động của Trung Quốc trong vụ Bãi Tư Chính.

Ông Hoàng Việt cho rằng nếu không ngay lập tức có các giải pháp tức thì để tranh thủ ủng hộ của thế giới, trong đó có việc kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế, thì hậu quả có thể khó lường.

Nguồn : BBC, 17/06/2020

Published in Diễn đàn

Lần đầu tiên trong 3 năm trở lại đây, ba nhóm tác chiến tàu sân bay Mỹ cùng lúc tuần tra ở Thái Bình Dương. Cùng với đó là oanh tạc cơ B-1B và máy bay trinh sát không người lái Global Hawk cũng được huy động để làm nhiệm vụ trong khu vực. Sự xuất hiện của dàn lực lượng hùng hậu cả không quân và hải quân Mỹ mang tính chất răn đe đã làm Trung Quốc vô cùng tức tối.

my1

Tàu sân bay Mỹ USS Theodore Roosevelt rời đảo Guam ngày 04/6 sau khi kiểm soát được dịch bệnh Covid-19

Hải quân Mỹ công bố hai chiếc tàu sân bay USS Ronald Reagan và USS Theodore Roosevelt đang tuần tra ở vùng biển miền tây Thái Bình Dương, trong lúc chiếc USS Nimitz cùng với hải đội hộ tống - rời cảng San Diego ở California ngày 08/06 và đã có mặt ở phía đông.

Ý định phô trương uy lực của Hải quân Mỹ được thấy rõ qua việc Bộ Quốc phòng không ngần ngại công bố hình ảnh về hoạt động của các nhóm tàu sân bay. Mạng Twitter của Hải Quân Mỹ đã liên tục đưa tin và đăng ảnh về các cuộc tập huấn của hai chiếc Theodore Roosevelt và Ronald Reagan trên Biển Philippines. Bộ Quốc Phòng Mỹ cũng công bố hình ảnh về hoạt động của tàu sân bay Nimitz ở Thái Bình Dương.

Như vậy 3 trong tổng số 7 hàng không mẫu hạm đang hoạt động của Mỹ hiện tập trung ở Thái Bình Dương. 4 chiếc còn lại đang cập cảng để bảo dưỡng.

Thực tế, tàu Roosevelt mới trở lại hoạt động từ ngày 04/6 sau khi trải qua nhiều tuần lễ neo tại cảng ở đảo Guam do virus corona chủng mới lây lan trên tàu trong tháng 3, khiến hơn 1.000 trong tổng số 4.900 thành viên thủy thủ đoàn nhiễm bệnh. Carlos Sardiello, hạm trưởng tàu USS Theodore Roosevelt, nói trong một tuyên bố :

"Chúng tôi đã cho tàu Theodore Roosevelt trở lại hoạt động trên biển như một biểu tượng của hy vọng và cảm hứng, cũng là cơ sở sức mạnh quốc gia".

Tàu Reagan đã trở lại hoạt động từ cuối tháng 5, sau khi các thành viên thủy thủ đoàn bị đặt trong diện hạn chế đi lại tại cảng nhà ở Nhật Bản để đảm bảo không còn ca nhiễm Covid-19.

Số lượng hàng không mẫu hạm Mỹ cùng hiện diện ở một khu vực nhất định luôn bị giới hạn, do các tàu được luân phiên bảo dưỡng, huấn luyện hoặc tuần tra ở những vùng biển khác nhau.

Việc triển khai cùng lúc ba nhóm tác chiến tàu sân bay Mỹ tại Châu Á - Thái Bình Dương được coi là động thái bất thường. Giới chuyên gia cho rằng nó thể hiện thông điệp răn đe được Washington gửi tới Bắc Kinh trong bối cảnh căng thẳng Mỹ - Trung gia tăng xung quanh nguồn gốc của virus gây đại dịch cũng như cách ứng phó Covid-19 của Bắc Kinh, việc Quốc hội Trung Quốc thông qua dự luật an ninh Hồng Kông và các động thái quân sự hóa đảo nhân tạo Trung Quốc bồi đắp trái phép trên Biển Đông..

Chuẩn Đô đốc Stephen Koehler, chỉ huy chiến dịch thuộc Bộ Tư lệnh Ấn Độ - Thái Bình Dương của Mỹ ở Hawaii, nói :

"Các tàu sân bay cùng các nhóm tác chiến tàu sân bay rõ ràng là một biểu tượng cho sức mạnh hải quân Mỹ. Tôi thực sự hào hứng khi chúng tôi đang có ba chiếc ở thời điểm hiện tại".

Dù không nói rõ mục tiêu của việc triển khai, nhưng Chuẩn Đô đốc Koehler ghi nhận tình trạng Trung Quốc đang quân sự hóa các thực thể trên Biển Đông, bố trí trên đó các tên lửa và hệ thống tác chiến điện tử, trong bối cảnh các hoạt động của Mỹ cùng các đồng minh và đối tác có dấu hiệu chưa ngăn chặn được tham vọng của Bắc Kinh.

Không chỉ nhằm phô diễn sức mạnh của quân đội Mỹ và răn đe Trung Quốc, Mỹ còn muốn phá vỡ hoàn toàn luận điệu xuyên tạc của Bắc Kinh gần đây khi tuyên truyền rằng Hải quân Mỹ đã bị virus corona đánh gục.

Chuyên gia Collin Koh, thuộc Viện Nghiên Cứu Quốc Phòng và Chiến Lược tại Singapore, nhận định : Sự hiện diện các tàu sân bay Mỹ trên biển Châu Á đã "đi ngược lại với điều mà Trung Quốc mô tả là Mỹ bị áp lực khó khăn ở Thái Bình Dương".

Bonnie Glaser, Giám đốc Dự án Sức mạnh Trung Quốc ở Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) có trụ sở tại Mỹ, nhận định :

"Truyền thông Trung Quốc cho rằng khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội Mỹ đang suy giảm mạnh vì Covid-19. Dường như đợt triển khai này là thông điệp của Mỹ nhằm cảnh báo Trung Quốc đừng tính toán sai lầm".

Với việc mỗi tàu mang theo hơn 60 máy bay thì đây là đợt triển khai hàng không mẫu hạm lớn nhất mà Mỹ thực hiện ở Thái Bình Dương kể từ năm 2017 - thời điểm căng thẳng với Triều Tiên do vấn đề hạt nhân.

Cách đây 3 năm, Hải quân Mỹ đã triển khai đồng thời ba hàng không mẫu hạm tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương trong bối cảnh Tổng thống Mỹ Donald Trump thực hiện chuyến thăm Đông Bắc Á và Đông Nam Á vào thượng tuần tháng 11/2017 với hồ sơ hạt nhân và tên lửa Bắc Triều Tiên nổi bật trong chương trình nghị sự. Hành động phô trương uy lực này được coi là một lời cảnh báo mạnh mẽ của Washington nhắm vào Bình Nhưỡng.

Bình luận về việc phô trương uy lực lần này, Chuẩn đô đốc Koehler cho biết hàng chục tàu chiến đã làm nhiệm vụ trên Thái Bình Dương từ lâu, nhưng việc triển khai đồng thời ba nhóm tác chiến tàu sân bay sẽ nhấn mạnh cam kết của Washington với khu vực. Ông nói :

"Khả năng hiện diện quân sự một cách mạnh mẽ là một phần của cuộc cạnh tranh. Tôi luôn nói với cấp dưới của mình rằng các bạn phải hiện diện để chiến thắng khi các bạn đang ở trong một cuộc tranh đua".

Quan chức Hải quân Mỹ cho rằng Mỹ sẽ không duy trì hiện diện cùng lúc của ba tàu sân bay ở Châu Á - Thái Bình Dương trong dài hạn, nhưng điều này cho thấy năng lực của Washington. "Đó là điều chúng tôi có thể làm nếu muốn", ông nói thêm.

Mỹ không chỉ gây sức ép với Trung Quốc ở trên biển mà còn gia tăng thị uy trên không bằng cách cho oanh tạc cơ hiện đại B-1B Lancer và trinh sát cơ không người lái Global Hawk RQ-4 đến hoạt động ở Biển Đông và các khu vực khác tại Thái Bình Dương.

my2

Trinh sát cơ không người lái RQ-4 Global Hawk hạ cánh xuống căn cứ Yokota, Nhật Bản, ngày 30/5

Theo tin được kênh truyền hình Mỹ Fox News tiết lộ hôm 10/06 vừa qua, Không quân Mỹ đã xác nhận việc sử dụng một phi đội máy bay ném bom B-1B trú đóng trên đảo Guam để hỗ trợ cho Bộ Tư lệnh Ấn Độ - Thái Bình Dương, trong các nhiệm vụ trên Biển Đông.

Bên cạnh đó, phi cơ do thám hiện đại không người lái Global Hawk RQ-4 cũng được vận chuyển tới căn cứ không quân Yokota tại Nhật Bản nhằm tăng cường hơn nữa hoạt động của Mỹ trong khu vực.

Theo các chuyên gia, quân đội Mỹ đã tăng cường hoạt động trong khu vực để sẵn sàng đối phó với các động thái của Trung Quốc ở cả Biển Đông lẫn vùng eo biển Đài Loan, nơi đồng minh của Mỹ đang gặp sức ép nặng nề từ Bắc Kinh.

Tuần trước, một chiếc máy bay vận tải C-40 của hải quân Mỹ đã bay qua đảo Đài Loan để tới Thái Lan, được hải quân Mỹ mô tả như một chuyến bay logistics thường lệ. Chiếc máy bay này được điều hướng bay qua Đài Loan bởi trạm điều khiển không lưu của Đài Loan.

Vào ngày 4/6, hải quân Mỹ cũng đã cử một tàu khu trục tên lửa dẫn đường băng qua eo biển Đài Loan, ngăn cách hòn đảo này với Trung Quốc đại lục.

Trung Quốc chắc chắn không thể im lặng trước màn phô diễn sức mạnh hoành tráng của Mỹ.

Hôm chủ nhật vừa qua, tờ Thời báo Hoàn cầu - cơ quan ngôn luận của Đảng cộng sản Trung Quốc - nói rằng các tàu sân bay trên của Mỹ có thể đe dọa các binh sĩ của họ ở Biển Đông.

Thời báo Hoàn cầu dẫn lời của Lý Kiệt (Li Jie), chuyên gia hàng hải ở Bắc Kinh cho rằng :

"Bằng việc tập hợp các tàu sân bay này, Mỹ đang cố thể hiện trước khu vực và thậm chí cả thế giới rằng họ vẫn duy trì lực lượng hải quân mạnh nhất, và họ có thể đi vào Biển Đông và đe dọa binh sĩ Trung Quốc ở Tây Sa và Nam Sa (quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam), cùng lúc cho tàu thuyền bằng qua các vùng biển lân cận để Mỹ có thể thực hiện chính sách bá quyền".

Bài viết trên cũng được đăng tải trên website bản tiếng Anh của quân đội Trung Quốc đồng thời nhấn mạnh về các loại vũ khí mà quân đội nước này sẵn có và cho biết Bắc Kinh có thể tổ chức các cuộc tập trận để đáp trả phía Mỹ và phô diễn sức mạnh quân sự.

Bài viết có đoạn : "Trung Quốc sở hữu nhiều vũ khí diệt hàng không mẫu hạm như tên lửa đạn đạo chống hạm DF-21D và DF-26".

Theo ông Trương Tuấn Xã (Zhang Junshe), một nhà nghiên cứu cấp cao tại Viện Nghiên cứu quân sự hải quân Trung Quốc, lần gần nhất hải quân Mỹ đưa cả 3 nhóm tàu sân bay tới Tây Thái Bình Dương là vào năm 2017. Dù hoạt động điều động này mang tính bất thường, nhưng nó không phải là chưa từng xảy ra nên cũng không thể gọi là diễn biến hoàn toàn mới.

Đáng nói, theo ông Trương, sự xuất hiện cùng lúc của 3 nhóm tác chiến tàu sân bay đang chứng tỏ Mỹ mất đi sự tự tin. Chuyên gia Trung Quốc cho rằng, dường như Mỹ lo ngại thế giới nghi ngờ về năng lực quân sự. Do đó, hải quân Mỹ quyết định điều động cùng lúc các nhóm tàu sân bay tới Tây Thái Bình Dương để phô trương sức mạnh, đồng thời khẳng định với các quốc gia khác rằng, năng lực chiến đấu của hải quân Mỹ không hề bị ảnh hưởng từ dịch Covid-19.

Song ông Trương cho rằng trên thực tế, năng lực chiến đấu của các tàu sân bay Mỹ đang bị ảnh hưởng từ dịch bệnh. Bởi một số binh sĩ mắc Covid-19 vẫn chưa hoàn toàn hồi phục và chưa thể trở lại vị trí làm việc trên tàu. Theo đó, chuyên gia Trung Quốc nhận định Mỹ chỉ đang tâng bốc về sức mạnh hải quân. Nói cách khác, việc điều động các nhóm tác chiến tàu sân bay tới Tây Thái Bình Dương là không thật sự cần thiết, trong bối cảnh Mỹ vẫn đang gồng mình chống chọi với dịch Covid-19. Ngoài ra, Mỹ cũng phớt lờ việc công bố mức độ ảnh hưởng của dịch bệnh với lực lượng hải quân. Không loại trừ hoạt động triển khai cùng lúc 3 nhóm tác chiến tàu sân bay dường như chỉ là đảm bảo vị thế an ninh của Mỹ trước hai đối thủ là Nga và Trung Quốc.

Cũng theo ông Trương, khi mà Mỹ đang tìm mọi cách để khôi phục nền kinh tế bị tác động tiêu cực từ dịch bệnh, quân đội trở thành trụ cột để Mỹ cạnh tranh với các quốc gia khác.

Còn theo ông Ngụy Đông Húc (Wei Dongxu), một nhà phân tích quân sự ở Bắc Kinh, cả 3 nhóm tác chiến tàu sân bay Mỹ được điều động tới khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương đều không xuất hiện gần Trung Quốc bởi hành động này có thể gửi đi tín hiệu cực kỳ nguy hiểm và làm khuấy động căng thẳng trong khu vực.

Tuy nhiên, ông Ngụy cũng đặt ra khả năng hải quân Mỹ có thể điều một nhóm tác chiến tàu sân bay hoạt động gần Trung Quốc. Cụ thể, một nhóm tác chiến tàu sân bay sẽ có mặt gần Trung Quốc, trong khi hai nhóm còn lại có thể hoạt động ở những vùng lân cận. Thông qua đó, Mỹ có thể để các nhóm tàu sân bay thường xuyên hiện diện gần cửa ngõ của Trung Quốc.

Cũng theo ông Ngụy, phi đội máy bay hoạt động trên các nhóm tác chiến tàu sân bay Mỹ hiện giữ vai trò ngăn chặn. Nói cách khác, Mỹ sẽ để các nhóm tàu sân bay hoạt động ở xa, trong khi sử dụng các tiêm kích đa nhiệm Boeing F/A-18E/F Super Hornet hay tiêm kích tàng hình F-35C để phô trương sức mạnh.

Do đó, để đối phó với Mỹ, Trung Quốc có thể phát triển các hệ thống cảnh báo tích hợp cả trên không, trên biển và trên đất liền. Điển hình, Trung Quốc có thể sử dụng các máy bay kiểm soát và cảnh báo sớm làm nhiệm vụ tuần tra. Khi phát hiện hành động khiêu khích từ Mỹ hoặc các tiêm kích Mỹ lại gần không phận Trung Quốc, quân đội Trung Quốc có thể điều động thêm các chiến đấu cơ hiện đại lên đường đánh chặn.

Tuy nhiên, việc Mỹ sử dụng thêm các tiêm kích tàng hình F-35C là không thể loại bỏ. Do đó, Trung Quốc sẽ cần các công nghệ hiện đại hơn để phát hiện và theo dõi như radar chống tàng hình. Ngoài ra, Trung Quốc cũng đang sở hữu hàng loạt vũ khí được cho là "sát thủ diệt tàu sân bay" như tên lửa đạn đạo chống hạm DF-21D và DF-26.

Trung Kiên

Nguồn : Thoibao.de, 19/06/2020

Published in Diễn đàn

Tàu khảo sát của Trung Quốc lại xâm nhập vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam RFI, 17/06/2020)

Một tàu khảo sát của Trung Quốc lại xâm nhập vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, một hành động có thể gây thêm căng thẳng trên vùng Biển Đông đang tranh chấp.

anhchi8

Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef), nơi Trung Quốc xây dựng ồ ạt, mở rộng diện tích khoảng 110 ngàn mét vuông, Biển Đông. Ảnh vệ tinh của AMTI. WESTCOM/AFP/File

Hãng tin Mỹ BenarNews hôm 17/06/2020 cho biết, theo các dữ liệu định vị, tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 4 của Trung Quốc đã vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam từ Chủ nhật 14/06/2020 và đến hôm qua, chỉ cách đảo Phú Quý khoảng 182 hải lý và cách bờ biển Việt Nam 200 hải lý.

Hiện giờ chưa rõ tàu Hải Dương 4 được điều đến đây nhằm mục đích gì. Bắc Kinh chưa có thông báo, và phía Hà Nội cũng chưa lên tiếng về vụ xâm nhập này. Trung Quốc vẫn thường xuyên đưa tàu khảo sát vào vùng biển của các nước khác để khẳng định điều mà họ gọi là quyền khảo sát tài nguyên ở Biển Đông.

Theo phỏng đoán của BenarNews, việc tàu Hải Dương 4 xâm nhập vùng biển Việt Nam cũng có thể liên quan đến các hoạt động thăm dò dầu khí của Việt Nam với các đối tác quốc tế tại khu vực này.

Tháng 7/2019, Trung Quốc đã từng điều tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8, với sự hộ tống của các tàu hải cảnh, vào khu vực Bãi Tư Chính, nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, quấy nhiễu hoạt động thăm dò dầu khí của Việt Nam với một công ty dầu khí của Nga.

Lần này, theo các dữ liệu định vị, dường như tàu Hải Dương Địa Chất 4 không đi cùng với các tàu hải cảnh vào vùng biển Việt Nam, tuy rằng tàu Hải Cảnh (Haijing) 5202 được nhìn thấy đang đậu ở Đá Chữ Thập gần đó.

Trong những tuần qua, quan hệ Việt - Trung lại nóng lên do tình hình Biển Đông. Vào tuần trước, Hà Nội đã phản đối việc Trung Quốc lắp đặt cáp ngầm tại khu vực quần đảo Hoàng Sa. Theo các chuyên gia được BenarNews trích dẫn, hệ thống cáp được dùng vào mục đích quân sự. Cũng vào tuần trước, Hà Nội tố cáo tàu Trung Quốc lại đâm vào một tàu cá Việt Nam tại khu vực đảo Lin Côn ở quần đảo Hoàng Sa.

Trong khi đó, theo tờ South China Morning Post hôm qua, trích dẫn một nguồn tin trong giới quân sự Trung Quốc, tàu của hải quân Mỹ và hải quân Trung Quốc đã suýt đụng nhau trên vùng Biển Đông vào tháng Tư năm 2020, khi chỉ cách nhau có 100 mét. Nhưng nguồn tin này không nói rõ đó là những chiến hạm nào.

Thanh Phương

********************

Trung Quốc bắn tiếng dọa Việt Nam nếu kiện về Biển Đông và sách lược của Hà Nội ! (RFA, 16/06/2020)

Tiến sĩ Ngô Sĩ Tồn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nam Hải của Trung Quốc, hôm 12/6/2020, trong bài viết cho chương trình ‘Sáng kiến Tìm hiểu Tình hình Chiến lược Nam Hải’ cho rằng nếu Việt Nam khởi kiện, Việt Nam sẽ làm giống như Philippines. Nhưng ông đe dọa, nếu Việt Nam chọn khởi kiện Trung Quốc, đó sẽ là việc làm ‘không khôn ngoan’ và Việt Nam ‘sẽ phải trả giá đắt’ cho những biện pháp đáp trả từ phía Trung Quốc.

anhchi1

Ảnh minh họa : Tàu đánh cá của Việt Nam ở biển Đông bị tàu Hải cảnh phun nước trước đây. AFP

Ông Ngô Sĩ Tồn đưa ra lời đe dọa Việt Nam chỉ hai ngày sau khi một tàu Hải cảnh Trung Quốc hôm 10/6 đã đâm suýt chìm một tàu cá Việt Nam, trong vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa có tranh chấp. Không những đâm nhiều lần, khiến tàu cá QNg 96416 của Việt Nam hư hỏng, lật nghiêng. Tàu Trung Quốc số hiệu 4006 còn đè ở phía sau buộc 15 thuyền viên nhảy xuống biển thoát thân.

Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu cao cấp thuộc viện Nghiên cứu Đông Nam Á - ISEAS ở Singapore, khi trao đổi với Đài Á Châu Tự Do hôm 16/6/2020 liên quan lời đe dọa của Trung Quốc, nhận định:

"Việc đảng cộng sản Trung Quốc dùng một học giả để dọa người Việt Nam, là việc không hay ho gì. Nếu Bộ Ngoại giao hay Bộ Quốc phòng Trung Quốc mà dọa như thế, thì Việt Nam mới có ý kiến, chứ đây lại dùng một học giả, kể cả ông Tồn ấy có là Viện trưởng của Viện Nghiên cứu Nam Hải của Trung Quốc, cho nên Việt Nam không chấp.

Theo Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, cho dù là phía chính phủ Trung Quốc có chính thức đưa ra lời đe dọa đối với Việt Nam, thì Bắc Kinh cũng không làm gì được Việt Nam, nếu Việt Nam kiện họ. Ông nói tiếp:

"Cái họ có thể làm là họ rút không đàm phán C.O.C. với ASEAN nữa, thì cũng chả sao. Thứ hai, cái hại nhất đối với Trung Quốc khi Việt Nam kiện họ ra tòa án quốc tế, và cái phán quyết khả năng lớn là thuận lợi cho Việt Nam, giống như trường hợp Philippines thì Trung Quốc sẽ bị dư luận quốc tế lên án, vì là một nước lớn mà không tuân thủ luật pháp quốc tế. Đấy là cái hại lớn nhất, chứ Trung Quốc mà có làm hại gì Việt Nam thì cũng chỉ là các trừng phạt kinh tế, và các sự làm mình làm mẩy về chính trị thì cũng chả đi đến đâu cả. Bởi vì hai nước đều rất kiên quyết trong bảo vệ chủ quyền của mình".

Viện trưởng Ngô Sĩ Tồn, trong bài viết của mình nêu rõ, nếu Việt Nam liều lĩnh dám nộp đơn kiện ra tòa trọng tài, ông tin rằng Trung Quốc sẽ không ‘ngồi yên’. Theo ông, Trung Quốc có thể hành động cứng rắn hơn và trấn áp ngư dân Việt Nam mạnh hơn khi đánh bắt cá, mà Bắc Kinh cho là "bất hợp pháp" tại vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa, mà Trung Quốc đặt tên là Tây Sa.

Trung Quốc và Việt Nam đều tuyên bố chủ quyền về Hoàng Sa, nhưng trên thực tế Trung Quốc giành quyền kiểm soát hầu hết quần đảo này từ tay Việt Nam Cộng Hòa kể từ đầu năm 1974. Chính quyền Việt Nam hiện nay không nắm giữ thực thể nào ở đó.

anhchi2

Tàu QNg 90617 TS bị đâm chìm ở Hoàng Sa. Nguồn : Ngư dân chụp

Không chỉ đe dọa ngư dân Việt Nam, học giả Trung Quốc này còn cho rằng Trung Quốc có thể đáp trả bằng cách công bố đường cơ sở thể hiện lãnh hải của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa, mà họ gọi là Nam Sa.

Cho đến ngày 16/6/2020, phía Việt Nam chưa đưa ra phản ứng gì trước lời đe dọa của Viện trưởng Ngô Sĩ Tồn.

Trước tình hình thực tế hiện nay ở Biển Đông, liệu chính phủ Việt Nam có kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế về vấn đề tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông ?

Trả lời Đài Á Châu Tự Do hôm 16/6/2020 liên quan vấn đề này, Nhà nghiên cứu Biển Đông Đinh Kim Phúc, nói :

"Muốn trả lời câu hỏi này phải xét qua nhiều giai đoạn, ví dụ như khi Việt Nam ngả hẳn về phía Liên Xô, thì Trung Quốc bắt đầu tỏ thái độ với Việt Nam, và cuối cùng là cuộc chiến tranh năm 1979 đã cắt đứt quan hệ Việt - Trung và đến 10 năm sau mới trở lại bình thường hóa quan hệ. Nhưng ngày càng có sự bất bình đẳng trong mối quan hệ này, Việt Nam đã lệ thuộc quá nhiều về kinh tế đối với Trung Quốc, ví dụ trong các ngành dệt may da giày thì 80% nguyên phụ liệu phải nhập từ Trung Quốc. Chúng ta phải đặt vấn đề đó để hiểu về sự ức hiếp của Trung Quốc trong 10 năm qua, kể từ khi sự kiện Tam Sa 2007, thì Việt Nam có khởi kiện hay không ?"

"Vấn đề kiện chủ quyền là một vấn đề rất khó, nếu Trung Quốc không đáp ứng yêu cầu của Tòa quốc tế, là ra hầu tòa... Và khi kiện thì Việt Nam có chắc thắng hay không, khi Việt Nam luôn chứng tỏ mình có đầy đủ bằng chứng pháp lý, nhưng những bằng chứng pháp lý chính trị quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, thì chúng ta đã giải mã chưa ? Tôi nghĩ, kiện về mặt chủ quyền không có khả năng xảy ra".

Vì vậy theo nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc, ở đây Việt Nam chỉ có thể là sẽ tranh thủ công ước quốc tế về luật biển của Liên Hợp Quốc năm 1982, để yêu cầu các Tòa trọng tài được thành lập theo phụ lục 7, giải thích những vấn đề của luật biển và Việt Nam có trách nhiệm, có nghĩa vụ và có quyền lợi liên quan. Nhưng vấn đề này Philippines đã thực hiện, tòa đã phán quyết, và Trung Quốc thì vẫn làm ngơ. Ông nói tiếp :

"Do đó nếu Việt Nam muốn tìm một hình thức khác, thì tôi nghĩ rằng Việt Nam sẽ bắt tay với một số nước ở Đông Nam Á mà có chung quyền lợi với Việt Nam trên biển Đông, để yêu cầu Ủy ban ranh giới thềm lục địa của Liên Hợp Quốc, trả lời các bộ hồ sơ của Việt Nam đã gởi cho Ủy ban này, về việc mở rộng vùng đặc quyền kinh tế của mình ra 350 hải lý và một số vấn đề có tính kỹ thuật đối với luật biển…".

Nhà nghiên cứu Biển Đông Đinh Kim Phúc cho rằng, cửa thắng của Việt Nam trong cách đi này, nhiều hơn là chính thức đưa một vụ kiện về tranh chấp Biển Đông ra tòa án quốc tế. Ông cho biết thêm :

"Cái thứ hai nữa, khi Việt Nam khởi động cùng một số nước Đông Nam Á, thì Việt Nam cũng tránh được tạo cho Trung Quốc một cái cớ có thể trả đũa về mặt kinh tế hay có thể nổ súng trên biển Đông và làm những cái trò có thể gây khó khăn cho Việt Nam. Vì hiện nay kinh tế Việt Nam đang thuộc về nghèo và đang vướng rất nhiều các vấn đề trong quốc tế và nội trị, thì tôi nghĩ rằng một vụ kiện chính thức sẽ không có lợi cho Việt Nam".

Trong các năm gần đây, Trung Quốc đã nhiều lần gây hấn, đâm chìm hoặc bắt giữ, phạt tiền các tàu các Việt Nam ở Biển Đông.

Đặc biệt, trong hơn năm tháng đầu năm 2020, Trung Quốc tiếp tục đẩy mạnh những hành động khiêu khích nhằm áp đặt chủ quyền của họ ở Biển Đông, khiến tình hình tại vùng biển đang tranh chấp này thêm căng thẳng. Mới nhất nhất là vụ đâm tàu cá Việt Nam hôm 10/6/2020.

Trước đó, truyền thông Trung Quốc vào ngày 5/3/2020 còn đồng loạt đăng Báo cáo của Viện Sáng kiến Nghiên cứu Tình hình Chiến lược Biển Đông (SCSPI) nói rằng có tổng cộng 311 tàu cá Việt Nam đã xâm nhập vào khu vực nội địa gần đảo Hải Nam, lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc vào tháng 2, với mục đích đánh bắt cá và làm gián điệp bất hợp pháp.

Vào ngày 18/04/2020, Trung Quốc thông báo thành lập hai quận thuộc "thành phố Tam Sa", đó là "quận Tây Sa" (tức quần đảo Hoàng Sa) và "quận Nam Sa" (tức quần đảo Trường Sa), hai quần đảo mà Hà Nội khẳng định là thuộc chủ quyền của Việt Nam.

*********************

Sau vụ đâm tàu ở Hoàng Sa, viện trưởng Trung Quốc nói Việt Nam ‘trả giá đắt’ nếu kiện về Biển Đông (VOA, 15/06/2020)

Một tàu Hi cnh Trung Quc đâm và suýt làm chìm mt tàu cá Vit Nam hôm 10/6 trong vùng qun đo Hoàng Sa có tranh chp, dn đến phn đi t Hi Ngh cá Vit Nam.

anhchi3

Các tàu chấp pháp ca Vit Nam và Trung Quc tng đi đu quyết lit hi gia năm 2014

Chỉ hai ngày sau v vic, vin trưởng mt vin nghiên cu ca Trung Quc v Bin Đông viết cho một d án nghiên cu thuc Đi hc Bc Kinh rng s có nhng hu qu nếu Vit Nam dn ti trong vic kin v Bin Đông ti tòa trng tài quc tế.

Hội ngh cá lên án, phn đi

Các báo Việt Nam hôm 14/6 dn li B Ngoi giao ti Hà Ni cho hay mt tàu st và một ca nô Trung Quc đâm, va vào mt tàu cá ca tnh Qung Ngãi, Vit Nam, vào ngày 10/6, gn đo Linh Côn, thuc qun đo Hoàng Sa.

Tàu cá Việt Nam "có nguy cơ b chìm" và 16 thuyn viên ca tàu b rơi xung bin vì các cú đâm t tàu Trung Quc, theo tường thut ca VnExpress, Tui Tr, Sc Khe và Đi Sng.

Riêng báo Sức Khe và Đi Sng nêu c th là "lc lượng Hi cnh Trung Quc" đã "đâm húc, cướp phá tài sn tàu cá ca ngư dân Qung Ngãi", gây thit hi khong 500 triu đng.

VnExpress và Tuổi Trẻ cho biết rng ngay trong cùng ngày xy ra v vic, hai đơn v thuc B Ngoi giao Vit Nam là Cc Lãnh s và Đi s quán Bc Kinh đã "trao đi" vi phía Trung Quc, "khng đnh ch quyn" ca Vit Nam vi qun đo Hoàng Sa, "yêu cu" phía Trung Quc điều tra, xác minh thông tin s vic và thông báo kết qu cho Vit Nam đ tiếp tc phi hp gii quyết.

Tin tức ca VnExpress và Tui Tr không cho biết B Ngoi giao Vit Nam có đưa ra li lên án hay phn đi Trung Quc v v vic hay không.

Hai cơ quan báo chí này tường thut rng B Ngoi giao "đ ngh" các cơ quan chc năng Vit Nam "sm có các bin pháp giao thip cn thiết" vi phía Trung Quc nhm bo v quyn và li ích hp pháp ca ngư dân.

Ngày 12/6, tàu cá bị nn đã v đến Qung Ngãi, vn theo tin của VnExpress và Tui Tr.

Trong khi đó, tin của Sc Khe và Đi Sng nói hôm 13/6 rng Hi Ngh cá Vit Nam "lên án và phn đi hành đng vô nhân đo" nêu trên ca Trung Quc.

Hội này cũng "đ ngh" các cơ quan chc năng ca Vit Nam "phn đi kch lit" với phía Trung Quc đ chm dt ngay nhng hành đng cn tr, tn công như k trên ti vùng bin thuc ch quyn Vit Nam, đng thi, "yêu cu" Trung Quc phi bi thường thit hi cho ngư dân Vit Nam.

anhchi4

Lính hải quân Trung Quc tun tra trên đo Phú Lâm thuc Hoàng Sa hi năm 2016

Cả Vit Nam ln Trung Quc đu tuyên b ch quyn v Hoàng Sa, song trên thc tế, Trung Quc giành quyn kiểm soát hu hết qun đo này t tay Vit Nam Cng Hòa k t đu năm 1974. Nước Cng hòa Xã hi Ch nghĩa Vit Nam hin nay không nm gi thc th nào đó.

Hai ngày sau vụ tàu cá Vit Nam b tàu Hi cnh Trung Quc đâm, mt hc gi Trung Quc đưa ra nhn đnh hôm 12/6 rng Vit Nam có th nhn mt s hu qu nếu kin Trung Quc ra tòa trng tài quc tế v Bin Đông.

Theo tìm hiểu ca VOA, tiến sĩ Ngô Sĩ Tn, Viện trưởng Vin Nghiên cu Nam Hi Quc gia ca Trung Quc, nêu ra ý kiến trong bài viết cho chương trình "Sáng kiến Tìm hiu Tình hình Chiến lược Nam Hi" (tc Bin Đông), thuc Vin Nghiên cu Hi dương ti Đi hc Bc Kinh.

Việt Nam có đng lc nào đ khởi kin ?

Trong bài viết bng tiếng Anh có nhan đ "Liu Vit Nam có suy nghĩ k trước khi np đơn kin v Nam Hi (tc Bin Đông) ?", v Vin trưởng h Ngô đt gi thiết rng nếu Vit Nam khi kin, Vit Nam s làm ging như Philippines.

Hồi tháng 7/2016, sau khi xem xét đơn kin ca Manila chng li tuyên b ch quyn ca Trung Quc đi vi Bin Đông, mt tòa trng tài quc tế ra phán quyết ph nhn bn đ 9 đon ca Trung Quc Bin Đông.

Mặc dù phán quyết ca tòa trng tài không có cơ chế thc thi nào đi kèm, song nhiều chuyên gia pháp lý quc tế và Vit Nam vn xem đó là mt thng li lch s, không ch đi vi nguyên đơn là Philippines mà cho c các nước khác có tuyên b ch quyn ti Bin Đông, bao gm Vit Nam.

Tiến sĩ Ngô Sĩ Tn, v Vin trưởng ca Trung Quốc, cho rng có th có 4 lý do mà Vit Nam toan tính đ tiến ti khi kin Trung Quc, theo bài viết ca hc gi này mà VOA đc được.

Lý do thứ nht, theo ông Ngô, là Vit Nam có l mun biến vic chiếm gi các đo và rn san hô Trường Sa tr thành việc có tính vĩnh vin, và như vy s làm suy yếu ch quyn lãnh th và yêu sách v các quyn hàng hi ca Trung Quc.

Thứ hai, Vit Nam tin rng vic phân x qua tòa trng tài như vy s to cơ s cho vic chng li các hành đng ca Trung Quc, cũng như to cơ s cho cng đng quc tế tr giúp Vit Nam, Vin trưởng Ngô Sĩ Tn viết.

Lý do thứ ba là Vit Nam có th c làm xu đi hình nh Trung Quc, làm cho nước này b xem là "bt nt" nhng nước yếu hơn và không tôn trng lut pháp quc tế, nhm đưaTrung Quốc vào thế bt li. Theo hc gi h Ngô, tính toán này ca Vit Nam cũng phù hp vi cách tiếp cn chiến lược ca Hoa Kỳ trong vic kim chế Trung Quc.

Cuối cùng, có kh năng là Vit Nam hy vng kết qu tim tàng t phân x ca tòa trng tài s trì hoãn các cuộc đàm phán v B Quy tc ng x Bin Đông (COC), m ra nhiu cơ hi đ Vit Nam ti đa hóa li ích ca mình trong khu vc, tiến sĩ Ngô Sĩ Tn viết.

Tuy nhiên, học gi Trung Quc này cho rng nếu Vit Nam dn ti khi kin Trung Quc, đó sviệc làm "không khôn ngoan" và Vit Nam "s phi tr giá".

anhchi5

Một cuc biu tình ln Hà Nôi hi năm 2017 đánh du ngày Trung Quc chiếm Hoàng Sa vào năm 1974

Trung Quốc 'sẽ' cng rn Trường Sa, Bãi Tư Chính

"Nếu Vit Nam liu lĩnh dám np đơn kin ra tòa trng tài, tôi tin rng Trung Quc s không ngi yên", Vin trưởng Ngô viết.

Tiếp đến, hc gi này lit kê ra nhng đng thái đáp tr mà Trung Quc có th tiến hành, trong đó, hàng đu là Trung Quc có th công b đường cơ s th hin lãnh hi ca Trung Quc qun đo Trường Sa, mà h gi là Nam Sa.

Thứ hai, Trung Quc có th hành đng cng rn hơn và trn áp mnh hơn đi vi vic ngư dân Vit Nam đánh bt cá mà Bc Kinh gi là "bt hp pháp" ti vùng bin thuc quần đảo Hoàng Sa, mà Trung Quc đt tên là Tây Sa, vn theo li Vin trưởng Ngô S Tn.

Ngoài vụ đâm tàu mi nht xy ra hôm 10/6 nêu phn đu bn tin, Trung Quc đã nhiu ln đâm chìm hoc bt gi, pht tin các tàu các Vit Nam vùng bin này trong các năm gần đây.

Một bin pháp đáp tr na t phía Bc Kinh nếu Hà Ni khi kin, theo v tiến sĩ Trung Quc, là đt nước 1,4 t dân "có th kìm hãm và chn đng" quá trình quân s hóa ca Vit Nam trên các đo và các rn san hô nm trong tay Vit Nam.

Viện trưởng Ngô Sĩ Tn phác ha v mt s hành đng mang tính chiến thut như "chn đường và xua đui tàu Vit Nam đi vào vùng bin không được phép", làm đt ngun cung cp hu cn cho binh sĩ Vit Nam đn trú trên các đo và rn san hô. "Các bin pháp qun lý và kiểm soát hơn thế na s được thc hin nếu cn", tiến sĩ Ngô cnh báo.

Cuối cùng, v Vin trưởng ca Trung Quc nói nước ca ông ta có th khi s thăm dò du khí trong Bãi Tư Chính. "Nếu Vit Nam np đơn khi kin, Trung Quc có th nhân cơ hi này đi trực tiếp vào Bãi Tư Chính mà không chu bt kỳ trách nhim pháp lý nào đ khi đng vic thăm dò du khí … Đây s là mt bước đt phá đi vi Trung Quc, là hot đng thăm dò du khí đu tiên khu vc Nam Sa", tiến sĩ Ngô Sĩ Tn viết.

Kết lun bài viết, hc gi h Ngô khng đnh nếu chn con đường kin tng, Vit Nam s chng kiến quan h Vit-Trung b tht lùi và "tr giá đt" cho nhng bin pháp đáp tr t phía Trung Quc.

"Việt Nam nên nghĩ k trước khi np đơn kin", Vin trưởng Ngô Sĩ Tn nhn mnh.

Tham khảo vi gii nghiên cu, VOA được biết rng đt nước Trung Quc dưới quyn lãnh đo duy nht ca đng cng sn, quan đim ca mt vin trưởng như ông Ngô Sĩ Tn không th có s khác bit vi quan đim ca đng và nhà nước Trung Quc.

Ba ngày sau khi vị Vin trưởng ca Trung Quc nêu ra quan đim cha đng nhng ý t đe da, đến thi đim bài báo này ca VOA được đăng, phía Vit Nam vn chưa có phn ng chính thc nào.

**************************

Người Việt phản đối Đại sứ quán Trung Quốc lên án tàu Mỹ tới Biển Đông (VOA, 15/06/2020)

Nhiều người Vit mi lên tiếng phn đi thông tin đăng trên trang Facebook ca Đi s quán Trung Quc Hà Ni v vic tàu khu trc USS Mustin ca M đi vào Tây Sa (Hoàng Sa) khi "chưa được s cho phép ca chính ph Trung Quc".

anhchi6

Tàu khu trục USS Mustin bắn tên lửa trong một cuộc diễn tập ở Thái Bình Dươ n g.

Trong một tuyên b đăng tải trên mạng xã hi ln nht thế gii, cơ quan ngoi giao ca nước láng ging phương bc trích li ca Đi tá Lý Hoa Mn, người phát ngôn Chiến khu min Nam ca Quân đi Trung Quc, nói rng tàu chiến ca hi quân Hoa Kỳ đã có bước đi "phi pháp".

Trước đó, trang tin của Vin Hi quân M (USNI), mt din đàn đc lp, phi li nhun, dn li Hi quân Hoa Kỳ nói rng tàu khu trc USS Mustin mang tên la có điu hướng thuc lp Arleigh Burke hôm 28/5 đã băng ngang qua qun đo Hoàng Sa Bin Đông đ khng đnh quyền t do hàng hi.

Hai ngày sau đó, Đại s quán Trung Quc dn li ông Lý nói trên Facebook ca cơ quan ngoi giao này rng "hi quân và không quân Chiến khu min Nam [thuc] Quân gii phóng nhân dân Trung Quc đã giám sát, xác minh, đng thi cnh cáo và xua đuổi tàu trên trong toàn b hành trình".

"Hành động khiêu khích ca phía M đã vi phm nghiêm trng ch quyn và li ích an ninh ca Trung Quc, vi phạm nghiêm trng nhng nguyên tc liên quan ca Lut quc tế, phá hoi nng n s n đnh, hòa bình ca khu vc Nam Hi [Bin Đông], là hành vi bá quyn v hàng hi đy trng trn", người phát ngôn Chiến khu min Nam được dn li nói tiếp.

Tuyên bố ca phía Trung Quốc đã vp phi s phn đi ca các Facebooker người Vit vi hơn 380 bình lun, nhưng ch có khong gn 20 bình lun hin th phía bên dưới bài viết.

Một người tên Pham Hieu viết : "Vùng Biển đó không phải của Trung Quốc, xin người đừng nói lời dối gian. Người Trung Quốc làm điều ngược đạo thì phải có người Mỹ trng trị".

Facebooker Hoàng Long cùng quan điểm : "Thôi đi, đng tuyên truyn nhm, lãnh hi nào ca Trung Quc ?" Mt người Vit khác tên Huỳnh Đc Bình đt câu hi : "Thế lãnh hi Vit Nam ai đang đi vào". Theo quan sát ca VOA Vit Ng, ti ngày 14/6, Đi s quán Trung Quc không hi đáp trước câu hi này ca người Vit.

Một bình lun ca người có tên Vũ Thùy Dung nhn được nhiu s đng tình nht có ni dung : "Đó không phải là lãnh Hi ca các người. M không có quyn và các người cũng không có".

Theo USNI, phát ngôn viên của hi quân M nói rng vic vic tàu USS Mustin tiến gn ti qun đo Hoàng Sa đ "gi vng các quyn, quyn t do hàng hi và vic s dng hp pháp vùng biển được lut pháp quc tế công nhn bng cách thách thc các gii hn v qua li không gây hi (innocent passage) do Trung Quc, Đài Loan và Vit Nam áp đt, cũng như thách thc tuyên b ch quyn ca Trung Quc đi vi đường bin cơ s quanh quần đo Hoàng Sa".

Tới ngày 9/6, B Ngoi giao Vit Nam chưa có phát biu nào v tuyên b này ca phía M. Tháng Năm năm ngoái, phát ngôn viên B Ngoi giao Vit Nam lên tiếng ng h "quyn t do hàng hi" Bin Đông, ít ngày sau khi hai tàu chiến M áp sát khu vực thuc kim soát ca Trung Quc Trường Sa, vn khiến Bc Kinh gin d phn đi.

"Là một quc gia ven Bin Đông và là thành viên ca Công ước Liên Hp Quc v Lut bin 1982, Vit Nam cho rng tt c các quc gia được hưởng quyn t do hàng hi và hàng không, phù hp vi các quy đnh ca lut pháp quc tế, nht là Công ước Liên Hp Quc v Lut bin 1982", bà Lê Th Thu Hng nói ti cuc hp báo thường kỳ.

Ngoài vấn đ v tàu khu trc USS Mustin, đon thông tin trên trang Facebook ca Đi s quán Trung Quc Hà Ni còn ch trích cách Hoa Kỳ x lý dch Covid-19, nói không kèm theo dn chng rằng "nước M không đoái hoài đến an toàn tính mng ca dân chúng trong nước, không tp trung sc lc vào công tác phòng chng dch bnh ti nước mình, không làm điu có ích cho cuc chiến chng dch trên toàn thế gii, mà thay vào đó là điu tàu đến vùng biển Nam Hi [Bin Đông] diu võ dương oai, khiêu khích gây hn…".

Ngoại trưởng M Mike Pompeo hôm 6/6 ra thông cáo v "vic Đng cng sn Trung Quc nhn tâm li dng cái chết bi thm ca George Floyd đ bin minh cho s bác b đc đoán phm giá cơ bn của con người mt ln na cho thy bn cht tht s".

Tuyên bố ca ông Pompeo có đon đ cp ti đi dch Covid-19 : " Trung Quc, khi các bác sĩ và phóng viên cnh báo v các nguy cơ ca mt bnh dch mi, Đng Cng sn Trung Quc làm im tiếng và khiến h mất tích, và di trá v tng s người chết và quy mô đi dch.

"Tại M, chúng tôi coi trng mng sng và thiết lp h thng minh bch đ cha tr và h tr các gii pháp đi vi đi dch trên toàn cu hơn bt kỳ nước nào khác", ông Pompeo nói trong thông cáo.

********************

Tàu khảo sát của Trung Quốc lại vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (RFA, 16/06/2020)

Tàu khảo sát Hải Dương 4 của Trung Quốc đã vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, chỉ cách đảo Phú Quý khoảng 182 hải lý hôm thứ Ba, ngày 16 tháng Sáu.

anhchi7

Bản đồ cho thấy đường đi của tàu Hải Dương 4 so sánh với khoảng cách từ bờ biển của Việt Nam và lô dầu khí ở phía tây nam hôm 16/6/2020 - Planet Labs

Đài Á Châu Tự Do sử dụng hai phần mềm định vị xác định Hải Dương 4 đã tiến đến vùng biển của Việt Nam hôm 14/6 sau khi đi qua căn cứ quân sự của Trung Quốc ở Đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa. Dữ liệu định vị mới nhất vào sáng ngày 16/6 cho thấy tàu này nằm hoàn toàn trong vùng 200 hải lý từ bờ biển của Việt Nam.

Hiện không rõ nguyên nhân vì sao Trung Quốc điều tàu Hải Dương 4 vào vùng biển của Việt Nam vào lúc này. Chính phủ Trung Quốc và Việt Nam đều chưa lên tiếng gì về động thái này.

Tuy nhiên vào khoảng nửa cuối năm 2019, Trung Quốc đã từng điều tàu khảo sát Hải Dương 8 cùng các tàu hải cảnh vào quấy nhiễu hoạt động khai thác dầu khí của Việt Nam ở lô dầu khí 06 -01 trong liên doanh giữa Việt Nam với công ty Rosneft của Nga ở Bãi Tư Chính.

Lập trường của Trung Quốc là phản đối việc các quốc gia đòi chủ quyền ở khu vực Biển Đông hợp tác với các công ty quốc tế ngoài khu vực để khai thác dầu khí ở Biển Đông.

Theo các phần mềm theo dõi hàng hải, dường như Hải Dương 4 lần này không đi cùng với các tàu hải cảnh vào vùng biển Việt Nam. Chỉ có tàu hải cảnh Haijing 5202 hiện đang đậu ở Đá Chữ Thập gần đó.

Việc Hải Dương 4 lần này vào vùng biển Việt Nam cũng có thể liên quan đến các hoạt động khai thác dầu khí của Việt Nam với công ty Rosneft của Nga gần Bãi Tư Chính.

Truyền thông trong nước cho biết, giàn khoan dầu Clyde Boudraux của một công ty có trụ sở ở Anh theo dự định sẽ hoạt động trong khu vực này. Giàn khoan đã được kéo về cảng Vũng Tàu hôm 22/4 nhưng theo dữ liệu phần mềm định vị thì giàn khoan này vẫn chưa rời cảng.

Trung Quốc cũng đã từng đe dọa Việt Nam trong những hoạt động khoan thăm dò dầu khí trước đây với công ty Repsol của Tây Ban Nha hồi năm 2017 và 2018.

Hôm 13/6 vừa qua, công ty dầu khí Repsol của Tây Ban Nha đã chuyển nhượng các cổ phần của công ty này ở 3 lô dầu khí ngoài khơi phía đông nam Việt Nam cho PetroVietnam với lý do khó khăn do bị sức ép từ Trung Quốc hồi năm 2018.

Published in Châu Á

Biển Đông : Mỹ dùng chiến thuật "áp lực tối đa" đối với Trung Quốc

Mai Vân, RFI, 17/06/2020

Ba hàng không mẫu hạm Mỹ đồng thời tuần tra ở Châu Á, oanh tạc cơ B-1B được triển khai trên đảo Guam miền tây Thái Bình Dương, từ đó tiến hành các phi vụ trên Biển Đông, máy bay trinh sát không người lái Global Hawk cũng được đưa tới Nhật Bản để làm nhiệm vụ trong khu vực... 

bd1

Tàu sân bay Mỹ USS Nimitz trên Thái Bình Dương ngày 02/06/2020 USS Nimitz (CVN 68) - Seaman Keenan Daniels

Đối với giới phân tích, rất hiếm khi Hoa Kỳ tung một lực lượng hùng hậu như vậy đến vùng biển Châu Á, một quyết định gắn liền với việc Trung Quốc ngày càng gia tăng các hành động khống chế Biển Đông.

Trong một bài viết ngày 15/06/2020 mang tựa đề khá châm biếm : "Ba tàu sân bay Mỹ tuần tra cùng một lúc ở Thái Bình Dương. Và Trung Quốc không vui - Three US Navy aircraft carriers are patrolling the Pacific Ocean at the same time. And China's not happy", kênh truyền thông Mỹ CNN đã nêu bật phản ứng tức tối của Bắc Kinh trước hành động phô trương lực lượng để răn đe của Mỹ.

Ba hàng không mẫu hạm đồng thời hoạt động ở Thái Bình Dương

CNN trước hết xác nhận sự hiện diện đồng thời của ba hàng không mẫu hạm Mỹ trên vùng biển Thái Bình Dương, hai chiếc ở miền tây, chiếc còn lại đã tiến vào khu vực phía đông.

Trích dẫn các thông cáo báo chí do chính Hải Quân Mỹ công bố, CNN cho biết là hai chiếc tàu sân bay USS Ronald Reagan và USS Theodore Roosevelt đang tuần tra ở vùng biển miền tây Thái Bình Dương, trong lúc chiếc USS Nimitz cùng với hải đội hộ tống - rời cảng San Diego ở California ngày 08/06 - hiện đã có mặt ở phía đông.

Ý định phô trương uy lực của Hải Quân Mỹ được thấy rõ qua việc bộ Quốc Phòng không ngần ngại công bố hình ảnh về hoạt động của các nhóm tàu sân bay. Mạng Twitter của Hải Quân Mỹ đã liên tục đưa tin và đăng ảnh về các cuộc tập huấn của hai chiếc Theodore Roosevelt và Ronald Reagan trên Biển Philippines. Bộ Quốc Phòng Mỹ cũng công bố hình ảnh về hoạt động của tàu sân bay Nimitz ở Thái Bình Dương.

Theo CNN, với mỗi chiếc tàu chở theo hơn 60 chiến đấu cơ, đây là cuộc triển khai hàng không mẫu hạm lớn nhất ở vùng biển Châu Á từ năm 2017 đến nay. Năm 2017 là thời điểm căng thẳng với Bắc Triều Tiên về chương trình hạt nhân lên đỉnh cao.

Thông điệp "răn đe" gởi đến Bắc Kinh 

Ý nghĩa phô trương uy lực của việc triển khai đồng thời ba chiếc tàu sân bay, kèm theo toàn bộ các hải đội tác chiến hùng hậu đã được chính các lãnh đạo Hải Quân Mỹ nêu bật.

Trả lời hãng tin Mỹ AP ngày 12/06, chuẩn đô đốc Stephen Koehler, chỉ huy tác chiến Bộ Tư Lệnh Ấn Độ - Thái Bình Dương của Hải Quân Mỹ khẳng định : "Tàu sân bay và các nhóm tác chiến tàu sân bay là biểu tượng sức mạnh hải quân của Mỹ. Tôi rất mừng với việc triển khai đến ba chiếc vào lúc này".

Dù không nói rõ mục tiêu của việc triển khai, nhưng chuẩn đô đốc Koehler ghi nhận tình trạng Trung Quốc đang quân sự hóa các thực thể trên Biển Đông, bố trí trên đó các tên lửa và hệ thống tác chiến điện tử, trong bối cảnh các hoạt động của Mỹ cùng các đồng minh và đối tác có dấu hiệu chưa ngăn chặn được tham vọng của Bắc Kinh.

Giới phân tích thấy rằng qua việc triển khai đồng thời ba nhóm tàu sân bay đến Châu Á, Washington muốn gởi thông điệp răn đe đến Bắc Kinh.

Trả lời hãng AP, bà Bonnie Glaser, chủ nhiệm Dự Án Sức Mạnh Trung Quốc thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược và Quốc Tế (CSIS), trụ sở tại Mỹ, nhận định : "Truyền thông Trung Quốc cho rằng khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội Mỹ đang suy giảm mạnh vì dịch Covid-19, (do đó) đợt triển khai có dấu hiệu là thông điệp của Mỹ nhằm cảnh báo Trung Quốc đừng tính toán sai lầm".

Bắc Kinh tức tối buông lời đe dọa

Dẫu sao động thái cứng rắn rõ rệt của Mỹ đã làm dấy lên phản ứng bực tức từ phía Bắc Kinh, với các phương tiện truyền thông Trung Quốc đồng loạt lên tiếng đe dọa Hoa Kỳ.

Đi đầu trong việc hù dọa vẫn là tờ Hoàn Cầu Thời Báo tại Bắc Kinh. Theo CNN, hôm 14/06, tờ báo này tỏ ý lo ngại rằng các tàu sân bay Mỹ có thể là mối đe dọa đối với các đơn vị quân đội Trung Quốc đồn trú tại Biển Đông.

Trích dẫn một chuyên gia về hải quân ở Bắc Kinh, Hoàn Cầu Thời Báo tố cáo Mỹ "thực hiện chính sách bá quyền" khi đưa lực lượng hùng mạnh vào Biển Đông và đe dọa quân đội Trung Quốc ở những vùng mà Bắc Kinh gọi là Tây Sa và Nam Sa, tức là Hoàng Sa và Trường Sa.

Trang web tiếng Anh của quân đội Trung Quốc cũng có nhận định tương tư, và khẳng định Trung Quốc có thể tổ chức tập trận đáp trả để cho thấy hỏa lực của mình. Bài viết còn nêu rõ : "Trung Quốc cũng có tàu sân bay với vũ khí "sát thủ tàu sân bay’ như tên lửa đạn đạo chống hạm DF-21D và DF-26".

Tàu sân bay Mỹ không hề bị điêu đứng vì Covid-19

Theo giới quan sát, sở dĩ Bắc Kinh đã có phản ứng tức tối, đó là vì với việc triển khai nói trên, Mỹ đã phá vỡ hoàn toàn luận điệu xuyên tạc của Bắc Kinh gần đây theo đó Hải Quân Mỹ đã bị virus corona đánh gục.

Chuyên gia Collin Koh, thuộc Viện Nghiên cứu Quốc phòng và Chiến lược tại Singapore, nhận định : Sự hiện diện các tàu sân bay Mỹ trên biển Châu Á đã "đi ngược lại với điều mà Trung Quốc mô tả là Mỹ bị áp lực khó khăn ở Thái Bình Dương".

Cũng phải nói là tàu sân bay Theodore Roosevelt đã chỉ hoạt động trở lại từ ngày 04/06, sau mấy tuần lễ phải án binh bất động ở Guam do virus corona bộc phát trên tàu vào tháng Ba. Trong lúc đó chiếc Ronald Reagan cũng phải thả neo ở Nhật Bản chờ được bảo đảm là không bị một ca Covid-19 nào một khi ra biển.

Oanh tạc cơ B-1B và trinh sát cơ Global Hawk trên Biển Đông

Mỹ không chỉ gây sức ép với Trung Quốc ở trên biển mà còn gia tăng thị uy trên không bằng cách cho oanh tạc cơ hiện đại B-1B Lancer và trinh sát cơ không người lái Global Hawk RQ-4 đến hoạt động ở Biển Đông và các khu vực khác tại Thái Bình Dương.

bd2

Mỹ còn gia tăng thị uy trên không bằng cách cho oanh tạc cơ hiện đại B-1B Lancer và trinh sát cơ không người lái Global Hawk RQ-4 đến hoạt động ở Biển Đông

Theo tin được kênh truyền hình Mỹ Fox News tiết lộ hôm 10/06 vừa qua, Không Quân Mỹ đã xác nhận việc sử dụng một phi đội máy bay ném bom B-1B trú đóng trên đảo Guam để hỗ trợ cho Bộ Tư Lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương, trong các nhiệm vụ trên Biển Đông.

Bên cạnh đó, phi cơ do thám hiện đại không người lái Global Hawk RQ-4 cũng được vận chuyển tới căn cứ không quân Yokota tại Nhật Bản nhằm tăng cường hơn nữa hoạt động của Mỹ trong khu vực.

Đối với các chuyên gia, Quân Đội Mỹ đã tăng cường hoạt động trong khu vực để sẵn sàng đối phó với các động thái của Trung Quốc ở cả Biển Đông lẫn vùng eo biển Đài Loan, nơi đồng minh của Mỹ đang gặp sức ép nặng nề từ Bắc Kinh.

Mai Vân

Nguồn : RFI, 17/06/2020

********************

Biển Đông : Trung Quốc phản ứng trước ba nhóm mẫu hạm Mỹ

BBC, 15/06/2020

Lần đầu tiên kể từ ba năm qua, Hải quân Hoa Kỳ triển khai cùng lúc các nhóm hàng không mẫu hạm ở Thái Bình Dương.

bd

Ba hàng không mẫu hạm sử dụng năng lượng hạt nhân USS Ronald Reagan, USS Theodore Roosevelt và USS Nimitz đã được đưa vào vùng biển Thái Bình Dương

Hôm thứ Năm tuần trước, ba mẫu hạm sử dụng năng lượng hạt nhân cùng nhóm các tàu tuần dương hạm và khu trục hạm hộ tống đã đi vào vùng biển được đánh giá là nhạy cảm chiến lược đối với Trung Quốc đại lục.

Các tàu USS Ronald Reagan và USS Theodore Roosevelt đang tuần tra ở vùng Tây Thái Bình Dương, còn tàu USS Nimitz hoạt động ở vùng phía Đông, theo nội dung thông cáo báo chí của Hải quân Hoa Kỳ.

Ngay lập tức, Bắc Kinh phản ứng mạnh mẽ.

Truyền thông Trung Quốc nói nước này sẽ không lui bước trong việc bảo vệ các lợi ích của mình ở khu vực.

Hoàn cầu Thời báo hôm Chủ Nhật 14/6 nói việc Mỹ triển khai ba cụm tàu hùng hậu vào vùng biển gần Trung Quốc được hiểu theo nghĩa nhằm đưa ra lời cảnh cáo cho Trung Quốc.

Báo này dẫn lời các chuyên gia quân sự, theo đó đánh giá rằng điều này cho thấy Mỹ đang thể hiện ý định giành quyền bá chủ về chính trị trong khu vực, và rằng Trung Quốc có thể sẽ ứng phó bằng việc tổ chức tập trận cũng như thể hiện khả năng và lòng quyết tâm trong việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ.

Dịch chuyển trên cho thấy Hoa Kỳ "có thể vào Biển Hoa Nam (cách Trung Quốc gọi Biển Đông) và đe dọa quân lính Trung Quốc trên các quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa, theo cách gọi của Việt Nam)", Hoàn cầu Thời báo dẫn lời Lý Kiệt (Li Jie), chuyên gia hải quân từ Bắc Kinh, nói.

Hiện Hoa Kỳ để tổng số bảy hàng không mẫu hạm ở Thái Bình Dương. Bốn chiếc khác đang nằm cảng để bảo dưỡng, theo tường thuật của CNN.

Việc triển khai tàu diễn ra vào thời điểm đang có căng thẳng gia tăng giữa Washington và Bắc Kinh quanh chuyện quan hệ thương mại song phương và các vấn đề liên quan đến Biển Đông, Đài Loan và Hong Kong.

Hồi tuần trước, một trực thăng vận tải của Hải quân Hoa Kỳ bay qua bầu trời Đài Loan tới Thái Lan, thực hiện một chuyến bay mà Mỹ gọi là phục vụ hậu cần.

Bắc Kinh gọi chuyến bay đó là "hành động bất hợp pháp và khiêu khích nghiêm trọng", theo Tân Hoa Xã.

"Việc bay qua không phận đó làm xói mòn chủ quyền, an ninh và các quyền lợi của Trung Quốc, và vi phạm luật quốc tế cùng các quy tắc căn bản trong quan hệ quốc tế", Tân Hoa Xã dẫn lời Chu Phượng Liên (Zhu Fenglian), phát ngôn viên phụ trách vấn đề Đài Loan của Quốc Vụ viện Trung Quốc.

Các lực lượng hải quân và không quân Trung Quốc trong năm nay cũng đã nhiều lần tìm cách xua các tàu chiến Hoa Kỳ ra khỏi vùng biển quanh Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trong hoạt động mà Mỹ nói là "thực thi quyền tự do đi lại trên biển" nhưng Bắc Kinh nói là "tiến vào trái phép vùng lãnh hải của Trung Quốc".

Published in Diễn đàn

Trung Quốc dọa thiết lập "Vùng nhận diện phòng không" (ADIZ-Air Defense Indentification Zone) ở Biển Đông để chống ai ?

SONY DSC

Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng - Ảnh minh họa

Lời giới thiệu : Câu hỏi đang đặt ra ở Biển Đông là Trung Quốc có âm mưu gì khi bất ngờ gia tăng đe dọa và phủ nhận quyền chủ quyền của các nước có tranh chấp lãnh thổ với Bắc Kinh gồm Việt Nam, Phi Luật Tân, Nam Dương, Mã Lai và Brunei, vào lúc cả thế giới lo phòng, chống dịch nạn Vũ Hán, xuất phát từ Trung Quốc từ đầu năm 2020 (Coronavirus disease 2019-Covid-19).

Để trả lời cho thắc mắc này, cũng như liệu tranh chấp giữa Mỹ và Trung Quốc ở Biển Đông có đưa đên nguy cơ chiến tranh hay không, xin mời bạn đọc theo dõi nội dung Cuộc phỏng vấn của tôi với Giáo sư ngoại hạng (Professor Emeritus), Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hùng, người từng giảng dậy nhiều năm về Quan hệ Quốc tế tại Đại học George Mason, gần Thủ đô Hoa Thịnh Đốn.

Giáo sư Hùng là Học giả cao cấp bất thường trú của Trung tâm nghiên cứu Chiến lươc và quan hệ Quốc tế ở Washington, D.C. (Center for Strategic and International Studies, CSIS). Ngoài ra ông còn là Học giả vãng lai hai niên khóa 2015-2016 tại viện nghiên cứu nổi tiếng ISEAS-Yusof Ishak Institute, Tân Gia Ba.

Các bài nghiên cứu của ông, phần lớn về Châu Á và Đông Nam Á được đăng trên các Tạp chí chuyên môn (professional journals) như World Affairs, Asian Survey, Pacific Affairs, Global Asia, The Diplomat, Asia Pacific Bulletin và CogitAsia.

Phạm Trần

****

nmh02

Âm mưu thâm độc của Trung Quốc

Phạm Trần : Thưa Giáo sư, sau vụ Trung Quốc cho tầu Hải Dương 8 vào tận bãi Tư Chính, cách Vũng Tầu chỉ lối 370 cây số hướng Đông-Nam, để thăm dò dầu khí dài tới 113 ngày (4/7 – 14/10/2019), thì từ đầu năm 2020, Trung Quốc lại gia tăng các hoạt động đe dọa an ninh bất thường ở Biển Đông trong thời gian có bệnh dịch Covid 19 phát xuất từ Vũ Hán (Trung Quốc), trong đó có những việc cụ thể như : xây dựng thêm hai "trạm nghiên cứu" mới tại đá Chữ Thập và đá Subi (tháng 03/2020) ; tấn công tầu đánh cá của Việt Nam ngày 3/4 ; ra lệnh cấm đánh bắt 3 tháng, từ 1/5 đến khoảng 16/ 8 ; công bố thành lập 2 huyện Hoàng Sa và Trường Sa (18/4) ; đặt tên và định vị tọa độ cho 25 đảo, bãi đá ngầm cùng 55 thực thể địa lý dưới đáy biển ở Biển Đông ; phần lớn nằm trong quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.

Xin ông nhận định về những sự kiện này, và liệu việc làm của Trung Quốc xẩy ra vào lúc cả Thế giới tập trung lo phòng và chữa dịch Vũ Hán có hậu ý gì khác ngoài chủ trương muốn chiếm thế thượng phong ở Biển Đông ?

Nguyễn Mạnh Hùng : Thưa ông, những người nghiên cứu chiến lược đều biết rõ rằng mục tiêu tối hậu của Trung Quốc là độc chiếm Biển Đông, từng bước đẩy Hoa Kỳ ra ngoài, và giảm thiểu tối đa ảnh hương quân sự của Hoa Kỳ trong vùng biển quan trọng này. Chính sách để thực hiện mục tiêu đó có tính cách uyển chuyển và thời cơ. Tất cả những điều ông nói phản ánh chính sách này, mỗi khi có cơ hội Trung Quốc lại lấn thêm môt bước nhỏ quan trọng nhưng không đủ sốc để gây ra chiến tranh, nhằm tạo ra những "sự đã rồi"(fait accompli) trong việc thưc hiện mục tiêu tối hậu. Đại dịch Covit-19 khiến nhiều nước, nhât lá các nước trong khu vực và Hoa Kỳ phải tập trung vào việc đối đầu với nó đã tạo cho Trung Quốc cơ hội này. Thế thượng phong ở Biển Đông thì Trung Quốc đã tạo đươc từ năm 2017 qua việc tân tạo và quân sự hóa đá Chữ Thập, bãi Vành Khăn, và bãi Subi. Tam giác chiến lươc này cho Trung Quốc khả năng phóng chiếu sức mạnh quân sự đến tất cả các đá và bãi trên Biển Đông. Đô đốc Philip Davidson, Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, đã cảnh báo từ hai năm trước (2018) rằng Trung Quốc hiện có khả năng "kiểm soát" Biển Đông "trong mọi tình huống" trừ khi có chiến tranh vơi Hoa Kỳ.

nmh03

Tại sao đồng loạt chống Tầu ?

Phạm Trần : Cũng trong khoảng thời gian này Trung Quốc đã gửi Công hàm cho Liện Hiệp Quốc bác bỏ quyền chủ quyền ở Biển Đông của Phi Luật Tân và Mã Lai đồng thời tái khẳng định chủ quyền duy nhất của Bắc Kinh trong vùng Lưỡi Bò (hay còn gọi là dường 9 Đoạn, chiếm 3/4 tổng diện tích trên 3 triệu cây số vuông). Nhưng Việt Nam cũng gửi Công hàm tới Liên Hiệp Quốc để bác yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong khi đó thì Nam Dương, vào ngày 26/05/2020, cũng đã gửi Công hàm đến Liên Hiệp Quốc để khẳng định "bản đồ 'đường 9 đoạn' Trung Quốc dùng cho yêu sách chủ quyền ở Biển Đông là thiếu cơ sở pháp lý, vi phạm nghiêm trọng UNCLOS 1982".

Như vậy, thưa ông, lý do nào đã thúc đẩy 4 quốc gia Phi Luật Tân, Mã Lai Á, Nam Dương và Việt Nam đã "cùng nhau đồng loạt" chống lại tham vọng chiếm trọn Biển Đông của Trung Quốc ?

Nguyễn Mạnh Hùng : Ngoài những hành động lấn lươt có từ trước, những hành động có tinh cách khiêu khích và thử thách gần đây -như việc chĩa súng radar vào tầu Philippines, đưa tầu khảo sát địa chất đươc hỗ trợ bởi hai tầu hải giám và môt tầu dân vệ biển đe dọa công ty khoan dầu West Capella hoạt đông trong vùng biển thuôc chủ quyên của Mã Lai Á, đánh chìm tầu đánh cá của Việt Nam, và tiếp tục cho ngư dân Trung Quốc đánh bắt cá trong khu vưc "ngư trường truyên thống" của họ bất chấp sư phản đối và xua đuổi của Indonesia- buộc các nước này phải lên tiếng.

Có hai điều đáng lưu ý trong trường hợp này.

Thứ nhất, các nước ASEAN tuy không cùng lên tiếng chung, nhưng các phản đối riêng lại xuất hiên gần như cùng một lúc và bênh vực lập truờng của nhau về chủ quyền biển đảo và ủng hộ Viêt Nam chống việc tầu Trung Quốc đâm chìm tầu cá Việt Nam.

Thứ hai, và có lẽ quan trọng hơn, là việc tầu sân bay và các tầu chiến của Hoa Kỳ đã có mặt để theo dõi tầu khảo sát của Trung Quốc, gián tiếp ủng hộ việc khai thác dầu khí của Mã Lai trong vùng biển mà họ có chủ quyền theo luật quốc tế và luật biển. Hai động thái này có ảnh hưởng hỗ tương. Sự hiện diên dồn dập của các tầu chiến Hoa Kỳ -USS Gabriel Giffords, USS Montgomery, USS Cesar Chavez, USS America, USS Bunker Hill, USS Barry, và USS Mustin- trong hai tháng 4 và 5, nhất là việc tầu chiến Hoa Kỳ lần đầu tiên hiện diện theo dõi tầu khảo sát của Trung Quốc khiến các quốc gia có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc mạnh dạn hơn trong việc cùng chống Trung Quốc. Ngược lại sự cương quyết của một số quốc gia ASEAN cùng lên tiếng chống sự lấn lướt của Trung Quốc khuyến khích Hoa Kỳ có phản ứng mạnh hơn, cụ thể hơn.

Mỹ và Biển Đông

Phạm Trần : Trước việc Hải quân Trung Quốc không ngừng phô trương sức mạnh quân sự đe dọa Đài Loan, một "thực thể đồng minh của Mỹ" ; tấn công đánh chìm một tầu đánh cá Việt Nam (04/2020) và gia tăng hành động nước lớn muốn "ăn hiếp" các nước nhỏ ở Đông Nam Á trong tranh chấp chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông và biển Hoa Đông (tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và Nhật Bản trong vụ đảo Điếu Ngư (Senkaku), Ngoại trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo, vào ngày 22/4/2020, đã tuyên bố cực lực phản đối Bắc Kinh và kêu gọi các Quốc gia khác buộc Trung Quốc phải chịu trách nhiệm về hành động của họ. Nhưng, trong khi đó thì Hải quân Mỹ cũng đã tuần tra "nhiều hơn" và "sát" hơn các vị trí biển-đảo mà Trung Quốc đã chiếm đóng ở Biển Đông.

Trong bối cảnh này, Giáo sư có nghĩ rằng Trung Quốc và Hoa Kỳ đang muốn "phô trương sức mạnh" xem ai là cường quốc quân sự ở Châu Á hay hai nước đang có những động tác có thể dẫn đến nguy cơ chiến tranh ở Châu Á ? (1).

Nguyễn Mạnh Hùng : Phô trương sức mạnh (show of force) là biện pháp thông thường để răn đe, làm áp lực mà không gây ra chiến tranh. Sự hiện diện dồn dâp của các tầu chiến Hoa Kỳ và việc tầu sân bay USS America và USS Gabrielle Giffords theo dõi tầu khảo sát địa chất của Trung Quốc trong vùng biển thuôc chủ quyền của Mã Lai Á mà tôi nói ở trên thuộc dạng này. Tuy nhiên, phô trương sức mạnh theo kiểu tầu chiến và máy bay tác chiến kèm sát nhau tao ra căng thẳng. Tình trạng căng thẳng này dễ đưa đến những va chạm, đụng độ không cố ý, có thể leo thang lên chiến tranh. Nếu Trung Quốc lấn tới mà Hoa Kỳ không chịu lùi thì không thể coi thường nguy cơ chiến tranh ơ Biển Đông.

Ngoài ra, nếu Hoa Kỳ thực sự có quyết tâm ủng hộ ASEAN chống sự "bắt nạt" của Trung Quốc, thì Hoa Kỳ cần làm một số việc như sau :

Thứ nhất, tuyên bố ủng hộ quyền các quốc gia Đông Nam Á khai thác dầu khí trong vùng biển thuộc chủ quyền của họ theo luật quốc tế và luật biển.

Thứ hai, để hỗ trợ cho lời nói, Hoa Kỳ phải tiếp tục cho tầu chiến, như trường hợp USS Gabrielle Giffords và USS America, biểu dương lực luợng và theo dõi tầu khảo sát địa chất của Trung Quốc đi vào vùng tranh chấp để đe dọa và ngăn cản không cho các nước trong khu vực khai thác tài nguyên của họ.

Thứ ba, tái thương thuyết để gia nhập Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP (Trans-Pacific Partnership Agreement), sau được đổi là Hiệp định Đối tác Toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP - Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership), môt cái neo kinh tế cho sự hiện diện của Hoa Kỳ ở Á châu-Thái Bình Dương (2).

Thứ tư, phê chuẩn công ước về luật biển 1982 để có tư cách chính thống đòi hỏi Trung Quốc tuân thủ luật biển.

Nga và Biển Đông

Phạm Trần : Thưa ông, là một trong những chuyên gia hàng đầu về các vấn đề chính trị quốc tế ở vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn, ông lý giải thế nào về thái độ, có vẻ như muốn "đứng ngoài" của Nga, đặc biệt là của Tổng thống Vladimir Putin, một đồng minh của cả Trung Quốc và Việt Nam, trong vấn đề Biển Đông ?

Nguyễn Mạnh Hùng : Nước Nga dưới thời Putin không còn có sức mạnh và tham vọng của Liên Xô trong thời cực thịnh của nó. Ngày nay, Nga chỉ có thể là kẻ phá đám (spoiler) chứ không phải là siêu cường ngang hàng với Hoa Kỳ và Trung Quốc, Nga liên kết vơi Trung Quốc để chống lại thế độc tôn của Hoa Kỳ, nhưng cũng không muốn là đối tác hạng hai của Trung Quốc. Vả chăng, Biển Đông ở quá xa Nga và sát nách với Trung Quốc.

Là cuờng quốc hạng hai Nga không có quyền lợi chiến lược và khả năng hành động hiệu quả ở Biển Đông trong thế cạnh tranh Mỹ-Trung. Điều này có thể giải thích lập trường lấp lửng của Nga.

Lập ADIZ - Trung Quốc muốn gì ?

nmh4

Lập ADIZ - Trung Quốc muốn gì ?

Phạm Trần : Thưa Giáo sư, trong những ngày gần đây đã có tin, xuất phát từ báo South China Morning Post ở Hong Kong, nói rằng Trung Quốc sẽ công bố thiết lập Vùng nhận dạng phòng không (Air Defense Indentification Zone-ADIZ) ở Biển Đông, bao trùm lên Hoàng Sa và Trường Sa, sau khi Bắc Kinh đã làm như thế vào năm 2013 ở vùng Biển Hoa Đông tranh chấp với Nhật Bản (đảo Điếu Ngư/Senkaku).

Ông thấy quyết định này của Trung Quốc, trong tương lai, sẽ ảnh hưởng đến tình hình an ninh và giao thông trên không phận Biển Đông như thế nào ?

Nguyễn Mạnh Hùng : South China Morning Post đăng tin này như quả bóng thăm dò (trial balloon) của Trung Quốc. Vùng nhân dạng phòng không của Trung Quốc ở vùng biển Hoa Đông không được các máy bay quân sự ngoại quốc tôn trọng, nhưng nó buộc các hãng hàng không dân sự phải tuân thủ. Nếu Trung Quốc làm việc này ở Biển Đông, nó sẽ đặt các quốc gia có tranh chấp biển đảo vơi Trung Quốc vào một tình trạng khó xử. Chấp nhận có nghĩa là mặc nhiên công nhận đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc, nhưng chống lại thì không đủ sức. Ngược lại Trung Quốc cũng phải suy tính kỹ.

Một mặt, vùng nhận dạng phòng không phủ lên toàn thể đương lưỡi bò thì quá lớn chưa chắc không lực Trung Quốc có khả năng tuần tra, và phản ứng của Hoa Kỳ và các cường quốc khác sẽ rất mạnh khiến nó bị vô hiệu hóa.

Mặt khác,không làm được mà gây thù oán khiến nhiều nước và các cường quốc hợp lại với nhau để chống lại thì chưa chắc có lợi trong lúc này. Nếu họ chỉ tuyên bố vùng nhận dạng phòng không trên quần đảo Hoàng Sa thì lại là môt việc khác.

Nút thắt COC ở đâu ?

Phạm Trần : Như ông đã biết, cuộc thương thuyết về Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (Code of Conduct-COC) giữa Trung Quốc và ASEAN đã kéo dài gần 4 năm mà vẫn chưa có kết quả.

Xin ông có thể cho biết lý do và trở ngại ở "nút thắt" nào ?

Nguyễn Mạnh Hùng : Trở ngại chính là các nước ASEAN không đoàn kết và nhất trí vì quyền lợi bất đồng và bị Trung Quốc chi phối, trong khi đó Trung Quốc muốn kéo dài việc ký kết để có thời gian thực hiện các "việc đã rồi" hầu có thế thượng phong trong việc thương thuyết.

Ngoài ra trong khi ASEAN muốn bộ Quy tắc ứng xử có tính cách ràng buộc thì Trung Quốc không muốn thế. Việt Nam muốn bộ Quy tăc ứng xử áp dụng cho cả Trường Sa lẫn Hoàng Sa, điều mà Trung Quốc không muốn. Đó là chưa kể những bất đồng về cơ chế giải quyết tranh chấp và cách tiếp cận trong việc xử lý tranh chấp.

Phạm Trần : Thành thật cảm ơn Giáo sư.

Phạm Trần

(17/06/2020)

(1) Pompeo : "We've also seen that the Chinese Communist Party is exerting military pressure on Taiwan and coercing its neighbors in the South China Sea, even going so far as to sink a Vietnamese fishing vessel. We hope other nations will hold them to account". –State Department, 04/22/2020--

(2) Chú thích của Phạm Trần : Tài liệu của Bách khoa Toàn thư mở : Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (tiếng Anh : Trans-Pacific Partnership Agreement - viết tắt TPP) là một hiệp đinh/thỏa thuận thương mại tự do được ký kết giữa 12 nước vào ngày 4/2/2016 tại Auckland, New Zealand sau 5 năm đàm phán với mục đích hội nhập các nền kinh tế thuộc khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Thỏa thuận ban đầu được các nước Brunei, Chile, New Zealand và Singapore ký vào ngày 3 tháng 06, 2005 và có hiệu lực ngày 28/5/2006. Sau đó, thêm 5 nước đàm phán để gia nhập, đó là các nước Australia, Malaysia, Peru, Hoa Kỳ, và Việt Nam. Ngày 14/11/2010, ngày cuối cùng của Hội nghị thượng đỉnh APEC tại Nhật Bản, lãnh đạo của 9 nước (8 nước trên và Nhật Bản) đã tán thành lời đề nghị của tổng thống Mỹ Barack Obama về việc thiết lập mục tiêu của các cuộc đàm phán thuộc Hội nghị thượng đỉnh APEC năm 2011 diễn ra tại Hoa Kỳ. Vào cuối năm 2016, sau khi tổng thống Mỹ Donald Trump đắc cử, theo chính sách mới của Donald Trump, Mỹ đã chính thức rút khỏi hiệp định này.

Ngày 11/11/2017, các bộ trưởng TPP đã đạt được thoả thuận cơ bản cho hiệp định TPP-11, đồng thời thống nhất tên mới cho hiệp định là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP - Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership).

Published in Diễn đàn

RCEP và COC là hai hồ sơ được kỳ vọng hoàn thiện trong nhiệm kỳ Việt Nam làm chủ tịch luân phiên ASEAN năm 2020 nhưng dịch Covid-19 đã làm đảo lộn tiến độ của cả hai hồ sơ thương mại và Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông. Cùng lúc, Trung Quốc tận dụng thời cơ dịch bệnh để tăng tốc hiện diện, phô diễn sức mạnh quân sự chèn ép các nước trong vùng, theo nhận định của nhiều nhà phân tích. 

rcep1

Lãnh đạo các quốc gia ASEAN họp trực tuyến về tình hình dịch Covid-19. Việt Nam làm chủ tịch luôn phiên năm 2020. Ảnh chụp từ chính phủ Thái Lan, ngày 14/04/2020. © Thailand Government House/Handout via Reuters

Biển Đông : Mặt trận bên ngoài thứ 3 của Trung Quốc

Trung Quốc từ lâu đã quen sách nhiễu hoạt động thăm dò dầu khí, tầu cá, liên tục vi phạm chủ quyền của Việt Nam, Indonesia, Malaysia và Philippines. Chiến lược ngày càng hung hăng của Trung Quốc có nguy cơ dẫn đến những xung đột mới với các nước lớn khác trong vùng, như Malaysia và Indonesia nằm sát gần những tiền đồn quân sự trên các đảo nhân tạo do Trung Quốc chiếm đóng và quân sự hóa ở Biển Đông.

"Hàng ngày có hàng chục tầu hải cảnh Trung Quốc khuấy đảo quanh các đảo ở Trường Sa và có hàng trăm tầu cá sẵn sàng ra khơi", theo nhận định của Greg Poling, giám đốc tổ chức Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á (AMTI), được trang CNN trích ngày 08/06/2020. Vẫn theo chuyên gia Poling, "những hòn đảo này đầy những radar giám sát. Chúng theo dõi được hết những gì xảy ra ở Biển Đông. Trong quá khứ, Trung Quốc không biết bạn khoan dầu ở đâu, giờ thì họ biết chính xác vị trí". Và dĩ nhiên kể cả mọi hoạt động của tầu thuyền trong vùng.

Về mặt hành chính, Trung Quốc ngang nhiên lập trái phép hai "quận" mới Tây Sa (Xisha) tại Hoàng Sa và Nam Sa (Nansha) ở Trường Sa, trực thuộc "thành phố Tam Sa" (Sansha) để hoàn thiện và củng cố hệ thống quản lý ở vùng biển chiến lược này. Về quân sự, Hải quân Trung Quốc liên tục tập trận ở Biển Đông từ cuối tháng 04 đến đầu tháng 05/2020, trong đó có cả tầu sân bay Liêu Ninh tham gia. Ngân sách quốc phòng cũng được Quốc hội Trung Quốc bỏ phiếu tăng thêm 6,6%. Về điểm này, giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân Sự Pháp (IRSEM) nhận định với RFI tiếng Việt :

"Kỳ họp Quốc hội hàng năm là sự kiện lớn, quan trọng đối với chính trị Trung Quốc. Kỳ họp lần này diễn ra sau đỉnh điểm khủng hoảng dịch tễ Covid-19 trong khi cách xử lý dịch của Trung Quốc bị phản đối từ trong nước lẫn ở nước ngoài, đặc biệt phải kể đến việc tổng thống Mỹ Donald Trump lên án Trung Quốc phải chịu trách nhiệm với quốc tế.

Trong bối cảnh căng thẳng, chính quyền Bắc Kinh cần phải khuấy động tinh thần dân tộc nhằm tái thể hiện sức mạnh Trung Quốc trước một sự kiện mang ý nghĩa lớn, đó là kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng cộng sản Trung Quốc vào năm 2021 (ngày 23/07/1921). Chính quyền trung ương tỏ rõ quyết tâm trong việc tập hợp, tăng cường đoàn kết dân tộc và khẳng định vị trí cường quốc bên trong lãnh thổ cũng như ở các vùng ngoại vi của nước này, như Đài Loan, Hồng Kông và mặt trận bên ngoài thứ ba chính là Biển Đông. Trong cả ba trường hợp, tầm cỡ tinh thần quốc gia và chính sách đối nội đều rất quan trọng".

ASEAN : Tìm ngoại lực nhưng cần đoàn kết nội lực

Biển Đông trở thành lá bài cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc. Không dừng ở việc tăng cường cuộc tuần tra bảo đảm tự do hàng hải (FONOPS) trên không và trên biển, Mỹ tiếp tục hỗ trợ trực tiếp nhiều nước Đông Nam Á có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông với Trung Quốc : Chỉ tính từ đầu năm 2020, tầu sân bay USS Theodore Roosevelt thăm cảng Đà Nẵng Việt Nam (tháng 03), chiến hạm Mỹ "hiện diện" gần khu vực giàn thăm dò dầu khí West Capella của Malaysia (tháng 04), tặng nhiều máy bay không người lái cho Hải quân Malaysia (tháng 05)…

Ngoài Philippines, ba nước khác có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc gồm Việt Nam, Malaysia và Indonesia, đã tỏ ra mạnh mẽ hơn trong việc bảo vệ chủ quyền và phản đối yêu sách của Bắc Kinh. Trên phương diện ngoại giao, ba nước lần lượt gửi công hàm lên Liên Hiệp Quốc phản đối "đường 9 đoạn" của Trung Quốc vi phạm Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển UNCLOS 1982.

Phía Việt Nam không nêu đích danh Trung Quốc đe dọa ổn định, hòa bình và thịnh vượng ở Biển Đông, nhưng tiếp tục khẳng định lập trường đàm phán để giải quyết tranh chấp trong Sách Trắng Quốc Phòng 2019 :

"Trong khi chờ đạt được một giải pháp cơ bản lâu dài cho vấn đề Biển Đông, Việt Nam và Trung Quốc cần nỗ lực giữ ổn định tình hình ở Biển Đông ; tuân thủ luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982 mà cả hai nước đều là thành viên ký kết ; nghiêm chỉnh thực hiện DOC, tiến tới xây dựng COC giữa ASEAN và Trung Quốc ; tuân thủ thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa hai nước ; Việt Nam ủng hộ và bảo vệ quyền tự do đi lại, an ninh, an toàn hàng hải và hàng không trên Biển Đông ; không có hành động làm phức tạp thêm tình hình hoặc mở rộng thêm tranh chấp, không quân sự hóa, không có hành động vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực".

Một sự kiện khác được nhiều chuyên gia nêu làm ví dụ cho những thay đổi tích cực mới trong quan hệ giữa Hà Nội và Washington, đó là Việt Nam, cũng như New Zealand và Hàn Quốc được mời tham gia cuộc họp trực tuyến "Quad Plus" ngày 27/03/2020 với "Bộ Tứ" gồm Mỹ, Úc, Ấn Độ và Nhật Bản, trong đó nhiệm vụ chính của Quad là đoàn kết chống đà bành trướng của Trung Quốc ở Ấn Độ-Thái Bình Dương. Tuy nhiên, nhận định trên là "hơi vội vàng", theo đánh giá của chuyên gia Pháp Benoît de Tréglodé :

"Đây là sự tham gia không chính thức, trong khuôn khổ xử lý dịch Covid-19 do chiến lược chống dịch của Việt Nam và Hàn Quốc là ví dụ hữu ích cho các đối tác trong vùng. Đó không phải là sự thay đổi của Việt Nam về lôgic liên minh, có nghĩa là thiên về phương Tây hay ngả theo Mỹ trong khu vực. Tôi nghĩ rằng các nhà lãnh đạo Việt Nam không hề có ý định thể hiện thái độ như vậy trong khi chỉ còn vài tháng nữa là đến kỳ Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam...

Năm 2020 là một năm rất đặc biệt. Việt Nam chủ tịch luân phiên của khối ASEAN, còn nước Lào bé nhỏ thì điều phối quan hệ giữa ASEAN và Hoa Kỳ. Tôi không thấy là ASEAN sẽ xem xét lại khuôn khổ quan hệ giữa khối với hai đại cường như thế nào. Mười nước ASEAN đã tái thể hiện rõ ràng trước Mỹ và quốc tế rằng họ không muốn bị ép phải chọn làm đồng minh với bên này mà không phải bên kia. Dĩ nhiên họ muốn được tiếp tục hưởng sự che chở từ Hoa Kỳ, mà vẫn duy trì được mối quan hệ, trong đó có lĩnh vực kinh tế rất có lợi với nước láng giềng khổng lồ Trung Quốc".

Khó kỳ vọng đúc kết COC trong nhiệm kỳ chủ tịch của Việt Nam

Nửa đầu năm nhiệm kỳ chủ tịch ASEAN của Việt Nam đã bị dịch Covid-19 bao phủ. Các cuộc họp chỉ được tiến hành trực tuyến thông qua cầu truyền hình, thiếu tiếp xúc trực tiếp, trong khi các cuộc họp song phương, đa phương bên lề các thượng đỉnh hoặc thời điểm nghỉ ngơi tiếp xúc hậu trường thường là những cơ hội để trao đổi hiệu quả để đi đến một thỏa thuận, theo giáo sư Jay Batongbacal, chuyên ngành vấn đề hàng hải, đại học Philippines, được trang VOA trích dẫn ngày 08/06/2020.

Thiếu những cuộc gặp trực tiếp cũng là một bất lợi để có thể làm giảm căng thẳng ở Biển Đông, theo ý kiến của ông Nguyễn Thành Trung, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế, đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh. Trong khi đó, Biển Đông hiện là một trong những điểm nóng cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc. Giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé nhận định :

"Cuối cùng, trong khuôn khổ quan hệ Mỹ-Trung và ASEAN, còn có một yếu tố quan trọng, đó là cuộc đàm phán giữa Trung Quốc và các nước ASEAN về Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC) để có được một công cụ điều chỉnh liên quốc gia về những căng thẳng ở trong vùng. Về điểm này, ngành ngoại giao Mỹ nhấn mạnh đến việc Bộ Quy tắc Ứng xử COC trong tương lai phải bao gồm cả Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS), trong khi đây là điểm bất đồng giữa Trung Quốc và các nước đối tác Đông Nam Á...

Mục đích đầu tiên của COC là tạo lập quan hệ song phương giữa Trung Quốc và khối ASEAN, từng bước triển khai một cơ chế điều tiết các thách thức về an ninh trong vùng và loại khỏi khu vực này mọi yếu tố nước ngoài và dĩ nhiên là kể cả sự can thiệp của Mỹ. Đây là thách thức lớn trong cuộc đàm phán hiện nay, vì dĩ nhiên, Hoa Kỳ, kể cả Nhật Bản và Ấn Độ, không muốn cảm thấy bị gạt khỏi một khu vực qua lại và trung chuyển quan trọng.

Vì thế, theo tôi, đây là một trong những yếu tố giải thích rằng các cuộc đàm phán về COC có nguy cơ bị kéo dài, thêm vào đó là bối cảnh dịch bệnh hiện nay, cũng như những căng thẳng thực sự bùng nổ giữa Mỹ và Trung Quốc. Với tôi, văn kiện này khó có thể được đưa ra vào năm nay".

Thái độ cứng rắn của Washington trước những yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông được thể hiện một lần nữa trong công thư gửi lên tổng thư ký Liên Hiệp Quốc ngày 01/06/2020, nhấn mạnh rằng Bắc Kinh phải tuân thủ phán quyết của Tòa Trọng Tài năm 2016. ASEAN có thêm một tiếng nói ủng hộ có trọng lượng của Mỹ.

"Trung Quốc có lẽ đã tự đánh giá quá cao khi tỏ thái độ hăm dọa và hiếu chiến như vậy. Điều này tạo cơ hội cho những nước bị đe dọa liên kết với nhau. Trung Quốc càng tấn công, các đối tác trong liên minh đó lại càng đoàn kết và đẩy lùi Trung Quốc". Đây là đánh giá khá đầy đủ về tình hình hiện nay ở Biển Đông, được giáo sư James Holmes, Trường Hải Chiến Mỹ (US Naval War College), đưa ra trong một hội thảo vào tháng 05/2020 và được CNN trích dẫn.

Thu Hằng

Nguồn : RFI, 15/06/2020

Published in Diễn đàn
samedi, 13 juin 2020 22:19

Trung Quốc đã đi quá xa ?

Trong khi các nước láng giềng đang bị phân tâm bởi đại dịch coronavirus, Tập Cận Bình đang tìm cách tạo lợi thế cho Trung Quốc, cụ thể là gần đây đã mở nhiều mặt trận trong chiến dịch để biến Trung Quốc thành cường quốc hàng đầu thế giới - từ mặt trận Hồng Kông, Đài Loan đến Biển Đông, biển Nhật Bản và biên giới Himalaya.

xi0

Tập Cận Bình duyệt quân danh dự lực lượng hải quân Trung Quốc - Ảnh minh họa 

Đại dịch tê liệt toàn cầu đã tạo cơ hội cho Tập hành động để hiện thực hóa "giấc mơ Trung Hoa" vào năm 2049 của chế độ cộng sản Trung Quốc. Tập đã nói trong một bài phát biểu tại một trường đại học nước này vào tháng 4 rằng "những bước tiến vĩ đại trong lịch sử luôn luôn xuất hiện từ chảo lửa trong những thảm họa lớn".

Điều này có thể giải thích tại sao Trung Quốc đã tìm cách tận dụng tối đa đại dịch coronavirus. Từ việc phá vỡ cam kết ràng buộc của Bắc Kinh đối với quyền tự trị của Hồng Kông và cố gắng quấy nhiễu vùng biển ngoài khơi quần đảo Senkaku do Nhật Bản kiểm soát đến cuộc chiến biên giới với Ấn Độ bằng cách xâm phạm lãnh thổ của nước này.

Hành động của Tập đang cố làm để chuyển sự chú ý từ sự vô trách nhiệm của Trung Quốc về việc lan rộng toàn cầu của Covid-19-19 sang mối đe dọa của chế độ độc tài tới an ninh thế giới. Nhưng sự tham lam vô độ này cũng sẽ làm tăng nguy cơ Trung Quốc dẫn đến sự suy tàn và sụp đổ, giống như cách mà Liên Xô tan rã, như cách gọi sử gia Paul Kennedy "sự vói tay quá đà của đế quốc" (imperial overstretch).

Chủ nghĩa bành trướng của Tập đã tìm cách lập lại toàn cầu hóa theo các điều khoản của Trung Quốc. Minh họa rõ nhất qua dự án Sáng kiến Vành đai và Con đường (Belt and Road Initiative - BRI), nhằm mục đích đổi mới trật tự kinh tế và chính trị toàn cầu bằng cách đưa hàng trăm tỷ đô la vào các dự án ở nước ngoài khi Trung Quốc vẫn cần vượt qua tình trạng nghèo đói và kém phát triển ở trong nước.

Đây là một dự án đế quốc tìm cách lôi kéo các quốc gia tuyệt vọng đầu tư cơ sở hạ tầng vào quỹ đạo chiến lược của Trung Quốc. Nhưng thay vì "sự thịnh vượng chung" mà Tập hứa hẹn, BRI đã và đang buộc các quốc gia dễ bị tổn thương vào trong các bẫy nợ xói mòn chủ quyền. Khó khăn về kinh tế gia tăng trong đại dịch khiến các nước đối tác khó trả nợ hơn.

Việc Bắc Kinh từ chối hỗ trợ các quốc gia đối tác đang đối mặt với phá sản càng làm nổi bật ý đồ trong các hoạt động cho vay có chủ đích. Bằng cách gây ra sự tức giận hoặc phẫn nộ, cách tiếp cận cứng rắn có nguy cơ làm suy yếu hình ảnh quốc tế của Trung Quốc và tạo ra một sự phản kháng chống lại các chính sách mới của họ.

Dưới thời Tập, mối quan hệ của Trung Quốc với siêu cường nước đã hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế thần kỳ của họ là Hoa Kỳ, đã nhường chỗ cho sự thù địch, và một cuộc chiến tranh lạnh. Với Ấn Độ, Tập dường như rất muốn bắt đầu cuộc xung đột lớn tiếp theo của thế giới. Quan hệ và mối liên kết giữa Trung Quốc và Ấn Độ, chiếm hơn một phần ba dân số và hơn một phần năm nền kinh tế toàn cầu, có ảnh hưởng rất quan trọng đối với quan hệ quốc tế.

Cùng lúc đó, chính quyền Tập đã tăng cường nỗ lực biến các nguồn nước sông thiên nhiên thành vũ khí chính trị bằng cách xây dựng các đập thủy điện lớn ở biên giới Trung Quốc. Việc chặn dòng, xây dựng điên cuồng nơi thượng nguồn sông Mê Kông đang gây ra hạn hán tái diễn ở Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam.

Trong khi Mao Trạch Đông phá hủy trật tự cũ và Đặng Tiểu Bình đặt nền móng cho một nền kinh tế Trung Quốc hiện đại, Tập quyết tâm biến Trung Quốc thành người chơi trung tâm trong quan hệ quốc tế. Tham vọng của Tập, cùng với sự sùng bái cá nhân có thể khiến Tập mù quáng trước những nguy cơ của cách tiếp cận là giàn trải nguồn lực của Trung Quốc ra nước ngoài trong khi nền kinh tế đang chậm lại và dân số trong độ tuổi lao động giảm.

Ngày nay, Trung Quốc vẫn là một cường quốc không có bạn bè, Không có bất kỳ đồng minh chiến lược hàng hải thực sự hoặc các đối tác an ninh đáng tin cậy. Và họ càng khó khăn hơn để có được những đồng minh chân chính.

Giống như thảm kịch hạt nhân Chernobyl năm 1986 - khúc dạo đầu cho sự sụp đổ của Liên Xô - đại dịch đã cho thấy một chế độ làm cho thảm họa tồi tệ hơn nhằm tìm cách che đậy sự thật về nó. Đại dịch coronavirus và cách hành xử của Tập trong đại dịch thì tham vọng tân-đế có lẽ cũng có kết cục như vậy.

Các nước đã đánh giá lại sự phụ thuộc kinh tế của họ vào Bắc Kinh và tìm cách đa dạng hóa chuỗi cung ứng khỏi Trung Quốc. Ví dụ với quỹ 2,2 tỷ đô la của Nhật Bản để giúp định hình lại sản xuất. Hoa Kỳ đã mở đường cho các lệnh trừng phạt đối với các quan chức và công ty Trung Quốc.

Trong khi các cường quốc khác vẫn đang vật lộn với đại dịch và một nước Mỹ vật lộn với biểu tình và và đại dịch ngày càng gia tăng, Tập có thể có những hành động quyết liệt hơn. Tuy nhiên, rất có thể mọi sự sẽ vượt tầm kiểm soát của Tập điều này sẽ khiến Trung Quốc phải trả giá đắt trong khi tạo ra một môi trường quốc tế thù địch.

Brahma Chellaney

Nguyên tác : China risks imperial overstretch with post-pandemic aggression, Nikkei Asian Review, 10 June 2020

Dien Vu lược dịch

Nguồn : Viet-studies, 12/06/2020

Published in Diễn đàn

Đặt dây cáp ngầm – Trung Quốc hoàn tất kiểm soát Biển Đông ?

Hiếu Linh, VNTB, 12/06/2020

Theo hãng tin Mỹ BenarNews ngày 08/06/2020, giới chuyên gia cho rằng các dây cáp ngầm đó có thể được dùng vào mục tiêu quân sự , giúp Trung Quốc tăng cường khả năng phát hiện tàu ngầm.

cap1

Ảnh vệ tinh và dữ liệu định vị tàu thuyền mới đây đã phát hiện một chiếc tàu Trung Quốc có dấu hiệu như là đang đặt dây cáp ngầm dưới biển giữa các tiền đồn Trung Quốc tại vùng quần đảo Hoàng Sa.

Đây là động thái mới nhất của Trung Quốc tại Biển Đông.

Bắc Kinh liên tục tuyên bố sẽ thực hiện các hoạt động bình thường trong vùng biển thuộc quyền tài phán của nước này, và trong nhiều năm qua xây dựng chuỗi đảo nhân tạo, thiết lập các khu hành chính và sản xuất, quân sự hoá các đảo ở Biển Đông tại các vị trí, khu vực mà Bắc Kinh chiếm đóng trái phép, ngoài ra Trung Quốc đã bị cáo buộc săn đuổi các quốc gia yêu sách liên quan khi các nước này thực hiện hoạt động thăm dò, khai thác tài nguyên trong vùng đặc quyền kinh tế.

Theo các chuyên gia Trung Quốc đang áp dụng các chiến thuật ngày càng mạnh mẽ, có nguy cơ gây ra lan rộng xung đột trong khu vực.

Greg Polling, Giám đốc AMTI, cho biết trong một bài viết The Guardian, Trung Quốc đang mở rộng phạm vi trong khu vực, bỏ mặc sự chỉ trích quốc tế.

Biển Đông là một trong những khu vực gây tranh cãi nhất trên thế giới, với các quốc gia yêu sách liên quan như Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, Đài Loan và Indonesia.

Các yêu sách lãnh thổ của Bắc Kinh, được gọi là đường chín đoạn, là vùng rộng lớn nhất và bao phủ gần như toàn bộ vùng biển, từ đảo Hải Nam đến Indonesia. Mặc dù yêu sách của Trung Quốc không có cơ sở theo luật pháp quốc tế và được tuyên bố vô hiệu trong quyết định của tòa án quốc tế năm 2016, thế nhưng từ đó đến nay Trung Quốc vẫn đang hoàn thiện các công đoạn cuối trong chiếm đóng Biển Đông.

Chính quyền Trung Quốc từ năm 2015 đã bắt đầu gia tăng tham vọng lãnh thổ của mình bằng cách xây dựng các đảo nhân tạo trên các rạn san hô và bãi cạn ở Biển Đông, sau đó quân sự hóa chúng bằng các dải máy bay, cảng và các cơ sở radar.

"Những hòn đảo này có đầy đủ các khả năng giám sát và radar, họ nhìn thấy mọi thứ xảy ra ở Biển Đông, và giờ là đặt dây cáp ngầm giúp Bắc Kinh kiểm soát chuyển động dưới biển", Kiến Huy, thành viên trong nhóm nghiên cứu Biển Đông nói.

Hải quân Việt Nam từ năm 2014 đến nay sở hữu 6 tàu ngầm tấn công lớp Kilo mang tên : Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Khánh Hòa, Đà Nẵng và Bà Rịa – Vũng Tàu, được đưa vào biên chế của Lữ đoàn Tàu ngầm 189.

Giáo sư Carl Thayer trong bài phỏng vấn trang tin Zing chia sẻ, Việt Nam giờ đã có hạm đội tàu ngầm lớn nhất và hiện đại nhất Đông Nam Á. Theo ông "các tàu ngầm cũng phát huy tác dụng trong việc thu thập tình báo".

Thế nhưng nếu Trung Quốc hoàn tất đặt dây cáp ngầm được sử dụng cho mục đích quân sự thì đội tàu ngầm sẽ bị hạn chế những quyết định chiến lược.

"Trước đây, Trung Quốc không biết bạn khoan ở đâu. Bây giờ họ chắc chắn biết".

Các chuyên gia cho biết động thái này cùng với khả năng lập Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ)  sắp tới Trung Quốc sẽ kiểm soát toàn bộ vùng không, mặt nước và lòng nước Biển Đông.

"Đó không còn dừng lại tại một đội tàu bảo vệ bờ biển và tàu cá Trung Quốc được triển khai ở Biển Đông để phá vỡ các yêu sách khác hoặc đi thuyền trong các khu vực nhạy cảm về chính trị. Trung Quốc giờ đã từng bước kiểm soát những động tĩnh nhỏ nhất trên Biển Đông. Việt Nam là quốc gia chịu tổn hại nhiều nhất", Kiến Huy nhận định.

Hồi tháng 4, một tàu giám sát hàng hải của Trung Quốc đã đánh chìm một tàu cá Việt Nam gần quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Động thái này đã thúc đẩy Việt Nam gửi hồ sơ ngoại giao lên Liên Hợp Quốc để khôi phục chủ quyền đối với vùng đặc quyền kinh tế ở Biển Đông.

Đáp trả lại phát ngôn Bộ Ngoại giao Cảnh Sảng tuyên bố Trung Quốc sẽ thực hiện tất cả các bước cần thiết để bảo vệ lợi ích của Bắc Kinh trong khu vực.

"Tôi muốn nhấn mạnh điều này : những nỗ lực của bất kỳ quốc gia nào, bằng bất kỳ cách nào phủ nhận chủ quyền, quyền và lợi ích của Trung Quốc ở Biển Đông và tăng cường tuyên bố bất hợp pháp của chính họ chắc chắn không mang lại kết quả", Cảnh Sảng nói.

Tuyên bố của Cảnh Sảng biểu thị công khai âm mưu làm chủ Biển Đông.

Động thái hung hăng lần này của Bắc Kinh trong khu vực một phần là do đại dịch coronavirus toàn cầu, đã giáng một đòn nặng nề vào tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của Trung Quốc và làm tổn hại danh tiếng quốc tế của nước này.

"Trung Quốc có nhu cầu chuyển lửa ra bên ngoài", Kiến Huy nhận định.

Tại cuộc họp quốc hội vào tháng 5, chính phủ Trung Quốc đã không đặt mục tiêu tăng trưởng GDP hàng năm lần đầu tiên sau nhiều năm, một dấu hiệu cho thấy họ lo lắng về sự suy giảm kinh tế. Đồng thời, căng thẳng đang gia tăng với Hoa Kỳ và Châu Âu về vai trò của Bắc Kinh trong việc kìm hãm sự bùng phát ban đầu, giết chết hơn 380.000 người.

Lo ngại hình ảnh quyền lực tuột dốc, Đảng cộng sản Trung Quốc đã tăng cường hùng biện và nghị sự chủ nghĩa dân tộc, bao gồm sự kiểm soát Biển Đông.

"Không giống như năm 2014, tình hình hiện thời đã biến chuyển và Việt Nam không nên áp dụng ngoại giao thầm lặng mãi được".

Năm 2014 quan hệ Việt – Trung rơi xuống mức tồi tệ liên quan vụ hạ giàn khoan Hải Dương 981.

Đoàn kết chống lại Bắc Kinh

Đối mặt với sự hiện diện của Trung Quốc trên ngưỡng chủ quyền của các quốc gia, bây giờ có thể là thời gian để các nước Đông Nam Á đoàn kết và đối mặt với Bắc Kinh trong khu vực.

Nhưng Kiến Huy cho biết với các nước trong khu vực bận tâm đến coronavirus và các cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị của riêng họ, hy vọng sẽ hợp nhất trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) khá mong manh.

"Cho dù Trung Quốc có ngang ngược như thế nào, tôi không nghĩ chúng ta sẽ thấy các thành viên ASEAN tham gia và cho thấy một mặt trận thống nhất mạnh mẽ chống lại Trung Quốc", ông nói.

"Tôi nghĩ rằng nếu các nước ASEAN không có động thái thống nhất cứng rắn trong sáu tháng tới, đến cuối năm 2020, chúng ta có thể thấy Trung Quốc sẽ tăng gấp đôi hành vi quyết định của mình ở Biển Đông".

Việt Nam từ lâu đã tìm cách để cân bằng lợi ích của mối quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc với chính sách đối ngoại Biển Đông. Đó là lý do tại sao các cuộc đụng độ với Trung Quốc ở vùng đặc quyền kinh tế của mình Việt Nam luôn theo đuổi đường lối ngoại giao cấp quốc gia thay vì tiến hành khởi kiện, theo Kiến Huy.

"Việt Nam có thể dựa vào Hoa Kỳ", Đặng Sơn Thái, đồng nghiệp của Kiến Huy, tại trung tâm nghiên cứu chính sách ở Thành phố Hồ Chí Minh.

Hoa Kỳ đã tăng cường tự do hoạt động hàng hải ở Biển Đông suốt từ năm ngoái đến nay. Washington cũng làm việc để hỗ trợ trực tiếp các nước Đông Nam Á ở Biển Đông. Và, trong chiến dịch West Capella, các tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ đã thực hiện cái gọi là "hoạt động hiện diện" Biển Đông trong khi bị tàu Trung Quốc theo dõi.

"Hoa Kỳ ủng hộ những nỗ lực của các đồng minh và đối tác của chúng tôi để theo đuổi hợp pháp lợi ích kinh tế của họ", Phó đô đốc Bill Merz, chỉ huy Hạm đội 7 của Hoa Kỳ, nói trong một tuyên bố vào thời điểm đó.

Khi Bắc Kinh đẩy mạnh hơn ở Biển Đông, Hoa Kỳ có thể là một người bạn tốt.

Đặng Sơn Thái nói : "Tôi nghĩ rằng Trung Quốc đã thực sự không còn kiêng dè gì nữa".

Hiếu Linh

Nguồn : VNTB, 12/06/2020

*********************

Biển Đông : Việt Nam phản đối Trung Quốc lắp đặt cáp ngầm tại Hoàng Sa

Trọng Nghĩa, RFI, 12/06/2020

Ngay sau khi báo chí quốc tế loan tin về các dấu hiệu cho thấy Trung Quốc đang thiết lập hệ thống cáp ngầm bị tình nghi dùng vào mục tiêu quân sự, kết nối một số đảo đá tại vùng quần đảo Hoàng Sa, hôm qua, 11/06/2020, Việt Nam đã chính thức lên tiếng phản đối.

cap2

Đảo Phú Lâm (Woody Island) thuộc quần đảo Hoàng Sa. Hình ảnh vệ tinh của AMTI ngày 12/05/2018. CSIS AMTI/Handout via Reuters

Trong buổi họp báo thường kỳ tại Hà Nội, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng đã tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, “phù hợp với luật pháp quốc tế” và với “đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý”.

Bà Lê Thị Thu Hằng nói rõ : “Mọi hoạt động liên quan đến hai quần đảo này mà không được sự cho phép của Việt Nam là vi phạm chủ quyền của Việt Nam và vô giá trị”, đồng thời cho rằng “các nước cần hành động có trách nhiệm, tránh làm phức tạp tình hình…”

Như RFI đã đưa tin, ngày 08/06 vừa qua, hãng tin Mỹ BenarNews đã dẫn hình ảnh vệ tinh và dữ liệu theo dõi tàu biển cho thấy một chiếc tàu Trung Quốc đã tiến hành công việc mà giới chuyên gia phân tích xác định là rải dây cáp ngầm dưới biển kết nối các đảo Cây, đảo Bắc và đảo Phú Lâm, và sau đó là đảo Ba Ba, Duy Mộng, đều ở quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc đã chiếm của Việt Nam năm 1974.

Các chuyên gia được hãng tin Mỹ trích dẫn đều cho rằng Bắc Kinh đang thiết lập hệ thống cáp quang dưới biển trong khu vực, dùng trong thông tin liên lạc quân sự giữa các tiền đồn Trung Quốc với nhau và với đất liền, cũng như trang bị thiết bị phát hiện tàu trên mặt nước và tàu ngầm trong khu vực.

Trung Quốc sẽ sớm lập căn cứ quân sự trên bãi cạn Scaborough ?

Cũng liên quan đến Biển Đông, theo báo chí Philippines, ngày hôm qua 11/06/2020, cựu thẩm phán Tòa Án Tối Cao Philippines Antonio Carpio, đã cảnh báo về nguy cơ Bắc Kinh sẽ chiếm hẳn bãi cạn Scarborough ở vùng đông bắc Biển Đông để thành lập căn cứ không quân và hải quân trên đó.

Là thẩm phán tiêu biểu của Philippines trong vụ kiện Trung Quốc tại Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye, ông Carpio nhận định, bãi cạn Scarborough mang ý nghĩa chiến lược với Trung Quốc, cho phép trám được lỗ hổng trong vùng phủ sóng tên lửa radar của Bắc Kinh ở Biển Đông.

Bãi cạn Scarborough do Philippines kiểm soát, nhưng đã bị Trung Quốc chiếm và phong tỏa từ năm 2012. Vào năm 2016, Washington từng dọa Bắc Kinh là sẽ có hành động, nếu Trung Quốc cho bồi đắp và xây căn cứ trên thực thể này.

Trọng Nghĩa

Nguồn : RFI, 12/06/2020

Published in Diễn đàn

Biển Đông : Philippines chi 26 triệu đô xây hạ tầng quân sự trên đảo Thị Tứ (RFI, 10/06/2020)

Bộ trưởng Quốc Phòng Philippines hôm qua 09/06/2020 cùng với một phái đoàn đã đổ bộ lên đảo Thị Tứ, chủ trì lễ khánh thành một bến tàu trị giá 5 triệu đô la. Đồng thời loan báo sẽ chi 26 triệu đô la xây dựng cơ sở hạ tầng quân sự trên đảo này, trong đó có việc hoàn chỉnh một phi đạo.

bd1

Bộ trưởng Quốc Phòng Philippines, Delfin Lorenzana (giữa), cắt băng khánh thành công trình bến tàu trên đảo Thị Tứ, ngày 09/06/2020. AFP - HANDOUT

Bộ trưởng Delfin Lorenzana tuyên bố, âu tàu mới này sẽ giúp hải quân Philippines có thể tiếp tế dễ dàng ngay trong mùa bão, thay vì phải chuyển hàng từ các tàu nhỏ. Ông loan báo chính quyền dành 26 triệu đô la cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng trên đảo Thị Tứ, trong đó có việc bê-tông hóa một phi đạo. Đây là phi đạo đầu tiên tại Trường Sa được xây vào cuối thập niên 70, dài khoảng 1,3 km.

Tuy dùng cho mục đích quân sự, nhưng ông Lorenzana khẳng định chỉ nhằm tạo điều kiện sinh hoạt trên đảo, và cho rằng các cơ sở hạ tầng mới sẽ không dẫn đến các xung đột. 

Các tàu hải cảnh và tàu cá Trung Quốc hiện diện đông đảo ở gần đó, nhưng ông Lorenzana nhấn mạnh : "Trung Quốc nói rằng sẽ không tấn công chúng tôi".

South China Morning Post lưu ý, việc bộ trưởng Delfin Lorenzana đặt chân lên đảo Thị Tứ diễn ra cùng thời điểm với việc các quan chức ở Manila kỷ niệm 45 năm quan hệ với Trung Quốc, hành động này có thể làm cho Bắc Kinh bực tức.

Ông Lorenzana nói với các phóng viên đi cùng, tuy đảo Thị Tứ nằm bên ngoài vùng đặc quyền kinh tế Philippines, nhưng Manila sẽ tìm cách nhấn mạnh yêu sách chủ quyền.

Đảo Thị Tứ là đảo san hô thuộc cụm đảo Thị Tứ, lớn thứ nhì về mặt diện tích tại quần đảo Trường Sa. Năm 1933, thống đốc Nam Kỳ thời Pháp thuộc ký nghị định sáp nhập vào địa phận tỉnh Bà Rịa, nhưng đầu thập niên 70 lợi dụng Việt Nam đang trong tình trạng chiến tranh, Philippines đã cho quân bí mật chiếm đóng.

CNN cho biết thêm, một số nhà báo đi cùng bộ trưởng Quốc Phòng Philippines khi vừa đặt chân lên đảo Thị Tứ đã nhận được tin nhắn "Chào mừng đến Trung Quốc". Riêng ông Lorenzana thì nhận được tin "Welcome to Vietnam". Ông nói rằng Manila cần phải thiết lập hệ thống viễn thông di động để người sử dụng điện thoại nhận được tin "Welcome to Philippines". Tuy nhiên phát ngôn viên cơ quan viễn thông Philippines nói với đài truyền hình Mỹ việc này rất khó khăn, và kể cả khi lập được, người dùng smartphone vẫn nhận được tin nhắn của Trung Quốc và Việt Nam vì sóng mạnh hơn.

Hoa Kỳ điều oanh tạc cơ và phi cơ dọ thám đến Biển Đông

Theo Fox News hôm nay 10/06/2020, các oanh tạc cơ B-1B và máy bay dọ thám không người lái Global Hawk đã thực hiện các phi vụ trên Biển Đông và các khu vực khác ở Thái Bình Dương, trong khuôn khổ chiến lược giám sát và răn đe.

Không quân Hoa Kỳ cho biết các oanh tạc cơ B-1B cất cánh từ đảo Guam đến Biển Đông để hỗ trợ cho Bộ tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương. Đồng thời những chiếc Global Hawk được chuyển sang căn cứ không quân Yokota ở Nhật Bản nhằm tăng cường sự hiện diện của Hoa Kỳ trong khu vực.

Thụy My

*********************

Biển Đông : Indonesia liên tiếp tỏ lập trường cứng rắn hơn với Trung Quốc (RFI, 10/06/2020)

Không phải là môt bên tranh chấp ở Biển Đông, nhưng mới đây trong không đầy hai tuần, Indonesia đã hai lần công khai lên tiếng bác bỏ yêu sách đường lưỡi bò của Trung Quốc. Hành động của Jakarta ngày 05/06/2020, và đặc biệt là trước đó vào ngày 26/05, viện dẫn phán quyết Biển Đông năm 2016 của Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye, lại càng đáng chú ý hơn trong bối cảnh Indonesia còn chọn diễn đàn Liên Hiệp Quốc để bày tỏ thái độ, tạo thêm tiếng vang cho động thái của mình.

bd2

Indonesia ngày càng tỏ rõ lập trường cứng rắn với Trung Quốc về hồ sơ Biển Đông. Ảnh tư liệu : Tổng thống Indonesia Joko Widodo (giữa) tới tham đảo Natura ngày 08/0/2020 sau khi Trung Quốc có hành vi xâm phạm chủ quyền của Indonesia trên Biển Đông. © AFP

Đối với giới phân tích, việc một nước có trọng lượng như Indonesia ra mặt chống các yêu sách quá đáng của Bắc Kinh tại Biển Đông sẽ là một hậu thuẫn quý giá cho các đồng minh ASEAN có tranh chấp với Trung Quốc đang vất vả chống lại các hành vi chèn ép của Bắc Kinh.

Động thái cứng rắn gần đây nhất của Indonesia nhắm vào Trung Quốc trên vấn đề Biển Đông là việc Jakarta đã thẳng thừng bác bỏ đề nghị của Bắc Kinh muốn hai bên đàm phán về điều mà Trung Quốc gọi là "đòi hỏi chồng chéo về các quyền trên biển" ở một phần Biển Đông.

Phát biểu với hãng tin Mỹ BenarNews ngày 05/06, ông Damos Dumoli Agusman, vụ trưởng Vụ Luật Pháp và Hiệp Ước Quốc Tế bộ Ngoại Giao Indonesia khẳng định : "Căn cứ vào Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982, Indonesia không có tuyên bố chủ quyền chồng chéo với Trung Quốc, do đó việc tổ chức bất kỳ đối thoại nào về phân định ranh giới trên biển đều không thỏa đáng".

Quan chức Indonesia cũng nhắc lại tuyên bố tháng 1/2020 của bộ Ngoại Giao nước này, khẳng định Jakarta "từ chối" mọi thương lượng với Bắc Kinh về Biển Đông vì trên cơ sở UNCLOS, hai bên không có bất kỳ tranh chấp lãnh thổ nào.

Theo BenarNews, tuyên bố của ông Agusman là câu trả lời của Jakarta đối với một bức thư mà Bắc Kinh đã gửi cho tổng thư ký Liên Hiệp Quốc ngày 02/06. Trong bức thư, Trung Quốc nói không có tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Indonesia, nhưng do việc Trung Quốc có những quyền lợi ở Biển Đông được "xác lập từ lâu đời trong lịch sử và phù hợp với luật quốc tế", cho nên hai bên lại có tuyên bố chồng chéo về quyền trên biển ở một phần vùng biển.

Khu vực có liên quan là vùng đặc quyền kinh tế ngoài khơi quần đảo Natuna của Indonesia, nhưng bị Trung Quốc cho là của họ vì nằm bên trong đường 9 đoạn của Bắc Kinh ở Biển Đông. Tuy nhiên, đối với Indonesia, đòi hỏi của Trung Quốc mang tính đơn phương và hoàn toàn không có cơ sở về mặt luật pháp quốc tế.

Phản ứng bác bỏ đề nghị đàm phán của Trung Quốc đã được Indonesia đưa ra không đầy 2 tuần sau một động thái mạnh của Jakarta đánh vào lập trường của Bắc Kinh về Biển Đông : Một công hàm ngày 26/05 gởi lên Liên Hiệp Quốc, viện dẫn phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye để bác bỏ đường 9 đoạn của Trung Quốc về Biển Đông.

Nội dung công hàm của Indonesia không liên quan gì đến quan hệ song phương với Trung Quốc mà nhằm nêu bật quan điểm của Jakarta về sự kiện Kuala Lumpur vào tháng 12/2019 đã gửi lên Ủy Ban Liên Hiệp Quốc về Ranh Giới Thềm Lục Địa bản đệ trình tuyên bố chủ quyền đối với thềm lục địa mở rộng của Malaysia ở vùng Biển Đông, kéo theo những công hàm thể hiện lập trường của Việt Nam, Philippines và nhất là Trung Quốc.

Trong bài phân tích ngày 03/06, chuyên gia Ankit Panda, biên tập viên cao cấp của chuyên san Nhật Bản The Diplomat đã đặc biệt ghi nhận việc Indonesia nhấn mạnh trở lại phán quyết năm 2016 về Biển Đông của Tòa Trọng Tài Thường Trực để bác bỏ giá trị của các đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông.

Indonesia thể hiện vai trò nước lớn nhất Đông Nam Á 

Theo ông Panda, qua công hàm mới nhất, Indonesia chấp nhận một trong những điểm quan trọng nhất của phán quyết. Đó là không một thực thể nào đang bị tranh chấp ở Biển Đông có thể được xem là "đảo" theo định nghĩa pháp lý của từ này hiểu theo Luật Biển Liên Hiệp Quốc, và như vậy "không một thực thể nào ở quần đảo Trường Sa có thể có vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của riêng mình".

Không những thế, Indonesia còn xác định rõ thêm : "Indonesia nhắc lại rằng bản đồ Đường 9 đoạn thể hiện yêu sách chủ quyền lịch sử rõ ràng là thiếu cơ sở pháp lý quốc tế và tương đương với việc vi phạm Công Ước về Luật Biển UNCLOS 1982.

Quan điểm này cũng đã được phán quyết ngày 12/07/2016 của Tòa Trọng Tài xác nhận, theo đó toàn bộ những quyền lịch sử mà nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đưa ra để chiếm hữu các nguồn tài nguyên khoáng sản hay hải sản đều bị bãi bỏ do những giới hạn về vùng biển ghi trong UNCLOS 1982.

Theo The Diplomat, đối với những ai ủng hộ luật quốc tế, việc Jakarta nêu bật trở lại phán quyết năm 2016 về Biển Đông rất đáng hoan nghênh trong bối cảnh tổng thống Duterte của nước đệ đơn kiện Trung Quốc là Philippines, đã chạy theo Bắc Kinh mà bỏ lơ văn kiện này.

Không có Manila thúc đẩy việc thực hiện, phán quyết cũng không còn được coi trọng trong chính sách của khu vực Đông Nam Á, vào lúc mà khối ASEAN rất chia rẽ, với vấn đề Biển Đông chỉ được chú ý một cách giới hạn, chủ yếu trong các cuộc gặp đa phương lớn.

Chính vì vậy việc Indonesia thể hiện lập trường cứng rắn hơn trước các đòi hỏi chủ quyền rộng khắp của Trung Quốc trên Biển Đông rất đáng chú ý trên hai cấp độ.

Thứ nhất là vì dẫu sao Indonesia vẫn nắm giữ một vị thế hàng đầu trong khối ASEAN. Việc đưa phán quyết 2016 vào trong chính sách của riêng mình về Biển Đông có thể là dấu hiệu cho thấy là Indonesia sẵn sàng có một cách tiếp cận cứng rắn tương tự đối với Trung Quốc trong khuôn khổ hiệp hội 10 nước Đông Nam Á.

Ngoài ra, việc Indonesia sẵn sàng viện dẫn phán quyết có thể làm cho Việt Nam kiên quyết hơn trong việc kiện Trung Quốc, điều từng được chuyên gia Mỹ Derek Grossman đã nêu lên trên The Diplomat gần đây, theo đó Việt Nam đang "nghiêm túc xem xét" một hành động pháp lý quốc tế.

Cho dù vậy, The Diplomat cũng nhắc lại quan điểm thận trọng của nhà nghiên cứu Evan Laksmana, chuyên gia về chính sách đối ngoại Indonesia. Trên nhật báo Hồng Kông South China Morning Post chuyên gia này nhắc nhở rằng các động thái mới đây của Indonesia không phải là một sự thay đổi lập trường, mà chỉ là một sự phát triển thêm chính sách hiện hành dưới thời tổng thống Joko Widodo.

Mai Vân

*********************

Người Trung Quốc dùng xuồng cao tốc vận chuyển hàng hóa trái phép trên vùng biển Vạn Gia (RFA, 10/06/2020)

Tỉnh Quảng Ninh phải tăng cường việc kiểm soát hoạt động xuất nhập cảnh của người Trung Quốc bằng xuồng cao tốc trên vùng biển Vạn Gia.

bd3

Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng cửa khẩu Cảng Vạn Gia, Quảng Ninh tổ chức tuần tra, kiểm soát trên vùng biển thuộc địa bàn quản lý – Ảnh : Thái Cảnh

Đó là nội dung trong văn bản của Văn phòng thường trực Ban chỉ đạo 389 quốc gia phát đi ngày 10 tháng 6 và được truyền thông trong nước loan tải.

Theo Ban chỉ đạo, trên vùng biển Vạn Gia thuộc thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh thời gian qua xuất hiện các xuồng máy được trang bị động cơ công suất 2/6 máy chạy với tốc độ cao. Đặc biệt các thuyền viên điều khiển đều mang quốc tịch Trung Quốc và một số xuồng hoạt động nhưng không có tên, số hiệu, biển kiểm soát hoặc mang biển kiểm soát giả, biển kiểm soát Trung Quốc nhằm vận chuyển hàng hóa tái xuất, xuất khẩu (trong đó có thuốc lá, rượu ngoại).

Số xuồng này thường xuyên neo đậu trên các vùng biển thuộc khu vực Vạn Gia, sau đó di chuyển vào vùng chuyển tải của cảng Vạn Gia để lấy hàng, khi có điều kiện thuận lợi sẽ vận chuyển số hàng trên quay trở lại Việt Nam để tiêu thụ.

Trong văn bản có đoạn viết : "Hoạt động của các xuồng và thuyền viên người Trung Quốc trên vùng biển Vạn Gia, Quảng Ninh rất phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh quốc gia trên biển, có dấu hiệu buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới".

Do đó, Ban Chỉ đạo yêu cầu tỉnh Quảng Ninh kiểm soát chặt chẽ không để các hoạt động trên tiếp tục xảy ra trên vùng biển Vạn Gia đồng thời xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.

Trong khi đó, trả lời trên tờ Tuổi Trẻ điện tử vào ngày 10/6, ông Nguyễn Văn Nghiên, Cục trưởng Cục Hải quan Quảng Ninh cho rằng hoạt động xuất nhập cảnh và vận chuyển hàng hóa như Ban Chỉ đạo nêu đã được kiểm soát và từ ngày 9 tháng 5 không còn tình trạng người Trung Quốc dùng xuồng cao tốc nhập cảnh vào Việt Nam chở hàng hóa.

Published in Châu Á